Việt Nam – Trung Quốc ‘khẩu chiến’ về công hàm Phạm Văn Đồng
CỠ CHỮ
29.05.2014
Hà Nội mới lên tiếng ‘kiên quyết bác bỏ những phát biểu sai sự thật
của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc’ sau khi bị Bắc Kinh cáo
buộc ‘xuyên tạc lịch sử, bác bỏ thực tế và nuốt lời’ liên quan tới quần
đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, còn Việt Nam gọi là Hoàng Sa, cũng như
về công hàm Phạm Văn Đồng.
Trong email trả lời VOA Việt Ngữ, Bộ Ngoại giao Việt Nam thêm một lần
nữa khẳng định ‘chủ quyền không tranh cãi của mình đối với quần đảo
Hoàng Sa’.
Người phát ngôn Lê Hải Bình nói: “Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm
đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc đã vi phạm
các quy định của luật pháp quốc tế, việc chiếm giữ bằng vũ lực không
thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa”.
Tuyên bố của ông Bình được đưa ra hôm 27/5 một ngày sau khi phát ngôn
viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng một cuộc họp báo của
Việt Nam, trong đó có đề cập tới công thư của cố thủ tướng Phạm Văn
Đồng, là ‘lố bịch và nực cười’.
Ông Tần nói thêm rằng ‘trước giữa những năm 1970, phía Việt Nam đã công
khai và chính thức thừa nhận rằng quần đảo Tây Sa thuộc về Trung Quốc’,
và rằng ‘năm 1956, các giới chức hàng đầu của Bộ Ngoại giao việt Nam đã
nói rõ với Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam rằng
quần đảo Tây Sa là thuộc Trung Quốc’.
Người phát ngôn này tuyên bố:
“Năm 1958, chính phủ Trung Quốc thông báo rằng vùng lãnh hải của nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý và chỉ rõ rằng nguyên tắc này
áp dụng đối với từng tấc đất của Trung Quốc, trong đó có quần đảo Tây
Sa. 10 ngày sau thông báo trên, Thủ tướng Việt Nam lúc đó là Phạm Văn
Đồng đã gửi một công hàm tới Thủ tướng Chu Ân Lai và bày tỏ rằng phía
chính phủ Việt Nam thừa nhận và tôn trọng thông báo của chính phủ Trung
Quốc về lãnh hải”.
Trong một cuộc họp báo 3 ngày trước đó ở Hà Nội hôm 23/5, Việt Nam cho
rằng Trung Quốc đã ‘viện dẫn sai lệch’ công thư của Thủ tướng Việt Nam
Phạm Văn Đồng gửi cho Bắc Kinh năm 1958.
Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, nói rằng công thư của ông Đồng ‘hoàn toàn không đề cập tới vấn đề lãnh thổ cũng như là chủ quyền, và không đề cập tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa’.
“Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng
lãnh hải 12 hải lý, và đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam
tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Việc công thư của
Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập tới hai quần đảo này, quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, cũng phù hợp với thực tế lúc đó, là quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của
Việt Nam Cộng hòa mà được Pháp chuyển giao trên thực tế năm 1956, phù
hợp với hiệp định Geneve năm 1954 mà Trung Quốc cũng là một bên tham
gia”.
Trong khi đó, ông Tần Cương lại nói rằng ‘bấy lâu nay, các tài liệu
chính thức, sách giáo khoa và bản đồ của Việt Nam đều cho thấy quần đảo
Tây Sa thuộc về Trung Quốc’ và nói thêm rằng Việt Nam ‘có một mức độ khả
tín thấp’.
Báo chí trong nước đã cho đăng toàn văn công hàm Phạm Văn Đồng, trong đó có đoạn:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan
Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt
biển”.
Tiến sỹ Tạ Văn Tài, luật sư và cựu giảng viên trường luật Harvard, cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng ‘không có hiệu lực pháp lý’:
“Nó chỉ là một tuyên bố đơn phương, cho nên nó không có giá trị của một
hiệp ước nhượng đất là cái thủ tục bó buộc theo hiến pháp năm 1946 của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, áp dụng vào thời điểm 1958 bởi vì rằng khi
ông Đồng tuyên bố, ông không thể nhân danh chủ tịch nước, mới là người
có quyền ký hiệp ước về nhượng đất. Và ngay cả Chủ tịch nước Hồ Chí Minh
cũng phải có nghị viện, tức là quốc hội, phê chuẩn hiệp ước thì mới có
giá trị. Vả lại, khi đọc kỹ thì thấy rằng công hàm đó chỉ nói về việc
công nhận 12 hải lý lãnh hải của Trung Quốc. Hồi đó nó [Trung Quốc] đòi
cái đó vì họ ngại cái hạm đội đi sát vào Trung Quốc từ eo biển Đài Loan,
nhất là từ hai đảo Kim Môn và Mã Tổ mà Trung Hoa Dân quốc kiểm soát.
Thành ra nó chỉ có hiệu lực thừa nhận 12 hải lý, chứ không phải nói đến
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Luận cứ thứ hai, ông Đồng không đại
diện cho miền nam Việt Nam là quốc gia riêng biệt. Có hai quốc gia thời
đó theo tiêu chuẩn quốc gia là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam
Cộng hòa. Hiệp định Geneve đã giao việc quản lý hai quần đảo đó cho miền
nam Việt Nam thì ông Đồng không có đủ tư cách gì mà nói về vấn đề hai
quần đảo đó, nhượng đất hai quần đảo đó”.
Ông Tài nói thêm rằng nếu đôi bên không thể ‘tiếp tục cãi lý’ trên các diễn đàn quốc tế thì vụ việc cần phải được đưa ra Tòa án Quốc tế.
Nhưng chuyên gia luật này cũng cho rằng việc kiện ra tòa ‘rất khó’ vì Bắc Kinh từ trước tới nay ‘không đồng ý ra tòa nên chỉ còn đánh nhau trên mặt trận ngoại giao mà thôi’.
Những người bất đồng chính kiến ở hải ngoại bấy lâu nay dùng công hàm này để cáo buộc Hà Nội đã thực hiện điều họ gọi là ‘bán nước’, nhưng phía Việt Nam luôn bác bỏ điều này.
Sau việc Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng biển mà Việt Nam tuyên bố là thềm lục địa của mình, đẩy hai nước láng giềng vào thế đối đầu, giới lãnh đạo Việt Nam đã có các tuyên bố được một số nhà quan sát cho là ‘không kiêng nể’ khi nói về mối quan hệ với Bắc Kinh.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng từng tuyên bố ‘không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông' cũng như cho báo giới biết rằng Hà Nội có thể xem xét hành động pháp lý chống lại các hành động của Trung Quốc ở biển Đông.
http://www.voatiengviet.com/content/viet-nam-trung-quoc-khau-chien-ve-cong-ham-pham-van-dong/1925103.html
Vợ TBT Lê Duẩn nói công hàm Phạm Văn Đồng 'giao TQ quản lý Hoàng Sa'
CTV Danlambao
- Trong cuộc phỏng vấn với đài BBC vào năm 2008, phu nhân cố tổng bí
thư Lê Duẩn là bà Bảy Vân khẳng định ông Phạm Văn Đồng đã ký vào một
'văn bản' có nội dung 'giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa'.
Bà Bảy Vân tên thật Nguyễn Thụy Nga, là vợ thứ hai của ông Lê Duẩn. Sau
năm 1975, bà Bảy Vân từng giữ chức vụ Phó tổng Biên Tập báo Sài Gòn Giải
Phóng.
Trích đoạn phỏng vấn của BBC vào tháng 8/2008:
Phóng viên Xuân Hồng, BBC: Thưa bà, nếu ông nhà (Lê Duẩn - Chú thích) còn sống, bà có nghĩ Trung Quốc có thể chiếm được Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
Bà Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân): Tui cũng hổng biết. Nhưng mà hồi
đó, hổng có ý kiến anh Ba [Lê Duẩn] là nó chiếm hết luôn cả Trường Sa
rồi. Nhưng mà ảnh bảo phải ra đóng cho được ở Trường Sa.
Thì lúc đó là... Y lấy cái thế là trước kia ông Phạm Văn Đồng có ký một
cái văn bản, coi như là ngụy nó đóng ở đó, cho nên giao cho Trung Quốc
quản lý Hoàng Sa. Coi như là Phạm Văn Đồng có ký tên.
Thì bây giờ, Trung Quốc nó nói cái đó là khỏi bàn, bởi vì đã có văn bản
ký rối. Nhưng mà hổng phải, cái đó trong tình anh em, nghĩa là để cho
ổng [Trung Quốc] làm trong khi mình chưa làm thôi. Vì mình còn đánh ở
trong này, đâu có lực đâu mà làm ngoài đó.
* Đọc thêm:
Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 có hiệu lực pháp lý hay không?
Trung Quốc vừa qua lại đưa ra Công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện luận cho hành động của họ tại khu vực Biển Đông. Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã họp báo phản đối cho rằng công hàm đó vô hiệu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng nói đến việc kiện Trung Quốc về việc xâm chiếm biển đảo của Việt Nam.
Gia Minh đặt một số câu hỏi liên quan với nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn hiện đang ở tại Pháp về các vấn đề đó:
Tùy tư cách pháp nhân
Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn nêu ra là gì?Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
Theo như lập trường của Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các
viên chức bộ ngoại giao phát biểu trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa ngày trước là hai quốc gia độc
lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi cho rằng công hàm 1958
của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.
Vì sao? Tại vì nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập
có chủ quyền, thì công hàm của ông Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội
dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và hải phận của Trung Quốc.
Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền VN hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể VNDCCH trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.
-Trương Nhân Tuấn
Để dễ hiểu, tôi lấy thì dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận
diện phòng không của” Trung Quốc hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên
bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp với luật pháp và tập quán quốc
tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều khoản
nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” của Trung Quốc
có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng loạt
lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện
phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh,
mặt khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung
Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà
trong đó Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng
không” của họ bị xâm phạm. Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng
tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các hãng hàng không dân sự, kể cả của
Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời của Trung Quốc.
Trở lại công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của
Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công
ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký kết vào tháng 4 cùng năm,
trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện nay. Vì chính quyền
Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó tuyên bố của
Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện phòng
không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu
lực.
Tức là, thay vì phản lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
lại lên tiếng ủng hộ nó.
Hiện nay, các viên chức cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa
ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và
Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết phục. Giả sử rằng
công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ ký công hàm
này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước
tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im
lặng đồng tình”.
Còn nếu quan niệm rằng, trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị
phân chia theo hiệp định Genève 1954 thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ
tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng
Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường
phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.
Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn
lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo
Hiệp định Paris năm 1973.
Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến
1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu
của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là
đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía
này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.
Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên
bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và
Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam, chúng đều không có giá trị.
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian
1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá
trị pháp lý ràng buộc.
Quan điểm này phù hợp với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai
miền Nam Bắc Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm
có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa hẹn, những cam kết mà nhà cầm
quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với nhà cầm quyền Trung Quốc
trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm, gởi lên TT Nguyễn
Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời thay đổi lập
trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp được
đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.
Kiện Trung Quốc như thế nào?
Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?
Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc
họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở
các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
Theo tôi biết, năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp
nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối
với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của
điều 298 của Công ước.
Tức là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ
tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh
giới trên biển.
Tức là, trong vụ giàn khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc
ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân
định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều
duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng
mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận
chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!
Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.
-Trương Nhân Tuấn
Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác vụ kiện mà
Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực Biển
Đông ra sao?
Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự như
Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái
như là Philippines.
Philippines kiện Trung Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về
yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc
địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Philippines, về việc chiếm
đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi
đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu
không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo
thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều
này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận chủ quyền của Trung
Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là của mình,
thì mắc mớ gì mình đi kiện?
Mặt khác, khi kiện như vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác
không kém phần nguy hiểm. Là vì Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng
Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới
hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của Việt Nam từ thập niên
80.
Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như
mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu
thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc cũng chủ trương y như vậy được?
Vì thế tình hình Việt Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.
Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành
ý kiến của tôi vừa nói ở trên. Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông
Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì đi ngược lại tinh thần
hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.
Sau đó, Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.
Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?
Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người Việt
nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung
Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận
quốc tế, trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng
50% số lượng thế giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh
hưởng, chắc chắn các nước sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ
cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn trong chừng mực, nhưng là điều tốt.
Theo tôi, việc đi kiện là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi
kiện, khua chuông gióng trống lên cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ
tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng. Quan trọng là việc hóa giải công
hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế thoải mái hơn về chủ
quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những hành động mạnh
bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc, như đâm
chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ
nhìn nhận.
Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.