Sunday, July 2, 2017
VŨ HỮU HẠNH * TRỐN TRẠI TÙ
Bốn Đại tá trốn trại tù “cải tạo”
Th Võ Hữu Hạnh
Những năm dài tháng tận rồi cũng trôi qua trong nhọc nhằn khổ sở cả thể xác lẫn tinh thần. Thắm thoát đã hai năm qua ở mảnh đất tận cùng biên giới phía Bắc Việt Nam này. Hàng ngày chúng tôi phải dậy thật sớm trước khi tiếng kẻng rùng rợn vang lên giữa đêm giá rét O độ của miền Bắc rẻo cao này, để xếp hàng làm vệ sinh cá nhân, vì hễ một khi tiếng kèn đã nổi lên rồi thì mình sẽ không còn là mình nữa, mà là một con trục quay cuồng trong guồng máy luyện thép khổng lồ.
Giữa trận mưa máu, có tiếng một cụ già:
- Thôi cho tôi xin các ông! Tưởng là bọn thổ phỉ buôn lậu biên giới, hóa ra là tù “cải tạo” Miền Nam. Họ không thể chống cự, hà tất phải đánh đập họ đến chết như thế!
Bốn anh em ngất lịm đi trong cơn mưa đòn khủng khiếp nhất trên đời. Mặt mũi mình mẩy họ không còn là con ngườii nữa mà là những con vật hình thù méo mó tả tơi dướí những trận đòn từ những ác quỷ đầy hận thù đội lốt người thắng trận!
Chiều hôm đó tại láng trại, sau khi nhận điện báo khẩn, trại trưởng huy động hai đội lao công khẩn trương đục hang vào sưòn núi sâu, không ai biết để làm gì, tưởng là nơi để họ cất giấu vũ khí hay chứa thực phẩm lưong khô, đến khi có những tấm vĩ sắt dựng thành cửa ngục lên thì ai nấy đều hiểu ra đó là nơi để giam giữ tù vượt trại. Chúng tôi hoài nghi có lẽ bốn “Bò Lục” đã bị bắt và đang trên đường trở về.
Thật đúng như vậy! Một buổi chiều u ám, từ chân trời có tiếng vó ngựa tung bụi mờ, giữa bầy quỷ dữ đang hò hét trên lưng ngựa cho chiến thắng vĩ đại là bốn người tù bị lôi xểnh theo sau lưng ngựa, hứng chịu những trận đòn, họ té khụy xuống rồi lại bị lôi dậy lúp xúp chạy theo vó ngựa, rồi loạng choạng té xuống mặc cho những sợi dây trói chặt quấn lấy thân thể rách bươm lôi kéo họ như những thanh gổ vô tri giác!
Chúng tôi chết điếng lặng ngưòi nép bên đường nhìn họ đi qua sau giờ chúng tôi lao động cải tạo về, vô tình hay cố ý họ cho chúng tôi thấy hình phạt khủng khiếp của những ai có ý định trốn trại. Chúng tôi để mặc cho giòng lệ tuôn trào từ những đôi mắt trũng sâu, lăn dài trên đôi gò má hốc hác khắc khổ. Anh em chúng tôi đó! Những NGƯỜI HÙNG sau cuộc chiến! Không thành công đã thành NHÂN! Dù không còn ai có thể nhận ra các anh, vì các gương mặt đã bị bầm dập tan nát sau trận mưa đòn thù.
Sáng hôm sau, anh Thành đã chết cách anh dũng bất khuất! Xin dâng anh một nén hương lòng!
Vài hôm sau đó, có lẽ để xoa dịu lòng căm phẫn nhem nhúm trong tù trại Yên Bái trại 2, hoặc gây chia rẽ nghi ngờ giữa các anh em tù, hoặc muốn tỏ ra rằng Đảng ta luôn khoan hồng nhân đạo, nên trong một buổi học tập chính trị toàn trại, người ta đem anh Quế trình diện mọi người, đề cao anh là “thành phần tiến bộ “, biết “ tội lỗi mình làm “, xin tập thể trại viên nhận anh lại vào hàng ngũ những người cải tạo tốt. Còn hai anh Huề và Thi hãy còn ngoan cố, chưa xứng đáng được nhân dân tha thứ, còn phải chờ lâu dài. Mọi người khẽ thở dài, không ai có ý kiến gì, bởi vì không ai đoán bọn CS thâm độc mưu mô này sẽ còn dùng chiêu thức gì nữa.
Ít lâu sau đó, ngày 19/07/1977, hàng ngũ tù Đại tá chúng tôi được lệnh chuyển sang trại Tám ở thâm sơn cùng cốc đầy ao tù nước vàng đặc, nếu lỡ đạp chân xuống đó sẽ bị nhiễm sốt rét hoặc sốt rét rừng kinh niên. Ngay ngày đầu tiên khai hoang vùng hoang địa này để trồng trọt, tôi là bệnh nhân sốt rét rừng đầu tiên. Cứ khoảng 4, 5 giờ chiều cơn rét kéo tới hành hạ tôi run lập cập, đắp bao nhiêu mền vẫn không đủ ấm, cái lạnh từ trong xương lạnh ra, rồi đến 12 giờ đêm thì nóng sốt như lửa đốt như có muôn ngàn ngọn lửa châm vào đầu ngón chân mình mẩy. Thế mà sáng ra không được nghỉ ngơi, họ cho là tôi bệnh vờ nên tôi vẫn phải lao động như thường. Như chưa đủ khốn khổ, người phát thuốc ở trạm xá, vốn là người “ của ta “, nhưng nhờ “quen biết “ cán bộ, nên bắt chẹt anh em, mỗi lần anh ta bố thí cho vài viên Quinine, đã bị anh ta liếm hết chất ngọt bọc đường bao quanh, là đổi lại chúng tôi phải biếu hắn thuốc lào ba số hoặc đồ thăm nuôi. Thuốc men gia đình chúng tôi gửi nuôi đều bị trại cất giữ hộ, họ phát “Xuyên Tâm Liên “ để trị bá bệnh!
Võ Hữu Hạnh
Th Võ Hữu Hạnh
Những năm dài tháng tận rồi cũng trôi qua trong nhọc nhằn khổ sở cả thể xác lẫn tinh thần. Thắm thoát đã hai năm qua ở mảnh đất tận cùng biên giới phía Bắc Việt Nam này. Hàng ngày chúng tôi phải dậy thật sớm trước khi tiếng kẻng rùng rợn vang lên giữa đêm giá rét O độ của miền Bắc rẻo cao này, để xếp hàng làm vệ sinh cá nhân, vì hễ một khi tiếng kèn đã nổi lên rồi thì mình sẽ không còn là mình nữa, mà là một con trục quay cuồng trong guồng máy luyện thép khổng lồ.
Thời gian đó các cai tù phân công chúng tôi ra từng cặp một trẻ một già,
một khoẻ một yếu để vác một cây bồ đề dài khoảng 6 thước, chu vi chừng
vài tấc trở lên qua đoạn đường rừng gần 10 cây số, mỗi ngày cặp tù nhân
đó phải vác đủ ba chuyến như thế cho đủ chỉ tiêu. Lúc đó khoảng 4 giờ
chiều, tôi và một anh bạn trẻ đang khiêng một cây Bồ Đề to lớn, đã cố
sức vưọt qua bao nhiêu ngọn đèo, chỉ còn một đèo chót là đến nơi đang
xây dựng bệnh xá được xây thêm cho càng ngày càng có thêm bệnh nhân tù.
Trời mưa tầm tã, dưới chân chúng tôi nước chảy thành dòng như muốn cuốn trôi mọi thứ, chúng tôi phải hết sức kềm chân cho chặt vừa phải oằn vai chịu sức nặng đẫm nước của cây tươi vừa đốn hạ. Bỗng nhiên anh bạn gánh vai sau trợt chân té ngửa, buông rơi cả thân cây to, khiến đầu cây còn lại đập mạnh vào hông phải tôi. Đau đón tôi ngất lịm, chân bị trật cả gân lẫn xương. Tôi vào bệnh xá để được một ông y sĩ Trường Sơn, mỗi lần chữa bệnh, vừa xem cuốn sách châm cứu do Miền Nam ấn hành, vừa châm vào tôi cây kim dài đã hơ qua ngọn lửa vừa nói:
- Tổ chức châm cứu săn sóc anh đây. Chừng nào anh cảm thấy đau buốt thì cứ la lên, tôi sẽ tìm huyệt khác đúng hơn!.
Nhờ mỗi ngày chịu trận cho ông y sĩ dỏm này thực tập vài ba tiếng, tôi mới được ông ký giấy cho “Miễn lao động “ trong ngày ấy.
Ngày hôm trước ngày tôi bị cây to đè ngang hông, khi tôi khiêng cây đến đoạn đường Nghĩa Lộ, vừa đói vừa khát, kiệt sức tôi ngã vật xuống bên lề đường. Hai cán bộ bảo vệ trẻ thương hại mới đỡ tôi dậy, nhưng ngay lúc đó cán bộ phó trại, ngưòi mập lùn đi ngang qua, không cho đỡ tôi lại còn đay nghiến: “-Các đồng chí không việc gì mà phải đỡ hộ họ!” Rồi anh cán bộ phó trại quay sang chúng tôi sang sảng: “ Tôi biết rõ ở trong Nam, mỗi tuần các anh hầm thuốc Bắc một đứa trẻ từ một tuổi để bồi dưỡng, đúng là quân man di mọi rợ không có tính người! Vì thế anh nào cũng béo tốt như ri, lao động một chút không bằng ai mà cũng giả vờ té xỉu..nhất là mấy anh tỉnh trưởng!!!”
Nhìn vẻ mặt anh ta đỏ gay, gân cổ lên mà nói to ra vẻ rất hiểu biết, để gây thêm căm thù, chúng tôi bỗng thấy thương hại sự ấu trĩ của họ hơn là oán ghét. Còn lạ gì một anh chăn trâu suốt đời không được học hành giáo dục, chỉ biết lặp lại, nhai lại y khuôn những gì Đảng nói và nhồi sọ cho họ, gây căm thù giai cấp càng nhiều càng tốt. Họ có biết đâu lúc đó tại các thành phố lớn Hà Nội, Sài Gòn, hàng ngày các bác sĩ cán bộ được lệnh “Kế Hoạch Hóa Gia Đình”, để hợp pháp giết non hàng ngàn thai nhi vô tội.
Chúng tôi vẫn tiếp tục lê gót sống những ngày tù khoắc khoải, thì một hôm nọ, trời vừa hửng sáng là trại bị bọn cán bộ, lính bảo vệ trang bị súng ống chĩa vào các láng trạì tù. Ngày hôm đó họ kiểm soát rất gắt gao, nhân dịp tịch thu tất cả những gì chúng tôi có thể để dành ăn chống đói như đường, sữa, bánh ngọt khô.
Cán bộ phó oang oang cái miệng hò hét om sòm:
- Dzõ dzàng nà các anh ngoan cố phản động không chịu học tập cải tạo tốt để sớm lên ngườì công dân xã hội chủ nghĩa tốt, nhất là mấy bọn đại tá các anh đã phụ nòng tin tưởng khoan hồng của Bác, Đảng và Chính phủ, các anh có biết chuyện gì xảy ra sáng nay không?
Ai nấy đều rõ nhưng vẫn im lặng như không. Các láng trại đã tung tin rất nhanh về việc 4 ông đại tá đã trốn trại làm nức lòng nhũng trại viên còn lại. Họ vừa mừng vừa lo và van vái thầm cầu xin cho các vị đó được mau thoát đến đất Lào và biết đâu đến bờ Tự Do đất Thái.
Họ đi theo đội hình như sau:
- Đại Tá Thành, trung đoàn trưởng, trưởng toán trốn trại, mở đường.
- Kế đó là Đại tá Nguyễn Văn Thi, binh chủng Pháo Binh, người giữ địa bàn định hướng.
- Người đi giữa mang thực phẩm cho toán là Đại tá Đỗ Trọng Huề, cựu giám đốc Quốc Gia Nghĩa Tử, cố vấn văn hóa cho tổng thống Thiệu.
- Và người giữ mặt hậu là Đại tá Quế, chỉ huy trưởng căn cứ không quân Pleiku.
Mỗi ngày trôi qua là thêm một ngày củng cố lòng tin cho mọi người. Các cán bộ điên cuồng như ác thú lùng sục tất cả núi đồi. Các đội tù đi lấy cát, đá, vôi ở Bến Phà Ô Lâu cũng như các đội lao động nặng lên rừng đốn gỗ đều được lệnh tạm đình chỉ. Chỉ riêng 4 đội tăng gia và hái chè là còn hoạt động cầm chừng dưới sự giám sát gấp đôi của những chú bộ đội phúng phính trong bộ đồ “ Cứt Ngựa “. Các giờ giài lao 10 phút thưòng lệ đều bị cắt bỏ, chỉ tiêu tăng gấp đôi để mọi người mệt nhoài không còn thời giờ nghỉ ngơi dù là một phút giây nào. Vài anh tù “ nông cạn” vội chưởi rủa bốn anh trốn trại, vì họ mà cả bọn chịu cực khổ thêm. Còn lại đa số đều “ phấn khởi hồ hởi “ vì họ thêm một ngày hi vọng cho những ai chuẩn bị trốn trại sau đó.
Trại cho thay đổi ngay những người “ anh nuôi “. Những người nầy bị an ninh điều tra thô bạo. Anh đại tá Võ Ân bị gọi lên xuống mấy chục bận mỗi ngày để điều tra manh mối xem ai là người xếp đặt hậu cần cho các anh trốn một cách bí mật chu đáo mà không ai hay biết.
Bốn anh Đại tá trong đội “Cơ Động” hàng ngày đưọc phân công dùng xe cải tiến đến Bến Phà Ô Lâu chở vật liệu nặng về xây cất cho trại. Các anh lợi dụng những chuyến đưọc xuất trại xa như thế đã ngấm ngầm cấu kết với nhau âm mưu trốn trại qua Lào, với sự giúp đỡ của anh Võ Ân, phụ trách nhà bếp trại.
Sau cả tháng mỗi ngày giấu một ít thực phẩm khô, ngày N, giờ G, thừa lúc mấy anh bảo vệ lơ là, các anh ĐT nhà ta lần lượt biến mất sau mỗi quả đồi, hẹn nhau tại một điểm tập trung và … chạy trốn!
Các anh đã đi suông sẻ suốt ngày đầu tiên mà không ai hay biết cho đến chiều tối lúc điểm danh. Đội cơ động bị phát hiện thiếu mất bốn người khiến cán bộ quản giáo, bộ đội canh gác bấn lọan, bắn súng loạn xạ. Lúc đó cả trại mới hay có bốn ông “Bò Lục” trốn thoát, ít nữa là ngày đầu tiên, ai nấy vừa lo vừa mừng cho các anh.
Chúng tôi lo lắng vì nơi miền rẻo cao này, mỗi người dân đều là Cộng Sản, là cán bộ tình báo của chúng để quan sát theo dõi chúng tôi sít sao, vì thế mà họ không ngại “thả” chúng tôi ra ngoài để lao động khổ sai vì vùng này họ cho là an toàn nhất, một con ruồi còn khó qua mắt họ.
Nhóm anh Huề, anh Thành, Anh Thi và anh Quế vớí sự trợ giúp hậu cần của anh Võ Ân, tưởng đã trốn trại được đến gần biên giới Lào vẫn bị chúng nó phát hiện sau năm ngày sát biên giới, mà theo lời kể của các anh là “chỉ cần qua bên kia con sông đang chảy xiết là đến đất Lào rồi”, kể thì các anh quá giỏi đã vạch kế hoạch, đi đúng hướng chính xác mục tiêu, thất bại chẳng qua là.. số mệnh dun rủi mà thôi!
Chúng họ theo đuổi lùng sục các anh tận biên giới, nơi chắc chắn các anh sẽ đến, quả thật bọn chúng đánh giá không thấp trình độ của các sĩ quan ta. Khi giải các anh về bọn chúng như bầy quỷ dữ khát máu hung hăng, tha hồ đánh đập hành hạ các anh chết đi sống lại cho hả cơn giận của chúng. Riêng anh Thành, trưởng nhóm vượt ngục, bị nhốt riêng rồi thay nhau đánh đập tra khảo anh từ suốt đêm đến sáng. Càng bị hành hạ, anh càng lớn tiếng chưởi bới, cho đến khi gà gáy sáng thì anh không còn có thể la mằng gì được nữa vì chúng nó đã treo cổ anh rồi.
Sau này khi tôi bị biệt giam với các anh Huề, Thi, Võ Ân, Tâm, Huy, Bình, Đức ở khu F, phòng 7, trại Hà Tây, Tỉnh Hà Sơn Bình, mỗi khi nhắc đến anh Thành là mọi người yên lặng rơi lệ, thành kính tưởng niệm một anh hùng bất khuất, nhất là anh Huề, Thi, Võ Ân.
Theo lời anh Huề, sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng cà mấy tháng trời những địa điểm tiếp tế các anh đã lần lượt chôn dấu thực phẩm cho những ngày đầu còn ở gần trại thì các anh bắt đầu đi suốt ngày đêm, tránh gặp dân chúng. Đến ngày thứ ba và thứ tư qua, bốn anh em mừng rỡ tưởng gần như thoát nạn rồi. Đường càng xa Yên Bái thì núi non càng cao dần lên, nhiều nơi dốc như thẳng đứng khiến anh em khốn khổ vô cùng. Đến sớm ngày thứ tư thì anh Thành thoáng thấy từ xa một buôn làng có những cuộn khói bốc lên từ các mái tranh. Tuy mừng rỡ nhưng anh em bảo nhau đề cao cảnh giác đi bọc vòng xa ngôi làng.
Bổng đâu có tiếng rào rào như giông to sắp đến nơi, anh Thi, người định hướng đi trong rừng giỏi nhất vì anh là cấp chỉ huy pháo binh, kể chuyện tiếp:
“Lúc đó mọi người đều rã rời vì cơn khát nung nấu dày vò, nhưng tiếng động lạ càng lúc càng to dần, mọi người đều thủ dao sẵn bên mình, sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với bất cứ ai khám phá ra bọn người đang quyết tâm đi tìm tự do với bất cứ giá nào.
Tiếng rì rào càng phút càng to dần trên đầu, bọn ngươì núp vào kẻ đá trong lùm cây chờ đợi. Thật bất ngờ! Mọi người há hốc mồm nhìn lên … đó là một con kỳ đà khổng lồ rất dài đang le chiếc lưõi đôi nhìn bọn người trốn trại nhỏ bé đang ép mình vào kẹt đá.
Ngươì ta thuờng nói “Ra đường gặp kỳ đà cản mũi, ắt việc không thành tựu được!”. Nhưng lúc đó đối với các anh tù vượt ngục đói khát suy nhược thì con kỳ đà này là món quà trời thương ban, giúp các anh có thêm sức lực.
Họ đã thấy xa xa con sông to dài tung lên những bọt trắng xóa chứng tỏ nước chảy rất mạnh. theo bản đồ và la bàn thì con sông đó có thể là sông Mekong chảy xuyên qua Trung Cộng, Lào, Kampuchia và Việt Nam, vì từ trên đỉnh núi cây lá dày đặc nhìn xuống thì nó rất rộng và dài vô tận uốn khúc như con rắn khổng lồ.
Gần bờ sông các làng mạc mọc nhiều, dân cư hay lên rừng đốn củi, săn thú nên anh em quyết định ngày ngủ đêm đi, di chuyển dần lên phía Bắc nơi con sông hẹp hơn để vượt qua. Ai cũng mừng vì sắp thành công cuộc vượt ngục hi hữu này, cố làm sao đủ sức vượt sông đến khu rừng tre dày đặc bên kia xứ Lào.
Khi con người cố gắng hết sức để đạt mục tiêu, cơ thể có khả năng siêu việt vượt qua tất cả, để một khi đạt hay gần khi gần tới mục tiêu, cơ thể rũ liệt kiệt sức, các anh em vượt trại mấy ngày đêm nay thấy gần thành công thì bỗng dưng bao mệt mõi đổ ụp xuống, tuy nhiên anh em cũng cố gắng thay phiên nhau trực canh, tìm mọi phuơng cách để vượt sông an toàn.
Bỗng nhiên có tiếng chó sủa càng lúc càng gần càng rộ lên. Thì ra, dân bản xứ đi rừng khám phá dâu chân lạ trên con đường mòn, gần bờ suối cây lá bị đạp ngã, họ thả chó đánh hơi và báo đồn công an, nghi ngờ có bọn thổ phỉ buôn lậu thuốc phiện xuyên biên giới.
Tiếng chó sủa dữ dội cùng tiếng súng bao vây các anh, những tiếng quát tháo rợn người vang lên:
- Ai muốn sống giơ tay khỏi đầu ngay!
Rồi những gương mặt dữ dằn của bầy lang sói độc ác xuất hiện kèm theo những trận mưa đòn tàn bạo, gậy gộc báng súng đánh tới tấp trên đầu, cổ, mặt mũi, mình mẩy những nạn nhân tù đày ốm đói run rẩy không chút tự vệ.
Trời mưa tầm tã, dưới chân chúng tôi nước chảy thành dòng như muốn cuốn trôi mọi thứ, chúng tôi phải hết sức kềm chân cho chặt vừa phải oằn vai chịu sức nặng đẫm nước của cây tươi vừa đốn hạ. Bỗng nhiên anh bạn gánh vai sau trợt chân té ngửa, buông rơi cả thân cây to, khiến đầu cây còn lại đập mạnh vào hông phải tôi. Đau đón tôi ngất lịm, chân bị trật cả gân lẫn xương. Tôi vào bệnh xá để được một ông y sĩ Trường Sơn, mỗi lần chữa bệnh, vừa xem cuốn sách châm cứu do Miền Nam ấn hành, vừa châm vào tôi cây kim dài đã hơ qua ngọn lửa vừa nói:
- Tổ chức châm cứu săn sóc anh đây. Chừng nào anh cảm thấy đau buốt thì cứ la lên, tôi sẽ tìm huyệt khác đúng hơn!.
Nhờ mỗi ngày chịu trận cho ông y sĩ dỏm này thực tập vài ba tiếng, tôi mới được ông ký giấy cho “Miễn lao động “ trong ngày ấy.
Ngày hôm trước ngày tôi bị cây to đè ngang hông, khi tôi khiêng cây đến đoạn đường Nghĩa Lộ, vừa đói vừa khát, kiệt sức tôi ngã vật xuống bên lề đường. Hai cán bộ bảo vệ trẻ thương hại mới đỡ tôi dậy, nhưng ngay lúc đó cán bộ phó trại, ngưòi mập lùn đi ngang qua, không cho đỡ tôi lại còn đay nghiến: “-Các đồng chí không việc gì mà phải đỡ hộ họ!” Rồi anh cán bộ phó trại quay sang chúng tôi sang sảng: “ Tôi biết rõ ở trong Nam, mỗi tuần các anh hầm thuốc Bắc một đứa trẻ từ một tuổi để bồi dưỡng, đúng là quân man di mọi rợ không có tính người! Vì thế anh nào cũng béo tốt như ri, lao động một chút không bằng ai mà cũng giả vờ té xỉu..nhất là mấy anh tỉnh trưởng!!!”
Nhìn vẻ mặt anh ta đỏ gay, gân cổ lên mà nói to ra vẻ rất hiểu biết, để gây thêm căm thù, chúng tôi bỗng thấy thương hại sự ấu trĩ của họ hơn là oán ghét. Còn lạ gì một anh chăn trâu suốt đời không được học hành giáo dục, chỉ biết lặp lại, nhai lại y khuôn những gì Đảng nói và nhồi sọ cho họ, gây căm thù giai cấp càng nhiều càng tốt. Họ có biết đâu lúc đó tại các thành phố lớn Hà Nội, Sài Gòn, hàng ngày các bác sĩ cán bộ được lệnh “Kế Hoạch Hóa Gia Đình”, để hợp pháp giết non hàng ngàn thai nhi vô tội.
Chúng tôi vẫn tiếp tục lê gót sống những ngày tù khoắc khoải, thì một hôm nọ, trời vừa hửng sáng là trại bị bọn cán bộ, lính bảo vệ trang bị súng ống chĩa vào các láng trạì tù. Ngày hôm đó họ kiểm soát rất gắt gao, nhân dịp tịch thu tất cả những gì chúng tôi có thể để dành ăn chống đói như đường, sữa, bánh ngọt khô.
Cán bộ phó oang oang cái miệng hò hét om sòm:
- Dzõ dzàng nà các anh ngoan cố phản động không chịu học tập cải tạo tốt để sớm lên ngườì công dân xã hội chủ nghĩa tốt, nhất là mấy bọn đại tá các anh đã phụ nòng tin tưởng khoan hồng của Bác, Đảng và Chính phủ, các anh có biết chuyện gì xảy ra sáng nay không?
Ai nấy đều rõ nhưng vẫn im lặng như không. Các láng trại đã tung tin rất nhanh về việc 4 ông đại tá đã trốn trại làm nức lòng nhũng trại viên còn lại. Họ vừa mừng vừa lo và van vái thầm cầu xin cho các vị đó được mau thoát đến đất Lào và biết đâu đến bờ Tự Do đất Thái.
Họ đi theo đội hình như sau:
- Đại Tá Thành, trung đoàn trưởng, trưởng toán trốn trại, mở đường.
- Kế đó là Đại tá Nguyễn Văn Thi, binh chủng Pháo Binh, người giữ địa bàn định hướng.
- Người đi giữa mang thực phẩm cho toán là Đại tá Đỗ Trọng Huề, cựu giám đốc Quốc Gia Nghĩa Tử, cố vấn văn hóa cho tổng thống Thiệu.
- Và người giữ mặt hậu là Đại tá Quế, chỉ huy trưởng căn cứ không quân Pleiku.
Mỗi ngày trôi qua là thêm một ngày củng cố lòng tin cho mọi người. Các cán bộ điên cuồng như ác thú lùng sục tất cả núi đồi. Các đội tù đi lấy cát, đá, vôi ở Bến Phà Ô Lâu cũng như các đội lao động nặng lên rừng đốn gỗ đều được lệnh tạm đình chỉ. Chỉ riêng 4 đội tăng gia và hái chè là còn hoạt động cầm chừng dưới sự giám sát gấp đôi của những chú bộ đội phúng phính trong bộ đồ “ Cứt Ngựa “. Các giờ giài lao 10 phút thưòng lệ đều bị cắt bỏ, chỉ tiêu tăng gấp đôi để mọi người mệt nhoài không còn thời giờ nghỉ ngơi dù là một phút giây nào. Vài anh tù “ nông cạn” vội chưởi rủa bốn anh trốn trại, vì họ mà cả bọn chịu cực khổ thêm. Còn lại đa số đều “ phấn khởi hồ hởi “ vì họ thêm một ngày hi vọng cho những ai chuẩn bị trốn trại sau đó.
Trại cho thay đổi ngay những người “ anh nuôi “. Những người nầy bị an ninh điều tra thô bạo. Anh đại tá Võ Ân bị gọi lên xuống mấy chục bận mỗi ngày để điều tra manh mối xem ai là người xếp đặt hậu cần cho các anh trốn một cách bí mật chu đáo mà không ai hay biết.
Bốn anh Đại tá trong đội “Cơ Động” hàng ngày đưọc phân công dùng xe cải tiến đến Bến Phà Ô Lâu chở vật liệu nặng về xây cất cho trại. Các anh lợi dụng những chuyến đưọc xuất trại xa như thế đã ngấm ngầm cấu kết với nhau âm mưu trốn trại qua Lào, với sự giúp đỡ của anh Võ Ân, phụ trách nhà bếp trại.
Sau cả tháng mỗi ngày giấu một ít thực phẩm khô, ngày N, giờ G, thừa lúc mấy anh bảo vệ lơ là, các anh ĐT nhà ta lần lượt biến mất sau mỗi quả đồi, hẹn nhau tại một điểm tập trung và … chạy trốn!
Các anh đã đi suông sẻ suốt ngày đầu tiên mà không ai hay biết cho đến chiều tối lúc điểm danh. Đội cơ động bị phát hiện thiếu mất bốn người khiến cán bộ quản giáo, bộ đội canh gác bấn lọan, bắn súng loạn xạ. Lúc đó cả trại mới hay có bốn ông “Bò Lục” trốn thoát, ít nữa là ngày đầu tiên, ai nấy vừa lo vừa mừng cho các anh.
Chúng tôi lo lắng vì nơi miền rẻo cao này, mỗi người dân đều là Cộng Sản, là cán bộ tình báo của chúng để quan sát theo dõi chúng tôi sít sao, vì thế mà họ không ngại “thả” chúng tôi ra ngoài để lao động khổ sai vì vùng này họ cho là an toàn nhất, một con ruồi còn khó qua mắt họ.
Nhóm anh Huề, anh Thành, Anh Thi và anh Quế vớí sự trợ giúp hậu cần của anh Võ Ân, tưởng đã trốn trại được đến gần biên giới Lào vẫn bị chúng nó phát hiện sau năm ngày sát biên giới, mà theo lời kể của các anh là “chỉ cần qua bên kia con sông đang chảy xiết là đến đất Lào rồi”, kể thì các anh quá giỏi đã vạch kế hoạch, đi đúng hướng chính xác mục tiêu, thất bại chẳng qua là.. số mệnh dun rủi mà thôi!
Chúng họ theo đuổi lùng sục các anh tận biên giới, nơi chắc chắn các anh sẽ đến, quả thật bọn chúng đánh giá không thấp trình độ của các sĩ quan ta. Khi giải các anh về bọn chúng như bầy quỷ dữ khát máu hung hăng, tha hồ đánh đập hành hạ các anh chết đi sống lại cho hả cơn giận của chúng. Riêng anh Thành, trưởng nhóm vượt ngục, bị nhốt riêng rồi thay nhau đánh đập tra khảo anh từ suốt đêm đến sáng. Càng bị hành hạ, anh càng lớn tiếng chưởi bới, cho đến khi gà gáy sáng thì anh không còn có thể la mằng gì được nữa vì chúng nó đã treo cổ anh rồi.
Sau này khi tôi bị biệt giam với các anh Huề, Thi, Võ Ân, Tâm, Huy, Bình, Đức ở khu F, phòng 7, trại Hà Tây, Tỉnh Hà Sơn Bình, mỗi khi nhắc đến anh Thành là mọi người yên lặng rơi lệ, thành kính tưởng niệm một anh hùng bất khuất, nhất là anh Huề, Thi, Võ Ân.
Theo lời anh Huề, sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng cà mấy tháng trời những địa điểm tiếp tế các anh đã lần lượt chôn dấu thực phẩm cho những ngày đầu còn ở gần trại thì các anh bắt đầu đi suốt ngày đêm, tránh gặp dân chúng. Đến ngày thứ ba và thứ tư qua, bốn anh em mừng rỡ tưởng gần như thoát nạn rồi. Đường càng xa Yên Bái thì núi non càng cao dần lên, nhiều nơi dốc như thẳng đứng khiến anh em khốn khổ vô cùng. Đến sớm ngày thứ tư thì anh Thành thoáng thấy từ xa một buôn làng có những cuộn khói bốc lên từ các mái tranh. Tuy mừng rỡ nhưng anh em bảo nhau đề cao cảnh giác đi bọc vòng xa ngôi làng.
Bổng đâu có tiếng rào rào như giông to sắp đến nơi, anh Thi, người định hướng đi trong rừng giỏi nhất vì anh là cấp chỉ huy pháo binh, kể chuyện tiếp:
“Lúc đó mọi người đều rã rời vì cơn khát nung nấu dày vò, nhưng tiếng động lạ càng lúc càng to dần, mọi người đều thủ dao sẵn bên mình, sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với bất cứ ai khám phá ra bọn người đang quyết tâm đi tìm tự do với bất cứ giá nào.
Tiếng rì rào càng phút càng to dần trên đầu, bọn ngươì núp vào kẻ đá trong lùm cây chờ đợi. Thật bất ngờ! Mọi người há hốc mồm nhìn lên … đó là một con kỳ đà khổng lồ rất dài đang le chiếc lưõi đôi nhìn bọn người trốn trại nhỏ bé đang ép mình vào kẹt đá.
Ngươì ta thuờng nói “Ra đường gặp kỳ đà cản mũi, ắt việc không thành tựu được!”. Nhưng lúc đó đối với các anh tù vượt ngục đói khát suy nhược thì con kỳ đà này là món quà trời thương ban, giúp các anh có thêm sức lực.
Họ đã thấy xa xa con sông to dài tung lên những bọt trắng xóa chứng tỏ nước chảy rất mạnh. theo bản đồ và la bàn thì con sông đó có thể là sông Mekong chảy xuyên qua Trung Cộng, Lào, Kampuchia và Việt Nam, vì từ trên đỉnh núi cây lá dày đặc nhìn xuống thì nó rất rộng và dài vô tận uốn khúc như con rắn khổng lồ.
Gần bờ sông các làng mạc mọc nhiều, dân cư hay lên rừng đốn củi, săn thú nên anh em quyết định ngày ngủ đêm đi, di chuyển dần lên phía Bắc nơi con sông hẹp hơn để vượt qua. Ai cũng mừng vì sắp thành công cuộc vượt ngục hi hữu này, cố làm sao đủ sức vượt sông đến khu rừng tre dày đặc bên kia xứ Lào.
Khi con người cố gắng hết sức để đạt mục tiêu, cơ thể có khả năng siêu việt vượt qua tất cả, để một khi đạt hay gần khi gần tới mục tiêu, cơ thể rũ liệt kiệt sức, các anh em vượt trại mấy ngày đêm nay thấy gần thành công thì bỗng dưng bao mệt mõi đổ ụp xuống, tuy nhiên anh em cũng cố gắng thay phiên nhau trực canh, tìm mọi phuơng cách để vượt sông an toàn.
Bỗng nhiên có tiếng chó sủa càng lúc càng gần càng rộ lên. Thì ra, dân bản xứ đi rừng khám phá dâu chân lạ trên con đường mòn, gần bờ suối cây lá bị đạp ngã, họ thả chó đánh hơi và báo đồn công an, nghi ngờ có bọn thổ phỉ buôn lậu thuốc phiện xuyên biên giới.
Tiếng chó sủa dữ dội cùng tiếng súng bao vây các anh, những tiếng quát tháo rợn người vang lên:
- Ai muốn sống giơ tay khỏi đầu ngay!
Rồi những gương mặt dữ dằn của bầy lang sói độc ác xuất hiện kèm theo những trận mưa đòn tàn bạo, gậy gộc báng súng đánh tới tấp trên đầu, cổ, mặt mũi, mình mẩy những nạn nhân tù đày ốm đói run rẩy không chút tự vệ.
Giữa trận mưa máu, có tiếng một cụ già:
- Thôi cho tôi xin các ông! Tưởng là bọn thổ phỉ buôn lậu biên giới, hóa ra là tù “cải tạo” Miền Nam. Họ không thể chống cự, hà tất phải đánh đập họ đến chết như thế!
Bốn anh em ngất lịm đi trong cơn mưa đòn khủng khiếp nhất trên đời. Mặt mũi mình mẩy họ không còn là con ngườii nữa mà là những con vật hình thù méo mó tả tơi dướí những trận đòn từ những ác quỷ đầy hận thù đội lốt người thắng trận!
Chiều hôm đó tại láng trại, sau khi nhận điện báo khẩn, trại trưởng huy động hai đội lao công khẩn trương đục hang vào sưòn núi sâu, không ai biết để làm gì, tưởng là nơi để họ cất giấu vũ khí hay chứa thực phẩm lưong khô, đến khi có những tấm vĩ sắt dựng thành cửa ngục lên thì ai nấy đều hiểu ra đó là nơi để giam giữ tù vượt trại. Chúng tôi hoài nghi có lẽ bốn “Bò Lục” đã bị bắt và đang trên đường trở về.
Thật đúng như vậy! Một buổi chiều u ám, từ chân trời có tiếng vó ngựa tung bụi mờ, giữa bầy quỷ dữ đang hò hét trên lưng ngựa cho chiến thắng vĩ đại là bốn người tù bị lôi xểnh theo sau lưng ngựa, hứng chịu những trận đòn, họ té khụy xuống rồi lại bị lôi dậy lúp xúp chạy theo vó ngựa, rồi loạng choạng té xuống mặc cho những sợi dây trói chặt quấn lấy thân thể rách bươm lôi kéo họ như những thanh gổ vô tri giác!
Chúng tôi chết điếng lặng ngưòi nép bên đường nhìn họ đi qua sau giờ chúng tôi lao động cải tạo về, vô tình hay cố ý họ cho chúng tôi thấy hình phạt khủng khiếp của những ai có ý định trốn trại. Chúng tôi để mặc cho giòng lệ tuôn trào từ những đôi mắt trũng sâu, lăn dài trên đôi gò má hốc hác khắc khổ. Anh em chúng tôi đó! Những NGƯỜI HÙNG sau cuộc chiến! Không thành công đã thành NHÂN! Dù không còn ai có thể nhận ra các anh, vì các gương mặt đã bị bầm dập tan nát sau trận mưa đòn thù.
Sáng hôm sau, anh Thành đã chết cách anh dũng bất khuất! Xin dâng anh một nén hương lòng!
Vài hôm sau đó, có lẽ để xoa dịu lòng căm phẫn nhem nhúm trong tù trại Yên Bái trại 2, hoặc gây chia rẽ nghi ngờ giữa các anh em tù, hoặc muốn tỏ ra rằng Đảng ta luôn khoan hồng nhân đạo, nên trong một buổi học tập chính trị toàn trại, người ta đem anh Quế trình diện mọi người, đề cao anh là “thành phần tiến bộ “, biết “ tội lỗi mình làm “, xin tập thể trại viên nhận anh lại vào hàng ngũ những người cải tạo tốt. Còn hai anh Huề và Thi hãy còn ngoan cố, chưa xứng đáng được nhân dân tha thứ, còn phải chờ lâu dài. Mọi người khẽ thở dài, không ai có ý kiến gì, bởi vì không ai đoán bọn CS thâm độc mưu mô này sẽ còn dùng chiêu thức gì nữa.
Ít lâu sau đó, ngày 19/07/1977, hàng ngũ tù Đại tá chúng tôi được lệnh chuyển sang trại Tám ở thâm sơn cùng cốc đầy ao tù nước vàng đặc, nếu lỡ đạp chân xuống đó sẽ bị nhiễm sốt rét hoặc sốt rét rừng kinh niên. Ngay ngày đầu tiên khai hoang vùng hoang địa này để trồng trọt, tôi là bệnh nhân sốt rét rừng đầu tiên. Cứ khoảng 4, 5 giờ chiều cơn rét kéo tới hành hạ tôi run lập cập, đắp bao nhiêu mền vẫn không đủ ấm, cái lạnh từ trong xương lạnh ra, rồi đến 12 giờ đêm thì nóng sốt như lửa đốt như có muôn ngàn ngọn lửa châm vào đầu ngón chân mình mẩy. Thế mà sáng ra không được nghỉ ngơi, họ cho là tôi bệnh vờ nên tôi vẫn phải lao động như thường. Như chưa đủ khốn khổ, người phát thuốc ở trạm xá, vốn là người “ của ta “, nhưng nhờ “quen biết “ cán bộ, nên bắt chẹt anh em, mỗi lần anh ta bố thí cho vài viên Quinine, đã bị anh ta liếm hết chất ngọt bọc đường bao quanh, là đổi lại chúng tôi phải biếu hắn thuốc lào ba số hoặc đồ thăm nuôi. Thuốc men gia đình chúng tôi gửi nuôi đều bị trại cất giữ hộ, họ phát “Xuyên Tâm Liên “ để trị bá bệnh!
Võ Hữu Hạnh
AMY PHƯƠNG LÊ * NGƯỜI CON GÁI KHÔNG NỊT NGỰC
Người Con Gái Không Nịt Ngực
Amy Phương Lê
Sau khi được tàu Mỹ vớt,
chúng tôi nằm la liệt trên sàn tàu. Mười sáu ngày vùi dập bởi sóng biển,
đói khát, rét lạnh làm mọi người tơi tả. Một em bé sanh ra trên tàu
được cấp tốc đưa vô phòng cấp cứu. Chiếc tàu nhỏ loại đánh cá chở chúng
tôi đi buộc dây kéo theo sau, nhỏ bé như con kiến đi cạnh con voi. Chỉ
một thời gian ngắn sau, các miếng gỗ của tàu cũng sút ra từng mảnh, trôi
lênh đênh...
Ôi! Chiếc tầu nhỏ, quá
nhỏ, chỉ ba mươi ba người mà đã chật không còn chỗ ngồi hay đứng. Chỉ
mới qua đêm thôi, khi ngồi bó gối trong thân tầu, bị sóng biển nhận
chìm, đưa lên rồi lại bị nhận chìm sâu hơn nữa vào trong lòng biển lạnh,
rồi nghe tiếng kêu răng rắc của những mạnh gỗ bắt đầu bị lồi ra những
cây đinh thì chúng tôi hiểu rằng chiếc tầu thân yêu không còn có thể
gánh vác mạng sống của chúng tôi xa hơn được nữa. Tôi
đưa mắt nhìn những thủy thủ trên tầu Mỹ, lòng tràn ngập niềm vui và
niềm biết ơn khó diễn tả. Và lon Cola mà tôi được phát, chao ôi sao mà
nó ngon! Trôi tuột vào cổ họng khô khát... Có lẽ đó là lon coca ngon
nhất trên đời tôi được uống. Chỉ mới hôm qua thôi, ngày thứ mười lăm,
khi một em nhỏ trên tàu thoi thóp khóc vì quá khát thì mẹ em đã gieo cho
em chút hy vọng: "Ráng đi con, khi nào có tầu vớt thì con sẽ được uống
nhiều nước. Có khi lại có Coca!".
Lúc ấy chúng tôi mới chỉ nghĩ đó như
một giấc mơ. Hai đứa em tôi nằm bên cạnh, rên lên khi nghe nói tới
nước...Từ cả hơn mười mấy ngày trước, khi đói và khát quá thì thằng nhỏ
nhất bắt đầu mơ tưởng đến đồ ăn thức uống: " Chị ơi! Em đói quá! Em thèm
một tô phở. Và một ly trà đá thật bự! Hay cái gì cũng được! Một tô mì,
bánh xèo, hay bún bò..." Một bà trên tầu gắt lên: "Trời ơi! Đói khát thế
này mà cứ kể ra mấy món ấy có chết không cơ chứ?". Rồi bà lâm râm đọc
kinh, cả tầu cũng đọc kinh...Em tôi không dám nói lớn nữa, nhưng ráng
thì thào bên tai tôi: "Chị ơi! Hay chị cho em một chén cơm nguội cũng
được!" Tội nghiệp! Nó quá nhỏ để hiểu cuộc hành trình này không có quyền
chọn lựa. Rồi nó không thì thào được nữa, mà bắt đầu khóc, và chỉ vào
hạ bộ của nó đang sưng đỏ vù. Tầu nhỏ, không có chỗ ngồi huống chi chỗ
đi tiểu, đi cầu...
Lúc đầu mọi người còn ráng ra ngoài để tìm chỗ đi,
nhưng khi say sóng và đuối sức thì ai ngồi chỗ nào đi chỗ nấy. Sau những
ngày không được chùi rửa vệ sinh, hạ bộ đỏ u lên. Em tôi không hiểu tại
sao hạ bộ nó sưng phồng, đỏ lòm và to gấp hai, ba lần bình thường. Mỗi
lần nước biển tạt vào, nước muối mặn sát vào da thịt rát quá làm mọi
người kêu la, oằn oại như thấu trời xanh. Rồi cộng thêm với những đêm
bão lạnh kinh hoàng mà mỗi giọt nước rót vào người là như mũi dao xẻ
thịt xẻ da, thì em tôi cảm giác như có những mũi dao cắt đứt đi cái phần
cơ thể riêng tư quý báu đang bị sưng vù nên vểnh lên cao nơi hạ bộ của
nó.
Cho tới bây giờ tôi vẫn còn hình dung thấy hình ảnh những em trai
nhỏ và những người con trai cúi cong người che hai chân lại rên xiết mỗi
lần những cơn và sóng biển ập xuống. Trên
tầu Mỹ, vì không đủ phòng tắm cho mọi người cùng vào, chúng tôi được
chia làm hai hàng nam và nữ. Hai thủy thủ cầm hai ống nước gấp rút xịt
nước tắm cho mọi người, tất cả quần áo được cởi ra để đem khử trùng giặt
sấy. Các thủy thủ gom góp áo quần của mình phân phát cho mọi người mặc
tạm.
Những bộ quần áo Mỹ rộng lớn bao che thân thể Việt gầy nhỏ, chúng
tôi bơi lội trong đó như bơi lội trong niềm hạnh phúc và lòng tri ân
được vượt thoát bình an. Ngày hôm sau
quần áo giặt sấy xong được trả về cho mọi người. Vì ở rải rác trên boong
tầu không có mặt lúc phát lại quần áo, hoặc có những người nhận lộn đồ,
chúng tôi đa số người lạc áo kể lạc quần, giầy dép không còn. Tôi còn
lạc mất chiếc nịt ngực. Ngày đặt chân lên trại tị nạn, đôi chân trần
bước trên đất nóng, tôi vẫn không thấy ngại bằng cảm thấy bộ ngực vô
cùng trống trải.
Thủa ấy tôi mới vừa mười tám tuổi, sinh ra và lớn lên
trên cao nguyên Đà Lạt. Ở thành phố nhỏ hoa anh đào đó, đời sống là áo
trắng hiền ngoan, má đỏ môi hồng, thẹn thùng e ấp. Vậy mà bỗng chốc lăn
vào đời, chân không giầy dép, người không nịt ngực. Cái nịt ngực đối với
tôi, nhất là ở xứ lạnh, là một vật dụng thân thiết ít khi rời. Nó vừa
giữ ấm cho người, vừa che đậy nâng đỡ một phần cơ thể kín đáo. Ở phần
dưới nịt ngực thường có một viền sắt mỏng hay viền vải chắn ngang, và
một lớp vải dầy với miếng mút ôm gọn hai bầu vú để giữ cho phần ngực
không rung rinh di chuyển theo mỗi bước đi và không lộ rõ núm vú. Khi
sinh hoạt, dù trong nhà, cũng nên mang.
Thế mà bây giờ, ở chốn đông
người, giữa ban ngày ban mặt, tôi đi đứng chạy nhảy mà chẳng mang nịt
ngực. Cái cảm giác trống trải không kín đáo này đối với tôi, một người
con gái Á Đông lần đầu bước vào đời là cái cảm giác không an toàn, hở
hang, bất an... Tôi lên trại xin cấp
nhưng chưa có. Trại chuyển tiếp có những nhu cầu cần thiết hơn phải được
giải quyết trước. Miếng ăn, nước uống, thuốc men, nhà vệ sinh, tất cả
còn thiếu mà người tị nạn đổ về mỗi lúc một đông. Lúc bấy giờ ở Việt Nam
mà đa số là đàn ông thanh niên bị kêu gọi tham gia "thanh niên xung
phong" hoặc bị gởi qua chiến trường Cam Bốt khốc liệt.
Mọi người vội vã
tìm đường vượt biên, trại rất đông đàn ông con trai. Và đủ mọi hạng
người. Mỗi lần sáng chiều đi lãnh cơm, đi tắm, đi hứng nước hay có loa
gọi gấp lên làm giấy tờ, tôi đi giữa những hàng chòi lá và dãy nhà tập
thể, cảm nhận có những cặp mắt nhìn theo bộ ngực vô tình nhấp nhô theo
từng bước chân chạy... Tôi vừa mất cha
nên có miếng tang đeo trước ngực, không biết người ta nhìn miếng tang
cảm thông với tôi hay nhìn vào ngực và biết tôi thiếu cái nịt ngực...Có
những cái nhìn rất soi mói, như lột trần mình ra. Con gái mới lớn, bộ
ngực nở nang không làm tôi hãnh diện mà chỉ làm tôi thêm ngại ngùng khổ
sở. Ở lứa tuổi học trò ngây thơ thủa đó, cảm giác nhận được là nhột
nhạt, khó chịu, bất an. Tôi bỏ luôn thói quen mỗi sáng tập thể dục ngoài
trời, vì khi không có nịt ngực thì những động tác nhún nhẩy có thể tạo
sự chú ý. Ngay cả những ngày hè nóng nực ở trại tị nạn cũng không thoải
mái thả mình theo sóng biển, bởi quần áo càng dính chặt vào người, núm
vú càng hiện rõ, lộ liễu.
Ở cái tuổi con gái tươi trẻ tung tăng mà tôi
không hề dám tung tăng. Có hôm đang đi, nghe tiếng huýt sáo trêu ghẹo
đuổi theo, tôi ngại và mắc cỡ quá lính quýnh đi như chạy, vấp té làm áo
bị sút khuy nút. Hai tay vội vã cố gài khuy áo, tôi đi tiếp trong những
tiếng cười tinh nghịch nham nhở. Có lần vừa sắp hàng đi hứng nước tắm
về, thì nhạc quốc ca của trại trỗi lên, mọi người đang đi đường đứng
nghiêm lại hát chào quốc kỳ. Tôi đang đứng nghiêm chỉnh bỗng nghe tiếng
cười chỉ trỏ về phía mình, Một vài thanh niên đang ngồi trên tầng trên
của chòi lá thò đấu ra nhìn tôi rồi một người chợt nói: "Chắc tắm về để
quên cái nịt ngực!" Rồi họ cười hô hố. Một người khác tiếp theo: "Tên gì
thế em! Tối nay đi chơi trọn đêm với anh nhá?" Một người lớn tuổi đang
đứng chào cờ không xa, tỏ vẻ khó chịu. Ông ta nói vừa đủ tôi nghe: "Lần
sau có ra đường hay chào quốc kỳ thì nhớ mặc nịt ngực!
Con gái lớn ra
đường ăn mặc đàng hoàng một chút!" Tôi
còn đang ngơ ngác thì tiếng quốc ca và mặc niệm chấm dứt, mọi người tiếp
tục đi. Tôi cúi xuống cầm xô nước, ngỡ ngàng. Trời ơi! Thì ra có người
tưởng tôi cố tình không mặc đồ đàng hoàng. Đây là lần đầu tiên tôi biết
điều này. Tôi cảm thấy nghẹn không thể nói thành lời, muốn chạy đến
người đàn ông khi nãy để nói rằng là tôi không phải cố ý như thế, mà hai
chân tôi cứ bước như người không hồn, xô nước sóng sánh đổ ra mà không
biết. Dường như có giọt lệ nào, không chảy xuống mà chảy ngược vào tim tôi, lăn mãi, và lăn mãi...
Chiều
chiều trong chòi lá nghe từ loa vọng lại bài hát "Người Di Tản Buồn",
tôi thấy như bóng dáng mình trong đó..." Chiều nay có một người đôi mắt
buồn, ngày ra đi lặng câm trong đau đớn..." Tôi ngồi bên xong cửa, thấy
chiều rơi rất chậm, rồi "rưng rưng lệ vương mắt lệ nhòa "... Rồi
tôi cũng được chuyển sang một trại tị nạn chính thức khá hơn một chút,
và xin được cái nịt ngực cũ.
Cái cảm giác đầu tiên khi được mang lại vật
dụng thân thiết ấy của người nữ làm tôi thật an toàn, yên ổn. Dù không
vừa vặn nhưng thế là quá đủ! Rồi tôi
liên lạc được với người chị từ một trại khác vừa sang Mỹ. Ngày được bảo
lãnh, khi chị đón ở phi trường, tôi nhìn chị, rồi như bị ám ảnh bởi hình
ảnh của chính mình trong những ngày đầu tị nạn, tôi len lén nhìn vào
ngực chị, trong phút chốc chợt mủi lòng, nhớ cha nhớ mẹ, nước mắt âm
thầm lăn dài trên má. Chị cũng khóc, nhưng có lẽ lúc ấy chị không hiểu
đích xác cái tủi buồn thầm kín của em mình. Ngày
hôm sau, vì trúng ngày thi cuối khóa nên chị nhờ người bạn trai là hôn
phu chở chúng tôi đi làm giấy tờ và mua ít vật dụng cần thiết. Tôi đi
trong thương xá rộng lớn, rồi bỗng sáng mắt khi nhìn thấy quầy bán nịt
ngực, Chao ơi nhiều! đủ mầu đủ số.
Tôi mân mê vuốt nhẹ lên từng phiến
vải mềm, như muốn cảm nhận được tất cả sự dịu êm của từng miếng ren vải
lụa, thấy lòng hạnh phúc reo vui như thể được cái gì quí giá lắm. Tôi
chọn lấy một cái vừa vặn và một quần lót nhỏ cùng màu. Thế nhưng đến lúc
ra quầy tính tiền, nhìn thấy người bạn trai của chị đang đứng chờ, tôi
chợt thấy ngại. Tưởng tượng phải thả cái nịt ngực và cái quần lót nhỏ
xuống trước mặt anh, tôi đã thấy ngượng. Tôi len lén bỏ lại, mơ hồ một
cảm giác luyến tiếc sâu kín... Hai em tôi đã chọn được cặp táp, vở học,
và một ít quần áo. Còn tôi, tôi đã dành trọn thời giờ bên quầy nịt
ngực... Bây
giờ tôi đã có nhiều chiếc nịt ngực, khác mầu, khác kiểu. Nhưng trong
một góc ngăn kéo, tôi vẫn còn giữ lại cái chiếc chật cũ của những ngày
tị nạn. Và trong một góc ngăn kéo rất sau thẳm của ký ức vẫn như còn
đọng lại hình dáng một chiếc nịt ngực ao ước mãi của ngày xưa...
Sau
này, khi các con tôi khôn lớn, sẽ có một lúc nào đó tôi dẫn vào thương
xá, rồi như vô tình, đi ngang quầy bán nịt ngực, tôi sẽ kể các con nghe
về chút kỷ niệm của thời mới lớn. Đơn giản thôi các con! Chỉ là một
chiếc nịt ngực, mà đã từng là niềm mơ ước, nỗi ám ảnh của mẹ trong một
khoảng đời con gái. Giờ đây, tuổi trẻ
các con lớn lên trong mệm ấm chăn êm. Thấy những gì đang có sẵn là tự
nhiên, là bình thường. Đôi khi còn than thở, so sánh...Có biết đâu có
những không gian và thời gian mà ở đó, ngay cả những cái nhỏ bé bình
thường nhất cũng có thể là nỗi tủi nhục, niềm ao ước cháy bỏng. Đừng nói
chi đến cái bầu trời tự do để thở như ở đây thì đã là quá tuyệt diệu và
đã từng đánh đổi bằng biết bao là đau khổ chồng chất.
Có
một thời gian, những câu chuyện vượt biên thống khổ như những vết
thương mà người ta muốn quên đi để bớt nhức nhối trong một cuộc sống mới
xa lạ và tất bật. Thế nhưng khi có dịp ôn lại và tìm về những kỷ vật cũ
ấy, tôi chợt nhận ra rằng những đề tài cũ và đấy dấu tích đau khổ ấy,
lại là những bài học tiêu biểu vô cùng cho những thế hệ sau... Và tôi hiểu ra rằng đó còn chính là bài học cho chính tôi... Ôi
thảm nạn của những cuộc hành trình vượt chết vô tiền khoáng hậu!
Ôi
những chiếc tầu nhỏ bé một bloc chỉ có thể chạy trên sông mà đã băng
biển vượt sóng rồi giông tố biển khơi, hải tặc tàn bạo, và nhục nhằn của
bao người trong cuộc hành trình vượt chết...Thế mà bây giờ, tôi ngồi
đây, trong cuộc sống có thể gọi là đầy đủ, nhiều lúc lại cho rằng đời
sống sao mà khổ! Nào con cái, việc làm, nhà cửa, sao mà bận bịu! Nào
"bill", nào "Job", nào chứng khoán trồi sụt...nhưng nghĩ cho cùng, thì
có phải là những ngày đêm dài thăm thẳm trôi dạt trên thân tầu sắp vỡ,
lúc gần chôn thây trong biển lạnh, lúc cận kề cái chết trong gang tấc,
tôi chỉ ước mơ đứng trên đất liền, được sống...
Có phải là khi ra đi tôi
chỉ mong một bầu trời tự do hơn để thở, có phải là tôi đã ngủ quên cái
hạnh phúc lớn lao mà biết bao người không may mắn có được... và, nhìn
lại tủ áo, có phải là một lúc nào đó trong đời tôi chỉ ao ước một cái
nịt ngực... Có nghe, có đọc, có nhớ, có
hình dung lại những cuộc hành trình biển đông năm xưa thì dường như ta
mới cảm nhận được thấm thía hơn tất cả cái may mắn và hạnh phúc mình
đang có. Những thống kê về di dân đã cho
thấy thế hệ di dân đầu tiên, như chúng ta, là thế hệ làm cầu nối cho
các thế hệ kế tiếp vốn không có chút kỷ niệm và ấn tượng gì về quê hương
mà cha mẹ đã phải bỏ lại. Đó là những thế hệ rất dễ ngày càng xa nguồn
gốc nếu không được học hỏi giả thích. Tôi
tự nhủ, tôi sẽ không nhất thiết phải đi làm cho thật nhiều để các con
có cuộc sống dư thừa, rồi để lại cho các con gia tài tiền của. Nhưng,
đại dương sóng sau dồn sóng trước, tôi sẽ góp phần làm gạch nối giữa các
con với những giá trị muôn đời của cội nguồn dân tộc.
Các con sẽ được
chia xẻ, rút tỉa những kinh nghiệm quí báu của cha ông đồng thời học hỏi
những cái hay cái lạ của xứ người. Cái đó mới là cái đẹp riêng, là gia
tài hành trang của các con, khi một lúc nào đó nhìn màu da khác người
bản xứ, sẽ tự hỏi: " Tôi là ai? từ đâu đến, vì sao tôi ở chốn này?" Các
con sẽ được giải thích để hiểu rõ, để tự tin, hãnh diện, và sẽ có lúc
giải thích cho các con của mình hiểu. Những lúc yếu mềm, không nghị lực,
không lối thoát, hãy lăn bành một chút về dĩ vãng, học ở đó những bài
học xương máu. Khi tìm hiểu về những chiến trận anh hùng, những hành
trình thống khổ đầy gương can đảm, các con sẽ thấy rằng ở đời có muôn
ngàn cái khổ, nhưng có những cái khổ và cái can đảm làm rung chuyển
lương tâm nhân loại.
Máu, mồ hôi, nước mắt nhiều khi liên tiếp đổ ra mà
chưa chắc đánh đổi được những gì chúng ta đang có. Rồi hãy hít thở đi
cho ngập tràn khí quản cái tự do hạnh phúc quí báu vô vàn, rồi can đảm
tiếp bước đi trên đường đời ngang dọc. Đừng
quên rằng chung quanh chúng ta, có những không gian và thời gian mà ở
đó có những điều cần thiết, tuy nhỏ bé và bình thường, nhưng chỉ một
chiếc nịt ngực thôi, cũng có thể là nỗi ước ao triền miên của những
khoảng đời cơ cực... :::Amy Phương Lê:::Họ Tên: Amy Phương Lê
Nghề Nghiệp: Computer Programmer/Real Estate Broker Hiện đang nghỉ làm
để học xong Teacher Credential/Master of Science of Education.
Suy nghĩ về cuộc thi viết "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông ":Xin
hoan hô và ủng hộ hết mình! This is for a great cause! Khi các con mình
đi học ở trường, các thầy cô thường bảo các cháu kể và viết essay về
"How your Dad and Mom came to America". Và các cháu cần làm thuyết
trình, research...Các cháu và bạn bè thường thắc mắc hỏi về về những đề
tài như thế. Có thêm những tài liệu và chuyện kể về cuộc hành trình này
thì thế hệ mai sau và những người ngoại quốc sẽ càng hiểu được nguyên do
chúng ta phải ra đi, ra đi bi thảm như thế nào, cùng với biết bao hoàn
cảnh nghiệt ngã, oan khiên khác. Người American Indians năm 1838 có cuộc
hành trình thống khổ, out of their ancestral homeland to over 1000
miles away to Indian Territory. They called it "Trail of Tears" (Trail
Where They Cried). To me, our stories have no less tears...Even
more..not only trails of tear but also rivers of bloods. Our journeys
were thousands, thousands of miles away, and we crossed no just land but
also seas - overseas.. And thus we cried... And now we speak So that you know...
TRẦN VIỆT HẢI * KIẾP SAU LẤY VỢ HUẾ
Kiếp sau lấy vợ Huế.
Trần Việt Hải
Kiếp sau lấy vợ Huế
Ðể tôi được cưng chìu
Ðêm nằm nghe thỏ thẻ:
" Anh nì! Chừ mình yêu..."
Sáng ra lời trong veo
Tiếng người như chim hót :
" Anh ơi! Em ốt dột
-Hun chi lạ...rứa tề! "
Thương ơi! Mái tóc thề
Dài lên tới Bến Ngự
Tóc cột đời lữ thứ
Trăm năm không cho về...
Kiếp sau lấy vợ Huế
Già chát vẫn kêu anh
Gần chôn cũng xưng em
Tình nào hơn như thế ?
Bờ môi ngọt... thương nhớ
Con mắt là sao sa
Dẫu khi đã đàn bà
Cũng lừng hương thiếu nữ!
Dẫu khi tôi mệt lữ
Em vẫn tìm lá xông
Bão giông em không sợ
Ãm ắp nghĩa vợ chồng...
( thơ Trần Dzạ Lữ, SàiGòn, tháng 3 năm 2013 )
------------------------------ ------------------------------ -----------------------
6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ
1. Con gái Huế sống nề nếp và gia phong
Con gái Huế luôn sống có phép tắc trong ứng xử với bố mẹ và người lớn trong gia đình. Những nền nếp ấy đã trở thành khuôn phép truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô gái Huế nào khi đi ra ngoài cũng đều xin phép gia đình, có khách thì phải cúi chào, và đặc biệt con gái Huế không được đi chơi đêm quá 21h.
2. Con gái Huế sống thân thiện và đặc biệt thiện tâm
Con gái Huế luôn nở nụ cười trên môi khi gặp người khác. Họ luôn luôn quan tâm, hỏi han và giúp đỡ người khác những lúc gặp khó khăn. Và đặc biệt, người lạ gặp con gái Huế rất dễ dàng bắt chuyện và hòa nhập vào câu chuyện một cách vui vẻ vì họ luôn luôn cởi mở, thân thiện, gần gũi và hiếu khách. Con gái Huế đặc biệt sống rất hiền, thích làm việc thiện, thường xuyên đi chùa lễ Phật để tích đức.
3. Con gái Huế kín đáo và trầm lặng
Họ là những cô gái rất trầm lặng và ít nói, sống luôn luôn giữ kẽ, hết sức kín đáo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày với ba mẹ, người lớn tuổi và bạn bè. Họ không bao giờ muốn mọi người biết về những khó khăn mà họ đang gặp vì không muốn để ai bận tâm. Con gái Huế không để xảy ra điều to tiếng, hay gây chuyện buồn cho hàng xóm láng giềng.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế kín đáo và trầm lặng.
4. Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu
Con gái Huế tiêu tiền rất cẩn thận, tính toán chi li mọi khoản để cân bằng tiền bạc, họ luôn cân nhắc rất nhiều khi quyết định chi tiêu tiền bạc vì họ suy nghĩ đến tương lai lâu dài. Họ không giống nhiều người nhiều nơi khác, cứ có tiền là tiêu cái đã, làm chừng nào thì tiêu chừng đó.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế sống tiết kiệm và chắt chiu.
5. Con gái Huế dịu dàng và e ấp
Người con gái Huế từ lâu đã nổi tiếng là dịu dàng với giọng nói "dạ, thưa" đến say lòng. Con gái Huế đi lại nhẹ nhàng và ăn nói nhỏ nhẹ. Dường như mỗi người con gái Huế đều mang trong mình một nét gì đó rất đỗi kín đáo và e ấp. Có rất nhiều chàng trai xứ khác khi đến Huế đều cảm nhận được đó là điều đầu tiên.
6. Con gái Huế cầu kỳ trong chế biến ẩm thực
Với tất cả mọi người dân xứ Huế, nấu ăn là thể hiện sự khéo léo và nghệ thuật, chính vì thế, họ luôn coi trọng việc trang trí món ăn. Với quan niệm: "ăn" trước hết là "ăn bằng mắt", người con gái Huế rất chú trọng vào việc làm cho món ăn không chỉ ngon mà còn phải bắt mắt và thu hút.
Kết quả hình ảnh cho Con gái Huế cầu kỳ trong chế biến ẩm thực.
Qua bao hình ảnh cho con gái Huế dịu dàng, thùy mị, thủy chung, thích quá một trời mơ và một cõi e ấp, này bạn còn chần chờ gì nữa kiếp sau nếu may mắn đầu thai làm người không đi tìm vợ Huế đỉ nhi? Tôi bảo bà nhà tôi trong con tim nồng nàn xao xuyến của mình, tôi sẽ hẹn bà ở vùng đất thần kinh trầm mặc cổ kính... Huế kiếp sau với bó hồng trên tay,... chờ bà ở ngã ba Hương Thủy, chờ đến khi trăng tàn trên Bến Ngự, hay rồi khi mùa xuân về đàn lễ tế Nam Giao, ta vẫn chờ em,...
Kiếp sau nếu có làm người,
Con tim xao xuyến sống đời Thần Kinh.
Tôi nhớ người anh cả của tôi, thuở trung học anh ấy "Rất Huế" theo ngôn ngữ đặc sản, đặc trưng của nhạc sĩ Võ Tá Hân, anh hai tôi có cô bạn gái đầu đời týp "Rất Huế" từ dáng e ấp đến giọng nói, anh hai tôi vốn thích món bún bò Huế huyết heo, nào những cơm âm phủ, bánh khoái, bánh lá chả tôm, bánh nậm, bánh ít ram, nem tré, nhất là dần về sau, le hơn đi xa hơn theo thời gian những ngữ như Cung Đình Tửu Huế, thuộc hạng xịn deluxed Nhất Dạ Ngũ Tử, hay Hoàng đế ngự tửu tuyệt say tình cốc, theo goût Minh Mạng vương tuyệt triều, mà hơn một lần tôi nghe nhạc sĩ Hoàng Sa, aka BĐQ toubib Trần Văn Thuần đất Bushland Houston, thuyết giảng về độ phê của ngự tửu, hay nhà văn Dương Viết Điền "rất Huế" cố vấn Huế chi cho tôi yếu Huế thêm,...
Hôm qua bà sui gia kiều diễm Thụy Trinh và thầy giáo Việt ngữ hiền tài Thiện Đức bê tôi lên TV air vì freeway 405 jamming như mắc cửi nên chỉ có 2 người on air.. Thụy Trinh nhắc chuyện năm xưa khi madame bê tôi và ca nhac sĩ Tú Minh on air Hồn Việt, Tú Minh bảo tôi :" Em lên air lần đấu chưa quen, run quá!", tôi trấn an Tú Minh host talkshow này lanh lắm, madame thóc show như anchor thông báo tin tức với speed 55MPH, Tú Minh nghe rõ rồi trả lời, đừng lo nhé, madame sẽ đỡ đòn khi minh stuck. Thật vậy, sau interview xong mọi ngưởi vui vẻ.
Vào giờ ngọ của cử lunch hôm qua, rồi bút tôi lang thang băng qua đường Saigon trước tiền đình Phước Lộc Thọ, một đoàn xe dài án ngữ lưu thông, xe cộ nối đuôi nhau chờ một lão nhân chổng gậy qua đưởng, ca sĩ Louis Lưu Manh Bổng bỏ sở đi ăn có 1 giờ lunch, kẹt xe trên xa lộ 405 nửa tiếng và nửa tiếng đợi "lão Việt Hải tà tà băng qua quốc lộ Saigon Bolsa, nên bụng đói meo trở về sở trên đường Main Santa Ana đi làm tiếp. Anh tiêu hết một tiếng không ăn lunch, Louis bạn tôi, bảnh trai, ngày xưa đi học cùng đại học, Louis quen đi xe nhà, con nhà giàu, bạn bè thèm nhỏ dãi,.. chàng ta thích ca hát gương mặt hao hao mang vé y khuôn như ca sĩ Nhật Trường "năm bờ thu", madame Mỹ Lan coi chừng người y chang như người nhé. Có điều ca si NT mang chất giọng truyền cảm trầm ấm, baritone, hoặc xuống trầm sasso, Louis có lẽ do bẩm sinh thiên khiếu, hay sở trường quen giời phú ở chất giọng nam kim, ngân cao, nếu không như chuẩn mực Giovanni Martinelli hay Galliano Masini, thì anh vẫn ở thứ hạng khá. Chưa hết một vòng đảo qua Asian Mall gặp madame "Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng chói", ...
Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng quá
Nghe đâu đây tiếng vọng hòa bình
Lệ nhạt nhòa đôi mắt long lanh
nghe tin con vẫn còn ngày xanh
Một cành hoa em cài mái tóc
Anh đưa em qua quãng đường dài
Về thành đô anh may áo cưới
Ta thương nhau xây dựng ngày mai,...
Mẹ Việt Nam Như Hảo một thuở tung hoành Saigon air, vùng thẩm âm lan tỏa
nghe rõ từ Thủ Thiêm qua Cát Lái, từ Phú Lâm về Hàng Xanh, chị kể thuở
vui xưa có Bonard, Catinat, Galliéni, Charner, rồi Crystal Palace,
Passage Eden,... nỗi nhớ khôn nguôi,... nhớ lại đi, chạy song song với
con đường Tự Do là đại lộ Nguyễn Huệ (Charner) rộng thênh thang với Tòa
Đô Chánh ngã ba Nguyễn Huệ-Lê Thánh Tôn nơi nhà tôi đấy,
(Charner-d’Espagne) đứng uy nghi giữa trời. Xéo đó là rạp ciné Rex của
gia đình chi Kim Châu (madame Võ Tá Hân, hihi chuột sa hủ nếp,.. vốn học
giỏi khiến tôi ực cà phê đen bỏ ngủ học marathon với anh để tôi vượt
qua 2 kỳ tú tài không khó, Rex hay Mini Rex những nơi đây ấp kỷ niệm,
nhưng rạp tối tân mà thuở nhà mùa xưa sao mà cứ mãi đếm tiền kỹ trước
khi mua vé, coi một phim hay với cô mèo hôm sau nhịn mấy phùa lunch và
điểm tâm,..hihi... Rex hay Mini Rex thường chiếu những phim hay, nhưng
hay hơn cả vẫn là phim uống môi em ngọt. Về nhà bố hỏi "Con đi đâu về
?", biết nói sao bây giờ vì lỡ xem phim hay rồi, thôi thì cứ bê đề tủ
của ông giáo Sâm Petrus Ký gỡ gạc là thượng sách...
Ông giáo Nguyễn Văn Sâm, người phổ biến tác phẩm best sellers hay muôn
thuở, "Con trai phải đọc sách". Tôi thưa trình thành khẩn: "Dạ con vừa
gạo bài ở Abraham Lincoln về!" ( tức thư viện Mỹ Abraham Lincoln ở số 8
đường Lê Quý Đôn), bởi thế tôi nhớ madame ca sĩ Hồng Tước có lúc tâm sự
một thuở Saigon gia đình bà rất khó phim tình cảm mùi mẫn yêu đương ngữ
như: "L'affaire d'une nuit" (Chuyện Tình Qua Đêm, với 2 diễn viên gạo
cội Brigitte Bardot và Jacques Charrier; hoặc "La Piscine" (Cạm Bẫy Tình
Yêu, với 2 tài tử thượng thặng Alain Delon và Romy Schneider); hay phim
"Love Story" (Chuyện Tình, với 2 diễn viên xuất sằc, Ali MacGraw và
Ryan O'Neal), con gái chưa thi xong tú tài chưa nên xem, "No way José!"
hay ở Rex hay Mini Rex madame Hồng Tước buồn hiu vì ngày ấy chưa được đi
xem. Tôi hiểu madame, hãy trách nhẹ vì ông giáo Sâm chưa hề viết tác
phẩm: "Con gái phải đọc sách" để madame Hồng Tước vác lưng cái student
backpack gồm bao những sách ngụy trang thi tú tài, những vạn vật, triết,
sử địa, toán, vật lý, hóa học, anh văn, pháp văn, việt văn,.. vào Rex
hay Mini Rex,...
Rex xem như tối tân nhất Sài Gòn chủ nhân là ông Ưng Thi (cũng là chủ rạp Đại Nam). Ðiều đáng nói là thời bấy giờ (đầu thập niên 60) mà rạp Rex đã có thang cuốn (escalator). Rạp Rex khai trương năm 1962 với cuốn phim Ben Hur do tài tử Charlton Heston và Stephen Boyd đóng thì xảy ra một biến cố, có một người đẹp nọ đi thang cuốn escalator lúc lên gần tới tầng lầu không hiểu quýnh quáng thế nào mà để cái thang "mắc dịch" không galant chút nào nó cuốn luôn cái quần dài của nàng tuột đi...Ôi cái thang thật dê xồm.
Ðối diện rạp Rex là rạp Eden đặc biệt ở tầng 3 có những ô ngăn chia riêng biệt dành cho các tình nhân muốn có nhiều tự do thoải mái. Ngay kế bên có tiệm bánh mì pâté Đô Chính ngon nổi tiếng. Gần đó có phòng trà Queen Bee mà giới yêu nhạc thường vào nghe mỗi đêm. Khu Eden có cơ ngơi của bà Cả Đọi, chủ nợ xơi chịu ghi sổ của ông vua hippie Trường Kỳ.
Thương xá Tax (ngày xưa là hãng Charner) cũng lừng danh với nhiều hàng hiệu. Qua khỏi ngã tư Lê Lợi có kiosque Đống Ða rửa và in hình rất đẹp, rồi Tổng Nha Ngân Khố, hotel Palace. Hằng năm, vào mỗi độ Xuân về, nguyên đại lộ Nguyễn Huệ trở thành chợ Hoa đô thành với trăm ngàn kỳ hoa dị thảo muôn hồng ngàn tía nhất là hoa mai hoa đào rực rỡ để người Sài Gòn ngắm nghía chọn lựa mang về chưng Tết.
Cắt ngang đại lộ Trần Hưng Ðạo khúc gần rạp hát Ðại Nam là đại lộ Nguyễn Thái Học (Boulevard Kichener) mà đoạn đầu ở ngã ba Phạm Ngũ Lão là rạp hát bội Thành Xương (đình Tân Kiểng), ngay ngã tư Trần Hưng Đạo là trường tiểu học Trương Minh Ký, xuống lần tới phía dưới có trường tư thục Huỳnh Thúc Kháng, rạp hát Nam Tiến kế bên là khách sạn Tân Thời mà chủ nhân là bạn của người viết. Cuối đại lộ Nguyễn Thái Học là Chợ Cầu Ông Lãnh,...
Phạm Mạnh Ðạt, Ý Lan, Sài Gòn Có Em
Sài Gòn Có Em
Sài Gòn Có Em Phạm Mạnh Đạt . Ca sĩ thể hiện: Ý Lan
Ôi, Saigon vẫn đẹp trong sự thể trước biến cố đổi đời vì rằng: "Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do!". Tôi chuộng bài nhạc tình ca Phạm Mạnh Đạt. Nhớ madame "Mẹ Việt Nam mắt ngời sáng chói", nhớ hiền tỷ Như Hảo, gặp hôm qua quá tri kỷ duyên thời bao xuân sắc nhé, madame ex cùa thấy Petrus Ký Phạm Mạnh Cương, hiền tỷ lại là vị đồng môn tại trường luật khoa Duy Tân gần công viên Tháp Rùa, thuở vàng son của VNCH ngày nào, ký ức mãi mãi không nguôi, hiền tỷ còn theo học khoa báo chí tại Vạn Hạnh, cùng thời gian bút tôi học khoa kinh tế tại trường Kinh Thương Minh Ðức. Ca sĩ Như Hảo có liên hệ bà con họ hàng rất gần với ba ca sĩ Tam Thanh: Thanh Thúy, Thanh Mỹ và Thanh Châu).
LS. Thanh Châu gốc Marie Curie, nhưng vốn thích văn thơ nhạc VN, Thanh
Châu kể chuyện về nhạc sĩ Trần Trinh... Trần Trịnh có cá tánh hiền hậu,
trầm tính, luôn nhỏ nhẹ, một tấm gương nghệ sĩ đáng trân quý,. Có lần
ông bảo rằng nhạc ông sáng tác, hể ai ca nhạc ông, ông cám ơn trong sự
trân quý. Ông không những không lấy "redevance" (royalty fee), chắng cần
tiền tác quyền mà còn muốn trả tiền caché cho người ca ấy nữa, nhưng đó
là tấm chân tình của người nhạc sĩ tài hoa này, dù rằng ông nghèo, niềm
ao ước như nỗi lòng tri ân người thương mến nhạc của ông. Điều này nói
lên cá tính dễ chịu, hòa nhã của ông. Rồi Thanh Châu có lần tâm sự là
lần đầu tiên ngỏ ý ca bài Hai Sắc Hoa Ti-gôn với chính tác giả đệm phần
nhạc, Thanh Châu ban đầu hơi lo và run, lòng thánh thót đánh mấy con bò
cạp theo nhịp điệu boléro, nhưng ông nhạc sĩ gật gù say mê đệm nhạc, ca
sĩ yên tâm diễn tả trọn vẹn bài ca.
À, nảy giờ bút tôi lan man mênh mang tả oán từ bài "Rất Huế" của nhac sĩ
Võ Tả Hân chạy dài xuống Trần Trịnh. Thôi hãy trở lại với chủ đề Vợ Huế
nhé... Báo online, báo net bảo có 6 lý do đó đã đủ thuyết phục để bạn
chọn một cô gái Huế làm vợ chưa? Tính cách của con gái Huế còn là một
"kho tàng bí ẩn" mà bạn ta hãy chính là người đi tìm hiểu chính đề đi
nhé. Bài viết "6 lý do nên lấy gái Huế làm vợ", hình như tác giả tính
luôn bà Hồng Tước vào bài rồi, một nhân sĩ cho rằng chị ấy là nữ sĩ đa
tài đa đoan lúc thì ca trước micro, lúc thì ôm guitar, lúc thì vung cọ
vẽ pinceau doré, lúc zoom camera, lúc bấm camcorder với tính tình vui vẻ
tài đức vẹn toàn, công dung ngôn hạnh đủ cả, well-qualified... Bài lên
phết búc, kiếp sau khối anh chàng cầm bouquet de roses, hay cadeau
d'amour săn chờ trước ngõ,...hihi...
Sài Gòn Có Em, Phạm Mạnh Đạt, Ý Lan:
http://lyric.tkaraoke.com/1640 4/sai_gon_co_em.html
O Huế, Thơ Việt Hải, Nhạc Hà Lan Phương:
Kết bài, vợ Huế là điều mơ ước kiếp sau của nhà thơ Trần Dzạ Lữ, cũng
như nhều nhiều người nghe tình khúc "Mình Ơi", nghe một lần, nhớ ngất
ngư bao đời của ca nhạc sĩ Diệu Hương, rồi chút gì đó chất Huế thăng hoa
vào dòng huyết quản, tôi cám ơn thi si Trần Dzạ Lữ, tôi cám ơn anh hai
tôi, cùng những người chị dâu Huế hụt của ngày xa xưa, anh Dũng tôi của
Ngự tửu cung đình, tôi cám ơn cô em "Rất Huế" Diệu Hương, đa tài, đa
cảm, với nét đoan trang, thùy mi. Tôi cám ơn quý anh Võ Tá Hân, khoa hoc
gia Nguyễn Đức Hạt, Ðinh Trường Hân, Tam Giang Hoàng Ðình Báu, Hoàng
Vinh, Dương Viết Điền, quý chị Như Hảo, Tam Thanh, Hoàng Sa Trần Văn
Thuần, Lê Thúy Vinh, extension đến mes amis Thụy Trinh, Tú Minh, ThụyVy,
Thanh Thanh, Mỹ Dung, Thùy Châu, Thái Hà, Lâm Dung, Ngọc Mai, Ngọc
Quỳnh,Tú Lan,..., Hồng Vũ Lan Nhi, Cao Mỵ Nhân, những thi nhân đã một
thời trọ Huế thuở di cư 54, thầy Thiện Đức tánh tốt, hiếu hạnh con nhà
tu, như hương hoa chùa Chùa Từ Hiếu cách Huế không bao xa về hướng tây
nam. Đối với những thân hữu tôi ghi tên trong bài này như những người
tượng trưng cho nét ₫ẹp của Huế trong ý nghĩa nào đó, nét đẹp trầm mặc,
nét đẹp cổ kính để đêm đêm ta đốt đèn trời kiếp sau xin nhớ làm người
Huế Thương nhé!
Sau hết, gởi text đến bà nhà tôi để xin một next blinddate hẹn trước trường Đồng Khánh hay gần cầu Tràng Tiền vào mùa hè hoa phượng nở ở kiếp sau em nhé...
All the best of luck,
Trần Việt Hải Los Angeles.
Phần phụ : O Huế, Vợ Huế và Rất Huế:
O Huế :
http://www.ninh-hoa.com/VietHa i-OHueVaGiongHue.htm
Rất Huế - Bảo Yến, Võ Tá Hân:
http://nhac.vn/rat-hue-bao-yen -sopY3Dn
Mình Ơi!!- Diệu Hương:
Ca nhạc sĩ Diệu Hương
http://lyric.tkaraoke.com/mp3- 158510/minh_oi_dieu_huong.html
Lời bài hát: Mình ơi (NS. Diệu Hương)
Ðôi chim là chim ríu rít trên cành
Em yêu là yêu tiếng gọi của Mình
là Mình, Mình ơi
Ðêm qua thức giấc bùi ngùi
Nhìn quanh là em không thấy mặt người là người mình thương
Từ khi, từ khi là Mình bỏ em buồn
Ðôi chim lơ láo, quay cuồng là cuồng biếng ăn
Co ro, co ro tìm một chỗ em nằm
Phòng không, phòng không là không chiếu lạnh
Nhện sầu là sầu giăng ngang
Mình là Mình, Mình ơi
Mình đi là đi đi mãi quên lời
Lời xưa mà ta ước hẹn
Một đời là một đời sắt son
Cây xanh là xanh lá vẫn tươi màu
Riêng em là em héo tàn
Nhạt nhoà là nhoà tình xuân
Ðôi chim gẫy cánh giữa đường
Từ nay là chăn gối ngậm ngùi là ngùi tiếc thương
Hò là hò ơi ới hò
Mình đi mô mà mình đi miết rứa không về
Rứa để em chứ rứa để em chẳng có ai nằm
rứa em chẳng có ai nằm kề một bên
Mình là Mình, Mình ơi
Mình đi là đi đi mãi quên lời
Lời xưa mà ta ước hẹn
Một đời là một đời sắt son
Cây xanh là xanh lá vẫn tươi màu
Riêng em là em héo tàn
Nhạt nhoà là nhoà tình xuân
Ðôi chim gẫy cánh giữa đường
Từ nay là em thôi hết được gọi Mình là Mình, Mình ơi...
Trần Việt Hải, 23 tháng 2, 2017.
Égayez votre journée
HUY PHƯƠNG * HOÀNG TỬ BẢO ÂN
Con trai út của vua Bảo Đại: Bảo Ân
Tác giả: Huy Phương biên soạn
KD: Những nhân vật lịch sử thăng trầm cùng lịch sử, thì hậu thế của họ dường như cũng vậy. Nhất là khi lịch sử đã sang trang…
Cảm ơn tác giả Huy Phương và cảm ơn Bọ Lập nhìu nhìu về bài viết, cũng là tư liệu quý này
Ðó
là ông Nguyễn Phước Bảo Ân, con trai của bà Lê Phi Ánh, người vợ không
hôn thú của cựu hoàng trong thời gian ở Ðà Lạt. Bà Phi Ánh có hai người
con với cựu hoàng là bà Nguyễn Phúc Phương Minh sinh năm 1950 đã qua đời
tại Mỹ cách đây vài năm và ông Bảo Ân, sinh năm 1951, đang sống tại thủ
phủ tỵ nạn, Westminster.
Chúng
tôi không gọi ông Bảo Ân bằng hoàng tử như trong văn bản triều đình mà
gọi bằng “Mệ” theo lối xưng hô trong hoàng tộc: Con gái, con trai của
vua được gọi bằng Mệ, hàng cháu là “Mụ” chứ không phải ai là Tôn Thất,
Bửu, Vĩnh… đều được gọi bằng Mệ như nhiều người đã lầm tưởng (1).
Ðiều
đặc biệt không phải vì ông là một hoàng tử lưu lạc, mà vì chính ông là
người con nối dõi nhà Nguyễn. Cựu hoàng có tất cả 5 người con trai: Con
Hoàng Hậu Nam Phương là Bảo Long không có vợ chính thức, Bảo Thăng không
có con; con của Thứ Phi Mộng Ðiệp là Bảo Hoàng chết khi mới 1 tuổi, Bảo
Sơn mất khi ông 30 tuổi không có con.
Bảo
Ân có hai con, gái là Nguyễn Phước Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là
Nguyễn Phước Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phước Quý Khang là
cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại và chắt của ngài là một cặp trai
song sinh có tên là Nguyễn Phước Ðịnh Lai, Nguyễn Phước Ðịnh Luân ra đời
năm 2012.
“Mệ”
Bảo Ân sinh năm 1951 tại Ðà Lạt. Năm 1953, khi cựu hoàng sang Pháp, bà
Phi Ánh đem hai con về sinh sống trong một biệt thự trên đường Phùng
Khắc Khoan tại Sài Gòn. Ông theo học trường Saint Paul rồi Taberd.
Ngày
4 tháng 10 năm 1955, Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm lập ủy ban trưng cầu dân ý
truất phế Quốc Trưởng Bảo Ðại, và trở thành quốc trưởng. Theo lời kể
của ông Bảo Ân, sau ngày đó, nhiều biệt thự ở Sài Gòn, Ðà Lạt và Pháp
của bà Phi Ánh đều bị tịch thu, bà và người nhà được lệnh ra khỏi nhà
trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nhiều người đã đến đục tường ngôi nhà vì
nghi có của cải cải cất giấu. Tài sản này là của tư hữu của bà Phi Ánh,
vì chúng ta cũng biết bà Phi Ánh là em vợ của Thủ Hiến Trung Phần Phan
Văn Giáo, sinh ra trong một gia đình giàu có, trong khi Cựu Hoàng Bảo
Ðại rất nghèo, trong thời gian sống rất khó khăn ở Pháp, phải nhờ sự yểm
trợ của thân mẫu là bà Từ Cung. Ðức Từ Cung đã phải bán nhiều cổ vật
của Vua Khải Ðịnh để lấy tiền gửi sang cho cựu hoàng.
Sau
ngày cựu hoàng bị truất phế, bà con, ngay cả bên gia đình của bà Phi
Ánh cũng không ai muốn chứa chấp mẹ con bà, ba mẹ con phải ở nhà thuê,
rày đây mai đó.
Trong hoàn cảnh này, bà Phi Ánh đành phải bước thêm bước nữa.
Khi nghe bà Phi Ánh đi lấy chồng, theo đề nghị của nhiều người thân thuộc trong Hoàng Tộc, bà Từ Cung đem Bảo Ân về Huế ăn học.
Chúng
ta cũng biết thêm rằng, ngày 25 tháng 8 năm 1945, khi thoái vị làm dân,
Cựu Hoàng Bảo Ðại đã giao tất cả cung điện như là tài sản của quốc gia,
trừ Cung An Ðịnh tại làng An Cựu, nơi bà Từ Cung sinh sống, là tài sản
riêng, do lương bổng của Vua Khải Ðịnh xây dựng nên. Sau đó, chính “công
dân” Vĩnh Thụy, bà Nam Phương và các con đã về ở đó một thời gian,
trước gia đình tan rã, mỗi người một phương.
Cũng
theo lời ông Bảo Ân, sau khi truất phế Bảo Ðại, Cung An Ðịnh bị chính
quyền tịch thu, bà Từ Cung trong lúc đó đang đau yếu phải dọn ra một
ngôi nhà nhỏ trong khuôn viên của cung. Tuy vậy trong cuốn hồi ký của
Vua Bảo Ðại, ông không hề có một lời trách móc oán hận về chuyện bị đối
xử tệ bạc này.
Tại
Huế, ông Bảo Ân theo học tại trường Thiên Hựu (Providence) do các linh
mục quản nhiệm. Ông tâm sự rằng, tuy sống trong một gia đình Phật Giáo
thuần thành, ông lại phải theo học từ nhỏ đến lớn tại các trường nhà
dòng, nên ông còn thông thuộc kinh Thiên Chúa Giáo hơn một người theo
đạo Chúa khác.
Bà Phi Ánh thời xuân sắc. (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Sau
thời gian ở Huế, Bảo Ân trở lên Ðà Lạt rồi về Sài Gòn. Tới tuổi quân
dịch, năm 1970, chỉ mới có bằng trung học, ông vào quân trường Quang
Trung, rồi phục vụ tại Trung Tâm 3-Tuyển Mộ Nhập Ngũ Sài Gòn. Không hiểu
vì lý do gì, năm 1972, ông Bảo Ân bị thuyên chuyển ra SÐ3 tại Quảng
Trị, nhưng khi ra đến nơi, sư đoàn đã tan hàng nên ông được trở về đơn
vị gốc.
Cố
gắng đến trường, và cuối cùng, trước khi Sài Gòn thất thủ, ông Bảo Ân
là sinh viên năm thứ hai phân khoa Thương Mại tại Ðại Học Vạn Hạnh, Sài
Gòn.
Sau
năm 1975, bà Phi Ánh sống trong cô đơn tại Sài Gòn và qua đời vào năm
1984, ở tuổi 62. Cô Phương Minh, chị ruột của ông Bảo Ân, lấy chồng và
lập nghiệp ở Pháp, ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm thân
mẫu và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và
qua đời vào năm 2012. Phần ông Bảo Ân, lúc đó đã có gia đình nên phải
sống dưới chế độ cộng sản thêm nhiều năm nữa, cho đến 1992 mới được gia
đình bên vợ bảo lãnh sang Mỹ.
Hai
nhân vật cuối cùng của giòng Vua Bảo Ðại: Nguyễn Phước Ðịnh Lai và Ðịnh
Luân (cháu nội của Bảo Ân). (Hình: Tài liệu của ông Bảo Ân)
Cựu Hoàng Bảo Ðại có gồm cả vợ và tình nhân là 8 người với 13 người con (tài liệu đã được ông Bảo Ân hiệu đính):
Vợ:
1. Nam Phương Hoàng Hậu. Có hôn thú, 5 con.
2. Bùi Mộng Ðiệp. Không hôn thú, 3 con.
3. Lý Lệ Hà. Không hôn thú, không con.
4. Hoàng Tiểu Lan. Không hôn thú, 1 con gái.
5. Lê Thị Phi Ánh. Không hôn thú, 2 con.
6. Vicky (Pháp). Không hôn thú, 1 con gái.
7. Clément. Không hôn thú.
8. Monique Marie Eugene Baudot. Có hôn thú, không con.
Con:
* Với Nam Phương Hoàng Hậu:
1. Thái Tử Nguyễn Phúc Bảo Long (4-1-1936/28-7-2007)
2. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Mai (1-8-1937).
3. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Liên (3-11-1938).
4. Công Chúa Nguyễn Phúc Phương Dung (5-2-1942).
5. Hoàng Tử Nguyễn Phúc Bảo Thăng (9-12-1943).
(Bốn người con còn lại của Bà Nam Phương hiện sống ở Pháp.)
*Với Thứ Phi Mộng Ðiệp, hai người con đầu hiện ở Pháp:
1. Nguyễn Phúc Phương Thảo (1946).
2. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng (1954-1955).
3. Nguyễn Phúc Bảo Sơn (1957-1987), tử nạn tại Nhật.
*Với Hoàng Tiểu Lan:
1. Nguyễn Phúc Phương Anh, hiện sống ở Hawaii.
* Với Lê Thị Phi Ánh:
1. Nguyễn Phúc Phương Minh (1950-2012).
2. Nguyễn Phúc Bảo Ân (1951).
* Với bà Vicky
1. Nguyễn Phúc Phương Từ (Pháp).
“Họa vô đơn chí!”
Bảo Ân đã trao cho chúng tôi những trang nhật ký viết về cuộc sống của ông sau ngày 30 Tháng Tư 1975:
Ngày
30 Tháng Tư, nóng lòng vì không có tin tức gì của Ðức Bà Từ Cung ở Huế,
tôi ở lại Sài Gòn để ngóng tin nên đã bỏ lỡ chuyến bay ra Hạm Ðội 7.
Sau vài tuần đi ‘học tập cải tạo’ trở về, Ủy Ban Quân Quản đến nhà tôi ở
213 Công Lý Q.1 yêu cầu chị Phương Minh và tôi phải dọn ra trong vòng
24 tiếng đồng hồ vì họ nói nhà này của tướng cảnh sát ‘ngụy’ Nguyễn Ngọc
Loan.
Bức hình giống phụ hoàng nhất của “Mệ Bửu Ân”. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Tôi
không biết Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan có ở đây không? Thật ra biệt
thự này ngày xưa là của Ðức Bà Từ Cung (mẹ Vua Bảo Ðại), ngài mua để khi
vào Sài Gòn có nơi trú ngụ. Năm 1957 sau khi truất phế Vua Bảo Ðại,
chánh quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã tịch thu và sau này được Quốc Hội Ðệ Nhị
Cộng Hòa với sự vận động tích cực của Trung Tướng TNS. Tôn Thất Ðính,
chính quyền đã giao trả lại cho Ðức Bà Từ Cung và ngài ra lệnh lấy căn
nhà trước lập bàn thờ Ðức Gia Long và văn phòng liên lạc bà con Nguyễn
Phước Tộc, còn căn phía sau thì cho chị em chúng tôi ở.
Giấy
tờ nhà đất chưa hoàn tất thì biến cố 1975 xảy ra nên không có cái gì để
chứng minh là nhà này của gia đình chúng tôi. Vậy là hai chị em mau mau
thu xếp đồ đạc, những gì có thể mang được gì thì mang, còn những gì
nặng nề không thể mang được thì bỏ lại như tủ lạnh, bàn ghế tủ giường và
nhiều thứ khác. Chị em chúng tôi về nhà Me chúng tôi ở nhờ.
Vào
một buổi sáng thức dậy xuống nhà lấy vài vật dụng để xài, tôi không
thấy cái vali quần áo mà tôi đã đem ra được khỏi nhà 213 Công Lý để về
đây, đó là cái vali độc nhất của tôi còn lại, nay không cánh mà bay.
Cuối cùng tôi tìm thấy một cái thư của chị giúp việc cho Me tôi để lại,
đại ý trong thư chị ta viết, trong hoàn cảnh này, chị cần một số vốn để
buôn bán nuôi con nên đã lấy cái vali trốn đi, và mong tôi tha thứ cho
chị. Thế là tay trắng hoàn trắng tay, đành phải đi mua thêm quần áo để
mặc.
Sống
ở nhà Me tôi cho đến năm 1978 thì Me tôi bị quy vào diện tư sản, bị
cưỡng chế ra khỏi nhà và buộc phải đi kinh tế mới trên cao nguyên. Vì
không thể sống ở nơi rừng thiêng nước độc nên cả nhà đều bỏ trốn về Sài
Gòn, mỗi người đi mỗi nơi, trốn chui trốn nhủi, không hộ khẩu, không
chứng minh nhân dân, sống như những kẻ bất hợp pháp. Me và chị Phương
Minh thì sống lén lút trong nhà dì Phi Hoa (vợ ông cựu Thủ Hiến Phan Văn
Giáo), còn tôi thì ở nhờ nhà mẹ vợ, mỗi tháng đều phải chi tiền cho
công an khu vực nhưng vẫn lo sợ bị bắt, nên ban ngày thì ngủ còn ban đêm
thì mở mắt trao tráo để canh chừng công an gõ cửa xét hộ khẩu thì lo
leo sang nhà bên cạnh trốn cho mau.
Me
tôi rất lo lắng sợ tôi bị bắt, bà nói “Me và chị Phương Minh là đàn bà
con gái, chắc không ai bắt đâu, còn con là con trai, mà là con Vua Bảo
Ðại nữa, ở đây nguy hiểm lắm.” (Lúc đó chánh quyền đang tuyên truyền nói
xấu nhà Nguyễn.) Me tôi ép tôi phải ra đi, bà gom góp, vay mượn cho
chúng tôi vàng để tìm đường vượt biên.
Tôi
đi vượt biên tổng cộng ba lần, cả ba lần đều bị lừa, hai lần vợ chồng
con cái cùng đi, sau cùng hết tiền, Me tôi chỉ còn đủ cho một mình tôi
đi thôi, nhưng cũng bị lừa luôn, tuy nhiên cũng còn may mắn vì chỉ bị
mất vàng chứ không bị bắt vào tù.
Hết
tiền, bà và chị Phương Minh đem nhẫn kim cương đi bán thì bị cướp lấy
mất, chúng còn xô chị Minh té trầy cả mình mẩy. Tôi không dám làm phiền
Me tôi nữa, vợ chồng tôi bàn với nhau coi ra chợ trời xem thử có thể
buôn bán gì được không? Thế là tôi bán luôn hai chiếc nhẫn vàng, đó là
quà kỷ niệm của Me tôi tặng khi tôi tốt nghiệp trung học và một chiếc
khi tôi vào đại học.
Gian nan chốn chợ Trời
Vợ
chồng tôi bắt đầu ra chợ trời kiếm sống bằng cách mua đi bán lại, các
bạn hàng ngoài chợ trời thấy hai khuôn mặt ngơ ngơ ngác ngác, họ biết
hai con nai này mới ra giàn, nên họ có những món hàng mua cả năm rồi mà
không bán được, dân Chợ Trời gọi là “hàng ngậm,” họ giả dạng cho người
khác đem đến bán cho chúng tôi, ham rẻ chúng tôi mua vô và sau đó có
những món hàng chúng tôi “ngậm” cho đến ngày đi Mỹ vẫn còn trong nhà.
Gia đình “Mệ” Bảo Ân trong thời gian lăn lóc Chợ Trời. (Hình: Tư liệu của gia đình)
Thấy
coi bộ bán Chợ Trời không khá, một dịp đi thăm người bà con ở Q.11,
được biết người bà con này có phần hùn trong một xưởng sản xuất nước
tương, vợ tôi mới bàn với tôi đổi cách làm bằng nghề đi bỏ mối ở chợ Bến
Thành. Thế là vợ chồng tôi lại chuyển qua nghề bỏ mối nước tương, chúng
tôi mua nước tương rồi thuê xe ba bánh chở từ Phú Thọ Hòa đến chợ Bến
Thành.
Tôi
đứng ở ngoài giữ hàng, còn vợ tôi thì đẩy hàng vào chợ giao cho khách
hàng, cô ấy không cho tôi vô chợ vì sợ gặp người quen. Bỏ mối nước tương
một thời gian, chính quyền không cho xe ba bánh lưu thông những con
đường chính trong trung tâm thành phố, vả lại tôi thấy vợ tôi khiêng
nặng và cực nhọc quá mà chẳng kiếm được bao nhiêu nên vợ chồng tôi bàn
nhau đổi nghề một lần nữa.
Số
là khi đi lấy nước tương bỏ mối, chúng tôi thấy trong khu vực này có
vài xưởng làm dép cao su, bỏ mối dép cao su nhẹ nhàng hơn, thế là vợ
chồng tôi đến nói chuyện và xin mua về để bán. Lúc đầu họ bảo chúng tôi
phải đợi đến khi nào họ giao cho khách hàng cũ của họ xong, nếu còn dư
họ sẽ bán cho chúng tôi. Cả tháng trời, mỗi ngày chúng tôi phải chờ đợi
3-4 tiếng đồng hồ mà chỉ lấy được vài lố (12 đôi) dép, rồi chúng tôi đem
những lố dép đó giao lại cho các tiệm bán dép ở chợ Ðại Quang Minh, Chợ
lớn.
Sau
một thời gian quen rồi, chủ hãng giao cho chúng tôi nhiều hơn và bạn
hàng ở chợ, họ cũng đặt hàng nhiều hơn. Có hôm chúng tôi bán được hơn
năm mươi lố dép. Những người lấy mối dép như chúng tôi thấy chúng tôi
được chủ hãng giao cho một số lớn, họ ganh tỵ, kiếm chuyện gây sự và dọa
đánh chúng tôi, bọn họ thì đông, còn chúng tôi chỉ có hai vợ chồng. Bán
dép thì nhẹ nhàng hơn nước tương, cũng kiếm tiền khá hơn nhưng bây giờ
chúng tôi cảm thấy không còn an toàn nữa, mỗi lần đi lấy hàng phải nhìn
trước ngó sau xem có ai phục kích mình không?
Tôi
thì lo cho vợ tôi, nhưng ngược lại nàng nói nàng không sợ mà chỉ sợ cho
tôi. Cô ấy nói nếu tôi có mệnh hệ nào thì Me tôi sẽ oán trách cô ấy, vì
ngay cả chuyện đi bán Chợ Trời, bỏ mối nước tương hay dép chúng tôi đều
giấu mẹ tôi. Nghĩ mình đang sống bất hợp pháp, không có một tờ giấy lận
lưng, nay đi gây chuyện với người ta, công an mà bắt được thì đi tù là
cái chắc, nên vẫn trông có dịp kiếm cách khác làm ăn.
Trong
một dịp tình cờ đi ngang qua đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, tôi gặp lại
anh bạn thương phế binh tên Quân, con Ðại Úy Hải, trưởng ban an ninh
trong Quân Trấn, mà chúng tôi quen nhau trước 1975. Nhà anh ở trong Quân
Trấn, Sài Gòn-Chợ Lớn, nơi trước kia tôi làm việc. Hiện nay, anh đang
mua bán đĩa nhạc trên lề đường Nguyễn Thái Bình. Kỳ này tôi nói vợ tôi ở
nhà chăm sóc con cái, để tôi ra gặp và hùn vốn với Quân.
Sáng
chúng tôi đứng ở Nguyễn Thái Bình để thu mua đĩa, chúng tôi chỉ mua
nhạc hòa tấu thôi, buổi chiều thì chúng tôi đi xe bus đến các quán cafe
nhạc ở Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Ðịnh để bán. Thời gian này, nhà nước chỉ cho
phép các quán cafe mở nhạc không lời mà thôi, nên các đĩa nhạc hòa tấu
càng ngày càng khan hiếm khó mua. Chúng tôi lại xoay qua buôn bán đủ
thứ, cái gì có lời là chúng tôi mua vào.
“Công Chúa” Phương Minh và “Hoàng Tử” Bảo Ân bên cạnh mẹ trong thời gian thơ ấu ở Ðà Lạt. (Hình: Gia đình cung cấp)
Tôi
có một kỷ niệm không bao giờ quên được là, có một lần con trai tôi là
Quý Khang đòi theo cha ra chợ Trời chơi, lúc đó Quý Khang mới ba tuổi,
đến trưa Quý Khang buồn ngủ, tôi đang bận coi hàng nên không thể chở
Khang về, nên trải tạm tờ báo ra lề đường cạnh chỗ tôi ngồi bán hàng để
cháu nằm ngủ. Nhưng xui xẻo làm sao, đúng lúc đó công an và quản lý thị
trường đem xe đến hốt những người chiếm lòng lề đường để buôn bán,
thương binh Quân thì tàn tật không chạy nhanh được nên tôi phải phụ Quân
gom hàng chạy cho nhanh, nếu họ bắt được thì hàng mất, còn tôi chắc
cuộc sống của tôi cũng bi đát luôn, quýnh quáng quá lo chạy, nên bỏ quên
thằng con đang nằm ngủ ngon lành trên lề đường. Lúc đó đường Nguyễn
Thái Bình vắng tanh không còn một bóng người, chỉ còn Quý Khang đang nằm
ngủ trên tờ báo, đúng như thành ngữ “đem con bỏ chợ!”
Quân
theo gia đình đi Mỹ theo diện H.O. trước chúng tôi. Sau này qua Mỹ gặp
lại anh ở Garden Grove, Quân nhỏ tuổi hơn tôi, chưa lập gia đình vẫn ở
với cha mẹ, anh bị tàn tật nên cũng khó lấy vợ, còn gia đình tôi ở
Westminster, lâu lâu Quân đến nhà tôi ăn cơm, ngồi ôn lại những ngày
tháng vui buồn chợ Trời. Tiếc là ngày nay Quân đã ra người thiên cổ.
Gian nan những chuyến đi
Khoảng
cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin
cho toàn gia đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi
Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận
cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp
Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương
Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó
khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo
trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể
chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện
ra đi không thành.
Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004)
Năm
1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi
giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện
ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời
năm 1984. Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi
định cư ở Mỹ.
Mãi
đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang
Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như
bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày,
ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng
Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con
trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý
Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty
ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia
đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005
gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu
tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu,
nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người
bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình
trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt
Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này
suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi
ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho
người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ
đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi
đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi
một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này
chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc
tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá
cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc.
Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?
Ông
Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp
cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không
ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”
Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha
Nghĩa
trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu
thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài
tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,)
họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel
Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)…
Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có
thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia
giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến
phần đất này cho ngài.
Về
việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có
người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh,
và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có
quyền xây mộ cho ngài. Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng
Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique
xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các
công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì
không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao
lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả… Nhiều
người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà
Monique cản trở.
Ông
Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những
gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm
plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến
việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người
Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông
này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm
đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để
có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà
Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba
năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng
làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.
Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã
gặp
bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện
bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp
lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây
quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn
phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công
ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông
đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài
cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng
góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại
ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của
mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu
khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà
không thực hiện được. Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông
Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi
biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất
cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí
cho những chuyến đi sang Pháp.
Năm
2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để
xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu
hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải
tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho
xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông
Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.
Khi
được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại
Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique
nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo
Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép
lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý
do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.
Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”
Việc
ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như
vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể
thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi
chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.
Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.
Ngoài
các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết
định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc
trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của
nó. Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem
lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2
Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng
Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam.
Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ
gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.
Con
trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành
ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của
gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt
tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.
Ngày
khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn
người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại,
ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo
Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai
trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người
không ai muốn.
Ghi chú:
(*)
Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim
khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì
đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng
khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là
vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên
ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.
Trong
bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng
Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu,
Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù
đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”
Những đoạn đời gian truân
Ông
Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà
Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người
mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.
“Cuộc
đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó
thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con
chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo
từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói
với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang
lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như
chúng tôi.
Một
thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho
chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng
tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ
chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm
không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy
khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê.
Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ
cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”
Trong
thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ
bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo
Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam.
Ông
Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh
ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân
và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện
này, cũng đã rất thông cảm.
Năm
1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm
1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà
Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là
ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để
đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi
theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Mười hai năm
sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang
bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.
Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại
Nhiều
người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế
trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít
ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc
Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn
Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải
dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu
hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài
sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ
trương, chính sách của cấp trên?
?
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.
Ông
Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm
qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn
hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định
số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định
những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và
16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch
thu” của:
– Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
–
Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng
Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại. – Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp,
vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
– Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
–
Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường
được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
– Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài
sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt
điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ
trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần
trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi…
Chúng
ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung,
diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua
Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài
sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn
qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn
viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.
Sống lưu vong, chết nghèo khó
Theo
lời kể của thứ phi Mộng Ðiệp với ông Bảo Ân, cuối năm 1955, sau khi bị
truất phế, bề ngoài không ai biết cựu hoàng nghĩ gì, nhưng theo bà, ông
đã có một thời gian bị trầm uất, mất ngủ và phải dùng thuốc an thần. Ông
nói là ông rất lo cho Ðức Từ Cung. Sau này nghe tin Ðức Từ Cung bị đuổi
ra khỏi Cung An Ðịnh, cựu Hoàng Bảo Ðại lại càng lo hơn, tối không ngủ
được. Cựu hoàng hút thuốc lá liên miên, và thường bỏ nhà đi “bụi đời”
(nguyên văn), không biết đi đâu, chỉ những lúc đau ốm hay cạn tiền mới
trở về với bà Mộng Ðiệp.
Cũng
theo lời tường thuật của ông Bảo Ân: “Sau cú ‘sốc’ đó cựu hoàng không
muốn tin ai nữa, không muốn tiếp xúc với ai, ông bảo bà Mộng Ðiệp đưa
tiền rồi đeo cái túi xách lên vai đi 3-4 ngày, đôi khi đi cả tuần đến
khi đau ốm hoặc hết tiền mới trở về. Khi hết bệnh ông lại đi tiếp, hỏi
ông đi đâu thì ông nói đi loanh quanh đây thôi. Có khi bà Mộng Ðiệp phải
bảo Hoàng Tử Bảo Sơn và anh Jean Bui (con riêng của bà) theo dõi cựu
hoàng, thì ông giận bà suốt hai tuần. Có lần cựu hoàng lên cơn sốt rét
nằm trên băng ghế, dưới hầm metro, cảnh sát đem ông về đồn và gọi điện
thoại cho Hoàng Tử Bảo Long đến bảo lãnh ông về, rồi khi hết bệnh ông
lại đi nữa.”
Thứ
Phi Mộng Ðiệp nói với Bảo Ân: “Nhà dì giống như cái trạm, hết tiền hay
đau bệnh thì ngài mới về. Vì vậy khi Hoàng Hậu Nam Phương qua đời năm
1963, ở Chabrignac, không ai biết ngài ở đâu để thông báo. Ðiều này làm
ngài rất buồn và cứ băn khoăn trách móc dì mãi!”
Nghèo khổ và cô đơn
Năm
1967, Công Chúa Phương Minh sang Pháp theo sự sắp xếp hôn nhân của gia
đình nhưng không thành, thấy hoàn cảnh của vua cha cô đơn và tội nghiệp,
nên cô tình nguyện ở lại để săn sóc cha.
Lúc
này cựu hoàng đã dùng thuốc ngủ rất nặng, có lần uống thuốc xong, nằm
vắt tay lên trán, vừa suy nghĩ vừa hút thuốc. Khi thuốc ngấm, ông ngủ
hồi nào không biết, điếu thuốc trên tay rơi xuống áo cháy phỏng cả ngực,
nên lần sau mỗi lần ông dùng thuốc ngủ, cô Phương Minh đứng đó canh
chừng đến khi ông ngủ rồi mới dám đi làm công việc. Tuy ở Paris, Phương
Minh cũng chỉ gặp Hoàng Tử Bảo Long một lần và chưa hề giáp mặt Bảo
Thăng và các công chúa Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung. Quốc
Trưởng Bảo Ðại có nhiều vợ và nhiều dòng con, khi Nam Phương Hoàng Hậu
qua đời, ông cũng không hay biết, điều đó đã tạo thêm sứt mẻ trong gia
đình.
Từ trái sang phải: Bà Ưng Thi, cựu Hoàng Bảo Ðại, bà Monique Baudot, ông Ưng Thi (Paris 1995). (Hình: Tài liệu của gia đình ông Bảo Ân)
Ðời
sống ở Paris cũng khó khăn, vất vả, cô con gái của cựu hoàng, phải đi
làm tiếp viên trong một nhà hàng Trung Hoa để có phương tiện để sống gần
cha và chính cô, cũng phải nhận sự trợ giúp từ mẹ ở Sài Gòn. Trong thời
gian này, hầu hết sự chi dùng của ngài là do tiền của Ðức Bà Từ Cung
gởi qua. Mặc dầu các con cũng thường hay lui tới thăm ngài, nhưng ngài
không bao giờ đề cập đến vấn đề tiền bạc, và cũng không ai nghĩ đến
chuyện giúp đỡ ngài. Theo lời cô Phương Minh kể lại, khi có tiền thì hai
cha con rủ nhau đi nhà hàng, khi hết tiền thì nhiều ngày chỉ có một bữa
ăn.
Nhiều khi cạn tiền, túng thế, cựu hoàng phải bảo Phương Minh chạy đi “vay mượn” những người quen biết.
Cho
mãi đến năm 1971, Phương Minh hay tin mẹ đau nặng, cô trở về Sài Gòn và
bị kẹt lại sau khi cộng sản chiếm miền Nam. Cũng năm này, Bảo Ðại kết
hôn với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém hơn 30 tuổi (Monique Baudot
sinh năm 1946.) Bảo Ðại vào đạo Thiên Chúa, có tên thánh là Jean-Robert.
Ở
Paris, cựu Hoàng Bảo Ðại không có nổi một căn nhà, nơi mà cựu hoàng ở
với bà Monique trong những ngày cuối đời là do một người Pháp yêu mến để
cho cựu hoàng ở không lấy tiền. Có lần, theo lời kể của bà Mộng Ðiệp,
bà Monique đã xúi nhà vua kiện ra tòa án để lấy các tài sản của bà thứ
phi, nhưng nhà vua đã không bằng lòng. Cuộc hôn nhân cuối cùng với bà
Monique đã đưa đến chia rẽ trong gia đình cựu hoàng, từ đó không ai đến
thăm viếng ông nữa và gần như vị vua cuối cùng của triều Nguyễn sống
trong cảnh nghèo khó và cô đơn. Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng Tộc
ở hải ngoại, Bảo Ðại lần đầu tiên sang thăm Mỹ với tư cách cá nhân,
cùng đi với cựu hoàng có bà Monique.
Sau
khi cựu Hoàng Bảo Ðại kết hôn với bà Monique thì các con đều xa lánh
không lui tới, thăm viếng. Ông mất ngày 31 Tháng Bảy 1997 tại Quân Y
Viện Val-de-Grâce, Paris, hưởng thọ 85 tuổi. Ðám tang Bảo Ðại được tổ
chức một cách lặng lẽ vào lúc 11 giờ ngày 6 Tháng Tám năm 1997 tại nhà
thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16 Paris và linh
cữu được mai táng tại nghĩa địa Passy trên đồi Trocadero, không hề thấy
sự hiện diện của thân thích gia đình, trừ bà Monique, người vợ cuối
cùng ở bên cạnh, với cờ tam tài của Pháp Quốc và Hội Cựu Quân Nhân Pháp.
‘Hoàng Tử’ Bảo Ân xin hai chữ ‘công bình’
Ðể
kết thúc 5 kỳ báo viết về cựu Hoàng Bảo Ðại và tấm lòng của đứa con
trai lưu lạc Bảo Ân, không có gì hơn là mời bạn đọc hiểu nỗi lòng của
ông, được ghi lại trong bài diễn văn thay mặt gia đình, dự định đọc
trong lễ khánh thành lăng mộ cựu Hoàng Bảo Ðại năm 2006 không thành.
Hoàng Tử Bảo Ân đã biện bạch
Cuối đời của Hoàng hậu NAM PHƯƠNG
Tháng ngày lưu vong của hoàng hậu Nam Phương: Khối tài sản đồ sộ, lâu đài, đồn điền nơi đất khách rốt cuộc có khiến bà hạnh phúc?
Là con gái của một trong 4 gia đình giàu có nhất miền Nam thế kỷ XX- đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào, trở thành hoàng hậu An Nam, khi dứt áo rời quê hương để lưu vong nơi đất khách, Nam Phương hoàng hậu vẫn có cuộc sống sung túc đề huề với những khối tài sản đồ sộ trên khắp nước Pháp và các lãnh địa Pháp như các lâu đài lớn ở Cannes, Limousin, Paris.. nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo… Sở hữu nhiều lâu đài, đồn điền như thế, nhưng rốt cuộc Nam Phương hoàng hậu tìm được hạnh phúc ở đâu trong những năm tháng cuối đời tha hương bên xứ người?
Bom đạn khói lửa, bà hoàng quyết định ra đi, rời khỏi 2 chữ “An Định”
Cung An Định (Ảnh: wikipedia)
Tháng 3/1946, ông cố vấn Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại, đã sang Hồng Kông cùng vũ nữ Lý Lệ Hà. Tháng 12/1946, tình hình chính t rị và quân sự giữa Việt và Pháp rất căng thẳng, chiến tranh tới gần. Cựu hoàng hậu Nam Phương một nách 5 con sống trong cung An Định trong khi mẹ chồng cũng đã tản cư, cảm thấy hoang mang và tuyệt vọng.
Ở lại Huế thì nay mai chiến sự nổ ra, khó tránh hòn tên mũi đạn, đi tản cư về nông thôn thì sợ các con mình quen nếp sống vương giả, không hòa nhập được.
Tính đi tính lại, người phụ nữ thông minh chọn giải pháp đưa các con vào nương nhờ nhà thờ dòng Chúa cứu thế, nơi thuộc quyền quản lý của các linh mục Canada, một nước trung lập, không ngả về Mỹ hay Pháp. Cuộc sống ở đây khá kham khổ so với sinh hoạt trước kia của họ, sáng sáng các hoàng tử, công chúa phải tự đi tìm nước rót vào ca để rửa mặt.
Súng bắt đầu nổ ở Huế vài tuần và bà Nam Phương rất lo vì tu viện có thể bị tấn công. Bản thân các linh mục trong nhà dòng cũng cảm thấy bà và các con nên sang Pháp tản cư.
Nam Phương một nách 5 con tản cư sang Pháp (Ảnh dẫn qua kienthuc.net)
Những tháng ngày tại lâu đài Thorenc ở Cannes
Lâu đài Thorenc tại Cannes uy nghi, đồ sộ, nơi cựu hoàng hậu sống những năm tháng đầu lưu vong (Ảnh: wikipedia.fr)
Những hồ nước, rừng cây nơi hoàng hậu Nam Phương thả bộ và chăm sóc cây cối (Ảnh: wikipedia.fr)
Mênh mông như cánh rừng (Ảnh: wikipedia.fr)
Thời gian đầu, mẹ con cựu hoàng hậu sống ở lâu đài Thorenc tại Cannes. Bà Nam Phương gửi các con vào trường trung học Couvent des Oiseaux, nơi bà từng học thời con gái.
Nam Phương hoàng hậu sành thời trang và có gu ăn mặc thanh lịch, tinh tế. Bà rất thích mua đồ của nhãn hiệu Christian Dior và Balmin, màu tím nhạt được bà ưa chuộng nhất.
Về gu nghệ thuật, bà treo tranh của của Renoir, Buffet trong nhà. Bà không thích tranh lập thể của Picasso vì tâm hồn bà không hợp với trường phái hội họa này cũng như siêu thực.
Bà cũng rất thích nuôi chó. Trong nhà bà có cả một đàn chó, và trong đó có một con thuộc giống Saint Bernard, loại chó to như con cọp, loại chó này để sử dụng tìm người mất tích trong rừng, trong khi đi trượt tuyết. Về thể thao bà có thể chơi bong bàn, quần vợt, và golf nhưng không giỏi lắm.
Âm hưởng chung trong cuộc sống của cựu hoàng hậu: cô đơn..
Nỗi buồn đã hằn sâu trong mắt Nam Phương hoàng hậu từ thời trẻ… (Ảnh tư liệu)
Bảo Đại thỉnh thoảng mới về Pháp, và đôi khi bà cũng cùng chồng tới casino xem ông đánh bạc. Những lần đó, nếu thắng bạc, ông vua mất ngôi sẽ tặng hết tiền cho vợ để mua sắm thời trang. Tuy nhiên, cái niềm vui ở bên chồng quá ít ỏi, nhất là từ sau năm 1955, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lật đổ, ông chán đời bỏ đi tứ xứ, các con thì đã lớn, như chim bay đi…
Điền viên ở vùng quê Chabrignac: thú vui điền viên lánh xa nơi phù phiếm đô thành
Điền trang La Perche ở làng Chabrignac rộng 160 ha đã được hoàng hậu mua lại để sống cuộc đời ẩn cư…(wikipedia.fr)
Điền trang La Perche ở làng Chabrignac rộng 160 ha đã được hoàng hậu mua lại để sống cuộc đời ẩn cư…(wikipedia.fr)
Năm 1958, nhằm tránh mặt báo chí, dư luận và những người quen biết, bà Nam Phương đã rời bỏ cả Cannes xa hoa hay thành Paris hoa lệ và ồn ào.
Những cơ ngơi đồ sộ ở Neuilly, hàng tá căn nhà lớn ở Morocco, biệt thự trên đại lộ Opéra, Paris hay trang trại rộng lớn ở Congo đều không còn sức hấp dẫn để có thể níu giữ nổi bà.
Nam Phương Hoàng hậu đã rời xa Paris 500km về phía nam, về làng Chabrignac, hạt Correze tỉnh Limousin, mua lại điền trang La Perche rộng 160 ha của một quý tộc Pháp đã sa sút làm nơi sống nốt những năm tháng còn lại.
Điền trang đẹp như mơ có rừng bao quanh gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách… và một vườn hồng tuyệt đẹp. Lâu đài cách nhà dân khá xa, hàng xóm ít qua lại. Có lẽ bà hoàng xa xứ chọn nơi yên tĩnh này để nội tâm được bình ổn, sống kiểu nửa tu hành trong những năm cuối đời
Đó là tòa nhà cổ dài xây bằng đá kiểu kiến trúc thời Trung cổ, mái lợp ngói, lưng dựa vào sườn đồi và trông ra một vùng đồng cỏ, đầm hồ rộng ngút tầm mắt. Ảnh: wikipedia.fr)
Hạnh phúc thực sự ở nơi đâu?
Ngoài hoa lợi thu được từ cây trái trong điền trang, bà hoàng Nam Phương còn nuôi thêm khoảng 100 con bò sữa trên một trang trại lớn với 160 mẫu đất.
Tất cả những người con của bà đều sống với bà trong điền trang La Perche. Theo Daniel Grande Clemént, tác giả cuốn “Bảo Đại, hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam” thì
“dường như thời gian sống tại điền trang La Perche là những tháng năm bình yên và hạnh phúc nhất của Nam Phương Hoàng hậu”
Cho đến cuối đời, bà vẫn sống trong nhung lụa nhờ gia đình cự phú của mình. Bố mẹ hoàng hậu, ông bà Nguyễn Hữu Hào, đã mua cho con gái bao nhà đất, những mong của cải vật chất tiện nghi có thể khỏa lấp nỗi buồn riêng của con gái…
Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ với thú vui điền viên trong trang trại Charbrignac, bất động sản duy nhất bà giữ lại cho riêng mình, sau khi chia hết các tài sản khác cho các con.
Hàng ngày, bà dậy rất sớm, thường tự tay trang trí, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc cây cảnh. Vừa làm bà vừa khe khẽ hát. Khi có việc ra ngoài, bà thường tự tay lái chiếc xe hơi hiệu Dauphine, có thêm cô hầu gái hay người quản gia đi theo.
Hoàng hậu Nam Phương, Hoàng thái tử Bảo Long, các Công chúa Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và hoàng tử
Bảo Thăng khi mới sang Pháp. Những tháng ngày ở Chabrignac, vì bọn trẻ đều lớn cả và học tại Paris, bà hầu như chỉ có một mình với người làm trong nhà. (Ảnh tư liệu)
Bà nuôi trong điền trang 4 công nhân nông nghiệp, một số người hầu gái và một viên quản gia người Pháp. Tất cả người ăn kẻ ở trong nhà đều được bà đối xử thân tình, gần gũi. Trong các dịp lễ, Noel hay ngày đầu năm mới, bà đều không quên có quà tặng cho họ và gia đình.
“Bà Hoàng hậu đẹp vẫn ngự trong tim” (La belle impératrice demeure dans les coeurs). Đó là đầu đề một bài báo điện tử của Pháp (lepopulaire.fr)
Năm 1947 ấy, bà cùng các con cuối cùng đã ra đi và không có lần quay về Việt Nam nữa, mặc dù trong lòng bà cũng đã có lần muốn về lại chốn quê hương.
Hằng ngày, ngoài việc chăm sóc con cái, bà thường đọc sách báo hoặc chăm sóc hoa lá trong vườn, buổi tối thì chơi dương cầm cho các con nghe. Những ngày lễ, mấy mẹ con cùng ra phố xem phim hoặc mua sắm.
Tuy nhiên, trái ngược với ông chồng lúc nào cũng cần tiền để tiêu xài xa hoa, với bà Nam Phương, tiền không giúp mua được niềm vui.
Rũ bỏ lớp áo vàng son quyền quý, bà Nam Phương quay lại sống đúng nghĩa cuộc đời an lành, bình dị của một phụ nữ An Nam học thức.
Lucien Boudy – một cựu xã trưởng Chabrignac, cho biết Hoàng hậu Nam Phương
Lucien Boudy – một cựu xã trưởng Chabrignac hồ hởi kể về hoàng hậu xứ An Nam duyên dáng tốt bụng với dân làng…
Người quản gia người Pháp, luôn sát cánh bên hoàng hậu những ngày cuối đời (Ảnh tư liệu)
Đối với bà, người quản gia người Pháp có một vị trí rất đặc biệt. Thay cho vị trí của cựu hoàng, ông này luôn tháp tùng bà trong những chuyến làm khách, dự tiếp tân đối với các gia đình quyền quý ở trong vùng. Không ai có bằng chứng xác đáng nhưng dường như những người quen biết trong vùng đều cho rằng, ông quản gia này đã yêu Nam Phương Hoàng hậu.
Dân làng càng thương quý bà hơn khi biết Hoàng hậu đẹp, giàu sang, từng làm Đệ nhất phu nhân ở Việt Nam, nhưng đời sống tình cảm gia đình của bà những năm ở Chabrignac không vui lắm. Cựu hoàng Bảo Đại – chồng bà, ít khi đến thăm bà. Họ chỉ nhớ có một lần Cựu hoàng về Chabrignac vào tháng 1 năm 1962, nhân dịp Công chúa Phương Liên – con gái của ông bà, tổ chức lễ thành hôn với một người Pháp tên Bernard Soulain.
Hàng xóm công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi
Thế nhưng rất kỳ lạ, suốt 5 năm sống ở Chabrignac, bà vẫn không hề ghé thăm viếng lâu đài De La Nouche – nơi ở của Công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi ở, lấy một lần, dù hai điền trang nằm gần như cạnh nhau. Cả Công chúa Như Lý và Hoàng hậu Nam Phương đều có vẻ như không hề biết đến sự tồn tại của người kia trên cùng một vùng đất, dù trên quan hệ, Công chúa Như Lý là cô chồng của bà Nam Phương.
Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới
Có lẽ sự cô đơn và nỗi đau buồn cho cuộc đời tuy vàng son mà bất hạnh của mình khiến hoàng hậu lưu vong mắc bệnh tim.
Ngày 14/9/1963, vừa từ thị trấn Brive cách điền trang 30 km trở về, bà Nam Phương đã cảm thấy đau họng. Viên bác sĩ được mời đến đã khám qua loa và kết luận là bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài ngày là khỏi. Kỳ thực, bà bị chứng lao hạch tràng hạt, cơn đau tiếp tục hoành hành dữ dội. Trước khi viên bác sĩ thứ hai kịp đến nơi thì Nam Phương Hoàng hậu, 49 tuổi, đã qua đời vì nghẹt thở.
Một đám tang lặng lẽ không điếu văn
Bà mất vào ngày 15 tháng 9 năm 1963. Đám tang của bà rất lặng lẽ. Ngày đưa tang, ngoài hai Hoàng tử Bảo Long (1936), Bảo Thăng (1943) và ba Công chúa Phương Mai (1937), Phương Liên (1938) và Phương Dung (1942) đi bên cạnh quan tài của mẹ, không có mặt Bảo Đại và cũng không có một người bà con thân thuộc nào khác ngoài dân làng Chabrignac. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông Quận trưởng Brive la Gaillarde và ông xã trưởng Chabrignac.
Những mộ phần vua chúa Việt Nam nhỏ bé ở một nơi đất khách: vua Hàm Nghi cũng trở về đây
Mộ phần đơn sơ của Nam Phương hoàng hậu nơi đất khách quê người, đương thời lúc còn sống, bà cũng đã mong được trở về Đà Lạt để yên nghỉ cùng cha mẹ nhưng con cái bà không chịu
Mộ phần của bà được đặt trong phần mộ của dòng họ Bá tước De La Besse. Bà Bá tước De La Besse, tức Công chúa Như Lý cũng có mặt trong dòng người đưa tang của làng Chabrignac, với nỗi ân hận vì trước đó hai người đã không hề có cơ hội gặp gỡ nhau.
Ít lâu sau, Công chúa Như Lý đã lần lượt cải táng mộ Vua Hàm Nghi từ Alger về nghĩa trang này. Sau đó, Công chúa Như Mai, Hoàng tử Minh Đức cũng lần lượt được đưa về an táng tại làng Chabrignac, cách mộ của Nam Phương Hoàng hậu không xa lắm.
Mộ phần nhỏ bé, đơn sơ của một hoàng hậu nổi tiếng
Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương, người vợ chính thức đầu tiên của Bảo Đại, rất dễ nhận ra, vì có hai cây tùng trồng hai bên mộ, nay đã cao và to phình. Ngôi mộ có vẻ mới được trùng tu lại, sạch sẽ, đơn sơ.
Bia mộ với dòng chữ tiếng Hán: Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng
Trên ngôi mộ đơn sơ dựng một tấm bia đá giản dị. Mặt trước tấm bia ghi dòng chữ Hán:
“Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu chi lăng” (Dịch nghĩa: Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).
Du khách Việt tới thăm điền trang La Perche, ngậm ngùi nhớ lại thời oanh liệt của hoàng hậu An Nam xưa…
“…Là một mệnh phụ phu nhân rất duyên dáng, đặc biệt thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân đạo và yêu thương với người hầu kẻ hạ trong nhà bà”
Có một nghịch lý là, hoàng hậu Nam Phương nổi tiếng là một Đệ nhất phu nhân đẹp nhất nước Nam, nhưng thời gian 5 năm bà làm dân Chabrignac và lăng mộ của bà ở Chabrignac, không mấy người Việt Nam ở Việt Nam hay ở ngay trên đất Pháp biết đến. Trong lúc đó người dân Chabrignac hạt Corrèze thì lại rất tự hào khi quê hương họ đã từng là nơi sinh sống 5 năm cuối đời và là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu đẹp nổi tiếng của Việt Nam. Lần đầu tiên có người Việt tới thăm mộ bà, là 35 năm sau khi bà mất…
Vậy là, một cuộc đời oanh liệt của hoàng hậu Nam Phương đã khép lại, không đài các, không lăng tẩm, chỉ có một ngôi mộ quá đỗi nhỏ bé đơn sơ ở nơi đất khách quê người. Những ngày tháng buồn nhiều hơn vui. Tiền tài, của cải, vật chất, danh vọng, sắc đẹp… đã thoáng qua đi như bong bóng. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn đức hạnh của bà lại là điều sống mãi… Một kiếp người oanh liệt như thế, nhưng cuối cùng chỉ là: Sống gửi, thác về. Hãy trân quý những ngày chúng ta đang sống bằng cách sống thiện lương, đó có lẽ là điều sẽ lưu hương lại mãi, như cái tên bà hoàng hậu Nam Phương – Hương thơm từ Phương Nam…
Nguyễn văn Lý Toét là người Việt Nam.
Thế rồi tới giữa năm 1940, báo Ngày Nay cũng bị đóng cửa rút giấy phép.
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS-GENÈVE NGÀY 29-6-2017
Ba Tổ chức Nhân quyền Quốc tế phản đối bản án 10 năm tù cho Mẹ Nấm
PARIS-GENÈVE, 29-6-2017 (OBSERVATORY & UBBVQLNVN) – Đài Quan sát bảo
vệ các Nhà bảo vệ Nhân quyền (The Observatory for the Protection of
Human Rights Defenders, là tổ chức liên đới với Liên Đoàn Quốc tế Nhân
quyền, FIDH) và Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam (Vietnam
Committee on Human Rights) tố cáo bản án nặng nề dành cho Blogger nổi
danh Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm.
Ngày 29 tháng 6 hôm nay, Toà án Nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã kết án Nguyễn Ngọc Như Quỳnh 10 năm tù giam vì tội “tuyên truyền chống phá Nhà nước” chiếu điều luật 88 của bộ Luật Hình sự Việt Nam.
Chủ tịch Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền, ông Dimitris Christopoulos nói rằng : “Qua việc bỏ tù Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, chính quyền Việt Nam tỏ ra không thật lòng khi họ tuyên bố tôn trọng nhân quyền. Thực tế cho thấy Việt Nam là quốc gia nguy hiểm đối với những Người Bảo vệ Nhân quyền và cho bất cứ ai phê phán ôn hoà chính phủ”.
nỗi lòng của một đứa con “bất hiếu” và xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng: “Năm 1980 tại Huế, tôi đã từng khóc để tiễn biệt Ðức Bà Nội tôn kính của chúng tôi là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu Từ Cung về với tổ tiên, liệt thánh nhà Nguyễn. Một lần nữa, 1986, tôi lại khóc để vĩnh biệt mẹ thân yêu của chúng tôi là bà thứ phi Lê Phi Ánh, và bây giờ, mặc dầu trễ chín năm do hoàn cảnh, cuối cùng tôi cũng đến được nơi đây để mong một phần nào làm tròn bổn phận của một đứa con hơn 50 năm qua, ao ước được gặp lại cha mình, nhưng rồi mãi mãi niềm ao ước đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Ngày nay đứng bên mộ phần của cha, xin cúi đầu kính cẩn dâng lên ngài lời cầu xin được tha tội!”“Nói về cuộc đời của Cha tôi, lâu nay có nhiều dư luận trái ngược nhau. Ngày hôm nay, bên mộ phần ngài, tôi không muốn biện minh những gì ngài đã làm cho dân tộc của ngài, mà chỉ xin quý vị, cùng tất cả những người Việt Nam khác, hãy bỏ qua những khác biệt chính trị mà chỉ xét vấn đề trên từng bối cảnh lịch sử của đất nước, xin vui lòng nhìn vào lương tâm mình, không phải để tìm trong đó lòng bác ái hay một tình cảm riêng tư, bởi vì cha tôi, không muốn và cũng không chờ đợi sự rộng lượng đó của quý vị, mà chỉ xin quý vị tìm trong đó một đức tính cao thượng và lòng trung thực để trả lại cho ngài hai chữ ‘công bình’ trong lịch sử.” (Bảo Ân)
Sunday, July 2, 2017
NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU
Cuối đời của Hoàng hậu NAM PHƯƠNG
Tháng ngày lưu vong của hoàng hậu Nam Phương: Khối tài sản đồ sộ, lâu đài, đồn điền nơi đất khách rốt cuộc có khiến bà hạnh phúc?
Là con gái của một trong 4 gia đình giàu có nhất miền Nam thế kỷ XX- đại điền chủ Nguyễn Hữu Hào, trở thành hoàng hậu An Nam, khi dứt áo rời quê hương để lưu vong nơi đất khách, Nam Phương hoàng hậu vẫn có cuộc sống sung túc đề huề với những khối tài sản đồ sộ trên khắp nước Pháp và các lãnh địa Pháp như các lâu đài lớn ở Cannes, Limousin, Paris.. nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo… Sở hữu nhiều lâu đài, đồn điền như thế, nhưng rốt cuộc Nam Phương hoàng hậu tìm được hạnh phúc ở đâu trong những năm tháng cuối đời tha hương bên xứ người?
Bom đạn khói lửa, bà hoàng quyết định ra đi, rời khỏi 2 chữ “An Định”
Cung An Định (Ảnh: wikipedia)
Tháng 3/1946, ông cố vấn Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại, đã sang Hồng Kông cùng vũ nữ Lý Lệ Hà. Tháng 12/1946, tình hình chính t rị và quân sự giữa Việt và Pháp rất căng thẳng, chiến tranh tới gần. Cựu hoàng hậu Nam Phương một nách 5 con sống trong cung An Định trong khi mẹ chồng cũng đã tản cư, cảm thấy hoang mang và tuyệt vọng.
Ở lại Huế thì nay mai chiến sự nổ ra, khó tránh hòn tên mũi đạn, đi tản cư về nông thôn thì sợ các con mình quen nếp sống vương giả, không hòa nhập được.
Tính đi tính lại, người phụ nữ thông minh chọn giải pháp đưa các con vào nương nhờ nhà thờ dòng Chúa cứu thế, nơi thuộc quyền quản lý của các linh mục Canada, một nước trung lập, không ngả về Mỹ hay Pháp. Cuộc sống ở đây khá kham khổ so với sinh hoạt trước kia của họ, sáng sáng các hoàng tử, công chúa phải tự đi tìm nước rót vào ca để rửa mặt.
Súng bắt đầu nổ ở Huế vài tuần và bà Nam Phương rất lo vì tu viện có thể bị tấn công. Bản thân các linh mục trong nhà dòng cũng cảm thấy bà và các con nên sang Pháp tản cư.
Nam Phương một nách 5 con tản cư sang Pháp (Ảnh dẫn qua kienthuc.net)
Những tháng ngày tại lâu đài Thorenc ở Cannes
Lâu đài Thorenc tại Cannes uy nghi, đồ sộ, nơi cựu hoàng hậu sống những năm tháng đầu lưu vong (Ảnh: wikipedia.fr)
Những hồ nước, rừng cây nơi hoàng hậu Nam Phương thả bộ và chăm sóc cây cối (Ảnh: wikipedia.fr)
Mênh mông như cánh rừng (Ảnh: wikipedia.fr)
Thời gian đầu, mẹ con cựu hoàng hậu sống ở lâu đài Thorenc tại Cannes. Bà Nam Phương gửi các con vào trường trung học Couvent des Oiseaux, nơi bà từng học thời con gái.
Nam Phương hoàng hậu sành thời trang và có gu ăn mặc thanh lịch, tinh tế. Bà rất thích mua đồ của nhãn hiệu Christian Dior và Balmin, màu tím nhạt được bà ưa chuộng nhất.
Về gu nghệ thuật, bà treo tranh của của Renoir, Buffet trong nhà. Bà không thích tranh lập thể của Picasso vì tâm hồn bà không hợp với trường phái hội họa này cũng như siêu thực.
Bà cũng rất thích nuôi chó. Trong nhà bà có cả một đàn chó, và trong đó có một con thuộc giống Saint Bernard, loại chó to như con cọp, loại chó này để sử dụng tìm người mất tích trong rừng, trong khi đi trượt tuyết. Về thể thao bà có thể chơi bong bàn, quần vợt, và golf nhưng không giỏi lắm.
Âm hưởng chung trong cuộc sống của cựu hoàng hậu: cô đơn..
Nỗi buồn đã hằn sâu trong mắt Nam Phương hoàng hậu từ thời trẻ… (Ảnh tư liệu)
Bảo Đại thỉnh thoảng mới về Pháp, và đôi khi bà cũng cùng chồng tới casino xem ông đánh bạc. Những lần đó, nếu thắng bạc, ông vua mất ngôi sẽ tặng hết tiền cho vợ để mua sắm thời trang. Tuy nhiên, cái niềm vui ở bên chồng quá ít ỏi, nhất là từ sau năm 1955, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lật đổ, ông chán đời bỏ đi tứ xứ, các con thì đã lớn, như chim bay đi…
Điền viên ở vùng quê Chabrignac: thú vui điền viên lánh xa nơi phù phiếm đô thành
Điền trang La Perche ở làng Chabrignac rộng 160 ha đã được hoàng hậu mua lại để sống cuộc đời ẩn cư…(wikipedia.fr)
Điền trang La Perche ở làng Chabrignac rộng 160 ha đã được hoàng hậu mua lại để sống cuộc đời ẩn cư…(wikipedia.fr)
Năm 1958, nhằm tránh mặt báo chí, dư luận và những người quen biết, bà Nam Phương đã rời bỏ cả Cannes xa hoa hay thành Paris hoa lệ và ồn ào.
Những cơ ngơi đồ sộ ở Neuilly, hàng tá căn nhà lớn ở Morocco, biệt thự trên đại lộ Opéra, Paris hay trang trại rộng lớn ở Congo đều không còn sức hấp dẫn để có thể níu giữ nổi bà.
Nam Phương Hoàng hậu đã rời xa Paris 500km về phía nam, về làng Chabrignac, hạt Correze tỉnh Limousin, mua lại điền trang La Perche rộng 160 ha của một quý tộc Pháp đã sa sút làm nơi sống nốt những năm tháng còn lại.
Điền trang đẹp như mơ có rừng bao quanh gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách… và một vườn hồng tuyệt đẹp. Lâu đài cách nhà dân khá xa, hàng xóm ít qua lại. Có lẽ bà hoàng xa xứ chọn nơi yên tĩnh này để nội tâm được bình ổn, sống kiểu nửa tu hành trong những năm cuối đời
Đó là tòa nhà cổ dài xây bằng đá kiểu kiến trúc thời Trung cổ, mái lợp ngói, lưng dựa vào sườn đồi và trông ra một vùng đồng cỏ, đầm hồ rộng ngút tầm mắt. Ảnh: wikipedia.fr)
Hạnh phúc thực sự ở nơi đâu?
Ngoài hoa lợi thu được từ cây trái trong điền trang, bà hoàng Nam Phương còn nuôi thêm khoảng 100 con bò sữa trên một trang trại lớn với 160 mẫu đất.
Tất cả những người con của bà đều sống với bà trong điền trang La Perche. Theo Daniel Grande Clemént, tác giả cuốn “Bảo Đại, hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam” thì
“dường như thời gian sống tại điền trang La Perche là những tháng năm bình yên và hạnh phúc nhất của Nam Phương Hoàng hậu”
Cho đến cuối đời, bà vẫn sống trong nhung lụa nhờ gia đình cự phú của mình. Bố mẹ hoàng hậu, ông bà Nguyễn Hữu Hào, đã mua cho con gái bao nhà đất, những mong của cải vật chất tiện nghi có thể khỏa lấp nỗi buồn riêng của con gái…
Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ với thú vui điền viên trong trang trại Charbrignac, bất động sản duy nhất bà giữ lại cho riêng mình, sau khi chia hết các tài sản khác cho các con.
Hàng ngày, bà dậy rất sớm, thường tự tay trang trí, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc cây cảnh. Vừa làm bà vừa khe khẽ hát. Khi có việc ra ngoài, bà thường tự tay lái chiếc xe hơi hiệu Dauphine, có thêm cô hầu gái hay người quản gia đi theo.
Hoàng hậu Nam Phương, Hoàng thái tử Bảo Long, các Công chúa Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và hoàng tử
Bảo Thăng khi mới sang Pháp. Những tháng ngày ở Chabrignac, vì bọn trẻ đều lớn cả và học tại Paris, bà hầu như chỉ có một mình với người làm trong nhà. (Ảnh tư liệu)
Bà nuôi trong điền trang 4 công nhân nông nghiệp, một số người hầu gái và một viên quản gia người Pháp. Tất cả người ăn kẻ ở trong nhà đều được bà đối xử thân tình, gần gũi. Trong các dịp lễ, Noel hay ngày đầu năm mới, bà đều không quên có quà tặng cho họ và gia đình.
“Bà Hoàng hậu đẹp vẫn ngự trong tim” (La belle impératrice demeure dans les coeurs). Đó là đầu đề một bài báo điện tử của Pháp (lepopulaire.fr)
Năm 1947 ấy, bà cùng các con cuối cùng đã ra đi và không có lần quay về Việt Nam nữa, mặc dù trong lòng bà cũng đã có lần muốn về lại chốn quê hương.
Hằng ngày, ngoài việc chăm sóc con cái, bà thường đọc sách báo hoặc chăm sóc hoa lá trong vườn, buổi tối thì chơi dương cầm cho các con nghe. Những ngày lễ, mấy mẹ con cùng ra phố xem phim hoặc mua sắm.
Tuy nhiên, trái ngược với ông chồng lúc nào cũng cần tiền để tiêu xài xa hoa, với bà Nam Phương, tiền không giúp mua được niềm vui.
Rũ bỏ lớp áo vàng son quyền quý, bà Nam Phương quay lại sống đúng nghĩa cuộc đời an lành, bình dị của một phụ nữ An Nam học thức.
Lucien Boudy – một cựu xã trưởng Chabrignac hồ hởi kể về hoàng hậu xứ An Nam duyên dáng tốt bụng với dân làng…
Nam Phương Hoàng hậu sống rất cởi mở, quảng giao, thường xuyên đi thăm
khắp điền trang để gặp gỡ và trò chuyện thân mật với những người nông
dân. Vì thế dân làng rất quý mến bà. Từ chỗ xa lạ, sau 5 năm làm dân
Chabrignac, bà đã để lại biết bao tình cảm trong tâm trí người dân địa
phương. Họ xem bà là một cô-rê-diên (Người địa phương Correze) chính
cống.
Người quản gia người Pháp: một vị trí đặc biệt bên cạnh cựu hoàng hậu
Người quản gia người Pháp, luôn sát cánh bên hoàng hậu những ngày cuối đời (Ảnh tư liệu)
Đối với bà, người quản gia người Pháp có một vị trí rất đặc biệt. Thay cho vị trí của cựu hoàng, ông này luôn tháp tùng bà trong những chuyến làm khách, dự tiếp tân đối với các gia đình quyền quý ở trong vùng. Không ai có bằng chứng xác đáng nhưng dường như những người quen biết trong vùng đều cho rằng, ông quản gia này đã yêu Nam Phương Hoàng hậu.
Dân làng càng thương quý bà hơn khi biết Hoàng hậu đẹp, giàu sang, từng làm Đệ nhất phu nhân ở Việt Nam, nhưng đời sống tình cảm gia đình của bà những năm ở Chabrignac không vui lắm. Cựu hoàng Bảo Đại – chồng bà, ít khi đến thăm bà. Họ chỉ nhớ có một lần Cựu hoàng về Chabrignac vào tháng 1 năm 1962, nhân dịp Công chúa Phương Liên – con gái của ông bà, tổ chức lễ thành hôn với một người Pháp tên Bernard Soulain.
Hàng xóm công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi
Thế nhưng rất kỳ lạ, suốt 5 năm sống ở Chabrignac, bà vẫn không hề ghé thăm viếng lâu đài De La Nouche – nơi ở của Công chúa Như Lý, con gái vua Hàm Nghi ở, lấy một lần, dù hai điền trang nằm gần như cạnh nhau. Cả Công chúa Như Lý và Hoàng hậu Nam Phương đều có vẻ như không hề biết đến sự tồn tại của người kia trên cùng một vùng đất, dù trên quan hệ, Công chúa Như Lý là cô chồng của bà Nam Phương.
Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới
Có lẽ sự cô đơn và nỗi đau buồn cho cuộc đời tuy vàng son mà bất hạnh của mình khiến hoàng hậu lưu vong mắc bệnh tim.
Ngày 14/9/1963, vừa từ thị trấn Brive cách điền trang 30 km trở về, bà Nam Phương đã cảm thấy đau họng. Viên bác sĩ được mời đến đã khám qua loa và kết luận là bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài ngày là khỏi. Kỳ thực, bà bị chứng lao hạch tràng hạt, cơn đau tiếp tục hoành hành dữ dội. Trước khi viên bác sĩ thứ hai kịp đến nơi thì Nam Phương Hoàng hậu, 49 tuổi, đã qua đời vì nghẹt thở.
Một đám tang lặng lẽ không điếu văn
Bà mất vào ngày 15 tháng 9 năm 1963. Đám tang của bà rất lặng lẽ. Ngày đưa tang, ngoài hai Hoàng tử Bảo Long (1936), Bảo Thăng (1943) và ba Công chúa Phương Mai (1937), Phương Liên (1938) và Phương Dung (1942) đi bên cạnh quan tài của mẹ, không có mặt Bảo Đại và cũng không có một người bà con thân thuộc nào khác ngoài dân làng Chabrignac. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có ông Quận trưởng Brive la Gaillarde và ông xã trưởng Chabrignac.
Những mộ phần vua chúa Việt Nam nhỏ bé ở một nơi đất khách: vua Hàm Nghi cũng trở về đây
Mộ phần đơn sơ của Nam Phương hoàng hậu nơi đất khách quê người, đương thời lúc còn sống, bà cũng đã mong được trở về Đà Lạt để yên nghỉ cùng cha mẹ nhưng con cái bà không chịu
Mộ phần của bà được đặt trong phần mộ của dòng họ Bá tước De La Besse. Bà Bá tước De La Besse, tức Công chúa Như Lý cũng có mặt trong dòng người đưa tang của làng Chabrignac, với nỗi ân hận vì trước đó hai người đã không hề có cơ hội gặp gỡ nhau.
Ít lâu sau, Công chúa Như Lý đã lần lượt cải táng mộ Vua Hàm Nghi từ Alger về nghĩa trang này. Sau đó, Công chúa Như Mai, Hoàng tử Minh Đức cũng lần lượt được đưa về an táng tại làng Chabrignac, cách mộ của Nam Phương Hoàng hậu không xa lắm.
Mộ phần nhỏ bé, đơn sơ của một hoàng hậu nổi tiếng
Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương, người vợ chính thức đầu tiên của Bảo Đại, rất dễ nhận ra, vì có hai cây tùng trồng hai bên mộ, nay đã cao và to phình. Ngôi mộ có vẻ mới được trùng tu lại, sạch sẽ, đơn sơ.
Bia mộ với dòng chữ tiếng Hán: Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng
Trên ngôi mộ đơn sơ dựng một tấm bia đá giản dị. Mặt trước tấm bia ghi dòng chữ Hán:
“Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu chi lăng” (Dịch nghĩa: Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).
Nắp đậy huyệt chỉ là một tấm bê tông phẳng phiu, có chạm nổi hình thánh
giá và một tấm bia chìm đề hàng chữ tiếng Pháp “Sa Majesté Nam Phuong
Impératrice d’Annam 1913 – 1963” .
Trên nắp huyệt dựng một tấm bia khác đề rõ hơn một chút “Ici repose
l’Impératrice Nam Phuong, née Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913
– 15.09.1963” (Tại đây an nghỉ Nam Phương Hoàng Hậu, tên gốc Jeanne
Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913 – 15.09.1963 ).
Ngôi lăng của bà tuy khiêm tốn, bé nhỏ so với nhiều lăng mộ của người
dân trong làng, nhưng nó được xem như một di tích lịch sử quý hiếm của
vùng. Với niềm tự hào ấy, người chủ Domaine de la Perche ngày nay đã xây
dựng khu nhà cũ và lăng mộ của bà thành một điểm du lịch ở trung tây
nước Pháp.
Du khách Việt tới thăm điền trang La Perche, ngậm ngùi nhớ lại thời oanh liệt của hoàng hậu An Nam xưa…
“…Là một mệnh phụ phu nhân rất duyên dáng, đặc biệt thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân đạo và yêu thương với người hầu kẻ hạ trong nhà bà”
Có một nghịch lý là, hoàng hậu Nam Phương nổi tiếng là một Đệ nhất phu nhân đẹp nhất nước Nam, nhưng thời gian 5 năm bà làm dân Chabrignac và lăng mộ của bà ở Chabrignac, không mấy người Việt Nam ở Việt Nam hay ở ngay trên đất Pháp biết đến. Trong lúc đó người dân Chabrignac hạt Corrèze thì lại rất tự hào khi quê hương họ đã từng là nơi sinh sống 5 năm cuối đời và là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu đẹp nổi tiếng của Việt Nam. Lần đầu tiên có người Việt tới thăm mộ bà, là 35 năm sau khi bà mất…
Vậy là, một cuộc đời oanh liệt của hoàng hậu Nam Phương đã khép lại, không đài các, không lăng tẩm, chỉ có một ngôi mộ quá đỗi nhỏ bé đơn sơ ở nơi đất khách quê người. Những ngày tháng buồn nhiều hơn vui. Tiền tài, của cải, vật chất, danh vọng, sắc đẹp… đã thoáng qua đi như bong bóng. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn đức hạnh của bà lại là điều sống mãi… Một kiếp người oanh liệt như thế, nhưng cuối cùng chỉ là: Sống gửi, thác về. Hãy trân quý những ngày chúng ta đang sống bằng cách sống thiện lương, đó có lẽ là điều sẽ lưu hương lại mãi, như cái tên bà hoàng hậu Nam Phương – Hương thơm từ Phương Nam…
PHẠM THẢO NGUYÊN * XÃ XỆ, LÝ TOÉT
Đi tìm gốc gác Lý Toét, Xã Xệ
Phạm Thảo Nguyên
LTS.
Người ta biết nhiều đến Nhất Linh như một nhà văn thủ lĩnh nhóm Tự Lực
Văn đoàn, người đã cùng các bạn văn tạo ra một cuộc cách mạng trong văn
chương và ngôn ngữ Việt Nam những năm 30 của thế kỷ trước, mà ảnh hưởng
còn sâu rộng cho tới bây giờ. Nhưng có lẽ ít người biết hơn, tờ tuần
báo mà ông làm làm chủ bút, tờ Phong Hoá (và hậu thân của nó là tờ Ngày
Nay), nơi quy tụ các cây bút của TLVĐ và bè bạn, cũng là tờ báo trào phúng
đầu
tiên của
nước ta. Mục đích này của báo được quảng bá lần đầu trong
Phong Hoá số 13 (số cuối cùng do ông Phạm Hữu Ninh, người sáng lập báo
điều khiển, sau đó bán lại cho Nhất Linh) :
Bàn
một cách vui về các vấn đề cần thiết
- Xã
hội, chính trị, kinh tế - nói rõ về hiện tình trong nước.
Hai "nhân vật" chủ chốt của biếm hoạ
Việt Nam chính cũng được sinh ra trên các trang báo Phong Hoá
và từ đó đi vào văn học, vào đời sống thường ngày của người
Việt : Lý Toét và Xã Xệ. Nhất Linh, dưới tên hoạ sĩ Đông Sơn, chính là
cha đẻ của Lý Toét. Nhân kỉ niệm lần thứ 49 ngày ông qua đời (7.7.1963
- 7.7.2012), Diễn Đàn trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài biên khảo
dưới đây của tác giả Phạm Thảo Nguyên, cùng với bài của
Nguyễn Tường Thiết về cái chết của ông và của Thái Kim Lan, hồi ức về cuộc tiễn đưa nhà văn của nhân dân Huế.
Cùng với cụm ba bài viết này, chúng tôi
cũng vui mừng thông báo với bạn đọc, hai tờ Phong Hoá và Ngày Nay đã
được một nhóm bạn tâm huyết với TLVĐ (trong đó có chị Phạm Thảo Nguyên)
số hoá hoàn toàn, và sẽ được công bố trên mạng từ ngày 22.9 năm nay, kỉ
niệm 80 năm ngày tờ Phong Hoá ra số đầu tiên dưới quyền điều khiển của
chủ bút Nhất Linh (số 14, ra ngày 22.9.1932). Chi tiết sẽ được thông báo sau.
Họa sĩ Đông Sơn vẽ ra Tý
Toét vào đầu thập niên 1930, và
tờ báo đầu tiên đăng tranh Lý
Toét, là Phong Hóa. Đó là hai
điểm chính, về cụ Lý được
dân chúng yêu chuộng đặc biệt
từ gần tám chục năm nay. Tìm đọc
lại báo Ngày Nay Xuân 1940, cũ, mới
biết Nhất Linh có giải thích rõ
ràng chi tiết về lý lịch của
cụ, trong bài viết “Lịch sử Lý
Toét…”, Báo Xuân Ngày Nay
1940, tóm tắt như sau:
Tên Lý Toét ra đời trước,
rồi hình người Lý Toét mới
ra đời sau.
Năm 1930, trong báo Tứ Dân, người
đẻ ra “tên-Lý Toét” lại
là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu (chuyên
viên thơ trào phúng của Tự Lực
Văn Đoàn), từ “đẻ ra”
sáng tác bởi Nhất Linh. Họa sĩ
Đông Sơn và bà Phụ Nữ Thời
Đàm đẻ ra “hình-Lý Toét”
sau. Sự tích là: Đông Sơn một
hôm đang xem báo Phụ Nữ, vẽ
nghịch một ngườì nhà quê,
thấy hay hay nên xé ra vứt vào ô
kéo, chưa biết để làm gì.
“Quý vị ơi! Nhìn hình dưới
đây đi! Nó đấy, chính nó
đấy, mảnh giấy nhật trình có
chân dung “thủy tổ” của tất
cả các Lý Toét sau này đấy!”:
Đúng là không có bà Phụ
Nữ Thời Đàm thì không có
Lý Toét, Nhất Linh nói chí lý
thật! Trên bức hình đó Lý
Toét trẻ hơn sau này nhiều, đã
được mặc áo dài khăn đóng,
như mọi cụ già thời đó. Lại
có đủ cả râu ria, búi tóc,
cụ xách thêm đôi dép da gia định
và cắp cái ô đen: Cá tính
được định hình. Cụ thường
xách dép lên, đi đất, vì
ngại chóng hỏng đôi dép cũ.
Cái ô cũng ít khi mở ra, cụ để
dành đánh chó và đeo lên
vai cho oai. Nhưng chúng cũng làm khổ
cụ, vì cứ bị tụi trộm nhỏ
nhít đặt vào tầm ngắm, quấy
phá luôn luôn. Nào dép, nào
ô, nào khăn cứ bị trộm rình!
Chắc các bạn còn nhớ: Bắt đầu
từ Phong Hóa số 14, ra ngày 2 tháng
9-1932 chủ bút mới là Nguyễn Tường
Tam. Cùng các em là Hoàng Đạo
Nguyễn Tường Long và các bạn như
Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Khái Hưng
Trần Khánh Giư… mới phụ trách
tờ Phong Hóa. Ngay trong số 14 này, ta bắt
gặp Đông Sơn đưa hình cụ
(chưa có tên) về Hà Nội trên
một chuyến xe đò đông như nêm
cối (hình dưới). Các bạn có
nhìn thấy cụ ngồi trên mui xe ngay
trên đầu tài xế đó không?
Họa sĩ Đông Sơn thật hóm,
giấu kỹ chẳng cho ai biết tin gì cả!
Nhưng lòi đuôi! Tuy nhiên, rất có
thể chính ông cũng không biết là
mình đã cho cụ về thành hôm
đó, trên chiếc xe đò đó!
(Mà này, nhỡ ông vẽ mà không
biết là có cụ trốn trên mui đó
thì oan cho ông nhỉ!?)
Nhất Linh còn kể là Lý Toét
ra mắt độc giả ngay từ số Phong
Hóa 14, nhưng còn ngơ ngác vì
chưa có tên. Sau đó Đông Sơn
dính thêm cái tên Lý Toét vào
hình vẽ, thế là Phong Hóa có
trong tay một nhân vật hý họa hoàn
chỉnh. Lý Toét nom thật có duyên:
Nguyễn văn Lý Toét là người Việt Nam.
Lần đầu tiên Tứ Ly đem Lý
Toét-tên (không có hình), lên
báo Phong Hóa trong số 35, trong bài viết
“Cuộc Chợ Phiên của Phong Hóa tổ
chức”. Lúc đó, Lý Toét-hình,
không tên, chỉ dùng để trang trí
cho mục Vui Cười mà thôi:
Tới số 48, năm 1933, Phong Hóa có
tranh “Lý Toét ra tỉnh” thứ
nhất. Đó là lần đầu cụ
Lý có đủ tên+hình, cùng
cái dáng lom khom hay đặt câu hỏi
lạ lùng:
Thế rồi tới Phong Hóa số 59, bức
vẽ “Lý Toét ra tỉnh” thứ
hai, do Đông Sơn vẽ dưới đây,
(ký tên chữ nho) chiếm ngay trang bìa:
Lý Toét lẩm bẩm:
Quái! người
ta chôn ai mà đào dài vậy??
Đông Sơn Nhất Linh biết rằng nhân
vật này sẽ chinh phục độc giả
toàn quốc! Quả như vậy, Lý Toét
đã làm mưa làm gió trên
văn đàn nước ta trong suốt thập
niên 1930. Trước hết, về cá nhân
Lý Toét, tính chất tổng quát
được mọi người cùng chấp
nhận bất thành văn, là:
Lý Toét là một ông già nhà
quê, có chức phận trong làng, chức
Lý trưởng, nên được goi là
Lý, mắt bị bệnh đau-mắt-hột
từ bé, thành ra nó cứ kèm
nhèm, như viền vải tây đỏ,
ta gọi là mắt toét. Nhập hai chữ
Lý và Toét vào nhau thành tên
luôn, chứ Lý Toét không phải là
tên cúng cơm, bố mẹ đặt cho.
Lý Toét nghèo, sống ở thôn
quê, chưa từng được thấy những
thứ văn minh ngoài phố do người
Pháp mang lại. Lý biết đọc chữ
quốc ngữ, biết ít chữ nôm, chữ
nho, nhưng không hiểu tiếng Pháp, nên
có nhiều phen không thông về chữ
nghĩa, nhầm chữ nọ sang chữ kia tí
chút. Vì nghèo nên Lý Toét
tham ăn, lại nghiện rượu, nên ích
kỷ, chỉ muốn mình được phần
to, thêm nữa, không hiểu gì về
vệ sinh, ăn ở dơ bẩn, nên cả
tin, sợ hãi đủ mọi thứ. Lý
Toét rât mê tín, thờ đủ
mọi loại thần thánh, từ con cóc
sành trên bể nước ngoài vườn
hoa, đến con hổ sống trong chuồng Vườn
Bách Thú…
Vợ con ở quê rất lếch thếch. Lý
Toét có một cô con gái lớn tên
là Ba Vành, cô này xưa bỏ nhà
ra đi, rồi lấy tây. Thỉnh thoảng
cụ Lý có xuống vùng mỏ thăm
con gái, báo Xuân Phong Hóa, số 85
tường thuật thế. Cô có con, thỉnh
thoảng con bị sài đẹn cũng mang
vào bệnh viện chữa, làm cụ Lý
đi tìm thăm thật khốn khổ. Phong
Hóa có tranh chân dung của cô, cô
mặc áo tân thời, nom cũng đẹp
ra phết (khi trước còn ở dưới
quê thì vẫn vận áo tứ thân).
Nhân vật ảo Lý Toét với đầy
đủ tính cách như vậy, được
họa sĩ Đông Sơn sáng tác ra.
Nhưng cha đẻ của Lý Toét đã
rất hào phóng không giữ tác
phẩm cho riêng mình, mà rủ tất
cả mọi người cùng tham dự vẽ
Lý Toét! Do đó, cùng với Đông
Sơn Nhất Linh, các họa sĩ của
Phong Hóa nhẩy vào vẽ Lý Toét
với đầy hứng thú trong các tranh
vui của báo Phong Hóa. Thế là: Cuộc
Vui “Vẽ Lý Toét” bắt đầu!
Mỗi họa sĩ anh tài của Phong Hóa
vẽ ra một Lý Toét dung mạo khác
hẳn nhau, nhưng cùng tính cách, vẫn
nhận ra được.
Độc giả có thể ngắm các Lý Toét khác nhau trong hình trên của các họa sĩ Đông Sơn, Nhất Sách, Tô Tử tức Ái Mỹ Tô Ngọc Vân, Lemur tức Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần Bình Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức Trần Quang Trân, Trần An….
Độc giả có thể ngắm các Lý Toét khác nhau trong hình trên của các họa sĩ Đông Sơn, Nhất Sách, Tô Tử tức Ái Mỹ Tô Ngọc Vân, Lemur tức Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần Bình Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức Trần Quang Trân, Trần An….
Nhân vật Lý Toét với rất
nhiều tranh chân dung đó, đã nổi
lên vững vàng thân ái như một
vì sao mới mọc trong lòng độc
giả báo Phong Hóa. Sau này có thêm
danh họa Nguyễn Gia Trí (lúc đó
mới ra trường) tức Rigt, tức Gtri, cùng
nhiều người khác, kể cả Lê
Ta Thế Lữ cùng vẽ chân dung Lý
Toét (vẽ chữ số thành hình cụ
Lý).
Nhưng ngắm tranh Lý Toét lâu, ta thấy
cụ có vẻ hơi … cô độc,
thiếu bạn. Và việc phải đến,
đã đến: Xã Xệ xuất hiện.
Nhất Linh gọi đó là do tự nhiên
phải thế. Xã Xệ là một nhân
vật bằng vai phải lứa với Lý
Toét. Xã Xệ béo ịt, thấp lè
tè, đầu trọc lông lốc, còn
độc một sơi tóc quăn xoắn ốc
trên đỉnh. Hình ảnh Xã Xệ
hoàn toàn đối chọi với Lý
Toét gầy đét và cao lênh khênh.
Xã ra đời để đấu láo
với Lý, cãi chầy cãi cối với
Lý, chung buồn chung vui với Lý… Ngớ
ngẩn, lẩn thẩn sống cuộc đời
mới của dân nô lệ mất nước,
dưới sự bảo hộ của mẫu quốc
Phờ Lăng Xa cùng Lý.
Cha
đẻ của Xã Xệ là họa sĩ
Bút Sơn, từ Saigon gửi tranh vẽ ra Hà
Nội. Tôi nghĩ vị này là một
độc giả yêu quý Phong Hóa, nên
tạo ra nhân vật Xã Xệ đối
kháng với Lý Toét. Ông lấy
hiệu Bút Sơn để nhái Đông
Sơn. Nhưng Nhất Linh đến tận khi
mất, vẫn chưa biết tên thật của
Bút Sơn. Trên
tờ di cảo “Đời làm báo”
ghi tất cả tên và bút hiệu các
cộng sự viên, trong cũng như ngoài
Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh có
hàng chữ sau:
Bút
Sơn ở Saigon (Người đẻ ra Xã
Xệ), tên thật chưa biết. Xin ông
Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc
các bạn, cho biết tên thật.
Hiện
nay chúng tôi được biết tên
thật họa sĩ Bút Sơn là Lê
Minh Đức. “Theo nhà báo nhà thơ
trào phúng Tú Kềnh
viết trên Báo Bình
Minh Xuân Mậu Thân 1968 xuất
bản ở Saigon thì: Vào năm 1936 báo
Phong Hóa, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn,
ở Hà Nội, có tổ chức cuộc
thi vẽ tranh hài hước,
họa sĩ chuyên vẽ tranh hài hước
Bút Sơn Lê Minh Ðức ở Saigòn
vẽ một bức tranh gửi ra Bắc dự
thi” (1).
Thật ra, lần đầu tiên Xã Xệ
xuất hiện trong tranh Bút Sơn là ngày
16 tháng 3 năm 1934, trên báo Phong Hóa
số 89. Xã Xệ đã được
đón tiếp thật nồng hậu. Xã
cùng Lý lên ngay trang bìa của báo.
Dưới đây là bức tranh trên
Phong Hóa, Xã Xệ ra mắt toàn dân
An Nam, cõi Đông Pháp, với lối
lý luận hạng nhất:
Lý
Toét: Thế này là nhất cử lưỡng
tiện.
Cân một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lị!
Cân một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lị!
Vậy là báo Phong Hóa đã tạo
dựng được cặp đôi hý
họa Lý Toét, Xã Xệ, mang rất
nhiều “đặc tính dân tộc”,
đi vào lịch sử văn học Việt
Nam:
Tranh Lý Toét Xã Xệ không của
riêng ai, thật là thú vị. Mỗi
bức tranh có khi là một tấm, có
khi là một loạt nhiều tấm như
phim hoạt họa, với lời chú giải
ngắn gọn hoặc vài câu thoại,
chính là một câu chuyện nhỏ,
nhiều khi rất thâm trầm, nhiều khi mộc
mạc…. Ai có một vài ý nghĩ
chủ đạo là có thể vẽ ra
một tranh hay, nếu không biết vẽ thì
viết thành truyện cười Lý Toét
cũng không kém phần dí dỏm.
Trong khi đó, nhờ những cuộc thi tranh
khôi hài của Phong Hóa, nhiều họa
sĩ bên ngoài tòa soạn đã
tới vẽ cho Phong Hóa như NG9, HKB, DLAN, Trần
An, 2TTG, Mạnh Quỳnh…. và rất nhiều
người không chuyên cũng vẽ. Thêm
nữa, các họa sĩ còn mang hình
ảnh Lý Toét Xã Xệ phổ biến,
nhân rộng ra khắp các báo thời
bấy giờ, từ ngoài Bắc tới trong
Trung, trong Nam. Họa sĩ thích vẽ, người
thường thích kể chuyện, báo nào
có Lý Xã thì có nhiều người
đọc. Đến nỗi cặp đôi này
đã trở thành những nhân vật
để quảng cáo! Có những bài
quảng cáo thuốc, quảng cáo rượu
của Lý Toét … đăng ngay trên
Phong Hóa, Ngày Nay rất nhiều lần.
Để cạnh tranh, báo Thanh Niên số
#2, ra ngày 27-1-34 cho ra đời “Xã
Dù”một anh em họ hàng với Lý
Toét. Nhưng tiếng tăm của Xã Dù
quá lu mờ, nay không ai còn biết, nhớ
đến (bài Cuộc Điểm Báo,
Phong Hóa số 84).
Như vậy là Đông Sơn Nhất Linh
đã dựng ra được một phong
trào có vô số họa sĩ trong,
ngoài tòa báo, cùng độc giả
“dấn thân”, đua nhau sáng tác
ra vô số tranh Lý Toét Xã Xệ
kể chuyện vui đùa!
Còn gì thú vị hơn!
Từ đó, Lý Toét Xã Xệ
xuất hiện đều đặn trên báo
Phong Hóa và Ngày Nay, qua những truyện
vui lý sự cù nhầy. Thỉnh thoảng
Lý Toét có bài viết riêng như
“Điều thỉnh cầu của Lý
Toét”(Phong Hóa số 68), bài thơ
Vợ Lý Toét Khuyên Chồng, trong mục
Dòng Nước Ngược, thơ trào
phúng của Tú Mỡ, rồi Lý Toét
Trả Lời, Lý Sự Cùn viết…
Lâu lâu báo có đăng Lý
Toét Phú, Xã Xệ Phú, Ván Cờ
Lý Toét, cả Văn Tế Lý Toét
(của Đỗ Đức Thu, làm trước,
phòng khi…), …
Nhưng nhiều nhất, được chú ý
nhất, vẫn là những bức tranh Lý
Toét Xã Xệ, với những cảnh
trông thấy, gặp thấy trên tỉnh.
Có nhiều kỳ báo Phong Hóa, Ngày
Nay có cả năm, bảy tranh Lý Xã
trên cùng một số báo. Tranh nào
cũng kể những chuyện ngây ngô,
những suy nghĩ, suy luận chéo cẳng
ngỗng, những hiểu lầm về ngôn ngữ
tây ta tầu… Những câu chuyện vui
vu vơ, vô tội này, ngày một lan
rộng, ngày một thu hút. Những tính
tình xấu xí, gàn bướng, cù
nhầy, đáng cười… của người
đời được diễn tả, phô
bầy dưới hình thức khôi hài
rất duyên, rất khéo… Trong đó,
Lý, Xã rất “nghệ”, với
những phản ứng không giống ai, diễn
tả được biết bao khía cạnh
khác nhau của cuộc sống…. Quý
vị độc giả đừng tưởng
hai cụ nhà quê này luôn luôn
khù khờ, trái lại, có khi rất
láu đấy! Và trong nhiều tranh các
cụ lý luận hay đáo để! mời
các bạn xem tranh Lý toét trả lời
quan tòa tây:
Khi Lý Toét phải ra tòa trả lời
tội gửi thư với tem đã đóng
dấu. Cụ Lý trả lời: “Lần
nào nhận thư của con gái, là cô
Ba Vành, gửi về cũng thấy tem đã
đóng dấu”.
Đúng quá chứ!
Cặp bài trùng Lý Xã của Phong
Hóa Ngày Nay dần dần trở nên vô
cùng nổi tiếng, được sự ủng
hộ triệt để của quốc dân, từ
trẻ con tới người lớn. Người
coi tranh, mê tranh mỗi ngày một nhiều,
tạo ra một hiện tượng xã hội
chưa từng có. Năm 1933, Georges Mignon, trong
Nụ Cười Tân Á, khen ngợi Lý
Toét của Phong Hóa (2). Và năm 2007,
tại Mỹ có bài nghiên cứu của
George Dutton: Lý Toét in the City (3),.. Còn ở
Việt Nam thì tới ngày nay vẫn có
lai rai bài viết, khảo cứu, kịch,
chèo… về Lý Toét.
Ròng rã từ 1932 tới cuối năm
1940, tranh Lý Toét là những cú đâm
xầm vào đời sống văn minh mới,
do “mẫu quốc” mang tới, của hai
cụ nhà quê cổ hủ “đẫm
đặc dân tộc tính”… Đó
cũng là lúc dân ta đang gặp phải
cái “chạm trán tóe lửa”
của hai nền văn hóa Đông Tây.
Như bà văn sĩ Pearl Buck (giải thưởng
Nobel về văn chương 1938) trong truyện
ngắn ‘Bà Mẹ Già”, Huyền
Hà dịch, Ngày Nay số 200, 1940, kể
chuyện bên Tầu: Cô con dâu đi du
học về, trong bữa cơm đại gia đình,
đã: “hét inh lên vì sợ,
khi thấy bà cụ mẹ chồng đưa
đôi đũa đã liếm nghiêm
chỉnh thật sạch trước, chọc vào
đĩa thức ăn chung của cả nhà”.
Đồng
thời trong những bức tranh nhỏ Lý Xã,
các ý tưởng được đào
sâu dần, nói lên được nhiều
điều muốn nói. Người đọc
ngày một thấm thía về thân phận
người dân nhược tiểu mất
nước, khi đa số dân chúng còn
chưa được giáo dục, vô kỷ
luật, hay sợ hãi, mê tín, và
cam chịu tủi nhục dưới ách nô
lệ của Pháp. Những bức tranh hý
họa nhẹ nhàng hóm hỉnh đó
phơi bầy dần dần những thói hư
tật xấu của dân ta. Có
người cho rằng báo PH NN đã bôi
xấu người nhà quê! Không! ta phải
hiểu rằng nếu dân ta còn nghèo
đói, vô học, sống khổ sở
như thế, chịu bao nhiêu bóc lột
đè nén như thế, thì lẽ dĩ
nhiên hủ lậu mê tín phải sinh ra
tham lam, ích kỷ, …Nhưng tới đó
thì chúng ta phải tự hỏi: “Phải
làm gì đây?”
Đó là chủ ý của Tự Lực
Văn Đoàn: dùng văn chương, báo
chí để vận động cải tạo
xã hội.
Trong bài Trả lời Tân Xã Hội,
Hoàng Đạo viết trên Ngày Nay số
30, năm 1936: “Ông sẽ phải công
nhận như chúng tôi, là dân chúng
- hầu hết là dân quê - chỉ biết
mình khổ cực, đói rét, chứ
chưa biết đường tự bênh vực
lấy mình. Vậy công việc tối quan
trọng của ta, của chúng tôi, của
ông, là làm thế nào cho họ
hiểu hết quyền lợi nghĩa vụ của
họ. Công cuộc to tát không phải
một ngày mà nên: công cuộc ấy
có thành cũng nhờ một phần lớn
ở sự tự do báo chí và tự
do kết đoàn”(4).
Thực vậy, muốn dân chúng hiểu
nghĩa vụ và quyền lợi của họ,
thì việc đầu tiên là phải
thu hút dân chúng bằng báo chí,
phải tìm cách làm dân muốn
nghe, thích nghe ta nói. Vậy trước
hết, hãy xét lại chính mình.
Hẳn trước khi thành người thành
thị, ai chẳng có gốc gác nhà
quê, không là ta, thì bố mẹ ông
bà…ta, đã từng ngớ ngẩn
“nhà quê lên tỉnh” như thế.
Mà người Việt nào cũng có
quê, như Nguyễn Trãi quê Nhị Khê,
Nguyễn Du quê Tiên Điền, Hồ Xuân
Hương quê Nghi Tàm, Cao Bá Quát
quê Phú Thị… Mồ mả các
cụ tổ tiên chúng ta đều còn
ngay ở giữa những cách đồng lúa
lầy lội đó, chứ đâu? Mà
cũng những nơi nhà quê đó,
có kho tàng vốn cổ ai cũng say mê,
đó là những tranh khôi hài, các
chuyện cười, chuyện diễu, chuyện
tiếu lâm, phóng đại, nói khoác…
Chuyện được truyền khẩu từ ngàn xưa, từ các bác dân quê như Ba Giai, Tú Xuất ngoài Bắc, tới bác Ba Phi trong Nam, cùng các vị trí thức không theo lề lối quan trường như các Trạng, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… rất nhiều. Những chuyện đối đáp với sứ Tầu của các vị thiền sư từ hơn nghìn năm trước, hay giai thoại những câu đối đáp giữa Chiêu Hổ, Hồ Xuân Hương ai mà chẳng mê. Và các tranh cổ ngộ nghĩnh được bán trong những phiên chợ quê, chợ Tết, như Đám cưới chuột, Vinh quy, Đánh ghen, Hứng dừa … của làng Đông Hồ, ai mà chẳng thích?
Chuyện được truyền khẩu từ ngàn xưa, từ các bác dân quê như Ba Giai, Tú Xuất ngoài Bắc, tới bác Ba Phi trong Nam, cùng các vị trí thức không theo lề lối quan trường như các Trạng, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… rất nhiều. Những chuyện đối đáp với sứ Tầu của các vị thiền sư từ hơn nghìn năm trước, hay giai thoại những câu đối đáp giữa Chiêu Hổ, Hồ Xuân Hương ai mà chẳng mê. Và các tranh cổ ngộ nghĩnh được bán trong những phiên chợ quê, chợ Tết, như Đám cưới chuột, Vinh quy, Đánh ghen, Hứng dừa … của làng Đông Hồ, ai mà chẳng thích?
Ta hãy ngắm lại hai tấm tranh Đông
Hồ dưới đây:
Đám cưới chuột | “ Đánh ghen” |
Trong khi đó, người đầu đàn
của Tự Lực văn đoàn Nhất
Linh Đông Sơn là một họa sĩ.
Các thành viên khác như Thế Lữ,
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam…
cũng có thú vẽ tranh không phải
thường. (Nếu bạn đọc tinh ý
thỉnh thoảng có thể bắt gặp
trong Phong Hóa hoặc Ngày Nay những bức
vẽ rất đẹp ký tên Khái
Hưng, Tứ Ly, … Đặc biệt, Ngày
Nay số 198, xuân 1940, có in tranh vẽ của
nhiều thành viên Tự Lực Văn Đoàn:
Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Hoàng
Đạo, Thạch Lam). … Với tinh thần
mỹ thuật từ bản chất của ban biên
tập như thế, hai báo Phong Hóa, Ngày
Nay sử dụng tranh ảnh trang trí rất
nhiều, luôn luôn có họa sĩ nhà
nghề làm việc minh họa.
Những họa sĩ lớp mới này được học rất bài bản, họ học được kỹ thuật hội họa Tây phương tại trường Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội (Khóa đầu của trường tốt nghiệp năm 1930). Vì vậy, họ sử dụng rất thông thạo kỹ thuật hý họa kiểu tây phương, để đùa rỡn các ông dân biểu, các quan thượng thư …với mục đích sửa lưng các ông, xin các ông nhớ đến dân đến nước, và làm cho công chúng hiểu đời sống chính trị hơn… Những năm sau có thêm Bang Bạnh và Ba Ếch trong thể giới hoạt kê đó, giúp các họa sĩ tạo được nhiều màu sắc, nhiều khía cạnh sâu xa hơn trước. Tuy nhiên, hai nhân vật này không được yêu thích bằng Lý Xã.
Những họa sĩ lớp mới này được học rất bài bản, họ học được kỹ thuật hội họa Tây phương tại trường Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội (Khóa đầu của trường tốt nghiệp năm 1930). Vì vậy, họ sử dụng rất thông thạo kỹ thuật hý họa kiểu tây phương, để đùa rỡn các ông dân biểu, các quan thượng thư …với mục đích sửa lưng các ông, xin các ông nhớ đến dân đến nước, và làm cho công chúng hiểu đời sống chính trị hơn… Những năm sau có thêm Bang Bạnh và Ba Ếch trong thể giới hoạt kê đó, giúp các họa sĩ tạo được nhiều màu sắc, nhiều khía cạnh sâu xa hơn trước. Tuy nhiên, hai nhân vật này không được yêu thích bằng Lý Xã.
Cũng với lý tưởng làm thay đổi
bộ mặt xã hội, dân sinh, TLVĐ và
các họa sĩ, kiến trúc sư đã
giới thiệu cách sống mới hợp vệ
sinh, kiểu nhà mới Ánh Sáng và
nhất là việc sáng tác áo dài
kiểu mới Lemur cho phụ nữ, một thành
công vang dội, tới ngày nay “áo
dài”còn chịu nhiều ảnh hưởng.
Trong
khi đó Tứ Ly Hoàng Đạo viết
hàng loạt bài trên Phong Hóa Ngày
Nay như Trước Vành Móng Ngựa, Bùn
Lầy Nước
Đọng, Công
Dân Giáo Dục, Có Cứng Mới Đứng
Đầu Gió (ký tên Tường
Vân),… kể chuyện trong tòa án,
giải nghĩa nhiệm vụ công dân, chỉ
dẫn cho dân chúng về pháp luật,
để họ hiểu và biết cách
sống, cách cư sử cho khỏi bị ép
buộc vô lý, và cũng để tờ
báo mưu tính
những cải cách về xã hội.
(Trong
bài viết ngắn này, chúng tôi
không nói tới sự nghiệp văn
chương lừng lẫy của các văn
hào, thi bá, thành viên Tự Lực
Văn Đoàn, mà chỉ xin nhắc thêm
rằng các tiểu thuyết, thơ mới,
kịch nói…của các vị, đã
làm say mê bao thế hệ người Việt,
đã thay đổi cách viết, cách
sử dụng chữ Việt, văn chương
Việt, đã trợ giúp rất nhiều
cho công việc cải tạo xã hội về
mọi mặt).
Ngắm lại những bức tranh Lý Toét
thật lý thú, báo Phong Hóa Ngày
Nay có khá nhiều: gần 1000 tấm. Hai
khía cạnh mỹ thuật và khôi hài,
đã trộn vào nhau rất ăn ý.
Chúng là một sáng tạo tài
tình gồm cả đông lẫn tây,
cả xưa lẫn nay, trong suốt một thập
niên đã nở rộ đến không
ngờ: Phong Hóa và Ngày Nay càng
ngày càng càng đông người
đọc, đã trở thành một tờ
báo không đối thủ trong làng báo
lúc đó, mà cũng có lẽ cả
lịch sử báo chí Việt Nam xưa
nay.
Có lần tờ báo Xuân Phong Hóa đã phải xuất bản lần thứ hai, vì nhu cầu bạn đọc. Trong tinh thần phản đối Khổng giáo lỗi thời hành hạ con người, đả phá thái độ phong kiến quan lại cũ, chế diễu lòng mê tín ngu muội, tố cáo sưu cao thuế nặng của tờ báo, những tấm tranh bé nhỏ đã đụng được tới rất nhiều vấn đề, rất nhiều hủ tục, thói xấu, đã phá bớt “những ý kiến cổ hủ, nó làm mờ mịt khối óc người ta” Riêng những vấn đề xã hội, chính trị thực sự, chỉ được nói đến một cách rất nhẹ nhàng, chúng được giấu rất kỹ để tránh kiểm duyệt rất khắt khe của thực dân Pháp…. Tuy vậy, ngày 31 tháng 5 năm 1935, Phong Hóa đã bị Thống sứ Bắc Kỳ đình bản ba tháng. (Tới nay, không ai biết tại sao báo bị đóng cửa.
Có người cho là do loạt bài “Thần thoại tân thời” Hậu Tây Du Ký nói động đến Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng cuả triều đinh Huế… có người cho là do bài phóng sự sắc bén về Hoàng Trọng Phu... đều do Hoàng Đạo viết. Tất cả chỉ là phỏng đoán, theo cuốn Tiếng Cười của Tú Mỡ, (Vu Gia, cuốn Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, (6)). Theo Martina Nguyễn Thục Nhi: “Do cả hai điều trên”, trong hồ sơ của phòng nhì Pháp: việc đóng cửa ba tháng báo Phong Hóa là do báo này đã chế giễu các quan lại An Nam.
Có lần tờ báo Xuân Phong Hóa đã phải xuất bản lần thứ hai, vì nhu cầu bạn đọc. Trong tinh thần phản đối Khổng giáo lỗi thời hành hạ con người, đả phá thái độ phong kiến quan lại cũ, chế diễu lòng mê tín ngu muội, tố cáo sưu cao thuế nặng của tờ báo, những tấm tranh bé nhỏ đã đụng được tới rất nhiều vấn đề, rất nhiều hủ tục, thói xấu, đã phá bớt “những ý kiến cổ hủ, nó làm mờ mịt khối óc người ta” Riêng những vấn đề xã hội, chính trị thực sự, chỉ được nói đến một cách rất nhẹ nhàng, chúng được giấu rất kỹ để tránh kiểm duyệt rất khắt khe của thực dân Pháp…. Tuy vậy, ngày 31 tháng 5 năm 1935, Phong Hóa đã bị Thống sứ Bắc Kỳ đình bản ba tháng. (Tới nay, không ai biết tại sao báo bị đóng cửa.
Có người cho là do loạt bài “Thần thoại tân thời” Hậu Tây Du Ký nói động đến Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng cuả triều đinh Huế… có người cho là do bài phóng sự sắc bén về Hoàng Trọng Phu... đều do Hoàng Đạo viết. Tất cả chỉ là phỏng đoán, theo cuốn Tiếng Cười của Tú Mỡ, (Vu Gia, cuốn Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, (6)). Theo Martina Nguyễn Thục Nhi: “Do cả hai điều trên”, trong hồ sơ của phòng nhì Pháp: việc đóng cửa ba tháng báo Phong Hóa là do báo này đã chế giễu các quan lại An Nam.
Ngày
5-6-1936, Phong Hóa số 190 đăng một
tranh Lý Toét vẽ nhái theo chuyện
“Tam anh chiến Lã Bố” của Tam
Quốc Chí, rất đẹp, không có
chữ ký họa sĩ. Ngắm nét bút
đặc biệt sống động, ta có
thể nhận ra họa sĩ vẽ tranh là Tô
Tử tức Tô Ngọc Vân, một trong
những họa sĩ chính của Phong Hóa
thời đó. Theo thông lệ, các
tranh khôi hài thường được
mang ra bàn luận trong giờ làm việc
chung của cả tòa soạn. Một bức
tranh nhiều ẩn ý sâu xa, mà không
ký tên tác giả chắc là do sự
góp ý của nhiều thành viên tòa
soạn.
Theo sách Tam Quốc Chí, vào đầu
công nguyên ba nước Ngụy, Thục,
Ngô chia nhau nước Tầu, tranh giành
quyền lực, gây chiến tranh dài cả
trăm năm. Trong một trận đánh quyết
liệt, tam anh, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương
Phi, nước Thục, cùng nhau vây đánh
Lã Bố, nước Ngụy. Lã Bố
tuy là đại tướng nổi tiếng
vô địch, nhưng mãnh hổ nan địch
quần hồ, đã thua. Truyện này rất
phổ thông ở Việt Nam, trước đây
gần như ai cũng biết. Trong các buổi
diễn tuồng cổ, màn này thường
được trình bầy rất sôi nổi,
các diễn viên hóa trang kiểu xưa,
mặt mày tô màu xanh đỏ rực
rỡ, áo mũ tuồng lộng lẫy xênh
xang, biểu diễn múa võ cao cường,
trong tiếng chiêng trống rộn ràng, và
nhiều khi cả tiếng la hét cổ vũ
của người xem.
Bức tranh này vẽ: “ba con chó cắn
bố Lý Toét”, có con trai Lý
Toét đứng ngoài xem, dơ tay múa
chân reo hò: “A ha! Tam anh chiến nhất
Bố!”
Thật là một câu dùng điển
Tam Quốc “Tam anh chiến Lã Bố”
để ví tuyệt hay. Tuyệt hay, vì
hai câu có cấu trúc hoàn toàn
giống nhau, diễn tả hai trận đánh
hoàn toàn khác nhau. Do cách dùng
hai nghĩa của chữ “Bố”: Bố
là tên của đại tướng nước
Tầu: Lã Bố, mà “bố” cũng
là bố của đứa con đang đứng
ngoài dơ chân muá tay reo hò.
Đọc câu điển Tam Quốc, ta chỉ
cần thay chữ “Lã” bằng chữ
“nhất” là biến thành câu
ví, câu reo của con Lý Toét: Chuyện
chiến đấu hào hùng trong sử Tầu
biến thành chuyện Lý Toét la ó
chống chọi với ba con chó dữ. Nó
làm người xem tranh cảm được
ngay, và cũng đau nhói lòng ngay, vì
thấy đứa con trai reo hò vui thích
trước sự nguy khốn của bố mình. Đó là:
- Con vô cảm, vô ý thức hay còn
quá trẻ dại không biết rằng bố
đang lâm nguy bởi ba con chó dữ tấn
công? Cùng lúc, nó nhắc người
xem tranh:
Lý Toét có mặt trên Phong Hóa
từ số đầu tới nay, Lý Toét
tượng trưng cho Phong Hóa:
- Độc giả có biết rằng báo
Phong Hóa đang trong cơn khốn khó, có
cơ nguy bị Pháp đóng cửa, rút
giấy phép vĩnh viễn bất cứ lúc
nào? (như rất nhiều báo thời đó,
không được giải thích tại
sao)
Lý Toét, nhân vật thấm đẫm
đặc tính dân tộc, những xấu
tốt của vốn cổ, tượng trưng
cho đất nước lúc này:
- Quốc dân có biết rằng đất
nước mất chủ quyền, đang bốn
bề thọ địch? (‘Địch”
là thực dân Pháp, là sự ngu
tối, dốt nát của đại đa số
dân chúng, là sự chia rẽ của
các đảng phái trong nước, nguy cơ
nội chiến…)
Trong cảnh tình như thế, bố Lý
Toét làm sao sống nổi! Than ôi! Đó
cũng là tiếng kêu cứu của Phong
Hóa! Trùng hợp làm sao, đúng
lúc đó thực dân kiểm duyệt
đóng cửa báo. Báo Phong Hóa bị
chết ngay sau số 190 này (05/06/1936) !
May
thay, báo Ngày Nay hãy còn giấy
phép, (Ngày Nay là báo dự phòng
của TLVĐ, do Nguyễn Tường Cẩm, anh
ruột Nguyễn Tường Tam, một công
chức, đứng tên, NN số 1 ra ngày
30/01/1935) nên Tự Lực Văn Đoàn
còn hoạt động thêm được
mấy năm nữa. Lý Toét còn tiếp
tục sống, tiếp tục kể chuyện đời
trên báo.
Phải
đến thời Mặt Trận Bình Dân
cầm quyền ở Pháp, những lời mong
cầu tự do, bỏ kiểm duyệt, bớt
thuế… mới được viết
ra một cách công khai. Những tưởng
Mặt Trận Bình Dân thuộc
tả phái, sẽ nới lỏng chế độ
bảo hộ. Mà không! Tất cả những
lời hứa chỉ là bánh vẽ, báo
chí vẫn chịu
chế độ
cũ, bởi
vì bên Pháp vẫn còn Bộ Thuộc
Địa, thực hành chủ trương
khai thác thuộc địa, phục vụ Mẫu
Quốc. Sau này, dù trong thế
chiến thứ II, dù năm 1939 Paris đã
bị Đức Quốc Xã chiếm đóng,
chế độ Bảo Hộ ở Bắc Kỳ
vẫn rất khắt khe: Báo Ngày Nay bị
đóng cửa vĩnh viễn
năm 1940, người viết báo bị bắt
bỏ tù (Hoàng Đạo, Khái Hưng,
Nguyễn Gia Trí… bị giam, bị tra tấn
dã man…từ 1941 tới 1943, tại Vụ
Bản, Hoà Bình (5).
Trong
bức tranh Mẫu Quốc (nước mẹ), dưới
đây, Ngày Nay số 110, 1936, nhân Uỷ
Ban điều
tra do Pháp gửi
sang việt Nam sắp
làm xong công
việc. Hy vọng của quốc
dân là:
Chắc sẽ có
kết quả tốt? Họa sĩ Rigt Nguyễn Gia Trí viết một
câu chửi đổng:
-
Ồ, trông mong… nước mẹ gì!
Thế rồi tới giữa năm 1940, báo Ngày Nay cũng bị đóng cửa rút giấy phép.
Sau một vài cố gắng cuả Khái
Hưng, Thạch Lam ra báo, sách... đều
chết yểu, các thành viên phân
tán, văn đoàn Tự Lực tan đàn
sẻ nghé: Người chết vì bệnh,
người bị Pháp bắt bỏ tù,
an trí, người trốn sang Tầu làm
cách mạng, người đi xa lánh nạn,
người quay sang kịch… Chỉ còn
nhà xuất bản Đời Nay sống lay
lắt, in sách bán… Tới tháng
4-1945 còn xuất bản cuốn thơ Hoa Niên
của Tế Hanh, (Tế Hanh cùng Anh Thơ được
giải thưởng thơ của TLVĐ năm
1939, năm cuối còn có phát thưởng,
trước khi báo NN đóng cửa). Tôi
không biết Hoa Niên có phải là
cuốn sách cuối của Đời Nay hay
không.
Và cuối cùng, tới tháng 5-1945 báo
Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra đời,
Hoàng Đạo phụ trách mục “Kiểm
diểm chính trường Việt Nam” (Hồ
Hữu Tường, Nguyễn Tường Long, nhà
chính trị, Tạp chi Văn, số 107) Báo
ra được 16 số là hết. Tới
giữa năm 1946, nhà in được mang
bán, chia tiền cho các thành viên.
Từ đó tới nay, chúng ta chưa bao
giờ thấy lại một văn đoàn,
một nhóm văn nghệ sĩ tài năng
như thế, chung sức làm được
một kho tàng văn hóa thành công
như thế nữa. Tất cả chỉ còn
là bóng con chim nhạn bay qua ngang trời…
Tôi còn nhớ khi còn rất nhỏ,
được biết hai nhân vật huyền
thoại Lý Xã qua một bài hát
do các chị dạy truyền khẩu, trước
khi đi học chữ, để có thể
đọc được tiểu thuyết của
TLVĐ (mà phải đọc lén, vì
gia đình tôi cấm con gái đọc
tiểu thuyết). Đó là bài hát
sau đây, tuy tôi thuộc nằm lòng
nhưng không biết tác giả là ai,
phải hay không phải là người của
Văn Đoàn Tự Lực:
Ông Lý Toét mà cắp cái ô
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Phạm Thảo Nguyên
Thư mục:
(1) NguyễnMạnhHùng, Đi tìm gia phả
hai nhân vật ảo Lý Toét và Xã
Xệ, Đại học Hồng Bàng,
(2) Georges Mignon, Nụ Cười ở Cõi Tân
Á, L’Asie Nouvelle. Phong Hóa,
số 109,trang 9
(3) George Dutton, Lý Toét in the City: Coming to Terms
with the Modern in 1930s Vietnam, Journal of Vietnamese Studies, vol
2, Issue 1, pps 80-108
(4) Hoàng Đạo, Trả Lời Tân Xã
Hội, Ngày Nay số 30, 18/10/1936.
(5) Theo Nguyễn Lân, con Hoàng Đạo:
Hoàng Đạo bị Pháp bắt cùng
Nguyễn Gia Trí, giam ở Vụ Bản. Bà
Hoàng Đạo đi thăm, mang về một
chiêc áo đầy máu. Khi được
tha về, ông bị đau tim nặng.
(6) Vu Gia, Hoàng Đạo, nhà báo, nhà
văn, nxb Văn Hóa, Hà Nội, 1997.
(7) Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã
Xệ hai siêu sao của biếm họa Việt
Nam, Thể Thao -Văn Hóa 5/7/2008.
(8) Lý Trực Dũng, Sức sống của Lý
Toét Xã Xệ, báo Thể Thao - Văn
Hóa 7/7/2008.
(9) Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã
Xệ: Nạn nhân hay chứng nhân, báoThể
Thao - Văn Hóa 8/7/2008.
(10) Tú Mỡ, Tiếng Cười, nxb Hội
nhà văn, 1993
TỔ CHƯC NHÂN QUYỀN PHẢN ĐỐI VIỆT CỘNG
*******************************************************************************************************************************************
Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam
& Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : queme.democracy@gmail.com
Web : http://www.queme.net
*******************************************************************************************************************************************
Quê Mẹ : Hành động cho Dân chủ Việt Nam
& Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail : queme.democracy@gmail.com
Web : http://www.queme.net
*******************************************************************************************************************************************
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS-GENÈVE NGÀY 29-6-2017
Ba Tổ chức Nhân quyền Quốc tế phản đối bản án 10 năm tù cho Mẹ Nấm
Ngày 29 tháng 6 hôm nay, Toà án Nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã kết án Nguyễn Ngọc Như Quỳnh 10 năm tù giam vì tội “tuyên truyền chống phá Nhà nước” chiếu điều luật 88 của bộ Luật Hình sự Việt Nam.
Chủ tịch Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền, ông Dimitris Christopoulos nói rằng : “Qua việc bỏ tù Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, chính quyền Việt Nam tỏ ra không thật lòng khi họ tuyên bố tôn trọng nhân quyền. Thực tế cho thấy Việt Nam là quốc gia nguy hiểm đối với những Người Bảo vệ Nhân quyền và cho bất cứ ai phê phán ôn hoà chính phủ”.
Nguyễn Ngọc Như Quỳnh lãnh án tù 10 năm tại phiên xử hôm nay,29-6-2017 tại Toà án Nhân dân tỉnh Khánh Hoà
Bị bắt giam từ ngày 10 tháng 10 năm 2016, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
là một trong những Người Bảo vệ Nhân quyền đầu tiên sử dụng Internet và
các mạng xã hội để thu tập các vi phạm nhân quyền của Nhà cầm quyền. Bị
bắt lần đầu năm 2009, bà tiếp tục không ngừng phê phán chính quyền về
các vấn nạn xã hội và chính trị.
Tháng tư năm 2016, bà viết về sự quản lý tồi tệ của nhà cầm quyền trên
những vấn đề trầm trọng ô nhiễm nước và việc cá chết hàng loạt do công
ty Formosa thải chất độc dọc bờ biển ba tỉnh miền Trung. Trong một tài
liệu mang tựa đề “Công an hãy ngừng thảm sát dân sự”, Mẹ Nấm đã tiết lộ
nhiều trường hợp công an bạo hành và tra tấn đến chết những người trong
trại giam.
Ông Gerard Staberock, Tổng Thư ký Đài Quan sát bảo vệ các Nhà bảo vệ Nhân quyền (OMTC) nói rằng : “Án
tù dành cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là điều điếm nhục, minh hoạ cho những
nỗ lực có cân nhắc của chính quyền để bóp miệng mọi tiếng nói bất đồng
chính kiến trên toàn quốc. Chúng tôi kêu gọi trả tự do tức khắc và vô
điều kiện cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, khi sự giam tù của bà chỉ nhắm
trừng phạt những hành động chính đáng và ôn hoà phục vụ nhân quyền”.
Vì lập trường mạnh mẽ cho nhân quyền của con, mà thân mẫu của Như Quỳnh
và những người thân thuộc trong gia đình đã bị Nhà cầm quyền theo dõi và
sách nhiễu. Sức khoẻ của Như Quỳnh suy yếu trầm trọng do bị giam giữ cô
lập từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 6 năm 2017, và bà không có cơ hội để
chuẩn bị cho việc bào chữa.
Trong bản Ý Kiến công bố hôm 30 tháng 5 năm 2017 của Tổ hành động LHQ
chống bắt giam tuỳ tiện (WGAD) xác nhận rằng việc bắt giam Nguyễn Ngọc
Như Quỳnh là tuỳ tiện, vi phạm các quyền tự do, với sự xét xử công
minh, tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hoà, và tự do lập hội. Tổ Hành
động LHQ kết luận rằng “Việc bắt bớ và giam cầm [Nguyễn Ngọc Như Quỳnh]
nhằm hạn chế các hoạt động bảo vệ nhân quyền của bà (1). Tổ Hành động
LHQ kêu gọi Nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do tức khắc cho Nguyễn Ngọc
Như Quỳnh và xác nhận việc bắt bớ bà là tuỳ tiện. Đồng thời, Tổ Hành
động LHQ áp lực chính quyền Việt Nam đưa điều 88 trong bộ Luật Hình sự
Việt Nam tuân thủ với các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực
nhân quyền.
Chủ tịch Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, ông Võ Văn Ái bình luận rằng : “Án
tù quá nặng đánh xuống cá nhân bà Như Quỳnh và sự đàn áp bất nhân đối
với những người bảo vệ nhân quyền là thành quả của việc sử dụng quá
nhiều các điều luật áp bức cần phải bãi bỏ tức khắc. Chính quyền cần lợi
dụng việc chỉnh sửa hiện hành bộ Luật Hình sự để huỷ bỏ điều 88 và
những điều luật hà khắc khác”.
- FIDH / Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền : Samual Hanryon (nói tiếng Pháp
hay tiếng Anh) Đt +33 6 72 28 42 94 (Paris) / Andrea Giorgetta (nói
tiếng Anh) Đt : +66886117722 (Bangkok)- VCHR (Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm
Người Việt Nam) : Penelope Faulkner Đt +33 1 45 98 30 85 (nói tiếng Anh,
Pháp hay Việt) (Paris)
- OMCT : Delphine Reculeau (nói tiếng Pháp hay tiếng Anh) Đt +41 22 809
49 39 (Genève)
(1) Ý Kiến của Tổ Hành động LHQ chống bắt bớ trái phép
A/HRC/WGAD/2017/27, THÔNG QUA Khoá họp lần thứ 77 (19 – 28 tháng Tư năm
2017) hôm 30 tháng 5 năm 2017.
ĐÀI PHẬT GIÁO VIỆT NAMXin mời nghe Bản Tin ông Võ Văn Ái tố cáo Hà Nội trước LHQ
& Mục “Thế Giới Ủng Hộ Chúng Ta” qua tiếng nói của Ỷ Lan
& Mục “Thế Giới Ủng Hộ Chúng Ta” qua tiếng nói của Ỷ Lan
Chương trình thứ Sáu 30-6-2017 tuần này xin mời nghe Bản
Tin Trong Tuần về 3 Tổ chức Nhân quyền Quốc tế phản đối bản án 10 năm
tù cho Mẹ Nấm — Tin ông Võ Văn Ái tố cáo Hà Nội trước LHQ &
Mục “Thế Giới Ủng Hộ Chúng Ta” với chuyến đi Saigon của Dân biểu Quốc
hội Châu Âu Olivier Dupuis, qua lời phát biểu của Cư sĩ Ỷ Lan. Xin bấm vào dưới đây để nghe, trường hợp không thể bắt sóng vào lúc 19 giờ / giờ Việt Nam trên làn sóng ngắn 31 mét 9930 kilô Hertz :
Bấm vào dưới đây để tìm nghe Chương trình thứ sáu này :
GIAO THANH PHẠM * CÁI CHẾT CỦA MỘT DÂN TỘC
Cái chết của một dân tộc.
Giao Thanh Pham
Chiến
lược cưỡng chiếm lãnh thổ Việt Nam, rồi Hán hóa người dân Việt đã được
nhà cầm quyền Bắc Kinh toan tính từ rất lâu. Đối với thế giới thì biển
Đông thật quan trọng nhưng riêng đối với Trung cộng
thì biển Đông là cái yết hầu đưa thực phẩm qua cổ họng xuống bao tử, là
đôi cánh cho con cọp hung dữ. Tuy vậy, không có một chiến lược bành
trướng nào mà không có cái giá của sự đổ máu phải trả ngoại trừ chiến
lược thôn tính Việt Nam của Tàu vào cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21.
Vào mùa Thu năm 1989, khi các quốc gia cs bên Đông Âu sụp đổ, nó đã khiến cho đảng cs Việt
Nam phải lo sợ sẽ trở thành nạn nhân của sự sụp đổ dây chuyền đó. Bởi
thế vào tháng 9 năm 1990, TBT đảng lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Linh, cùng
với chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng kéo nhau sang Tàu, ký giấy bán nước qua tay Giang Trạch Dân và Lý Bằng, ngõ hầu níu kéo và giữ cho được cái bộ máy cai trị là đảng cs của họ. Đó là một văn kiện không gì khác hơn là việc ký giao kèo THỦ TIÊU CẢ MỘT DÂN TỘC.
Muốn xua quân sang xâm chiếm Việt Nam thì không phải là chuyện dễ. Cái giá máu và sinh mạng phải trả khó mà lường được và chắc chắn sẽ không thể nhỏ. Thế nhưng, Trung cộng không cần phải làm thế, vì cái con ngựa thành Troy của họ, đã được Nguyễn Văn Linh và đồng đảng mang về nước, nằm mai phục sẵn để bắt đầu cái chương trình phá hoại từ trong ra. Cái chiến dịch dầu loang đó, tuy mất nhiều thời gian nhưng lại không tốn một viên đạn, một giọt máu của người Hán, cũng như không gặp một sự phản kháng nào từ người dân Việt Nam. Nó chậm chạp nhưng chắc chắn. Và một điều chúng ta có thể thấy rất rõ là nó hoàn hảo đến độ Tàu có thể cưỡng chiếm đến 100% giang sơn đất nước Việt, xóa sổ 100% dòng giống và ngôn ngữ Việt, mà không gặp phải một sự chống cự nào.
Muốn xua quân sang xâm chiếm Việt Nam thì không phải là chuyện dễ. Cái giá máu và sinh mạng phải trả khó mà lường được và chắc chắn sẽ không thể nhỏ. Thế nhưng, Trung cộng không cần phải làm thế, vì cái con ngựa thành Troy của họ, đã được Nguyễn Văn Linh và đồng đảng mang về nước, nằm mai phục sẵn để bắt đầu cái chương trình phá hoại từ trong ra. Cái chiến dịch dầu loang đó, tuy mất nhiều thời gian nhưng lại không tốn một viên đạn, một giọt máu của người Hán, cũng như không gặp một sự phản kháng nào từ người dân Việt Nam. Nó chậm chạp nhưng chắc chắn. Và một điều chúng ta có thể thấy rất rõ là nó hoàn hảo đến độ Tàu có thể cưỡng chiếm đến 100% giang sơn đất nước Việt, xóa sổ 100% dòng giống và ngôn ngữ Việt, mà không gặp phải một sự chống cự nào.
Người
Việt chúng ta thường mang những chiến tích hào hùng của ngày xa xưa ra
kháo với nhau, như là để tự dối mình, như là để tự trấn an mình, tự tạo
ra những ảo giác làm mờ đi cái tương lai thảm hại sẽ đến trong nay mai.
Mặc dầu mọi người trong chúng ta, ai cũng hiểu được rằng, những chiến
thắng Đống Đa, Bạch Đằng hay Chi Lăng của lịch sử đó, nó bao gồm lòng
yêu nước mà toàn dân như một của mọi con dân đất Việt, từ vua quan đến
dân chúng trăm họ. Chứ không như bây giờ, khi các tướng lãnh quân đội,
chỉ biết luôn trung thành với đảng và nhất là chỉ luôn cúi đầu làm tôi
mọi cho tiền tài của cải, qua các việc cướp đất, mua bán và làm thương
mại.
TRÊN DƯỚI KHÔNG MỘT LÒNG THÌ CHIẾN ĐẤU LÀM SAO?
DÂN TRONG TAY KHÔNG MỘT TẤC SẮT THÌ LÀM SAO ĐUỔI GIẶC?
GIẶC Ở ĐÂU? KẺ THÙ CỦA TA LÀ AI? CHÚNG MẶC QUÂN PHỤC GÌ?
*****
Suốt 27 năm qua, kể từ năm 1990 khi đảng bán nước ký kết Hiệp Ước Thành Đô đến nay, cái cũi thép vây bọc toàn cõi đất nước đã được Trung cộng xây dựng một cách tuyệt hảo, mà cả chín mươi mấy triệu người dân Việt vẫn không một chút động tịnh. Cái cũi ấy nay đã bao bọc bốn hướng chung quanh cái dải đất hình chữ S như một cái cũi thép khổng lồ, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ suốt chiều dài hơn hai ngàn cây số bờ biển, đến dọc đường Trường Sơn qua Hạ Lào xuống tới Krong Preah của Cam Bốt, trùm luôn đảo Phú Quốc cách đó mươi hải lý. Con dân Việt có mấy người biết điều này? Thử nhìn lại bản đồ xem.
Đường biển, đường bộ đã được Trung cộng và bọn Hán nô vây bọc kín không một lối thoát, ngay cả đường lên trời chúng cũng kiểm soát và chế ngự 100%.
Có ai còn nhớ vụ 2 chiếc SU 22 rơi gần đảo Phú Quý, Bình Thuận tháng 4 năm 2016?
Rồi chỉ hơn 2 tháng sau tháng 6 năm 2016, có ai còn nhớ chiếc chiến đấu cơ tối tân nhất, SU 30MK2 của không quân Việt Nam bị nghi ngờ là do hỏa tiễn Trung cộng bắn rớt ở vùng đảo Phú Lâm, Hoàng Sa?
Có ai còn nhớ chiếc máy bay “cứu cấp” CASA 212 bị mất tích cùng ngày trong thời điểm tìm kiếm ở gần đảo Bạch Long Vĩ?
Chỉ vài tháng sau, tất cả những chiếc máy bay “bị bắn rớt” đó, đã bị người dân lãng quên không còn một chút nghi ngại.
Có ai còn nhớ những vụ “mất sóng không lưu” liên tiếp xảy ra hàng năm kể từ 2015 cho đến nay, khiến sân bay Tân Sơn Nhất hoàn toàn tê liệt trong một thời gian dài cả mấy chục phút? Rồi lại còn những “tín hiệu lạ”, những
TRÊN DƯỚI KHÔNG MỘT LÒNG THÌ CHIẾN ĐẤU LÀM SAO?
DÂN TRONG TAY KHÔNG MỘT TẤC SẮT THÌ LÀM SAO ĐUỔI GIẶC?
GIẶC Ở ĐÂU? KẺ THÙ CỦA TA LÀ AI? CHÚNG MẶC QUÂN PHỤC GÌ?
*****
Suốt 27 năm qua, kể từ năm 1990 khi đảng bán nước ký kết Hiệp Ước Thành Đô đến nay, cái cũi thép vây bọc toàn cõi đất nước đã được Trung cộng xây dựng một cách tuyệt hảo, mà cả chín mươi mấy triệu người dân Việt vẫn không một chút động tịnh. Cái cũi ấy nay đã bao bọc bốn hướng chung quanh cái dải đất hình chữ S như một cái cũi thép khổng lồ, từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ suốt chiều dài hơn hai ngàn cây số bờ biển, đến dọc đường Trường Sơn qua Hạ Lào xuống tới Krong Preah của Cam Bốt, trùm luôn đảo Phú Quốc cách đó mươi hải lý. Con dân Việt có mấy người biết điều này? Thử nhìn lại bản đồ xem.
Đường biển, đường bộ đã được Trung cộng và bọn Hán nô vây bọc kín không một lối thoát, ngay cả đường lên trời chúng cũng kiểm soát và chế ngự 100%.
Có ai còn nhớ vụ 2 chiếc SU 22 rơi gần đảo Phú Quý, Bình Thuận tháng 4 năm 2016?
Rồi chỉ hơn 2 tháng sau tháng 6 năm 2016, có ai còn nhớ chiếc chiến đấu cơ tối tân nhất, SU 30MK2 của không quân Việt Nam bị nghi ngờ là do hỏa tiễn Trung cộng bắn rớt ở vùng đảo Phú Lâm, Hoàng Sa?
Có ai còn nhớ chiếc máy bay “cứu cấp” CASA 212 bị mất tích cùng ngày trong thời điểm tìm kiếm ở gần đảo Bạch Long Vĩ?
Chỉ vài tháng sau, tất cả những chiếc máy bay “bị bắn rớt” đó, đã bị người dân lãng quên không còn một chút nghi ngại.
Có ai còn nhớ những vụ “mất sóng không lưu” liên tiếp xảy ra hàng năm kể từ 2015 cho đến nay, khiến sân bay Tân Sơn Nhất hoàn toàn tê liệt trong một thời gian dài cả mấy chục phút? Rồi lại còn những “tín hiệu lạ”, những
“sóng lạ quấy phá” liên tục khiến cho dưới đất, trên không hoàn toàn mất kiểm soát và liên lạc?
Cái cũi thép ấy nó bao bọc hoàn toàn đất nước Việt Nam mà không còn chừa ra một khe hở, ngay cả đường lên trời.
*****
Suốt hơn 20 năm qua, Trung cộng ráo riết xây dựng 7 đập nước khổng lồ chặn trên thượng nguồn của dòng Mekong, mang tên sông Lancang ở Tàu, nguồn nước cung cấp thủy sản lớn nhất của miền Nam Việt Nam. Cũng nhờ nguồn nước này, là nguồn mạch nuôi sống cái vựa lúa khổng lồ của miền Nam Việt Nam suốt hơn trăm năm qua.
Trong 20 năm tới, chính quyền Bắc kinh sẽ cho ráo riết xây thêm 21 cái đập nữa, trước khi dòng sông này rẽ sang Miến Điện, Lào, Cam Bốt rồi mới đến Việt Nam. Chỉ với 7 cái đập thôi mà mấy năm vừa qua, những nông dân miền Tây đã phải khốn đốn, khi hạn hán thì thiếu nước, khi mưa nhiều ở thượng nguồn thì lại lãnh đủ ngập lụt. Việt Nam nằm trong địa hình là vùng đất sau cùng của con sông Mekong trước khi chảy ra biển, sau khi qua tay của 4-5 quốc gia, mà Tàu nắm hết quyền hành trong tay, thì có khác gì cảnh cá chậu chim lồng?
Hạ nguồn của dòng sông Lancang này ở Tàu tiếp tục chảy xuống miền Nam, cung cấp tới 45% lượng nước cho toàn khu vực trong mùa khô. Trong thời điểm hiện tại, lượng nước chảy trong mùa khô chỉ còn chưa tới 30%. Điều này ảnh hưởng vô cùng quan trọng đến hệ thống sinh thái: be bờ khô lở lói. Ít nước thì nhiệt độ của nước sông tăng lên. Nhiệt độ tăng thì ảnh hưởng đến môi sinh, đến việc sinh sản và phát triển của thủy sản ... vân vân và vân vân.
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐÃ HOÀN TOÀN NẰM TRONG BÀN TAY KỀM KẸP CỦA TRUNG CỘNG. SÔNG CỬU LONG GIỜ KHÔNG KHÁC CHI CÁI ỐNG NƯỚC KHÔNG LỒ MÀ TRUNG CỘNG NẮM TRONG TAY CÁI KHÓA ĐÓNG MỞ. XẢ ĐẬP THÌ NGẬP LỤT, KHÓA ĐẬP THÌ HẠN HÁN.Hai mươi năm tới, sau khi Trung cộng đã hoàn tất 21 dự án của 21 cái đập mới ở hạ nguồn sông Lancang, thì chắc chắn rằng, dòng sông Mekong 9 nhánh ở Việt Nam, chỉ còn lại trong ... lịch sử.
Biển miền Trung, các khu vực yết hầu miền Trung, khu Bô Xít Tây Nguyên và trong 2 năm tới đây, những nhà máy thép, nhà máy giấy, đại loại là NHỮNG NHÀ MÁY THẢI ĐỘC CHẤT KHỔNG LỒ TRÊN TOÀN CÕI ĐẤT NƯỚC SẼ ĐƯỢC MỌC LÊN NHƯ NẤM SAU CƠN MƯA thì thử hỏi có còn con đường nào dành cho số phận người dân Việt?
Biển chết, đồng bằng ngập mặn, rừng bị tàn phá, đất nước tan hoang, Việt Nam giờ chỉ như một khu xả thải công nghiệp khổng lồ của Tàu, rộng hơn 330 ngàn km vuông, không hơn không kém.
Tất cả những đại nạn kể trên, cộng với độc chất mà đảng và nhà nước cs, đã và đang mở cửa ngỏ cho phép Tàu xâm nhập tự do vào Việt Nam, biến chế thành sản phẩm góp mặt trên bàn ăn của người dân Việt ... thì sẽ chẳng còn bao lâu nữa.
CÁI CHẾT CỦA MỘT DÂN TỘC được Tàu và nhà cầm quyền Bắc Kinh bày ra trước mắt nhưng nạn nhân lại chẳng ai mảy may rung động. Người ta nhìn những sự việc đó diễn ra như đang xem một bộ phim thời sự không mấy gì sinh động trên TV.
Tim tôi thắt lại khi nghe những dòng nhạc của nhạc sĩ Xuân Tiên, bài "Hận Đồ Bàn. " Ôi, sao nó giống như những lời tiên tri nói về MỘT DÂN TỘC VIỆT NAM nào đó ...
Rừng hoang vu!Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thùNgàn gió ruMuôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.Vạc kêu sương!Buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường.Đàn đóm vươngNhư bóng ai trong lúc đêm trường về.Rừng trầm cô tịchĐèo cao thác sâuĐồi hoang suối reoHoang vắng cheo leoNgàn muôn tiếng âmTháng, năm buồn ngân...Âm thầm hòa bài hận vong quốc ca.Người xưa đâu?