TS.NGUYỄNPHÚCLIÊN *KINHTẾ CHÍNHTRỊ
Nhân Bài Phân tích từ Thượng Hải của Ký giả Harold THIBAULT hôm nay 29.11.2011 với đầu đề:
LES CONFLITS SOCIAUX SE MULTIPLIENT
DANS LES USINES CHINOISES
(NHỮNG XUNG ĐỘT XÃ HỘI TĂNG GẤP BỘI
TRONG NHỮNG NHÀ MÁY TRUNG QUỐC
đăng trên Nhật báo LE MONDE 29.11.2011, trang 18, chúng tôi phổ biến lại bằng ÂM THANH (RFI) Bài về THẾ BÍ LƯỠNG NAN CHÍNH TRỊ-KINH TẾ TQ :
=> Bản chất Kinh tế Trung quốc như thế nào ?
=> Đâu là thế bí lưỡng nan mà Hoa kỳ & Liên Au đang bắt bí TQ ?
=> Khủng
hoảng Nợ Hoa kỳ & Liên Au đẩy Trung quốc vào thế TỰ NỔ : xuất
cảng thụt xuống đưa đến đóng cửa xí nghiệp và lao động thất nghiệp lan
tràn đưa đến bạo loạn xã hội và chính trị.
Mở đầu Bài Phân tích từ Thượng Hải, Ký giả Harold THIBAULT viết như sau :
«
L’indice de production industrielle compilé par la banque HSBC montre
que les commandes des entreprises chinoises ont reculé, en novembre, à
leur niveau le plus bas depuis trente-deux mois : cet indice se situe
à 48, selon une estimation préliminaire, contre 51 en octobre,
sachant qu’un chiffre inférieur à 50 indique une contraction de
l’activité «
(Chỉ
số sản xuất kỹ nghệ được sưu tập bởi Ngân Hàng HSBC (Hong
Kong-Shangai Bank Corporation) cho thấy rằng những đặt hàng mua từ
những xí nghiệp Trung quốc đã lùi hẳn xuống, trong tháng
11, tới mức độ thấp nhất từ 32 tháng trở lại đây : chỉ số này ở mức
48, theo ước tính tiên khởi, sánh với 51 vào tháng 10, cũng nên biết
rằng một con số bên dưới 50 chứng tỏ một sự thu teo nhỏ lại hoạt động. )
Xin lấy Attachment ÂM THANH (RFI) nói về thế bí Lưỡng nan Chính trị-Kinh tế Trung quốc.
Nguyễn Phúc Liên
Date: Friday, November 25, 2011, 10:07 AM
co audio cua LS Dinh Thach Bich voi bai viet cua TS Nguyen Phuc Lien ,
xin moi doc va nghe , pho bien rong rai dum , thanh that cam on .
Than Kinh .
VH
Von: NGUYEN PHUC LIEN <viettudan@yahoo.com>
An:
Gesendet: 7:06 Donnerstag, 24.November 2011
Betreff: [Little-SaiGon] LƯỠNG NAN CHÍNH TRỊ-KINH TẾ TQ
LƯỠNG NAN CHÍNH TRỊ-KINH TẾ TQ
******** Bản đính kèm / Attachment *******
|
LƯỠNG NAN
CHÍNH TRỊ-KINH TẾ TQ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 24.11.2011.
Web: http://VietTUDAN.net
(Nội dung tóm tắt bài viết này đã được phỏng vấn bởi Đài RFI chiều ngày 21.11.2011)
Trong
thời gian trước Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế 2008, Trung quốc đã
gian giảo hốt Mãi lực của hai Thị trường Hoa-kỳ và Liên Aâu. Hốt Mãi
lực để làm giầu cho mình, đồng thời tạo nợ nần và thất nghiệp cho hai
Thị trường này, nhưng Trung quốc đã không biết ơn mà còn lên mặt dậy
đời khi Hoa kỳ và Liên Aâu ø gặp khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế do Nợ
tư và Nợ công lúc này. Sở dĩ trong thời gian trước đây, Trung quốc có
thể gian giảo mà Hoa kỳ và Liên Aâu không làm mạnh bởi vì khối Tây
phương muốn nhằm vào Thị trường Trung quốc với khối người 1,5 tỉ để
mong bán những sản phẩm Kỹ nghệ cao. Với hoàn cảnh nợ nần và thất
nghiệp hiện nay của Hoa kỳ và Liên Aâu, Tây phương một mặt vỡ mộng bán
hàng cho Trung quốc, một mặt phải lo phục hồi Kinh tế của mình, nên
đã tỏ thái độ cứng rắn hơn đối kẻ gian giảo này bằng khai thác những
lưỡng nan của nền Kinh tế Trung quốc và đặt ra những điều kiện khét khe
cho việc hội nhập hàng hóa nước này. Hai tỉ dụ điển hình mới đây nhất
cho sự cứng rắn và thắt chặt điều kiện đối với Trung quốc, đó là việc
Liên Au từ chối đề nghị cứu nợ từ Trung quốc và việc Hoa kỳ đòi hổ
khắt khe điều kiện tham dự làm thành viên của Hiệp Hội Xuyên Thái Bình
Dương (Trans-Pacific Partnership).
Nền
Kinh tế Trung quốc có những LƯỠNG NAN không thể giải quyết mà phía
Tây phương đang khai thác để đẩy Trung quốc vào thế phải chấp nhận
thay đổi Chính trị hay chấm dứt gian manh Kinh tế. Nếu không thì chính
Trung quốc sẽ đi đến tự nổ từ nội bộ. Trước đây, trong cuộc Hội Nghị
về Hâm nóng Bầu khí tại Bắc Aâu, Oân Gia Bảo đã hống hách với
TT.Obama, thì ngày nay tại cuộc Họp APEC ở Hạ Uy Di, Hồ Cẩm Đào ý thức
được những LƯỠNG NAN nên xuống nước tiu nghỉu trước TT.Obama.
Chúng tôi bàn về những điểm sau đây:
=> Thực chất nền Kinh tế Trung quốc
=> Những Lưỡng Nan bế tắc của Kinh tế Trung quốc
=> Thái độ dứt khoát từ chối của Liên Au đối với đề nghị cứu nợ của Trung quốc
=> Điều kiện khắt khe của Hoa kỳ đối với việc hội nhập Trung quốc vào Hiệp Hội Xuyên Thái Bình dương
Thực chất nền Kinh tế Trung quốc
Chúng
tôi xin phân biệt tóm lược những nền Kinh tế để trong những đoạn dưới
chúng ta dễ hiểu sự từ chối của Liên Aâu đối với Trung quốc và những
điều kiện khắt khe mà Hoa kỳ đòi hỏi Trung quốc phải tuân thủ.
Hai
nền Kinh tế chính yếu đối nghịch nhau, đó là Kinh tế Tự do Thị trường
và Kinh tế Tập quyền Chỉ huy. Nền Kinh tế Tự do Thị trường lấy TƯ HỮU
những Phương tiện sản xuất làm nền tảng. Vì là tư hữu, nên Kinh tế
dựa trên những hoạt động cá nhân tự do. Thị trường cạnh tranh là yếu
tố điều hợp nền Kinh tế. Nền Kinh tế ấy đòi hỏi một Môi trường Chính
trị-Luật pháp Dân chủ phù hợp để phát triển.
Đối
nghịch lại là nền Kinh tế Tập quyền Chỉ huy. Nền Kinh tế này dựa trên
chủ trương CÔNG HỮU những Phương tiện sản xuất. Cá nhân không có tự
do cả về sản xuất lẫn tiêu thụ. Nhà Nước nắm giữ hoạch định sản xuất
và tiêu thụ. Không có Thị trường cạnh tranh mà chỉ có những Hợp tác xã
phân phối do Nhà Nước. Nền Kinh tế đòi hỏi một Môi trường Chính
trị-Luật pháp độc tài độc đảng.
Nền
Kinh tế Tự do Thị trường có Kích thích cá nhân tự động làm việc cho
hữu hiệu, trong khi đó nền Kinh tế Tập quyền Chỉ huy thiếu yếu tố Kích
thích cá nhân làm việc mà chỉ có kỷ luật ép buộc.
Từ
nền Kinh tế Tự do Thị trường, phát sinh ra nền Kinh tế mang thêm
Khuynh hướng Xã hội, nghĩa là khi làm Kinh tế, cũng cần lo thêm những
vấn đề trợ lực xã hội. Kinh tế với Khuynh hướng Xã hội
này đòi hỏi Nhà Nước có những can thiệp vào Kinh tế trong ý hướng bênh
đỡ tần lớp nghèo lao động. Xin chú thích: nền Kinh tế khuynh hướng Xã
hội khác hẳn với “Kinh tế Thị trường định hướng XHCN” mà CSVN đã tự
đặt ra cái tên này.
Nền
Kinh tế Trung quốc vẫn giữ những chủ trương chính yếu của nền Kinh tế
Chỉ huy Tập quyền: Nhà Nước độc tài độc đảng “Chủ đạo“ những sinh
hoạt Kinh tế. Đó là một nền Kinh tế mà quyền lực Chính trị độc tài vẫn
nắm chủ động những sinh hoạt Kinh tế quốc gia. Nền Kinh tế cho phép tư
hữu những thành quả Kinh tế. Chính cái quyền lực Chính trị độc tài
động đảng vẫn chủ đạo Kinh tế này mà phát sinh ra tham nhũng, hối lộ và
ô dù bao che nhóm đảng trong Kinh tế. Những người có quyền lực độc
đoán và những người liên hệ với quyền lực ấy nhằm làm giầu cho mình
bằng khai thác khối nhân lực. Để có thể khai thác khối nhân lực, phải
có quyền lực Chính trị độc tài ép buộc những điều kiện làm việc và
lương lậu đối với lao động. Nền Kinh tế ấy được gọi là Kinh tế nhóm
đảng hay mafia tạo thiểu số người giầu gọi là Tư bản đỏ. Những thu nhập
từ xuất cảng không được phân phối đồng đều.
Chính Thủ tướng Oân Gia Bảo ngày 14.03.2010, trước Quốc hội, đã tuyên bố:
“Sự phân phối không đồng đều thu nhập và tham nhũng sẽ tạo bất ổn xã hội và ngay cả bất ổn Chính trị “ (Le Monde 16.03.2010, trang 16)
Những Lưỡng Nan bế tắc của Kinh tế Trung quốc
Việc
phân phối không đồng đều những thu nhập như Thủ tướng Oân Gia Bảo
tuyên bố trên đây thuộc về thực trạng của sinh hoạt Kinh tế Trung quốc.
Trong thời gian Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế Thế giới 2008 cho đến
cuộc Khủng hoảng nợ công ngày nay 2011, Hoa kỳ và Liên Au luôn luôn
kêu gọi Trung quốc hãy tìm cách bằng những trợ lực xã hội để làm tăng
Mãi lực của dân chúng Trung quốc gồm 1.5 tỉ người để nâng khả năng
tiêu thụ Thế giới và như vậy kích cầu Kinh tế chung. Mặc khác, Hoa kỳ
yêu cầu Trung quốc để Tỷ giá đồng Nhân Dân Tệ cao lên và do đó dân
chúng Trung quốc có khả năng tiêu thụ hàng ngoại. Trung quốc có Dự
trữ ngoại tện 3’200 tỉ Đo-la, tại sao không sử dụng để đầu tư trong
nước, cứu cách biệt giầu nghèo chính trong nội địa. Nhưng Trung quốc đã
không làm trong nội địa mà tìm cách đầu tư hay chuyển tiền ra nước
ngoài.
Cái lưỡng nan không tăng Mãi lực cho quần chúng nội địa như sau:
=> Nếu
tăng mãi lực dân chúng nội địa, dân chúng giầu lên, chiếm hữu một số
những phương tiện sản xuất và đòi quyền Tự do sử dụng những phương
tiện ấy trong sinh hoạt Kinh tế. Phạm vi chủ đạo Kinh tế của Nhà Nước
bị hạn hẹp lại. Có thể nói là tăng Mãi lực cho dân chúng có nghĩa là
dân chủ hóa dần dần Kinh tế. Khi Kinh tế được dân chủ hóa, thì sự
phát triển của nó đòi hỏi một Môi trường Chính trị-Luật pháp DÂN CHỦ
cho phù hợp. Một nền Chính trị chủ trương độc tài độc đảng tất nhiên
không cho dân Mãi lực, phương tiện làm cho Dân lật đổ quyền lực độc tài
độc đảng của mình.
=> Như
ở đoạn trên đã nói về việc nới rộng tư hữu trong nền Kinh tế Trung
quốc, nhưng cái tư hữu này lại chỉ dành cho nhóm đảng và những kẻ liên
hệ với nhóm đảng bởi vì chính nhóm đảng này vẫn nắm quyền
lực Chính trị và chủ đạo Kinh tế. Phải nói rằng quyền tư hữu này là
dành riêng cho nhóm đảng có quyền Chính trị độc tài. Chính vì vậy, khi
Kinh tế được dân chủ hóa do tăng Mãi lực và quyền Tự do nới rộng, thì
việc quyền lực Chính trị nắm độc quyền Kinh tế để thủ lợi cho nhóm
đảng không cón nữa, nghĩa là Cơ chế bị tan rã.
Đó là cái lưỡng nan mà Nhà nước Trung quốc độc tài không muốn làm.
Thái độ dứt khoát từ chối của Liên Au
đối với đề nghị cứu nợ của Trung quốc
Trong
cuộc Họp G20 mới đây 04.11.2011 tại Cannes, Hồ Cẩm Đào đã huênh hoang
chê trách Hoa kỳ và Liên Au không biết lo liệu nội bộ để nợ nần chồng
chất. Oâng muốn tỏ ra lòng tốt cứu giúp “Liên Au đang khốn cùng“,
nhưng ai cũng biết rằng Trung quốc muốn xâm nhập Liên Au để cứu chính
Kinh tế của mình đang đi xuống. Vì nghĩ Vùng Euro đang ở trong thế
cùng kiệt, nên Trung quốc đã đặt những điều kiện quá đáng cho việc
giúp đỡ. Chúng tôi xin trích đăng dưới đây Bản Tin của Phóng Viên
THANH HÀ:
“Hãng
Reuters, ngày hôm qua, 11/11/2011 đưa tin: Châu Âu bác bỏ các điều
kiện của Trung Quốc để đổi lấy sự hỗ trợ về tài chính đối với khu vực
đồng euro. Bruxelles từ chối xóa bỏ cấm vận vũ khí đối với Bắc Kinh.
Thông tín viên Joris Zylberman từ Bắc Kinh gửi về bài tường trình :
«
Kể từ khi châu Âu cầu cứu cộng đồng quốc tế tài trợ khoản nợ công của
các thành viên khối euro, Trung Quốc làm cao. Đó là điều rõ ràng ngay
từ đầu. Bắc Kinh chỉ ra tay cứu châu Âu với một số điều kiện. Vấn đề
là những đòi hỏi của Trung Quốc đã đi quá xa. Theo một số nguồn tin
thân cận với chính quyền Trung Quốc thì trước mắt phía châu Âu bác bỏ
toàn bộ những yêu sách của Bắc Kinh.
Dường
như là Liên Hiệp Châu Âu không chấp nhận xóa bỏ cấm vận vũ khí đối
với Trung Quốc. Biện pháp trừng phạt này đã được ban hành từ sau vụ
thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Bruxelles cũng không công nhận Trung
Quốc là một nền kinh tế thị trường. Cuối cùng thì trước mắt châu Âu
cũng chưa đồng ý để đơn vị tiền tệ Trung Quốc tham gia vào rổ tiền tệ
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF với lý do là châu Âu và Hoa Kỳ lo ngại
việc mở rộng quyền rút vốn đặc biệt của IMF cho Trung Quốc thì sẽ làm
suy yếu vị thế của đồng đô la và qua đó làm giảm ảnh hưởng của cả châu
Âu lẫn Hoa Kỳ trên bàn cờ tài chính quốc tế.
Theo
Reuters, một nhà ngoại giao châu Âu xin được giấu tên, đã rất bực
mình về những mặc cả của Trung Quốc và quan chức này tuyên bố rằng
khối euro không bắt buộc phải năn nỉ Bắc Kinh tài trợ. Chỉ cần quyết
tâm về mặt chính trị là khu vực đồng euro có thể vượt qua cuộc khủng
hoảng hiện nay.
Nhìn
từ Bắc Kinh, thất bại trong các cuộc thương thuyết với phía châu Âu
có thể khiến Trung Quốc nản chí. Chính quyền không muốn dư luận Trung
Quốc cho rằng Bắc Kinh mền yếu trước áp lực của phương Tây ».
Điều kiện khắt khe của Hoa kỳ
đối với việc hội nhập Trung quốc
vào Hiệp Hội Xuyên Thái Bình dương
APEC
mới họp ngày 12/13.11.2011. Theo nhận định của Tác giả Donald
EMMERSON, thì Trung quốc muốn nhấn mạnh đến một Tổ chức Đông Á gồm các
quốc gia Đông Nam Á và Trung quốc, Nhật, Nam Hàm thêm vào, nghĩa là
không có Hoa kỳ. Nhưng trong cuộc Họp APEC vừa qua tại Hạ Uy Di, lợi
dụng vấn đề An Ninh chung Thái Bình Dương, nhất là vấn đề Biển Đông,
Hoa kỳ đề nghị một Hiệp ước rộng lớn hơn gọi là Hiệp Hội Xuyên Thái
Bình Dương (Trans-Pacific Partnership TTP). Các quốc gia Vùng Thái Bình
Dương, vì vấn đề An Ninh, cần sự hiện diện của Hoa kỳ, một quốc gia
ưu thế về quân sự. Khi Hoa kỳ đặt Căn cứ quân sự tại Uùc cũng trong ý
hướng an ninh Thái Bình dương này, nhằm giảm mối đe dọa về an ninh từ
Trung quốc.
Hoa
kỳ không minh nhiên loại Trung quốc ra khỏi Thị trường Tự do Mậu dịch
Thái Bình Dương, nhưng đặt những điều kiện khắt khe cho Hội viên của
Hiệp Hội, như:
=> Tự do Kinh doanh, nghĩa là dân chủ hóa Kinh tế. Chính trị không độc đoán nắm trọn sinh hoạt Kinh tế nữa.
=> Tôn trọng quyền lao động quốc tế
=> Tôn trọng bản quyền tư hữu trí tuệ
=> Tôn trọng Môi trường
=> Để Tỷ giá Tiền tệ uyển chuyển đối với Đo-la
Những điều kiện trên đây đụng
vào vấn đề LƯỠNG NAN của Cơ chế Chính trị Trung quốc. Phải chăng đây
là là những điều kiện bắt buộc Trung quốc phải thay đổi Chính trị, nếu
không thì không thể là Hội viên của Hiệp Hội Xuyên Thái Bình Dương về
Kinh tế/ Thương mại. Những điều kiện này đánh thẳng vào Kinh tế và
Chính trị Trung quốc.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 24.11.2011.
Web: http://VietTUDAN.net
HUỲNH QUỐC PHÚ * BẪY TÌNH
BẪY TÌNH
TEMPTATIONS AWAIT
Checklist for a trip to Vietnam: Visa, passport, wife’s OK. - “Sài Gòn City, Vietnam -- The trouble for Henry Liem begins every time he prepares to return to his homeland. Getting the required visa from the Vietnamese government is a breeze. It's the "second visa" -- from his wife worried that he will stray over there -- that requires diplomatic skills. "My wife is always cranky every time I go," said Liem, a philosophy instructor at San Jose City College who visits Vietnam twice a year to teach at a university. "So I rarely disclose my upcoming trip until the last minute. It's pain minimization. The longer she knows, the longer I have to bear the pain."
Bài báo mở đầu bằng câu chuyện của ông Henry Liem nào đó. Ông này về Việt Nam mỗi năm hai lần để dạy triết cho một trường đại học. Không biết ông dạy triết loại gì mà khi xin visa, ông được xã hội chủ nghĩa cho nhập cảnh một cách thật dễ dàng. Tuy nhiên, ngoài cái visa do tòa lãnh sự việt cộng cấp để nhập cảnh, ông còn phải xin thêm một visa nữa để xuất cảnh: đó là cái visa chấp thuận để đi của bà vợ đầu ấp tay gối mỗi ngày.
Một điều nghịch lý là mỗi khi xuất ngoại, hầu hết mọi người đều lo xin visa sớm, để nếu có gì trục trặc, thì còn nhiều thời gian xoay trở. Trong khi cái visa thứ nhì của ông Henry Liem thì ngược lại: phải đợi đến giờ phút cuối ông mới nộp đơn, và không đợi bà vợ có đủ thời gian suy tính cản trở, ông cuốn gói dông cho lẹ! - Cả bài báo đại ý nói về tình trạng đàn ông Việt Nam ở ngoại quốc, khi trở về thăm quê hương, thường bị (hay được!) những cô gái tuổi còn rất trẻ tống tình một cách mãnh liệt. Cho dù là người đàn ông thuộc loại “quá đát, mỏi gối chồn chân,” cũng được các nường nhỏ bằng con cháu của mình chiếu cố một cách tận tình, lý do: tất cả chỉ vì tiền chứ không phải vì tình! Có tiền là các nường sẽ chiều chuộng tới bến.
Chính vì cái đề tài “Fun for men, pain for women” nên ông ký giả người Mỹ John Boudreau bỏ công để viết và bài được đăng trên trang nhất ngày Chủ Nhật của tờ báo… ----- Khoảng năm phút sau, để tâm tư lắng đọng, Thủy mở mắt nhìn lên trần, bài báo đã khơi lại tâm tư đau đớn của nàng… Liếc nhanh về phòng ngủ của Xuân, người chồng của nàng gần bốn mươi năm, có lẽ ông ta còn ngủ, cũng có thể đã thức mà chưa ngồi dậy. Đã hai năm nay vợ chồng nàng ngủ riêng, mỗi người mỗi phòng, giờ giấc tùy hỉ chẳng ai để ý đến ai. Cứ tưởng sau bao năm làm lụng vất vả trên xứ người, vợ chồng nàng sẽ tận hưởng những gì do công lao hai người cực khổ xây dựng, được sống hạnh phúc bên nhau từng phút từng giây vào lúc cuối đời, nào dè…
Năm 1954, nhờ thấy được sự tàn ác của cộng sản, gia đình Thủy nhanh chân lên máy bay đi thẳng vào Sài Gòn và định cư tại đó. Hơn nữa Bố nàng là một người khoa bảng cho nên được chính quyền miền nam nhanh chóng chọn để nắm một chức vụ quan trọng, lúc đó nàng chỉ là một “Cô bé Bắc Kỳ nho nhỏ.” Cuộc đời niên thiếu của nàng êm ả trôi qua tại miền nam nắng ấm. Nàng là nữ sinh TV, đọc dí dỏm là Trứng Vịt thay vì Trưng Vương.
- Năm lên đệ nhị cấp, do sự giới thiệu của bạn bè, nàng quen biết Xuân, cũng là người bắc di cư, lúc đó Xuân đang học Chu Văn An, hơn nàng hai lớp. Bố của Xuân là một thương gia tương đối thành công tại Sài Thành. Cuộc tình học trò Chu Văn An Trưng Vương (CVATV) chớm nở từ đó. - Sau đó Thủy và Xuân đều học luật. Năm 1972, Xuân được bổ nhiệm làm Thẩm Phán của một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Tây. Sáu tháng sau, đám cưới của Xuân và nàng được tổ chức linh đình tại Sài Gòn để kết thúc cuộc tình năm chữ : “CVATV” (Chết Vì Ăn Trứng Vịt.) - Nàng theo Xuân về sống tại một tỉnh lẻ của đồng bằng miền nam. Với bằng cử nhân luật, nàng xin đi dạy tại một trường trung học để cho đỡ buồn, đồng thời có thêm lợi tức.
Cũng nhờ khoảng thời gian sống gần gũi người miền nam và đám học trò thật thà chất phác, nàng cảm thấy thoải mái khi tiếp xúc với mọi người. Theo nàng nghĩ, người miền nam không có chiều sâu, cho nên không cần phải “đề phòng” như người miền bắc. Chỉ cần nói chuyện một lát, là có thể đoán được người đó nghĩ gì, nàng tự hào như vậy. Nhờ vào chức vụ, Xuân được cấp cho một ngôi nhà xinh xắn bên cạnh một nhánh của sông Cửu Long.
Cuộc sống êm ả mỗi ngày của Thủy như giòng nước trôi qua lại khi thủy triều thay đổi. Đứa con gái đầu lòng của nàng cũng sinh ra tại đây. Nhiều khi nàng ngồi im lặng hàng giờ để nhìn nước trôi mà trong đầu chẳng nghĩ ngợi gì hết. Cũng có lúc nàng cảm thấy nhàm chán vì cuộc sống quá êm đềm, nhưng bây giờ, sau bốn mươi năm cuộc đời, nàng thấy nhớ giòng sông năm xưa và thèm có lại những giây phút vô tư lự quý giá đó.
- Cứ tưởng cuộc đời êm ả trôi qua, đầu Tháng Tư năm 1975, Bố nàng bất thần gọi điện thoại bảo vợ chồng nàng về Sài Gòn gấp, lý do theo Bố nghĩ: miền nam sẽ mất. Với kinh nghiệm hiểu biết về cộng sản, Bố hoảng hốt hối thúc mọi người chuẩn bị đi tỵ nạn thêm một lần nữa. Vợ chồng nàng không tin lắm vì lúc đó vùng đồng bằng vẫn an toàn không một thị trấn nào bị việt cộng chiếm đóng. Bố nàng phải nhiều lần thúc dục, nàng mới chịu ẵm con cùng chồng trở về Sài Gòn khi Quốc Lộ 4 được khai thông trở lại.
- Cuộc đời đến với nàng một cách thật dễ dàng, trong khi quân dân miền nam vất vả ngăn chặn kẻ thù vào những giờ phút hấp hối, thì gia đình nàng đã tới Subic Bay ở Philippine, có thể nói là những người tỵ nạn đầu tiên đến căn cứ này. Tài sản của cả hai bên nhà nàng và chồng, coi như mang đi hết, ngoại trừ bất động sản. Sau hai lần tỵ nạn: từ bắc vô nam và từ miền nam sang Mỹ, Thủy không có cảm giác đau khổ của một người vì bất đắc dĩ phải lìa bỏ quê hương, đôi lúc nàng còn có cảm tưởng như là đi du lịch, chỉ sau khi rời khỏi trại tỵ nạn Camp Pendleton để định cư tại Orange County, thì nàng mới phải vật lộn với đời sống vật chất của xứ này.
Trong những năm đầu, gia đình nàng được nhận trợ cấp của chính phủ, đứa con trai thứ nhì cũng chào đời lúc đó. Lợi dụng thời gian được hưởng trợ cấp, vợ chồng nàng đã đi học lại. Năm 1980 Xuân ra trường với bằng kỹ sư điện và gia đình nàng dời lên San Jose vì Xuân nhận được việc làm với lương khá cao. Sau đó Thủy cũng nhận được một việc làm về accounting đúng với ngành nàng chọn học. Thời gian trôi qua, nơi Thung Lũng Hoa Vàng, cặp vợ chồng Xuân Thủy không mấy chốc trở nên khá giả. Có lúc vợ chồng nàng làm chủ đến năm căn nhà vì biết đầu tư đúng lúc vào thị trường địa ốc.
- Đến năm 2000, Thủy về hưu vì tài chánh không còn cần thiết để nàng phải lặn lội ra đi từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều nữa. Vả lại, với số bất động sản đã có, nàng đủ việc để ở nhà quán xuyến. Chỉ có chồng nàng là vẫn còn phải tiếp tục đi làm vì lợi tức cao nhờ lương hậu, cộng với bonus và stock hãng cho. Hơn nữa Xuân phải đi làm để có bảo hiểm sức khỏe cho cả gia đình. Sau khi về hưu, Thủy được hưởng những giây phút thoải mái sau bao năm làm việc vất vả. Xuân, chồng nàng là một người đàn ông tốt, có trách nhiệm, yêu thương nàng và con cái một cách tuyệt đối.
Cả thời gian lấy Xuân, nàng chưa bao giờ thấy chồng mình dối gạt hay làm những chuyện gì có lỗi với nàng. Đôi lúc nàng còn tự hào: nhờ “chăm sóc kỹ lưỡng,” nên Xuân không “thoát” được bàn tay phù thủy của nàng, con gái “Bắc Kỳ” mà…
- Gia đình nàng và Xuân rất sùng đạo Phật. Sẵn có nhiều thời gian rảnh rỗi, nàng đi chùa để tô đắp niềm tin Phật pháp. Cả nàng và Xuân thường hay bỏ thời gian làm công quả cho chùa và dĩ nhiên cũng là người giúp đỡ tận tình nếu chùa bị kẹt về tài chánh. Cũng chính vì như vậy, vợ chồng Thủy là những người được kính nể đối với ban trị sự của chùa, tiếng nói của hai người rất được mọi người chú ý.
Ban đầu, trong những cuộc tổ chức làm từ thiện, chùa đều mời vợ chồng nàng tham gia, sau đó với sự nhiệt tình, chùa nhờ vợ chồng nàng đảm trách tất cả. - Năm 2002, chùa đón tiếp một vị sư từ Việt Nam qua chơi. Sau nhiều lần tiếp xúc với vị sư này, vợ chồng nàng quyết định về Việt Nam lần đầu, hầu để nhìn tận mắt cảnh khốn khổ của những người nghèo, nhất là những trẻ mồ côi. Lần đó vợ chồng nàng quả thật động tâm khi thấy những nỗi khổ đau của người nghèo sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Sau khi trở về Mỹ, Thủy và chồng thành lập một hội từ thiện, kêu gọi lòng hảo tâm của mọi người để giúp những kẻ khốn khổ bên nhà. Nhiều lần tổ chức quyên tiền, văn nghệ gây quỹ và cả hai đã nhiều lần trở về mang lại bao nhiêu niềm hy vọng cho những người khốn cùng. Thủy và Xuân hăng say làm từ thiện vì nghĩ rằng sẽ để phước lại cho con cái.
- Có một lần, trong một chuyến về Việt Nam, Xuân gặp lại một người bạn học cũ ở trung học. Tay bắt mặt mừng, cả hai đều thích thú kể chuyện ngày xưa lúc còn học ở Chu Văn An. Sau đó người bạn của Xuân mời vợ chồng nàng đi uống nước ở một quán, gần khách sạn nơi vợ chồng nàng đang trú ngụ. Quán nước này trông khá lịch sự, mặc dù các cô chiêu đãi ăn mặc cũng hơi…mát mẻ. Lúc mới bước vào quán, Thủy để ý xem cảnh vật chung quanh, cảnh giác mọi hành động lẫn lời nói của mấy cô chiêu đãi.
Mặc dù Xuân đáng tuổi bác của mấy cô này, nhưng Thủy không muốn cô nào có hành động lố lăng đối với ông chồng của mình. Nàng đã từng nghe rất nhiều lời bàn của mấy bà đã từng về trước… Có một bà bạn của Thủy kể lại rằng: khi vợ chồng bà vào một quán ăn, một cô chiêu đãi viên đáng tuổi cháu, gọi ông chồng đầu tóc bạc phơ của bà là anh và xưng em ngọt sớt.
Bà bạn của Thủy nóng mặt lên lớp cô ta rằng: “Ông ấy đáng tuổi bác của cô mà dám gọi bằng anh xưng em?” Bà này nhận được câu trả lời của cô chiêu đãi: “Ở Việt Nam, chỉ có cha và những người già tới một trăm tuổi, mới được gọi Ba và Bác, xưng con, còn dưới một trăm tuổi thì chỉ đáng làm anh thôi.” Bà bạn của Thủy giận run lên mà chẳng nói được gì, chỉ còn biết hối chồng mình đi về! Khi người bạn của Xuân gọi thức uống, một cô chiêu đãi buột miệng xưng em làm Thủy giật mình.
Nàng trừng mắt nhìn cô ta làm cô này khựng lại, lí nhí thêm vài tiếng rồi bỏ vào bên trong. Vài phút sau, một cô chiêu đãi khác mang thức uống ra. Cô này có gương mặt hiền lành, dáng điệu hết sức khúm núm. Cô ta mời mọi người dùng nước và gọi vợ chồng nàng bằng bác, xưng con. Thủy nghe cách xưng hô, lấy làm hả dạ và có cảm tình với cô này ngay. Dưới mắt nàng cô gái gợi lại hình ảnh những đứa học trò thật thà chất phát của nàng ngày xưa, lúc nàng đi dạy ở trung học.
- Trong khi Xuân và người bạn đang kể lại những kỷ niệm năm xưa, thì thình lình có tiếng ồn ào chửi bới làm náo động cả quán, cùng lúc đó, một tên thanh niên hùng hổ bước vào gọi tên Mẫn. Hắn ta chửi bới đòi Mẫn phải đưa tiền cho hắn. Người con gái mặt hiền lành mang nước cho nàng lúc nãy sợ hãi bước ra, thì ra cô ta tên Mẫn.
Tên thanh niên vừa trông thấy Mẫn là tiến tới nắm áo, tát vào mặt nàng một cái nẩy lửa. Mẫn chới với không biết phải làm sao. Tên này bèn giật cái ví từ tay của Mẫn, lục soát lấy hết tiền rồi ném trả cái ví vào mặt nàng, xong xuôi hắn bỏ đi. Trước khi rời quán, hắn không quên hăm dọa là sẽ trở lại lấy thêm…
- Cảnh tượng xảy ra làm Thủy thật bất mãn, nàng chưa bao giờ thấy một người đàn ông vũ phu đánh một người con gái yếu đuối như tên này. Nhìn vào góc nhà, Thủy thấy Mẫn đang ôm mặt khóc nức nở. Động lòng trắc ẩn, nàng đến hỏi thăm và vỗ về, đồng thời hỏi xem sự tình. Mẫn kể lể, người đàn ông đó là chồng của cô. Hai người lấy nhau bốn năm, có một đứa con gái. Vì chồng cô bị nghiện ngập lại mắc thêm tật cờ bạc, nên cả gia đình bị tan nát.
Hắn ta còn lén lút đem cầm miếng đất hương hỏa trong đó có cái nhà của cha mẹ nàng ở dưới quê. Vì muốn chuộc lại miếng đất đó, nàng phải giao con cho mẹ giữ để lên Sài Gòn tìm việc làm. Đã vậy mà Mẫn cũng không được yên, thỉnh thoảng hắn tới đòi đưa tiền cho hắn. Mẫn đã nhiều lần thay đổi chỗ làm, nhưng rồi hắn vẫn tìm thấy.
Nói xong Mẫn khóc sướt mướt làm Thủy cảm thấy đứt ruột, lòng xót xa thương hại cho một người con gái thật vô phước.
Sau khi biết rõ sự tình, Thủy sanh lòng hảo tâm, rút trong túi quần ra tờ một trăm đô la dúi vào tay Mẫn, coi như là làm một việc từ thiện. Khi nhìn thấy một trăm đô la Mỹ, Mẫn hoảng hốt đưa lại cho Thủy, nói là không dám nhận sự giúp đỡ của nàng. Cho dù Thủy nói cách nào Mẫn vẫn một mực từ chối và nói: con không dám nhận tiền của bác.
Vì tính thật thà của Mẫn, Thủy càng thấy mến người con gái đáng thương này nhiều hơn. Sau đó Thủy hỏi Mẫn là bây giờ cháu tính làm sao. Mẫn trả lời là không biết phải tính sao nữa, vì chồng nàng đã biết chỗ này rồi, thì nàng phải đi tìm chỗ khác để làm. Hơn nữa chỗ ở của Mẫn cũng bị người chồng vũ phu tìm thấy, cho nên cô ta cũng phải tìm nơi khác trú ngụ.
Đã lỡ mở lòng hảo tâm, Thủy không nỡ bỏ rơi Mẫn. Một ý nghĩ thoáng qua đầu, nàng chực nhớ trong chùa, nơi nàng hợp tác làm từ thiện có một phòng trống. Họ vẫn thường mời vợ chồng nàng đến ở mỗi khi về Việt Nam. Nàng hỏi Mẫn: “Nếu cháu không ngại, bác sẽ gửi cháu vào một chùa để tránh chồng của cháu?” Sau một hồi phân vân, Mẫn đồng ý theo Thủy về chùa. Sau đó, mỗi lần vợ chồng Thủy về Việt Nam làm từ thiện, Mẫn là một trợ tá đắc lực trong mọi công tác. Cô ta hiền lành giữ đạo làm con nên vợ chồng Thủy càng tin tưởng và thương Mẫn nhiều hơn.
- Sự việc bắt đầu xảy ra là có một lần, trước ba ngày khởi hành về Việt Nam, Thủy bị đưa vào nhà thương cấp cứu vì bị đau ruột dư. Sau hai ngày nằm bệnh viện nàng được về nhà, sức khỏe không có gì nguy hiểm, chỉ cần thời gian bình phục. Vì công việc từ thiện dính líu đến nhiều người, không thể hoãn lại được, nên Thủy bảo chồng đi một mình. Lần đó đáng lẽ chồng nàng chỉ phải ở lại có một tuần, nhưng Xuân đã ở lại đến ba tuần mới về, với lý do: chậm trễ giấy phép của chính quyền.
Sau khi Xuân trở về Mỹ, Thủy thấy cử chỉ và hành động của chồng rất khác thường: Xuân như bị mất hồn, tâm trí như ở đâu đâu và dáng dấp trông thật mỏi mệt. Nàng tưởng là Xuân quá vất vả vì công việc, nên lo săn sóc chồng một cách chu đáo…
Thật sự Thủy có ngờ đâu, lần vắng mặt của nàng đó, là lần người con gái hiền lành mà nàng thương mến giúp đỡ, đã ngã vào lòng người “bác” kính yêu và âu yếm xưng “em” với chồng của nàng một cách nũng nịu! Thật ra, lần về làm từ thiện này của Xuân chỉ cần có một tuần, nhưng chỉ ba ngày sau Xuân đã ôm trọn người con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình trong vòng tay mà chính chàng cũng không ngờ! Sự việc xảy ra quá bất ngờ nên Xuân không biết phải xử trí ra sao.
Sau đó Mẫn đòi ra ở riêng, vì nếu còn ở lại chùa thì thế nào chuyện cũng đổ bễ. Hai tuần về trễ cũng vì Xuân phải ở lại sắp xếp chỗ ở cho Mẫn. - Sau lần đó, người chồng thân yêu của Thủy có những cử chỉ khác thường. Đôi lúc Xuân tỏ vẻ yêu thương nàng một cách nồng nàn, đôi lúc thì xa vắng như hồn về cõi khác. Xuân thường hăng say nhắc đến việc về Việt Nam làm từ thiện, chàng còn tỏ vẻ quán xuyến tất cả mọi việc để Thủy không phải lo. Hơn thế nữa, Xuân thường hay ỡm ờ là nếu Thủy không khỏe thì cứ để chàng lo cho cũng được.
Cũng vì hoạch định một chương trình từ thiện quy mô, nên hai tháng sau Xuân trở về Việt Nam, xui một điều là Thủy lại để chồng đi một mình! Lần này theo chương trình, chồng nàng sẽ ở đến ba tuần. Khi ra đi Thủy thấy mặt chồng hớn hở thì nghĩ rằng: đó là cái phúc hậu của người làm từ thiện!
Sau khi Xuân về Việt Nam được hai tuần, vào một đêm, Thủy nhận được một cú điện thoại, người gọi nàng là vị sư cô quản trị của chùa… - Để có yếu tố bất ngờ, Thủy tức tốc về Sài Gòn mà không báo cho chồng biết. Sau khi rời phi trường Tân Sơn Nhất, Thủy đến ngay khách sạn nàng thường hay ở để tìm Xuân. Không thấy chồng mình ở đó, Thủy bèn đến chùa ngay, cũng không gặp Xuân, đồng thời nàng mới biết là Mẫn đã dọn ra từ hai tháng trước. Đến bấy giờ nàng mới gọi điện thoại tìm Xuân, điện thoại không trả lời.
Cùng đường, nàng đành trở về khách sạn nghĩ cách tìm chồng, tâm can như bị thiêu đốt. Một ngày sau, có lẽ có người thông báo cho Xuân, chồng nàng hớt hải xách vali hành lý đến khách sạn tìm nàng. Gặp mặt chồng Thủy giận quá muốn xỉu, miệng mấp máy nói không ra lời. Sau cùng nàng cũng ráng hỏi Xuân đi đâu, Xuân ấp úng trả lời là đi phân phát quà từ thiện ở Bình Tuy. Nhìn mặt Xuân, nàng biết ngay đó là lời nói dối, bởi vì người chồng bao nhiêu năm nàng ôm ấp không có cái khuôn mặt trơ trẽn như vậy! Thủy òa lên khóc nức nở…
- Biết là không thể dối vợ được nữa, Xuân bèn nói thật. Chàng nói là cũng không ngờ tại sao Mẫn nằm trong vòng tay của chàng mà chàng không có cách nào chống cự, để rồi chuyện nó đến và tiếp tục tiến tới.
Với số tuổi sáu mươi, Xuân biết mình không còn bao nhiêu sức lực để theo kịp Mẫn, nhưng không hiểu tại sao mỗi lần gần Mẫn, cô ta không bao giờ làm cho chàng có cảm tưởng là một ông già và lúc nào cũng tỏ vẻ chân thành cảm kích Xuân đã cho cô ta những giây phút sung sướng tuyệt vời…Mặc dù là vậy, lần này trở về, Xuân có thủ sẵn một hộp Viagra để giúp chàng có đủ sự tự tin của người đàn ông khỏe mạnh. Hộp thuốc này chàng đã bí mật nhờ một người bạn làm dược sĩ mua dùm, Thủy hoàn toàn không biết…
- Xuân rón rén mở cửa rào để Thủy bước vào nhà, ngôi nhà nho nhỏ xinh xinh nằm trong một cái hẻm không sâu lắm. Đó là cái tổ uyên ương mà Xuân vừa mới tậu cho Mẫn được một tuần. Chàng gõ nhẹ cửa, cánh cửa mở ra, vợ chồng Thủy hết sức ngạc nhiên vì người mở cửa là tên chồng vũ phu đã đánh Mẫn tại quán nước. Hắn ta tỏ vẻ là chủ nhân mời vợ chồng nàng vào nhà. Sau khi vợ chồng Thủy ngồi xuống, hắn ta chọn một cái ghế ngồi đối diện, dáng điệu trông rất xấc xược. Lúc đó Mẫn đứng phía sau của hắn, gương mặt có vẻ ngại ngùng nhưng không còn nét hiền hậu như những lần gặp trước. Trên môi cô ta, điểm nhẹ một nụ cười khó hiểu. Thủy nhìn giáp vòng rồi nhìn Mẫn hỏi: “Mẫn, bác thương con như con ruột, sao con có thể làm nên chuyện như vậy?”
Mẫn tránh né không trả lời, tên chồng của cô ta bèn lên tiếng: “Sẵn đây tui giới thiệu cho hai bác biết, con nhỏ này tên Mận, chứ không phải Mẫn, nó là bồ của tui đó.” Thủy đi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác. Nhưng lúc đó nàng mới khám phá ra rằng, đây là một âm mưu có tính toán từ đầu. Hắn ta tiếp lời: “Nhân dịp này tui cám ơn hai bác đã cho tui gửi con Mận, bây giờ tui lấy nó lại.” Thủy cứng họng, biết chẳng còn gì để nói, trong khi Xuân chồng nàng mặt mày thay đổi từ xanh qua tím, quả là một điều sỉ nhục. Thủy hậm hực đứng lên ra về, chồng nàng tiu nghỉu, tay chân run rẩy riu ríu theo sau…
- Kể từ lần sau cùng về làm từ thiện, Thủy đau khổ tột cùng vì sự phản bội của người chồng yêu quý. Tình cảm hai người hầu như không còn có thể hàn gắn lại. Còn Xuân thì mang một mặc cảm tội lỗi tày trời mà chàng tự nghĩ không thể nào tha thứ cho mình được. Đã nhiều lần chàng quỳ gối trước mặt Thủy khóc lóc van xin tha thứ. Đối với Thủy, người đàn ông mà nàng kính yêu trước kia, bây giờ trông sao hèn hạ quá! Nhục nhã quá! - Xuân đã xin nghỉ việc sau khi trở về.
Chàng như một kẻ tàn phế từ thể xác đến linh hồn, không còn tâm tư để làm việc được nữa. Việc chùa chiền, làm từ thiện, vợ chồng nàng đều hoàn toàn chấm dứt. Hai đứa con nàng thấy Bố quá tội nghiệp đều năn nỉ xin nàng tha thứ cho Bố. Vì thương con, hơn nữa chuyện xảy ra Thủy cũng có một phần trách nhiệm, nên lần lần Thủy cũng dịu lại.
Xuân vì muốn chuộc lỗi lầm của mình nên lúc nào cũng chiều chuộng vợ một cách quá đáng, nhiều lúc làm Thủy bực mình, nhưng sau cùng nàng lại thấy tội nghiệp… Rồi thì vào một ngày đẹp trời, Thủy đã xiêu lòng và chuyện tình vợ chồng nàng bắt đầu nối lại. Số thuốc Viagra mà Xuân đã dùng vào việc “bất chánh” trước kia, phần còn lại, bây giờ lại có… chánh nghĩa.
----- Đầu óc Xuân mơ hồ, tai nghe văng vẳng những tiếng xôn xao xa vắng. Đôi mắt chàng từ từ hé mở, nhưng phải nhắm lại ngay vì ánh sáng quá chói chang. Chàng không biết mình ở đâu, cũng không biết chuyện gì xảy ra. Định thần vài giây, chàng lại từ từ mở mắt, chưa kịp nhìn thấy gì thì đã nghe tiếng nói quen thuộc của vợ. Phải thêm chừng ba mươi giây nữa thì Xuân mới biết là mình đang nằm trong bệnh viện…
Trong vòng hai tháng, đây là lần thứ nhì chàng bị xỉu và phải đưa vào cấp cứu. Đã nửa năm nay, sức khỏe của Xuân không tốt. Chàng không nghĩ là mình có bệnh gì nguy hiểm, nhưng không hiểu tại sao cứ thấy mỏi mệt, nhức đầu, đau nhức, tay chân rã rời, con người không có sinh lực… Vì thấy cái sân cỏ mọc quá cao, Xuân miễn cưỡng đi lấy máy ra cắt. Có lẽ vì nắng hơi gắt, cộng với trong người không được khỏe, nên khi làm nửa chừng chàng bị xỉu.
Cũng may là Thủy đang ở gần đó, nên vội vàng gọi xe cứu cấp đưa chồng vào nhà thương. Thủy hoảng hốt sợ chồng mình bị stroke mặc dù lần trước đã không phải. Sau khi nằm ở phòng cấp cứu được năm giờ, Xuân được cho về vì không thấy gì nguy hiểm. Tuy nhiên vì đây là lần thứ nhì, nên bác sĩ cấp cứu khuyên chàng nên gặp bác sĩ riêng của mình để được theo dõi kỹ hơn…
-----
Xuân bước vô nhà, buông người ngồi phịch xuống sofa, tay ôm mặt khóc, chàng thấy cả thế giới chung quanh mình sụp đổ. Xuân tự hỏi: tại sao ông Trời lại có thể tàn nhẫn với chàng như thế được? Sau nhiều cuộc thử nghiệm, kết quả sau cùng bác sĩ có câu trả lời: chàng bị nhiễm trùng HIV, tình trạng trên đà bộc phát! Thêm một hậu quả tai hại do lỗi lầm của chàng gây ra hơn năm năm về trước! Dù có hối hận, tìm cách chuộc lỗi, nhưng đã muộn rồi! Thủy có thể tha thứ cho chàng, nhưng với cái bệnh nan y thời đại, cái giá mà Xuân phải trả thật là quá đắt! -----
Thủy nhìn lên bàn thờ Phật, tâm tư thật hỗn loạn. Nàng không biết là mình nên cầu cứu với đấng Bồ Tát, hay là trách cứ Ngài. Cả gia đình nàng hoàn toàn bị sụp đổ khi khám phá ra rằng: nàng cũng bị nhiễm trùng HIV do chồng truyền sang!
Còn gì tệ hại hơn nữa không? Chắc là không, theo nàng nghĩ! Kể từ thời niên thiếu, cuộc đời của Thủy êm ả trôi qua, chỉ phải chịu cực đôi chút vì cuộc sống vật chất trên đất Mỹ, nhưng nói chung nàng luôn nhìn đời là màu hồng. Cứ tưởng rằng với thành quả đạt được sau bao năm vất vả, về hưu, nàng sẽ sống phần đời còn lại một cách thoải mái trong tình yêu gắn bó của gia đình.
Nào ngờ tất cả đều sụp đổ kể từ khi vợ chồng nàng bắt đầu… làm từ thiện! Trách ai đây? Bồ Tát chăng? Nhiều khi quẩn trí nàng có ý đó, nhưng rồi lại sợ xúc phạm tới đấng thiêng liêng mà bao năm gia đình nàng đặt hết niềm tin. Trách con Mận và thằng bồ của nó chăng? Đúng, nếu không có con Mận và thằng bồ của nó bày mưu lập kế, thì người chồng đi ngay về thẳng của nàng đâu có phạm phải một lỗi lầm tày trời như vậy!
Trách Xuân, chồng nàng chăng? Cũng đúng nữa. Tại sao người chồng của nàng lại dám phản bội nàng đi ngoại tình với một đứa con gái tuổi còn nhỏ hơn con mình? Nàng không bao giờ tin chuyện đó có thể xảy ra được! Vậy mà nó xảy ra! Trách nàng chăng? Chuyện xảy ra quá đau khổ, nghĩ tới cái gì, nàng trách cái đó, nghĩ tới người nào nàng trách người đó, trong đó có cả nàng: Nàng trách mình tại sao về hưu sớm, để có quá nhiều thời gian đi chùa, từ đó mới bày đặt đi làm từ thiện! Mà muốn làm từ thiện cũng không sao, nhưng tại sao phải về Việt Nam?
Xứ Mỹ này cũng lắm người cần giúp đỡ kia mà? Nàng trách nàng quá dại dột đã để người chồng hiền lành không kinh nghiệm tình trường đi một mình! Chỉ cần một chút mánh khóe của con Mận là đã hồn bay phách tán, quên mất đường về!
Nàng trách nàng quá khờ dại tin người. Trách mình quá tự tin: nhìn bề ngoài của một người miền nam, mà tin là đoán được những gì họ nghĩ trong đầu, như nàng đã từng tự hào khi còn theo chồng dạy học ở miền tây tỉnh lẻ. Nàng không ngờ sau ba mươi năm xa quê hương, vật đổi sao dời, xã hội Việt Nam đã bị nhiễm độc nặng, trong đó, những đứa con gái thật thà miền nam cũng cùng số phận! Nàng trách, nàng trách tất cả, trách để trút bỏ cái tức, xả bỏ cái hận, trách cho vơi nỗi niềm, trách để đổ lỗi tại cái này, vì người kia, nhưng rốt cục, càng trách nàng càng thấy đau khổ.
Tiếng chuông thanh thoát chấm dứt phần đọc kinh buổi sáng, Thủy nhẹ nhàng để cây chày xuống bàn, ngước mắt nhìn lên bức hình Phật Tổ Như Lai, hai tay chắp trước ngực, nàng lâm râm khấn vái thêm vài phút trước khi đứng dậy. Ngày hai buổi thành tâm tụng niệm, rốt cục Thủy dần dần tìm thấy sự an bình cho tâm hồn. Một điều Thủy khám phá ra rằng: không phải cứ đi chùa thường xuyên là tu. Cũng không phải cho người ta nhiều tiền là làm từ thiện, có nhiều phước. Càng không phải đọc kinh cho hay, lạy cho nhiều là trở thành một người tu hành có cấp bậc cao, để được người khác kính trọng. ..
Tất cả là duyên, là nghiệp hay nói nôm na là cái số. Phật ở trong tâm của ta. Phật ở trong tất cả hành động sinh hoạt hàng ngày. Phật ở tất cả mọi nơi. Điều quan trọng nhất là tâm hồn phải vị tha, luôn thành tâm hướng thiện. Mọi việc đã có tạo hóa an bài… Nàng đã ngộ.
CHÚ THÍCH: Vì một cái duyên, tôi biết được câu chuyện. Bài báo của ký giả John Boudreau là động lực thúc đẩy tôi kể lại. Hy vọng nó sẽ đóng góp vào kho tàng vô tận“Chuyện Dài XHCN.” Vì là chuyện dài xhcn, nên còn rất nhiều mánh khóe hấp dẫn mình chưa thấy hết. Theo tôi nghĩ: nếu còn “Khúc Ruột Ngàn Dặm,”thì mình sẽ còn được thưởng thức những câu chuyện cười ra nước mắt! Xin chúc tất cả may mắn! 2011
Lạc Long Huỳnh Quốc Phú
HUỲNH TIẾN NGHIÊU * CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Các
đại biểu tham dự hội nghị thượnCác đại biểu thCác đại biểu
tham dự hội nghị thượng đỉnh Asean-Hoa Kỳ cùng chụHìp hình
tại Nusa Dua, Bali, hôm 18/11am dự hội nghị thượng đỉnh
Asean-Hoa Kỳ cùng chụp hình tại Nusa Dua, Bali, g đỉnh Asean-Hoa
Kỳ cùng chụp hình tại Nusa Dua, Bali, hôm 18/11
THIỆT GIẢ KHÓ PHÂN
HUỲNH TIẾN NGHIÊU
Trước hội nghị Đông Á tại Bali (Indonesia) ngày 18-11-2011 và Quốc hội ngày 25-11-2011, thủ tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố đòi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, lời lẽ rất mạnh bạo. Tuy nhiên, nhiều lý do khiến ta phải nghi ngờ đằng sau có gì khó khăn, trở ngại mà Nguyễn Tấn Dũng hành động không đúng với lời tuyên bố của ông.
Cộng sản gian manh, nhiều thủ đoạn. Trong khi tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, Bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau mất mát” bị cấm tại Saigon, và Cộng sản vẫn đàn áp biểu tình, bắt người biểu tình và khủng bố khắp nơi như vụ bắt Nguyễn Văn Liá, tín đồ Hòa Hảo ở An Giang.
Đài Á Châu Tự Do trong bài Khi niềm tin bị khủng bố, Mặc Lâm, biên tập viên RFA ngày 2011-11-29viết như sau:
Trong
khi dư âm của phiên chất vấn Thủ tướng vẫn còn lan tỏa trên mạng
thông tin cả lề trái lẫn lề phải, với sự phấn khởi của người dân khi
biết rằng chủ trương của chính phủ đã được công khai và Luật Biểu tình
cần được xem xét và soạn thảo.
Thế
nhưng chỉ hai ngày sau phiên chất vấn, ít nhất 16 người đã bị bắt, bị
đối xử thô bạo vì tụ tập tại Bờ Hồ vào sáng Chúa nhật 27 tháng 11. Sáng Chúa Nhật 27 tháng 11 người dân Thủ đô có việc chạy ngang tượng đài Lý Thái Tổ chắc sẽ ngạc nhiên vì ngay từ sớm một số các loại xe công an, cơ giới có cả xe buýt và xe công nông đã hiện diện từ sớm tinh mơ. Người hiểu chuyện lại càng ngạc nhiên hơn vì thông tin trên mạng cho biết sáng hôm nay sẽ có một cuộc biểu tình ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng qua việc yêu cầu Quốc hội xem xét và soạn thảo Luật biểu tình. Ngạc nhiên bởi người biểu tình chưa xuất hiện mà công an và an ninh đã có mặt trước hẳn nhiên kịch bản bắt bớ, lôi kéo và thậm chí dùng các biện pháp mạnh bạo đối với người biểu tình chắc chắn sẽ xảy ra.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ovr-react-on-peo-gather-hk-lake-11292011074052.html
Ngày 28-11-2011, tàu đánh cá Quảng Ngãi "bị tàu lạ đánh chìm" nhưng Viet Nam im lặng, không dám hó hé!Ông Mai Xuân Thủy cho biết:
Trong thời gian gần đây, báo chí trong nước cho hay nhiều sự cố tàu cá của ngư dân bị “tàu lạ” đâm gây thiệt hại hàng trăm triệu đồng. Nguồn tin mà ông Mai Xuân Thủy nhận được từ các ngư dân có mặt tại hiện trường không đủ để nhận diện 'tàu lạ'.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/11/111130_viet_fishing_boat_clashed.shtml
Thế mà tháng trước bọn họ làm một phim Việt Nam đâm tàu Trung Quốc!Nay tàu lạ nó đâm thật thì quý ngài im lặng. Thế là thế nào?
Năm kia, thế giới kết án Việt Nam đàn áp tôn giáo, Việt Nam bèn tổ chức Phật đản và cho giáo gian Vô Hạnh về ca múa tung tăng. Sau khi được xóa sổ đoạn trường, cộng sản quay lại đàn áp tôn giáo và cướp chùa Bất Nhã của Vô Hạnh.
Tháng trước, người Mỹ tuyên bố Việt Nam thiếu dân chủ, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ra luật biểu tình, rồi có tên thổi ống đu đủ, tuyên bố ra luật thơ! Chúng làm ra vẻ tự do dân chủ, ra vẻ tôn trọng pháp luật để lừa mình dối người.
Luật biểu tình như thế nào? Hiến pháp 1945 Cộng sản bảo đảm quyền tựdo biểu tình, nhưng sau đó Hồ Chí Minh đem luật đó bỏ thùng rác. Nay ra luật biểu tình ư? Nó là con dơi hay con chuột? Có gì mà phấn khởi.nếu chúng ra điều khoản: Đất nước ta rất dân chủ, không cần biểu tình. Ai biểu tình là phá hoại dân chủ, là phản quốc tội tử hình hay tù chung thân." Có thể chúng làm như vậy.
Trong khi Nguyễn Phú Trọng sang quỳ lạy Bắc kinh, bọn Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang chạy đôn chạy đáo coi như nỗ lực của Việt Nam chống Trung Quốc nhưng thật ra để che mắt việc quỳ lạy của Việt Nam. Phải chăng quỳ lạy, thần phục Trung Quốc là thật là điểm, còn giao thiệp với Mỹ và Đông Nam Á là hư chiêu, là diện Chúng nó một lũ với nhau, đứa đánh trống, đứa thổi kèn, cùng đóng tuồng để để phỉnh gạt nhân dân trong nước và quốc tế.
Bọn cộng sản cũng hành động giống như câu chuyện sau đây:
Có một bữa nọ trên tàu hỏa chạy Bắc Nam Có một ông ngồi cạnh một bà. Lúc vào đường hầm tối, người ta bỗng nghe có một cái tát tai, rồi nghe người đàn ông nói to: "Cho mày chết này!Con muỗi mày dám đốt tao!"Nhưng người ta thấy rõ má ông hiện một bàn tay đỏ rần.Thế là thế nào?
TRẦN VIỆT TRINH * BÁN MÁU
Những người bán máu
Trần Việt Trình
Trần Việt Trình
Đàn ông bán máu
Trời
chưa sang hẳn, anh Hùng ở Phú Nhuận đã hối hả lọc cọc đạp chiếc xe đạp
cà tàng hướng về Bệnh viện Truyền máu Huyết học ở Quận 1 Sài Gòn. Mấy
năm nay anh giấu vợ dối con để đi bán máu. Dù chưa tới tuổi 50 nhưng
trông anh chẳng khác nào một ông già 70, da dẻ nhăn nheo, xanh mét. “Gần
7 năm nay, bà ấy bệnh liệt giường, mọi việc trong gia đình đều đổ hết
lên vai tôi.
“Chẳng qua túng quá nên mới làm liều thôi”, anh Nguyễn Văn Định ở Chợ Gạo, Tiền Giang cũng cùng một nỗi niềm. Anh cũng chỉ mới ngoài 40 tuổi nhưng có tới 9 năm hành nghề bán máu từ Tiền Giang lên tới Sài Gòn đến nhẵn mặt các bệnh viện. Có lúc không còn đường nào khác anh phải ra bến xe đò Miền Đông năn nỉ mấy bác tài cho quá giang ra Hà Nội để … bán máu.
Đàn bà bán máu
Đàn ông bán máu, đàn bà cũng bán máu. Chị Hạnh ở Xã Xuân Thới Thượng Hốc Môn, tuổi đời chưa ngoài 50 mà đã có đến hơn 20 năm tuổi hành nghề bán máu. Chị bắt đầu đi bán máu từ năm 1989, lúc đó hoàn cảnh gia đình của chị vô cùng khó khăn, không nghề nghiệp lại một nách hai con nhỏ nên thường xuyên túng quẫn. Khi trong nhà không còn một hạt gạo, nhìn đứa lớn nhăn nhó vì đói và đứa nhỏ khóc đòi ăn, chị đành liều thân đi bán máu. Lúc đó 30 ngàn đồng một bịch máu đã nuôi sống gia đình chị hơn một tuần. Kể từ đó, chị dấn thân vào nghề bán máu.
Suốt
20 năm, chị không nhớ bao nhiêu lần mình rút máu ra bán và cũng không
nhớ số máu bán ra là bao nhiêu. Hai đứa con đang tuổi còn đi học, không
muốn chúng phải bỏ giữa chừng nên mỗi lần cần đóng tiền học hay mua
sách vở cho con là chị phải đi bán máu. Quy định của nhà nước phụ nữ
bốn tháng mới được lấy máu một lần nhưng vì túng quẫn quá nên có khi
một năm chị bán sáu, bảy lần. Cũng như anh Hùng và anh Định, để qua mặt
bác sĩ, chị phải làm hai thẻ hiến máu, một ở Bệnh viện Truyền máu
Huyết học và một ở bệnh viện 175, sau này cả ở bịnh viện Chợ Rẫy nữa.
Một
trường hợp khác, chị Nguyễn Thị Mỹ Hạnh ở đường Hồ Thị Kỷ quận 10 Sài
Gòn, đã gia nhập đội quân bán máu gần 16 năm nay kể từ ngày đứa con
trai duy nhất của chị bị bệnh u não. Sau đó chị chuyển sang bán tiểu
cầu để được nhiều tiền hơn. Chị bộc bạch: “Cứ đến ngày lấy thuốc cho
con là vợ chồng tôi chạy vạy tứ tung, song lần nào cũng bí quá, đành
phải bán máu, rồi bán tiểu cầu để lấy tiền. Có tháng túng bấn quá, tôi
bán đến 2-3 lần và phải đi 2-3 chỗ, mới đủ tiền trang trải”.
Công nhân bán máu
Uyên, một công nhân ở khu công nghiệp Tân Bình thổ lộ: “Mình ở tận Hải Dương vào đây lập nghiệp, nhưng lương công nhân thấp quá nên mỗi tháng muốn gửi ít tiền cho gia đình mình phải đi bán thêm tiểu cầu mới có thể xoay xở được”. Uyên tâm sự thêm “Công nhân bọn mình, có đứa sống chủ yếu bằng nghề này chứ không phải bằng lương đâu”. Trên gương mặt của cô, một người ốm yếu, là vẻ hao gầy nhợt nhạt của một người thường xuyên bán đi những giọt máu của chính mình, đổi lại là những bữa cơm công nhân đạm bạc và niềm an ủi của cha mẹ nơi quê nhà nghĩ đến sự thành công của đứa con tha phương lập nghiệp.
Học sinh Sinh viên bán máu
Một bạn trẻ tên Tân, có 6 năm thâm niên hành nghề bán máu cho biết “Mình đi rút máu từ lúc còn học trung học phổ thông. Hồi đó chưa có chứng minh thư nên mượn tạm của ông anh rồi thay tấm ảnh của mình vào, phí cho dịch vụ này không tốn lắm! Còn các thông tin lưu lại cho bệnh viện khi bán máu thực ra chỉ là thủ tục pháp lý chứ không ai kiểm tra mình bệnh gì trước đó hay sức khỏe như thế nào đâu”. Giọng Tân trùng xuống nói tiếp: “Làm cái nghề này sức khỏe cũng xuống rất nhanh. Có lần rút máu xong, vừa ra khỏi cửa là mình ngã gục xuống. Người nào hành nghề chuyên nghiệp thì sớm muộn cũng làm bạn với đau tim, còn đau đầu hay chóng mặt chỉ là chuyện lặt vặt”. Tân cho hay hiện có rất nhiều người chỉ sống bằng nghề bán máu, thậm chí họ còn chọn bệnh viện làm nơi cư ngụ thường xuyên để dễ dàng hành nghề.
Cả làng bán máu
Người người bán máu, nhà nhà bán máu, làng làng bán máu. Đó là làng nổi với hơn 30 gia đình sống dưới chân cầu Hồng Phú, phường Quang Trung, xã Phủ Lý tỉnh Hà Nam. Cả làng có chung một nghề: bán máu. Họ đến từ các miền khác nhau của đất nước như Sài Gòn, Quy Nhơn, Nam Định và Hải Phòng. Phủ Lý trở thành nơi an cư của họ bởi tiện bề đi lại để bán máu cho các bệnh viện ở Hà Nam, Bắc Ninh, Ninh Bình và Hà Nội. Sở dĩ họ phải làm nghề này vì chẳng còn con đường nào khác kiếm sống. Giá 250cc máu là 150,000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Họ phải chi tiền cho nhân viên giám định để đổi lấy giấy chứng nhận sức khỏe. Ngoài ra, còn phải tiền tàu xe đi lại, nên cứ 250cc máu họ chỉ cầm được chừng 90,000 đồng là nhiều.
Tình hình bán máu
Công nhân bán máu
Uyên, một công nhân ở khu công nghiệp Tân Bình thổ lộ: “Mình ở tận Hải Dương vào đây lập nghiệp, nhưng lương công nhân thấp quá nên mỗi tháng muốn gửi ít tiền cho gia đình mình phải đi bán thêm tiểu cầu mới có thể xoay xở được”. Uyên tâm sự thêm “Công nhân bọn mình, có đứa sống chủ yếu bằng nghề này chứ không phải bằng lương đâu”. Trên gương mặt của cô, một người ốm yếu, là vẻ hao gầy nhợt nhạt của một người thường xuyên bán đi những giọt máu của chính mình, đổi lại là những bữa cơm công nhân đạm bạc và niềm an ủi của cha mẹ nơi quê nhà nghĩ đến sự thành công của đứa con tha phương lập nghiệp.
Học sinh Sinh viên bán máu
Một bạn trẻ tên Tân, có 6 năm thâm niên hành nghề bán máu cho biết “Mình đi rút máu từ lúc còn học trung học phổ thông. Hồi đó chưa có chứng minh thư nên mượn tạm của ông anh rồi thay tấm ảnh của mình vào, phí cho dịch vụ này không tốn lắm! Còn các thông tin lưu lại cho bệnh viện khi bán máu thực ra chỉ là thủ tục pháp lý chứ không ai kiểm tra mình bệnh gì trước đó hay sức khỏe như thế nào đâu”. Giọng Tân trùng xuống nói tiếp: “Làm cái nghề này sức khỏe cũng xuống rất nhanh. Có lần rút máu xong, vừa ra khỏi cửa là mình ngã gục xuống. Người nào hành nghề chuyên nghiệp thì sớm muộn cũng làm bạn với đau tim, còn đau đầu hay chóng mặt chỉ là chuyện lặt vặt”. Tân cho hay hiện có rất nhiều người chỉ sống bằng nghề bán máu, thậm chí họ còn chọn bệnh viện làm nơi cư ngụ thường xuyên để dễ dàng hành nghề.
Cả làng bán máu
Người người bán máu, nhà nhà bán máu, làng làng bán máu. Đó là làng nổi với hơn 30 gia đình sống dưới chân cầu Hồng Phú, phường Quang Trung, xã Phủ Lý tỉnh Hà Nam. Cả làng có chung một nghề: bán máu. Họ đến từ các miền khác nhau của đất nước như Sài Gòn, Quy Nhơn, Nam Định và Hải Phòng. Phủ Lý trở thành nơi an cư của họ bởi tiện bề đi lại để bán máu cho các bệnh viện ở Hà Nam, Bắc Ninh, Ninh Bình và Hà Nội. Sở dĩ họ phải làm nghề này vì chẳng còn con đường nào khác kiếm sống. Giá 250cc máu là 150,000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Họ phải chi tiền cho nhân viên giám định để đổi lấy giấy chứng nhận sức khỏe. Ngoài ra, còn phải tiền tàu xe đi lại, nên cứ 250cc máu họ chỉ cầm được chừng 90,000 đồng là nhiều.
Ở
các bệnh viện lấy máu ở Sài Gòn ngày nào cũng có người rồng rắn xếp
hàng chờ bán máu. Trung bình mỗi ngày Bệnh viện Truyền máu Huyết học có
khoảng 100 người đến bán máu. Do nhu cầu bán máu nhiều, để có thể bán
được máu, bắt buộc người bán phải đi thật sớm để xếp hàng. Tại Trung tâm
Truyền máu Huyết học ở quận 5 mới 6 giờ sáng đã có cả trăm người đứng,
ngồi kéo dài từ cửa trung tâm ra tận vỉa hè.
Mỗi lần bán 450ml máu chỉ được 250,000 đồng nhưng phải 2, 3 tháng mới bán được một lần. Còn mỗi lần bán tiểu cầu được 450,000 đồng, chỉ một tháng sau đã có thể bán tiếp. Tiểu cầu là một loại tế bào máu được dùng trong một loạt bệnh lý, có tác dụng cầm máu mà hầu hết các bệnh viện đều rất cần nhưng nguồn cung cấp không đủ cho nhu cầu. Việc lấy tiểu cầu ở trong nước rộ lên chừng 3 năm nay. So với máu toàn phần, tiểu cầu (cách gọi dân dã là máu chọn) có giá cao gấp đôi nên nó có sức hấp dẫn lớn đối với những người bán máu.
Ngành y tế nhà nước quy định mỗi người 3 tháng mới được lấy máu một lần và người hiến máu phải cân nặng trên 45kg và trên 18 tuổi. Nói thì nói vậy nhưng rất nhiều người vì hoàn cảnh khó khăn, cần gấp một khoản tiền đã phớt lờ và qua mặt quy định.
Mỗi lần bán 450ml máu chỉ được 250,000 đồng nhưng phải 2, 3 tháng mới bán được một lần. Còn mỗi lần bán tiểu cầu được 450,000 đồng, chỉ một tháng sau đã có thể bán tiếp. Tiểu cầu là một loại tế bào máu được dùng trong một loạt bệnh lý, có tác dụng cầm máu mà hầu hết các bệnh viện đều rất cần nhưng nguồn cung cấp không đủ cho nhu cầu. Việc lấy tiểu cầu ở trong nước rộ lên chừng 3 năm nay. So với máu toàn phần, tiểu cầu (cách gọi dân dã là máu chọn) có giá cao gấp đôi nên nó có sức hấp dẫn lớn đối với những người bán máu.
Ngành y tế nhà nước quy định mỗi người 3 tháng mới được lấy máu một lần và người hiến máu phải cân nặng trên 45kg và trên 18 tuổi. Nói thì nói vậy nhưng rất nhiều người vì hoàn cảnh khó khăn, cần gấp một khoản tiền đã phớt lờ và qua mặt quy định.
Hiến máu hay bán máu?
Ngày
14 tháng 6 vừa qua là ngày thế giới hiến máu, World Blood Donor Day.
Từ năm 2004, Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization) , Hiệp
hội truyền máu thế giới (International Society of Blood Transfusion) ,
Liên đoàn người hiến máu tình nguyện thế giới (International Federation
of Blood Donor Organizations) và Hiệp hội Hồng Thập Tự - Trăng lưỡi
liềm đỏ quốc tế (International Federation of Red Cross and Red Crescent
Societies) đã lấy ngày 14 tháng 6 hàng năm làm World Blood Donor Day.
Mục đích của ngày này không chỉ để lôi cuốn những người mới tham gia
hiến máu mà chính là nhằm tôn vinh những người đã hiến máu thường xuyên
2, 3 lần hay nhiều hơn trong năm.
Ở
các nước văn minh tiến bộ, hiến máu là một hành động nhân đạo, có tính
nhân sinh cao và thể hiện sự tương thân tương ái. Ở Việt Nam hiện nay
người hiến máu thì ít mà người bán máu thì càng ngày càng nhiều. Năm
ngoái, năm2009, tổng kết cả nước thâu được 632,902 đơn vị máu, trong đó
người hiến máu tình nguyện chiếm 79,06%. Như vậy có nghĩa là có đến 1/5
số máu thâu được không do người dân tự nguyện hiến mà là đem thân đến
bệnh viện nạp mạng để bán. Những trường hợp bán máu như đã nêu trên gồm
đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi thành phần của xã hội. Những mảnh đời đi bán
máu ấy khiến ai nghe cũng phải xót xa! Những người này đi bán máu để có
tiền duy trì sự sống rồi lại bán đi chính sự sống đó của mình. Cái
vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn, chỉ những người thân khi biết chồng,
vợ, mẹ, cha mình phải đi bán những giọt sự sống để duy trì cuộc sống
của họ là thấy đắng lòng và xót xa cho cái thân phận nghèo.
Vừa
qua ở trong nước, từ ngày 9 đến ngày 15 tháng 6, nhà cầm quyền CSVN
cũng cho tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi để tôn vinh những người hiến
máu với chủ đề “Lễ tôn vinh người hiến máu tình nguyện Việt Nam”. Qua
đó, nhà cầm quyền tuyên dương 100 người hiến máu tiêu biểu, có số lần
hiến máu cao nhất ở các tỉnh, các thành phố, và các bộ, các ngành. Những
người tình nguyện này cao lắm thì cũng chỉ hiến máu đôi ba lần trong
năm. Còn những người bán máu như đã nói ở trên thì sao? nhà cầm quyền có
quan tâm đến họ không? Có ai tôn vinh họ không? Họ bán hàng tháng và
bán dai dẳng hàng chục năm, hàng hai chục năm. Không có tiền cho con
đóng tiền học, thiếu tiền nhà, thất nghiệp, … họ đành phải chấp nhận đi
bán máu. Nhiều người trở thành kẻ bán máu chuyên nghiệp, thậm chí có
người thâm niên 20 năm trong nghề. Những đồng tiền bán máu ít ỏi nhưng
là cứu cánh cho nhiều gia đình, giúp bao em nhỏ không phải bỏ học, giữ
yên ấm cho biết bao mái nhà. Đó là một việc làm mà chúng ta không khỏi
cảm thấy xót xa, ngậm ngùi!
Trớ
trêu thay, bên cạnh những mảnh đời bất hạnh đó, bên cạnh biết bao
nhiêu người đang vật lộn với cuộc sống để sinh tồn, bán máu để mưu sinh
là những cuộc liên hoan xa hoa tốn kém, những bữa chè chén bạc triệu ở
các nhà hàng sang trọng khi các cán bộ tiếp khách. Những cuộc rượu chè
xa xỉ đua nhau nốc bia rượu cho đến say xỉn không còn biết đường về.
Tính ra một lít máu đỏ của người khốn cùng rút từ chính cơ thể của mình
đem bán chỉ được vài ba chục đô la, chỉ đáng giá một chai rượu đỏ loại
xoàng đủ cho một cấp lãnh đạo loại thường nhấp môi trong 1 buổi tiệc
“chiêu đãi”.
Máu người còn rẽ hơn rượu!
Máu người còn rẽ hơn rượu!
Dọc
đường phố đông đúc của Hà Nội và Sài Gòn ngày nay có lắm người ăn bận
quần áo đắt tiền, lái những chiếc xe hơi sang trọng nhất thế giới, và
hàng ngày dùng những bữa tiệc no say tại những khách sạn huy hoàng tráng
lệ. Việt Nam ngày nay có tầng lớp đại gia với khả năng tài chính vô
hạn, có giới tư bản đỏ sống đời xa hoa tậu nhà hàng triệu triệu Mỹ kim ở
trong nước cũng như ở ngoài nước, có cấp lãnh đạo nhà nước với tài sản
kết xù và có con cháu cán bộ cao cấp đua đòi với những chiếc xe hơi
Rolls-Royce, Bentley loại hàng “độc” đắt nhất thế giới.
Chủ nghĩa Cộng Sản ngày trước phát triển mạnh nhờ chiêu bài “xóa bỏ giai cấp” để đưa đến thế giới đại đồng, nhưng ngày nay thực tế cho thấy hoàn toàn ngược lại. Không những không “xóa” mà còn “thêm” để cho sự cách biệt giai cấp ngày càng tồi tệ hơn: giai cấp của tham quan thì giàu nứt vách còn giai cấp của nhân dân thì nghèo mạt rệp. Ở Việt Nam ngày nay người giàu không ít nhưng người nghèo thì quá nhiều và nghèo quá nghèo. Người nghèo thì nghèo đến khốn cùng còn người giàu thì giàu không thể tưởng tượng nổi. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, dễ dàng bắt gặp ở mọi nơi trên đất nước, ngày càng rõ rệt. Đó là “thiên đường xã hội chủ nghĩa”!
Trần Việt Trình
XÃ HỘI VIỆT NAM * HÀ NỘI
Không
phải tất cả nhưng gần đây nhiều du khách miền trong khi tới Hà Nội
kêu rằng họ bị chặt chém, đến cả đi toilet vì "nói giọng miền Nam"...
Nghe giọng Nam là “chém”
Không biết tự bao giờ Hà Nội đã được các du khách ngoại tỉnh, đặc biệt là người miền Nam đặt cho cái tên “miền đất dữ” hay “đất ớn”. Không ít người dù rất muốn đến thăm Hà Nội đã quyết định hoãn vô thời hạn ý định này khi được người khác kể cho nghe những kinh nghiệm “xương máu” về Thủ đô.
Vây kín, chèo kéo, bắt chẹt du khách ở Hà Nội khiến nhiều người “một đi không trở lại”. (Ảnh minh họa).
Chị Nguyễn Bích P – công tác trong ngành truyền thông ở Bình Thuận là một trong những người có nhiều kỷ niệm “đau” nhất. “Nhiều bạn bè của tôi nhắc nhau ra Hà Nội thì không nên mua gì, vì từng chứng kiến việc người bán cứ thấy khách nói tiếng miền Nam là nói thách và tìm cách lập lờ bán giá cao hơn. Có lần tôi vô chợ Đồng Xuân mua một cái áo, thấy chị bán hàng xởi lởi và tôi mua luôn một cái áo giá gần 400 nghìn, sau mang về mới biết giá người Hà Nội mua ngay gần đó chiếc tương tự nhưng giá chỉ bằng một nửa”, chị P kể.
Nhưng có lẽ kỷ niệm mua chiếc áo đắt gấp đôi chỉ vì nói giọng miền Nam của chị P chưa bi hài bằng câu chuyện “đi vệ sinh cũng bị tính giá khác” của bạn chị: “Đi ăn phở mà nói giọng Nam thì cũng thường bị tính đắt hơn 10.000 đồng/bát. Có lần tôi đi uống cà phê vỉa hè, lúc đứng dậy cũng bị tính 50.000 đồng/ly, trong khi để ý người bên cạnh uống ly cà phê y chang thì chỉ bị tính có 10.000 – 15.000 đồng/ly.
Thậm chí có lần tôi vô vệ sinh công cộng, lúc quay ra cũng bị người ta đòi 5.000 đồng, trong khi những người không nói giọng Nam thì tính chỉ 2.000 đồng. Tức quá, quay ra chất vấn thì người thu tiền nói tỉnh queo: “À, tại chị đi lâu hơn”… Thật không thể hiểu được!”.
“Bạn tôi ở Sài Gòn ra chơi, có lần đi chơi chỉ chừng 12km (sau này mới biết), thế mà bị anh taxi cho đi loanh quanh hơn tiếng đồng hồ, lúc tính tiền thành ra hơn 500.000 đồng. Từ đó chị ấy khiếp vía, rất sợ đi taxi ở Hà Nội”, chị P kể tiếp.
Hẳn nhiều người còn nhớ những câu chuyện rất “nổi tiếng” về dịch vụ taxi của Hà Nội mà hầu hết “nạn nhân” là những người từ nơi khác đến, không thông thạo đường phố thủ đô như chuyện một du khách TP.HCM phải trả hơn 800.000 đồng cho chuyến xe từ đường Đại Cồ Việt về Bờ Hồ.
Mới đây nhất là trường hợp một đại biểu tham dự Đại hội đồng cảnh sát quốc tế (Interpol) đã phải trả 200 USD và 100 đô la Singapore cho quãng đường chưa đầy 10km từ phố Phan Bội Châu về Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình.
“Tôi không hiểu vì sao một số người bán hàng Hà Nội lại có thể làm như thế? Lấy tiền của một vài người khách lạ thêm chục ngàn đâu có khiến họ giàu lên chút nào nhưng hậu quả thì vô cùng lớn. Người ta sẽ kể cho tất cả bạn bè, họ hàng về những tai nạn này và kết quả là cả thủ đô Hà Nội bị tiếng xấu”, anh Huỳnh Văn Khánh – một du khách Cần Thơ than thở.
Anh Khánh than với người viết bài này khi đang ngồi bên bờ hồ Hoàn Kiếm và vừa phải trả 15 ngàn đồng cho một ly nước mía ở gần đó: “Trước khi ra Hà Nội, một số bạn bè tôi đã cảnh báo và tôi cũng đã rất cảnh giác nhưng rồi cuối cùng vẫn “bị” như thường. Người bán hàng giải thích rằng vì ly nước của tôi lớn hơn nhưng thực tế thì không có gì khác. Có lẽ tôi phải trả nhiều tiền hơn vì đã lỡ nói giọng Nam”.
Chậm, kém và chộp giật
“Tiếng xấu” mà anh Khánh nói không phải bây giờ mới có mà nó đã được những người đã đi Hà Nội loan truyền khá rộng rãi từ lâu nay.
Chị Nguyễn Thị L. – cán bộ của Chi cục Thuế Tân Bình (TP.HCM) cho biết, trong chuyến đi tập huấn kết hợp du lịch Hà Nội đầu tháng 11 vừa qua, vợ chồng chị đã phải đề phòng bằng cách đặt tour của một công ty lữ hàng lớn với giá đắt hơn khá nhiều so với các công ty khác với hy vọng rằng chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn.
Nhưng khi chuyến đi đã khởi hành, vợ chồng chị mới phát hiện ra rằng mình đã bị “bán lại” cho một đơn vị tổ chức tour vô danh nào đó của tư nhân. “Ở trong Nam, chúng tôi hoàn toàn không có tình trạng này, đăng ký mua tour của Saigon Tourist là được đi đúng tour, không bao giờ bị ghép sang tour du lịch của các đơn vị khác”, chị L. phản ánh.
Tình trạng đường phố bẩn thỉu, rác rưởi và lối giao thông “không giống ai” cũng làm Hà Nội mất điểm trầm trọng.
Với một công ty lớn mà chất lượng phục vụ còn như vậy thì sẽ chẳng có gì quá lạ khi những người bán hàng ngoài chợ “ghê gớm và ngoa ngoắt” với khách tỉnh lẻ, khách từ vùng miền khác. “Bữa đi chợ Đồng Xuân hôm vừa rồi, giữa lúc chúng tôi đang xem và lựa đồ, chưa kịp hỏi giá của món đồ đã bị người bán hàng giật lại không cho lựa với lý do… lựa chọn lâu la”, chị L kể và khẳng định: “Ở trong Nam, chúng tôi không bao giờ bị gặp cung cách phục vụ như vậy”.
Đáng buồn là hầu hết các du khách ngoại tỉnh đến Hà Nội đều đã từng phải gánh chịu chất lượng dịch vụ kém của thủ đô với những nhận xét rất giống nhau rằng: Dịch vụ gì của Hà Nội cũng chậm, thái độ phục vụ của nhân viên kênh kiệu, hách dịch thậm chí là “khinh người” kiểu như “ăn bát phở mà gọi khản cổ không được, xin thêm miếng chanh thì bị lườm cháy mặt”.
“Ra Hà Nội 2 tuần, đến giờ nói thật là tôi và chồng tôi đều đã cảm thấy rất “ớn” vì dịch vụ và cung cách phục vụ của những người làm trong ngành dịch vụ, phục vụ ở Thủ đô”, vợ chồng chị L. cho biết.
Những tiếng xấu này của Hà Nội bao giờ mới được gột rửa hết?
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Từ đó Cộng sản sinh ra óc bè phái, cục bộ, địa phương. Hồ Chí Minh người Trung cho nên bọn Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn và bọn trung ương đảng toàn người Trung. Sau khi Hồ Chí Minh chết, Bắc Kỳ vùng lên, nắm lấy cái Tổng Bí thư, dân Nam kinh doanh gỉỏi nên giao cho ghế thủ tướng. Còn lại dân Trung được ban cái ghế chủ tịch Quốc Hội. Bọn Bắc Kỳ nay khôn, biết chia chác cho anh em chứ không ôm trọn như ông Hồ, nhưng dù sao anh Bắc Kỳ cũng nắm cái thủ lợn Tổng Bí Thư! Thời đại vua Lê chúa Trịnh, dân Bắc Kỳ đã ngán bọn Kiêu binh hung bạo "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần". Đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Bắc Kỳ lại khiếp viá bọn Thanh Nghệ Tịnh của lão cáo già. Vì tinh thần địa phương mà bọn Nam kỳ tập kết ra Bắc kỳ bị coi như chó ghẻ. Xem những truyện của Xuân Vũ, ta mới thấy nỗi niềm của dân Nam Kỳ ra Bắc ăn nhờ ở đậu!
Nghe giọng Nam là “chém”
Không biết tự bao giờ Hà Nội đã được các du khách ngoại tỉnh, đặc biệt là người miền Nam đặt cho cái tên “miền đất dữ” hay “đất ớn”. Không ít người dù rất muốn đến thăm Hà Nội đã quyết định hoãn vô thời hạn ý định này khi được người khác kể cho nghe những kinh nghiệm “xương máu” về Thủ đô.
Vây kín, chèo kéo, bắt chẹt du khách ở Hà Nội khiến nhiều người “một đi không trở lại”. (Ảnh minh họa).
Chị Nguyễn Bích P – công tác trong ngành truyền thông ở Bình Thuận là một trong những người có nhiều kỷ niệm “đau” nhất. “Nhiều bạn bè của tôi nhắc nhau ra Hà Nội thì không nên mua gì, vì từng chứng kiến việc người bán cứ thấy khách nói tiếng miền Nam là nói thách và tìm cách lập lờ bán giá cao hơn. Có lần tôi vô chợ Đồng Xuân mua một cái áo, thấy chị bán hàng xởi lởi và tôi mua luôn một cái áo giá gần 400 nghìn, sau mang về mới biết giá người Hà Nội mua ngay gần đó chiếc tương tự nhưng giá chỉ bằng một nửa”, chị P kể.
Nhưng có lẽ kỷ niệm mua chiếc áo đắt gấp đôi chỉ vì nói giọng miền Nam của chị P chưa bi hài bằng câu chuyện “đi vệ sinh cũng bị tính giá khác” của bạn chị: “Đi ăn phở mà nói giọng Nam thì cũng thường bị tính đắt hơn 10.000 đồng/bát. Có lần tôi đi uống cà phê vỉa hè, lúc đứng dậy cũng bị tính 50.000 đồng/ly, trong khi để ý người bên cạnh uống ly cà phê y chang thì chỉ bị tính có 10.000 – 15.000 đồng/ly.
Thậm chí có lần tôi vô vệ sinh công cộng, lúc quay ra cũng bị người ta đòi 5.000 đồng, trong khi những người không nói giọng Nam thì tính chỉ 2.000 đồng. Tức quá, quay ra chất vấn thì người thu tiền nói tỉnh queo: “À, tại chị đi lâu hơn”… Thật không thể hiểu được!”.
“Bạn tôi ở Sài Gòn ra chơi, có lần đi chơi chỉ chừng 12km (sau này mới biết), thế mà bị anh taxi cho đi loanh quanh hơn tiếng đồng hồ, lúc tính tiền thành ra hơn 500.000 đồng. Từ đó chị ấy khiếp vía, rất sợ đi taxi ở Hà Nội”, chị P kể tiếp.
Hẳn nhiều người còn nhớ những câu chuyện rất “nổi tiếng” về dịch vụ taxi của Hà Nội mà hầu hết “nạn nhân” là những người từ nơi khác đến, không thông thạo đường phố thủ đô như chuyện một du khách TP.HCM phải trả hơn 800.000 đồng cho chuyến xe từ đường Đại Cồ Việt về Bờ Hồ.
Mới đây nhất là trường hợp một đại biểu tham dự Đại hội đồng cảnh sát quốc tế (Interpol) đã phải trả 200 USD và 100 đô la Singapore cho quãng đường chưa đầy 10km từ phố Phan Bội Châu về Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình.
“Tôi không hiểu vì sao một số người bán hàng Hà Nội lại có thể làm như thế? Lấy tiền của một vài người khách lạ thêm chục ngàn đâu có khiến họ giàu lên chút nào nhưng hậu quả thì vô cùng lớn. Người ta sẽ kể cho tất cả bạn bè, họ hàng về những tai nạn này và kết quả là cả thủ đô Hà Nội bị tiếng xấu”, anh Huỳnh Văn Khánh – một du khách Cần Thơ than thở.
Anh Khánh than với người viết bài này khi đang ngồi bên bờ hồ Hoàn Kiếm và vừa phải trả 15 ngàn đồng cho một ly nước mía ở gần đó: “Trước khi ra Hà Nội, một số bạn bè tôi đã cảnh báo và tôi cũng đã rất cảnh giác nhưng rồi cuối cùng vẫn “bị” như thường. Người bán hàng giải thích rằng vì ly nước của tôi lớn hơn nhưng thực tế thì không có gì khác. Có lẽ tôi phải trả nhiều tiền hơn vì đã lỡ nói giọng Nam”.
Chậm, kém và chộp giật
“Tiếng xấu” mà anh Khánh nói không phải bây giờ mới có mà nó đã được những người đã đi Hà Nội loan truyền khá rộng rãi từ lâu nay.
Chị Nguyễn Thị L. – cán bộ của Chi cục Thuế Tân Bình (TP.HCM) cho biết, trong chuyến đi tập huấn kết hợp du lịch Hà Nội đầu tháng 11 vừa qua, vợ chồng chị đã phải đề phòng bằng cách đặt tour của một công ty lữ hàng lớn với giá đắt hơn khá nhiều so với các công ty khác với hy vọng rằng chất lượng dịch vụ sẽ tốt hơn.
Nhưng khi chuyến đi đã khởi hành, vợ chồng chị mới phát hiện ra rằng mình đã bị “bán lại” cho một đơn vị tổ chức tour vô danh nào đó của tư nhân. “Ở trong Nam, chúng tôi hoàn toàn không có tình trạng này, đăng ký mua tour của Saigon Tourist là được đi đúng tour, không bao giờ bị ghép sang tour du lịch của các đơn vị khác”, chị L. phản ánh.
Tình trạng đường phố bẩn thỉu, rác rưởi và lối giao thông “không giống ai” cũng làm Hà Nội mất điểm trầm trọng.
Với một công ty lớn mà chất lượng phục vụ còn như vậy thì sẽ chẳng có gì quá lạ khi những người bán hàng ngoài chợ “ghê gớm và ngoa ngoắt” với khách tỉnh lẻ, khách từ vùng miền khác. “Bữa đi chợ Đồng Xuân hôm vừa rồi, giữa lúc chúng tôi đang xem và lựa đồ, chưa kịp hỏi giá của món đồ đã bị người bán hàng giật lại không cho lựa với lý do… lựa chọn lâu la”, chị L kể và khẳng định: “Ở trong Nam, chúng tôi không bao giờ bị gặp cung cách phục vụ như vậy”.
Sự kém trong các dịch vụ du lịch của Hà Nội còn thể hiện ở thói quen hay bắt chẹt khách.
Theo chị Nguyễn Bích P (Bình Thuận), một “kỷ niệm buồn” ở Hà Nội gắn với một địa chỉ nổi tiếng. “Có vẻ như nhiều hàng quán ở Hà Nội bán hàng hơi kiêu căng. Có lần tôi vô quán Chả cá Lã Vọng nổi tiếng trên phố Chả Cá. Đi cùng nhóm bạn 6 người, nhưng chúng tôi chỉ gọi 5 suất vì trong nhóm có một người ăn chay chỉ đi chung cho vui. Thế nhưng người phục vụ nói 6 người phải lấy đủ 6 suất, lấy 5 suất không bán. Trao đi đổi lại mãi người ta vẫn nhất quyết không bán 5 suất”.
Theo chị Nguyễn Bích P (Bình Thuận), một “kỷ niệm buồn” ở Hà Nội gắn với một địa chỉ nổi tiếng. “Có vẻ như nhiều hàng quán ở Hà Nội bán hàng hơi kiêu căng. Có lần tôi vô quán Chả cá Lã Vọng nổi tiếng trên phố Chả Cá. Đi cùng nhóm bạn 6 người, nhưng chúng tôi chỉ gọi 5 suất vì trong nhóm có một người ăn chay chỉ đi chung cho vui. Thế nhưng người phục vụ nói 6 người phải lấy đủ 6 suất, lấy 5 suất không bán. Trao đi đổi lại mãi người ta vẫn nhất quyết không bán 5 suất”.
Đáng buồn là hầu hết các du khách ngoại tỉnh đến Hà Nội đều đã từng phải gánh chịu chất lượng dịch vụ kém của thủ đô với những nhận xét rất giống nhau rằng: Dịch vụ gì của Hà Nội cũng chậm, thái độ phục vụ của nhân viên kênh kiệu, hách dịch thậm chí là “khinh người” kiểu như “ăn bát phở mà gọi khản cổ không được, xin thêm miếng chanh thì bị lườm cháy mặt”.
“Ra Hà Nội 2 tuần, đến giờ nói thật là tôi và chồng tôi đều đã cảm thấy rất “ớn” vì dịch vụ và cung cách phục vụ của những người làm trong ngành dịch vụ, phục vụ ở Thủ đô”, vợ chồng chị L. cho biết.
Những tiếng xấu này của Hà Nội bao giờ mới được gột rửa hết?
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Chủ
nghĩa cộng sản chủ trương xóa tan biên giới quốc gia, xóa giai cấp bóc
lột để đi đến thế giới đại đồng. Nhưng thực tế trái ngược. Lenin đã ký
mật ước với Đức để Đức cho y về cướp chính quyền dân chủ ở Nga, làm
lợi cho cuộc chiếm Nga của Đức. Đảng Cộng sản đã giết hại các chiến sĩ
quốc gia, sau đảng cộng sản phân hai, một là phe Bolsheviks"
do Lenin lãnh đạo và phe kia Menshevik do Julius Martow lãnh đạo. Phe
J. Martow chủ trương dân chủ, còn Lenin thì muốn tiến nhanh tiến mạnh,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai phe tranh luận, phe
Lenin dùng bạo lực giết hết phe Martow. Sau khi Lenin chết, Stalin tự
nắm quyền, đem quân xâm chiếm Balan và các nước khác, đồng thời ra tay
tàn sát dân chúng. Trotsky phản đối thì Stalin đuổi Trotsky ra khỏi
nước, sau đó cho thủ hạ giết người nhà và đồng chí của Trotsky. Stalin
nắm quyền, giết hàng vạn đảng viên và dân biểu quốc hội, những kẻ còn
lại phải nịnh hót, luồn cúi Stalin và chế độ để sống còn.
Từ
đó, chủ nghĩa cộng sản mang tính độc tài tài bạo, không còn tình đồng
chí, anh em, không còn tinh thần vô sản quốc tế mà trở thành phe nhóm,
bè đảng, cục bộ, phi dân chủ, phi công lý.Tinh thần cộng sản này đã
truyền sang Trung Quốc, ViệtNam và Miên, Lào.
Độc tài nghĩa là độc tôn, độc quyền. Cộng sản không muốn ai mạnh như mình, uy tín như mình cho nên Hồ Chí Minh đã bán Phan Bội Châu cho Pháp không e sợ nhân dân phỉ báng tội bán nước buôn dân. Vì muốn độc quyền cai trị, và độc tài cho nên Cộng sản không muốn ai có ý kiến, chủ trương khác mình. Ai bất phục hay nghi ngờ bất phục là giết. Cộng sản giết hại mọi người nên không yêu nhân dân, không yêu nước, huống hồ yêu nhân loại. Cộng sản nghi ngờ mọi người, giết và bỏ tù nhân dân, coi nhân dân là kẻ thù thì chúng tin ai?Chúng tin bọn nịnh hót, bọn thủ hạ tay chân.
Độc tài nghĩa là độc tôn, độc quyền. Cộng sản không muốn ai mạnh như mình, uy tín như mình cho nên Hồ Chí Minh đã bán Phan Bội Châu cho Pháp không e sợ nhân dân phỉ báng tội bán nước buôn dân. Vì muốn độc quyền cai trị, và độc tài cho nên Cộng sản không muốn ai có ý kiến, chủ trương khác mình. Ai bất phục hay nghi ngờ bất phục là giết. Cộng sản giết hại mọi người nên không yêu nhân dân, không yêu nước, huống hồ yêu nhân loại. Cộng sản nghi ngờ mọi người, giết và bỏ tù nhân dân, coi nhân dân là kẻ thù thì chúng tin ai?Chúng tin bọn nịnh hót, bọn thủ hạ tay chân.
Từ đó Cộng sản sinh ra óc bè phái, cục bộ, địa phương. Hồ Chí Minh người Trung cho nên bọn Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn và bọn trung ương đảng toàn người Trung. Sau khi Hồ Chí Minh chết, Bắc Kỳ vùng lên, nắm lấy cái Tổng Bí thư, dân Nam kinh doanh gỉỏi nên giao cho ghế thủ tướng. Còn lại dân Trung được ban cái ghế chủ tịch Quốc Hội. Bọn Bắc Kỳ nay khôn, biết chia chác cho anh em chứ không ôm trọn như ông Hồ, nhưng dù sao anh Bắc Kỳ cũng nắm cái thủ lợn Tổng Bí Thư! Thời đại vua Lê chúa Trịnh, dân Bắc Kỳ đã ngán bọn Kiêu binh hung bạo "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần". Đến thời đại Hồ Chí Minh, dân Bắc Kỳ lại khiếp viá bọn Thanh Nghệ Tịnh của lão cáo già. Vì tinh thần địa phương mà bọn Nam kỳ tập kết ra Bắc kỳ bị coi như chó ghẻ. Xem những truyện của Xuân Vũ, ta mới thấy nỗi niềm của dân Nam Kỳ ra Bắc ăn nhờ ở đậu!
Sau
1975, bọn Nam kỳ hồi kết, tưởng rằng mình được tự do nhưng không ngờ
lần nữa, bọn hồi kết lại phải làm đầy tớ cho chủ Bắc Kỳ ngay trong nhà
cửa quê hương mình. Cùng một lúc, cộng sản làm thịt luôn bọn giải phóng
miền Nam khiến cho TrươngNhư Tảng, Đoàn Văn Toại, Châu Tâm Luân, Lê Văn
Hảo phải chạy trốn ra nước ngoài theo hướng đế quốc và tư bản! Than
Ôi! Chúng nó là trí thức cả đấy sao mà chẳng thấy thông minh tí nào!
Xem như vậy thì dân chúng Miền Nam bị coi như nô lệ phải bị tù đày, đói
khổ là chuyện tất yếu.
Óc
địa phương cho nên cộng sản đưa phe nhóm của mình vào chính quyền.
Bọn cộng sản thực ra là kết hợp phong kiến và cộng sản. Đó là tinh thần
"Một người làm quan cả họ được cậy".
Và cũng là tinh thần Nghệ An, cái gì cũng là cá nhân, tôn sùng
cái"TA"(nhà ta, đảng ta, con ta, cháu ta. . .). Thời vua Lê chúa Trịnh,
Thanh Nghệ kéo bè đảng vào, dựa hơi vua, hơi chúa tha hồ hống hách. Nay
cộng thêm cái hống hách vô sản cho nên khắp nơi từ cửa hàng cho đến cơ
quan, ai cũng hống hách. Bí thư có cái hách của bí thư, bảo vệ có cái
oai của bảo vệ, thủ kho có cái hùng của thủ kho. Hách bởi vì cậy thế
cậy thần. Hách là vì phản ứng tự nhiên của con người. Hễ ai nịnh trên
là phải đạp dưới. Dân Hà Nộị chính cống chạy mất vào Nam hay ra ngoại
quốc. Một số bị ngồi tù vì tội tư sản, phong kiến phản động. Một số rất
it còn lại phải mình thật thấp. Giai cấp mới tràn vào, phần lớn là
"tinh hoa" của vô sản", bản chất công nông ,lại thêm tự hào giai cấp
lãnh đạo, thành phần cốt cán, cho nên khinh người như rác. Ông Hồ hô hào
chống quan liêu mệnh lệnh nhưng độc tài chính là trung tâm sản xuất
vi trùng quan liêu, mệnh lệnh, bàn giấy... Sau 1975, cộng sản chủ trương kinh tế chính trị vĩ mô, tập hợp ba tỉnh làm một. Dân Thừa Thiên và một nửa dân Quảng Trị ở với chính quyền miền Nam nên bị coi là dân ngụy. Dân Quảng Bình trở thành ông trời ở Huế, cái danh xưng" Bình Trị Thiên " quả là cái tên định mệnh! Cái tên Bình Trị Thiên thật buồn cười nhưng đúng thực tế vì dân Quảng Bình trừng trị, cai trị dân Thừa Thiên. Bất cứ cửa hàng bán rau, hay trạm xe lửa, cứ nghe dân Huế cất tiếng nói năng, van xin là dân Quảng Bình quát tháo, nạt nộ khinh bỉ, và xua đuổi! Ôi hai chữ Đồng chí, đồng bào sao mà cay đắng thế?
Nay NôngĐức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng đã đưa người nhà vào các cơ quan nhà nước và thao túng kinh tế chính trị quốc gia. Ngày xưa họ chống phong kiến cha truyền con nối nhưng Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh đã đưa con cái vào các địa vị trọng yếu dù con cái họ bất tài và tham ô. Ôi thế là cộng sản sao? Thế là diệt tư hữu ư? Mỉa mai thay chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa đại đồng! Từ cái tinh thần cục bộ cộng sản chủ nghĩa đưa đến gian tham, bóc lột, lường gạt. Ôi lão già muốn đại thắng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười muốn nắm quyền bính nên đã cầu viện Trung Quốc đâu sợ nhân dân kết tội bán nước cầu vinh! Từ trên xuống dưới đều tham ô và dối trá. Ai thuộc phe ông lớn thì chiều lòn bợ đỡ. Ai không thân thế thì bị đạp đổ.
Những danh từ vì dân, do dân, phục vụ nhân dân đều trở thành phản
nghĩa. Hơn nữa, tinh thần phân biệt bạn thù cũng ghê gớm lắm. Ai không
phải phe ta tức là kẻ thù! Dân Việt Kiều về nước, dân Nam Kỳ ra Bắc, hay dân các tỉnh đến Hà Nội đều bị coi là kẻ thù, là đối tượng để họ thẳng tay trấn lột. Tất cả chính là do căn bệnh cộng sản tạo
ra. Người cộng sản bóc lột lẫn nhau và bóc lột người lạ. Có cơ hội là
cướp dựt! Điều đó giải thích tại người các nơi kể cả người ngoại quốc
đến Hà Nội đều bị bóc lột, bị làm tiền!
Ôi ngày xưa người cộng sản kết án tư bản bóc lột , làm giàu phi nghĩa nhưng bây giờ người cộng sản trấn lột cộng khai. Công ty Vinashin, Air Vietnam. . . là cái túi gian tham khổng lồ của cộng sản. Bọn cộng sản đầu gấu ăn cướp hàng triệu, thì bọn đàn em cũng ăn cướp hàng vạn, hàng ngàn.Bọn dưới nữa thì lường gạt nhân dân. Ai bảo về Việt Nam làm gì mà phải khổ như Chế Linh? Ai bảo ra Hà Nội làm gì cho bị trấn lột? Người Việt Nam ta xưa hiếu khách, trọng nhân nghĩa đâu có đểu cáng như bây giờ?Ội! Ngàn năm văn vật đất Thăng Long! Chính bọn Cộng sản đã phá hoại truyền thống văn minh,lịch sự của cha ông!
Ôi ngày xưa người cộng sản kết án tư bản bóc lột , làm giàu phi nghĩa nhưng bây giờ người cộng sản trấn lột cộng khai. Công ty Vinashin, Air Vietnam. . . là cái túi gian tham khổng lồ của cộng sản. Bọn cộng sản đầu gấu ăn cướp hàng triệu, thì bọn đàn em cũng ăn cướp hàng vạn, hàng ngàn.Bọn dưới nữa thì lường gạt nhân dân. Ai bảo về Việt Nam làm gì mà phải khổ như Chế Linh? Ai bảo ra Hà Nội làm gì cho bị trấn lột? Người Việt Nam ta xưa hiếu khách, trọng nhân nghĩa đâu có đểu cáng như bây giờ?Ội! Ngàn năm văn vật đất Thăng Long! Chính bọn Cộng sản đã phá hoại truyền thống văn minh,lịch sự của cha ông!
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0198
CON GÁI STALIN
Con gái Stalin qua đời ở Mỹ
Cập nhật: 05:12 GMT - thứ ba, 29 tháng 11, 2011
Lana
Peters, con gái độc nhất của cựu lãnh đạo Xô viết Josef
Stalin, vừa qua đời vì ung thư đại tràng tại bang Wisconsin, Mỹ,
ở tuổi 85.
Tên thật là Svetlana
Alliluyeva, bà Lana Peters đã qua đời hôm 22/11, theo xác nhận
của giới chức Mỹ đưa ra cho ban tiếng Nga của BBC.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Bà là tác giả của bốn quyển sách, trong đó có hai hồi ký thuộc diện ăn khách.
Thế nhưng Svetlana nói bà không thể trốn khỏi cái bóng của cha mình.
Thể hiện bản thân
Khi tới Mỹ, Svetlana nói bà rời khỏi Liên Xô để "thể hiện bản thân, điều mà tôi không thể thực hiện ở nước Nga".Bà cũng cho hay một trong các lý do khiến bà đào tẩu là cách thức tồi tệ mà chính quyền Xô viết đối xử với người chồng đã chết của bà, ông Brijesh Singh.
Khi tới Ấn Độ năm 1966 để rải tro chồng, thay vì quay về Liên Xô Svetlana Alliluyeva đã tới Đại sứ quán Hoa Kỳ xin tỵ nạn chính trị.
Bà đã đốt hộ chiếu Liên Xô, lên án cộng sản và cha mình, người mà bà gọi là "ác quỷ về cả đạo đức và tinh thần".
Svetlana Alliluyeva tốt nghiệp Đại học Moscow năm 1949, khởi nghiệp bằng việc dạy học và phiên dịch.
Bà lập gia đình bốn lần, ba lần ở nước Nga, và để lại hai đứa con ở trong nước.
Hồi ký đầu tiên của bà, 20 Lá thư gửi Bạn, xuất bản lần đầu năm 1967 và mang lại 2,5 triệu đôla.
Bà lậ́y tên Lana Peters sau khi cưới kiến trúc sư William Wesley Peters ở nước Mỹ.
Hai vợ chồng bà định cư ở tiểu bang Wisconsin và có con gái chung tên là Olga trước khi ly dị năm 1973.
Trong những năm 1980, bà đã quay lại Liên Xô một thời gian ngắn nhưng rồi lại ra đi vì cãi cọ với thân nhân.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 1990 với báo Independent của Anh, Lana Peters nói bà không có tiền và phải sống với con gái Olga trong một căn hộ đi thuê.
'Con sẻ nhỏ'
Stalin, qua đời năm 1953, bị cho là phải chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu người dân Xô viết.Svetlana Alliluyeva chỉ có sáu tuổi khi mẹ đẻ của bà tự vẫn. Một thời gian bà khá gần gũi với cha, người gọi bà là 'con sẻ nhỏ'. Thế nhưng trong những năm cuối đời của Stalin, hai cha con ngày càng xa rời nhau.
Chính Stalin đã bắt mối tình đầu của Svetlana, một nhà làm phim người Do Thái, đi đầy tại Siberia.
Anh trai của bà, Jacob, chết trong trại tập trung của Đức Quốc xã khi Stalin từ chối đổi con lấy một viên tướng Đức. Một người con khác là Vasili thì chết vì nghiện rượu năm 40 tuổi.
Svetlana Alliluyeva luôn than phiền về việc bà luôn bị gắn với cha mình.
Một lần bà ca thán: "Người ta cứ nói 'Con gái Stalin, con gái Stalin', như thể tôi cầm súng chạy quanh bắn hết dân Mỹ vậy".
"Hoặc là họ bảo 'Không, bà ta đã đào tẩu tới đây, bà ta là công dân Mỹ rồi'. Nghĩa là tôi mang bom trong người hay sao đó."
"Tôi chẳng phải là những gì họ nói. Tôi ở lưng chừng đâu đó, và người ta không thể hiểu được cái độ lưng chừng này."
Svetlana cũng đã lên tiếng chỉ trích các lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga khác về chính sách lao động khổ sai từng được áp dụng ở Liên Xô cũ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/11/111129_stalin_daughter_dies.shtml
BẦU CHỌN VỊNH HẠ LONG
VIỆT NAM IM LẶNG KHI BIẾT BỊ LỪA BỞI TỔ CHỨC NEW 7 WONDERS
Câu
chuyện nhà cầm quyền Việt Nam buộc cả nước phải hướng ứng chiến dịch
nhắn tin trả phí qua điện thoại để Vịnh Hạ Long được bình chọn là một
trong 7 kỳ quan mới của thế giới, đang là câu chuyện dở khóc dở cười khi
thông tin ngày càng rõ rệt hơn về tổ chức New 7 Wonders thực chất chỉ
là một nhóm lừa đảo. Hàng chục tỷ đồng qua nhắn tin trả phí đã được
chia chác 50% cho tổ chức lừa dảo này, làm giàu cho một cuộc bình chọn
vô giá trị cũng như làm mất mặt nhiều quan chức cao cấp của Cộng Sản
Việt Nam, vốn đã nhận dút lót để quảng bá và ép buộc dân chúng phải
tham gia.
Nhiều công ty buộc nhân viên mình phải tham gia nhắn tin, nếu không sẽ bị đuổi việc, hoặc hàng triệu thanh niên đoàn viên, đội thiếu niên cộng sản cũng bị ép buộc phải nhắn tin bình chọn. Hết sức nhục nhã khi hầu hết các phương tiện truyền thông quốc gia cũng bị ép buộc phải vào cuộc quảng bá cho bình chọn này, móc túi người dân cho một tổ chức vô giá trị, và lọt vào túi nhiều quan tham trong nước. Chương trình bình chọn 7 kỳ quan thế giới mới trên trang new 7 wonders đã được tiến hành từ cách đây bốn năm. Tuy nhiên nhiều quốc gia đã rút tên khỏi cuộc chạy đua bình chọn. Lý do được các quốc gia đưa ra là nghi ngờ tính khách quan của cuộc bầu chọn, thậm chí do nhà tổ chức yêu cầu số tiền lớn lên tới hàng triệu đô-la cho việc quảng bá, tổ chức lễ công bố. Ngay chính tổ chức UNESCO cũng khẳng định không liên quan tới chiến dịch bầu chọn này.
Nhiều ý kiến cho rằng Tổ chức New Open World do một người Thụy Sĩ là Bernard Weber thành lập, đang tìm kiếm lợi ích kinh tế từ việc tổ chức bình chọn. Vừa qua nhiều người nghi ngại khi trên trang web new 7 wonders, nhà tổ chức cũng đã cung cấp dịch vụ gửi giấy xác nhận bình chọn kỳ quan bằng file pdf với chi phí 2 đô-la. Thực chất, đây chỉ là ý tưởng kinh doanh của một người Canada gốc Thụy Sĩ, tên là Bernard Weber. Ðây là Website của một tổ chức tư nhân, đặt trụ sở tại Thụy Sĩ, chứ không phải của một dự án của một Chính phủ hay Tổ chức uy tín nào trên thế giới. Một Chuyên gia Ai Cập về Di sản thế giới phát biểu ngoài khía cạnh thương mại, lá phiếu không có cơ sở khoa học. Tại Ai Cập, Bộ trưởng Văn hóa Farouq Hosni gọi cuộc bầu chọn này là ngớ ngẩn và mô tả ông Weber chỉ có mục đích duy nhất là tự quảng cáo.
Rất nhiều ý kiến phản ứng từ dân chúng và các nhà trí thức, nhưng nhà cầm Cộng sản Việt Nam vẫn bỏ qua tai, vì các quan chức then chốt trong sự kiện này đã nhận tiền dút lót của tổ chức lừa đảo nói trên. Tại Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Thắng, Tổng Thư ký Hiệp hội UNESCO Việt Nam và nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội UNESCO thế giới, cho rằng việc mua phiếu bầu và nhà tổ chức thu tiền này khiến cuộc bình chọn 7 kỳ quan thế giới mới không khác gì một cuộc thi Manhunt tức giải Người đàn ông quyến rũ Quốc tế, khi một cá nhân bỏ ra vài ngàn đô-la để mua hàng trăm lá phiếu.
Chính phủ Maldives, trong những nước tham gia từ đầu, đã sớm tỉnh ngộ, nhận ra trò lừa đảo của New 7 Wonders và đã rút lui từ tháng 5. Ngược lại, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Hoàng Tuấn Anh đã chỉ đạo Cục Hợp tác Quốc tế đưa ra 9 chương trình hành động từ nay đến cuối năm cho cuộc vận động bầu chọn cho Vịnh Hạ Long trở thành kỳ quan thiên nhiên thế giới. Giờ đây mọi thứ đã ngã ngũ, tiền thì mất, bộ mặt quốc gia thì ê chề, nhưng các quan chức Việt Nam thì vẫn im lặng với túi tiền đã có của họ.(SBTN)
.(SBTN)
Xem tấm ảnh này, nhớ lại bài viết trên, lại chả biết ...cười
hay khóc!
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Mấy tay đầu nậu không phải bị lừa mà chúng thông đồng với bọn lưu manh để bóc lột nhân dân.
Cái bảng trên chứng tỏ cán bộ nhân viên bị đàn áp khủng bố quá trắng trợn và phi lý. Phải dẹp bỏ cộng sản thì nhân dân ta mới được độc lập, tự do, hạnh phúc.
Xem tấm ảnh này, nhớ lại bài viết trên, lại chả biết ...cười
hay khóc!
VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH
Mấy tay đầu nậu không phải bị lừa mà chúng thông đồng với bọn lưu manh để bóc lột nhân dân.
Cái bảng trên chứng tỏ cán bộ nhân viên bị đàn áp khủng bố quá trắng trợn và phi lý. Phải dẹp bỏ cộng sản thì nhân dân ta mới được độc lập, tự do, hạnh phúc.
VIỆT NAM &THẾ GIỚI
Tại Châu Á, Washington và Bắc Kinh gờm nhau
Tổng thống Mỹ Barack Obama gặp Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo bên lề hội nghị Đông Á tại Bali ngày 19/11/2011.
REUTERS/Jason Reed
Nhân
chuyến công du Miến Điện của Ngoại trưởng Mỹ, nhật báo Pháp Le Figaro
vào hôm nay đã chú trọng đến không khí căng thẳng giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN vừa qua, mà tờ báo cho là :
«Washington và Bắc Kinh trong tư thế sẵn sàng ‘rút gươm’», tựa lớn ở
trang quốc tế. Tờ báo chú thích : Hoa Kỳ đã thắng một trận đánh trong
cuộc chiến giành ảnh hường trong khu vực.
Tác
giả bài báo Arnaud de La Grange, nhìn thấy là Trung Quốc vẫn còn vật
vã sau khi bị trúng ‘cơn sốt châu Á’ của tổng thống Mỹ Obama. Bắc Kinh
cảm thấy mình bị Washington thách thức và sỉ nhục ngay trong ‘sân
nhà’, trong vùng Châu Á - Thái Bình Dương mà một số người muốn biến
thành vùng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Le
Figaro liệt kê một số việc làm của Mỹ bị cho là thách thức : Tổng
thống Mỹ không chỉ trịnh trọng tuyên bố là Mỹ ‘vẫn ở lại trong vùng’ mà
ông còn ào ạt tung ra một loạt hành động cụ thể: Thông báo thành lập
một căn cứ thủy quân lục chiến ở Úc, nêu lên vấn đề tranh chấp Biển
Đông trong chương trình nghị sự Hội nghị Đông Á, bất chấp những lời
phản đối của Trung Quốc.
Trước đó,
tại Hội nghị APEC, Hoa Kỳ đã thúc đẩy việc thành lập vùng tự do
thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP, mà Trung Quốc không được mời, và
giờ đây là chuyến công du Miến Điện của ngoại trưởng Hillary Clinton,
mà Bắc Kinh xem như là nhằm chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc.
Sau
một thời gian bị bất ngờ, Le Figaro cho là Bắc Kinh bắt đầu phản ứng.
Động thái làm tờ báo ngạc nhiên và cho là hiếm thấy, đến từ bộ Quốc
phòng Trung Quốc vào hôm qua, khi bộ này chỉ trích ‘tâm lý chiến tranh
lạnh’ của Mỹ liên quan đến căn cứ quân sự ở Úc. Một viên tướng Trung
Quốc tố cáo ý muốn ‘bao vây Trung Quốc’ của Washington, và đánh giá đó
là một sai lầm chiến lược nguy hại.
Le
Figaro phân tích là trước đây Bắc Kinh từng xem sự hiện diện của Mỹ ở
Afghanistan như là một động thái vây quanh Trung Quốc, triển khai
quân ở phiá Tây để bổ xung cho lực lượng Mỹ ở phiá Đông, tức là ở Hàn
Quốc và Nhật Bản. Le Figaro nhắc lại là vừa qua thì Hoa Kỳ đã thu hút
được sự đồng tình, ủng hộ của phần lớn các quốc gia Đông Nam Á, kể cả
Việt Nam.
Trong cuộc chiến giành
ảnh hưởng này, Le Figaro cho là các nhà bình luận ở Hồng Kông và cả ở
Trung Quốc, đều đánh giá là Mỹ đã thắng trên mặt trận ngoại giao mới
này, cho dù như một giáo sư đại học Thượng Hải đã cảnh cáo là « người
Trung Quốc kiên nhẫn hơn một chính quyền Mỹ. Lần này Trung Quốc thua,
nhưng 10 năm sau thì Hoa Kỳ sẽ thua ».
Hiện
nay, theo giới chuyên gia, ngoài các tuyên bố tức giận, Trung Quốc sẽ
không hành động gấp rút, một mặt là để không tạo cảm giác là họ vừa
bị một cái tát nghiêm trọng và một mặt khác là vì Trung Quốc cũng
bước vào ‘năm bầu cử’, với việc thay đổi lãnh đạo năm 2012, và những
xáo trộn lớn trên chính trường quốc tế không có lợi. Có điều như một
giáo sư đại học Bắc Kinh nhận định : Chủ tịch Hồ Cẩm Đào « đang chiụ
sức ép chưa từng thấy về chính sách đối ngoại».
Le
Figaro còn nêu một số bình luận khác nữa, cho là cuộc đọ sức mới này
có lợi cho cả hai nước vì nó làm hài lòng dư luận hai bên, và mặt khác
giúp hai nước tránh được một cuộc chiến tranh thương mại quá đà, sau
cuộc bỏ phiếu trừng phạt của Quốc hội Mỹ trên vấn đề đồng yuan.
Phải chăng Miến Điện đã thực sự mở cửa ?
Quốc
gia châu Á được chú ý nhất hiện nay là Miến Điện. Những động thái cởi
mở chính trị vừa qua của chính quyền dân sự tại quốc gia này đã gây
ngạc nhiên vả dẫn đến kết quả không ai dám nghĩ đến trước đây : Chuyến
viếng thăm của một ngoại trưởng Mỹ. Tuy hoan nghênh sự thay đổi nhanh
chóng trong không đầy một năm của chính quyền dân sự được thành lập
sau cuộc bầu cử, nhưng người dân Miến Điện cũng như các nhà quan sát
và báo giới vẫn thận trọng.
Libération
phản ánh suy nghĩ chung này trong bài báo tựa đề : «Tiến trình tan
băng mong manh tại Miến Điện». Theo tờ báo, sự kiện Ngoại trưởng Mỹ
Hillary Clinton đến Naypyidaw vào hôm qua đã chứng thực cho tiến trình
mở cửa chính trị tương đối của chế độ Miến Điện, nhưng chưa xoá tan
được các mối hoài nghi.
Tác giả bài
báo công nhận : Nếu nói đây là một chuyến viếng thăm lịch sử thì
không ngoa chút nào. Từ năm 1955 đến nay, Washington chưa bao giờ gởi
người lãnh đạo ngành ngoại giao của mình đến một quốc gia mà chế độ,
chỉ mới cách đây không lâu, còn xem chính quyền Mỹ là ‘Quỷ Satan’ của
chế độ thực dân mới, đã cùng với Châu Âu trừng phạt Miến Điện.
Nhưng
với những dấu hiệu mở cửa ngày càng nhiều của chính quyền mới, thì
hai bên đã xích lại gần nhau. Libération nhắc lại : Hành động mở cửa
của Miến Điện quả là là chưa từng thấy từ sau cuộc đảo chinh của các
tướng lãnh năm 1962. Tờ báo liệt kê hàng loạt cải tổ mà không ai dám
nghĩ đến cách đây một năm thôi : quyền tự do lập hội, lập công đoàn,
quyền đình công, biểu tình, giảm kiẻm duyệt báo chí..., kêu gọi các nhà
đối lập lưu vong trở về nước..v.v..
Đối
với các quan sát viên lạc quan, như một nhà ngoại giao Pháp, Jean
Hourcade, làm việc tại Yangon từ 2000 đến 2005, thì chính quyền Miến
Điện đã hiểu là không thể nào tồn tại mãi mãi mà không biển chuyển, và
họ khó mà quay ngược lại phiá sau, sau tất cả những gì đã thông báo.
Còn một nhà ngoại giao Mỹ thì đánh giá tình hình thận trọng hơn, cho
là « quá khứ của lãnh đạo Miến Điện làm cho người ta khó tin tưởng họ
hoàn toàn đối với tương lai ». Nhưng nhà ngoại giao này đồng thời
cũng phải công nhận là tân chính quyền Miến Điện đã làm được một số
việc tích cực.
Libération trích
dẫn Bertil Lintner, một nhà báo chuyên trách khu vực. Ông cũng tỏ ra
không mấy tin tưởng, cho là những cải tổ đã được thông báo chỉ là việc
‘tô son trát phấn’. Ông lo ngại là cho dù chính quyền đã cho phép đối
lập, các hiệp hội, công đoàn, báo giới nói lên tiếng nói của mình,
nhưng nếu họ bị đánh giá là đi quá xa thì đàn áp sẽ diễn ra ngay. Còn
đối với bà Aung San Suu Kyi, nếu bà còn không bị lãnh đạo Miến Điện cô
lập, thì họ đã sử dụng bà để được quốc tế công nhận, bãi bỏ trừng
phạt và viện trợ trở lại. Chính quyền Miến Điện đã giành được thành
công đầu tiên khi được giao phó chiếc ghế chủ tịch ASEAN năm 2014.
Tuy nhiên, thái độ cởi mở của lãnh đạo Miến Điện hiện nay cũng được
nhìn qua một lăng kính khác. Libération trích một nhà ngoại giao người
Pháp khác, nhìn thấy tác động của Mùa Xuân Ả Rập mà theo nhân vật này,
« đã đóng một vai trò thúc đẩy cải tổ nhanh chóng », để giải thích sự
thay đổi tại Miến Điện. Theo quan sát viên này, lãnh đạo mới lên nắm
quyền thuộc thế hệ trẻ hơn chế độ cũ, và họ mong muốn đổi mới. Vả lại
mong muốn của họ trùng lập với mong muốn của giới tài phiệt đã thừa
hưởng thành quả chính sách tư hữu hóa nhưng lại phải chiụ trừng phạt
kinh tế của quốc tế.
Ngoài những lý
do trên Libération còn nhìn thấy là Miến Điện muốn thoát khỏi quỹ đạo
của Trung Quốc, người láng giềng hùng mạnh và tham ăn. Tờ báo trích
báo Trung Quốc, tờ Hoàn cầu thời báo( Global Times), đã cho là Bắc
Kinh không thấy trở ngại gì trong việc Miến Điện tìm cách cải thiện
quan hệ với phương Tây khi mà quyền lợi của Trung Quốc không bị ‘chà
đạp’. Mối nghi ngờ đối với thực tâm cải tổ của chính quyền Miến Điện
cũng được báo Le Figaro nêu bật trong hàng tựa : Bà Clinton trắc nghiệm
việc mở cửa của Miến Điện.
Mở đầu
bài viết, tác giả Florence Compain nhắc lại câu nói của một nhà đối
lập Miến Điện lưu vong ở Thái Lan từng nói với nhà báo Le Figaro, là «
Thương lượng với tướng lãnh Miến Điện không khác gì gảy đàn tai trâu
». Nhà báo này cho là ngoại trưởng Clinton đến Miến Điện với hy vọng
khuyến khích thay đổi. Nhưng trước tiên bà phải cố trả lời câu hỏi đang
ám ảnh cả nước :" thông báo đổi mới ngoạn mục của chính quyền chỉ là
một chiếc áo màu mè, hay là thể hiện ý muốn thay đổi sâu sắc".
Le
Figaro nhắc lại lời của ngoại trưởng Mỹ hôm qua là bà muốn trắc
nghiệm ý định của chế độ Miến Điện và sẽ thúc giục việc thả 1.600 tù
nhân chính trị cũng như giải quyết tranh chấp với các nhóm dân tộc
thiểu số một cách hòa bình.
Quan hệ căng thẳng giữa Mỹ với Pakistan
Cũng liên quan đến châu Á, Libération nêu bật tình hình quan hệ căng
thẳng giữa Mỹ với Pakistan, một đồng minh thân thiết trước đây, nhưng
giờ thì lại ‘kháng cự lại Mỹ’, tít trang thế giới. Libération trở lại
sự kiện là để phản đối vụ oanh kích của NATO ở vùng bộ tộc làm 24 lính
Pakistan thiệt mạng, thứ bảy vừa qua, Pakistan đã quyết định không
tham dự cuộc họp về Afghanistan tổ chức ngày 5/12 tại Đức.
Pakistan
đóng một vai trò then chốt trong cái gọi là ‘Trò chơi lớn’ chung
quanh Afghanistan và là đối tác không thế thiếu vắng trong mọi giải
pháp thương lượng. cho nên nếu Pakistan không đến họp ở Bonn, nhằm xem
xét khả năng trợ giúp dài hạn của cộng đồng quốc tế cho Afghanistan,
thì xem như là cuộc họp không còn ý nghiã gì nữa. Hội nghị tại Đức
chuẩn bị đón 91 phái đoàn, và Hoa Kỳ hôm qua vẫn cố thuyết phục
Pakistan bỏ quyết định tẩy cây hội nghị, nhưng dường như là đã hoài
công. Islamabad vẫn chưa từ bỏ ý định của mình. Ngoại trưởng Hillary
Clinton đã lấy làm tiếc về sự cố và hứa cho mở điều tra nhanh chóng.
Có điều là Hoa Kỳ không lên tiếng xin lỗi, một cử chỉ mà giới phân
tích Pakistan cho là cần thiết để chính quyền Islamabad quyết định
tham gia cuộc họp tại Đức.
Theo
Libération, chính quyền Pakistan không chỉ tẩy chay cuộc họp, mà còn
ngăn chặn con đường bộ chuyển hàng tiếp tế cho lực lượng NATO ở
Afghanistan, chứng tỏ rằng người đồng minh này vẫn còn trong cơn thịnh
nộ. Tuy nhiên giới quan sát cho là Pakistan có thể sẽ bỏ ý định tẩy
chay của mình. Trong cuộc họp sắp tới đây vấn đề căn cứ Mỹ tại
Afghanistan sẽ được đưa ra bàn thảo, do đó Pakistan sẽ muốn biết thêm
về ý định của ông Obama. Libération theo dõi báo chí Pakistan đã thấy
là dường như Thủ tướng Gilani đã hé mở một cánh cửa trong cuộc đọ sức
hiện nay : ông đưa ra điều kiện tham gia hội nghị là Hoa Kỳ cam kết
không tiến hành các chiến dịch tấn công trên đất nước của ông.
Thứ hai 28 Tháng Mười Một 2011
Biển Đông được quốc tế hóa tại Thượng đỉnh Đông Á Bali :
Tình huống thuận lợi cho Việt Nam
Tình huống thuận lợi cho Việt Nam
Toàn cảnh Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ngày 19/11/2011 tại Bali (Indonesia)
Reuters
Tại
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ngày 19/11/2011, vấn đề Biển Đông đã lại
được ‘quốc tế hóa’, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, và bất chấp thái độ phản
đối của Trung Quốc. Theo phân tích của Giáo sư Carl Thayer thuộc Học
viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales), đối với các nước Đông Nam
Á, đặc biệt Việt Nam, vốn đang bị Bắc Kinh lấn lướt. đây là một xu
thế có lợi, cần phải khéo léo tranh thủ.
« Tôi
không muốn thảo luận vấn đề đó tại Hội nghị Thượng đỉnh. Tuy nhiên,
một vài lãnh đạo đã nêu tên Trung Quốc trong vấn đề đó. Không đáp trả
những gì ta nhận thì thật là bất lịch sự ». Đây là lời công nhận
của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo với Tân Hoa Xã về sự kiện vấn đề
Biển Đông đã được nêu bật tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ngày
19/11/2011 ở Bali (Indonesia).
Đối với Bắc Kinh, việc hồ sơ Biển Đông được quốc tế hóa tại một diễn đàn tập hợp 18 nước, trong đó có mặt hầu như tất cả các cường quốc, có thể được xem là một thất bại vì lẽ cho đến nay, Trung Quốc luôn luôn phản đối khả năng quốc tế nhòm ngó vào tranh chấp vùng biển giữa họ với các nước nhỏ trong khu vực.
Ngược lại, đối với Hoa Kỳ, đặc biệt là đối với Tổng Thống Barack Obama, vốn đã kiên quyết nêu bật vấn đề ‘an ninh hàng hải’ trong vùng Biển Đông tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á đầu tiên mà ông tham dự, đây là một thành công rõ rệt.
Cũng như vậy, đối với các quốc gia ASEAN, từ Việt Nam, Philippines, cho đến Malaysia, Brunei, đang phải đối phó với đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc ở vùng Biển Đông, việc hồ sơ này được quốc tế hóa cho phép họ giảm bớt được sức ép của Trung Quốc, vốn chỉ muốn giải quyết vấn đề một cách song phương với từng nước để dễ bề thao túng.
Thậm chí ngoài Tổng Thống Mỹ và nhiều lãnh đạo ASEAN, còn có cả Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh lẫn Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda gợi lên vấn đề Biển Đông, một cách thẳng thừng như ông Singh trong cuộc gặp đồng nhiệm Trung Quốc, hay một cách gián tiếp như ông Noda khi ông thúc đẩy vấn đề bảo đảm ‘an ninh hàng hải’ trong hội nghị với các lãnh đạo ASEAN. Phải nói thêm là tại Bali, khái niệm « an ninh hàng hải » luôn luôn được hiểu là « hồ sơ Biển Đông ».
Thế thủ mà Trung Quốc bị đẩy vào ở Bali còn phản ánh qua một sự kiện rất nhỏ : Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã từng dự trù một cuộc họp báo vào trưa ngày 19/11. Lời mời đã được thông báo cho các phóng viên có mặt ở Bali. Thế nhưng sau đó cuộc họp báo đã bị hủy bỏ.
Ngay cả ngón đòn kinh tế mà Bắc Kinh thường dùng để chiêu dụ các nước ASEAN cũng có dấu hiệu không thu hút nhiều sự chú ý. Ngân khoản 10 tỷ đô la hỗ trợ cho ASEAN mà Trung Quốc loan báo ngay tại hội nghị Bali, hầu như không mấy được quan tâm, nhất là khi vào cùng một thời điểm, Thủ tướng Nhật Bản cho biết là Tokyo cam kết chi ra khoảng 26 tỷ đô la để giúp khối Đông Nam Á cải thiện hạ tầng cơ sở.
Theo lời kể được ghi lại trên trang Web của Nhà Trắng, trong cuộc họp gần 2 tiếng đồng hồ, có tất cả 16 lãnh đạo, trong đó có Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề cập trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề Biển Đông. Thậm chí Ngoại trưởng Nga cũng lên tiếng. Duy chỉ có các lãnh đạo Cam Bốt và Miến Điện là không nói đến vấn đề này.
Theo nguồn tin trên, Tổng thống Mỹ Obama không hề gọi là « vận động hành lang » để mớm ý cho các lãnh đạo khác, mà các vị này đã tự động phát biểu. Mở màn nói thẳng đến tranh chấp Biển Đông là Thủ tướng Singapore, Tổng thống Philippines và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, tiếp theo là đại diện của Malaysia, Thái Lan, Úc, Ấn Độ, Nga và Indonesia.
Theo lời kể lại của quan chức Mỹ, thì các lãnh đạo này đều nhấn mạnh trở lại rằng các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông phải được giải quyết một cách đa phương. Chỉ sau khi các nhà lãnh đạo khác đã lên tiếng thì Tổng thống Mỹ Obama mới phát biểu, tuyên bố ủng hộ quan điểm của những người nói trước.
Tổng thống Mỹ lập luận rằng : « Dù chúng tôi không phải là một nguyên đơn trong vụ tranh chấp Biển Đông, dù chúng tôi không bênh vực bên nào, chúng tôi có lợi ích mạnh mẽ trong việc duy trì an ninh hàng hải nói chung, và trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông nói riêng – với tư cách là một cường quốc thường trú tại Thái Bình Dương, một quốc gia hàng hải, một quốc gia thương mại, và một nước bảo đảm cho nền an ninh trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương ».
Chỉ sau khi ông Obama nói xong thì Thủ tướng Ôn Gia Bảo mới trả lời. Theo lời quan chức chính phủ Mỹ kể lại vụ việc, ông Ôn Gia Bảo chỉ nhắc lại lời phản đối rằng Hội nghị thượng đỉnh Đông Á không phải là nơi để thảo luận về vấn đề Biển Đông, và khẳng định rằng Trung Quốc đi bỏ nhiều công sức để đảm bảo sao cho các tuyến hàng hải được an toàn và tự do.
Đối với viên chức Mỹ, phản ứng Thủ tướng Trung Quốc đáng chú ý ở lời lẽ hòa hoãn, không tràng giang đại hải hay dùng đến những công thức quyết đoán thường thấy nơi các lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt khi họ công khai phát biểu.
Tuy nhiên, theo nguồn tin này, điều thú vị không phải những gì ông Ôn Gia Bảo nói ra, mà là những gì ông không nói, ví dụ như ông không nhắc lại quan điểm tranh chấp phải được giải quyết song phương. Phải nói ngay là thiếu sót kể trên trong tuyên bố của Thủ tướng Trung Quốc tại Bali đã được hãng tin chính thức Tân Hoa Xã bổ khuyết sau đó, khi họ cho biết là ông Ôn Gia Bảo đã tái khẳng định lập trường của Trung Quốc. Chi tiết này cho thấy là dù không được Thủ tướng của họ nói ra Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Trung Quốc vẫn chống lại một giải pháp đa phương cho tranh chấp Biển Đông.
Sau hết, Tổng thống Indonesia, trong tư cách chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á Bali, một lần nữa đã lấy lại micro để tổng kết như sâu : "Tôi có thể mô tả cuộc thảo luận ngày hôm nay là tất cả chúng ta đã bàn thảo về Biển Đông một cách rất xây dựng", và ông cho rằng tất cả các lãnh đạo đã chứng tỏ là Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á có thể giúp cho bộ quy tắc ứng xử (về Biển Đông) được tiến triển.
Tóm lại, có thể nói rằng là tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á Bali, vấn đề Biển Đông đã lại được ‘quốc tế hóa’, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, và bất chấp thái độ phản đối của Trung Quốc.
RFI : Vấn đề Biển Đông đã được quốc tế hóa tại Thượng đỉnh Đông Á bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Ảnh hưởng sẽ như thế nào ?
THAYER : Khi Chủ tịch ASEAN, Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), ông tóm lược nội dung thảo luận bằng cách ghi nhận rằng các vấn đề an ninh hàng hải là một đề mục thích hợp với chương trình nghị sự của hội nghị.
Trong số 18 thành viên của Hội nghị thượng đỉnh, 16 nước đã nêu lên vấn đề này. Trung Quốc nằm trong số 16 nước đó và lập luận rằng Cấp cao Đông Á không phải là một diễn đàn thích hợp.
Thượng đỉnh Đông Á đã không đề xuất bất kỳ hành động nào (liên quan đến Biển Đông). Nhưng rõ ràng là trước phản ứng đồng thuận trong khu vực, vốn cho rằng vấn đề an ninh hàng hải – tức là Biển Đông – thuộc diện được quan tâm rộng rãi, Trung Quốc sẽ phải điều chỉnh lập trường của họ, vốn chỉ nhấn mạnh trên đàm phán song phương.
Vấn đề Biển Đông sẽ được nêu lên trong ba diễn đàn riêng biệt :
1/ Các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc sẽ thảo luận về các biện pháp cần ưu tiên tiến hành khi họ thực hiện bản Hướng dẫn Thực hiện DOC đã đồng ý vào tháng Bảy 2011. Trung Quốc sẽ tổ chức cuộc họp của một nhóm làm việc vào năm tới.
2/ Hội nghị quan chức cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +) đã nhất trí về các điều khoản tham chiếu cho Nhóm Chuyên gia Hỗn hợp thuộc tổ Công tác về An ninh Hàng hải (Joint Expert Working Group on Maritime Security). Nhóm này do Australia và Malaysia đồng chủ trì. Vấn đề là khi nhóm họp lần đầu tiên tại Hà Nội vào năm 2010, ADMM + đã đồng ý gặp nhau ba năm một lần. Cuộc họp sắp tới do đó chỉ diễn ra vào năm 2013. Tháng Mười vừa qua, Hội nghị quan chức cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng đã đồng ý thu ngắn thời gian giữa hai cuộc họp ADMM + thành hai năm, nhưng chỉ sau hội nghị lần thứ hai vào năm 2013 mà thôi.
Tuy nhiên, từ nay đến đó, kết quả công việc của Nhóm Chuyên gia Hàng hải (Maritime Expert Working Group) có thể được báo cáo lên cho Hội nghị Quan chức Cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +).
3/ Các vấn đề an ninh hàng hải có thể được nêu ra trước Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ARF nhóm họp hàng năm và cuộc họp giữa kỳ của Nhóm phụ trách an ninh trên biển (Inter-Sessional Group on Maritime Security). Không một nhóm nào trong số các này có quyền quyết định.
THAYER : Trung Quốc đã nhìn thấy là hơn 14 năm cố gắng phát huy "khái niệm an ninh mới" và chính sách an ninh đa phương của họ bị tổn thương nặng nề vì khu vực đã phản ứng chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông trong những năm gần đây, và nhất là trong năm 2011.
Các dấu hiệu cho thấy là hầu hết các sự cố trong vùng Biển Đông đều xuất phát từ sự cạnh tranh giữa các cơ quan dân sự hữu trách ở các cấp độ khác nhau của chính phủ, cộng với các chính quyền địa phương và các công ty dầu hỏa của Trung Quốc.
Khi nhận thức được đầy đủ về các tổn hại đã gây ra, Bắc Kinh đã nhanh chóng làm dịu tình hình. Trung Quốc thỏa thuận với các thành viên ASEAN trên bản Hướng dẫn Thực hiện DOC. Trung Quốc tiếp đón Tổng thống Philippines Aquino và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Trung Quốc bị buộc phải phản ứng một cách khá nhẹ nhàng bởi vì hành động của họ đã thúc đẩy các nước trong khu vực quay sang tìm kiếm sự đảm bảo từ Hoa Kỳ, và đã khiến các cường quốc lớn trong vùng - Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ - phản ứng lại một cách cứng rắn hơn.
Hiện nay, trong bối cảnh sắp đến Đại hội thứ 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, với việc chuyển giao quyền lực trong giới lãnh đạo, đã xuất hiện mối lo ngại là xu hướng dân tộc chủ nghĩa cực đoan tại Trung Quốc có thể lấn lướt đường lối ngoại giao thận trọng, và lại làm tăng căng thẳng trong vùng Biển Đông.
Trung Quốc vẫn chưa từ bỏ "quyền lịch sử" và "chủ quyền không thể chối cãi" của họ trên 80% vùng Biển Đông. Khi chủ nghĩa dân tộc thái quá kết hợp với đà tăng cường quân sự và những mối bức xúc về sự toàn vẹn lãnh thổ, hệ quả sẽ là một yếu tố không ổn định cho an ninh khu vực.
RFI : Làm thế nào để giải thích sự thành công của Mỹ và Tổng Thống Barack Obama lần này ? Liệu thành công đó có kéo dài hay không ?
THAYER : Tổng thống Obama đã tích lũy được một số thành công. Chính quyền của ông đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN, và bổ nhiệm một đại diện thường trực bên cạnh Ban Thư ký ASEAN. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã đáp ứng những mối quan ngại của các nước Đông Nam Á trên lục địa bằng cách tung ra Sáng kiến Hạ Mekong (Lower Mekong Initiative). Bà cũng là người thường xuyên lui tới khu vực và đã tham dự tất cả các cuộc họp ARF. Tổng thống Obama đã đề nghị và được thu nhận làm thành viên Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, và ông đồng thời đã chủ trì 3 cuộc họp thượng đỉnh với ASEAN.
Mỹ dường như đã giải quyết được vấn đề hóc búa là Miến Điện bằng cách cử Ngoại trưởng Clinton đến tận nơi để đánh giá các cải cách chính trị tích cực gần đây tại Miến Điện. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ không còn mâu thuẫn với các nước thành viên ASEAN, vốn đã công nhận tính chính đáng của tân chính phủ Miến Điện. Chính tình hình Miến Điện đã phá hoại các nỗ lực của cựu Tổng thống Bush, muốn triệu tập một cuộc họp giữa các lãnh đạo ASEAN và Mỹ tại trang trại của ông ở Crawford, Texas. Khi Hoa Kỳ cho biết là Miến Điện sẽ không được hoan nghênh, ASEAN đã từ chối tham dự.
Tổng thống Obama cũng đã đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ đổi mới cam kết dấn thân vào khu vực. Ngân sách quốc phòng cho vùng châu Á-Thái Bình Dương sẽ được bảo vệ, không bị việc cắt giảm ngân sách quốc phòng Mỹ ảnh hưởng. Hoa Kỳ cũng đã tiến hành một số bước khác như đưa loại tàu chiến mới Littoral Combat Ships qua đồn trú tại Singapore, và khởi động kế hoạch đưa Thủy quân lục chiến Mỹ đến các cơ sở huấn luyện gần Darwin ở miền bắc Úc.
Quan trọng nhất là Tổng thống Obama đã khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN, và nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ muốn Trung Quốc cùng tham gia.
Trên hồ sơ Biển Đông, Obama đã không cường điệu vai trò của Mỹ. Hoa Kỳ không bênh vực bên nào trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, nhưng không tán đồng việc sử dụng võ lực và đe dọa dùng võ lực. Mỹ ủng hộ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, bao gồm quyền tự do và an toàn qua lại trên biển và trên không. Mọi nước đều phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết là hàng xuất và nhập khẩu phải được lưu thông an toàn trên Biển Đông.
THAYER : Việt Nam đã nhận thức được rằng chiến lược ba hướng - (1) đấu tranh và hợp tác với các nước lớn, (2) làm bản lề giữa Bắc Kinh và Washington, và (3) chính sách đối ngoại đa phương – đã giúp họ huy động được sự hỗ trợ từ bên ngoài trong giao thiệp với Trung Quốc. Việt Nam cũng đã học được rằng cách thúc đẩy tốt nhất lợi ích của mình là để cho Philippines tiến công trên vấn đề Biển Đông.
Về đấu tranh và hợp tác, Việt Nam đã học được cách đứng lên chống lại Trung Quốc, rồi sau đó tìm kiếm sự hợp tác để tránh không cho vấn đề Biển Đông thống trị các mối quan hệ song phương. Kháng lại Trung Quốc cũng bao gồm việc tăng cường năng năng lực hải quân và không quân còn khiêm tốn bằng chiến lược chống tiếp cận anti-access/area-denial riêng của mình.
Với tư cách là bản lề giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam có thể xoáy trên các lợi ích cụ thể của Trung Quốc và Hoa Kỳ để thu lợi cho mình. Không ai có thể buộc Việt Nam nghiêng hẳn về phía này hay phía kia.
Còn chính sách ngoại giao đa phương cho phép Việt Nam lôi kéo thêm các nước khác vào cuộc : Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Pháp, Vương quốc Anh.
Việt Nam cũng đã nhận thức được rằng khối ASEAN bị chia rẽ. Cam Bốt và Miến Điện rõ ràng là không bao giờ nêu lên vấn đề an ninh hàng hải hoặc các vấn đề Biển Đông tại các diễn đàn đa quốc gia. Một số quốc gia ASEAN muốn để cho Việt Nam và Philippines một mình tiến vào hang hùm và đừng lôi kéo họ vào một cuộc xung đột với Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là bất kỳ một bộ luật ứng xử nào giữa các nước thành viên ASEAN với Trung Quốc đều sẽ không có uy lực.
Trong thực tế, áp lực của Trung Quốc đã ngăn không cho ASEAN tiến tới một lập trường chung. Đây là một tình trạng đáng buồn vào lúc các nước Đông Nam Á đang hướng tới việc tuyên bố mình là Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
THAYER : Dù về cơ bản Biển Đông là một vấn đề giữa Trung Quốc và 4 nước Đông Nam Á, thế nhưng Philippines và Việt Nam lại đang ở phía tiền tuyến trong việc đối phó với Trung Quốc. Trong khi đó thì Malaysia và Brunei lại tìm cách tránh can dự trực tiếp. Việt Nam phải dành nhiều công sức để thay đổi cách tiếp cận của các thành viên ASEAN đối với Trung Quốc. Việt Nam cần thúc đẩy một bộ luật ứng xử cho toàn bộ vùng biển Đông Nam Á (Code of Conduct for Southeast Asia’s Maritime Domain).
Phương pháp đó sẽ nhằm mục tiêu chỉnh đốn ngôi nhà ASEAN bằng cách giải quyết các vấn đề hàng hải khác nhau giữa các nước Đông Nam Á sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Thái Lan và Cam Bốt vẫn chưa giải quyết được tranh chấp tài nguyên trong Vịnh Thái Lan. Trong thực tế, Thái Lan đã rút khỏi một thỏa thuận trước đây khi đụng độ đã nổ ra trên biên giới đất liền. Indonesia có ranh giới trên biển chưa được giải quyết với các nước láng giềng. Cả Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Một số đòi hỏi này đã dựa trên những đường cơ sở phóng đại.
Tóm lại, an ninh của toàn vùng biển Đông Nam Á - không chỉ đơn thuần là Biển Đông - phải được xử lý một cách toàn diện. Tất cả các thành viên ASEAN cần làm việc để giải quyết tranh chấp theo quy định của luật pháp quốc tế. Một bộ Quy tắc ứng xử cho toàn bộ vùng biển Đông Nam Á có thể bao hàm một nghị định thư cho phép bên ngoài tham gia và chấp nhận các quy định của văn kiện này. Một cách tiếp cận như vậy sẽ tăng cường sự thống nhất và gắn kết của ASEAN, cũng như khả năng đối phó với Trung Quốc.
RFI : Thành thật cảm ơn Giáo sư Carl Thayer
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20111128-bien-dong-duoc-quoc-te-hoa-tai-thuong-dinh-dong-a-bali-tinh-huong-thuan-loi-cho-vietnam
Đối với Bắc Kinh, việc hồ sơ Biển Đông được quốc tế hóa tại một diễn đàn tập hợp 18 nước, trong đó có mặt hầu như tất cả các cường quốc, có thể được xem là một thất bại vì lẽ cho đến nay, Trung Quốc luôn luôn phản đối khả năng quốc tế nhòm ngó vào tranh chấp vùng biển giữa họ với các nước nhỏ trong khu vực.
Ngược lại, đối với Hoa Kỳ, đặc biệt là đối với Tổng Thống Barack Obama, vốn đã kiên quyết nêu bật vấn đề ‘an ninh hàng hải’ trong vùng Biển Đông tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á đầu tiên mà ông tham dự, đây là một thành công rõ rệt.
Cũng như vậy, đối với các quốc gia ASEAN, từ Việt Nam, Philippines, cho đến Malaysia, Brunei, đang phải đối phó với đòi hỏi chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc ở vùng Biển Đông, việc hồ sơ này được quốc tế hóa cho phép họ giảm bớt được sức ép của Trung Quốc, vốn chỉ muốn giải quyết vấn đề một cách song phương với từng nước để dễ bề thao túng.
Bắc Kinh bị đẩy vào thế thủ tại Bali trên hồ sơ Biển Đông
Điều
đã được tất cả các quan sát viên công nhận là tại Hội nghị Thượng
đỉnh Đông Á ở Bali, riêng trên hồ sơ Biển Đông, Bắc Kinh hoàn toàn bi
đẩy vào thế thủ. Lời cảnh cáo do chính Thủ tướng Ôn Gia Bảo đưa ra
chống lại việc nêu vấn đề Biển Đông ra trước hội nghị Đông Á, cho rằng
đấy không phải là một diễn đàn thích hợp, hầu như chẳng được ai lắng
nghe. Lời đe dọa là các ‘thế lực bên ngoài’ – ám chỉ Mỹ - không nên
viện cớ xen vào Biển Đông cũng không có tác dụng.Thậm chí ngoài Tổng Thống Mỹ và nhiều lãnh đạo ASEAN, còn có cả Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh lẫn Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda gợi lên vấn đề Biển Đông, một cách thẳng thừng như ông Singh trong cuộc gặp đồng nhiệm Trung Quốc, hay một cách gián tiếp như ông Noda khi ông thúc đẩy vấn đề bảo đảm ‘an ninh hàng hải’ trong hội nghị với các lãnh đạo ASEAN. Phải nói thêm là tại Bali, khái niệm « an ninh hàng hải » luôn luôn được hiểu là « hồ sơ Biển Đông ».
Thế thủ mà Trung Quốc bị đẩy vào ở Bali còn phản ánh qua một sự kiện rất nhỏ : Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì đã từng dự trù một cuộc họp báo vào trưa ngày 19/11. Lời mời đã được thông báo cho các phóng viên có mặt ở Bali. Thế nhưng sau đó cuộc họp báo đã bị hủy bỏ.
Ngay cả ngón đòn kinh tế mà Bắc Kinh thường dùng để chiêu dụ các nước ASEAN cũng có dấu hiệu không thu hút nhiều sự chú ý. Ngân khoản 10 tỷ đô la hỗ trợ cho ASEAN mà Trung Quốc loan báo ngay tại hội nghị Bali, hầu như không mấy được quan tâm, nhất là khi vào cùng một thời điểm, Thủ tướng Nhật Bản cho biết là Tokyo cam kết chi ra khoảng 26 tỷ đô la để giúp khối Đông Nam Á cải thiện hạ tầng cơ sở.
16 nước đề cập đến Biển Đông, ngoại trừ Cam Bốt và Miến Điện
Trong
toàn cảnh như trên, vấn đề Biển Đông đã được nêu bật như thế nào tại
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á ngày 19/11 vừa qua ở Bali. Lẽ dĩ nhiên là
các trao đổi giữa các lãnh đạo không hề được công bố chính thức. Tuy
nhiên, trên chuyến bay về Mỹ, một quan chức Hoa Kỳ cao cấp, có mặt tại
hội nghị đã kể lại cho các nhà báo Mỹ tháp tùng theo Tổng thống Obama
diễn tiến cuộc tranh luận.Theo lời kể được ghi lại trên trang Web của Nhà Trắng, trong cuộc họp gần 2 tiếng đồng hồ, có tất cả 16 lãnh đạo, trong đó có Thủ tướng Ôn Gia Bảo đề cập trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề Biển Đông. Thậm chí Ngoại trưởng Nga cũng lên tiếng. Duy chỉ có các lãnh đạo Cam Bốt và Miến Điện là không nói đến vấn đề này.
Theo nguồn tin trên, Tổng thống Mỹ Obama không hề gọi là « vận động hành lang » để mớm ý cho các lãnh đạo khác, mà các vị này đã tự động phát biểu. Mở màn nói thẳng đến tranh chấp Biển Đông là Thủ tướng Singapore, Tổng thống Philippines và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, tiếp theo là đại diện của Malaysia, Thái Lan, Úc, Ấn Độ, Nga và Indonesia.
Theo lời kể lại của quan chức Mỹ, thì các lãnh đạo này đều nhấn mạnh trở lại rằng các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông phải được giải quyết một cách đa phương. Chỉ sau khi các nhà lãnh đạo khác đã lên tiếng thì Tổng thống Mỹ Obama mới phát biểu, tuyên bố ủng hộ quan điểm của những người nói trước.
Tổng thống Mỹ lập luận rằng : « Dù chúng tôi không phải là một nguyên đơn trong vụ tranh chấp Biển Đông, dù chúng tôi không bênh vực bên nào, chúng tôi có lợi ích mạnh mẽ trong việc duy trì an ninh hàng hải nói chung, và trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông nói riêng – với tư cách là một cường quốc thường trú tại Thái Bình Dương, một quốc gia hàng hải, một quốc gia thương mại, và một nước bảo đảm cho nền an ninh trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương ».
Chỉ sau khi ông Obama nói xong thì Thủ tướng Ôn Gia Bảo mới trả lời. Theo lời quan chức chính phủ Mỹ kể lại vụ việc, ông Ôn Gia Bảo chỉ nhắc lại lời phản đối rằng Hội nghị thượng đỉnh Đông Á không phải là nơi để thảo luận về vấn đề Biển Đông, và khẳng định rằng Trung Quốc đi bỏ nhiều công sức để đảm bảo sao cho các tuyến hàng hải được an toàn và tự do.
Đối với viên chức Mỹ, phản ứng Thủ tướng Trung Quốc đáng chú ý ở lời lẽ hòa hoãn, không tràng giang đại hải hay dùng đến những công thức quyết đoán thường thấy nơi các lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt khi họ công khai phát biểu.
Tuy nhiên, theo nguồn tin này, điều thú vị không phải những gì ông Ôn Gia Bảo nói ra, mà là những gì ông không nói, ví dụ như ông không nhắc lại quan điểm tranh chấp phải được giải quyết song phương. Phải nói ngay là thiếu sót kể trên trong tuyên bố của Thủ tướng Trung Quốc tại Bali đã được hãng tin chính thức Tân Hoa Xã bổ khuyết sau đó, khi họ cho biết là ông Ôn Gia Bảo đã tái khẳng định lập trường của Trung Quốc. Chi tiết này cho thấy là dù không được Thủ tướng của họ nói ra Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, Trung Quốc vẫn chống lại một giải pháp đa phương cho tranh chấp Biển Đông.
Sau hết, Tổng thống Indonesia, trong tư cách chủ tịch Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á Bali, một lần nữa đã lấy lại micro để tổng kết như sâu : "Tôi có thể mô tả cuộc thảo luận ngày hôm nay là tất cả chúng ta đã bàn thảo về Biển Đông một cách rất xây dựng", và ông cho rằng tất cả các lãnh đạo đã chứng tỏ là Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á có thể giúp cho bộ quy tắc ứng xử (về Biển Đông) được tiến triển.
Tóm lại, có thể nói rằng là tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á Bali, vấn đề Biển Đông đã lại được ‘quốc tế hóa’, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, và bất chấp thái độ phản đối của Trung Quốc.
Giáo sư Carl Thayer : Xu thế quốc tế hóa hồ sơ Biển Đông có lợi cho Việt Nam
Tác
động của tình hình này có thể là gì ? Liệu có thể buộc Trung Quốc
thay đổi lập trường hay không ? Vốn đã từng tranh thủ vai trò chủ tịch
ASEAN của mình vào năm ngoái để thúc đẩy việc quốc tế hóa hồ sơ Biển
Đông, Việt Nam có thể làm gì để tranh thủ được chuyển biến tích cực tại
Bali ? Đây là một số vấn đề mà Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện
Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales), đã sẵn lòng phân tích trong
phần trả lời phỏng vấn dành riêng cho ban Việt ngữ RFI.RFI : Vấn đề Biển Đông đã được quốc tế hóa tại Thượng đỉnh Đông Á bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Ảnh hưởng sẽ như thế nào ?
THAYER : Khi Chủ tịch ASEAN, Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), ông tóm lược nội dung thảo luận bằng cách ghi nhận rằng các vấn đề an ninh hàng hải là một đề mục thích hợp với chương trình nghị sự của hội nghị.
Trong số 18 thành viên của Hội nghị thượng đỉnh, 16 nước đã nêu lên vấn đề này. Trung Quốc nằm trong số 16 nước đó và lập luận rằng Cấp cao Đông Á không phải là một diễn đàn thích hợp.
Thượng đỉnh Đông Á đã không đề xuất bất kỳ hành động nào (liên quan đến Biển Đông). Nhưng rõ ràng là trước phản ứng đồng thuận trong khu vực, vốn cho rằng vấn đề an ninh hàng hải – tức là Biển Đông – thuộc diện được quan tâm rộng rãi, Trung Quốc sẽ phải điều chỉnh lập trường của họ, vốn chỉ nhấn mạnh trên đàm phán song phương.
Vấn đề Biển Đông sẽ được nêu lên trong ba diễn đàn riêng biệt :
1/ Các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc sẽ thảo luận về các biện pháp cần ưu tiên tiến hành khi họ thực hiện bản Hướng dẫn Thực hiện DOC đã đồng ý vào tháng Bảy 2011. Trung Quốc sẽ tổ chức cuộc họp của một nhóm làm việc vào năm tới.
2/ Hội nghị quan chức cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +) đã nhất trí về các điều khoản tham chiếu cho Nhóm Chuyên gia Hỗn hợp thuộc tổ Công tác về An ninh Hàng hải (Joint Expert Working Group on Maritime Security). Nhóm này do Australia và Malaysia đồng chủ trì. Vấn đề là khi nhóm họp lần đầu tiên tại Hà Nội vào năm 2010, ADMM + đã đồng ý gặp nhau ba năm một lần. Cuộc họp sắp tới do đó chỉ diễn ra vào năm 2013. Tháng Mười vừa qua, Hội nghị quan chức cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng đã đồng ý thu ngắn thời gian giữa hai cuộc họp ADMM + thành hai năm, nhưng chỉ sau hội nghị lần thứ hai vào năm 2013 mà thôi.
Tuy nhiên, từ nay đến đó, kết quả công việc của Nhóm Chuyên gia Hàng hải (Maritime Expert Working Group) có thể được báo cáo lên cho Hội nghị Quan chức Cấp cao của Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM +).
3/ Các vấn đề an ninh hàng hải có thể được nêu ra trước Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ARF nhóm họp hàng năm và cuộc họp giữa kỳ của Nhóm phụ trách an ninh trên biển (Inter-Sessional Group on Maritime Security). Không một nhóm nào trong số các này có quyền quyết định.
Chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc : nhân tố khuấy động Biển Đông
RFI : Tại
Thượng đỉnh Đông Á, Trung Quốc như bị đẩy vào thế thủ, với tuyên bố
chừng mực của Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Có thể giải thích sao về động thái
này ? Phải chăng đó chỉ là một bước lùi chiến thuật hay là Trung Quốc
thực sự đang xem xét lại chiến lược của họ trước sự kiện họ bị hầu như
tất cả mọi người phản đối ?THAYER : Trung Quốc đã nhìn thấy là hơn 14 năm cố gắng phát huy "khái niệm an ninh mới" và chính sách an ninh đa phương của họ bị tổn thương nặng nề vì khu vực đã phản ứng chống lại sự quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông trong những năm gần đây, và nhất là trong năm 2011.
Các dấu hiệu cho thấy là hầu hết các sự cố trong vùng Biển Đông đều xuất phát từ sự cạnh tranh giữa các cơ quan dân sự hữu trách ở các cấp độ khác nhau của chính phủ, cộng với các chính quyền địa phương và các công ty dầu hỏa của Trung Quốc.
Khi nhận thức được đầy đủ về các tổn hại đã gây ra, Bắc Kinh đã nhanh chóng làm dịu tình hình. Trung Quốc thỏa thuận với các thành viên ASEAN trên bản Hướng dẫn Thực hiện DOC. Trung Quốc tiếp đón Tổng thống Philippines Aquino và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.
Trung Quốc bị buộc phải phản ứng một cách khá nhẹ nhàng bởi vì hành động của họ đã thúc đẩy các nước trong khu vực quay sang tìm kiếm sự đảm bảo từ Hoa Kỳ, và đã khiến các cường quốc lớn trong vùng - Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ - phản ứng lại một cách cứng rắn hơn.
Hiện nay, trong bối cảnh sắp đến Đại hội thứ 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, với việc chuyển giao quyền lực trong giới lãnh đạo, đã xuất hiện mối lo ngại là xu hướng dân tộc chủ nghĩa cực đoan tại Trung Quốc có thể lấn lướt đường lối ngoại giao thận trọng, và lại làm tăng căng thẳng trong vùng Biển Đông.
Trung Quốc vẫn chưa từ bỏ "quyền lịch sử" và "chủ quyền không thể chối cãi" của họ trên 80% vùng Biển Đông. Khi chủ nghĩa dân tộc thái quá kết hợp với đà tăng cường quân sự và những mối bức xúc về sự toàn vẹn lãnh thổ, hệ quả sẽ là một yếu tố không ổn định cho an ninh khu vực.
RFI : Làm thế nào để giải thích sự thành công của Mỹ và Tổng Thống Barack Obama lần này ? Liệu thành công đó có kéo dài hay không ?
THAYER : Tổng thống Obama đã tích lũy được một số thành công. Chính quyền của ông đã ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN, và bổ nhiệm một đại diện thường trực bên cạnh Ban Thư ký ASEAN. Ngoại trưởng Hillary Clinton đã đáp ứng những mối quan ngại của các nước Đông Nam Á trên lục địa bằng cách tung ra Sáng kiến Hạ Mekong (Lower Mekong Initiative). Bà cũng là người thường xuyên lui tới khu vực và đã tham dự tất cả các cuộc họp ARF. Tổng thống Obama đã đề nghị và được thu nhận làm thành viên Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á, và ông đồng thời đã chủ trì 3 cuộc họp thượng đỉnh với ASEAN.
Mỹ dường như đã giải quyết được vấn đề hóc búa là Miến Điện bằng cách cử Ngoại trưởng Clinton đến tận nơi để đánh giá các cải cách chính trị tích cực gần đây tại Miến Điện. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ không còn mâu thuẫn với các nước thành viên ASEAN, vốn đã công nhận tính chính đáng của tân chính phủ Miến Điện. Chính tình hình Miến Điện đã phá hoại các nỗ lực của cựu Tổng thống Bush, muốn triệu tập một cuộc họp giữa các lãnh đạo ASEAN và Mỹ tại trang trại của ông ở Crawford, Texas. Khi Hoa Kỳ cho biết là Miến Điện sẽ không được hoan nghênh, ASEAN đã từ chối tham dự.
Tổng thống Obama cũng đã đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ đổi mới cam kết dấn thân vào khu vực. Ngân sách quốc phòng cho vùng châu Á-Thái Bình Dương sẽ được bảo vệ, không bị việc cắt giảm ngân sách quốc phòng Mỹ ảnh hưởng. Hoa Kỳ cũng đã tiến hành một số bước khác như đưa loại tàu chiến mới Littoral Combat Ships qua đồn trú tại Singapore, và khởi động kế hoạch đưa Thủy quân lục chiến Mỹ đến các cơ sở huấn luyện gần Darwin ở miền bắc Úc.
Quan trọng nhất là Tổng thống Obama đã khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN, và nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ muốn Trung Quốc cùng tham gia.
Trên hồ sơ Biển Đông, Obama đã không cường điệu vai trò của Mỹ. Hoa Kỳ không bênh vực bên nào trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, nhưng không tán đồng việc sử dụng võ lực và đe dọa dùng võ lực. Mỹ ủng hộ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, bao gồm quyền tự do và an toàn qua lại trên biển và trên không. Mọi nước đều phụ thuộc vào điều kiện tiên quyết là hàng xuất và nhập khẩu phải được lưu thông an toàn trên Biển Đông.
Cần phải tìm giải pháp cho tình hình ASEAN bị chia rẽ
RFI : Việt Nam có thể hưởng được những lợi ích gì từ kết quả này ?THAYER : Việt Nam đã nhận thức được rằng chiến lược ba hướng - (1) đấu tranh và hợp tác với các nước lớn, (2) làm bản lề giữa Bắc Kinh và Washington, và (3) chính sách đối ngoại đa phương – đã giúp họ huy động được sự hỗ trợ từ bên ngoài trong giao thiệp với Trung Quốc. Việt Nam cũng đã học được rằng cách thúc đẩy tốt nhất lợi ích của mình là để cho Philippines tiến công trên vấn đề Biển Đông.
Về đấu tranh và hợp tác, Việt Nam đã học được cách đứng lên chống lại Trung Quốc, rồi sau đó tìm kiếm sự hợp tác để tránh không cho vấn đề Biển Đông thống trị các mối quan hệ song phương. Kháng lại Trung Quốc cũng bao gồm việc tăng cường năng năng lực hải quân và không quân còn khiêm tốn bằng chiến lược chống tiếp cận anti-access/area-denial riêng của mình.
Với tư cách là bản lề giữa Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam có thể xoáy trên các lợi ích cụ thể của Trung Quốc và Hoa Kỳ để thu lợi cho mình. Không ai có thể buộc Việt Nam nghiêng hẳn về phía này hay phía kia.
Còn chính sách ngoại giao đa phương cho phép Việt Nam lôi kéo thêm các nước khác vào cuộc : Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, Pháp, Vương quốc Anh.
Việt Nam cũng đã nhận thức được rằng khối ASEAN bị chia rẽ. Cam Bốt và Miến Điện rõ ràng là không bao giờ nêu lên vấn đề an ninh hàng hải hoặc các vấn đề Biển Đông tại các diễn đàn đa quốc gia. Một số quốc gia ASEAN muốn để cho Việt Nam và Philippines một mình tiến vào hang hùm và đừng lôi kéo họ vào một cuộc xung đột với Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là bất kỳ một bộ luật ứng xử nào giữa các nước thành viên ASEAN với Trung Quốc đều sẽ không có uy lực.
Trong thực tế, áp lực của Trung Quốc đã ngăn không cho ASEAN tiến tới một lập trường chung. Đây là một tình trạng đáng buồn vào lúc các nước Đông Nam Á đang hướng tới việc tuyên bố mình là Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Một bộ luật ứng xử cho toàn bộ vùng biển Đông Nam Á
RFI : Việt Nam có thể làm gì để tranh thủ được xu hướng tích cực tại Thượng đỉnh Đông Á ?THAYER : Dù về cơ bản Biển Đông là một vấn đề giữa Trung Quốc và 4 nước Đông Nam Á, thế nhưng Philippines và Việt Nam lại đang ở phía tiền tuyến trong việc đối phó với Trung Quốc. Trong khi đó thì Malaysia và Brunei lại tìm cách tránh can dự trực tiếp. Việt Nam phải dành nhiều công sức để thay đổi cách tiếp cận của các thành viên ASEAN đối với Trung Quốc. Việt Nam cần thúc đẩy một bộ luật ứng xử cho toàn bộ vùng biển Đông Nam Á (Code of Conduct for Southeast Asia’s Maritime Domain).
Phương pháp đó sẽ nhằm mục tiêu chỉnh đốn ngôi nhà ASEAN bằng cách giải quyết các vấn đề hàng hải khác nhau giữa các nước Đông Nam Á sao cho phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS. Thái Lan và Cam Bốt vẫn chưa giải quyết được tranh chấp tài nguyên trong Vịnh Thái Lan. Trong thực tế, Thái Lan đã rút khỏi một thỏa thuận trước đây khi đụng độ đã nổ ra trên biên giới đất liền. Indonesia có ranh giới trên biển chưa được giải quyết với các nước láng giềng. Cả Philippines và Việt Nam đều có tuyên bố chủ quyền chồng chéo ở Biển Đông. Một số đòi hỏi này đã dựa trên những đường cơ sở phóng đại.
Tóm lại, an ninh của toàn vùng biển Đông Nam Á - không chỉ đơn thuần là Biển Đông - phải được xử lý một cách toàn diện. Tất cả các thành viên ASEAN cần làm việc để giải quyết tranh chấp theo quy định của luật pháp quốc tế. Một bộ Quy tắc ứng xử cho toàn bộ vùng biển Đông Nam Á có thể bao hàm một nghị định thư cho phép bên ngoài tham gia và chấp nhận các quy định của văn kiện này. Một cách tiếp cận như vậy sẽ tăng cường sự thống nhất và gắn kết của ASEAN, cũng như khả năng đối phó với Trung Quốc.
RFI : Thành thật cảm ơn Giáo sư Carl Thayer
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20111128-bien-dong-duoc-quoc-te-hoa-tai-thuong-dinh-dong-a-bali-tinh-huong-thuan-loi-cho-vietnam
NGUYỄN QUANG LẬP * QUÊ CHOA CHÍ DỊ
Năm
1965 nhà mình sơ tán lên làng Đông, HTX cho miếng đất cát ở đầu làng,
sát ngày rừng trâm bầu sau làng. Hồi đó rừng trâm bầu là rừng thâm u,
toàn cây cổ thụ chạy từ đầu làng đến cuối làng, nối rộng ra đến làng
Kệ hơn chục cây số vuông chứ không ít.
Rừng
bị cấm chặt cây hái củi nên vắng người, ít ai vãng lai. Chỉ có bọn
con nít hay vào rừng quét lá rụng, bắt con chôông… còn người lớn chẳng
ai vào rừng làm gì, trừ đám trai gái vẫn rủ nhau tìm nơi hủ hóa.
Chôông, có nơi gọi con giông, là một loại bò sát chuyên sống trên cát,
giống con rắn mối nhưng da dẻ đa sắc, đẹp lắm. Con nít làng Đông đứa
nào cũng thuộc câu ca tả con chôông thế này: đầu ma da trời chân dơi
đuôi chuột.
Thịt chôông ngon, xào lên ăn giống thịt ếch. Nấu canh bầu với thịt chôông ngon hết ý, ngọt lừ. Ba mình làm lẩu chôông rất ngon, khi nào bắt được chừng hai chục con thế nào ông cũng làm lẩu, gọi đàn ông quanh xóm đến uống rượu, nhà mình khi đó thật vui hơn tết. Chôông đào hang sống trong cát, chúng rất thích sống trong các nấm mồ. Nghĩa địa cát là hang ổ của loài chôông, nhiều vô biên, có khi đến hàng ngàn con.
Thịt chôông ngon, xào lên ăn giống thịt ếch. Nấu canh bầu với thịt chôông ngon hết ý, ngọt lừ. Ba mình làm lẩu chôông rất ngon, khi nào bắt được chừng hai chục con thế nào ông cũng làm lẩu, gọi đàn ông quanh xóm đến uống rượu, nhà mình khi đó thật vui hơn tết. Chôông đào hang sống trong cát, chúng rất thích sống trong các nấm mồ. Nghĩa địa cát là hang ổ của loài chôông, nhiều vô biên, có khi đến hàng ngàn con.
Loại
chôông ở đây vừa to vừa béo, bắt rất dễ. Mình mười tuổi hầu như ngày
nào cũng vào rừng bắt chôông, khi thì đi một mình, khi thì theo thằng
Đán. Thằng Đán thua mình bốn tuổi, chỉ sáu tuổi thôi nhưng khôn hơn
rận, chuyện gì cũng biết, nó nói chôông là giống ma đó, mình nói ma
chi, nó nói ma l. Mình cười he he he, đá đít nó một phát, nói ba
trợn. Thằng Đán trợn mắt trương gân cổ lên, nói thiệt đo, anh không
tin thì thôi. Mình nhăn răng cười, nói ba láp, nói ma l. răng không
giống …
Thằng
Đán lại trợn mắt trương gân cổ lên, nói anh chộ rồi răng nói không
giống, mình tịt câm. Nó nói anh không chộ chôông toàn làm hang ở mả đàn
bà à, nghe cũng có lý. Thằng Đán dắt mình đến cái hang chôông, nói
anh muốn chôông bò ra cho anh bắt thì vuốt chim thật thẳng rồi nhét vô
hang, dập thật mạnh vào, một lúc chôông sướng củ tỉ, bò ra liền. Mình
cười nói láo, nó nói thiệt đo, anh không tin thì thôi.
Mình làm theo lời thằng Đán, vuốt chim thật thẳng nhét vào hang chôông dập liên hồi, mãi chẳng thấy chôông ra, phủi đít quần đứng dậy, nói mi nói láo. Thằng Đán vẫn trợn mắt trương gân cổ lên, nói thiệt đo, tại chim con nít nó không thèm chấp. Mình nói cứt, mi nói láo. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Mình tức, nói ẻ vô chơi với mi nữa, rồi bỏ thằng Đán đi bẫy chôông một mình. Bẫy chôông là một khúc ngắn ống nứa chừng 3, 4 phân gắn cần bẫy, nối với vòng thòng lọng vòng quanh ống nứa, cắm vào hang chôông. Chôông đi vào đi ra đều phải chui qua ống nứa, thúc phải cần gạt, cần bẫy giậy lên, vòng thòng lọng thắt chặt cổ chôông.
Xưa nay người ta đều bẫy chôông như thế. Mình đặt hơn chục bẫy thì chui vào dưới tán một cây trâm bầu nằm dạng chân tay đánh một giấc. Nhưng đói, bụng không khó ngủ cứ chập chà chập chờn, chiêm bao thấy chó ăn cứt mà cũng nuốt nước bọt ừng ực.
Mình làm theo lời thằng Đán, vuốt chim thật thẳng nhét vào hang chôông dập liên hồi, mãi chẳng thấy chôông ra, phủi đít quần đứng dậy, nói mi nói láo. Thằng Đán vẫn trợn mắt trương gân cổ lên, nói thiệt đo, tại chim con nít nó không thèm chấp. Mình nói cứt, mi nói láo. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Mình tức, nói ẻ vô chơi với mi nữa, rồi bỏ thằng Đán đi bẫy chôông một mình. Bẫy chôông là một khúc ngắn ống nứa chừng 3, 4 phân gắn cần bẫy, nối với vòng thòng lọng vòng quanh ống nứa, cắm vào hang chôông. Chôông đi vào đi ra đều phải chui qua ống nứa, thúc phải cần gạt, cần bẫy giậy lên, vòng thòng lọng thắt chặt cổ chôông.
Nhông và hang của nó trong tự nhiên
Một chú kỳ nhông ( dông, giôông)xấu số dính bẫy
Một chú kỳ nhông ( dông, giôông)xấu số dính bẫy
Xưa nay người ta đều bẫy chôông như thế. Mình đặt hơn chục bẫy thì chui vào dưới tán một cây trâm bầu nằm dạng chân tay đánh một giấc. Nhưng đói, bụng không khó ngủ cứ chập chà chập chờn, chiêm bao thấy chó ăn cứt mà cũng nuốt nước bọt ừng ực.
Bỗng
có tiếng ai đó rú lên rất gần, mình giật thót quay ngoắt lại. Tiếng
rú tắc nghẹn như đang bị ai bóp cổ, rồi im bặt. Từ ngọn cây trâm bầu
trước mặt một đống đen thui to bằng cái rổ rơi xuống cái xoạp, tiếng
rơi như đống áo quần ướt rơi trên cát. Mình sợ toát mồ hôi, lạnh cột
sống, cứ đứng ngẩn không biết làm gì. Rất lâu sau mình vùng té chạy,
vừa chạy vừa hét Đán ơi Đán ơi. Thằng Đán chui từ bụi cây trâm bầu ra,
nói chi rứa chi rứa. Mình nói ma ma, con ma to lắm. Thằng Đán trợn
mắt há mồm, nói thiệt không thiệt không. Hai đứa lò dò đi về phía cây
trâm bầu, nơi có đống đen thui rơi xuống.
Chẳng
thấy gì, nơi đống đen thui rơi xuống có vệt hằn cái lưng và hai cái
cùi chỏ tay. Thằng Đán nói hay có ai thắt cổ tự tử, đứt dây rơi xuống.
Mình nói ngu ngu, tự tử thì chết, rơi xuống còn chạy được à. Thằng
Đán từ từ ngước lên nhìn ngọn cây, từ từ nhìn xuống gốc cây, lại từ từ
ngước lên nhìn ngọn cây… ba bốn lần như thế, mặt mày nghiêm trọng.
Bỗng nó vùng té chạy, mình cũng vùng chạy theo nó, túm cổ áo nó lôi
lại, nói răng rứa răng rứa. Thằng Đán mặt xanh như đít nhái, nói ma
ma… ma chị Lý.
Chị Lý
treo cổ chết ở cây đó đo. Chị Lý ở cùng xóm, tự tử chết đúng ngày nhà
mình lên đây, người nói chết vì tình, người nói tức anh trai mà chết,
đài truyền thanh thôn thì thông báo chị chết vì bị bệnh hoang tưởng.
Thằng Đán nói trật trật, láo láo, sai bét hết. Mình hỏi răng, nó nói
anh cu Thái ép chị Lý ngủ với anh, chị không chịu thì tự tử chết thôi.
Mình nói răng mi biết, nó nói tui biết chơ răng, mình nói láo, nó nói
thiệt đo, anh không tin thì thôi. Mình chạy về hỏi mạ mình, vừa mở
mồm nói mạ ơi anh cu Thái ép chị Lý ngủ với anh… mạ liền bịt chặt mồm
mình, nói câm họng đi con ơi, dân quân bắt chết chừ.
Anh
cu Thái là anh trai chị Lý, ba mạ chết bom, hai anh em ở với nhau.
Anh được bầu làm bí thư chi đoàn đội 1 vì anh biết chắc chắn Mác- Lê
Nin là hai ông, anh cũng không đọc V.I Lê nin là sáu Lê nin như mọi
người, anh đọc là vờ la đi mia i lit Lê Nin.
Mọi
người hỏi rứa họ là chi tên lót là chi, anh nói họ là vờ la đi, tên
lót là mia i lit, mọi người phục anh lắm. Anh nói yêu quí Lê Nin,
chúng ta nên lấy tên họ của Lê nin ghép với tên mình, để lỡ khi trúng
bom chết, người ta cúng mình thì cúng luôn Lê nin. Anh nêu gương làm
trước, lúc đầu đặt tên là Vờ La Đi văn Thái, sau lại đặt Ngô Mia I
Lít Thái. Từ ngày chị Lý chết, anh cu Thái ở một mình, thỉnh thoảng
đem chi đoàn về nhà hát hò ỏm tỏi, múa nhảy nhặng xị. Anh nhận ba bốn
cô làm em nuôi, nấu nướng ăn uống ngủ ngáy luôn tại nhà. Nhà anh khi
nào cũng có tiếng nói cười chọc ghẹo vui như tết.
Cu
Đán nói chị Lý ngu, chết đi để mình anh cu Thái sướng. Nó nói câu đó
khi hai thằng chui vào lùm cây trâm bầu nằm gác chân lên nhau đợi giờ
đi thăm bẫy chôông. Mình hỏi răng sướng, nó nói sướng chơ răng, chim
anh cu Thái to lắm, đại chang luôn, tui chộ rồi. Cu Đán vừa dứt lời thì
có ai đó hét lên cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái, hai đứa đứng lên ngó
quanh, không thấy ai.
Một cơn lốc cát từ đâu ập đến, mù mịt cát vùn vụt gió, hai thằng nằm sấp che tai bịt mặt. Mọi ngày lốc cát chỉ vụt qua rồi tan, lần này nó cứ xoáy tròn mỗi lúc mỗi gắt, tiếng gió cát rít lên kinh hồn. Thoảng trong tiếng rít có ai đó lúc lúc lại hét lên cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái… cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái. Hai đứa sợ run, nằm im thin thít.
Một cơn lốc cát từ đâu ập đến, mù mịt cát vùn vụt gió, hai thằng nằm sấp che tai bịt mặt. Mọi ngày lốc cát chỉ vụt qua rồi tan, lần này nó cứ xoáy tròn mỗi lúc mỗi gắt, tiếng gió cát rít lên kinh hồn. Thoảng trong tiếng rít có ai đó lúc lúc lại hét lên cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái… cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái. Hai đứa sợ run, nằm im thin thít.
Lốc
cát tan, hai đứa đứng lên thì thấy giữa bãi cát bị lốc cát làm cho
phẳng lỳ có dấu chân người lớn đi từ chỗ nằm hai đứa đến cây trâm bầu
có đống đen thui rơi xuống. Hai đứa dò theo dấu chân đến tận cây trâm
bầu. Không thấy gì, dấu chân cũng biến mất. Cu Đán nói ma thiệt rồi,
mình nói hồn ma chị Lý à, thằng Đán ôm chặt lấy mình, nói không không
anh đừng nói tui sợ lắm. Vừa lúc một ngọn gió hụt đến, mùi xôi mùi thịt
lợn luộc bốc lên thơm lừng. Hai đứa đứng ngẩn ngơ, nước miếng thi
nhau chảy ướt cổ.
Cu Đán
quì sụp xuống vái lấy vái để, nói chị Lý ơi cho em ăn, em đói lắm
rồi. Từ trên ngọn cây một bọc xôi to rơi xuống trước mặt nó, hai đứa
sững sờ. Mình giằng lấy xôi, nói cho tau ăn với, thằng Đán nói không
không xôi tui xin chị Lý, răng anh không xin chị Lý đi. Mình liền quì
xuống vái lấy vái để, nói chị Lý ơi cho em ăn, em đói lắm rồi. Một bọc
thịt lợn luộc gói trong lá chuối rơi xuống trước mặt mình. Hai đứa
mừng rỡ chia nhau thịt xôi ăn ngon lành, tranh nhau nói chị Lý tốt hè,
ừ, ai chết cũng tốt hết a, ừ, mà chị Lý tốt nhất hè, ừ.
Chợt thằng Đán ngưng ăn, im bặt. Nó trợn mắt nhìn về phía bên kia gốc trâm bầu. Một cánh tay con gái như đang chuồi lên từ cát, cổ tay có đeo cái vòng nhựa màu xanh. Mình nói chị Lý đó tề, thằng Đán vứt xôi ôm chặt lấy mình, mếu máo, nói không không em sợ lắm. Một cơn lốc cát ập đến, mù mịt cát vùn vụt gió, hai thằng nằm sấp bịt tai che mặt.
Chợt thằng Đán ngưng ăn, im bặt. Nó trợn mắt nhìn về phía bên kia gốc trâm bầu. Một cánh tay con gái như đang chuồi lên từ cát, cổ tay có đeo cái vòng nhựa màu xanh. Mình nói chị Lý đó tề, thằng Đán vứt xôi ôm chặt lấy mình, mếu máo, nói không không em sợ lắm. Một cơn lốc cát ập đến, mù mịt cát vùn vụt gió, hai thằng nằm sấp bịt tai che mặt.
Thoảng
trong tiếng rít có ai đó lúc lúc lại hét lên cứt cứt, đ. mạ thằng cu
Thái… cứt cứt, đ. mạ thằng cu Thái. Cơn lốc cát tan đi, hai đứa ngẩng
đầu lên, cánh tay con gái bỗng cắm ngay trước mặt, bàn tay nhầy nhụa
máu xòe ra, cái vòng nhựa xanh rực lên. 2. Rõ ràng cánh tay mọc lên
từ cát, rất gần, chỉ cách hai đứa chừng vài tấc.
Thắng Đán sợ quá đái ướt quần. Nó túm chặt lấy thắt lưng mình run lẫy bẫy, nói tay chị Lý đó, chị đòi lại xôi thịt. Mình nói không phải mô, chị đã cho rồi đòi lại mần chi. Thằng Đán nói đòi, anh không tin thì thôi. Một con chôông từ đâu chạy tới, đâm đầu vào cánh tay, cánh tay rung rung rơi ập xuống. Bây giờ nhìn thấy rõ cánh tay bị chặt đứt ngang khuỷu tay, xương lồi ra trắng nhỡn. Thằng Đán ôm chặt cứng lấy mình, nói có kẻ giết người, nó ném cánh tay lại đây.
Thắng Đán sợ quá đái ướt quần. Nó túm chặt lấy thắt lưng mình run lẫy bẫy, nói tay chị Lý đó, chị đòi lại xôi thịt. Mình nói không phải mô, chị đã cho rồi đòi lại mần chi. Thằng Đán nói đòi, anh không tin thì thôi. Một con chôông từ đâu chạy tới, đâm đầu vào cánh tay, cánh tay rung rung rơi ập xuống. Bây giờ nhìn thấy rõ cánh tay bị chặt đứt ngang khuỷu tay, xương lồi ra trắng nhỡn. Thằng Đán ôm chặt cứng lấy mình, nói có kẻ giết người, nó ném cánh tay lại đây.
Hai
đứa bò dấn tới phía cánh tay, bỗng lốc cát lại nổi lên xoay tít mù,
tiếng gió rít kinh hồn, nghe như ai nghiến răng. Hai đứa nằm sấp, bịt
tai che mắt, gió tan ngẩng lên không thấy cánh tay đâu. Cát bị gió đánh
phẳng lỳ, không thấy dấu chân nào, chỉ có dấu chân chôông từ chỗ hai
đứa nằm chạy về phía nghĩa địa. Hai đứa lần theo, dấu chân chôông dẫn
đến mộ chị Lý, chui tọt vào cái hang chôông ngay sát mộ chị. Thắng
Đán chỉ cái hang chôông, nói ma l. chị Lý đó. Mình đá nó một phát, nói
mi nói ba láp, chị Lý hiện lên cho mi một tát chừ.
Thằng
Đán trương gân cổ lên cãi, nói tui nói thiệt chớ, ma l. giống chôông,
mình nói giống răng, nó nói nó cắn giống chôông cắn, đá kêu rêu mọc
mới nhả. Mình cười hì hì, nói ai nói mi, nó nói bọ tui nói. Mình tròn
mắt nói thiệt a, bọ mi bị l. cắn thiệt a. Nó nói thiệt, bọ tui nói
muốn rờ thì phải hun, hun thiệt nhiều, không hun nhiều mà rờ nó cắn
cho phát chết luôn. Mình cười hì hì, nói láo láo, nói nói thiệt đo,
anh không tin thì thôi. Có tiếng hú phía sau, hai đứa giật mình quay
lại. Cây trâm bầu cách chừng năm chục mét đang rung lên bần bật, tiếng
hú hét vang lên kinh dị, khi nghe như tiếng đàn ông, khi nghe như
tiếng đàn bà. Từ trong tán cây trâm bầu, một cánh tay đâm thẳng lên,
khua đi khua lại cùng với tiếng hú hét.
Thằng
Đán nói tay chị Lý đó tề rồi ôm mình chặt cứng. Mình cố nhìn thật kĩ
thì đúng là cánh tay gãy vừa nãy, ai đang cầm nó dơ cao, khua đi khua
lại. Mình nói ma, đúng rồi ma, ba chân bốn cẳng bỏ chạy. Thằng Đán
chạy theo mình, nói anh Lập chờ em với. Mình cứ chạy không chờ, thằng
Đán khóc nói anh Lập ơi anh không thương em à, mình cứ chạy. Thằng Đán
rú lên, nói cha tổ mi vơ Lập nời, chờ tau với. Hai đứa chạy về đến
nhà tim đập chân run, ai hỏi gì cũng không nói. Mạ nói chôông cheo mô,
đi đơm cả ngày không có con mô à. Sợ mạ mắng mình phải liều ra rừng
trâm bầu thăm bẫy chôông, thằng Đán chạy theo, nó cũng đi thăm bẫy.
Vừa ra đến cửa rừng thì gặp cơn giông kéo đến, chôông sợ giông chạy
tán loạn.
Chôông rất sợ
sấm sét, chỉ nghe tiếng sấm thật xa chúng đã ba chân bốn cẳng chạy về
hang rồi. Trong phút chốc mây đen kéo về kín đặc, khu rừng tối om,
hai đứa sợ không dám tiến cũng chẳng dám lui. Một ánh chớp xanh lè,
sấm nổ cái đoàng, rồi nổ cái đoành, có ai đó hét hú lên, nói cứt cứt…
đ.mạ thằng cu Thái. Hai đứa ngó quanh không thấy ai. Lại một ánh chớp
xanh lè, sấm nổ cái đoành, lại nổ cái đoàng có ai đó lại hú lên, nói
cứt cứt… đ.mạ thằng cu Thái. Cây trâm bầu trước mặt rung bần bật và
cánh tay gãy đâm lên đâm xuống qua tán cây cùng với tiếng hú hét đ. mạ
cu Thái… đ.mạ cu Thái. Từ trên cây trâm bầu, một bọc đen sì rơi
xuống cái soạp, tiếng rơi như tiếng bọc quần áo ướt rơi trên cát.
Cái
bọc bùng nhùng nhảy lăn qua lăn lại, nó chồm chồm như cóc nhảy, vừa
nhảy vừa hét cứt cứt… đ.mạ thằng cu Thái. Hai đứa bò lùi rồi ù té chạy.
Có ai đó đuổi theo, tiếng chân chạy rất gấp. Mưa đổ xuống như trút,
tạt mạnh đến nỗi không cách sao chạy nhanh được. Tiếng hú hét đuổi
theo sau lưng mỗi lúc mỗi gần, hai đứa cắm cổ chạy không dám ngoảnh
lại ngó xem kẻ đó là ai. Về đến làng mới đứng lại ngoảnh đằng sau,
chẳng có ma nào cả. Thằng Đán thở hồng hộc, nói không phải ma chị Lý,
ma đàn ông. Mình nói ừ, ma đàn ông thù anh cu Thái. Thằng Đán nói ừ,
anh cu Thái mần chi ông ni để ông ni chết hóa ma lên trả thù. Mình nói
ừ, nhưng anh cu Thái mần chi hè. Hai đứa tịt, nhìn nhau ngẩn ngơ.
Anh cu Thái chưa gây sự với ai trong làng, anh làm bí thư chi đoàn tất nhiên là anh là đoàn viên gương mẫu. Thằng Đán nói anh cu Thái chỉ làm gương mẫu thôi à. Mình nói ừ, anh cu Thái chỉ làm gương mẫu thôi. Thằng Đán nói gương mẫu là răng, mình tịt không biết nói răng. Thằng Đán cười hè hè, nói rứa mà cũng không biết, ngu ngu, gương mẫu là làm mẫu trong gương. Mình chẳng hiểu sao, thằng Đán cười hè hè, nói anh ngu lắm.
Nhà anh cu Thái có cái gương cắt tóc, anh treo trong buồng, đêm mô anh cũng kêu mấy chị em nuôi về làm mẫu trong gương. Mình vẫn không hiểu, thằng Đán nhảy chồm lên mình dập dập, nói ri nì ri nì. Mình không tin, nói láo láo, răng mi biết, thằng Đán nói rình thì biết chơ răng. Mình lạ quá.
Anh cu Thái mà rứa a, khi mô anh cũng bỏ áo trong quần, đi dép bốn quai, nói năng toàn văn minh lịch sự. Ai làm chi sai anh phê bình, nói sai anh chỉnh sửa, ai ai cũng nể sợ anh. Có người nói đồng chí Lê Nin lãnh đạo toàn thế giới mà lại có vợ, dở dở, thua Bác mình xa. Anh cu Thái trợn mắt đập bàn, nói tầm bậy, đồng chí Lê Nin lấy vợ là để nêu gương cho đoàn viên thanh niên toàn thế giới biết lấy vợ ra răng, sinh con đẻ cái ra răng.
Mọi người nói ua chầu chầu, đồng chí Lê Nin gương mẫu hè. Nhưng có người cãi lại, nói rứa đồng chí Mao Trạch Đông lấy ba vợ là để nêu gương cho đoàn viên thanh niên toàn thế giới lấy ba vợ à. Anh cu Thái trợn mắt đập bàn, nói tầm bậy, đồng chí Mao Trạch Đông hoạt động trong lòng địch, phải lấy nhiều vợ để che mắt quân thù. Mọi người nói ua chầu chầu, đồng chí Mao Trạch Đông người Tàu mưu lược hè. Làng xóm không ai thù anh cu Thái hết, toàn phục anh thôi. Thằng Đán nói, anh cu Thái mồm nói một đằng cặc văng một nẻo.
Mình nói ai nói mi biết, nó nói bọ tui. Mình nói mi đừng có nói bá láp, anh cu Thái cho dân quân bắt chết chừ. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Buổi tối thằng Đán rủ mình đến nhà anh cu Thái rình anh làm gương mẫu. Hai đứa bò sau hồi nhà đến sát cửa sổ nhà anh. Thằng Đán cho mình đứng lên vai nó, leo lên nhìn trước. Nó chỉ sáu tuổi thôi mà khỏe lắm, mình đứng lên vai, nó chỉ rung rinh chứ không ngã. Nó ngửa mặt lên, nói chộ chi không chộ chi không. Tối thui chẳng thấy gì cả, chỉ nghe phì phì hực hực, nhóp nhép bóp bép, phì phì hực hực, nhóp nhép bóp bép. Mình giả đò chậc lưỡi thì thầm, nói ua chầu hay hung hay hung.
Thằng Đán sốt ruột, nói mau xuống đi cho tui coi với, không hết mất chừ. Nặng quá, thằng Đán trụ không nổi, ngã cái oạch, mình cũng ngã theo. Tiếng anh cu Thái quát to, nói ai mần chi ngoài rứa. Hai đứa bỏ chạy, nằm nấp giữa hai vồng khoai lang. Anh cu Thái phi ra, nói ai đó ai đó. Chợt anh ối một tiếng, lại á một tiếng, ngã lăn quay. Một bóng đen to đùng chạy rật rật, vọt qua hàng rào biến mất. Hai cô em nuôi cầm đèn chạy ra. Anh cu Thái ôm hạ bộ quằn quại, nói có đứa bóp dái anh, cấp cứu cấp cứu. Hai chị bỗng rú lên, nói ma ma, quăng đèn ôm mặt bỏ chạy. Đèn rơi dầu đổ, lửa cháy loang rộng ra.
Cánh tay gãy cắm ngược trước mặt anh cu Thái, bàn tay nhòe nhoẹt máu đu đưa đu đưa. Anh cu Thái hét lên ngất xỉu. 3. Đài thôn thông báo: A lô a lô… Ngày 23 tháng 7 năm 1966 trong khi làm nhiệm vụ đồng chí Ngô Văn Thái, bí thư chi đoàn đội I đã phát hiện có một kẻ đột nhập vào thôn, mang theo một cánh tay gãy của một phụ nữ. Với tinh thần vì nước quên thân vì dân phục vụ, đồng chí Thái đã một mình trong đêm tối mịt mùng rượt đuổi kẻ gian, thu hồi được cánh tay, trả lại bình yên cho thôn xóm.
Hiện nay kẻ gian vẫn còn ẩn nấp, bà con cần nâng cao cảnh giác đập tan mọi hành động thù địch của kẻ gian, không đưa tin đồn nhảm lung lạc ý chí nhân dân, để kẻ xấu lợi dụng, a lô a lô Cánh tay được anh cu Thái chuyển lên thôn, thôn khen ngợi anh cu Thái mưu trí dũng cảm và khẳng định rõ ràng đây là cánh tay của ai đó.
Tuy nhiên quản lý một cánh tay không phải nhiệm vụ của thôn, thôn chuyển lên xã. Xã khen ngợi thôn đã nâng cao cảnh giác, giữ vững lập trường và khẳng định việc khẳng định của thôn rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Mặc dù vậy quản lý một cánh tay cũng không phải nhiệm vụ của xã, xã chuyển lên huyện.
Huyện khen xã đã nâng cao cảnh giác, giữ vững lập trường, năng động sáng tạo và khẳng định việc khẳng định của xã về khẳng định của thôn rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Nhưng huyện chỉ làm việc vĩ mô, quản lý một cánh tay là việc của cơ sở, huyện trả lại cho xã.
Xã nhất trí chủ trương đúng đắn của huyện liền chuyển xuống thôn, thôn nhất trí chủ trương đúng đắn của xã liền trao lại cho anh cu Thái. Lúc này cánh tay đã sưng vù, khẳn mùi, dòi chui vô chui ra đầu khuỷu tay. Anh cu Thái rùng mình ọe một phát, nói nhất trí. Lại rùng mình ọe phát nữa, nói đồng thuận. Anh cố nói thêm hai tiếng sáng suốt nhưng chưa kịp nói thì đã trào mật vàng mật xanh ra cả.
Anh cu Thái gọi thằng Đán và mình sang nhà, nói tui bay đem cái này ra rừng trâm bầu chôn cho anh, xong việc anh cho hai đứa hai củ khoai. Hai đứa giãy nãy nói không không, anh cu Thái nói một rổ khoai, hai đứa nói không không, anh cu Thái nói một gánh khoai, đi đi rồi anh viết tin khen trên đài nữa. Thằng cu Đán nói thiệt không, anh toàn viết tin khen anh, có khen ai mô. Anh cu Thái nói thiệt thiệt, chiều ni dứt khoát đài thôn khen các em. Thằng Đán nói không tin không tin, đụng may anh hứa ba láp thì răng.
Anh cu Thái chắp tay sau đít đi đi lại lại, đầu gật gù gật gù, nói a lô a lô hôm nay ngày 26 tháng 7 năm 1966 hai em Hoàng Việt Đán và Nguyễn Quang Lập đã dũng cảm mưu trí đem cánh tay ra rừng trâm bầu chôn cất, chấm dứt vấn đề rõ ràng cánh tay là của ai đó, trả lại bình yên cho thôn xóm. Hành động dũng cảm mưu trí của hai em xứng đáng được tuyên dương là cháu ngoan Bác Hồ, a lô a lô…Hai đứa sướng điên nhảy cà tẩng, nói rứa nha rứa nha anh phải đọc rứa nha. Rồi lấy bao tải bọc kín cánh tay, ôm chạy ù ra rừng, hí húi đào thật sâu, chôn cất cánh tay thật cẩn thận, còn chạy về nhà lấy hương thắp lên mộ cánh tay, xì xụp vái lạy rất nghiêm trang. Xong việc thằng cu Đán ngồi ngẩn ngơ, nói biết tay ai mà chôn tội hè. Mình nói huyện xã còn nỏ biết, răng con nít tụi mình biết được.
Mình vừa dứt lời thì bỗng trên đầu có tiếng hét tay tau tay tau. Hai đứa run bắn vùng dậy, ngó ngơ lên các tán cây trâm bầu, chẳng thấy ai. Một tiếng hú dài ở phía trước, nói tay tau tay tau, rồi một tiếng hú dài phía sau, nói tay tau tay tau. Hai đưa đứng trơ tay chân cứng ngắc. Phía nghĩa địa bỗng đùn lên một cơn lốc cát, nó xoay vòng chạy dài một vòng quanh nghĩa địa, rùng rùng tiến về phía hai đứa. Trong vòng xoáy lốc cát hiện ra một người đàn bà toàn thân phủ cát, mái tóc cũng cát, chỉ đôi mắt lúc đen ngòm lúc lóe sáng như hai cục than đỏ. Người đàn bà rùng rùng đi trong lốc cát, đi rất nhanh, vùn vụt vùn vụt.
Thằng Đán rú lên, nói chị Lý chị Lý rồi ù té chạy, mình cũng chạy theo nó. Người đàn bà cười ré lên, tiếng cười chua lòm nhói óc đuổi theo sau lưng. Hai đứa ra sức chạy, vừa chạy vừa hét cứu cứu… vơ làng cứu. Chợt mình vấp rể cây ngã lăn quay, thằng Đán ngã sấp đè lên mình. Cơn lốc cát ập đến, đổ cả đống cát lên hai đứa, phủ kín hết. Tiếng chân chạy sình sịch vòng quanh, hình như rất nhiều người, khi chạy nhanh khi chạy chậm, thỉnh thoảng nhảy mấy cái hét mấy tiếng. Tiếng đàn bà hét tay tau tay tau, tiếng đàn ông hét đ. mạ thằng cu Thái, cuối cùng có ai đó hét lên ôi Hân ơi răng mi khổ rứa, và khóc, khóc rất to.
Hai đứa chui ra khỏi đống cát, bốn xung quanh vắng hoe, chỉ thấy những dấu chân người lớn chạy thành một vòng tròn quay y như người ta lấy compa vẽ vậy. Mình nói ma rồi, đúng là ma rồi. Thằng Đán nói không phải, anh cu Hân… đúng rồi, anh cu Hân. Mình nói răng anh cu Hân lại có tiếng con gái, thằng Đán nói ánh cu Hân giả giọng con gái tài lắm, diễn kịch khi mô ánh cũng đóng con gái. Anh cu Hân người yêu chị Lý, đổ bệnh tâm thần cả năm nay, bỏ nhà đi lang thang khắp nơi, hễ nơi nào bom rơi đạn nổ người ta bỏ chạy cả thì anh mò đến. Anh đứng giữa bãi bom nhảy múa la hét, nói vơ cu Thái nời, bom mô rồi, thả đi thả đi. Máy bay quần lượn bắn rốc két, thả bom anh không sợ, càng nhảy múa hung tợn.
Thế mà anh không chết, chưa khi nào vướng một mảnh bom. Anh vuốt chim thật thẳng, dúi dúi lên trời, vừa dúi vừa nói cha tổ cu Thái cha tổ cu Thái. Mọi người sợ anh chết, kéo anh vô hầm, nói cu Thái mô trên trời, máy bay Mỹ đó. Anh không chịu, giằng ra cho kì được, nói không phải máy bay Mỹ, thằng cu Thái đó, thằng cu Thái đổi bướm lấy chức đội trưởng. Mọi nguời vội vàng bịt mồm anh cu Hân, nói ngấp mồm đi, dân quân bắt chết chừ. Anh cu Hân hất tay mọi người, nói chết cu tau, cu tau to hơn cu Chủ nhiệm răng cu Thái không gả con Lý cho tau, lại cho không Chủ nhiệm.
Mọi người lại bịt mồm anh, nói Hân ơi lạy mi Hân ơi, ngấp mồm đi không cả nhà mi chết hết chết hết. Anh cu Hân lại hất tay mọi người ra,nói ai chết ai chết… Rồi khóc bù lu bù loa, nói Lý ơi ôi Lý ơi, em chết đi để cu anh cho ai… Lý ơi là Lý. Anh Cu Hân la hét ầm ĩ cả xóm. Chủ nhiệm nghe tin chạy đến, khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng giản dị, nói bà con nghe thằng điên nói làm cái chi hè, e điên.
Mọi người xúm đến chất vấn Chủ nhiệm, người nói chuyện cu Thái bán bướm em gái cho ông có không, người nói chuyện cu Thái đánh cu Hân chấn thương sọ não hóa điên có không, người nói ông đè con Lý, con Lý nhục quá tự tử có không. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng ấm áp, nói rứa là bà con ta đồng thuận cả rồi nghe, giỏi giỏi, thôi giải tán. Chủ nhiệm chắp tay sau đít đủng đỉnh bỏ đi. Một ngày sau dân quân bắt anh cu Hân, trói gô lại, nói đem đi trại tâm thần chữa bệnh. Chuyện đó xảy ra gần một năm rồi. Minh nói hay anh cu Hân trốn trại về đây. Cu Đán mở to mắt trân trố nhìn mình, rất lâu sau nói đúng rồi. Dứt lời cu Đán ù té chạy về làng, mình đuổi theo nó, nói chạy đi mô chạy đi mô.
Nó không nói cứ cắm cổ chạy, nói mau lên, không anh cu Thái giết anh cu Hân. Thằng Đán chạy về nhà anh cu Thái, nhà không có ai. Vừa chạy ra ngõ thì gặp Chủ nhiệm, hai đứa kêu ầm lên, nói anh cu Hân về rồi anh cu Hân về rồi. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng thân thiết, nói è he đời mô có chuyện đó. Thằng Đán nói thiệt đo, bác không tin thì thôi. Bây giờ mới nghe Chủ nhiệm nói anh cu Thái lên huyện họp ba ngày chưa về, hai đứa thở phào nhẹ nhõm, nhìn nhau nhăn răng cười, nói tụi mình toàn nghi tầm bậy. Thằng Đán nói chạy ra rừng coi anh Hân có lấy cánh tay tụi mình chôn không.
Mình nói răng mi biết, nó nói biết chớ, chỗ mô có bom là anh Hân tới, có ai đó bị bom phạt cụt tay, anh Hân lấy chơi. Mình nói láo láo, răng mi biết tài rứa, nó nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Hai đứa chạy ra nơi chôn cánh tay, không thấy bị đào bới, lại nhìn nhau nhăn răng cười, nói tụi mình toàn nghi tầm bậy. Bỗng có tiếng hú vang, hai đứa không sợ, nói anh Hân mô rồi ra đi, bầy tui không sợ mô. Từ một lùm cây trâm bầu ném vụt ra cái áo con gái, lại ném ra một mớ tóc giả, cái túi nilon đen to đùng, cả guốc dép, cả cái xắc phụ nữ. Hai đứa chụp lấy, cười hì hì. Mình nói anh Hân chui vào túi nilon rồi rơi trên cây xuống.
Thằng Đán nói đúng rồi, anh Hân mặc áo quần con gái giả đò làm chị Lý. Mình nói đúng rồi, anh Hân bóp dái anh cu Thái, cắm cánh tay dọa anh cu Thái. Thắng Đán nói đúng rồi, anh Hân lấy xôi thịt cúng ở nghĩa địa cho tụi mình ăn. Hai đứa cười he he he, nhảy cà tẩng, nói đúng rồi đúng rồi. Có tiếng hú từ bụi cây trước mặt, bụi cây rung rung. Hai đứa hét lên, nói anh Hân anh Hân đừng hòng dọa bầy tui nha. Hai đứa chạy về phía bụi cây. Vừa chui vào thì thấy cái mặt anh Hân đầy máu, mắt trợn ngược đầy lòng trắng. Anh đã chết từ lúc nào. 4. Đài thôn thông báo: A lô… a lô…Ngày 26 tháng 7 năm 1966 Anh Lê Văn Hân trốn trại tâm thần về làng, không may bị bom Đế quốc Mỹ, anh đã chết tại rừng trâm bầu sau làng.
Cái chết thương tâm của anh cu Hân càng hun đúc thêm lòng căm thù Đế quốc Mỹ. Bà con hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, chiến đấu giỏi sản xuất giỏi, trả thù cho anh cu Hân. Tuyệt đối không nên nghe tin đồn nhảm, ảnh hưởng đến sản xuất và chiến đấu a lô a lô… Anh Hân chết vùi trong cát, chỉ cái mặt là nhô lên, hình như có ai đánh anh, tưởng anh đã chết, mới lấp vội vàng. Anh Hân cố nhoài ra khỏi hố cát mới chịu chết. Thằng Đán mếu máo khóc, nói răng tội ri anh Hân ơi, anh điên rồi mà, răng có người giết anh. Chợt có tiếng roạc ở lùm cây phía trước, lại có tiếng roạc ở lùm cây phía sau, hai đứa ngó quanh ngó quất.
Mình kéo tay thằng Đán, nói chạy thôi. Thằng Đán trì lại, nói không, phải ở lại, không người ta lấy xác anh Hân. Mình nói lấy xác mần chi. Thăng Đán trợn mắt lên, nói hỏi ngu lắm, rứa giết người điên mần chi. Vừa lúc có cơn lốc cát ập đến, bốc lên dữ dội, quay tít mù. Hai đứa nằm sấp bịt tai che mặt. Cơn lốc xoáy tròn mỗi lúc mỗi gắt, tiếng gió cát rít kinh hồn. Thoảng trong tiếng rít có ai đó lúc lúc lại hét lên ai giết ai giết, mi giết mi giết, tau giết tau giết, hăn giết hắn giết. Tan lốc, ngẩng lên chẳng thấy ai, chỉ thấy dấu chân chạy vòng quanh xác anh Hân. Thằng Đán nói tiếng ai giống tiếng anh Hân. Mình nói anh Hân chết đây rồi, răng nói được. Thằng Đán nói ma anh Hân nói đó, mình nói cứt cứt, không phải ma, người đó.
Bỗng có tiếng cười dài tiếp liền một tiếng hú dài ghê rợn, hai đứa bỏ chạy. Hình như có tiếng chân người đuổi đằng sau, tiếng chân rất gấp. Thằng Đán sợ quá ríu cả chân không chạy được, nó túm lấy áo mình khóc ầm ĩ, nói cứu tui cứu tui. Tấm áo mưa to đùng từ đâu bay tới trùm cả hai đứa, cả hai cuống quít rối rít trong tấm ao mưa, chui mãi không ra. Tiếng cười tiếng hú tiếng hét loạn xạ phía sau, nói ai giết ai giết, mi giết mi giết, tau giết tau giết, hắn giết hắn giết. Hai đứa cuống cả lên, không cách sao chui ra khỏi tấm áo mưa to đùng.
Khi không còn tiếng ai nữa, lột được tấm áo mưa chẳng thấy ai, chạy về làng thì thấy người ta đem xác anh Hân về nhà kho hợp tác. Mọi người xúm đến đông nghịch, người nói thằng Hân chết bom, thằng Đán nói không phải không phải. Người nói thằng Hân bị ma vật, em gái nó vật chết nó chứ ai, thằng Đán nói không phải không phải. Mọi người túm lấy thằng Đán, nói rứa thì răng, thằng Đán nói có người giết anh Hân. Mọi người cười ồ, nói tào lao, ai đi giết thằng điên. Thằng Đán nói thiệt đo, không tin thì thôi.
Chủ nhiệm chạy tới, ôm lấy xác anh Hân khóc nấc lên, nói ôi đồng chí cu Hân ơi, tại làm răng lại ra cơ sự như ri. Mọi người nói ua chầu chầu, Chủ nhiệm thương người mô chết người đó. Thằng Đán chạy đến trước mặt Chủ nhiệm, nói anh Hân không phải chết bom, thiệt đo. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng ấm áp, nói tại sao không chết bom, rứa bom chừa cu Hân ra à. Mọi người ùa đến, nói bom thả vô làng mình khi mô, răng bầy tui không biết hè. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng giản dị, nói bà con ai thắc mắc thì về nhà tui nghe, không được thắc mắc lung tung.
Có người hớt hơ hớt hãi chạy ra, nói cu Thái cũng chết rồi. Mọi người hớt hãi chạy về nhà cu Thái, không thấy cu Thái đâu, bàn tán loạn cả lên. Người nói cu Thái lên huyện họp, người nói cu Thái bị thủ tiêu rồi, họp mô mà họp. Bây giờ người ta mới nhớ chuyện cách đây một năm, ngày chị Lý tự vẫn. Người nói cu Hân không điên, cu Thái với Chủ nhiệm vu cho cu Hân điên thôi. Người nói đúng rồi, vì cu Hân biết chuyện cu Thái đem em gái bán cho Chủ nhiệm để được làm đội trưởng. Người nói rứa đo, cu Hân trốn trại về làng để tố cáo thì Chủ nhiệm xui cu Thái giết cu Hân. Người nói óa chà đúng hè, cu Thái giết xong cu Hân thì Chủ nhiệm giết luôn cu Thái để diệt khẩu. Mọi người ồ lên, nói ui chao ôi, răng mà dễ sợ rứa hè. Ba bốn người chạy rật rật đến, nói Chủ nhiệm cho người chôn cu Hân rồi.
Mọi người đổ xô đến kho hợp tác, nói không được chôn, chờ công an đến điều tra. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng thân thiết, nói rứa là đồng thuận cả rồi hè, bà con ta đưa đồng chí cu Hân về nơi an nghỉ cuối cùng. Mọi người ồ lên, nói không được không được, phải chờ công an đến điều tra. Chủ nhiệm tức lên, nhổ nước bọt cái toẹt, nói á a bà con thắc mắc hay chống đối đây? Thắc mắc thì tối nghe đài thôn giải thích, chống đối thì chìa tay vô cùm, rứa thôi. Một tiếng nổ đoàng đầu thôn, khói lửa bốc lên ngùn ngụt, mọi người đạp nhau chạy về đầu thôn. Chẳng thấy gì, chỉ thấy đụn rơm đang bốc cháy. Một tiếng nổ đoành cuối thôn, mọi người lại đạp nhau chạy về cuối thôn.
Cũng chẳng thấy gì, chỉ có đụn rơm đang bốc cháy. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, nói răng rứa hè răng rứa hè. Bỗng phía rừng trâm bầu chỗ này nổ đoàng, lửa phụt sáng, chỗ kia nổ đoành, lửa phụt sáng. Ba con táo tác chạy rật rật túa ra rừng trâm bầu. Trời tối mịt vẫn chẳng thấy gì, vẫn chỗ này nổ đoàng, chỗ kia đoành, lửa phụt tùm lum khắp rừng trâm bầu.Thằng Đán kéo tay mình trì lại, nói không chạy nữa, khéo không mắc lừa Chủ nhiệm. Mình nói mắc lừa răng, nó nói Chủ nhiệm bày trò cháy nổ đánh lạc hướng để đưa anh cu Hân đi chôn. Hai đứa chạy rật rật về nhà kho hợp tác thì thấy một nhóm người đang xông đến nhà kho. Hai đứa lén dò theo. Nhóm người mở cửa nhà kho, xác anh Hân còn nằm đó. Bỗng anh Hân cười ha ha ha, ngồi bật dậy cười ha ha ha. Nhóm người sợ té đái, rụt cả lại.
Anh Hân vụt đứng dậy, nhảy nhảy múa múa, cười ha ha ha, nói ai giết ai giết, tau giết tau giết, mi giết mi giết, hắn giết hắn giết. Nhóm người quì sụp xuống, vái như tế sao, nói Hân ơi Hân ơi, em sống khôn thác thiên thì để cho các anh đem em đi, không Chủ nhiệm chôn sống các anh. Anh Hân rú lên mấy tiếng, nói cứt cứt láo láo, đ. mạ Chủ nhiệm. Và cười ha ha ha khóc hu hu hu, cứ nhảy nhảy múa múa, khóc khóc cười cười, sợ quá. Chủ nhiệm đem mấy dân quân chạy đến, nói bắn chết ma thằng Hân, đừng để nó dọa xóm làng.
Dân quân bắn chỉ thiên mấy phát. Anh Hân đứng sững lại, đổ xuống cái rầm. Một bóng đen từ nhà kho vụt ra. Dân quân đuổi theo bóng đen, chụp được, hóa ra anh cu Thái. Dựng xác anh Hân dậy, nhảy nhảy múa là anh cu Thái. Anh cu Thái không còn là anh cu Thái nữa, mặt mày đen đúa, áo quần rách rưới. Anh nghiến răng ken két, mặt trợn ngược, sùi cả bọt mép. Dân quân túm lấy anh, anh giãy dụa, cười ha ha ha, lại khóc hu hu hu, nói ai giết ai giết, tau giết tau giết, mi giết mi giết, hắn giết hắn giết. Anh chỉ vào mặt Chủ nhiệm, nói hắn đó tề, hắn đó tề.
Chủ nhiệm trợn mắt chỉ tay, nói cu Thái điên rồi, đem ngay đi nhà thương điên. Dân quân lôi cổ anh cu Thái đi, nhóm người kia đem anh cu Hân chôn ngay trong đêm. Mọi người nghe tin đổ xô đến, Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng âu yếm, nói làng xóm mình ổn định rồi, giải tán nghe bà con.
Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, đã cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô…
Thằng Đán ngửa mắt lên cái loa treo trên chạc ba cây xoan đầu ngõ, nói` cứt cứt sai sai. Mình nói răng sai. Nó nói ngu lắm, Chủ nhiệm giết người diệt khẩu cả thôn ai cũng biết, chỉ mình anh ngu thôi. Mình nói cả anh Hân, anh cu Thái đều điên cả là răng.
Thằng Đán nói Chủ nhiệm có thuốc điên, mình nói thiệt không, nó nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô…
Thằng Đán lại ngửa cô lên cái loa, nói cứt cứt sai sai. Mình nói răng Chủ nhiệm giết người diệt khẩu. Thằng Đán nói Chủ nhiệm sợ anh Hân nói ra lộ chuyện Chủ nhiệm hiếp chị Lý, cho anh Hân uống thuốc điên, nhưng anh Hân nửa điên nửa tỉnh, bò về làng tính làm ồn chuyện nớ ra. Chủ nhiệm sai cu Thái giết anh Hân, rồi cho cu Thái uống thuốc điên luôn, nếu có ai bắt thì anh cu Thái không nhớ để mà khai. Mình nói láo láo, răng mi biết tài rứa. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi.
Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, đã cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô… Đài thôn cứ loa đi loa lại suốt đêm, mạ mình với mấy bà trong xóm chạy ra cây xoan đầu ngõ, ngửa cổ nhảy chồm chồm, nói vơ đài nời, ngấp mồm đi cho làng xóm người ta ngủ ngáy với, biết rồi đo, nói chi nó.
Anh cu Thái chưa gây sự với ai trong làng, anh làm bí thư chi đoàn tất nhiên là anh là đoàn viên gương mẫu. Thằng Đán nói anh cu Thái chỉ làm gương mẫu thôi à. Mình nói ừ, anh cu Thái chỉ làm gương mẫu thôi. Thằng Đán nói gương mẫu là răng, mình tịt không biết nói răng. Thằng Đán cười hè hè, nói rứa mà cũng không biết, ngu ngu, gương mẫu là làm mẫu trong gương. Mình chẳng hiểu sao, thằng Đán cười hè hè, nói anh ngu lắm.
Nhà anh cu Thái có cái gương cắt tóc, anh treo trong buồng, đêm mô anh cũng kêu mấy chị em nuôi về làm mẫu trong gương. Mình vẫn không hiểu, thằng Đán nhảy chồm lên mình dập dập, nói ri nì ri nì. Mình không tin, nói láo láo, răng mi biết, thằng Đán nói rình thì biết chơ răng. Mình lạ quá.
Anh cu Thái mà rứa a, khi mô anh cũng bỏ áo trong quần, đi dép bốn quai, nói năng toàn văn minh lịch sự. Ai làm chi sai anh phê bình, nói sai anh chỉnh sửa, ai ai cũng nể sợ anh. Có người nói đồng chí Lê Nin lãnh đạo toàn thế giới mà lại có vợ, dở dở, thua Bác mình xa. Anh cu Thái trợn mắt đập bàn, nói tầm bậy, đồng chí Lê Nin lấy vợ là để nêu gương cho đoàn viên thanh niên toàn thế giới biết lấy vợ ra răng, sinh con đẻ cái ra răng.
Mọi người nói ua chầu chầu, đồng chí Lê Nin gương mẫu hè. Nhưng có người cãi lại, nói rứa đồng chí Mao Trạch Đông lấy ba vợ là để nêu gương cho đoàn viên thanh niên toàn thế giới lấy ba vợ à. Anh cu Thái trợn mắt đập bàn, nói tầm bậy, đồng chí Mao Trạch Đông hoạt động trong lòng địch, phải lấy nhiều vợ để che mắt quân thù. Mọi người nói ua chầu chầu, đồng chí Mao Trạch Đông người Tàu mưu lược hè. Làng xóm không ai thù anh cu Thái hết, toàn phục anh thôi. Thằng Đán nói, anh cu Thái mồm nói một đằng cặc văng một nẻo.
Mình nói ai nói mi biết, nó nói bọ tui. Mình nói mi đừng có nói bá láp, anh cu Thái cho dân quân bắt chết chừ. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Buổi tối thằng Đán rủ mình đến nhà anh cu Thái rình anh làm gương mẫu. Hai đứa bò sau hồi nhà đến sát cửa sổ nhà anh. Thằng Đán cho mình đứng lên vai nó, leo lên nhìn trước. Nó chỉ sáu tuổi thôi mà khỏe lắm, mình đứng lên vai, nó chỉ rung rinh chứ không ngã. Nó ngửa mặt lên, nói chộ chi không chộ chi không. Tối thui chẳng thấy gì cả, chỉ nghe phì phì hực hực, nhóp nhép bóp bép, phì phì hực hực, nhóp nhép bóp bép. Mình giả đò chậc lưỡi thì thầm, nói ua chầu hay hung hay hung.
Thằng Đán sốt ruột, nói mau xuống đi cho tui coi với, không hết mất chừ. Nặng quá, thằng Đán trụ không nổi, ngã cái oạch, mình cũng ngã theo. Tiếng anh cu Thái quát to, nói ai mần chi ngoài rứa. Hai đứa bỏ chạy, nằm nấp giữa hai vồng khoai lang. Anh cu Thái phi ra, nói ai đó ai đó. Chợt anh ối một tiếng, lại á một tiếng, ngã lăn quay. Một bóng đen to đùng chạy rật rật, vọt qua hàng rào biến mất. Hai cô em nuôi cầm đèn chạy ra. Anh cu Thái ôm hạ bộ quằn quại, nói có đứa bóp dái anh, cấp cứu cấp cứu. Hai chị bỗng rú lên, nói ma ma, quăng đèn ôm mặt bỏ chạy. Đèn rơi dầu đổ, lửa cháy loang rộng ra.
Cánh tay gãy cắm ngược trước mặt anh cu Thái, bàn tay nhòe nhoẹt máu đu đưa đu đưa. Anh cu Thái hét lên ngất xỉu. 3. Đài thôn thông báo: A lô a lô… Ngày 23 tháng 7 năm 1966 trong khi làm nhiệm vụ đồng chí Ngô Văn Thái, bí thư chi đoàn đội I đã phát hiện có một kẻ đột nhập vào thôn, mang theo một cánh tay gãy của một phụ nữ. Với tinh thần vì nước quên thân vì dân phục vụ, đồng chí Thái đã một mình trong đêm tối mịt mùng rượt đuổi kẻ gian, thu hồi được cánh tay, trả lại bình yên cho thôn xóm.
Hiện nay kẻ gian vẫn còn ẩn nấp, bà con cần nâng cao cảnh giác đập tan mọi hành động thù địch của kẻ gian, không đưa tin đồn nhảm lung lạc ý chí nhân dân, để kẻ xấu lợi dụng, a lô a lô Cánh tay được anh cu Thái chuyển lên thôn, thôn khen ngợi anh cu Thái mưu trí dũng cảm và khẳng định rõ ràng đây là cánh tay của ai đó.
Tuy nhiên quản lý một cánh tay không phải nhiệm vụ của thôn, thôn chuyển lên xã. Xã khen ngợi thôn đã nâng cao cảnh giác, giữ vững lập trường và khẳng định việc khẳng định của thôn rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Mặc dù vậy quản lý một cánh tay cũng không phải nhiệm vụ của xã, xã chuyển lên huyện.
Huyện khen xã đã nâng cao cảnh giác, giữ vững lập trường, năng động sáng tạo và khẳng định việc khẳng định của xã về khẳng định của thôn rõ ràng đây là cánh tay của ai đó. Nhưng huyện chỉ làm việc vĩ mô, quản lý một cánh tay là việc của cơ sở, huyện trả lại cho xã.
Xã nhất trí chủ trương đúng đắn của huyện liền chuyển xuống thôn, thôn nhất trí chủ trương đúng đắn của xã liền trao lại cho anh cu Thái. Lúc này cánh tay đã sưng vù, khẳn mùi, dòi chui vô chui ra đầu khuỷu tay. Anh cu Thái rùng mình ọe một phát, nói nhất trí. Lại rùng mình ọe phát nữa, nói đồng thuận. Anh cố nói thêm hai tiếng sáng suốt nhưng chưa kịp nói thì đã trào mật vàng mật xanh ra cả.
Anh cu Thái gọi thằng Đán và mình sang nhà, nói tui bay đem cái này ra rừng trâm bầu chôn cho anh, xong việc anh cho hai đứa hai củ khoai. Hai đứa giãy nãy nói không không, anh cu Thái nói một rổ khoai, hai đứa nói không không, anh cu Thái nói một gánh khoai, đi đi rồi anh viết tin khen trên đài nữa. Thằng cu Đán nói thiệt không, anh toàn viết tin khen anh, có khen ai mô. Anh cu Thái nói thiệt thiệt, chiều ni dứt khoát đài thôn khen các em. Thằng Đán nói không tin không tin, đụng may anh hứa ba láp thì răng.
Anh cu Thái chắp tay sau đít đi đi lại lại, đầu gật gù gật gù, nói a lô a lô hôm nay ngày 26 tháng 7 năm 1966 hai em Hoàng Việt Đán và Nguyễn Quang Lập đã dũng cảm mưu trí đem cánh tay ra rừng trâm bầu chôn cất, chấm dứt vấn đề rõ ràng cánh tay là của ai đó, trả lại bình yên cho thôn xóm. Hành động dũng cảm mưu trí của hai em xứng đáng được tuyên dương là cháu ngoan Bác Hồ, a lô a lô…Hai đứa sướng điên nhảy cà tẩng, nói rứa nha rứa nha anh phải đọc rứa nha. Rồi lấy bao tải bọc kín cánh tay, ôm chạy ù ra rừng, hí húi đào thật sâu, chôn cất cánh tay thật cẩn thận, còn chạy về nhà lấy hương thắp lên mộ cánh tay, xì xụp vái lạy rất nghiêm trang. Xong việc thằng cu Đán ngồi ngẩn ngơ, nói biết tay ai mà chôn tội hè. Mình nói huyện xã còn nỏ biết, răng con nít tụi mình biết được.
Mình vừa dứt lời thì bỗng trên đầu có tiếng hét tay tau tay tau. Hai đứa run bắn vùng dậy, ngó ngơ lên các tán cây trâm bầu, chẳng thấy ai. Một tiếng hú dài ở phía trước, nói tay tau tay tau, rồi một tiếng hú dài phía sau, nói tay tau tay tau. Hai đưa đứng trơ tay chân cứng ngắc. Phía nghĩa địa bỗng đùn lên một cơn lốc cát, nó xoay vòng chạy dài một vòng quanh nghĩa địa, rùng rùng tiến về phía hai đứa. Trong vòng xoáy lốc cát hiện ra một người đàn bà toàn thân phủ cát, mái tóc cũng cát, chỉ đôi mắt lúc đen ngòm lúc lóe sáng như hai cục than đỏ. Người đàn bà rùng rùng đi trong lốc cát, đi rất nhanh, vùn vụt vùn vụt.
Thằng Đán rú lên, nói chị Lý chị Lý rồi ù té chạy, mình cũng chạy theo nó. Người đàn bà cười ré lên, tiếng cười chua lòm nhói óc đuổi theo sau lưng. Hai đứa ra sức chạy, vừa chạy vừa hét cứu cứu… vơ làng cứu. Chợt mình vấp rể cây ngã lăn quay, thằng Đán ngã sấp đè lên mình. Cơn lốc cát ập đến, đổ cả đống cát lên hai đứa, phủ kín hết. Tiếng chân chạy sình sịch vòng quanh, hình như rất nhiều người, khi chạy nhanh khi chạy chậm, thỉnh thoảng nhảy mấy cái hét mấy tiếng. Tiếng đàn bà hét tay tau tay tau, tiếng đàn ông hét đ. mạ thằng cu Thái, cuối cùng có ai đó hét lên ôi Hân ơi răng mi khổ rứa, và khóc, khóc rất to.
Hai đứa chui ra khỏi đống cát, bốn xung quanh vắng hoe, chỉ thấy những dấu chân người lớn chạy thành một vòng tròn quay y như người ta lấy compa vẽ vậy. Mình nói ma rồi, đúng là ma rồi. Thằng Đán nói không phải, anh cu Hân… đúng rồi, anh cu Hân. Mình nói răng anh cu Hân lại có tiếng con gái, thằng Đán nói ánh cu Hân giả giọng con gái tài lắm, diễn kịch khi mô ánh cũng đóng con gái. Anh cu Hân người yêu chị Lý, đổ bệnh tâm thần cả năm nay, bỏ nhà đi lang thang khắp nơi, hễ nơi nào bom rơi đạn nổ người ta bỏ chạy cả thì anh mò đến. Anh đứng giữa bãi bom nhảy múa la hét, nói vơ cu Thái nời, bom mô rồi, thả đi thả đi. Máy bay quần lượn bắn rốc két, thả bom anh không sợ, càng nhảy múa hung tợn.
Thế mà anh không chết, chưa khi nào vướng một mảnh bom. Anh vuốt chim thật thẳng, dúi dúi lên trời, vừa dúi vừa nói cha tổ cu Thái cha tổ cu Thái. Mọi người sợ anh chết, kéo anh vô hầm, nói cu Thái mô trên trời, máy bay Mỹ đó. Anh không chịu, giằng ra cho kì được, nói không phải máy bay Mỹ, thằng cu Thái đó, thằng cu Thái đổi bướm lấy chức đội trưởng. Mọi nguời vội vàng bịt mồm anh cu Hân, nói ngấp mồm đi, dân quân bắt chết chừ. Anh cu Hân hất tay mọi người, nói chết cu tau, cu tau to hơn cu Chủ nhiệm răng cu Thái không gả con Lý cho tau, lại cho không Chủ nhiệm.
Mọi người lại bịt mồm anh, nói Hân ơi lạy mi Hân ơi, ngấp mồm đi không cả nhà mi chết hết chết hết. Anh cu Hân lại hất tay mọi người ra,nói ai chết ai chết… Rồi khóc bù lu bù loa, nói Lý ơi ôi Lý ơi, em chết đi để cu anh cho ai… Lý ơi là Lý. Anh Cu Hân la hét ầm ĩ cả xóm. Chủ nhiệm nghe tin chạy đến, khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng giản dị, nói bà con nghe thằng điên nói làm cái chi hè, e điên.
Mọi người xúm đến chất vấn Chủ nhiệm, người nói chuyện cu Thái bán bướm em gái cho ông có không, người nói chuyện cu Thái đánh cu Hân chấn thương sọ não hóa điên có không, người nói ông đè con Lý, con Lý nhục quá tự tử có không. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng ấm áp, nói rứa là bà con ta đồng thuận cả rồi nghe, giỏi giỏi, thôi giải tán. Chủ nhiệm chắp tay sau đít đủng đỉnh bỏ đi. Một ngày sau dân quân bắt anh cu Hân, trói gô lại, nói đem đi trại tâm thần chữa bệnh. Chuyện đó xảy ra gần một năm rồi. Minh nói hay anh cu Hân trốn trại về đây. Cu Đán mở to mắt trân trố nhìn mình, rất lâu sau nói đúng rồi. Dứt lời cu Đán ù té chạy về làng, mình đuổi theo nó, nói chạy đi mô chạy đi mô.
Nó không nói cứ cắm cổ chạy, nói mau lên, không anh cu Thái giết anh cu Hân. Thằng Đán chạy về nhà anh cu Thái, nhà không có ai. Vừa chạy ra ngõ thì gặp Chủ nhiệm, hai đứa kêu ầm lên, nói anh cu Hân về rồi anh cu Hân về rồi. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng thân thiết, nói è he đời mô có chuyện đó. Thằng Đán nói thiệt đo, bác không tin thì thôi. Bây giờ mới nghe Chủ nhiệm nói anh cu Thái lên huyện họp ba ngày chưa về, hai đứa thở phào nhẹ nhõm, nhìn nhau nhăn răng cười, nói tụi mình toàn nghi tầm bậy. Thằng Đán nói chạy ra rừng coi anh Hân có lấy cánh tay tụi mình chôn không.
Mình nói răng mi biết, nó nói biết chớ, chỗ mô có bom là anh Hân tới, có ai đó bị bom phạt cụt tay, anh Hân lấy chơi. Mình nói láo láo, răng mi biết tài rứa, nó nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Hai đứa chạy ra nơi chôn cánh tay, không thấy bị đào bới, lại nhìn nhau nhăn răng cười, nói tụi mình toàn nghi tầm bậy. Bỗng có tiếng hú vang, hai đứa không sợ, nói anh Hân mô rồi ra đi, bầy tui không sợ mô. Từ một lùm cây trâm bầu ném vụt ra cái áo con gái, lại ném ra một mớ tóc giả, cái túi nilon đen to đùng, cả guốc dép, cả cái xắc phụ nữ. Hai đứa chụp lấy, cười hì hì. Mình nói anh Hân chui vào túi nilon rồi rơi trên cây xuống.
Và một hang nhông bị đào bới tận ổ trên đồi cát Quảng Bình
Thằng Đán nói đúng rồi, anh Hân mặc áo quần con gái giả đò làm chị Lý. Mình nói đúng rồi, anh Hân bóp dái anh cu Thái, cắm cánh tay dọa anh cu Thái. Thắng Đán nói đúng rồi, anh Hân lấy xôi thịt cúng ở nghĩa địa cho tụi mình ăn. Hai đứa cười he he he, nhảy cà tẩng, nói đúng rồi đúng rồi. Có tiếng hú từ bụi cây trước mặt, bụi cây rung rung. Hai đứa hét lên, nói anh Hân anh Hân đừng hòng dọa bầy tui nha. Hai đứa chạy về phía bụi cây. Vừa chui vào thì thấy cái mặt anh Hân đầy máu, mắt trợn ngược đầy lòng trắng. Anh đã chết từ lúc nào. 4. Đài thôn thông báo: A lô… a lô…Ngày 26 tháng 7 năm 1966 Anh Lê Văn Hân trốn trại tâm thần về làng, không may bị bom Đế quốc Mỹ, anh đã chết tại rừng trâm bầu sau làng.
Cái chết thương tâm của anh cu Hân càng hun đúc thêm lòng căm thù Đế quốc Mỹ. Bà con hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, chiến đấu giỏi sản xuất giỏi, trả thù cho anh cu Hân. Tuyệt đối không nên nghe tin đồn nhảm, ảnh hưởng đến sản xuất và chiến đấu a lô a lô… Anh Hân chết vùi trong cát, chỉ cái mặt là nhô lên, hình như có ai đánh anh, tưởng anh đã chết, mới lấp vội vàng. Anh Hân cố nhoài ra khỏi hố cát mới chịu chết. Thằng Đán mếu máo khóc, nói răng tội ri anh Hân ơi, anh điên rồi mà, răng có người giết anh. Chợt có tiếng roạc ở lùm cây phía trước, lại có tiếng roạc ở lùm cây phía sau, hai đứa ngó quanh ngó quất.
Mình kéo tay thằng Đán, nói chạy thôi. Thằng Đán trì lại, nói không, phải ở lại, không người ta lấy xác anh Hân. Mình nói lấy xác mần chi. Thăng Đán trợn mắt lên, nói hỏi ngu lắm, rứa giết người điên mần chi. Vừa lúc có cơn lốc cát ập đến, bốc lên dữ dội, quay tít mù. Hai đứa nằm sấp bịt tai che mặt. Cơn lốc xoáy tròn mỗi lúc mỗi gắt, tiếng gió cát rít kinh hồn. Thoảng trong tiếng rít có ai đó lúc lúc lại hét lên ai giết ai giết, mi giết mi giết, tau giết tau giết, hăn giết hắn giết. Tan lốc, ngẩng lên chẳng thấy ai, chỉ thấy dấu chân chạy vòng quanh xác anh Hân. Thằng Đán nói tiếng ai giống tiếng anh Hân. Mình nói anh Hân chết đây rồi, răng nói được. Thằng Đán nói ma anh Hân nói đó, mình nói cứt cứt, không phải ma, người đó.
Bỗng có tiếng cười dài tiếp liền một tiếng hú dài ghê rợn, hai đứa bỏ chạy. Hình như có tiếng chân người đuổi đằng sau, tiếng chân rất gấp. Thằng Đán sợ quá ríu cả chân không chạy được, nó túm lấy áo mình khóc ầm ĩ, nói cứu tui cứu tui. Tấm áo mưa to đùng từ đâu bay tới trùm cả hai đứa, cả hai cuống quít rối rít trong tấm ao mưa, chui mãi không ra. Tiếng cười tiếng hú tiếng hét loạn xạ phía sau, nói ai giết ai giết, mi giết mi giết, tau giết tau giết, hắn giết hắn giết. Hai đứa cuống cả lên, không cách sao chui ra khỏi tấm áo mưa to đùng.
Khi không còn tiếng ai nữa, lột được tấm áo mưa chẳng thấy ai, chạy về làng thì thấy người ta đem xác anh Hân về nhà kho hợp tác. Mọi người xúm đến đông nghịch, người nói thằng Hân chết bom, thằng Đán nói không phải không phải. Người nói thằng Hân bị ma vật, em gái nó vật chết nó chứ ai, thằng Đán nói không phải không phải. Mọi người túm lấy thằng Đán, nói rứa thì răng, thằng Đán nói có người giết anh Hân. Mọi người cười ồ, nói tào lao, ai đi giết thằng điên. Thằng Đán nói thiệt đo, không tin thì thôi.
Chủ nhiệm chạy tới, ôm lấy xác anh Hân khóc nấc lên, nói ôi đồng chí cu Hân ơi, tại làm răng lại ra cơ sự như ri. Mọi người nói ua chầu chầu, Chủ nhiệm thương người mô chết người đó. Thằng Đán chạy đến trước mặt Chủ nhiệm, nói anh Hân không phải chết bom, thiệt đo. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng ấm áp, nói tại sao không chết bom, rứa bom chừa cu Hân ra à. Mọi người ùa đến, nói bom thả vô làng mình khi mô, răng bầy tui không biết hè. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng giản dị, nói bà con ai thắc mắc thì về nhà tui nghe, không được thắc mắc lung tung.
Có người hớt hơ hớt hãi chạy ra, nói cu Thái cũng chết rồi. Mọi người hớt hãi chạy về nhà cu Thái, không thấy cu Thái đâu, bàn tán loạn cả lên. Người nói cu Thái lên huyện họp, người nói cu Thái bị thủ tiêu rồi, họp mô mà họp. Bây giờ người ta mới nhớ chuyện cách đây một năm, ngày chị Lý tự vẫn. Người nói cu Hân không điên, cu Thái với Chủ nhiệm vu cho cu Hân điên thôi. Người nói đúng rồi, vì cu Hân biết chuyện cu Thái đem em gái bán cho Chủ nhiệm để được làm đội trưởng. Người nói rứa đo, cu Hân trốn trại về làng để tố cáo thì Chủ nhiệm xui cu Thái giết cu Hân. Người nói óa chà đúng hè, cu Thái giết xong cu Hân thì Chủ nhiệm giết luôn cu Thái để diệt khẩu. Mọi người ồ lên, nói ui chao ôi, răng mà dễ sợ rứa hè. Ba bốn người chạy rật rật đến, nói Chủ nhiệm cho người chôn cu Hân rồi.
Mọi người đổ xô đến kho hợp tác, nói không được chôn, chờ công an đến điều tra. Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng thân thiết, nói rứa là đồng thuận cả rồi hè, bà con ta đưa đồng chí cu Hân về nơi an nghỉ cuối cùng. Mọi người ồ lên, nói không được không được, phải chờ công an đến điều tra. Chủ nhiệm tức lên, nhổ nước bọt cái toẹt, nói á a bà con thắc mắc hay chống đối đây? Thắc mắc thì tối nghe đài thôn giải thích, chống đối thì chìa tay vô cùm, rứa thôi. Một tiếng nổ đoàng đầu thôn, khói lửa bốc lên ngùn ngụt, mọi người đạp nhau chạy về đầu thôn. Chẳng thấy gì, chỉ thấy đụn rơm đang bốc cháy. Một tiếng nổ đoành cuối thôn, mọi người lại đạp nhau chạy về cuối thôn.
Cũng chẳng thấy gì, chỉ có đụn rơm đang bốc cháy. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, nói răng rứa hè răng rứa hè. Bỗng phía rừng trâm bầu chỗ này nổ đoàng, lửa phụt sáng, chỗ kia nổ đoành, lửa phụt sáng. Ba con táo tác chạy rật rật túa ra rừng trâm bầu. Trời tối mịt vẫn chẳng thấy gì, vẫn chỗ này nổ đoàng, chỗ kia đoành, lửa phụt tùm lum khắp rừng trâm bầu.Thằng Đán kéo tay mình trì lại, nói không chạy nữa, khéo không mắc lừa Chủ nhiệm. Mình nói mắc lừa răng, nó nói Chủ nhiệm bày trò cháy nổ đánh lạc hướng để đưa anh cu Hân đi chôn. Hai đứa chạy rật rật về nhà kho hợp tác thì thấy một nhóm người đang xông đến nhà kho. Hai đứa lén dò theo. Nhóm người mở cửa nhà kho, xác anh Hân còn nằm đó. Bỗng anh Hân cười ha ha ha, ngồi bật dậy cười ha ha ha. Nhóm người sợ té đái, rụt cả lại.
Anh Hân vụt đứng dậy, nhảy nhảy múa múa, cười ha ha ha, nói ai giết ai giết, tau giết tau giết, mi giết mi giết, hắn giết hắn giết. Nhóm người quì sụp xuống, vái như tế sao, nói Hân ơi Hân ơi, em sống khôn thác thiên thì để cho các anh đem em đi, không Chủ nhiệm chôn sống các anh. Anh Hân rú lên mấy tiếng, nói cứt cứt láo láo, đ. mạ Chủ nhiệm. Và cười ha ha ha khóc hu hu hu, cứ nhảy nhảy múa múa, khóc khóc cười cười, sợ quá. Chủ nhiệm đem mấy dân quân chạy đến, nói bắn chết ma thằng Hân, đừng để nó dọa xóm làng.
Dân quân bắn chỉ thiên mấy phát. Anh Hân đứng sững lại, đổ xuống cái rầm. Một bóng đen từ nhà kho vụt ra. Dân quân đuổi theo bóng đen, chụp được, hóa ra anh cu Thái. Dựng xác anh Hân dậy, nhảy nhảy múa là anh cu Thái. Anh cu Thái không còn là anh cu Thái nữa, mặt mày đen đúa, áo quần rách rưới. Anh nghiến răng ken két, mặt trợn ngược, sùi cả bọt mép. Dân quân túm lấy anh, anh giãy dụa, cười ha ha ha, lại khóc hu hu hu, nói ai giết ai giết, tau giết tau giết, mi giết mi giết, hắn giết hắn giết. Anh chỉ vào mặt Chủ nhiệm, nói hắn đó tề, hắn đó tề.
Chủ nhiệm trợn mắt chỉ tay, nói cu Thái điên rồi, đem ngay đi nhà thương điên. Dân quân lôi cổ anh cu Thái đi, nhóm người kia đem anh cu Hân chôn ngay trong đêm. Mọi người nghe tin đổ xô đến, Chủ nhiệm khạc mấy cái cười hề hề, tay vỗ tay xoa vô cùng âu yếm, nói làng xóm mình ổn định rồi, giải tán nghe bà con.
Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, đã cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô…
Thằng Đán ngửa mắt lên cái loa treo trên chạc ba cây xoan đầu ngõ, nói` cứt cứt sai sai. Mình nói răng sai. Nó nói ngu lắm, Chủ nhiệm giết người diệt khẩu cả thôn ai cũng biết, chỉ mình anh ngu thôi. Mình nói cả anh Hân, anh cu Thái đều điên cả là răng.
Thằng Đán nói Chủ nhiệm có thuốc điên, mình nói thiệt không, nó nói thiệt đo, anh không tin thì thôi. Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô…
Thằng Đán lại ngửa cô lên cái loa, nói cứt cứt sai sai. Mình nói răng Chủ nhiệm giết người diệt khẩu. Thằng Đán nói Chủ nhiệm sợ anh Hân nói ra lộ chuyện Chủ nhiệm hiếp chị Lý, cho anh Hân uống thuốc điên, nhưng anh Hân nửa điên nửa tỉnh, bò về làng tính làm ồn chuyện nớ ra. Chủ nhiệm sai cu Thái giết anh Hân, rồi cho cu Thái uống thuốc điên luôn, nếu có ai bắt thì anh cu Thái không nhớ để mà khai. Mình nói láo láo, răng mi biết tài rứa. Thằng Đán nói thiệt đo, anh không tin thì thôi.
Đài thôn thông báo: A lô a lô… phát hiện cái chết đồng chí cu Hân có nhiều dấu hiệu khả nghi, trung đội dân quân thôn ta đã dũng cảm mưu trí, không quản hy sinh gian khổ truy tìm bắt được thủ phạm, đó là Ngô Văn Thái. Cu Thái bị cảm hàn hóa điên, đã cầm dao giết chết đồng chí Lê Văn Hân kính mến của chúng ta. Đồng chí Hân mất đi, gia đình mất một người con, thôn xóm mất một người đồng chí a lô a lô… Đài thôn cứ loa đi loa lại suốt đêm, mạ mình với mấy bà trong xóm chạy ra cây xoan đầu ngõ, ngửa cổ nhảy chồm chồm, nói vơ đài nời, ngấp mồm đi cho làng xóm người ta ngủ ngáy với, biết rồi đo, nói chi nó.
ĐÀO TUẤN * THU MUA
Đào Tuấn
Trong
cuốn “Đêm trước đổi mới”, có một ví dụ về việc “thu mua” của nhà
nước: Năm 1978 giá thành 1m2 vải calicot sản xuất tại xưởng của Công
ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng. Tuy nhiên, mét vải đó phải bán cho Nhà
nước với giá 1,2đ/m2.
Đây là thời kỳ dân gian có thơ “Bắt phanh trần phải phanh trần/Cho may ô mới được phần may ô”. Người dân có gì cũng phải bán cho Nhà Nước, với giá do Nhà nước ấn định, trong khi muốn mua gì thì chỉ được mua theo tiêu chuẩn, theo kế hoạch phân phối. Ông Trần Đức Nguyên, nguyên trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng cho rằng từ “thu mua” (vừa thu vừa mua) được hình thành từ thực tế này.
Ngày 23-11, Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định xử phạt Công ty TNHH Thương mại và Chế tác Vàng Ngọc Long số tiền 100 triệu đồng, tịch thu số ngoại tệ 12.195 USD đồng thời yêu cầu GĐ DN này phải bán 10.000 USD cho một tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Căn cứ xử phạt là nghị định 95 vừa được ban hành và có hiệu lực ngay trong ngày 20-11. Cùng với Ngọc Long, còn có một DN tư nhân khác bị phạt, bị buộc phải bán lại ngoại tệ và đại học FPT bị xử phạt 500 triệu đồng do niêm yết học phí bằng USD.
Có thể nói, nghị định 95 là văn bản quy phạm được thực hiện nhanh nhất từ trước đến nay.
Thế là từ nay, những người dân có USD muốn bán, cũng chỉ có thể bán cho Nhà nước, với tỷ giá do nhà nước ấn định. Quy định của nhà nước rất rõ ràng, rằng: Nếu bị phát hiện bán USD cho tiệm không có giấy phép thu đổi ngoại tệ, người vi phạm sẽ bị phạt 50-100 triệu đồng và tịch thu tang vật.
Thực ra việc cấm mua bán, giao dịch bằng USD đã có từ lâu, nhưng với quy định xử phạt, tịch thu “tang vật” rất mạnh tay, Chính phủ cho thấy sự quyết liệt của mình, hoặc trong việc chống đô la hóa nền kinh tế, hoặc trong việc tăng dự trữ ngoại tệ. Tất nhiên, sẽ không có những hoạt cảnh ấu trĩ “Chỉ vài cây số đã có tới cả chục trạm kiểm soát” như thời bao cấp, nhưng các vụ bắt giữ và xử lý cũng không phải là nhỏ.
Trả lời Tuổi trẻ, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP.HCM, Nguyễn Hoàng Minh cho biết chỉ riêng tại TP HCM, chỉ tính từ đầu năm 2011, đã có tới 54 vụ mua bán ngoại tệ trái phép, trong đó đã khởi tố hình sự 5 vụ và chuẩn bị khởi tố thêm 2 vụ nữa.
Nhưng liệu biện pháp ngăn sông cấm chợ này có giúp dự trữ ngoại tệ được nâng lên? Có dẹp được những cái chợ đen? Có làm giảm bớt tình trạng đô la hóa nền kinh tế?
Dự trữ ngoại tệ trong dân ước tính không hề ít hơn dự trữ ngoại tệ quốc gia. SGTT dẫn lời Kinh tế gia trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Martin Rama cho rằng: “Người dân Việt Nam đang nắm giữ hàng tỉ USD”. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh thì kể lại chuyện đã cùng phỏng đoán với Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia Lê Xuân Nghĩa: “Chúng tôi giật mình khi thấy sai số là 9,7 tỉ USD. Con số này không thấy xuất hiện trong tài khoản ngân hàng. Tức là nó nằm trong túi người dân”.
Còn chính ông Nghĩa cho biết: Ủy ban giám sát Tài chính quốc gia đã kiểm tra tất cả các tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của dân cư, có người gửi ngân hàng tới 260 triệu USD (Sau này ông đính chính là 260 ngàn USD). Điều này cho thấy chúng ta không thiếu ngoại tệ nhưng dân chúng không đủ lòng tin để bán USD cho ngân hàng”.
TS. Phí Đăng Minh, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối (NHNN), cũng cho biết NHNN ước tính lượng vàng trong dân tại Việt Nam hiện khoảng 300-500 tấn. giá trị tương đương 28 tỷ USD.
Ai cũng biết vàng trong ống bơ là vàng chết. Trong hoàn cảnh dự trữ ngoại tệ của Việt Nam, chỉ vào khoảng 15 tỷ USD thì rõ ràng lượng vàng chết, lượng USD cất tủ là một khoản tiền lớn mà không một nhà nước nào không muốn đưa vào lưu thông.
Nhưng không thể “giữ hộ dân” bằng cách “thu mua” một chiều, bằng biện pháp kiểu ngăn sông cấm chợ như thời bao cấp.
TS Vũ Đình Ánh, một quan chức của Bộ Tài chính từng nói: Nguyên nhân quan trọng nhất (của tình trạng đô la hóa nền kinh tế) là niềm tin vào đồng Việt Nam bị hạn chế bởi lạm phát quá cao… Đồng tiền phải thực hiện đủ các chức năng của nó: thứ nhất là thước đo giá trị, thứ hai là phương tiện thanh toán và thứ ba là phương tiện dự trữ. Nhìn ở cả 3 chức năng này, đồng tiền Việt Nam đều không thực hiện được chức năng của nó”.
Cái gốc của việc tránh USD hóa, vàng hóa phải là niềm tin của nhân dân. Bởi nếu nhân dân không còn niềm tin vào đồng nội tệ, bị phá giá bởi lạm phát chẳng hạn, thì thay vì USD bị cấm, người dân sẽ chuyển sang Euro, Yên Nhật, thậm chí, Nhân dân tệ.
Không lẽ lúc đó lại cần những nghị định 96,97,98 để cấm mua bán Euro, Yên, Nhân dân tệ?
Theo blog Đào Tuấn
Đây là thời kỳ dân gian có thơ “Bắt phanh trần phải phanh trần/Cho may ô mới được phần may ô”. Người dân có gì cũng phải bán cho Nhà Nước, với giá do Nhà nước ấn định, trong khi muốn mua gì thì chỉ được mua theo tiêu chuẩn, theo kế hoạch phân phối. Ông Trần Đức Nguyên, nguyên trưởng Ban nghiên cứu của Thủ tướng cho rằng từ “thu mua” (vừa thu vừa mua) được hình thành từ thực tế này.
Ngày 23-11, Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định xử phạt Công ty TNHH Thương mại và Chế tác Vàng Ngọc Long số tiền 100 triệu đồng, tịch thu số ngoại tệ 12.195 USD đồng thời yêu cầu GĐ DN này phải bán 10.000 USD cho một tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Căn cứ xử phạt là nghị định 95 vừa được ban hành và có hiệu lực ngay trong ngày 20-11. Cùng với Ngọc Long, còn có một DN tư nhân khác bị phạt, bị buộc phải bán lại ngoại tệ và đại học FPT bị xử phạt 500 triệu đồng do niêm yết học phí bằng USD.
Có thể nói, nghị định 95 là văn bản quy phạm được thực hiện nhanh nhất từ trước đến nay.
Thế là từ nay, những người dân có USD muốn bán, cũng chỉ có thể bán cho Nhà nước, với tỷ giá do nhà nước ấn định. Quy định của nhà nước rất rõ ràng, rằng: Nếu bị phát hiện bán USD cho tiệm không có giấy phép thu đổi ngoại tệ, người vi phạm sẽ bị phạt 50-100 triệu đồng và tịch thu tang vật.
Thực ra việc cấm mua bán, giao dịch bằng USD đã có từ lâu, nhưng với quy định xử phạt, tịch thu “tang vật” rất mạnh tay, Chính phủ cho thấy sự quyết liệt của mình, hoặc trong việc chống đô la hóa nền kinh tế, hoặc trong việc tăng dự trữ ngoại tệ. Tất nhiên, sẽ không có những hoạt cảnh ấu trĩ “Chỉ vài cây số đã có tới cả chục trạm kiểm soát” như thời bao cấp, nhưng các vụ bắt giữ và xử lý cũng không phải là nhỏ.
Trả lời Tuổi trẻ, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP.HCM, Nguyễn Hoàng Minh cho biết chỉ riêng tại TP HCM, chỉ tính từ đầu năm 2011, đã có tới 54 vụ mua bán ngoại tệ trái phép, trong đó đã khởi tố hình sự 5 vụ và chuẩn bị khởi tố thêm 2 vụ nữa.
Nhưng liệu biện pháp ngăn sông cấm chợ này có giúp dự trữ ngoại tệ được nâng lên? Có dẹp được những cái chợ đen? Có làm giảm bớt tình trạng đô la hóa nền kinh tế?
Dự trữ ngoại tệ trong dân ước tính không hề ít hơn dự trữ ngoại tệ quốc gia. SGTT dẫn lời Kinh tế gia trưởng của ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Martin Rama cho rằng: “Người dân Việt Nam đang nắm giữ hàng tỉ USD”. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh thì kể lại chuyện đã cùng phỏng đoán với Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia Lê Xuân Nghĩa: “Chúng tôi giật mình khi thấy sai số là 9,7 tỉ USD. Con số này không thấy xuất hiện trong tài khoản ngân hàng. Tức là nó nằm trong túi người dân”.
Còn chính ông Nghĩa cho biết: Ủy ban giám sát Tài chính quốc gia đã kiểm tra tất cả các tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ của dân cư, có người gửi ngân hàng tới 260 triệu USD (Sau này ông đính chính là 260 ngàn USD). Điều này cho thấy chúng ta không thiếu ngoại tệ nhưng dân chúng không đủ lòng tin để bán USD cho ngân hàng”.
TS. Phí Đăng Minh, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối (NHNN), cũng cho biết NHNN ước tính lượng vàng trong dân tại Việt Nam hiện khoảng 300-500 tấn. giá trị tương đương 28 tỷ USD.
Ai cũng biết vàng trong ống bơ là vàng chết. Trong hoàn cảnh dự trữ ngoại tệ của Việt Nam, chỉ vào khoảng 15 tỷ USD thì rõ ràng lượng vàng chết, lượng USD cất tủ là một khoản tiền lớn mà không một nhà nước nào không muốn đưa vào lưu thông.
Nhưng không thể “giữ hộ dân” bằng cách “thu mua” một chiều, bằng biện pháp kiểu ngăn sông cấm chợ như thời bao cấp.
TS Vũ Đình Ánh, một quan chức của Bộ Tài chính từng nói: Nguyên nhân quan trọng nhất (của tình trạng đô la hóa nền kinh tế) là niềm tin vào đồng Việt Nam bị hạn chế bởi lạm phát quá cao… Đồng tiền phải thực hiện đủ các chức năng của nó: thứ nhất là thước đo giá trị, thứ hai là phương tiện thanh toán và thứ ba là phương tiện dự trữ. Nhìn ở cả 3 chức năng này, đồng tiền Việt Nam đều không thực hiện được chức năng của nó”.
Cái gốc của việc tránh USD hóa, vàng hóa phải là niềm tin của nhân dân. Bởi nếu nhân dân không còn niềm tin vào đồng nội tệ, bị phá giá bởi lạm phát chẳng hạn, thì thay vì USD bị cấm, người dân sẽ chuyển sang Euro, Yên Nhật, thậm chí, Nhân dân tệ.
Không lẽ lúc đó lại cần những nghị định 96,97,98 để cấm mua bán Euro, Yên, Nhân dân tệ?
ĐỖ XUÂN TÊ * BÙI TÍN
Nhân đọc bài thơ Bùi Tín & Hoa Xuyên Tuyết của Phạm Đức Nhì Nhà văn Bùi Tín
Nói
cho ngay, trước 75 tôi có trực diện Bùi Tín khi ông là thành viên của
phái đoàn quân sự bốn bên, phe Bắc Việt, trong vài cuộc họp báo tại
Trại Đa-vít trong Tân sơn Nhất (Sài-gòn), rồi duyên nợ thế nào tôi ‘gắn
bó’ khá nhiều với ông trước khi ông đào thoát ra hải ngoại.
Sự ‘quen’ vừa tình cờ do chúng tôi đều là những người gốc lính, ít
nhiều có công tác trong lãnh vực tư tưởng của hai phía, nhưng tôi chú ý
đến nhân vật này vì những năm cuối đời ông đã có sự cảnh tỉnh tư duy,
chia tay với quá khứ, gây tác động mạnh đến dư luận quần chúng trong
ngoài nước không hẳn trên lãnh vực văn hóa tư tưởng mà lan sang cả ý
thức chính trị, đời sống xã hội khoảng nhiều năm trở lại đây.
Tôi
sẽ lướt qua khuôn mặt ông trong cách nhìn của một người trước sau
chưa bao giờ cùng chiến tuyến, nhưng trong chừng mực nào đó khác với
nội dung bài thơ của tác giả Phạm đức Nhi , tôi có đặt cảm tính cá
nhân khi viết về ông với ý hướng trân trọng.
Trường hợp tôi cũng có vài cá biệt là có giọng đọc tốt, lại có thời làm công tác chữ nghĩa trong quân đội miền nam, nên khi vào trại cải tạo tôi được anh em chọn là người chuyên đọc báo cho Tổ, rồi đưa đẩy thế nào tôi trở thành người có thâm niên cao nhất nước về thành tích đọc báo Đảng đều đặn hằng đêm trên mười năm.
Trường hợp tôi cũng có vài cá biệt là có giọng đọc tốt, lại có thời làm công tác chữ nghĩa trong quân đội miền nam, nên khi vào trại cải tạo tôi được anh em chọn là người chuyên đọc báo cho Tổ, rồi đưa đẩy thế nào tôi trở thành người có thâm niên cao nhất nước về thành tích đọc báo Đảng đều đặn hằng đêm trên mười năm.
Lẽ
ra thâm niên còn kéo dài hơn, nhưng hai năm cuối trước khi được tha
tôi bị ngưng làm cái loa cho tổ vì đôi mắt bị lão hóa không có cặp
kính lão nên chịu thua. Chính nhờ cái duyên ‘ngồi đồng’ này mà tôi
càng ‘quen’ ông Bùi Tín, trùng hợp với thời điểm ông được làm Phó tổng
biên tập, người gác cổng cho tờ báo đảng Nhân Dân.
Cuộc
đời và sự nghiệp của ông này sinh động đa dạng khác xa những đồng
nghiệp cùng cấp cùng thời. Quần chúng đều biết ông là con cưng của chế
độ, hưởng nhiều bổng lộc và nếu kể số lần được xuất ngoại công tác vừa
tháp tùng cấp lớn cỡ Võ tướng, vừa tham dự tham quan hội thảo về
chiến tranh tại các nước anh em, các nước tư bản, thì phải nói Bùi Tín
đi nhiều hơn một nhà ngoại giao chuyên nghiệp.
Tôi
không biết nhiều về ông trước khi có hiệp định đình chiến bốn bên ký
tại Paris. Chỉ từ khi ông được bổ sung vào thành phần phái đoàn quân
sự bốn bên phe Bắc Việt từ sau 73 thì khuôn mặt Bùi Tín (lúc đó là
trung tá) luôn được giới anh em chúng tôi, những sĩ quan miền nam được
giao công tác trao trả tù binh và điều tra những vi phạm của các bên
về ngưng bắn theo sát.
Dù cũng mặc
đồ bộ đội với chiếc nón cối, nhưng Bùi Tín có vóc dáng và lối ăn nói
khác với cán bộ ở rừng, có trình độ học vấn và ngoại ngữ, tiếng Pháp
là căn bản, tiếng Anh chắc tự học ngầm, tôi đoán vậy khi thấy ông trao
đổi với thành viên phái đoàn Mỹ.
Giọng
nói còn mang âm sắc Huế, về sau mới biết ông là con cụ Bùi Bằng Đoàn,
có một thời làm thương thư bộ Hình trong triều đình Huế, sau được
làm chủ tịch quốc hội của VNDCCH. Võ đông Giang lúc đó tuy là trưởng
đoàn Bắc Việt, nhưng thực chất Bùi Tín là ‘linh hồn’ của phái bộ này.
So với những bộ mặt khó ưa của các thành viên khác, Bùi Tín có thái
độ khá thân thiện tuy vẫn giữ một khoảng cách nào đó với anh em chúng
tôi.
Thế rồi đột nhiên một phe bị
bức tử, chúng tôi là kẻ ngã ngựa, danh ông lại nổi như cồn khi chính
ông ngồi trên chiếc xe tăng của Nga tiến vào dinh Độc Lập xế trưa 30
tháng tư. Có người nói ông đã ở trại Đa-vít vài năm nên thông thuộc
địa bàn thành phố, sự có mặt của ông trên chiếc tăng chẳng qua như
người quen đường biết lối vào dinh.
Ngẫu
nhiên ông lại có cấp bậc cao nhất và trở thành người đại diện cho kẻ
chiến thắng nhận bàn giao từ tay Dương văn Minh, với câu nói xuất thần
vô cùng kiêu ngạo làm bẽ mặt bộ xậu chủ bại miền nam, ‘các ông là kẻ bại trận, chỉ có chuyện đầu hàng, không có chuyện bàn giao ở đây’.Tên tuổi Bùi Tín và đường hoạn lộ của ông thênh thang từ đây.
Tôi
mất dấu tích về ông cho đến khi ra Bắc năm 76. Tình cờ khi đọc báo
cho Tổ, mới biết lúc này ông là cây viết chủ lực cho tờ Nhân Dân, với
bút hiệu Thành Tín, chủ yếu viết các bài chính luận cho tờ báo Đảng.
Đáng chú ý là cán bộ quản giao dặn riêng tôi không được quên đọc các
bài của Thành Tín và không nên đọc sau cùng, chắc họ cũng biết mấy bài
loại này dễ buồn ngủ.
Nhớ lại
không hiểu Bùi Tín hằn học điều gì mà ngòi bút của ông chuyên đánh các
thế lực phản động, các tàn dư Mỹ ngụy, không tiếc lời dè bỉu lên án
những người thuộc chế độ cũ, chưa kể lối viết một chiều ca ngợi chế
độ, lãnh đạo của đảng, tâng bốc CNXH và phe ta, mà hàng chục năm sau
khi đọc lại chắc ông cũng tự thấy xấu hổ.
Trước
mắt, ông được trả công bằng chức Phó tổng biên tập, sau kiêm thêm
tổng biên tập Nhân dân chủ nhật, chưa kể thăng quan tiến chức, xuất
ngoại liên tục và hồi Võ tướng còn quyền, ông được xem như người thân
trong gia đình. Mặc dầu kính trọng ông, tôi vẫn đồng cảm với mấy câu
thơ của Phạm Đức Nhi,
rồi suốt mười lăm năm
làm thằng Cuội
nói dối
có môn bài
được phi cơ tàu thủy xe hơi
đưa đi khắp nơi
bịp lừa thiên hạ
làm thằng Cuội
nói dối
có môn bài
được phi cơ tàu thủy xe hơi
đưa đi khắp nơi
bịp lừa thiên hạ
Nhưng
thời nào cũng vậy, những kẻ hăng nhất lại là những kẻ trở cờ nhanh
nhất khi thời cơ đến. Ngày ấy đã đến, trùng hợp với lúc chúng tôi xổ
lồng thì cũng là lúc Bùi Tín xa bay. Nhân được cử đi dự lễ kỷ niệm trăm
năm tờ báo của Đảng cộng sản Pháp, Bùi Tín đã để lại ‘con tim’ tại
thủ đô Paris, ly dị nhân thân với chế độ và quân đội, dần dà trở thành
nhà báo của phe mà ông không tiếc lời chửi rủa những thập niên trước
đó.
Tôi có đọc hai cuốn sách ông viết vào thời điểm sau này, Hoa Xuyên Tuyết và Mặt Thật,
như một lời tự thuật bộc lộ nội tình sân khấu của chế độ mà ông từng
hết lòng phục vụ. Sách và các bài viết bổ sung của ông có giá trị và
tiếng vang nhất định, chủ yếu vì ông là người của nội phủ thông qua lối
viết khả tín của cây bút tài hoa chuyên nghiệp khi biết quay về theo
tiếng gọi của lương tri.
Ấn tượng
nhất là sau ba mươi ba năm nhìn lại, con người Bùi Tín đã dũng cảm
nhìn nhận tự hổ thẹn từng ‘cao ngạo, vô duyên, vớ vẩn lạc điệu, lầm
lạc, ngộ nhận’ khi vào dinh Độc Lập, rồi cũng với giọng đanh thép ông ‘sẵn sàng nói to cho mọi người rõ: đất nước Việt nam sau ngày 30-4 không hề được giải phóng, không hề được thống nhất’, cùng kêu gọi các bạn bè đồng chí của mình ‘hãy cùng mọi người Việt nam đấu tranh cho một Tổ Quốc VN thật sự độc lập và tự do’(trích lời ông viết 28-4-08).
Viết
đến đây tôi lại nhớ Nguyễn Khải, hai con người, hai hướng đi, một đi
xa về cõi vĩnh hằng, một ở lại kinh đô ánh sáng, nhưng họ cùng nhìn về
một phía – phía của sự thật.
Chí
ít lúc cuối đời họ có sự cảnh tỉnh tư duy, dám chối bỏ mình, bỏ lại
đàng sau những huân chương, phần thưởng, những danh vị hão huyền, dám
lên án các điều ác, hoặc dường như ác của một thời họ hết lòng bênh vực
để cảnh báo cho các thế hệ kế tiếp đừng đi vào sai lầm quá khứ.
Đấy chính là cái ‘dũng’ của những con người hậu-Nguyễn Khải, hậu-Bùi
Tín nếu có thời bị coi là ‘hèn’ là khiếp nhược như nhiều người cùng
thời, thì chẳng phải là quá trễ khi họ tự khẳng định mình để thực sự
quay về với thiên chức của ngòi bút.
Đỗ Xuân Tê
(viết riêng cho Thư viện Sáng Tạo)
(viết riêng cho Thư viện Sáng Tạo)
Labels:
BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 0198
TIÊU DAO BẢO CỰ * CÚ NGOẠN MỤC
Chỉ
sau vài năm đổi mới, thị xã nhỏ bé này nhanh chóng phát triển về mọi
mặt. Dễ thấy nhất là nhà cửa mọc lên khắp nơi, chỉ cao hai, ba tầng
nhưng đủ kiểu đông tây kim cổ giao duyên theo sở thích của các nhà giàu
mới phất. Ðường sá cũng được mở rộng, chỗ này đào, chỗ kia lấp, đá,
cát, nhựa đường chất đống khắp nơi. Các cửa hàng bề thế, sang trọng,
đầy ắp hàng hóa bắt đầu xuất hiện. Ðặc biệt là các nhà hàng ăn nhậu,
các quán karaoke bắt chước phong cách những thành phố lớn. Ngay cả các
chùa và nhà thờ cũng thi đua xây dựng với quy mô lớn nhất, đẹp đẽ bề
thế nhất từ xưa chưa hề có.
Tất cả đều do sức dân của một vùng đất giàu tiềm năng từ trước bị trói buộc trong những chính sách khe khắt bây giờ được bung ra, gọi là giải phóng sức sản xuất. Trong sự hào nhoáng bên ngoài đó, người ta vẫn thấy có cái gì ngổn ngang, kệch cỡm, chụp giựt, bụi bặm của một sự phát triển vội vã, vô tổ chức ở trình độ văn hóa thấp. Biết sao được khi đó chỉ là sự tự phát trong một thời kỳ mà tiền bạc, óc thực dụng và sự khao khát hưởng thụ chi phối tất cả và những người lãnh đạo không đủ trình độ ngang tầm với nhiệm vụ. Hiện tượng đó không có gì mới mẻ vì nó xuất hiện ở khắp mọi nơi, kể cả những thành phố lớn đã được xây dựng lâu đời.
Tất cả đều do sức dân của một vùng đất giàu tiềm năng từ trước bị trói buộc trong những chính sách khe khắt bây giờ được bung ra, gọi là giải phóng sức sản xuất. Trong sự hào nhoáng bên ngoài đó, người ta vẫn thấy có cái gì ngổn ngang, kệch cỡm, chụp giựt, bụi bặm của một sự phát triển vội vã, vô tổ chức ở trình độ văn hóa thấp. Biết sao được khi đó chỉ là sự tự phát trong một thời kỳ mà tiền bạc, óc thực dụng và sự khao khát hưởng thụ chi phối tất cả và những người lãnh đạo không đủ trình độ ngang tầm với nhiệm vụ. Hiện tượng đó không có gì mới mẻ vì nó xuất hiện ở khắp mọi nơi, kể cả những thành phố lớn đã được xây dựng lâu đời.
Thị xã này từ xưa vốn là một
thị trấn nhỏ rất yên bình dù tập hợp dân tứ xứ. Mấy năm gần đây sự
hiền hòa đó không còn nữa. Những đợt sóng ngầm cuồn cuộn bên dưới lớp
phù du hào nhoáng bèo bọt. Trong những giờ phút rảnh rỗi hiếm hoi sau
cuộc kiếm sống đối với người bận rộn hay trong những lúc trà dư tửu
hậu, những buổi nhậu nhẹt của số vô công rồi nghề và của cả cán bộ,
đảng viên, người ta thường bàn tán đến những chuyện ly kỳ kinh khủng
vừa mới xảy ra, những chuyện chưa hề có trên vùng đất này.
Những
chuyện mà người dân hiền lành ai nghe cũng sởn gáy. Hai ngưới lái xe
ôm bị bọn lưu manh thuê chở đến chỗ vắng rồi đâm chết, cướp xe. Một
nông dân vay tiền ngân hàng trồng café, vì café mất giá trả nợ không
được treo cổ tự tử. Một ông ghen tương vợ ngoại tình đã dùng súng bắn
chết hai con rồi tự bắn vào đầu.
Hàng
xóm nghe tiếng kêu xin thảm thiết của đứa con lớn nhưng người bố điên
loạn không dừng tay. Một bà giàu có ban đêm bị người xông vào nhà
cướp hết tài sản còn đâm chết và băm nát cả mặt. Người ta nói bà này
có chồng là một cán bộ miền bắc đổi vào đã có vợ chính ngoài đó nhưng
không biết. Khi bà vợ chính vào, bà đã bàn với chồng cho bà kia một số
vàng lớn để nhường lại chồng. Bà kia đồng ý nhưng đêm hôm trước kia
bà kia ra bắc đã xảy ra vụ thảm sát. Ngươiø ta nghi vấn hoặc bà vợ
chính chưa thỏa mãn với số vàng được cho và thù hận nên đã thuê sát
thủ ra tay, hoăc người chồng cãi cọ với nạn nhân, trong lúc tức giận
đã giết vợ một cách tàn nhẫn và dàn cảnh bị cướp để khỏi bị nghi ngờ…
Ðó
là những chuyện người ta nói to công khai, nhưng cũng có những chuyện
người ta chỉ dám nói thầm, mắt nhìn trước nhìn sau. Người ta vẫn còn
sợ. Một nỗi sợ mơ hồ.
oOo
Người
đàn ông tỉnh dậy lúc gần sáng, dụi mắt nhìn quanh căn phòng mờ mờ rồi
bỗng bật cười khoái trá. Chưa bao giờ ông được tận hưởng khoái lạc
như đêm qua. Không phải chỉ là sự thỏa mãn nhục dục của hành động giao
hợp mà còn là sự thỏa mãn của mắt nhìn, của tai nghe và sự kiêu hãnh
mang tính người trên những hành động thú vật cuồng loạn.
Ông
lại nhìn quanh lần nữa. Những hình người nam nữ khỏa thân hoàn toàn
nằm dã dượi trong những tư thế cong queo hay dướn ưởn giữa những đống
quần áo vứt ngổn ngang cùng với các lon bia, vỏ thuốc lá bừa bãi khắp
nơi trên nền gạch men trắng mới tinh.
Ông
bỗng hắt xì hơi vì một mùi kinh khủng làm ông muốn lộn mửa. Ðó là mùi
tinh dịch đàn ông trộn lẫn với mùi bia, tàn thuốc, mồ hôi và son
phấn.
Ngực ông tức dội. Ông mhìn
xuống và thấy một cái đùi phụ nữ trần trụi đè trên ngực mình. Ông phải
gắng sức mới đẩy được cái đùi ra và ngồi lên. Những người khác vẫn
còn mê mệt sau cơn trác táng . Nhiều tiếng ngáy đủ âm điệu và cung bậc
tạo nên một âm điệu nặng nề trầm đục.
Ðó là hình ảnh, mùi vị và âm thanh sau một đêm truy hoan điên loạn không tiền khoáng hậu ở vùng đất này do chính ông chủ xướng.
Ông
không phải là đại ca xã hội đen hay một tay tư sản ăn chơi trác táng.
Ông là một cán bộ, hơn nữa lại là một trưởng phòng phụ trách một
ngành nghiêm túc của chính quyền thị xã.
Tại
sao mình không hưởng thụ, không làm được những chuyện bốc trời như
chúng nó khi chúng nó cũng chẳng hơn gì mình. Ðó là một suy nghĩ, một
ham muốn mãnh liệt thôi thúc ông từ mấy tháng qua. Bây giờ ông đã thực
hiện được, một cách xuất sắc và độc đáo mà chúng nó khi biết chắc phải
ghen tị.
Ông là đảng viên, tham
gia chiến đấu từ khi còn là một thiếu niên rồi thoát ly ra rừng. Ngày
giải phóng, như bao chiến sĩ khác, ông vào tiếp quản thành phố chỉ với
cây súng trên tay và một ba lô con cóc sau lưng. Ông trở thành cán bộ
của guồng máy chính quyền địa phương vừa được xây dựng. Nhưng sau
nhiều năm, cho đến hôm nay, lúc sắp đến tuổi về hưu, chức vụ cao nhất
của ông cũng chỉ là trưởng phòng. Có thể do ông thiếu khả năng, không
có trình độ, không theo bè cánh hay một lý do nào đó ông không hiểu mà
chỉ leo lên đến chức đó chứ không thể cao hơn.
Còn
chúng nó thế nào? Gã chủ tịch thị xã trước đây cũng là một cán bộ cắc
ké như ông nhưng là dân bắc chi viện. Anh ta còn trẻ, tỏ ra mẫn cán,
liêm khiết và lên rất nhanh. Khi nắm được chức chủ tịch, anh ta mới
bộc lộ bản chất của mình. Thời kỳ đổi mới với kinh tế thị trường và cơ
chế xin-cho giúp những chức vụ chính quyền chủ chốt này hái ra tiền vô
số. Bao nhiêu kẻ thậm thụt đến nhà anh ta đút lót để xin xỏ chuyện
này chuyện nọ.
Anh ta còn ngang
nhiên xà xẻo tiền của nhà nước bằng đủ mọi thủ thuật. Có lần anh ta
cầm mấy trăm triệu đồng tiền mặt ra thủ đô để lo lót xin đưa huyện lên
thành thị xã. Trước đây, thị trấn đã được dưa lên huyện. Anh ta nói
đó là nguyện vọng tha thiết của cán bộ, nhân dân địa phương. Thị xã
nghe oai hơn, được trung ương rót kinh phí xây dựng và đầu tư nhiều
hơn huyện. Thế là anh ta ẵm tiền ra ở thủ đô để thực hiện nhiệm vụ
quan trọng, nhân thể ăn chơi hửong thụ hàng tháng liền.
Có
tiền rồi tất phải có gái. Anh ta tìm ra một cách giải quyết thuận
tiện. Ði công tác xa bao giờ anh ta cũng mang theo cô kế toán kiêm thư
ký riêng. Việc chi xài vô nguyên tắc đã có cô làm thủ tục giấy tờ hợp
pháp. Ban ngày lo họp hành, công việc, đêm về nữ thư ký còn ngủ chung
phòng phục vụ hết mình. Anh ta một thời quả sướng như vua.
Sau
vài năm hưởng thụ, anh ta bị mất chức. Cũng tại anh ta quá kiêu căng
và không biết tự kiềm chế. Chán chê cô thư ký, anh ta bắt đầu lăng
nhăng với nhiều cô khác. Cô thư ký bị ruồng bỏ rất tức giận. Anh chồng
cô ta cũng là một cán bộ lâu nay bị mọc sừng rất căm hận nhưng cố nén.
Bây giờ cả hai vợ chồng cùng đồng lòng tố cáo.
Thế
là đến kỳ bầu cử nhiệm kỳ mới anh ta bị mất chức, bị điều tra nhưng
cuối cùng cũng chỉ xử lý nội bộ cho về vườn. Anh ta vẫn còn một tài sản
kha khá và một bà vợ già quê mùa xấu xí để sống nốt phần đời còn lại.
Nghĩ
đến gã chủ tịch thị xã thất thế, bây giờ ông cảm thấy hả hê đôi chút
vì trước đây ông đã từng bị chèn ép. Ông ngồi hẳn dậy lấy một điếu
thuốc châm hút và hồi tưởng lại những giờ phút hoan lạc đêm qua.
oOo
Sau
một vụ làm ăn kết quả tốt đẹp từ mấy công trình xây dựng do phòng ông
chủ trì, gã chủ thầu xây dựng mời ông đi du hí để trả ơn. Thuật ngữ
hiện đại trong chuyện này gọi là “lại quả”, một việc không thể thiếu
được trong sự móc ngoặc mua bán làm ăn giữa tư nhân và quan chức chính
quyền, đã trở thành phổ biến như một thứ luật lệ bất thành văn. Ðôi bên
đều có lợi. Quan chức có quyền, có khuôn dấu. Tư nhân có mối làm ăn
hái ra tiền. Những thứ gọi là pháp lý, thanh tra, kiểm tra, nghiệm thu
sẽ được thông qua nhanh chóng khi có thứ dầu nhớt đặc biệt làm cho
công việc chạy trơn tru. Chỉ có người dân là thiệt khi phải nai lưng
đóng thuế để rồi tiền bạc rơi vào tay bọn tham ô móc ngoặc.
Ông
trưởng phòng biết rõ tình hình đó nhưng cũng như những quan chức
khác, ông tặc lưỡi: “Tiền chùa mà. Ðứa nào không ăn là đồ ngu.”
Ông
đã từng được đi du hí “lại quả” nhiều lần rồi cũng thấy chán. Quanh
quẩn cũng chỉ ăn nhậu. Dù bây giờ các quán ăn của thị xã đã phát triển
với nhiều món đặc biệt như các loại thú rừng, rùa rắn, hải sản, thậm
chí cả dế, cào cào, bọ cạp … đều có. Ăn nhiều cũng không còn thấy ngon.
Món
karaoke ông không thích lắm vì ông không biết hát. Ông chỉ nhớ lõm
bõm mấy bài ca cách mạng và giọng ông khi hát nghe như ống bơ rỉ kêu.
Nhạc trẻ hiện đại và cả nhạc tình cổ điển ông cũng không thưởng thức
nổi. Ngồi lâu nghe bọn nó hò hét ông cũng chán. Gần đây có thêm món
“ôm” kèm với karaoke làm ông thích thú đôi chút. Ông cứ ngồi đực ra cho
các em vuốt ve chiều chuộng khi những người khác gào thét lạc giọng
trong tiếng nhạc ầm ĩ.
Món gái ông
cũng đã từng được nếm qua. Những cô gái nghèo khổ ở các vùng nông
thôn muốn thoát ra khỏi cảnh cơ cực, lên thành phố kiếm việc làm,
chẳng mấy chốc rơi vào tay các mụ tú bà và được đưa đi làm ăn khắp
nơi. Thị xã này cũng không thiếu các cô gái tứ xứ đến hành nghề bán
trôn nuôi miệng. Ông cũng hơi sờ sợ khi nghe tivi tuyên truyền mãi về
thứ bệnh “ếch” gì đó và ông đã phải nhờ đến anh chàng “OK” vô địch
như tivi quảng cáo để bảo đảm an toàn dù ông không quen và anh chàng
“OK” này làm ông rất cấn cái, đôi khi mất hứng.
Dù
sao ông cũng đã chơi trội hơn ông phó bí thư thị xã. Ông này cũng là
dân bắc chi viện, lúc mới vào cũng chỉ có chiếc ba lô con cóc. Ngoi
mãi ông lên được chức phó bí thư, có nhà cửa to đẹp đàng hoàng và xe
máy đời mới. Vì là lãnh đạo đảng, ông cũng có chút dè dặt nhất định
trong sinh hoạt, chỉ tham gia các vụ ăn nhậu chứ gái thì chưa dám. Khổ
nỗi vợ ông lại vừa già vừa xấu. Ông vẫn thèm thuồng của lạ và bí mật
hành động. Nhưng một lần sự việc vở lỡ làm mọi người đều kinh ngạc.
Hôm
đó ông được mời đi ăn nhậu ở một quán mới mở kín đáo, có nữ tiếp viên
hầu hạ tận tình. Mọi người đang vui vẻ ngà ngật bỗng một phụ nữ xuất
hiện chạy đến xô cô gái tiếp viên đang nâng cốc cho ông uống, túm lấy
ông và gào lên: “Ðồ bội bạc! Anh nói anh chỉ yêu một mình tôi sao vẫn
còn đi lăng nhăng với con khác. Trời ơi là trời!” Có người tưởng là vợ
ông nhưng hóa ra không phải. Ðó lại là vợ của một cán bộ khác. Bà này
cũng là cán bộ và cực kỳ xấu. Răng vổ mái hiên, má hóp sâu chằng kéo
nhau trên khuôn mặt xương xẩu. Mái tóc cháy nắng bù xù. Quần áo xộc
xệch. Bà gào thét lạc giọng trong cơn ghen tương.
Ông
tái mặt chết đứng và các cán bộ có mặt tại chỗ đều hết hồn. Ai đời
người đi bắt ghen ông phó bí thư không phải là vợ ông mà là vợ người
khác. Nghe nói chồng bà ta từ lâu bị bất lực.
“Mối
tình thầm kín” vỡ lở trong một tình huống bi hài làm thị ủy chấn
động. Thị ủy lập tức họp kiểm điểm và nghiêm cấm các cán bộ chứng kiến
vụ đó cũng như người của nhà hàng phải tuyệt đối giữ bí mật không được
nói ra. Ðể giữ thể diện cho đảng, ông chỉ bị xử lý nội bộ, đợi hết
nhiệm kỳ sẽ thôi giữ chức vụ lãnh đạo và chuyển công tác khác. Tuy
nhiên một vụ hấp dẫn như vậy làm sao dấu diếm được. Câu chuyện râm ran
khắp nơi và được thêm mắm muối vào càng lúc càng giật gân. Ông phó bí
thư từ đó đi đâu cũng cúi gầm đầu xuống không dám nhìn ai.
Nghĩ đến chuyện ông phó bí thư, ông trưởng phòng nhếch mép cười khinh bỉ: “Ðồ mạt rệp! Chơi thế mà cũng đòi chơi.”
Trong
buổi karaoke ôm sau khi ăn nhậu tối nay, lúc các em tiếp viên nồng
nhiệt đã làm ông động tình. Một ý nghĩ ngông cuồng đột khởi làm ông
phấn khích. Ông khều gã chủ thầu ra một góc trao đổi:
- Này, hôm nay ta phải có mục gì thật đặc biệt mới được.
Gã chủ thầu gãi tai:
- Anh muốn gì em xin chiều.
Ông buông thõng:
- Làm tình tập thể.
Gã trố mắt kinh ngạc như nghe lầm:
- Anh nói sao? Làm tình tập thể à?
Ông nhìn gần phả hơi rượu vào mặt gã:
- Bộ chú mày chưa nghe vụ này bao giờ sao. Làm được mới hết sẩy.
Gã chủ thầu vò đầu một lúc rồi nói chắc nịch:
- Ðược thôi. Anh đã muốn em sẽ làm. Vụ gái em không lo nhưng có vấn đề hơi khó là địa điểm. Thuê khách sạn sợ không ổn.
Ông nhíu mày suy nghĩ một chút rồi phẩy tay:
- Dễ ợt. Chú mày không nhớ căn nhà chú mày mới xây sao. Tiện nghi. Chưa có người ở. Tha hồ hoạt động.
Gã chủ thầu trợn mắt cười lớn:
- Em phục anh thật. Thế mà anh cũng nghĩ ra được. Ðể em tiến hành ngay,
Thế
là một giờ sau, mọi người đã có mặt ở địa điểm. Ðúng 12 giờ đêm. Tất
cả có tám người: ông trưởng phòng, hai cán bộ thuộc cấp của ông, gã
chủ thầu và bốn cô gái.
oOo
Cuộc
truy hoan này đối với ông trưởng phòng và cả nhóm tham gia đúng là
đặc biệt, hết sẩy. Lần đầu tiên ông hiểu ra ra rằng trong chuyện này
đôi khi nhìn người khác làm lại hứng thú và nhiều khoái cảm hơn chính
mình làm. Các gã đàn ông đều đã say nên không còn gìn giữ gì nữa, cứ để
cho con thú trong mình sổng chuồng lồng lộn. Các cô gái vì món tiền
thưởng hậu hỉ được hứa hẹn nên cũng rán chiều khách. Suốt mấy tiếng
đồng hồ giữa đêm khuya, trong căn nhà kín đáo, họ đã cào cấu, cắn xé,
quăng quật, rúc rỉa nhau trong tiếng rền rỉ và hơi thở phì phò cho đến
khi hết hơi sức lịm đi.
Ông
trưởng phòng tỉnh dậy đầu tiên, ngồi ngẫm nghĩ một lúc, thấy trời sắp
sáng nên đánh thức mọi người dậy. Cả bọn vội vàng mặc quần áo, thu dọn
các thứ bừa bãi để ra về. Mọi việc tưởng đã xong xuôi không ngờ lại
phát sinh
sự cố khi gã chủ thầu trả
tiền cho các cô gái. Gã chỉ trả một nửa số tiền đã hứa và ông trưởng
phòng cũng đồng ý vì cho như thế là rộng rãi lắm rồi. Ban đầu các cô
năn nỉ nhưng gã chủ thầu và ông trưởng phòng vẫn cương quyết từ chối.
Một cô tức giận chửi thề:
- Ð.m. Tụi bay chơi đả rồi muốn quỵt phải không. Không trả đủ không yên với bọn này đâu.
Ông trưởng phòng tát vào mặt cô:
- Chúng mày biết ông là ai không mà dám chửi. Khôn hồn thì lấy tiền rồi cút.
Các
cô gái đều phẫn uất, họ không chịu đựng được nữa nên đều gào lên chửi
bới và xông vào mấy gã đàn ông cào xé túi bụi. Bọn đàn ông bị tấn
công cũng nổi cơn điên đánh trả mấy cô không thương tiếc. Lại một cơn
cuồng loạn diễn ra giữa tám người nhưng không phải theo kiểu truy hoan
khoái lạc mấy giờ trước mà là một cuộc ẩu đả đầy căm hờn phẫn nộ với
tiếng chửi thề thô bỉ. Bọn đàn ông bị cào xước, rách quần áo nhưng mấy
cô gái yếu sức hơn bị đánh tả tơi, sưng mặt, chảy máu, nằm dúi dụi.
Một cô vô tình nằm đè lên chiếc máy điện thoại di động của gã chủ thầu
làm rơi ra bèn lén đút vào túi rồi lết vào toa lét gọi đồng bọn cấp
cứu. Mấy phút sau, hai gã ma cô bảo kê cho mấy cô gái phóng xe đến đập
cửa.
Môt cuộc đấu khẩu nữa diễn ra. Ông trưởng phòng lại dở bài hăm dọa:
- Chúng mày biết chúng ông là ai không mà dám lếu láo. Ông cho chúng mày đi cải tạo bâygiờ.
Một gã ma cô cười khinh bỉ:
-
Bọn mày là ai, là cán bộ cỡ nào tụi tao không cần biết. Chỉ biết bọn
mày là lũ chơi gái. Chơi gái phải trả tiền. Không trả tiền là chơi
quỵt. Bọn mày đáng cải tạo trước. Còn chơi quỵt tụi tao sẽ xử tụi mày
theo luật giang hồ. OK?
Gã nói thế
nhưng thấy bên kia có bốn người, bên gã chỉ có hai, sợ không chơi nổi
nên rỉ tai đồng bọn gọi điện báo công an. Trời đã sáng. Ông trưởng
phòng và mấy người cùng nhóm thấy bất lợi định rút lui nhưng gã ma cô
tìm cách ngăn cản. Không bao lâu, mấy công an phường gần đó được báo đã
ập tới. Dân ở chung quanh nghe ồn ào đổ xô ra xúm lại xem đông nghẹt.
oOo
Cũng
trong đêm đó, một bà cụ thao thức không ngủ được. Bà là mẹ liệt sĩ có
ba con hi sinh trong chiến đấu. Bao nhiêu năm qua, từ ngày hòa bình
lặp lại, bà sống hiu quạnh trong căn nhà tồi tàn ở ven thị xã. Thỉnh
thoảng nhân các ngày lễ, cán bộ đoàn nọ đoàn kia cũng đến thăm viếng,
an ủi, tặng quà. Mùa hè, các cháu thiếu nhi có đến giúp bà quét dọn
nhà cửa và trò chuyện với bà. Có chúng nó ríu rít, bà vui lây một vài
hôm nhưng khi chúng đi rồi bà lại rơi vào tịch mịch. Bà lại càng nhớ
các con mình.
Chồng mất sớm, bà ở
vậy nuôi con. Ba đứa con trưởng thành đều tham gia cách mạng và lần
lượt hi sinh ở tuổi mười tám, đôi mươi. Thời đó, người ta đã động viên
bà, vì độc lập tự do của tổ quốc, bà nên hi sinh tất cả. Và bà đã cống
hiến những gì quý giá nhất của mình, những đứa con yêu quý.
Những
đứa con mất đi không gì thay thế được. Bà chỉ còn lại mấy tấm ảnh và
những tấm huy chương trên bàn thờ mà mỗi ngày sáng tối bà vẫn thắp
nhang van vái. Bà cũng đã phấn khởi và hãnh diện trong ngày giải phóng
được ngồi trên khán đài danh dự trong những buổi mít tinh mừng chiến
thắng. Nhưng ngày qua ngày bà thấm thía nỗi buồn. Ðộc lập, tự do không
an ủi, không bù đắp được sự thiếu thốn, mất mát trong lòng bà. Nhất là
cuộc sống ngày một đổi khác. Những cán bộ trước hay lui tới nhà bà
thưa dần. Họ còn phải lo những công việc quan trọng hơn cho dân cho
nước. Ngay lời hứa sẽ cấp cho bà một ngôi nhà tình nghĩa họ cũng hẹn
rày hẹn mai.
Ðêm đó bà thao thức vì
mong ước bao lâu nay của bà được đền đáp. Hôm trước ông trưởng phòng
thưong binh xã hội đã đến tận nhà thăm bà, báo tin cho bà biết ngày
mai bà sẽ được cấp căn nhà tình nghĩa. Ông dặn bà cứ ở nhà, buổi sáng
sẽ có người đem xe đến đón đưa bà đi. Suốt đêm bà đã tưởng tượng căn
nhà như thế nào, bàn thờ các con được đặt ở đâu, mảnh đất nhỏ phía sau
bà sẽ trồng những loại rau gì …
Sáng
sớm bà không đợi người đến đón như đã được dặn. Bà muốn tự mình đi
đến đó để ngắm nghía trước ngôi nhà bao nhiêu năm chờ đợi. Qua lời nói
chuyện của ông trưởng phòng thương binh xã hội, bà biết ngôi nhà đó
nằm tại đâu. Ở thị xã này, có nơi nào bà không biết.
Bà
chống gậy lụm cụm đi từ lúc vừa mờ sáng. Gần một giờ sau bà đến nơi.
Bà ngạc nhiên khi thấy có đám đông tụ tập trước ngôi nhà. Bà thấy rõ
trước nhà có tấm băng rôn đỏ chói ghi hàng chữ “Lễ trao tặng nhà tình
nghĩa”.
Bà cố len vào xem. Bà kinh
ngạc khi thấy ông trưởng phòng thương binh xã hội và mấy người nữa đầu
tóc bù rối, quần áo xốc xếch đang bị công an dẫn đi cùng với mấy cô
gái lòe loẹt nhếch nhác.
Bà run run hỏi ông già đứng bên cạnh:
- Chuyện … gì vậy? Chuyện gì … vậy?
Ông già nhìn bà tặc lưỡi:
-
Ôi dào! Chuyện hi hữu lắm bà ơi. Trưởng phòng thương binh xã hội và
một lũ cán bộ dẫn gái vào nhà tình nghĩa chơi rồi quỵt tiền, đánh lộn
nên bị công an bắt. Thật hết nước nói. Quá loạn rồi …
Như
bị một cú đánh vào đầu, bà chới với đưa tay lên quờ quạng rồi ngã
xuống ngất đi, nằm còng queo trước ngôi nhà tình nghĩa chưa kịp nhận
còn sặc mùi truy hoan của một lũ giả hình lừa bịp không còn nhân tính.
Tiêu Dao Bảo Cự
1999 – 2001
1999 – 2001
Sáng Tạo
Thư viện Văn Học Nghệ Thuật
Sunday, November 27, 2011
VIỆT NAM & THẾ GIỚI
Việt Nam tuần qua
AFP PHOTO / JIM WATSON
Đây không chỉ là câu hỏi đặt ra đối
với người Việt Nam mà còn là một ẩn số trong bài toán ngoại giao – quân
sự quốc phòng của nhiều nước trong khu vực.Ngay sau khi chính phủ Hoa Kỳ, mà cụ thể là đích thân Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng Hillary Clinton công khai tuyên bố khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ là trọng tâm trong các chính sách của Hoa Kỳ thời gian tới, hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng đây là sách lược mới của Mỹ nhằm kiềm chế phần nào những tham vọng của Trung Quốc; và tất nhiên Việt Nam là một phần không thể thiếu trong bàn cờ chính trị này.
Trả lời phỏng vấn Quỳnh Chi của Đài Á Châu Tự Do, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, giảng dạy môn bang giao quốc tế tại Đại học George Mason, Hoa Kỳ, phân tích:
“Lần trước, sự hiện diện của Mỹ ở Á Châu là vì chiến tranh lạnh. Còn lần này sự hiện diện của Mỹ ở Á Châu không phải vì chiến tranh lạnh mà sự trổi dậy của một cường quốc. Nước Mỹ là một cường quốc gọi là statistical là một quốc gia chủ về nguyên trạng. Còn Trung Quốc là một quốc gia mới lên gọi là revisionist power, là một quốc gia chủ trương thay đổi tại vì họ không thỏa mãn, họ muốn thay đổi.
Trên trật tự thế giới một khi có một revisionist power nổi lên với statistical power thì hai bên phải tìm cách giải quyết với nhau, nếu không thì có thể xảy ra chiến tranh như trường hợp Nhật Bản và Đức Quốc trước đệ nhị thế chiến.”
Còn lần này sự hiện diện của Mỹ ở Á Châu không phải vì chiến tranh lạnh mà sự trổi dậy của một cường quốc.Quan điểm cho rằng sự can dự của Mỹ vào vùng Á Châu – Thái Bình Dương sẽ giúp mang lại sự ổn định cho khu vực cũng nhận được sự tán đồng của Giáo sư Carl Thayer.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng
Trả lời Việt Hà của RFA, vị Giáo sư thuộc Học việc Quốc phòng Australia, nhấn mạnh:
“Mỹ với sức mạnh hải quân của mình muốn được hoạt động tự do trên vùng biển quốc tế.
Có đến 1/3 phần diện tích biển trên thế giới là vùng đặc quyền kinh tế và Trung Quốc muốn nói là phần diện tích 200 hải lý từ bờ ra gọi là vùng đặc quyền kinh tế thì không cho phép hoạt động quân sự trừ khi có sự đồng ý của chúng tôi.
Mỹ thì nói là công ước quốc tế về luật biển không có ý nói như vậy. Cho nên khả năng mà lập luận của Trung Quốc có thể được chấp nhận là khó xảy ra, vì luật nói rằng các hoạt động vì mục đích hòa bình thì được phép và Mỹ nói là họ làm vì mục đích phòng vệ, họ thu thập thông tin tình báo mà thôi.
Các hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế không có liên quan gì đến vấn đề tranh chấp chủ quyền của các nước mà chỉ liên quan đến việc diễn giải công ước như thế nào. Tuy nhiên nếu lập trường của Mỹ được khẳng định thì có nghĩa là sự có mặt của Mỹ tại khu vực này sẽ giúp ổn định an ninh khu vực.”
Duy trì an ninh khu vực
Về phần mình, Việt Nam đóng vai trò như thế nào trong chính sách can dự vào Á Châu của Mỹ? Có lẽ câu trả lời rõ ràng nhất đã được chính Chủ tịch Việt Nam, ông Trương Tấn Sang đưa ra nhân cuộc gặp với đại diện Hoa Kỳ bên lề thượng đỉnh APEC 2012.Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, hợp tác an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không những mang lại lợi ích cho hai quốc gia, mà còn giúp duy trì an ninh và ổn định cho toàn khu vực.
Sự kiện Hoa Kỳ trực tiếp can dự vào Á Châu diễn ra trong bối cảnh cuộc tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông đang ngày càng căng thẳng, cũng được xem là một cơ hội cho Việt Nam trong việc tạo đối trọng với Trung Quốc, để bảo vệ chủ quyền lãnh hải.
Trả lời RFA, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng chỉ có sự hiện diện của hải quân Mỹ ở Thái Bình Dương, mới hy vọng kiềm chế được phần nào tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc.
“Chỉ có Mỹ là đối lực mà có thể gọi là thực tiễn nhất. Sự trở lại của Mỹ mở ra một cơ hội để Việt Nam có thể chơi trò gọi là balancing. Việt Nam không bao giờ muốn nói như thế. Nhưng trên thực tế khi mình ở sát một quốc gia mạnh quá và trong quá khứ nó đã có tham vọng bành trướng thì mình chỉ có hai chọn lựa: một là mình phải tìm cách thích ứng với nó và nhân nhượng; hai là mình nhân nhượng một cách tối thiểu và tìm một đối trọng. Và đối trọng duy nhất và thực tiễn chỉ là Mỹ thôi.”
Trong khi đó, theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long của Đại học Maine Hoa Kỳ thì ngoài việc gia tăng các quan hệ ngoại giao chiến lược, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển đảo, như một hình thức phản bác các luận điểm của Bắc Kinh trên các diễn đàn quốc tế trong việc áp đặt chủ quyền của họ trên Biển Đông:
Sự trở lại của Mỹ mở ra một cơ hội để Việt Nam có thể chơi trò gọi là balancing.“Người Việt Nam trong nước và ngoài nước cần phải đi các hội thảo hay các đại học ở Mỹ cũng như các nước khác để trình bày cho dân chúng ở những nơi đó biết sự thật như thế nào. Chính phủ Việt Nam không muốn người VN đi ra nước ngoài để nói về những vấn đề này vì sợ mất lòng Trung Quốc. Tôi nghĩ nếu như thế thì Trung Quốc sẽ tha hồ tuyên truyền còn người VN thì không có cơ hội để trao đổi với người nước ngoài.”
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng
Và thưa quý vị, tất nhiên Trung Quốc, với quan điểm lâu nay vẫn coi khu vực Á Châu – Thái Bình Dương là sân chơi riêng của mình, đã không thể che giấu được sự khó chịu trước chính sách can dự của Washington.
Từ phát ngôn viên Bộ ngoại giao cho đến báo chí Trung Quốc đã lập tức cho mở một chiến dịch truyền thông: một mặt chỉ trích Hoa Kỳ, một mặt lên tiếng răn đe các quốc gia láng giềng.
Thậm chí, chính phủ Trung Quốc còn thông báo sẽ thực hiện một cuộc tập trận ở vùng biển Tây Thái Bình Dương trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trước xu thế Hoa Kỳ và các nước trong khu vực tại các thượng đỉnh diễn ra ở Bali, Indonesia hồi tuần qua, người đứng đầu của chính phủ Trung Quốc, thủ tướng Ôn Gia Bảo, ngoài mặt cũng đã dịu bớt giọng điệu mới trước đó cho rằng bất kỳ sự can thiệp từ bên ngoài nào vào khu vực cũng dẫn đến bất ổn.
Lần này, các cấp lãnh đạo chính quyền Bắc Kinh cũng không có phát biểu trực tiếp nào về Việt Nam, một trong 5 quốc gia anh em vẫn còn theo chủ nghĩa cộng sản như Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-weekly-review-show-47-11262011142103.html
Bắc Kinh bất ngờ trước chính sách cứng rắn của Hoa Kỳ
Thanh Quang, phóng viên RFA
2011-11-26
Mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc tiếp tục căng thẳng đáng kể khi diễn tiến vừa qua tại các hội nghị thượng đỉnh vùng Á Châu-Thái Bình Dương chứng kiến quyết tâm mới của Mỹ kéo theo mối nghi ngại cùng phẫn nộ gia tăng của Bắc Kinh.
AFP Photo/ Saul Loeb
Quyết tâm có mặt tại châu Á
Trong chuyến công du Á Châu - Thái Bình Dương vừa rồi và gặp gỡ các lãnh tụ trong khu vực, kể cả các lãnh đạo Bắc Kinh, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama xem chừng như làm nổi bật “sắc thái và quyết tâm Thái Bình Dương” của Mỹ - chẳng hạn như tuyên bố rằng Hoa Kỳ vẫn là một cường quốc Thái Bình Dương và sẽ “trụ lại” ở đây.Lên tiếng mới đây với Đài Á Châu Tự Do, GS Nguyễn Mạnh Hùng dạy môn Bang giao Quốc tế tại Đại học George Mason, Virginia, Hoa Kỳ, cho biết:
“Trong vài tháng nay chúng ta đã thấy rõ là cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất bên ngoại giao, quốc phòng và tổng thống đều nói đến sự trở lại của Hoa Kỳ ở Á Châu và cam kết là sẽ có mặt ở đây như là một cường quốc Thái Bình Dương. Thì đó là một chuyển biến rất là quan trọng.”
Trong vài tháng nay chúng ta đã thấy rõ là cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất bên ngoại giao, quốc phòng và tổng thống đều nói đến sự trở lại của Hoa Kỳ ở Á Châu và cam kết là sẽ có mặt ở đây như là một cường quốc Thái Bình Dương.Nhưng theo nhà bình luận Frank J. Gaffney của tờ Washington Times, trong thời gian cầm quyền vừa qua, chính Tổng thống Obama đã làm cho những quốc khách của ông có cảm tưởng rằng nước Mỹ ngày càng suy yếu, đồng thời làm họ hoài nghi về thiện chí của Wasington “bám trụ” ở vùng Á Châu - Thái Bình Dương một cách có chiến lược. Theo bình luận gia Gaffney, những cảm nhận như vậy góp phần làm vấn đề trầm trọng thêm khi trong những năm gần đây tại vùng Thái Bình Dương, nơi xứ Trung Quốc cộng sản ngày càng trổi dậy mạnh mẽ về mặt kinh tế và bá quyền về quân sự trong khi Hoa Kỳ lại lâm vào tình trạng khó khăn kinh tế lẫn quân sự - tình hình khiến không những Trung Quốc mà Nga và cả Bắc Hàn lờn mặt.
GS Nguyễn Mạnh Hùng
Từ đó, bình luận gia Gaffney hình dung ra câu hỏi trong tâm trí của nhiều người dân tại vùng Thái Bình Dương đang không yên bình rằng liệu Tổng thống Obama lần này có thực sự thực hiện điều ông cam kết không? Hay chỉ là “nhãn hiệu: hy vọng và đổi thay” – hy vọng thì nhiều mà đổi thay thì từng trống vắng – khiến khó có thể bảo vệ được quyền lợi của Hoa Kỳ và đồng minh tại vùng Châu Á - Thái Bình Dương?
Tuy nhiên, theo chuyên gia Andrew Shearer, Giám đốc nghiên cứu thuộc Viện Lowy về Chính sách Quốc tế của Úc, thì Hoa Kỳ chưa bao giờ thật sự rời vùng Thái Bình Dương.
Chuyên gia Shearer nhắc lại rằng, gần đây, người ta nói nhiều đến việc Hoa Kỳ chuyển sự quan tâm từ Trung Đông sang Châu Á. Ông cho rằng những gì Tổng thống Hoa Kỳ phát biểu trong thời gian gần đây là cách cam kết mạnh mẽ về sự can dự sâu hơn vào vùng này.
Không lường trước
Theo tờ South
China Morning Post qua bài “Bắc Kinh kinh ngạc trước “hành động hung
hăng” của Mỹ, thì hiện TQ bất ngờ sững sờ vì những hành động mới đây
nhất của Washington, với phương cách cứng rắn lạ thường nhắm vào TQ,
từ việc hình thành Thương ước Đối tác Xuyên TBD không bao gồm TQ, thỏa
thuận với Úc cho trú đóng 2.500 thủy quân lục chiến ở căn cứ Darwin,
tái xác nhận liên minh với Philippines cho tới nỗ lực cải thiện ngoại
giao lịch sử với Miến Điện; và nhất là lãnh tụ Mỹ thẳng thừng nêu lên
vấn đề tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông tại Thượng đỉnh Đông Á ở
Bali, Indonesia hồi tuần rồi khiến Bắc Kinh giận dữ, bất an.
Chuyên
gia Shi Yinhong thuộc Đại học Renmin Trung Hoa cho biết cách đây dăm
ba tháng, không ai nghĩ là Mỹ sẽ hành động như hiện giờ. Những học giả
khác của Trung Quốc cũng nói là Hoa Lục hoàn toàn không ngờ trước
những phản ứng mới đây của Mỹ và các nước trong khu vực.
Theo
giới phân tích thì Bắc Kinh ngày càng xem Hoa Kỳ là mối đe dọa cho sự
ổn định của họ. GS Shen Jiru thuộc Viện Kinh tế-Chính trị Thế giới
tại Viện Hàn Lâm Khoa Học-Xã Hội Trung Quốc lưu ý rằng Hiệp định Đối
tác Xuyên Thái Bình Dương do Mỹ dẫn đầu, không bao gồm Trung Quốc,
thực ra vượt ra ngoài khuôn khổ kinh tế, mang tính chính trị, qua đó,
Washington tìm cách vận dụng những giá trị của Mỹ để liên kết vùng Á
Châu - Thái Bình Dương.
Bắc Kinh
cũng cáo giác Hoa Kỳ xen vào chuyện nội bộ của Trung Quốc khi
Washington xem “quyền lợi cốt lõi” Đài Loan của Trung Quốc như là đối
tác kinh tế, an ninh quan trọng của Mỹ; can thiệp vào nội tình chính
trị Hồng Kông…
Mỹ chứ không phải Trung Quốc
Nhật báo Investor’s Business ở Mỹ hồi trung tuần tháng này có bài tạm
dịch là “Á Châu tìm lại được thiện cảm dành cho Hoa Kỳ”, lưu ý ngay ở
phần mở đầu đại ý rằng trong khi công luận mất nhiều công sức mô tả
nỗi bất an giận dữ của Trung Quốc trước tuyên bố của Tổng thống Obama
về sự hiện diện của Hoa Kỳ tại vùng Thái Bình Dương, thì trên thực tế,
chính toàn vùng này mới bất an trước hành động bành trướng của Trung
Quốc – nên muốn Hoa Kỳ quay trở lại. Theo bài báo thì thực trạng cho
thấy rằng những quốc gia Châu Á muốn Mỹ -chứ không phải Trung Quốc
-đóng vai trò trọng tâm ở Thái Bình Dương. Đó là lý do tại sao sự hiện
diện của Tổng thống Obama tại Hawaii, Úc và Bali vừa rồi được khắp
vùng mở rộng vòng tay chào đón.
Bài
báo phân tích rằng việc Bắc Kinh phẫn nộ là vô lý vì đó là một chính
thể chuyên chế và hù dọa, xâm lấn những xứ láng giềng Á Châu, không
phải là mô hình kinh tế đáng tin tưởng, gây nên tình trạng mất quân
bình, không có thiện chí ‘sống chung hòa bình”, đó là chưa kể dùng vệ
tinh theo dõi các nước Á Châu và bị cáo giác về hành động tin tặc.
Bài
báo cũng lưu ý thêm rằng dù Trung Quốc có thích Hoa Kỳ hay không,
lịch sử cho thấy Washington từng đóng vai trò quan trọng ở Á Châu trong
60 năm nay.
Theo bài báo thì việc Hoa Kỳ quan tâm trở lại Á Châu
là nhằm đáp ứng nguyện vọng của những nước trong vùng vốn đã chứng
kiến nhiều hành động gây hấn đáng ngại của Hoa Lục khi thiếu bóng dáng
của Hoa Kỳ. Nên Á Châu mong muốn được trở lại với con đường phát
triển và hòa bình của Hoa Kỳ.
Theo bài báo thì việc Hoa Kỳ quan tâm trở lại Á Châu là nhằm đáp ứng nguyện vọng của những nước trong vùng vốn đã chứng kiến nhiều hành động gây hấn đáng ngại của Hoa Lục khi thiếu bóng dáng của Hoa Kỳ. Nên Á Châu mong muốn được trở lại với con đường phát triển và hòa bình của Hoa Kỳ.
Công an ngăn chận cuộc biểu tình tại Hà Nội sáng 27-11
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2011-11-26
Đã có ít nhất 16 người tập trung trước tượng đài Lý Thái Tổ để tham gia biểu tình, đã bị cách sát bắt lên xe chở đi.
Kami's Blog
Từ Hà Nội Giáo sư Ngô Đức Thọ kể lại với Đài Á Châu Tự Do:
“Sáng sớm hôm nay đã để mấy cái xe hốt người, xe buýt, xe công nông chuyên môn chở đất đá đỗ hẳn bên trên vỉa hè trên sân tượng đài Lý Thái Tổ. Tượng đài Lý Thái Tổ là nơi những người biểu tình hay đứng để giơ cờ, khẩu hiệu.
Như thế thì họ đã phá tan và không biết có thể tập hợp lại được hay không và theo tôi biết thì họ đã chuẩn bị vụ này rất mạnh chứ không phải chơi.Bên kia siêu thị Hàm Cá Mập cũng để 3 xe buýt. Cảnh sát rất đông và như vậy vào lúc 9 giờ 30 cuộc biểu tình bắt đầu mà đã bị hốt ngay lên xe cảnh sát rồi thì chặn bắt. Có 16-17 người bị bắt lên xe buýt chưa biết chở đi đâu, trong đó có Nguyễn Văn Phương, đã bị bắt lên xe rồi.
GS Ngô Đức Thọ
Blogger Người Buôn Gió, Lê Dũng, Lã Dũng kể cả nghệ sĩ Trí Hải là ông già hay kéo đàn violon trong các cuộc biểu tình cũng có mặt. Ông này suýt bị bắt nhưng may mà già cả lại bám bánh xe và có nhiều người dằn lại nên thoát. Tình hình là như vậy.
Như thế thì họ đã phá tan và không biết có thể tập hợp lại được hay không và theo tôi biết thì họ đã chuẩn bị vụ này rất mạnh chứ không phải chơi.”
Ngoài những người mà Giáo Sư Ngô Đức Thọ cho biết theo ghi nhận của chúng tôi thì còn nhiều người khác như: nhà báo Đoan Trang, nhà báo tự do Dương Thị Xuân, anh Trương Văn Dũng cũng đã bị bắt và cho tới bây giờ vẫn chưa biết công an đem họ đi đâu.
Chúng tôi sẽ theo dõi tiếp và tường trình những tin mới nhất có liên quan đến cuộc biểu tình này.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/hanoi-police-prevented-the-protest-
11262011225449.html
Việt Nam 'đòi chủ quyền' Hoàng Sa
Cập nhật: 06:17 GMT - thứ sáu, 25 tháng 11, 2011
Trong
động thái mà giới chuyên gia nhận định là có 'dịch chuyển
về chính sách', Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa tuyên bố rằng
chủ trương của Việt Nam là đàm phán để đòi hỏi chủ quyền
tại quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm
đoạt hoàn toàn từ năm 1974.
Ông Dũng
đã đề cập tới vấn đề chủ quyền Biển Đông khi trả lời chất
vấn của đại biểu trong kỳ họp thứ hai của Quốc hội Khóa 13
vào sáng thứ Sáu 25/11 tại Hà Nội.Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Được biết phần phát biểu về Biển Đông của ông Nguyễn Tấn Dũng tại Quốc hội kéo dài khoảng 10 phút.
Ông được truyền thông trong nước dẫn lời nói: "Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ và lịch sử pháp lý để khẳng định điều này".
Theo ông, việc đàm phán đòi hỏi chủ quyền là phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Công ước LHQ về Luật biển.
Ông thủ tướng cũng khẳng định Việt Nam đã "làm chủ thực sự" đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, "ít nhất từ thế kỷ 17 khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào".
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Chính phủ Trung Quốc tuyên bố tổ chức tour du lịch tới Hoàng Sa.
Áp lực bên trong nước
Hôm 22/11, chính quyền tỉnh Hải Nam đã cấp phép cho một công ty du lịch đưa khách đi tham qua từ Hải Nam tới quần đảo Hoàng Sa.Việt Nam cũng đã nhanh chóng lên tiếng phản đối kế hoạch này. Hôm thứ Năm 24/11, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị nói tại cuộc họp báo thường kỳ ở Hà Nội rằng việc tổ chức du lịch Hoàng Sa của Trung Quốc là 'vi phạm chủ quyền của Việt Nam'.
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Quốc hội dường như chỉ là khẳng định ở cấp cao hơn quan điểm của Việt Nam về chủ quyền tại Biển Đông, nhưng theo Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Việt Nam, nó mang tầm quan trọng đặc biệt, nhất là khi được truyền thông đại chúng Việt Nam tường thuật chi tiết.
Ông Thayer nhận xét: "Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm nay, một lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam công khai tuyên bố rành rẽ về vấn đề Hoàng Sa".
"Khác với Trường Sa, vốn được cho là khu vực tranh chấp, Hoàng Sa luôn được Trung Quốc coi là lãnh thổ của nước này một cách hiển nhiên và không bao giờ đặt Hoàng Sa vào trong nội dung các cuộc đàm phán."
Theo ông Thayer, do vậy vấn đề Hoàng Sa cũng không được lãnh đạo Việt Nam nhắc đến, và việc hai chữ Hoàng Sa được nhắc tới một cách chính thống những ngày này cho thấy một sự dịch chuyển trong chính sách.
Ông giáo sư, người vừa có mặt ở Hà Nội hồi đầu tháng, nói lý do có thể là vì "áp lực vô cùng lớn ở trong nước, từ phía dư luận và người dân đòi hỏi chính phủ phải có hành động cứng rắn về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Thái độ của Hoa Kỳ
Một lý do nữa, theo ông Carlyle Thayer, là phản ứng của Việt Nam trước những động thái mới đây của các cường quốc tại Biển Đông."Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm nay, một lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam công khai tuyên bố rành rẽ về vấn đề Hoàng Sa."
GS Carlyle Thayer
Tuy quân đội nước này giải thích đây là hoạt động 'thường kỳ và không nhắm vào bất cứ quốc gia nào', giới quan sát vẫn cho rằng nó được đưa ra để đối trọng lại chính sách của Hoa Kỳ trong khu vực.
Tuần trước, Mỹ thông báo sẽ điều thủy quân lục chiến tới Darwin, miền bắc Australia, với quân số có thể lên tới 2.500 trong tương lai.
Trái ngược với thái độ dè chừng xưa nay trước các diễn biến quốc tế, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 24/11 đưa ra bình luận hiếm hoi về kế hoạch điều quân của Mỹ, gọi đây là 'việc hợp tác' giữa các nước.
Ông Lương Thanh Nghị nói: "Chúng tôi mong rằng việc hợp tác giữa các quốc gia sẽ có đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào các nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới".
Chính sách biển ngày càng hung hăng và khả năng quân sự ngày càng tăng cường của Trung Quốc, theo các nhà bình luận, đan
ww.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/11/111124_vietnam_paracels_protest.shtml
CÁC GIỐNG CHIM
Những giống Chim lạ
Chim sẻ ( ảnh động ) |
Có rất nhiều loài chim ở khắp nơi trên thế giới , từ loài chim tí
hon được gọi là chim ruồi cho đến các loài chim đại bàng khổng lồ .
Mỗi loài mỗi vẻ , chúng sở hữu những màu sắc rất độc đáo, bắt mắt nhằm
mời gọi , quyến rũ những người bạn tình cùng chủng loại.
Một vài hình ảnh về các giống chim lạ đẹp mắt trên thế giới mời quý vị cùng chiêm ngưỡng
LÊ HỮU MỤC * NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
HỒ CHÍ MINH KHÔNG PHẢI LÀ TÁC GIẢ ‘’NGỤC TRUNG NHẬT KÝ’’
Giáo Sƣ LÊ HỮU MỤC
LAI LỊCH BẤT MINH CỦA NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Giáo Sƣ LÊ HỮU MỤC
LAI LỊCH BẤT MINH CỦA NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Đây là tất cả lịch sử của cuốn Ngục Trung Nhật Ký: Sau 1945 có một
ngƣời từ miền núi về Thủ Đô run run giao cho nhà cầm quyền một cuốn sổ
tay bìa xanh đã bạc màu, bảo đó có lẽ là tập thơ của một chiến sĩ cách
mạng nào đó. Cuốn sổ đƣợc trao lại cho Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt
Nam cất giữ tại Phòng Mặt Trận Thống Nhất Dân Tộc Phản Đế và Mặt Trận
Việt Minh.
Không ai biết danh tính ngƣời nông dân miền núi đó, cũng không ai
nói là lòng tốt của anh, hay ít nhất chuyến đi xa của anh từ miền núi về
đến đồng bằng, rồi từ đồng bằng về đến Thủ Đô có đƣợc đền bù hay
không, ngƣời ta cũng không biết đến tên tuổi của ngƣời đứng ra nhận
quyển sổ, ngày nhận quyển sổ đó, không ai thèm ghi ?
Nhƣ thế là thế nào ? Nhƣ thế có nghĩa là cuốn số đó nhất định
không mang tên Hồ chí Minh, nhất định không, bởi vì con ngƣời lúc nào
cũng chủ trƣơng ‘’không có, không thấy, không biết’’ ấy dại gì mà để tên
mình vào một cuốn sổ cho kẻ thù của mình biết.
Chữ viết nhất định cũng
không phải của Hồ chí Minh, vì nếu nghi ngờ là của Hồ chí Minh thì những
ông Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Vũ Anh đã nhận ra cũng nhƣ năm
1943, họ đã nhận ra chữ họ Hồ trong bài. Tân xuất ngục, học đăng sơn
(Mới ra tù, tập leo núi). Những đề tài ghi trong cuốn sổ chắc cũng không
có gì đặc biệt bởi vì từ 1945 đến 1959, không một chuyên viên nào trong
Viện Bảo Tàng Cách Mạng Việt Nam (Viện Louis Finot cũ) đã lƣu ý đến nó.
Trần dân Tiên, mà mãi đến nay ta mới biết chính là Hồ chí Minh, ngay từ
những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đã viết Những mẫu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, kể khá tỉ mỉ về thời gian Hồ chí Minh bị
giam trong các nhà tù ở Quảng Tây, cũng cho biết ở trong tù Hồ có làm
thơ, nhƣng Trần dân Tiên không nói đến tập thơ. Tố Hữu trong báo cáo
đọc trƣớc đại hội lần thứ hai của đảng, tháng 2.1951, hết lời ca ngợi văn
Hồ Chủ Tịch trong những quyển sách giáo dục tƣ tƣởng, trong những lời
hiệu triệu, những bức thƣ...nhƣng hoàn toàn không nói đến truyện, cũng
không nói đến thơ.
Không ai biết ‘’bác’’ có tập thơ. Mãi đến năm 1958, sau
khi đã dẹp xong vụ Nhân Văn-Giai Phẩm, và để đề phòng những vụ nổi
dậy khác có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, Trung Ƣơng Đảng Cộng Sản trong
đó có ủy viên chính thức Tố Hữu, anh hùng trong vụ dẹp Nhân Văn-Giai
Phẩm vừa qua, mới nhận thấy nhu cầu cấp bách là phải tăng cƣờng tập
trung quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay lãnh tụ.
Cho đến năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ mới viết đƣợc khoảng trên dƣới
30 bài văn vần, phần nhiều là những bài vè kháng chiến mà giá trị thi ca
khó đƣợc những nhà thơ nhà văn nhƣ Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao,
Nguyễn Mạnh Tƣờng chấp nhận.
Làm sao cho tổng số các bài thơ đƣợc nhiều hơn gấp đôi gấp ba ?
Làm sao cho các bài thơ thực sự có chất thơ xứng đáng là tập thơ của một
ngƣời cộng sản vĩ đại, hơn nửa thế kỷ đã không ngừng phấn đấu cho lý
tƣởng cộng sản chủ nghĩa, cho tổ quốc, cho loài ngƣời ? Thế là họ nghĩ
ngay đến cuốn sổ tay vô danh bìa màu xanh, họ kéo nó ra khỏi giấc ngủ
2
yên lành của nó trong Viện Bảo Tàng Cách Mạng, họ chuẩn bị mọi cách để
có thể giao cho nó thi hành một nhiệm vụ lịch sử độc đáo: Nhiệm vụ
khẳng định và đề cao thi tài của lãnh tụ Hồ chí Minh ‘’muôn vàn kính yêu’’.
Ta thử nhìn cuốn sổ tay gần hơn, tờ bìa màu xanh đã bạc màu, vào
năm 1945 mà nó đã bạc màu thì cuốn sổ này, nếu là của Hồ chí Minh, thì
nó phải ở trong tay ông đã lâu, ít nhất là phải mƣời, mƣời lăm năm về
trƣớc. Trong đầu cuốn sổ ghi bốn chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký dƣới bốn
chữ này là hai hàng số 29.8.1932/10.9.1933, không biết là tác giả hay ai
ghi, ở dƣới hai hàng số là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt vần trắc, kèm
theo một hình vẽ hai nắm tay bị xích đang giơ lên cao.
Phần bên trong có tất cả 47 trang ghi hơn 100 bài thơ. Những trang
cuối ghi một số mục nhỏ có tính chất thời sự. Tên tác giả hoàn toàn không
có.
Viện Văn Học đƣợc giao trách nhiệm tổ chức việc dịch tập thơ từ chữ
Hán ra tiếng Việt. Nhiều nhà thơ (Tố Hữu, Nam Trân...), nhiều nhà văn
(nhƣ Đặng Thái Mai, Hoài Thanh) đã tham gia phiên dịch hoặc hiệu đính
bản dịch xuôi và dịch thơ.
Ngƣời đóng góp nhiều nhất là nhà thơ Nam
Trân, tác giả Huế. đẹp và thơ (1939), lúc ông là ủy viên ban Chấp Hành
Hội Nhà Văn Việt Nam, về công tác tại Viện Văn Học phụ trách tiểu ban
dịch tập thơ chữ Hán Ngục Trung Nhật Ký ra tiếng Việt. Công tác dịch bắt
đầu từ năm 1959, đầu năm 1960 thì xong, tác phẩm mang tên Việt Nam
là Nhật Ký Trong Tù, tác giả là Hồ chí Minh, phần chữ Hán do Phạm phú
Tiết viết, nền vẽ của Họa Sĩ Nguyễn đỗ Cung, bìa do Họa Sĩ Phạm Hoàng
trình bày, in xong đúng vào dịp mừng Hồ chí Minh 70 tuổi Hoài Thanh cho
biết:
‘’Tập Ngục Trung Nhật Ký ngay từ lần đầu đã in trên 50 vạn bản mà
vẫn không đủ đáp ứng yêu cầu của ngƣời đọc...Chúng ta không những
muốn đọc mà còn muốn nghe ngâm, nghe nói. Từ ngày Ngục Trung Nhật
Ký ra đời, đã có hàng ngàn cuộc nói chuyện ở các đơn vi bộ đội, các cơ
quan, các hội nghi, các trƣờng học, các xí nghiệp, các hợp tác xã ở khắp
nơi. Hàng triệu ngƣời đã say sƣa nghe thơ Bác. Có ngƣời nghe đi nghe lại
đến mấy lần. Có nhiều ngƣời đã khóc vì thƣơng Bác muốn cứu mình mà
phải chịu nhiều khổ nạn...Đó là ở trong nƣớc. Ở ngoài nƣớc, tập thơ vừa
3
ra mắt bạn đọc là liền đƣợc dịch, đƣợc giới thiệu, đƣợc nhiệt liệt hoan
nghênh ở tất cả các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em nhƣ Liên Xô, Cu Ba,
Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Lỗ-ma-ni.v.v...hoặc cả ở các nƣớc tƣ bản
nhƣ Anh, Pháp, Ý, kể cả Mỹ. Tập thơ đã có tác dụng làm xáo trộn nhiều
tâm hồn, ngƣời ta yên lặng nghe hết những âm vang của tập thơ và nghe
những âm vang ấy cứ ngân dài mãi’’.
Từ ngày 19.5.1960 trở đi, tác giả tập thơ Ngục Trung Nhật Ký đã
đƣợc khẳng định dứt khoát là Hồ Chí Minh, và đây là một thành công vĩ
đại của Ban Tuyên Giáo. Ta hãy nghe Viện Văn Học giới thiệu tuyệt tác
này của họ: ‘’Đó là cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch gồm những bài thơ mà
Ngƣời đã viết trong cảnh lao tù từ mùa Thu 1942 đến mùa Thu 1943’’.
Viện Văn Học nhấn mạnh về hoàn cảnh sáng tác tập thơ: ‘’Tháng 8.1942,
vị lãnh tụ của chúng ta trên đƣờng công tác, đi từ Cao Bằng sang Trung
Quốc, đã bị bọn Tƣởng Giới Thạch bắt vừa lúc qua khỏi biên giới Việt-
Trung và bị giải lui tới hơn một năm trời qua mấy chục nhà lao Tỉnh Quảng
Tây.
Qua sự dàn dựng rất công phu và có tính sáng tạo rất cao của Viện
Văn Học, các bài thơ đƣợc diễn ra theo một trình tự thời gian vô cùng chặt
chẽ. Đầu tiên là ngày Hồ bị bắt ở phổ Túc Vinh, đƣợc xác định là ngày
29.8.42 (bài số 3), những ngày bị giải về nhà lao Tỉnh Tây gần biên giới
Việt Nam (các bài số 4-25) ngày 10.10.42 bị gửi trả về nhà lao Thiên Bảo
(bài số 26), từ đó bị giải đến nhà lao Long Tuyền (bài số 29), Điền Đông
(bài số 30), Quả Đức (số 37), Long An (số 40), đến nhà lao Đồng Chính là
ngày 2.11.42, rồi đi Nam Ninh, ở đó vào những ngày 11 ,12, 14 tháng 11
năm 42 (các bài số 67, 68, 69, 70), đến 18.11.42 bị giải đi Vũ Ninh (bài
số 76), Bào Hơng (bài 77), ngày 22.11.42 đến nhà lao Tân Dƣơng (bài
81), đến Lai Tân bằng xe lửa (bài 86), sau đó đến Liễu Châu vào ngày
9.12.42 sau khi đã bị bắt hơn 100 ngày (bài số 89).
Bài số 93 còn cho biết
rõ vào ngày 29.12.42, tác giả đã bị bắt bốn tháng, bị giam ở nhà lao Quế
Lâm 40 ngày, tức là mãi cho đến 24.3.43 mới lại trở về nhà giam Liễu
Châu lần thứ hai, ở đó ăn Tết Thanh Minh ngày 6.4.43 (bài l01) đến đầu
mùa Thu, tức ngày 8.8.43 (bài số 107, l08) cho đến ngày kỷ niệm một
năm bị bắt, tức là ngày 29.8.43 (bài số 1l0). Sau đó là những ngày cuối
cùng trong tù, kể từ ngày 30.8.43 đến ngày 10.9.43 (các bài số 111, 112,
11 3).
Trình tự thời gian này làm mốc cho 112 bài thơ rõ rệt có nội dung
liên hệ tới lao tù: Những cảnh sinh hoạt hằng ngày của tù nhân, tình
huống và tâm tƣ của họ.
Những cảnh những việc gặp trên các nẻo đờng
chuyển lao. Suy nghĩ và cảm xúc của nhà thơ trong những ngày bị giam
cầm v.v...nội dung tập thơ đã đƣợc Nguyễn hoành Khung chính thức phân
tích trong Tự Điển Văn Học. Ta có thể tóm lƣợc những ý chính nhƣ sau:
Trƣớc hết, tập thơ thể hiện một tấm lòng nhân ái sâu xa: Tác giả ít
nói đền những đau khổ ghê gớm của mình, chỉ nói đến những niềm vui,
nỗi khổ của những ngƣời chung quanh, quan tâm chu đáo đến đời sống cụ
thể của mọi ngƣời, của những tù nhân thuộc lớp dƣới đáy cặn bã của xã
hội Tƣởng Giới Thạch, phân biệt họ với bọn tù nhà giàu ngày ngày no rƣợu
thịt.
4
- Trên đƣờng chuyển lao, nhà thơ chia sẻ vui buồn với ngƣời nông
dân đang lao động trên đồng ruộng, ngƣời phu đƣờng dãi nắng dầm mƣa
vất vả, cô gái nghèo xay ngô xóm núi... Chính trên cơ sở lòng nhân ái sâu
rộng mang tính chất chiến đấu mạnh mẽ đó, nhà thơ đã viết nhiều bài thơ
châm biếm sắc sảo, đả kích thâm thúy chế độ nhà tù Tƣởng Giới Thạch,
hình ảnh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thối nát khi đó.
- Trong suốt chuỗi ngày bị tù, nỗi niềm thƣơng nhớ đất nƣớc và
khao khát tự do để trở về chiền đấu luôn luôn ám ảnh, day dứt nhà thơ
yêu nƣớc...Lời thơ càng ngày càng căm uất, nghẹn ngào, biểu lộ niềm
khát khao chiến đấu đến cháy ruột của ngƣời chiến sĩ mà lẽ sống đấu
tranh đã trở thành máu thịt.
- Một điềm nổi bật nữa trong Ngục Trung Nhật Ký là tinh thần chiến
thắng, chủ nghĩa lạc quan cách mạng, làm nên ánh sáng tràn ngập mỗi
trang thơ. Đó là tiếng cƣời hồn nhiên khỏe mạnh cất lên giữa cảnh ngộ vô
vàn khổ cực…Đó là hình ảnh lồng lộng, ung dung tự tại của nhà thơ...của
một ngƣời chiến thắng, thật sự làm chủ bản thân, là ngƣời tự do, một ông
tiên.
- Cuối cùng, Ngục Trung Nhật Ký còn mang ý nghĩa một tuyên ngôn
thi ca: ‘’Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong’’.
Ngục Trung Nhật Ký đã thể hiện sáng ngƣời chất thép cách mạng đó...Đó
là chất thép rất ngọt, thép mà thơ, thể hiện bản lĩnh tuyệt vời của ngƣời
chiến sĩ cộng sản vĩ đại mang tâm hồn một nhà thơ lớn...
Nguyễn hoành Khung kết luận: ‘’Việc xuất bản Ngục Trung Nhật Ký
trở thành một sự kiện quan trọng trong đời sống văn học của dân tộc. Từ
đó, tác phẩm đã gắn bó thân thiết với quần chúng nhân dân, có sức cổ vũ
mạnh mẽ mọi ngƣời vƣơn lên trong sự nghiệp cách mạng.
Sự kiện quan trọng ấy đƣợc đề cập trong tác phẩm của tất cả mọi
ngƣời cầm bút, từ những vị lãnh đạo đảng và nhà nƣớc nhƣ Lê Duẩn, Trƣờng
Chinh, Phạm văn Đồng, đến các nhà lý luận văn học, phê bình văn
học nhƣ Trần huy Liệu, Hoài Thanh, Vũ Khiêu, Hoàng xuân Nhi, Nguyễn
văn Hạnh, Trƣơng Chính, đến các nhà thơ nhà văn tên tuổi nhƣ Xuân
Diệu, Chế lan Viên, Lƣu trọng Lƣ, Hoàng trung Thông, Nguyễn đình Thi,
Nguyễn đăng Mạnh, tất cả nhiệt liệt hoan hô Ngục Trung Nhật Ký nhƣ là
bản cáo trạng đanh thép, phẫn nộ, sôi sục vạch mặt chỉ tên những kẻ thù
của loài ngƣời, Ngục Trung Nhật Ký còn mang nặng những suy nghĩ, ƣu tƣ
của một tâm hồn lớn, một tâm hồn cao thƣợng và nhân ái, Ngục Trung
Nhật Ký là tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phẩm chất
và đạo đức làm ngƣời cho các thế hệ ngày nay và sau này.
Đặng Thai Mai và Những Câu Hỏi ‘’LẨM CẨM’’
Trông không khí tán tụng tƣng bừng náo nhiệt ấy, chỉ có nhà văn
Đặng thai Mai là giữ đƣợc thái độ tƣơng đối ngay thẳng nhƣng vẫn không
tránh đƣợc đây đó vài từ ngữ thậm xƣng. Ông đã phát hiện đƣợc ‘’trong
trƣờng hợp cấu tạo nên Ngục Trung Nhật Ký một vài nét ly kỳ’’, một vài
tình tiết lạ lùng không ăn khớp với nhau và không hợp với luận lý của ông.
Câu chuyện bắt đầu có lẽ vào những năm 1958-1959. Nhà văn Đặng
thai Mai vừa đƣợc bầu làm Chủ Tịch Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật
Việt Nam. Tố Hữu vừa đập tan bọn Nhân Văn-Giai Phẩm và vừa trực tiếp
5
tổng kết một cuộc đấu tranh quan trọng trong văn nghệ bằng bản cáo
toàn diện Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn-Giai Phẩm
trên mặt trận văn nghệ. Cũng trong thời gian này, Đặng thai Mai dành hết
thì giờ vào việc hoàn tất cuốn Văn thơ Phan Bội Châu, thần tƣợng một thời
của ông. Nhà văn cũng vừa cho in xong cuốn Trên đƣờng học tập và
nghiên cứu tập I thì đƣợc Trung Ƣơng Đảng Ủy Nhiệm hiệu đính bản Việt
dịch Ngục Trung Nhật Ký do nhà thơ Nam Trân thực hiện.
Trƣớc kia, vào năm 1955, khi đọc cuốn Những mẫu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch do Trần dân Tiên viết, Đặng thai Mai rất chú ý
đến những đoạn nói về Hồ Chủ Tịch bị bắt giam, một lần ở Hồng Kông
năm 1932-1933 và lần ở Quảng Tây năm 1942-1943. Đọc đoạn văn của
Trần dân Tiên nói về những ngày tù của Hồ chí Minh ở Quảng Tây, nào là
cụ Hồ bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, đi mãi..đi mãi nhƣng
vẫn không biết đi đâu… Dầm mƣa dãi nắng, trèo núi qua truông...Gian
khổ nhƣ vậy nhƣng cụ vẫn vui vẻ, thỉnh thoảng cụ Hồ làm thơ v.v...và so
sánh những đề tài thơ đƣợc nói đến trong đoạn văn này với nội dung của
Ngục Trung Nhật Ký, Đặng thai Mai hoàn toàn tin tƣởng, đúng nhƣ Ban
Tuyên Giáo đã quyết định, Hồ chí Minh thực sự là tác giả của tập thơ Ngục
Trung Nhật Ký. Nhƣng trong thời gian hiệu đính bản dịch kéo dài hàng
mấy tháng, Đặng thai Mai có dịp đọc tập thơ một cách toàn bộ và kỹ
lƣỡng hơn, nhiều câu hỏi dồn dập từ bóng tối của tiềm thức hiện ra và có
tác dụng làm cho đầu óc ông bị xáo trộn. Sự xáo trộn càng ngày càng dữ
dội nhất là khi ông suy nghĩ về những con số thời gian đề ở ngoài bìa cuốn
sổ tay: 29.8.1932, 10.9.1933.
Tại sao những thời gian nói đến trong tập thơ đều có liên quan xa
gần đến những ngày bị giam cứu ở Quảng Tây năm 42-43 mà ngoài bìa lại
để là năm 32-33 ?
Đó là chính tác giả đã đề ra hay do một ngƣời khác ?
Ngƣời khác ấy là ai ? Tại sao dám đề những con số kỳ quặc ấy vào tác
phẩm của vị chủ tịch tối cao của quốc gia ? Ông đem câu chuyện hỏi Võ
nguyên Giáp đúng lúc ông Tƣớng này đang chuẩn bị cho ngƣời ta ghi lại
bài ký của ông nói về Hồ Chủ Tịch, ngƣời cha của quân đội cách mạng Việt
Nam. Võ nguyên Giáp kể: ‘’Chúng tôi lên đƣờng công tác Bác cũng ra
ngoài nƣớc. Một hôm, ở Ngân Sơn, nhận đƣợc thƣ hỏa tốc của anh Phạm
văn Đồng, mở ra, thấy tin...Bác...đã mất ở trong ngục...
Tôi còn nhớ, sau
mấy hôm bối rối ấy, tôi lại tiếp tục xuống châu Ngân Sơn...ít lâu sau,
chúng tôi bỗng nhận đƣợc một tờ báo ở Trung Quốc gởi về. Bìa tờ báo ấy
có mấy hàng chữ, đúng nét chữ Bác, viết: ‘’Chúc chƣ huynh ở nhà mạnh
khỏe và cố gắng công tác. Ớ bên này bình yên...’
’ Thế mà đã làm chúng
tôi phải mấy tháng trời ngao ngán, đau thƣơng, lo lắng...Sau một thời
gian, chúng tôi tiến về Châu Chợ Rã...sang Đông Viên, đến Nghĩa Tá, rồi
thẳng về chân làng Cóc phối hợp với các chiến sĩ của anh Chu văn
Tấn...Sau đó, tôi trở về đến Cao Bằng thì vừa Tết. Tết đây là mồng một
tháng giêng năm Quí Mùi, tức là ngày 5.2.1943.
Giả thiết Hồ chí Minh bị bắt ở Phố Túc Vinh, Trấn Thiên Bảo vào
ngày 29.8.1942 nhƣ các nhà nghiên cứu cộng sản đã qui định, thì trƣớc
ngày 5.2.1943 một hai tháng, tức cuối năm 1942, họ Hồ đã đƣợc Tƣớng
Trƣơng Phát Khuê tha về. Nhƣ vậy, theo Võ nguyên Giáp, Hồ chỉ bị bắt
giam ba hay bốn tháng chứ không hơn. Nếu nhƣ vậy, Đặng thai Mai suy
6
nghĩ, Bác Hồ không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký đƣợc, vì thời
gian trong tập thơ này kéo dài mãi đến tháng 8, tháng 9.1943 mới chấm
dứt.
Sự tình cờ lại đƣa Đặng thai Mai đến nói chuyện với Nguyễn lƣơng
Bằng, nhƣng Nguyễn hoàn toàn không biết gì đến việc họ Hồ bị bắt giam ở
Quảng Tây. Cụ chỉ nói về vụ Hồng Kông: ‘’Một buổi tối, ở Tân Trào, chúng
tôi đốt đuốc vào thăm Bác...Tôi nhắc lại chuyện hồi ở tù đọc báo thấy tin
Bác bị bắt, rồi tin Bác mất vì ho lao.v.v...Bác nói: Đúng đấy. Hồi ấy mình
cũng đọc cái tin ấy...Tôi hỏi sao nó không làm án và Bác lại thoát đƣợc,
Bác kể: Nhờ có Cứu Tế Đỏ hết lòng giúp đỡ lại có một Thầy Kiện Anh cãi
cho mình...Hồi ấy, vào khoảng năm 1933, bọn Tƣởng đang khủng bố dữ,
năm 1935, Bác dự Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ bảy, đầu năm 1941,
Bác về Pắc-pó…
Buổi tối hôm ấy, Bác và tôi nhắc lại những ngày ở Quảng
Châu. Ngoảnh đi ngoảnh lại chốc đã hai mƣơi năm. Bác nhớ rất kỹ...Bác
nhớ rất kỹ mà Bác lại không nhớ lại những ngày nằm tù ở Quảng Tây năm
42-43, thế thì những ngày tù ấy chả có gì đặc biệt khả dĩ có thể làm Bác
vui, cũng chẳng có thơ văn gì hay ho có thể làm Bác nhớ, nhƣ vậy, câu
chuyện Bác viết Ngục Trung Nhật Ký năm 42-43 là câu chuyện không có
rồi, đó chỉ là một câu chuyền do Ban Tuyên Giáo dựng đứng mà thôi.
Đặng thai Mai nhất định phải hỏi cho ra lẽ tại sao có những con số
32-33. Ông kể lại: ‘’Trong thời gian Viện Văn Học hiệu đính bản dịch tập
Ngục Trung Nhật Ký (1959-1960), chúng tôi đã đề cập lên Bác câu hỏi về
điểm này, qua Ban Tuyên Giáo. Và đã đƣợc trả lời: Hai con số trên đây là
sai, đúng ra là 1942-1943’’.
Khi đề đạt câu hỏi này lên Hồ chí Minh, Đặng
thai Mai không đứng trên tƣ thế cá nhân mà trên cƣơng vị Chủ Tịch Hội
Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, ủy viên Viện Văn Học đặc trách
hiệu đính bản dịch Ngục Trung Nhật Ký, nói với tác giả của Ngục Trung
Nhật Ký.
Nhƣ vậy, trên hai tƣ cách quan trọng này, Hồ chí Minh có nhiệm
vụ phải phúc đáp câu hỏi rõ ràng mang tính văn bản học chuyên môn của
Đặng thai Mai. Hồ chí Minh đã không trả lời, không giải thích, mặc dầu Hồ
thƣờng đƣợc giới thiệu nhƣ là một lãnh tụ rất thân dân, hay giải đáp
những thắc mắc dù nhỏ nhặt của nhân dân. Hồ chí Minh lại là tác giả của
cuốn sách mà nhà văn Đặng thai Mai đang hiệu đính bản dịch, nhƣ vậy,
không ai có quyền, có khả năng, có uy thế hơn Hồ chí Minh để cắt nghĩa
cho Đặng thai Mai hiểu cái lý do hay con ngƣời nào đã viết nên mấy con
số lạ lùng kia, và những con số ấy có thực sự muốn ghi soạn niên của tác
phẩm hay không ?
Đối với nhà văn bản học, biết soạn niên tác phẩm là điều tối quan
trọng, nhiều khi chỉ bằng vào soạn niên của một tác phẩm mà nhà văn
bản học có khả năng xác lập phụ quyền và cân nhắc giá trị của tác phẩm
ấy. Hồ chí Minh giữ yên lặng về điềm này là thực sự có điều khuất tất. Vì
thế để ve vuốt Đặng thai Mai, họ Hồ vội vàng phong cho Đặng làm Viện
Trƣởng Viện Văn Học, chức vụ bao trùm mọi sinh hoạt văn học trong
phạm vi cả nƣớc.
T. LAN VÀ CUỐN ‘’VỪA ĐI ĐUỜNG VỪA KỀ CHUYỆN’’
Theo lời giới thiệu của nhà cầm quyền Hà Nội, T.Lan là bút hiệu của
Hồ chí Minh, tác phẩm đƣợc viết vào năm 1950 trên đƣờng ra mặt trận
7
trong chiến dịch Biên Giới. Sách đƣợc nhà xuất bân Sự Thật xuất bản năm
1963, ghi lại một số mẩu chuyện và đời hoạt động của họ Hồ ở nƣớc ngoài
từ khoảng 1923 đến 1945. Theo Hà minh Đức, ‘’qua câu chuyện kể về đời
hoạt động của mình, ngƣời chiến sĩ cách mạng đã luôn phải đấu trí, đấu
sức nhiều lần với kẻ thù...Tác giả nói nhiều đến sức mạnh của nhân dân
và bộ mặt độc ác của các loại kẻ thù...Bên cạnh những chuyện kể của thời
kỳ qua, là đôi nét miêu tả về sinh hoạt nhân dân vùng rừng núi biên
giới..
.Vừa Đi Đƣờng Vừa Kể Chuyện khắc lại rất sâu, rất đậm hình ảnh của
Hồ Chủ Tịch, song song ở hai chặng đƣờng lịch sử ngƣời chiến sĩ cách
mạng kiên trì hoạt động vƣợt qua muôn ngàn khó khăn trong thời kỳ bí
mật và vị lãnh tụ của dân tộc đang lãnh đạo toàn dân kháng chiến...Tập
ký có ý nghĩa động viên, giáo dục mọi ngƣời đi về phía trƣớc và tin tƣởng
vào thắng lợi’’.
Trở lên là khái quát về nội dung Vừa Đi Đƣờng Vừa Kể
Chuyện do Hà minh Đức viết trong cuốn Tác phẩm văn của Chủ Tịch Hồ
chí Minh, nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1985, trang 142-150. Ta không
thấy Hà minh Đức nói gì về những ngày tù của Hồ chí Minh mà tác phẩm
có mô tả cặn kẽ, cũng không thấy nhà lý luận văn học chuyên về văn chƣơng
Hồ chí Minh đề cập tới những điểm khác nhau, thậm chí trái ngƣợc
nhau về thời gian hai lần tù của họ Hồ trong hai tác phẩm cùng viết về
một đề tài, và của cùng một tác giả là cuốn Những mẫu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ Tịch, trong đó Hồ chí Minh lấy bút hiệu là Trần dân
Tiên, và cuốn Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện, ký tên là T. Lan.
Trong Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hồ chí
Minh chỉ nói qua về việc ông bị giam ở Hồng Kông năm 31-33 nhƣng lại để
rất nhiều thì giờ nói về việc Luật Sƣ Lô-dơ-bai cãi hộ và che chở cho ông,
về việc bị bắt giam ở Quảng Tây năm 1942-1943, ông lại nói rất chi tiết
về cảnh sống ở trong tù (ngày mang gông, đêm cùm chân), về những
ngày chuyển lao gian nan (bị giải đi, tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang
vòng xích) nhƣng ông vẫn cảm thấy sung sƣớng vì đƣợc ngắm phong cảnh
đồi núi, đồng quê bị giam. Ông ở chung với những ngƣời mắc bệnh giang
mai, những ngƣời nghiện thuốc phiện, phải ngủ ở cầu xí, bị ghẻ lở, có
ngƣời tù chết ngay bên cạnh, bị nạn muỗi, rệp, rận, lại ăn thiếu nên gầy
nhƣ que củi.
Đi suốt 80 ngày, bị giam trải qua 30 nhà tù, Hồ chí Minh mới
đến Quế Lâm, rồi đƣợc hƣởng chế độ chính trị trong nhà giam Liễu Châu.
So những chi tiết này với Ngục Trung Nhật Ký, ta thấy giữa hai tác phẩm
có một sự qui chiếu đều đặn gần nhƣ tiền định, và từ đó, nếu ta đã chấp
nhận Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch thì ta cũng
phải công nhận tác giả Ngục Trung Nhật Ký là Hồ chí Minh.
Nhƣng trong Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện, T. Lan mà ta biết là Hồ
chí Minh lại viết khác.
Trong tác phẩm này, Hồ chí Minh đã nói đầy đủ về
nhà tù Victoria ở Hồng Kông và chỉ nói sơ qua về nhà tù ở Quảng Tây. Ông
nói rõ lần ông bị bắt ở Hồng Kông, đó là ngày 6.6. 1931, bị bắt tại nhà số
186 Phố Tam Lung (Cửu Long). Sau vài hôm, ông đƣợc Lô-dơ-bai sốt sắng
cãi hộ. Từ tháng 6 đến tháng 9, tòa án họp 9 phiên, đến ngày
24.1.1933,ông đƣợc tha bổng. Rồi ông tả ngôi nhà ông bị giam, ‘’nhà
khám lớn Victoria to rộng, với những tƣờng cao 3 thƣớc tây bề ngang 1
thƣớc, bề dọc không đầy 2 thƣớc, bề rộng chỉ vừa một ngƣời nằm xiêu
xiêu. Cao chót vót trên đầu tƣờng chỉ có một cái cửa sổ nhỏ hình nữa mặt
8
trăng lờ mờ, bị song sắt và lƣới sắt bƣng bít. Ban ngày, từ cửa sổ ấy ánh
sáng lọt vào xà lim một cách rụt rè, bỡ ngỡ. Cửa xà lim bằng ván gỗ dày
độ một gang tay và bọc sắt...ngẩng đầu lên chỉ trông thấy trời rộng bằng
một chiếc khăn tay...Cùng giam với Bác đều là những ngƣời bị bắt về
chính trị...’’ T. Lan cũng nói chuyện anh Lý mà ở trong Những mẫu
chuyện..., Trần dân Tiên đã mô tả nhƣ là một tƣớng cƣớp đầy lòng nghĩa
hiệp.
Anh Lý bị án 7 năm tù, còn 5 tháng nữa thì hết hạn, nhƣng vì lòng
nghĩa hiệp, anh giết chết một tên cai ngƣời Anh rất hung ác, từ đó bọn
gác ngục không dám lại gần Lý, còn anh em tù thì đều gọi Lý là anh hùng.
Ngoài ra, còn có những anh tù con nhà giàu nhƣ Trinh Quốc Dậu, chỉ ăn
đƣợc cơm ngƣời nhà mang vào chứ không chiu ăn cơm tù v.v...
Những chi tiết chân thực đƣợc miêu tả trong Vừa đi đƣờng...trùng
hợp với nhiều ý thơ trong Ngục Trung Nhật Ký. Đó là về lần bị tù năm
1932-1933 Ở Hồng Kông.
Về lần bị tù thứ hai ở Quảng Tây, đã đƣợc Trần
dân Tiên kể lại rất dài dòng và đã nêu ra nhiều chi tiết rất phù hợp với
nhiều đề tài trong Ngục Trung Nhật Ký, T. Lan lại chỉ nói tới một cách rất
ngắn gọn: ‘’Tháng 8 năm ấy, Bác có việc sang Trung Quốc, thì bị bọn
Quốc Dân Đảng bắt. Sau khi bị chúng trói giải đi suốt 18 ngày, từ trại
giam này đến trại giam khác, chúng đƣa Bác về giam ở Liễu Châu...Đây
không phải là một trại giam chính cống mà chỉ là một cấm bế thất một
phòng giam nhỏ hẹp ngay bên cạnh Đội Cảnh Vệ của Tƣớng Trƣơng Phát
Khuê. Chỉ một mình bác bị nhốt ở đó’’. Đây là T. Lan, tức chính bản thân
Hồ chí Minh kể lại.
Cuốn Vừa đi đƣờng...đƣợc xuất bản năm 1963, nhƣ thế nó ra đời
sau cuốn Những mẫu chuyện đúng 8 năm. Nó đƣợc viết bởi cùng một tác
giả, nhƣ vậy cuốn đến sau phải có những thông báo xác thực hơn cuốn
trƣớc, và nếu có những thông báo tƣơng phản thì những thông báo trong
cuốn sau phải đƣợc coi là những lời cải chính đối với cuốn ra trƣớc. Cũng
vì nghĩ nhƣ vậy, nhƣ tất cả các nhà văn bản học khác, mà Đặng thai Mai
đã coi cuốn Vừa đi đƣờng... nhƣ là lời Hồ chí Minh chính thức giải đáp cho
ông: Hai con số trên đây là đúng, ghi 1942- 1943 là sai.
Trong vừa đi đƣờng...Hồ chí Minh cho ngƣời đọc biết hai điều rất
quan trọng: Sau khi bị bắt, Hồ chỉ bị giải đi tất cả trong 18 ngày là đến
ngay nhà lao Liễu Châu. Nhƣ vậy, những chuyện nói ‘’Bác Hồ yêu quí’’ bị
giải đi 80 ngày, dầm mƣa dãi nắng, nằm gai nếm mật là những chuyện
bịa đặt. Cũng không có chuyện Hồ chí Minh đã trải qua gần 30 nhà tù xã
và huyện nhƣ đã tả trong Những mẫu chuyện...vì những chi tiết ghi trong
cuốn sách vội vã này đã đƣợc cuốn Vừa đi đƣờng...cải chính. Những sự
kiện này về sau vẫn đƣợc truyền tụng trong giới ít đọc sách, tỉ dụ trong
giới của ông Vũ Anh, và vẫn đƣợc nhiều nhà trí thức lƣời biếng tin theo.
Cuốn Vừa đi đƣờng...còn cung cấp cho ta một tin tức quan trọng khác, đó
là xác định Hồ chí Minh chỉ bị giam một mình trong phòng, tức là ngoài
ông ra, không có một ngƣời nào nữa trong xà lim của ông. Nhƣ vậy không
có chuyện khuyên ngƣời bạn tù gắng ăn cơm cho no bụng (bài số 9),
chuyện bạn tù hòa nhạc với nhau (bài 12), chuyện bạn tù thổi sáo (bài
14), chuyện hai ngƣời học đánh cờ (bài 17, 18, 19), chuyện vợ ngƣời bạn
tù đền thăm chồng (bài 32), chuyện cái mền bồi bằng giấy của ngƣời bạn
9
tù (bài 43), chuyện ở chung với những ngƣời tù bị bắt vì đánh bạc (bài 24)
và cái chết của anh ta (bài 57) và của một ngƣời khác nữa (bài 58).v.v...
Vẫn theo Hồ chí Minh, thời gian chuyển lao từ Thiên Bảo đến Liễu
Châu là 18 ngày, nếu giữa hai nhà tù nói trên có tất cả 18 nhà lao cấp
huyện thì đổ đồng, Hồ chí Minh chỉ bị giam một ngày hay một đêm thì
đúng hơn trong mỗi nhà lao.
Và nhƣ thế, họ Hồ không thể đủ thời giờ để
làm thơ ở nhà lao Tĩnh Tây 22 bài thơ, ở nhà lao Thiên Bảo 3 bài, ở Điền
Đông 7 bài, Quả Đức 3 bài, Đồng Chính 7 bài, nhà lao Nam Ninh 27
bài.v.v...Và ngƣợc lại tại nhà lao Liễu Châu là nơi bị giam lâu nhất, Hồ lại
chỉ làm đƣợc 16 bài. Nhận xét này đã làm cho Đặng Thai Mai gần nhƣ phải
lớn tiếng la lên vì bất bình. ông viết: ‘’...thời gian Bác bị đƣa từ Liễu Châu
đi Quế Lâm...kéo dài có tới khoảng 10 tháng, nhƣng cuốn nhật ký chỉ ghi
19, 20 bài thơ so với thời gian 4 tháng trƣớc, có tới gần 100 bài rõ ràng là
quá ít...
Từ đầu tháng 2 năm 1943, chỉ mấy ngày trƣớc Tết Nguyên Đán
năm Quí Mùi, hơn 30 vạn quân Đức Quốc Xã đầu hàng ở Xtalingrat. Thế
mà sự việc rung trời chuyển đất này không thấy đƣợc phản ánh trong tập
thơ...Chúng ta có thể lấy làm lạ vì sao hồi này Bác viết ít thơ nhƣ vậy, và
ít nói đến thời sự nhƣ vậy ? Vì sao ? Vì Bác sức yếu nên không muốn viết
?...Tất cả mấy giả thiết trên đây, theo ý tôi, đều có ít nhiều cơ sở’’.
Để đi tìm cơ sở vững chắc cho những giả thiết này, Đặng thai Mai trở
về xem lại ‘’bảng mục lục ở cuối Ngục Trung Nhật Ký. Rồi ông ngồi giở tập
thơ từ trang này qua trang kia. Ông bắt gặp một vài con số (lại con số)
hoặc một vài chi tiết chính xác hơn, về thời điểm lồng vào trong lòng bài
thơ hoặc ghi vào bên cạnh đầu đề’’. Theo ông, những chú thích về ngày
tháng ghi bên cạnh đầu đề trở nên rất khó hiểu đối với ngƣời đọc nhƣ ông.
‘’Thí dụ bài Đồng Chính, bên đầu đề còn ghi rất rõ viết ngày 2.11, bài
Cảnh Báo, ghi ngày 12.11, bài Giải Vãng Vũ Ninh, ngày 18.11 và bài Đáo
Liễu Châu ghi ngày 9.12.1942...
Một ngƣời đọc có óc tò mò có thể sẽ nêu
lên câu hỏi sau đây: Vì sao trong bài Đồng Chính, Giải Vãng Vũ Ninh và
bài Đáo Liễu Châu, ngày tháng lại đƣợc ghi rõ nhƣ vậy ? Sao bao nhiêu bài
khác lại không đƣợc sự chú ý đặc biệt ấy ? Hay là ba ngày ấy...còn có một
nội dung gì khác, về giá trị tình cảm, về tình hình chính trị ? Câu hỏi vừa
đặt ra có vẻ ‘’lẩm cẩm’’ vì có phần chắc là sẽ không bao giờ tìm đƣợc một
câu trả lời chắc chắn, nhƣng...thiết tƣởng câu hỏi ‘’lẩm cẩm’’ ấy vẫn có lý
do của nó’’.
Qua những câu hỏi dồn dập trên, Đặng thai Mai đã bắt đầu mở hé
cho ta thấy những hoài nghi đen tối đang đua nhau nổi dậy trong đầu óc
của ông. Hay là những bài thơ ấy có nội dung khác nhau, khác nhau về
tình cảm, xung đột nhau về chính trị ? Tại sao những bài có ghi ngày
tháng thì lại đổi chiếu đƣợc với những địa danh nhất định, và những địa
danh này đều thuộc vào Tỉnh Quảng Tây, còn những bài không ghi ngày
tháng lại không qui chiếu vào đƣợc một địa danh nào và thƣờng chỉ nêu ra
một nội dung tổng quát, có khi không liên hệ đến nhà tù ? Những thắc
mắc này đã dẫn Đặng thai Mai đến sự phân biệt trong Ngục Trung Nhật Ký
ít nhất hai nội dung tình cảm khác nhau, hai ý thức chính trị trái ngƣợc
nhau nhƣ bóng tối và ánh sáng, hai phong cách có thể phân tích một cách
dễ dàng, phong cách khái quát của thơ Đƣờng, và phong cách đới tục (chữ
của Nguyễn Trãi) của ngƣời bình dân Việt Nam.
10
Phong cách khái quát của thơ Đƣờng sử dụng một hệ từ vựng kín,
nghĩa là chỉ dùng một số chữ rất hạn chế có nghĩa khái quát, chỉ nắm lấy
những cái có tính chất chung cho một loạt sự vật, một loạt hiện tƣợng, tức
là không chú trọng đến cái cá biệt, không chú trọng đến việc tô đậm màu
sắc, và cuối cùng, chủ trƣơng tính triết học, coi trọng hoạt động của tƣ
duy hơn của tri giác cảm quan.
Tác giả Ngục Trung Nhật Ký đã thành công trong loại phong cách
này khi ông ghi nhận những ánh sao lấp lánh trên rặng núi vào Thu (bài
38), hoặc luồng hơi ấm của mặt trời ban mai tỏa xuống cõi ngƣời giá lạnh
(bài 73), bóng thấp thoáng của mấy chú chim chiều về tổ (bài 28) hay của
một áng mây trôi nhẹ giữa tầng không (bài 28), ánh hồng của một bếp la
làng quê vào giờ chập choạng (bài 28), cánh đồng ruộng giữa những ngày
mạ xanh hay vào mùa lúa chín (bài 35), một luồng gió lạnh mang theo
chút thoáng thơm của cỏ nội, hoa rừng (bài 113), canh gà khắc khoải (bài
56), tiếng dế nhặt khoan (bài l07), hai chuông Ký chùa xa chen lẫn cùng
tiếng sáo của một chú chăn trâu (bài 60)...
Trong những bài này, tác giả tự
xƣng là chinh nhân (bài 38,39) hoặc tả một sơn thôn thiếu nữ đang xay
bắp (bài 28), hoặc tự coi mình nhƣ một khách lãng du, ‘’Hồi ta đi đến lúa
còn xanh, Vụ gặt mùa nay nữa đã thành, Khắp chốn nhà nông cƣời hớn
hở, Ruộng đồng bát ngát tiếng ca thanh’’ (bài số 35), đến đó rồi đi đó một
cách tự do, không có gì bó buộc. Bài Tảo Giải (số 38,39) có lẽ là bài thơ
hay nhất trong Ngục Trung Nhật Ký, tôi xin chép ra đây bản tôi dịch ra
tiếng Việt để cùng nhau thƣởng thức phong cách thơ Đƣờng của tác giả:
Đêm vẫn đêm...Gà gáy tiếng đầu.
Chòm sao đƣa nguyệt đến rừng thu.
Khách đi xa giữa đƣờng xa vắng,
Ngẩng mặt, từng cơn lạnh gió lùa.
Phƣơng đông, màu trắng đã thành hồng.
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không.
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Ngƣời đi, thi hứng boóng thêm nồng.
Bài Hoàng Hôn (số 60):
Gió nhƣ kiếm sắc mài mòn đá
Rét tựa mũi giùi chọc thủng cây
Chuông đổ chùa xa xui khách bƣớc.
Mục đồng thổi sáo dẫn trâu về.
Hoặc bài Ức Hữu (số 63):
Xƣa bác đƣa tôi đến bên sông,
Hỏi ngày trở lại, trỏ đòng-đòng
Giờ đây ruộng mới đà cày ải.
Đất khách, thân tôi mắc cũi lồng.
Chép thêm một bài nữa là bài Mộ (số 28) mà ai cũng thích:
Chim mệt về rừng tìm chỗ đậu...
Mây trôi lờ lững giữa trời không...
Xóm rừng, cô gái đang xay bắp.
Xay bắp vừa xong, bếp đã hồng.
Những bài này đƣợc viết bằng những nét phác họa, với những từ
ngữ giản đơn, màu sắc gần nhƣ không có, thế mà ngƣời đọc có cảm tƣởng
11
nhƣ mình đang ở không gian này bƣớc vào một không gian khác, đang ở
thời gian này bƣớc sang thời gian kia, và cho bài thơ là hay. Ngƣợc lại, và
song song với những bài thơ ấy, là những bài Hạn Chế (bài l03), nói về
việc đau bụng mà không đƣợc đi cầu; bài Bào Hƣơng Cáu Nhục (bài 77),
nói về việc ăn thịt chó ở Bào Hƣơng, rồi bài nói về một cái răng rụng (bài
46), về việc trƣợt chân ngã (bài 52), thậm chí bài Sơ Đáo Thiên Đáo Ngục
(bài 31), còn nói đến cả việc ngồi trên hố xí nữa.
Đã đành đề tài nào cũng
là đề tài cho thi ca, nhƣng cách lựa chọn đề tài ở đây đã chứng tỏ ít nhất
có hai nhân cách, hai con ngƣời, đối chọi nhau thực sự. Đặng thai Mai
chƣa nói đó là những ai, nhƣng ông đã thấy thấp thoáng đằng sau khung
cửa Ngục Trung Nhật Ký một số ngƣời mà có lẽ ông quen mặt. Để nhận rõ
sự tƣơng phản giữa hai phong cách thơ nói trên, ta thử đọc bài Hạn Chế
(số l03), bản dịch của Viện Văn Học:
Đau khổ chi bằng mất tự do!
Đến buồn đi ra cũng không cho.
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù!
Bài Sơ Đáo Thiên Bảo Nngục (số 3 1), bản dịch của Lê Hữu Mục:
Năm mƣơi ba dặm, một ngày dài
Áo mũ dầm mƣa. giày rạc rài
Chỗ ngủ yên, thâu đêm chẳng có.
Ngồi trên hố xí đợi ngày mai.
Khoan giải thích về ý nghĩa nội dung và giá trị đấu tranh của bài thơ,
bởi vì những cảnh thất bại điêu tàn (câu 2), những thái độ tiêu cực thoát
ra từ chữ đợi (hán văn: đãi) không gợi ra đƣợc cái ý chí tiến hành cuộc
đấu tranh cho tự do của bản thân, nhƣ Đặng thai Mai có lần đã gắng
gƣợng bào chữa.
Cả bài thơ và những bài thơ tƣơng tự đều đới tục, hay
nói nhƣ Nhữ Thành ‘’cái nôm na của cuộc sống sẽ làm cho bài thơ nôm na
theo’’, trong đó ngƣời đọc thơ không thấy cái quan hệ tạo nên sắc thái
nghệ thuật ở đâu cả, mà chỉ thấy rặt các yếu tố tản mạn, đƣợc nêu ra một
cách lỏng lẽo bằng những biện pháp nôm na nhƣ liệt kê hay lý luận, so
sánh, miêu tả. Về phƣơng diện này, Phƣơng Lựu đã nói đúng khi ông
khẳng định rằng ‘’Bác đã sáng tạo ra thể thơ tứ tuyệt tự sự hầu nhƣ không
thấy có trong thơ Đƣờng’’.
Nhữ Thành đã tỏ ra rất uyên bác về thi học đời
Đƣờng và đã bênh vực những bài thơ đới tục của Hồ chí Minh một cách rất
hùng biện, nhƣng ông càng đề cao giá trị của những bài tứ tuyệt tự sự ấy
bao nhiêu, ông càng làm cho nó cách biệt với phong cách khái quát đối lập
với nó, càng làm nổi bật hình ảnh của ngƣời đứng chung với Hồ chí Minh
trong tập thơ, hình ảnh mà Đặng thai Mai và bạn bè của ông về sau này
đã thấy nhƣng chƣa gọi tên đƣợc, mà Ban Tuyên Giáo cùng Trung Ƣơng
Đảng, sau khi cho hình ảnh ấy nhập một với Hồ chí Minh, vần tìm cách bôi
bác cho mờ nhạt và sai lạc hẳn đi để không ai có thể thấy đƣợc.
VĂN VIẾT VÀ VĂN LÁCH CỦA ĐẶNG THAI MAI
Thực ra viết lách là một từ kép láy nghĩa, bởi vì nếu viết là dùng chữ
để ghi ra những điều suy nghĩ, thì lách do chữ hán lặc nghĩa là viết, và
viết lách có nghĩa là viết một cách thận trọng, nghiêm túc nhƣ khắc vào
tre, nhƣ chạm vào đá. Chuyển sang tiếng Việt, từ lách mất nghĩa, và bị
12
nôm hóa, biến nghĩa gốc, trở thành một động từ có nghĩa là đƣa mình qua
chỗ chật hẹp nơi đông ngƣời một cách khéo léo, đi đôi với từ viết, lách có
nghĩa là lựa chiều để khéo léo, nhẹ nhàng đƣa lọt một ý nghĩ của mình
vào câu văn mà không ai biết, hoặc tìm cách khôn ngoan đƣa sâu tƣ
tƣởng của mình vào một đoạn văn, một cuốn sách mà mình viết với mục
đích riêng tƣ, thƣờng là đối lập một cách tinh vi với quan điểm, với chính
sách của nhà nƣớc. Đặng thai Mai nổi tiếng trong giới văn học miền Bắc là
vì ông ‘’đã hấp dẫn ngƣời đọc bằng một nghệ thuật diễn đạt tinh tế và
uyển chuyển, một ngòi bút chiến đấu sắc sảo và giàu tính thuyết phục’’,
và đƣợc nhƣ vậy là nhờ ở chỗ ông đã biết viết và biết lách đúng lúc, đúng
chỗ.
Khi đọc lại tập thơ Ngục Trung Nhật Ký vào những năm 1970-1976,
ông tỏ ra không đồng ý với nhiều nhà phê bình khi họ cƣờng điệu vấn đề
chủ nghĩa lạc quan cách mạng và tinh thần bất khuất của ngƣời chiến sĩ
trong Ngục Trung Nhật Ký. Đặng thai Mai viết: ‘’Trong tập nhật ký có một
số bài thơ mà chúng ta có thể xếp vào loại thơ triết lý.
Tuy vậy, nếu đọc
kỹ lại (đây là nhà văn bắt đầu lách) thì chúng ta vẫn có thể phân vân về
việc xếp loại nhƣ thế. Bài bát cú Tình Thiên (bài số 113) chẳng hạn, mở
đầu với một câu muốn nhƣ là để phát triển thuyết tuần hoàn luận. Câu 1
và câu 2 nhắc lại một triết lý khá thông thƣờng là sự vật nằm trong định
luật xoay vần và trời mƣa mãi rồi thì cũng tới ngày nắng. Và rồi câu kết
bài thơ lại nói tới lẽ tự nhiên ‘’khổ tận’’ nhất định sẽ tới ngày ‘’cam lai’’.
Tuy vậy (tác giả giả vờ nhƣ rút lại câu văn lách) trung tâm hứng thú của
bài thơ chắc không phải là mấy câu triết lý dễ dàng ấy. Trƣớc hết là đối
với phƣơng Đông chúng ta, thuyết tuần hoàn luận đã trở nên khá thông
thƣờng với các Nhà Nho Học cũng nhƣ các Nhà Đạo Học, Phật Học. Bác
hiểu hơn ai hết rằng (lách thực sự) có một lối trình bày cái thuyết vần
xoay của các Nhà Triết Học ngày xƣa thật sự là siêu hình, và một mặt
nữa, nếu nhƣ ‘’sau mƣa có nắng’’ thì ‘’sau nắng phải có mƣa’’ thì sao ?
Cho nên nghĩ cho kỹ, triết lý này không phải là triết lý dài hạn. Sự thực thì
ở đây (hết lách và bắt đầu viết), chủ đề chính cố nhiên không phải là triết
lý tuần hoàn luận mà chính là cái chủ nghĩa lạc quan của con ngƣời khi
cảm thấy sung sƣớng trƣớc cảnh tƣợng của ngày tự do sắp tới’’.
Đọc cả một đoạn văn dài, các quí vị trong Trung Ƣơng Đảng cũng
nhƣ trong Bộ Chính Trị ở Hà Nội chắc phải vỗ tay hoan hô tinh thần sùng
bái lãnh tụ của Đặng thai Mai, nhƣng ở Sài Gòn, các Nhà Văn Học lại thấy
ngƣợc lại là nhà văn họ Đặng đã nặng lời mạt sát những ngƣời đã lầm lẫn
thuyết tuần hoàn duy tâm với chủ nghĩa lạc quan cách mạng, nghĩa là, nói
cách khác, đã chỉ ra cái ‘’đuôi’’ duy tâm của tác giả những bài thơ này.
Nhƣ vậy, nhà cách mạng duy vật Hồ chí Minh còn có thể là tác giả những
bài thơ ấy nữa hay không ? Nhờ tài lách của ông, Đặng thai Mai đã đƣa
vào bài Đọc lại tập thơ Ngục Trung Nhật Ký những lời phê bình thực sự
độc địa có khả năng phủ nhận phụ quyền của Hồ chí Minh đối với một số
bài trong tập thơ.
Trong một đoạn văn khác, cũng nhờ tài lách khôn ngoan này, Đặng
thai Mai đã giáng lên đầu Hồ chí Minh một quả tạ nghìn cân. Tiếp tục trình
bày những hoài nghi của ông về phụ quyền Ngục Trung Nhật Ký, nhà văn
đi thẳng vào vấn đề sáng tác bằng cách tra hỏi khả năng sáng tác của Hồ.
13
ông viết: ‘’Không thể không lấy làm lạ là Bác đã viết thơ bằng chữ Hán, và
đã viết những bài thơ hay. Ở đây (nhà văn bắt đầu luồn), quả có phần của
cái mà chúng ta thƣờng gọi là thiên tài.
Theo dõi tiểu sử của Bác (nhà văn
bắt đầu lách), chúng ta có thể thấy rằng từ thời kỳ thanh thiếu nhi, cố
nhiên Bác đã đƣợc bồi dƣỡng trong trƣờng học chữ Hán của các Nhà Nho
cuối thế kỷ trƣớc, nhƣng một mặt nữa, cũng rất rõ là thời kỳ Bác đƣợc bồi
dƣỡng trong Nho Học, trong văn chƣơng cử tử (thơ, phú, văn, luận) chắc
chắn chỉ độ 5, 7 năm là cùng. Sau thời gian đó là thời kỳ đi học chữ Pháp,
đi dạy tƣ, rồi từ giã quê hƣơng đi tìm đƣờng cách mạng cứu nƣớc. Dấu
chân của Bác in lên khá nhiều đất nƣớc xa lạ trên cả hai bán cầu Đông và
Tây.
Thời kỳ thanh niên của Bác ở đất khách quê ngƣời không phải là
những năm ‘’du học’’, mà là những năm lao động vất vả. Lao động để mà
sống. Sống để làm cách mạng. Sống rất bận rộn, luôn luôn nguy hiểm. Thì
giờ dành cho việc học tập văn thơ chữ Hán, chắc chắn rất ít, nếu không
nói là tuyệt đối không có... (hết lách, bắt đầu ca). Tuy vậy, không có một
trí thông minh đặc biệt thì với lứa tuổi ấy, ngƣời học sinh quyết không thể
nắm vững đƣợc mọi qui cách văn học cổ điển, để sau này sử dụng ngòi
bút mình một cách chủ động, mềm mại mà chắc chắn, nhƣ Bác. Cố nhiên
(bắt đầu luồn), cái vốn cũ của nhà trƣờng đó cũng nhờ có sự bồi dƣỡng
luyện tập thì mới thành tài.
Thiên tài trong văn nghệ là những tia sáng rất
đẹp, rất lộng lẫy, nhƣng thiên tài cũng có thể lƣớt qua nhƣ một ngôi sao
băng, nếu nó không trở thành nhân tài. Nhân tài là của con ngƣời. Nhân
tài có công trình bồi dƣỡng. Nhƣng hiểu nhƣ vậy (lách mạnh) thì chúng ta
lại càng phải lấy làm lạ là Bác đã tìm đâu ra thì giờ, điều kiện để tự bồi
dƣỡng cho mình về nghệ thuật làm thơ, làm thơ bằng tiếng nƣớc ngoài...
Nhà văn Đặng thai Mai, ngƣời đã viết về Lỗ Tấn, thân thế, văn nghệ
( 1944) , Tạp văn trong văn học Trung Quốc hiện đại (1945), đã dịch các
tập kịch Lôi Vũ, Nhật Xuất của Tào Ngu, lịch sử văn học Trung Quốc hiện
đại (1958), đã không nói đùa khi ông xác nhận trình độ thấp kém của Hồ
chí Minh về Hán văn, điều mà kẻ viết bài này sẽ xác nhận ở phần sau với
những bằng chứng cụ thể.
Điều quan trọng là trong không khí cực kỳ sôi
động về nhiệm vụ suy tôn lãnh tụ mà các nhà văn phải thi hành, Đặng
thai Mai đã nói ra đƣợc một cách công khai cảm nghĩ chân thành của ông
về khả năng sáng tác Ngục Trung Nhật Ký của Hồ chí Minh. Ông đã thẳng
thắn xác nhận, với một lý luận hết sức thuyết phục, là Hồ chí Minh không
đủ kiến thức Hán văn để viết nên một tập thơ nhƣ Ngục Trung Nhật Ký.
Tập thơ ấy là của một ngƣời khác.
CHỖTINH VI CỦA GIÁO SƢ LÊ TRÍ VIỄN
Năm 1980, vừa ở nhà tù Bầu Lâm ra, tôi tình cờ gặp Giáo Sƣ Lê trí
Viễn và đƣợc Giáo Sƣ làm quà cho cuốn Học tập phong cách ngôn ngữ chủ
tịch Hồ chí Minh vừa in xong, trong đó có bài Thử đi vào chỗ tinh vi của
nguyên tác và bản dịch Ngục Trung Nhật Ký của Giáo Sƣ:
Một bài báo viết
thật tinh vi, tinh tƣờng, tinh xảo giải thích giá trị của nguyên tác Ngục
Trung Nhật Ký đồng thời trình bày những chỗ đạt và không đạt của bản
dịch. Lời văn phê bình rất nhẹ nhàng, đôi khi dí dỏm, nhiều chỗ mƣợt mà
trau chuốt nhƣ thơ khiển cho những ý kiến đƣa ra dễ đƣợc chấp nhận. Vào
năm 1982, tôi đọc Tổng tập văn học Việt Nam, tập 36, giới thiệu những
14
tác phẩm của Nguyễn ái Quốc-Hồ chí Minh, trong đó có cuốn Ngục Trung
Nhật Ký do nhà Hán học Nguyễn sĩ Lâm và Giáo Sƣ Lê trí Viễn phụ trách
phần phiên âm, dịch xuôi, chú thích, ông Nguyễn văn Bách phụ trách phần
viết chữ Nho.
Cứ nhìn từ bên ngoài thì ta chỉ thấy đây là một công trình biên tập
theo phƣơng pháp giáo khoa, với những lời giải thích đầy đủ rõ ràng, phần
dịch xuôi chú ý tới từng từ ngữ, từng ý nghĩa của từ ngữ ẩy trong câu văn,
các thành ngữ Trung Hoa đƣợc nhận diện và đƣợc cắt nghĩa đúng với vi trí
của nó trong văn mạch. Nói tắt, đó là một công tác của một nhóm ngƣời
có thiện chí muốn góp phần chuyên môn của mình vào việc tiến hành
nghiên cứu Ngục Trung Nhật Ký.
Nhƣng đó mới chỉ là cái nhìn bề ngoài.
Nhìn sâu hơn vào toàn bộ tác phẩm, ta mới thấu hiểu chỗ thực sự tinh vi
của Giáo Sƣ Lê trí Viễn, nhìn sâu hơn có nghĩa là ta phải nhìn lại bản Ngục
Trung Nhật Ký của nhà xuất bản Văn Hóa thuộc Viện Văn Học, phát hiện
ra những chỗ sai khác giữa bản này và bản của nhà xuất bản Khoa Học Xã
Hội (l), tham khảo những tƣ liệu và nhận định của các soạn giả đã phát
biểu về những điểm này, nhất là những quan điểm văn bản của Giáo Sƣ
Đặng Thai Mai v.v...
Với cách nhìn sâu sát nhƣ vậy, ta mới nhận ra rằng
việc làm của Giáo Sƣ Lê trí Viễn tiếp tục sự nghiệp chƣa hoàn thành của
Giáo Sƣ Đặng thai Mai và nhờ phƣơng pháp nghiên cứu văn bản học
nghiêm túc của Giáo Sƣ Lê trí Viễn, ta có thể có điều kiện cụ thể xích lại
gần hơn quan niệm của Giáo Sƣ Mai về phụ quyền của Ngục Trung Nhật
Ký.
Trƣớc hết, qua bản sao lục của ông Nguyễn văn Bách, tất cả mọi
chữ chép sai trong bản của Viện Văn Học do ông Phạm phú Tiết viết đều
đã đƣợc sửa chữa, tỉ dụ:
Đây chỉ là những chữ viết sai theo thói quen của một ngƣời học chữ
Hán theo phƣơng pháp cổ truyền, nó có thể không quan trọng trong một
bản văn khác. Ở đây, đó lại là những khuyết điểm lớn vì nó liên quan đến
một tác phẩm lớn và một tác giả lớn. Là một bậc thầy đƣợc công nhận về
văn bản học, Giáo Sƣ Lê trí Viễn không thể tha thứ những sai sót ấu trĩ
ấy. Ta càng khâm phục phƣơng pháp làm việc nghiêm túc của họ Lê bao
nhiêu, ta càng thấy sự cẩu thả đáng trách của Hồ chí Minh bấy nhiêu vì Hồ
là tác giả tập thơ, là ngƣời duy nhất và cuối cùng xem lại bản thảo và cho
15
phép in. Sự cẩu thả này cho thấy, đúng nhƣ nhận xét của Giáo Sƣ Đặng
thai Mai, Hồ chí Minh không có khả năng là cha đẻ của Ngục Trung Nhật
Ký.
Bản phiên âm Ngục Trung Nhật Ký cũng đã không tránh đƣợc nhiều
sai sót trầm trọng. Sau đây là một sổ chữ điển hình về phiên âm sai.
Ngoài ra, bản phiên âm đã rất lúng túng khi gặp những chữ dùng
theo Bạch Thoại, hoặc câu có kiến trúc ngữ pháp Bạch Thoại. Ta biết rằng
tiếng Trung Quốc phát ra đúng giọng nói của ngƣời Bắc Kinh thì có 6
thanh, trong đó có 4 thanh căn bản là âm thanh, dƣơng thanh, thƣợng
thanh và khứ thanh. Âm thanh là thứ thanh không có dấu. Dƣơng thanh là
thứ thanh có dấu đọc lên thành ra một thanh ở giữa thanh có dấu sắc và
thanh có dấu hỏi của Việt Nam.
Thƣợng thanh là thứ thanh có ghi dấu V,
thanh này phát ra đầu tiên thấp rồi lên cao dần nhƣ thanh có dấu hỏi của
Việt Nam. Khứ thanh là thanh có ghi dấu, tức thứ thanh phát ra hơi chậm
từ cao xuống thấp gần giống thanh ở giữa thanh có dấu huyền và thanh
có dấu nặng của Việt Nam. Hệ thống thanh điệu của tiếng Hán-Việt đã
đƣợc hoàn thành từ đời Đƣờng, do đó, khi đọc thơ Hán-Việt, ta không bị
vấp về vấn đề thanh điệu, tiếng Quan Thoại mới trở thành chính thức bên
Trung Hoa từ Ngũ tứ vận động (1919), nó còn quá mới đối với ngƣời Việt
Nam, và nhất định là chúng ta chƣa ổn định đƣợc hệ thống thanh điệu để
áp dụng vào việc sáng tác thi ca.
Cũng vì thế mà cùng một bài thơ Hán-
Việt, nếu đọc theo hệ thống thanh điệu cổ truyền thì bài thơ có thể viết
đúng niêm luật, nhƣng nếu đọc theo âm Bắc Kinh thì lại thất luật, thất
niêm, lý do là vì hệ thống thanh điệu của tiếng Hán-Việt chỉ phù hợp với
những bài thơ chữ Hán đọc theo âm Việt cổ truyền. Các nhà phiên âm của
Viện Văn Học đã không chú ý đến hiện tƣợng ngữ học đó, cho nên đã vì
tôn trọng âm luật mà phiên âm sai nhiều chữ, và vì phiên âm sai nên gây
ra tình trạng thất luật hoặc biến nghĩa của câu thơ.
Giáo Sƣ Lê trí Viễn đã
nhẹ nhàng, nhƣ một Giáo Sƣ chỉ lỗi chính tả cho môn sinh, nêu ra nhiều
chỗ phiên âm sai trái, điền hình là trong bài 86 nhan đề là: Đáp hỏa xa
vãng Lai Tân (Đáp xe lửa đi Lai Tân).
Đây là bản phiên âm của Viện Văn Học:
Kỷ thập nhật lai lao táu bộ
16
Kim thiên đắc đáp hoả xa hành
Tuy nhiên chỉ đắc toạ thán thƣợng,
Tất cánh tỉ đồ bộ phiêu lƣợng.
Rõ ràng là vần hành và vần lƣợng hoàn toàn sai lạc, ngƣời phiên âm
đã phạm một lỗi rất nặng chỉ vì ông muốn tôn trọng nội dung của văn
bản. Tiếng Hán-Việt không có từ phiêu lƣợng, đây là một từ Trung Hoa, có
nghĩa là đẹp đẽ, sang trọng, bảnh bao (theo Nguyễn sĩ Lâm và Lê trí
Viễn).
Các tác giả này đã phiên âm lại bài thơ bằng cách sửa lại chữ hành
thành hàng, chữ lƣợng (có dấu nặng) thành lƣơng (không có dấu) và chú
thích: ‘’Bài thơ này, hai từ hành và lƣợng, nếu đọc theo chính âm của nó,
thì không có vần, ở đây, tác giả đặt theo lối hiệp vận và âm Trung Quốc
nên hành phải đọc là hàng và lƣợng là ƣơng thì mới có vần’’.
Lời chú thích
rất sơ sài, nhƣng lại rất sâu sắc. Nó chứng thực rằng, nếu tác giả Ngục
Trung Nhật Ký đã đặt câu theo lối hiệp vận và âm Trung Quốc, và phải
đọc theo cách phát âm Trung Quốc mới có nghĩa, thì tác giả nhất định
phải là ngƣời Trung Quốc chứ không phải là ngƣời Việt Nam. Tôi sẽ bàn
thêm về vấn đề này ở những trang sau, ở đây, tôi thấy cần phải lƣu ý đến
lời chú thích của Giáo Sƣ Lê trí Viễn, nó cho ta biết vi Giáo Sƣ này đang đi
theo con đƣờng nghiên cứu và học tập của Giáo Sƣ Đặng thai Mai, nghĩa là
đang tìm tòi phát hiện ra tác giả đích thực của Ngục Trung Nhật Ký. Về
vấn đề này, Giáo Sƣ Lê đã bƣớc một bƣớc lớn so với Giáo Sƣ Đặng: Ông
chỉ rõ tác giả là một ngƣời Trung Hoa chứ không phải Hồ chí Minh, mặc
dầu mỗi lần nói đến tập Ngục Trung Nhật Ký, ông vẫn trân trọng cho đó là
tập thơ chữ Hán của Bác.
Về những chữ dịch sai trong bản Ngục Trung Nhật Ký của Việt Văn
Học, Giáo Sƣ Lê trí Viễn đã đƣa ra nhiều trƣờng hợp rất đáng chú ý, tỉ dụ
bài số 14 nói về ngƣời bạn tù thổi sáo, Giáo Sƣ viết: ‘’Ngƣời bạn tù thổi
sáo là một bài dịch chƣa tốt..
.Đi vào chỗ tinh vi của thơ ca thì rõ là có
nhiều chỗ dịch chƣa đúng, cả thần lẫn chữ nghĩa. Ngục trung hốt thính mà
dịch là bỗng nghe trong ngục, mới xem qua ai không cho là đúng: Ngục
trung là trong ngục, hốt thính là bỗng nghe, còn gì nữa ? Ấy thế mà lại
sai, cái sai rất nguy hiểm vì có vẻ đúng. Hãy xem: Bỗng nghe trong ngục
sáo vi vu có phải là ngƣời ở ngoài ngục nghe không ? Mà đã thế thì bài thơ
hỏng mất rồi.
Ở đây là ngƣời trong ngục nghe ngƣời trong ngục. Ngƣời
thổi sáo nhớ nhà, ngƣời nghe thổi sáo cũng nhớ nƣớc, hai ngƣời có chung
một tâm sự ‘’tƣ hƣơng’’. Câu thơ chữ Hán rành rành nhƣ thế: Ngục trung
hốt thính tƣ hƣơng khúc. Cũng có một ngƣời thứ ba có lẽ cũng nghe khúc
nhạc là ‘’khuê nhân’’, ngƣời vợ ở nhà...
Bắt đầu bài thơ thì chƣa có. Nhƣng
khi khúc sáo nhớ quê hƣơng đƣợm thấm tình ngƣời (về chỗ này, câu dịch
bỏ mất một cái trình tự chuyền biến trong tâm tƣ thể hiện bằng trình tự
chuyền biến trong khúc nhạc) thì không những ngƣời thổi, ngƣời nghe ở
trong ngục đều xúc cảm sâu xa, mà ở xa muôn dặm, ngƣời ở quê nhà
cũng động lòng, bối rối trong ruột, cho nên đã lên một tầng lầu để nhìn về
phƣơng trời, nhƣng chƣa thấy gì, lại phải lên một tầng nữa.
Bài thơ kết
thúc trong một niềm thƣơng nhớ mênh mông, dằng dặc. Đã dịch đƣợc cái
mênh mang dằng dặc ấy, nhƣng đã bỏ mất cái ý ‘’khuê nhân cách
thƣợng’’. Đáng phàn nàn nhất là chữ ‘’vi vu’’. Câu chữ Hán không có. Đối
với cái không khí trong veo của bài thơ, âm thanh đó không hợp. Tƣ
17
Hƣơng Khúc là khúc nhạc nhớ quê, rõ ràng lắm. Sao lại có một âm thanh
vi vu thêm vào ? Quan trọng hơn cả: Vi vu là một từ miêu tả, miêu tả
tiếng sáo. Điều này gần nhƣ trái hắn với tinh thần bài thơ...
Trong bài Lộ Thƣợng (Trên Đƣờng Đi, bài số 41) có chữ say nghĩ ra
cũng rắc rối nhƣ thế. Bài dịch hơi bay bƣớm, không giữ đƣợc cái chân
phác của bài chữ Hán, nhƣng cũng kể là hay: Mặc dù bị trói chân tay,
chim ca rộn núi, hƣơng bay ngát rừng. Vui say ai cấm ta đừng, Đƣờng xa
âu cũng bớt chừng quạnh hiu. Nhƣng đọc đến chữ ‘say’’ vẫn hơi ngờ ngợ.
Trong Tự do lãm thƣởng vô nhân cấm không có ý gì say cả mà chỉ nhấn
mạnh đến ý tự do, ở đây là tự do thƣởng thức, tự do vui thú...chứ chƣa
thể ‘’vui say’’.
Vấn đề không phải mặt chữ, mà một mức độ, một phong
thái...Đến khi nó lắng chìm, tinh vi một tí, hoặc giả ngƣời ta dịch sơ ý một
chút là có thể sai lạc, mất cái sâu Sơn thôn thiều nữ ma báo túc (Mộ, số
28) dịch thành cô em xóm núi xay ngô tối. Trong chữ Hán không có chữ
tối, chỉ có xay ngô. Kể ra bài này tả cảnh chiều tối bên một xóm núi, sau
khi tả cảnh chim bay về núi ngủ, cảnh mây trôi chầm chậm trên không,
quay về xóm tả việc cô gái nhỏ xay ngô chuẩn bị bữa tối mà thêm chữ
‘’tối’’ vào, có gì là sai ?
Đúng là xay ngô tối, nhƣng đặt chữ ‘’tối’’ vào đây
thì sớm quá, và lộ quá. Nguyên văn không nói đến tối mà tự nhiên nói
đến: Thời gian trôi dần dần theo cánh chim và làn mây, theo những vòng
xoay của cối ngô, quay quay mãi, ‘’ma bao túc’’ Bao túc ma hoàn...và đến
khi cối xay dừng lại thì ‘’lô dĩ hồng’’, lò đã rực hồng, tức trời tối, trời tối thì
lò rực lên. Nhịp câu thứ tƣ là 4-3, nhip ba ngắn, chấm dứt cho cả một sự
vận động chuyển biến, đúng với cái tối lúc đến nhanh, thu dần cuộc sống
bên lò than, rồi tỏa cái ấm ra theo âm thanh nồng ấm của chữ hồng. Tất
cả cái đó, chữ tối trong câu 3, và nhịp điệu 2-5 của câu 4 làm hỏng cả. Có
khi chỉ vì sai ngữ khí mà lạc cả tinh thần.
Bài Bị bắt ở phố Túc Vinh là một sự bất bình, hơn nữa, một sự phẫn
nộ. Thái độ thì bình tĩnh, nhƣng cứng rắn. Việc mới xảy ra đột ngột, phản
ứng còn mới mẻ, chƣa có gì sâu lắng.
Câu thứ 2: ‘’Cố ý trì diên ngã khứ
trình’’ cũng chƣa phải là một câu nhìn vào mình, mà là đối với địch, cho
nên dịch ‘’cố làm cho chậm bƣớc mình’’ là không phù hợp, nhất là chữ
‘’mình’’ quá mềm yếu, có ý tự an ủi, xuống nƣớc quá nhiều. Câu thứ tƣ
‘’Ba nhân danh dự bạch hi sinh’’ là một lời phản kháng, mà câu dịch
‘’không dƣng danh dự phải hi sinh’’ lại là một câu than thở.
Trong phần chú thích Ngục Trung Nhật Ký, Giáo Sƣ Lê trí Viễn còn
chỉ rõ những cách phải hiểu rõ những thành ngữ Trung Hoa nhƣ thảm đạm
kinh dinh (bài số 18), tuyết trung tống thán (bài số 84), chiến chiến căng
căng (bài số 54), xan phong dục vũ (bài số 78).v.v...để tránh những cách
dịch phỏng chừng sai lạc.
Công việc cần cù và thận trọng này đáng lẽ là
thuộc vào trách nhiệm của tác giả khi đọc lại bản dịch trƣớc khi ra lệnh
cho in. Sự yên lặng thản nhiên của tác giả cho ta có cảm tƣởng là ông
chẳng biết gì hết, kể cả cái tập thơ mà ông đứng tên tác giả. Thái độ dửng
dƣng trƣớc những sai sót trầm trọng của tiều ban dịch Ngục Trung Nhật
Ký có xứng đáng với một tác giả đích thực không, đó là điều mà Giáo Sƣ
Lê trí Viễn muốn biết khi ông để tất cả thì giờ của mình vào việc đi tìm
những chỗ tinh vi trong bản dịch Ngục Trung Nhật Ký.
18
Nhóm của Giáo Sƣ Lê Trí Viễn còn phát hiện ra một chuyện động
trời trong bản Ngục Trung Nhật Ký của Viện Văn Học: Các nhà có trách
nhiệm về việc dịch tập thơ này đã sửa lại mục lục của tập thơ, tự tiện
thêm vào những bài thơ không có trong bản gốc, cuối cùng còn tự tiện sửa
chữa lại nhiều câu thơ trong đó nữa. Đây là phần mục lục của bản Viện
Văn Học đối chiếu với mục lục của bản Lê trí Viễn.
TÊN CÁC BÀI THƠ DỊCH BẢN VIỆN VĂN HỌC BẢN LÊ
TRÍ VIỄN
Từ Long An Đến Đồng Chính 40
45
Trên Đƣờng Đi 41
46
Đồng Chính 42
40
Chăn Bằng Giấy Của Ngƣời Bạn Tù 43
41
Đêm Lạnh 44
42
Dây Trói 45
43
Rụng Một Cái Răng 46
44
Đêm Thu 110
110
Cảm Tƣởng Khi Đọc Thiên Gia Thi 111
112
Tức Cảnh 112
111
Trời Hửng 113
Không có
Tôi không đánh giá bản nào đúng bản nào sai, lý do là vì tôi không
có bản gốc trong tay, và đó cũng không phải là nhiệm vụ của tôi.
Tôi chỉ
nhận xét về thái độ của các nhà biên soạn đối với bản văn đang nghiên
cứu, và quả thực phải công nhận rằng các nhà biên soạn trong Viện Văn
Học đã làm việc trái qui tắc. Để phục vụ cho kế hoạch hoạt động của Ban
Tuyên Giáo, mà mục đích là đề cao đạo đức cách mạng của lãnh tụ Hồ chí
Minh qua những chặng đƣờng chuyển lao đầy gian khổ chẳng kém gì Chúa
Ki-tô trong 14 chặng thƣơng khó các nhà biên soạn của Viện Văn Học đã
xếp đi xếp lại cho địa điểm của các nhà tù ăn khớp với đề tài, nội dung và
thời gian của các bài thơ trong Ngục Trung Nhật Ký.
Và họ hoàn toàn chỉ
đứng trên một cứ điểm, sự bố trí tự do theo họ, miễn là làm sao cho có đủ
18 nhà lao, con số do bài thơ số 99 đã cho (Giam ở trong mời tám cái
lao), dàn trải trong hơn 100 bài thơ, con số hơn 100 này ghi trong bài thơ
số 104 (Dằng dặc đêm dài chặng ngủ cho, Ta làm trăm mấy bản thơ tù).
Phƣơng pháp bố trí của họ rất đơn giản, họ dùng hai bài thơ số 99 và 104
làm trục không gian và thời gian, rồi cứ theo cái trục đó họ dàn trải các
19
bài thơ, bài thơ nào có ghi ngày tháng đƣợc xếp theo thứ tự thời gian, bài
thơ nào không có thì sắp xếp vào chỗ nào đó cũng đƣợc. Về không gian lại
rất dễ biết đƣợc sự sai trái của các nhà biên soạn trong Viện Văn Học, làm
việc theo chỉ thị của cấp lãnh đạo trung ƣơng!
Những hành động bê bối này đã không qua mắt nhà văn Đặng thai
Mai, bởi vậy, khi nhận lãnh trách nhiệm hiệu đính bản dịch Ngục Trung
Nhật Ký, ông đã tỏ muốn nói chuyện trực tiếp với tác giả để hiểu rõ lai lịch
tác phẩm. Sự yên lặng vô lý của Hồ chí Minh đã đƣa đến những hậu quả
mà ta đã biết. Ngay việc sắp xếp cho đủ con số 113 bài thơ cũng tỏ ra
khiên cƣỡng.
Tính đến bài thơ 104 trong đó tác giả tuyên bố đã làm đƣợc
hơn một trăm bài thơ tù, đếm đi đếm lại và căn cứ vào nội dung của các
bài thơ còn lại, họ không làm thế nào cho đủ con số một trăm, thế là họ
quyết định bài thơ nào có hai đoạn là kể thành hai bài thơ, bài nào có ba
đoạn là kể thành ba bài thơ, nhờ cách đó, họ đã có đủ con số một cách dễ
dàng. Cách làm việc của họ đã bị nhóm của Giáo Sƣ Lê trí Viễn sửa lại
trong bản Ngục Trung Nhật Ký đăng trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập
36, từ trang 603 đến 785 .
Có một việc lạ lùng nữa là có bài thơ không có trong Ngục Trung
Nhật Ký mà các nhà biên soạn của Viện Văn Học cũng dịch và xếp vào tập
thơ, lộ liễu nhất là bài Tân xuất ngục học đăng sơn (bài số 114). Tuy có
câu chú thích nhỏ nói là bài thơ này không có trong Ngục Trung Nhật Ký,
nhƣng ai cũng thừa biết ý đồ của họ là phải đăng thêm vào một bài thơ
cho tập thơ có một chút bề dày để cho việc trình bày đƣợc trang trọng,
khổ một cái là bài thơ này lại là bài duy nhất đƣợc Hồ chí Minh nhận là của
ông, đã cho đăng lại trong tập
Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện với bản dịch
do chính tay Hồ soạn, cho nên ngƣời đọc lại có cảm nghĩ là họ cố bám víu
vào một cái gì dù rất mong manh, một bài thơ rất nhỏ, để cho tập thơ có
chút hơi hƣớng ấm áp của một ngƣời còn sống, bởi vì họ biết, và chỉ một
mình họ biết thôi, là tác giả thực của tập thơ đã nằm dƣới lòng đất lạnh từ
lâu! Bài Tức cảnh số 112 cũng là một bài thơ dở mà họ tự tiện thêm vào
cho tập thơ có bề dày. Nhóm Giáo Sƣ Lê trí Viễn đã tỏ ra rất hợp lý khi họ
xếp bài thơ trên vào phần phụ lục và gạch bỏ bài thơ dƣới.
Nhƣng đây mới thực sự là chuyện động trời: Các nhà biên soạn bên
Viện Văn Học đã sửa văn của Bác Hồ yêu quí của họ và đây cũng là tiết lộ
của nhóm Giáo Sƣ Lê trí Viễn. Trong bài Tự miễn (số 34), họ đã tự tiện đổi
từ khẩn trƣơng của nguyên văn ra kiên cƣờng. Câu thơ trong nguyên tác
là:
Tai ƣơng bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cánh khẩn trƣơng.
Nghĩa là: Tai ƣơng đem ta ra mà rèn luyện khiến cho tinh thần của ta lại
càng khẩn trƣơng. Bản Lê trí Viễn chú thích: ‘’Khẩn trƣơng, ý nói tinh thần
không những không nao núng mà càng cảnh giác cao độ với những tai ƣơng
gặp phải. Hai chữ này, bản in của Viện Văn Học đề là kiên cƣờng
(vững mạnh), nay chúng tôi lấy lại theo nguyên bản’’. Bản Viện Văn Học vì
sợ từ khẩn trƣơng không nói lên đƣợc sức mạnh tinh thần của lãnh tụ, và
nhƣ thế là không đề cao đƣợc phẩm chất cách mạng không gì lay chuyền
nổi của ngƣời cộng sản vĩ đại, không nói lên đƣợc khí phách hào hùng, ý
chí sắt đá của Bác, cho nên họ đã gạch chữ đó đi, thêm vào một từ cụ thể
20
hơn, cứng cát hơn là từ kiên cƣờng, và câu thơ đƣợc đổi mới có thề dịch
là: ‘’Tai họa rèn luyện ta, khiến cho tinh thần ta thêm vững mạnh’’ Văn
chƣơng cách mạng là nhƣ thế đó, nếu nghe xuôi tai, hợp với chính sách
của Đảng thì ta để nguyên xi, nếu nghe nghịch tai, không hợp với đƣờng
lối xã hội chủ nghĩa thì ta gạch bỏ. Không ai biết, mà có biết cũng chẳng
làm đƣợc gì, mà có làm gì thì ta cũng dẹp, ta sẽ lấy một lý do khác để bỏ
tù những kẻ phản động đã dám chống đối ta!
Thực ra, lỗi không ở ai cả, mà chỉ do từ khẩn trƣơng tạo ra. Khẩn
trƣơng nghĩa là gì ? Có lẽ các ông trong Viện Văn Học đã hiểu khẩn trƣơng
là căng thẳng, và tinh thần của Bác mà căng thẳng thì chẳng hóa ra Bác
điên sao, cho nên họ phải bắt buộc đổi nó ra là kiên cƣờng. Theo tôi, khẩn
trƣơng ở đây chỉ có nghĩa thông thƣờng là nói đến một tình trạng cần đƣợc
giải quyết ngay, và tiến hành giải quyết một cách tích cực. Vì tai họa dồn
dập cho nên Bác khẩn trƣơng, tức là Bác càng hoạt động tích cực hơn nữa!
Lỗi cũng do câu thơ trên tạo ra nữa, và khóm từ bả ngã lai là thủ phạm
chính.
Bả ngã lai là cứ đem ta ra (mà tôi, mà rèn), cứ nhè ta (mà nung
nấu), nhƣng các ông trong Viện Văn Học không hiểu rõ cho nên đã dịch
xuôi là: Tai họa rèn luyện ta, tức là đã lƣớt qua khóm từ bả ngã lai không
dịch. Vì đọc thơ không hiểu nên liều lĩnh đổi câu thơ đi, mà là câu thơ của
Bác! Tôi thấy các ông ở Viện Văn Học phải biết rõ tập thơ không phải của
Hồ chí Minh mới dám to gan lớn mật nhƣ vậy.
Trong bài số 39 (Tảo giải II)
câu thơ thứ hai: U ám tàn dƣ tảo nhất không (Những tàn dƣ của bóng tối
đã sớm sạch không), chữ tảo ở đây là buổi sớm, đã bị sửa lại bằng chữ tảo
nghĩa là quét, cho nên bản Văn Học đã dịch là: Bóng đêm rơi rớt đã bị
quét sạch. Họ sửa lại câu thơ này vì họ cho rằng chữ tảo của nguyên tác
chỉ thời gian không linh hoạt bằng động từ tảo, biểu diễn một động tác
mạnh và phù hợp với khí phách hào hùng của Bác hơn.
Văn của mình bị sửa lại tơi bời nhƣ vậy mà tác giả là Hồ chí Minh cứ
điềm nhiên cho đem in thì thật tôi không hiểu ông là loại tác giả gì ? Nếu
là một tác giả thực thì một chấm một phết cũng không đƣợc sửa đổi chứ
đừng nói là một từ!
THỬ XEM LẠI CÁI TÊN CỦA TÁC PHẨM
Tiếng Việt phân biệt rõ ràng những điểm khác nhau giữa từ nhà
giam và nhà ngục. Khi nói tù, là ta nói chung về trƣờng hợp những ngƣời
bị bắt, chữ tù có chữ nhân là ngƣời bị đóng khung trong bốn bức tƣờng
của chữ vi cho biệt tù là nơi giam giữ ngƣời có tội. Nhà giam là nơi tạm
giữ những ngƣời vừa bị bắt đề lấy cung, lập biên bản trình tòa, nếu họ
không có tội, họ sẽ đƣợc tòa tuyên bố trắng án, và đƣợc tha về, không bị
giam giữ nữa.
Thời gian tạm giữ này gọi là thời gian giam cứu. Ngƣời bị
bắt chỉ là tù nhân thực sự khi bị tòa tuyên bố là có án, trong trƣờng hợp
này, ngƣời có tội bị giam trong nhà lao, còn gọi là nhà tù hay nhà ngục là
những nhà đƣợc xây cất kiên cố, với tất cả mọi cơ quan thích nghi để cho
tù nhân không thể vƣợt ra ngoài. Ngƣợc lại, nhà giam chỉ là những chỗ
tạm thời đặt ra để giam giữ những ngƣời bị bắt trong một thời gian ngắn,
có thể là một căn phòng, một buồng tắm, một chuồng xí, bất cứ một xó
xỉnh nào cũng có thể là một nhà giam.
21
Theo định nghĩa này, Hồ chí Minh chƣa bao giờ thực sự là một ngƣời
tù nhƣ các chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng hay
nhƣ Trƣờng Chinh, Lê đức Thọ, Đặng thai Mai. Hồ chỉ bị giam tạm thời
trong khám lớn Victoria, đƣợc Luật Sƣ cãi cho trắng án, rồi đƣợc tha về.
Lần thứ hai bị bắt ở Quảng Tây, Hồ chỉ bị giam trong một cái cấm bế thất,
một nhà giam nhỏ, rồi chuyển đi từ nhà giam này sang nhà giam nọ, cuối
cùng đƣợc tha và đƣợc Trƣơng Phát Khuê cấp cho một tờ hộ chiếu. Khi nói
tới thời gian này, Hồ chí Minh chỉ dùng từ nhà giam chứ không bao giờ
nói đến nhà ngục. Hồ chƣa bao giờ là một tù nhân nhƣ các chiến sĩ cách
mạng chống Pháp bị cầm tù ở Côn Đảo. Từ ngục trung (trong ngục) nhƣ
vậy không có trong tự điển của Hồ.
Nhật ký là thể văn ghi chép theo thứ tự thời gian những sự kiện xảy
ra và những cảm nghĩ hằng ngày của ngƣời ghi. Nếu nhật ký đòi hỏi một
quá trình thời gian liên tục chặt chẽ thì Ngục Trung Nhật Ký không phải là
một tập thơ ghi những sự kiện và cảm nghĩ hằng ngày, thời gian ở đây rất
gián đoạn và rõ ràng là đã đƣợc sắp xếp lại một cách rất giả tạo bởi những
bàn tay chuyên nghề ‘’sơn vẽ đồ giả Trung Quốc’’.
Nói tóm lại, từ ngục trung không có trong tiểu sử của Hồ chí Minh,
từ nhật ký lại càng xa lạ đối với con ngƣời thích hoạt động (tỉ dụ săn rệp,
bắt rận, thổi nấu) hơn là ngồi một chỗ làm thơ. Cũng vì thế mà Hồ chí
Minh không bao giờ đã viết Ngục Trung Nhật Ký. Mỗi lần đƣợc hỏi đến tác
phẩm này là Hồ lấp lửng nói tránh đi, không phải vì khiêm tốn, cũng
không phải vì coi nhẹ mọi thứ thuộc về cá nhân mình, mà vì Hồ không
phải là cha đẻ của nó.
THỬ ĐI VÀO NỘI DUNG TẬP THƠ
Muốn biết rõ Hồ chí Minh có phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký
không, ta phải đi vào nội dung tác phẩm xem con ngƣời làm chủ thể trong
tác phẩm là ai. Tác phẩm có thể cho ta biết tên tuổi, quốc tịch, những sở
thích của ngƣời đó, cùng những điều tác giả muốn nói với ngƣời đọc.
Ngƣời với ngƣời có thể lừa dối nhau, bịp bợm lẫn nhau, nhƣng tác phẩm
bao giờ cũng là một ngƣời bạn trung thành, một tri âm, sẵn sàng tiết lộ
những điều ta muốn biết.
Đầu tiên, ta thử hỏi về tên tuổi của ngƣời viết. Ngƣời viết thƣờng tự
xƣng là ta, tôi một cách chung chung, nhƣng có hơn một lần anh xƣng là
lão phu.
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
(bài 2, Khai Quyển)
Lão phu hòa lê tả tù thi
(bài 110, Thu Dạ)
Lão nghĩa là già nói chung, nghĩa là từ 50 tuổi trở lên, 60 tuổi thì
gọi là kỳ nhƣ nói kỳ mục, 70 đến 80 là điệt, 80 đến 90 là mạo, nhƣng ta
chỉ đƣợc tự xƣng là lão phu khi ta đi quá tuổi kỳ để đến tuổi điệt. Nhƣ
vậy, ngƣời viết Ngục Trung Nhật Ký là một ông già. Vì ông già nên răng
ông rụng (bài số 46), vì ông già nên ông rất hận cái thằng lính nào đó đã
đánh cắp mất cái sĩ đích của ông, tức là cái gậy chống mà vì tuổi già sức
yếu ông mới mang đƣợc vào trong tù. Nếu ông trẻ hơn, vào khoảng 40-50
thì sức mấy bọn công an cho ông mang gậy vào nhà tù! Cũng nhờ tuổi già
22
mà ông tƣơng đối đƣợc tự do đi lại trong nhà tù, và đã quan sát đƣợc
nhiều chuyện thích thú. Cũng nhờ ông già mà bọn lính cho ông tự do làm
thơ, miễn là đừng mạt sát nhà tù của chúng. Cũng vì thế mà trong Ngục
Trung Nhật Ký, không có bài thơ nào công kích chế độ lao tù của Tƣởng
Giới Thạch, ngƣợc lại có nhiều bài khen ngợi là khác, nhƣ bài 9 (Tảo II)
nói về việc đƣợc ăn no ở trong tù, bài 10 (Ngọ) nói về giấc ngủ trƣa êm
đềm trong nhà lao, bài 37 (Quả đức ngục) khen nhà lao là một tiểu gia
đình, bài 73 (Tảo tình) tả ánh sáng ban mai chiếu sáng rực nhà tù, bài 84
và 85 tuyên dƣơng ông Quách, ông Mạc là những cai tù tốt bụng.v.v...Nếu
đôi khi ông than phiền đời sống bị hạn chế (bài l03), phải ngồi trên hố xí
đợi ngày mai (bài 31, bài 72), phải trả tiền vào nhà giam (bài 96), trả tiền
đòn (bài 82) thì đó cũng chỉ là những chuyện thƣờng tình xảy ra trong mọi
nhà tù trên thế giới chứ không riêng gì ở Trung Hoa.
Con ngƣời tự xƣng là lão phu ấy không thể là Hồ chí Minh vì tính đến
năm 32-33 Hồ mới khoảng ngoài 40, nếu có tính đến 42-43 chăng nữa, Hồ
cũng mới chỉ ngoài 50, chƣa có quyền xƣng với ngƣời khác là lão phu,
xƣng nhƣ thế sẽ tỏ ra hỗn xƣợc, hoàn toàn không biết gì về những phong
tục cổ truyền của Á Đông, nhất là về xƣng hô. Vả lại, họ Hồ vốn rất ghét
những ngƣời chƣa già mà đã xƣng mình già. Đây là bài thơ kỷ niệm sinh
nhật 1950:
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vốn thiểu niên
Ăn khỏe ngủ ngon, làm việc khỏe
Trần mà như thế kém gì tiên.
Đây là bài thơ làm ngày 19.5.1953, nguyên tác chữ Hán, bản dịch của
Xuân Diệu:
Người chưa năm chục đã than già
Ta thật khang cường tuổi sáu ba,
Giản dị bữa ăn, tâm trí sáng
Ung dung xét việc tháng ngày qua.
Ngày 20.5.1968, Hồ viết:
Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm,
Vẫn vững hai vai việc nước nhà.
Con ngƣời nhƣ vậy mà lại xƣng là lão phu năm ngoài 40 thì thật lả vô lý!
Bây giờ ta thử hỏi Ngục Trung Nhật Ký về quốc tịch của tác giả. Tác
phẩm cho biết có hai quốc tịch trong Ngục Trung Nhật Ký, một quốc tịch
Việt Nam và một quốc tịch Trung Hoa.
Về quốc tịch Việt Nam của tác giả, bài số 94 nói rõ nhất:
Ngoại cản, trời Hoa nóng lạnh mới
Nội thương, đất Việt núi sông xưa.
Hai câu thơ này dựa theo hai câu thơ nổi tiếng của Hoàng Phan Thái
tức đầu xứ Thái trong bài Trƣơng Lƣơng tố đa bệnh làm vào thời Tự Đức.
Ta có thể coi cả bài thơ số 94 là của một ngƣời Việt Nam, cũng có thể là
của Hồ chí Minh tuy không có bằng cứ chắc chắn. Hai bài có ghi thêm chữ
quốc ngữ là bài 81 nói về một em bé trong nhà lao Tân Dƣơng, và bài 67
nói về ngày lễ 11.11 trong đó có chữ Na-zi viết bằng chữ Việt. Đây có thể
kể nhƣ là sự đóng góp của Hồ chí Minh. Ngƣời ta cũng gắng cƣờng điệu ý
23
nghĩa của những từ tƣ hƣơng (bài 14), tha hƣơng (bài 63), cố quốc (bài
110) để tranh thủ phụ quyền của những bài thơ ấy cho Hồ chí Minh,
nhƣng những từ ấy không hạn hẹp nội dung để chỉ hoàn cảnh của những
ngƣời sống ở nƣớc ngoài, mà còn dành cho cả những ngƣời ở trong nƣớc
mà không sinh sống nơi chôn nhau cất rốn. Cũng vì có dụng ý đề cao vai
trò lãnh đạo của Hồ chí Minh mà ngƣời ta đã đục chữ khẩn trƣơng trong
bài đề thay thế bằng chữ kiện cƣờng. Việc xuyên tạc trắng trợn này đã bị
nhóm Lê trí Viện phanh phui.
Cuối cùng, không còn cách nào khác có hiệu
quả nữa để phục vụ ý đồ của Ban Tuyên Giáo, các nhà biên tập Ngục
Trung Nhật Ký đã tìm mọi cách đề lái câu thơ vào quĩ đạo mà họ đã định
trƣớc, điển hình là trong bài 62 nhan đề là Thụy bất trƣớc (Không ngủ
đƣợc), họ đã tô thêm màu vàng và ngôi sao năm cánh để giải thích rằng
ngay trong giấc ngủ, Bác cũng chỉ nhìn thấy tổ quốc đƣợc tƣợng trƣng
bằng ngôi sao vàng.
Nguyên văn chỉ nói: ‘’Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ
tam tinh’’ , nghĩa là hồn mộng cứ lẩn quẩn loanh quanh ở chỗ ngôi sao
năm cánh, trong giấc mơ, lòng chỉ hƣớng về ngũ tinh liên châu tức là
hƣớng về đoàn tụ gia đình, nghĩ đến vợ con mà lâu ngày mình đã xa. Vì
Hồ không có gia đình, họ đã tài tình lái câu này sang màu cờ của Việt
Minh, nhƣng cái màu vàng ấy (sao vàng năm cánh) chỉ có tác dụng làm
cho câu thơ vô nghĩa, hoặc ta nói sao vàng, hoặc ta nói ngôi sao năm
cánh, chứ nhóm chữ sao vàng năm cánh không tạo nên đƣợc một hình
ảnh liên tục.
Nếu quốc tịch Việt của con ngƣời trong tập thơ chỉ đƣợc nêu lên một
cách mơ hồ với một dáng lên gân rõ rệt là quá sức thì ngƣợc lại, quốc tịch
Trung Hoa của con ngƣời trong tập thơ nổi bật lên một cách dễ dàng.
Đầu tiên, ngƣời ấy kịch hệt phản đối những ngƣời kết tội anh là Hán
gian, nghi ngờ anh là một ngƣời Trung Hoa mà đi làm tay sai cho giặc.
Anh dứt khoát khẳng định anh là một ngƣời trung thành với quốc gia,
trƣớc sau anh một lòng một dạ, giữ trọn niềm tin, giữ trọn những tình
cảm, những lời cam kết đối với đất nƣớc. Lòng anh trƣớc sau nhƣ một cho
nên anh không cảm thấy có điều gì phải thẹn, phải xấu hổ. Anh chỉ tức
giận một điều là lòng trung thành của anh lúc nào cũng sáng nhƣ trăng
sao thế mà anh lại bị hiềm nghi là một ngƣời Trung Hoa phản bội. Anh nói
(bài số 7):
Trung thành, ta vốn lòng không thẹn,
Lại bị hiềm nghi làm Hán gian!
Vốn biết là đời không dễ xử,
Đến nay càng khó xử muôn vàn!
Câu Hán văn của nguyên tác: ‘’Trung thành, ngã bản vô tâm
cứu’’ đã đƣợc Viện Văn Học giải nghĩa là: Ta là người trung trực, trong
lòng không bao giờ áy náy. Nhóm Lê trí Viễn đã dịch lại câu này là: Ta
vốn trung thực, không điều thẹn lòng. Có lẽ vì không hiểu rõ nội dung
của từ trung thành cho nên từ này chỉ đƣợc giải thích bằng một từ gần
tƣơng đƣơng, và vì sự hiểu biết mơ hồ đó mà không ai trông thấy từ Hán
gian ở cuối câu 2 nữa. Muốn làm Hán gian thì đầu tiên phải là ngƣời Hán
đã chứ, làm sao một ngƣời Việt Nam có thể làm Hán gian, dù anh hoạt
động trong nƣớc Trung Hoa ? Câu dịch ra thơ của bản Viện Văn Học lại
càng vô nghĩa hơn nữa:
24
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị nghi là kẻ Hán gian!
Dịch nhƣ vậy là hiển nhiên có hậu ý muốn xóa nhòa cái gốc Trung
Hoa của anh đi, để dễ chuẩn bị cho ngƣời đọc hiểu rằng tuy nói là Hán
gian, nhƣng chính là Hồ chí Minh đấy, có biết đâu chính họ Hồ đã hiểu
trung thành là trung thành với cái gì khi viết về Lý Thƣờng Kiệt:
Tuổi già phải chí công danh
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
(lịch sử nƣớc ta, đoạn nói về Lý Thƣờng Kiệt)
Trung thành của Lý Thƣờng Kiệt là trung thành với đất nƣớc Việt
Nam, chứ không phải chỉ là trung thực hay trung trực một cách chung
chung. Anh bị tố là Hán gian kia cũng vậy, anh trung thành là trung thành
với đất nƣớc Trung Hoa của anh, chứ không thể hiểu đƣợc bằng một cách
nào khác.
Ngày Song Thập là ngày Tết của toàn thể dân Trung Hoa. Cũng nhƣ
mọi ngƣời trong cộng đồng quốc gia, anh reo hò:
Nhà nhà hoa kết với đèn chưng,
Quốc khánh vui reo cả nước mừng.
(bài 26)
Quốc Khánh ở đây là lễ 10.10, ngày lễ chính thức lớn nhất của Trung
Hoa, mọi ngƣời Trung Hoa kết hoa treo đèn để ăn mừng. Nếu anh là ngƣời
nƣớc ngoài, anh không có quyền nói rằng đó là quốc khánh của anh, cả
nƣớc của anh reo hò ăn mừng. Ngƣợc lại, nếu anh chỉ nói trống không là
quốc khánh, là cả nƣớc, thì ngƣời ta biết anh là ngƣời Trung Hoa.
Chữ đoàn viên trong bài Trung thu I (bài số 22) và khóm từ ngọc
sàng cẩm trƣớng trong bài Nạn hữu đích chỉ bị (bài 43) cũng cho ta hiểu
rằng khi ngƣời này gợi ra sự sum họp ở nhà (Sum họp ở nhà ăn uống Tết,
Chớ quên trong ngục kê âu sầu), hay kêu gọi tình thƣơng của những ngƣời
no ấm nơi trƣớng gấm giƣờng ngà (Trƣớng gấm giƣờng ngà ai có biết,
Trong tù bao kẻ ngủ không yên), chính là lúc anh nói chuyện với đồng bào
ngƣời Hoa của anh, chứ nếu anh là ngƣời Việt Nam sống lạc lõng ở đất
Quảng Tây anh có gia đình nào đâu mà kêu gọi lòng thƣơng xót của họ!
Ta có thể kết luận rằng trong Ngục Trung Nhật Ký, bên cạnh một
con ngƣời Việt Nam có một con ngƣời Trung Hoa.
Con ngƣời này tự cho
mình là anh hùng (Nam nhi đến thế cũng hào hùng, bài 48), có khi tự
thấy mình oai phong cho một quan võ nƣớc ngoài (Giống hệt gù quan võ
nƣớc ngoài. bài 45), hoặc lẫm liệt nhƣ những vị quan to trong triều ngày
xƣa (Hàng khanh tƣớng cũ, giống nghi dung, bài 49), bởi vậy anh ta
thƣờng ví mình với rồng (Lao lung tháo trúc thấy ngay rồng, bài 71), trƣa
ngủ, anh cũng thấy mình cỡi rồng lên thƣợng giới (bài 10) Anh có những
nét của một tay ‘’giang hồ phỏng túng, nên anh thích sống ngoài khuôn
khổ gò bó xã hội’’, ƣa trèo lên những ngọn núi cao đề từ đấy nhìn xuống
nƣớc non muôn trùng ở dƣới chân (bài 27), thích ngao du vào những buổi
sáng sớm đề cho gió lạnh của núi rừng lùa vào mặt (bài 38), đề hƣởng
những luồng hơi ấm của bình minh chan hòa vũ trụ (bài 39). Địa bàn hoạt
động của anh là rừng xanh núi đỏ, là đồng chua nƣớc mặn, nơi có cô bé
xay ngô (bài 28), có lúa xanh đầy đồng (bài 35), có tiếng chuông chùa đổ
25
xuống chiều hôm và có tiếng sáo của em bé quê lững thững dắt trâu về
(bài 60).
ÔNG GIÀ NGƢỜI HOA HỌ LÝ
Con ngƣời có quốc tịch Trung Hoa này là ai, ông từ đâu lạc vào Ngục
Trung Nhật Ký? Làm thế nào mà thơ của ông đã lọt vào tay Hồ chí Minh?
Về điềm này, ta phải hỏi chính Hồ chí Minh, chỉ có mình họ Hồ biết già Lý,
chỉ có mình Hồ bị giam với già Lý trong khám lớn Victoria ở Hồng Kông
năm 1932-1933, và cũng chỉ một mình ông đã viết về già Lý trong thời
gian già Lý bị cầm tù.
Ta thử nghe Hồ chí Minh, lúc ấy là Nguyễn ái Quốc,
nói về già Lý trong Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
với bút hiệu Trần dân Tiên: ‘’Hai ngƣời bị bắt làm ông chú ý hơn cả: Một
em bé... và một tƣớng cƣớp già bị bắt vì bị bạn tố giác. Ngƣời này độ 60
tuổi, hòa nhã, mƣu trí và gan góc, giỏi chữ Trung Quốc, làm đƣợc thơ. Y
tự cho mình là một anh hùng và cho ông Nguyễn cũng là một anh hùng
Già Lý thƣờng tâm sự với Hồ chí Minh:
‘’Tôi là một con sƣ tử rơi xuống
hố...Anh cũng là con rồng mắc cạn...Sƣ tử một ngày kia sẽ trở về làm
chúa sơn lâm, còn rồng một ngày kia sẽ bay lên trời và làm chúa tể gió
mây...Già Lý làm chúa một dẫy núi. Có gia đình và một đội quân nhỏ,
chặn khách qua đƣờng và bắt nộp tiền mãi lộ...Lý khá ác với ngƣời giàu,
nhƣng rất tử tế với ngƣời nghèo Vì vậy Lý đƣợc nhân dân trong vùng vừa
yêu vừa sợ’’. Đó là chân dung già Lý trong Những mẫu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, do Hồ chí Minh phác họa. Ông còn nói đến già Lý
trong cuốn Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện: ‘’Anh Lý bị án 7 năm tù (không
rõ vì sao), còn 5 tháng nữa thì hết hạn. L
ý đƣợc đƣa vào làm (khổ sai) ở
xƣởng may áo của nhà tù. Ở xƣởng này có một tên cai ngƣời Anh rất hung
ác. Lý nói: ‘’Ta quyết giết chết thằng ác ôn này để anh em đỡ khổ với nó’’.
Một hôm tên cai ấy đang đánh đá túi bụi một ngƣời bạn tù thì Lý cầm một
chiếc kéo to thọc nó lòi ruột. Lý lại bị đƣa ra tòa án và chịu thêm 7 năm tù
nữa. Từ đó bọn gác ngục không dám lại gần Lý. Còn anh em tù đều gọi Lý
là anh hùng’’.
Khi Nguyễn ái Quốc bị bắt giam tại khám lớn Victona, già Lý đã có
án và bị tù ở đó hơn 6 năm, lúc ấy già Lý 60 tuổi nên mới tự xƣng là lão
phu, đi lại đƣợc phép chống gậy, còn họ Nguyễn hồi đó chỉ mới ngoài 40,
chƣa đƣợc tự xƣng là lão phu, đi lại chƣa cần chống gậy, chứng cớ là sau
khi bị giam lần thứ hai ở Quảng Tây và đƣợc tha về ‘’mắt Bác nhìn kém,
chân bƣớc không đƣợc,
Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bƣớc, dù đau
mà phải bò, phải lết, cũng phải đƣợc 10 bƣớc mới thôi. Cuối cùng Bác
chẳng những đi vững mà còn trèo đƣợc núi’’ (T. Lan, Vừa đi đƣờng vừa kể
chuyện, trang 84). Vào lúc này, họ Nguyễn chƣa nói đƣợc tiếng Quan
Thoại, bởi vì vẫn theo T. Lan, mãi đến lần vào tù thứ hai ông mới bắt đầu
học Quan Thoại.
Trong Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện, T. Lan viết: ‘’Chỉ một
mình Bác bị nhốt ở đó. Lâu lâu mới có một vài sĩ quan Quốc Dân Đảng bì
phạt vào ở đó năm, bảy ngày, Bác lợi dụng những dịp đó đề học tiếng
Quan’’ (Sách đã dẫn, trang 83). Đó là chuyện 10 năm về sau, 10 năm về
trƣớc, tức là vào thời gian gặp già Lý, Hồ chƣa nói đƣợc tiếng Quan,
nhƣng ông biết chữ Hán, có thể bút đàm đƣợc với già Lý, nhờ đó mà hai
ngƣời có nhiều dịp chuyện vãn với nhau, làm thơ chung với nhau vì già Lý
26
cũng làm đƣợc thơ, đúng nhƣ Hồ chí Minh kể lại sau này. Cuốn sổ tay màu
xanh bạc màu là cuốn sổ tay của hai ngƣời dùng chung, trong đó già Lý đã
viết nhiều bài thơ kể lại đời sống hào hùng của cụ khi còn trẻ hoạt động ở
những vùng rừng núi. Già Lý làm chúa một dãy núi (Trần dân Tiên, Những
mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, trang 87). Mỗi lần nói về
phong cảnh đồi núi, nơi chứng kiến những năm già Lý còn trẻ tâm hồn
tăm tối của ông nhƣ bừng sáng:
ĐI ĐƢỜNG (bài số 27)
Đi đƣờng mới biết đƣờng đi khó,
Ngoài núi cao còn núi chập chùng.
Trèo hết non cao lên thấu đỉnh,
Dƣ đồ muôn dặm bốn bề trông.
Trong bài thơ, không khí tự do tràn ngập, già Lý chƣa bị bạn tố giác
nên vẫn sống ở những vùng núi cao, trèo lên tới đỉnh để thu cảnh đẹp vào
tầm mắt. Thật không có gì quí bằng tự do. Gán bài thơ này cho Hồ chí
Minh, nhóm Viện Văn Học đã không hiểu nổi giá trị của bài thơ, và đã bắt
Hồ chí Minh làm một chuyện mà lúc ấy họ Hồ không thề làm đƣợc: Tay bị
trói giật cánh khuỷu, chân bị xích, có 6 lính gác hung hăng áp giải bắt đi
đâu thì đi đó, làm sao Hồ có thể tự do trèo lên đền tận đỉnh núi và còn có
đủ thì giờ để ngắm phong cảnh ?
Già Lý còn say sƣa kể lại những lần ông ra đi trong bóng đêm để
chặn khách qua đƣờng bắt nộp tiền mãi lộ, nhƣng thực ra ông chặn khách
thì ít mà hƣởng đƣợc những cảm giác mạnh thì nhiều. Thích cuộc đời hào
hùng, ghét những cảnh tầm thƣờng giả dối của xã hội, biết bao lần già Lý
ra đi từ lúc nửa đêm để hƣởng cái thú gió lùa vào mặt.
GIẢI ĐI SƠM I (bài số 38)
Đêm vốn đêm...Gà gáy tiếng đầu,
Chòm sao đa nguyệt đến rừng thu.
Khách đi xa giữa đƣờng xa vắng.
Ngẩng mặt, từng cơn lạnh gió lùa...
GIAI ĐI SỚM II (bài số 39)
Phƣơng đông, màu trắng đã thành hồng.
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không.
Hơi ôm bao la trùm vũ trụ,
Ngƣời đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
Một bài thơ nhƣ vậy mà ngƣời tạ bày đặt cho nó mang một cái tên
quái gở là Tảo giải (Giải đi sớm) để bắt độc giả phải hiểu rằng con ngƣời
ra đi đêm hôm đó là Hồ chí Minh! Sao ngƣời ta không nghĩ lại một chút, và
đọc kỹ bài thơ hơn, để nhận ra hai chữ chinh nhân và chính đồ: Khách đi
xa và đƣờng xa vắng là những chữ nói về một con ngƣời tự do.
Nếu ngƣời
đó là tù nhân, vì lý do gì mà lính gác bắt anh ta phải đi ngày đi đêm nhƣ
thế, nhất là lính gác ở đây là lính Quốc Dân Đảng, ‘’ăn bám’’ và ‘’lƣời
biếng’’ ? Ngƣời ta còn gắng sức hiểu rằng ‘’màu trắng đã thành hồng’’ là
báo trƣớc sự thành công của cách mạng, của bộ đội đỏ.v.v... làm nhƣ bình
minh ở chỗ khác thì phải bắt đầu bằng màu xám vậy! Ấy là chƣa nói phó
từ tảo của nguyên tác (nghĩa là sớm) đã bị ngang ngƣợc đổi thành động từ
tảo có nghĩa là quét. Đặt đầu đề theo mình chứ không theo tác giả, sửa lại
27
chính văn của nguyên tác để tăng cƣờng màu sắc cách mạng cho câu thơ,
đó là cách làm việc của Viện Văn Học!
Già Lý có nhiều kỷ niệm với vùng đất khô cằn này (bài số 40):
Vùng này đất rộng, ruộng khô cằn.
Bởi vậy, nhân dân kiệm lại cần.
Nghe nói xuân này trời đại hạn,
Mƣời phần thu đƣợc vài ba phần.
Vùng này là vùng núi, đia bàn hoạt động của già Lý, thế mà Viện
Văn Học đã bắt bài thơ phải mang cái tên là Long An Đồng Chính (bài số
40) để bài thơ phù hợp với một địa điểm trong hành trình gán cho Hồ chí
Minh (từ Quả Đức không theo đƣờng cũ nữa, mà rẽ xuống phía Nam, đến
Long An trên sông Hữu Giang).
Nhóm Lê trí Viễn đã sửa lại cách hiểu sai
trái này và tuy không thay đổi nhan đề của bài thơ, các nhà biên soạn
trong nhóm đã sắp lại vị trí của bài thơ này đúng với mục lục ghi trong
nguyên tác. Việc làm nhẹ nhàng này nhìn chung nhƣ không có gì quyết
liệt, nhƣng đối với những nhà văn bản học là một hành động sáng suốt, có
tính khoa học cao, có tác dụng làm cho các nhà biên soạn đi sau có những
căn cứ tốt đề tiến hành nghiên cứu.
Tuy nói rằng vùng núi là một vùng đất khô cằn, nhƣng già Lý đôi khi
cũng cho biết vì cần và kiệm nên nông dân đã sống nhiều ngày sung
sƣớng:
CẢNH ĐỒNG QUÊ (bài số 35)
Hồi ta đi đến lúa còn xanh.
Vụ gặt mùa này nữa đã thành,
Khắp chốn nhà nông cƣời hớn hở,
Ruộng đồng bát ngát tiếng ca thanh.
Lúa còn xanh, tức là lúa mới đâm lá, chƣa trổ bông, vào khoảng
tháng tám. Đền mùa này, tức là vào mùa gặt tháng mƣời, tháng mƣời
một, phải là vào một thời gian ít nhất là 3 tháng, thế mà tính ra, Hồ chí
Minh bị bắt vào cuối tháng tám, đến Điền Đông sau ngày song thập
(10.10), ƣớc vào khoảng trung hay hạ tuần tháng mƣời, vì từ Điền Đông
đi Long An rồi Đồng Chính còn xa, mà tới Đồng Chính mới là ngày 2.11.
Vậy từ khi ‘’tác giả’’ sang Trung Quốc, tới ngày lúa gặt đƣợc, mới khoảng
một tháng rƣỡi, lúa chƣa trổ bông và mùa gặt không thể đến mau nhƣ thế
đƣợc. Đây là nhận xét của nhóm Lê trí Viễn trong lới chú bài Dã cảnh
(Cảnh đồng quê. bài số 35).
Lời chú gắng giải thích sự phù hợp về thời
gian của bài thơ đúng với hành trình của Hồ chí Minh, nhƣng với điều kiện
là phải hiểu nhóm từ hòa thƣợng thanh (lúa còn xanh) là ‘’lúa đã trổ bông,
nhƣng hãy còn xanh’’. Điều kiện này không thể thỏa mãn đƣợc vì nó ở
ngoài khung cảnh của bài thơ, do đó, ta phải coi lời chú thích của nhóm Lê
trí Viễn nhƣ là một lời đính chính đối với cách làm việc bê bối của Viện Văn
Học.
Vả lại nữa, không cần phải giải thích một cách quá tỉ mỉ nhƣ nhóm Lê
trí Viễn, chỉ cần căn cứ vào lời thơ ta cũng biết đƣợc rằng ngƣời viết bài
thơ này không phải là ngƣời bị tù.
Câu đầu ‘’Hồi ta đi đền lúa còn xanh’’,
cách nói kênh kiệu, cứ cho là của một anh tù nào đó đi, câu 2: ‘’Vụ gặt
mùa này nửa đã thành’’, anh đến rồi anh đi, anh đi rồi anh trở lại, hai thời
gian khác nhau nhƣng liên hệ chỉ tới một ngƣời, nhƣ vậy hành động của
anh quá tự do, anh đâu có phải là ngƣời bị cầm tù ? Anh phải là một ngƣời
28
trong vùng mới sung sƣớng cái sung sƣớng của nông dân, mới nghe đƣợc
tiếng hò của họ lan xa trên đồng ruộng. Gán cho Hồ chí Minh là tác giả
của bài thơ này là một hành động thiếu suy nghĩ!
Già Lý còn giới thiệu cho ông Nguyễn đi vào đời sống thân mật của
địa phƣơng. Đây là một hàng cháo bên đƣờng, một ‘’tửu lâu’’ của những
ngƣời thích nhậu:
HÀNG CHÁO (bài số 36).
Mép lộ, dƣới lùm cây bóng mát,
Lều tranh một túp, ấy "nhà hàng '’
Thực đơn: cháo nguội, muối ăn trắng,
Năng đến ngơi đây, khách quá giang.
Tác giả trịnh trọng gọi hàng cháo là nhà hàng (nguyên tác: Tửu lâu
vì tuy chỉ là một hàng cháo nhỏ bên đƣờng, nhƣng vì tác giả là khách
quen, lại đến đấy không phải là để ăn cháo, mà là để uống rƣợu (trong bài
số 20, già Lý cho biết ông nghiện rƣợu), nên ông vui lòng gọi tâng bốc là
tửu lâu, là quán rƣợu (mà tôi dịch là nhà hàng theo ngôn ngữ miền Nam).
Nhóm Lê trí Viễn đã hiểu bài thơ theo ý hƣớng này, cho nên khi chú thích
chữ tạm trong câu 4, các nhà biên soạn đã viết
: ‘’Tạm: một lúc, chốc lát,
chỉ cái thời gian ngắn mà khách vào hàng nghỉ ăn cháo. Từ tạm đây không
phải là tạm bợ, hẵng tạm, nhƣ ăn tạm bát cháo cho đỡ đói. Nếu giải nghĩa
nhƣ thế, sẽ làm giảm cái giá trị ‘’tửu lâu’’ và ‘’thực phả’’ (thực đơn) ở trên.
Tinh thần chỗ này là: Hàng cháo mang danh là quán rƣợu và có thực đơn
đàng hoàng nên lâu nay đƣợc khách hàng mến, thƣờng vào nghỉ ăn trong
chốc lát, dù chỉ có bát cháo và đĩa muối cũng cảm thấy ngon lành và no
nê. Nhƣ thế mới thật hài hƣớc’’.
Viết thêm hai chữ hài hƣớc, nhóm Lê trí
Viễn muốn lách theo cách giải thích của Viện Văn Học, mục đích làm giảm
bớt sự kịch liệt mà nhóm vừa biểu lộ trong thái độ phê bình quan điềm
của Viện này. Nhƣng thông báo của nhóm đã đƣợc truyền đạt: Tác giả bài
thơ vẫn thƣờng đến quán nhậu, vậy không thể là Hồ chí Minh, ngƣời tù chỉ
đƣợc đi qua nhà hàng này một lần (khi bọn lính ‘’bê tha’’ của Quốc Dân
Đảng vào đây nghỉ chân), làm sao biết đƣợc là khách quá giang vẫn
thƣờng vào đây ?
Già Lý đã đƣợc ông Nguyễn (tức Hồ chí Minh sau này) khen là ‘’rất
tử tế với ngƣời nghèo’’. Ta vừa có dịp nhận xét lòng tử tế của ông đối với
một hàng cháo nhỏ bên đƣờng, với bác phu lục lộ vất vả ngày đêm (bài
78).
PHU LỤC LỘ
Dãi gió dầm mƣa chẳng lúc ngơi,
Đắp đƣờng, phu tận tụy không rời.
Ngựa xe kéo đến ngƣời đi đó.
Cảm tạ công anh có mấy ngƣời
Đọc câu thơ cuối cùng này, ta đồng ý với họ Nguyễn khi ông ca tụng
lòng nghĩa hiệp của già Lý: ‘’Lý khá ác với ngƣời giàu, nhƣng rất tử tế với
ngƣời nghèo’’. Cùng một lòng tử tế ấy, lòng nhân ái mênh mông ấy, cụ
khen ngợi công lao của chú gà (bài số 56):
NGHE GÀ GÁY
Mi là một chú gà bình thƣờng,
Báo sáng, ban mai gáy rộn ràng.
29
Một tiếng gáy, toàn dân tỉnh mộng,
Công lao mi đó, phải đâu xoàng?
Ngay cả cột cây số vô tri cũng đƣợc lòng nhân ái bao la của già Lý
làm cho linh hoạt, cụ nói với cột cây số nhƣ nói với ngƣời (bài số 80):
CỘT CÂY SỐ
Chẳng cao cũng chẳng xa,
Không đế cũng không vƣơng,
Nho nhỏ một phiến đá,
Trơ trọi đứng bên đƣờng.
Ngƣời nhờ anh chỉ lối
Không lạc hƣớng lạc phƣơng.
Anh giúp cho ngƣời thấy
Đƣờng ngắn lại dặm trƣờng.
Công anh đâu có nhỏ
Ai ai cũng nhớ thƣơng.
Khi nói về tình thƣơng của Hồ chí Minh trong Ngục Trung Nhật Ký,
Hoài Thanh viết: ‘’Ai đau khổ là Bác thƣơng. Đói, rét: Thƣơng. Buồn, nhớ:
Thƣơng’’. Hoài Thanh nói rất đúng, nhƣng chẳng nhẽ một nhà phê bình
tiếng tăm nhƣ Hoài Thanh lại không thấy rằng, ngoài những tình thƣơng
chung chung kia, tác giả Ngục Trung Nhật Ký còn để cho lòng thƣơng của
mình lan rộng đến cả loài vật đến cả những vật vô tri vô giác nữa, nhƣ
vậy, tình thƣơng ấy có tính giai cấp nữa không, có tập trung vào những
ngƣời cùng có một địa vị giống nhƣ của tác giả trong hệ thống sản xuất
không ? Nhất định là không, và quan niệm siêu giai cấp này không thể là
của Hồ chí Minh, mà là của già Lý. Chính già Lý đã khẳng định quan niệm
siêu giai cấp của mình trong bài số 91:
NỬA ĐÊM (Dạ bán)
Ngủ thì ai cũng thuần lƣơng lắm.
Tỉnh dậy thì phân dữ với lành.
Lành dữ vốn là không định trƣớc,
Phần nhiều do giáo dục mà thành.
Đọc bài thơ này, Hoàng trung Thông viết: ‘’Đừng tƣởng lòng thƣơng
yêu của Bác ở đây là siêu giai cấp’’. Rồi ông bênh vực quan điểm giai cấp
của Hồ: ‘’Thử hỏi có ai nhƣ Bác trong thơ đã thể hiện một lòng thƣơng yêu
giai cấp sâu sắc đến nhƣ thế. Đó là lòng thƣơng yêu cách mạng cao cả
nhất, vì thƣơng yêu không phải để mà thƣơng yêu, mà chính là để hành
động, để phá tan nỗi bất bình, phá tan xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới
công bằng hơn, tốt đẹp hơn, một xã hội mà chúng ta đang ra sức xây
dựng ngày nay’’. Hoàng trung Thông đã phát biểu một ý kiến rất sâu sắc
về tình thƣơng cách mạng: ‘’đó là lòng thƣơng yêu cách mạng cao cả
nhất, vì thƣơng yêu không phải đề mà thƣơng yêu’’.
Nhƣ vậy, tình thƣơng
yêu cách mạng tự nó không có đối tƣợng hay sao ? Nếu ngƣời ta không
thƣơng yêu theo cùng đích của lòng thƣơng thì làm sao đi đến hành động
thƣơng yêu ? Vấn đề do Hoàng trung Thông đƣa ra phát xuất từ một quan
điểm thực dụng thô sơ mà thế giới ngày nay đã bác bỏ. Lời bênh vực của
ông nhằm cứu vãn quan niệm siêu giai cấp của tác giả Ngục Trung Nhật
Ký không thể chấp nhận đƣợc, đó chỉ là những lời bênh vực gƣợng gạo mà
30
nếu biết rằng bài thơ đó không phải là của Hồ chí Minh thì chắc chắn họ
Hoàng sẽ chỗi bỏ tức khắc.
Chẳng những tƣ tƣởng của già Lý có tính siêu giai cấp, nó còn mang
tính duy tâm luận rất đậm đà. Ngay trong bài số 1, đề là Ngục Trung Nhật
Ký, cụ đã tỏ ra duy tâm triệt để:
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao.
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.
Trong bài thơ này, từ tinh thần đƣợc dùng hai lần, mỗi lần có ý
nghĩa khác nhau. Trong câu 2: ‘’Tinh thần ở ngoài lao’’ phải đƣợc hiểu
theo cách giải thích của Đặng thai Mai là: ‘’một thực thể siêu hình, có khả
năng làm chủ thế giới vật chất. Vật chất là tạm bợ, và nhất thời, là có hạn
trong không gian, trong thời gian, vật chất sẽ hủy hoại tiêu tan. Còn tinh
thần, tinh thần là cao cả, thiêng liêng có sức vạn năng và không bao giờ
chết.
Đó là quan điểm của các nhà thơ, nhà văn yêu nƣớc đã nhen nhóm
lên phong trào chống Pháp sôi nổi...dƣới sự lãnh đạo của Hội Duy Tân và
Hội Việt Nam Quang Phục...Về sau, khái niệm vật chất đƣợc gắn vào đời
sống xa hoa ăn ngon mặc tốt, cửa rộng nhà cao. Về tinh thần lại chỉ là đạo
đức thông thƣờng của Đạo Khổng. Các nhà cầm bút chỉ mơ tƣởng tới cái
xã hội hoàng kim không hề có...Thì cũng là một ảo tƣởng tày đình
thôi?...Qua tập Ngục Trung Nhật Ký, chúng ta thấy rằng: Tinh thần không
hề có ý nghĩa siêu hình, tinh thần không tách rời ra ngoài thể phách con
ngƣời...’’
Vì lý do viết và lách, nhà văn Đặng thai Mai tỏ ra khó hiểu và có vẻ
nhƣ mâu thuẫn trong lý luận của ông, thực ra, ông chỉ viết (tức là chỉ nói
thực) khi ông luận về tinh thần nhƣ là thái độ, ý nghĩ định hƣớng cho hoạt
động, quyết định hành động của con ngƣời, tức là ông chỉ căn cứ vào từ
tinh thần theo nghĩa thứ hai trong bài thơ, câu 4: Tinh thần càng phải cao.
Từ tinh thần này chỉ biểu diễn một thái độ, một ý nghĩ nhƣ trong bài Tự
miễn (số 34):
Tai ƣơng cứ bắt ta ra luyện, Càng khiến tinh thần lại khẩn
tƣơng, hoặc trong bài Tứ cá nguyệt liễu (số 93): Vật chất tuy đau khổ,
Không dao động tinh thần. Nhà văn họ Đặng đã khôn khéo chỉ rõ từ ‘’tinh
thần ở ngoài lao’’ hiển nhiên có nghĩa là một thực thể siêu hình, có khả
năng làm chủ thế giới vật chất, từ tinh thần này chỉ có mặt trong bài số 1
là bài đƣợc viết vào Ngục Trung Nhật Ký nhƣ là một bài tựa riêng rẽ chứ
chƣa nhất định đã là của tác giả, và do đó đã bị Đặng thai Mai gạt ra
ngoài vì từ tinh thần ấy chứa đựng một nội dung triệt để duy tâm. Nếu
gán bài thơ này cho Hồ chí Minh tức là đã hoàn toàn đi ngƣợc lại triết học
Mác-xít Lê-nin-nít mà Hồ đã có công truyền bá ở Việt Nam.
Sau khi phân
biệt tinh thần là một thực thể siêu hình, phi vật chất, bất tử, có thể tự
tách ra ngoài thân thể (câu 2) và tinh thần là một thái độ, một ý nghĩ định
hƣớng cho hành động (câu 4), Đặng thai Mai đã mặc nhiên phủ nhận Hồ
chí Minh, nhà vô thần duy vật, nhƣ là tác giả của bài thơ nặng mùi duy
tâm trên mà tôi cho là của già Lý.
Già Lý còn duy tâm hơn nữa trong ba bài thơ số 9, 34 và 113.
BUỔI SỚM II
Sớm dậy, mọi ngƣời tranh bắt rận.
31
Tám giờ, kẻng đánh báo cơm mai.
Khuyên anh cứ chén cho no đã.
Khổ hết vui về, ắt chẳng sai.
TỰ KHUYÊN MÌNH CỐ GẮNG
Không cảnh đông hàn, sắc võ vàng
Sẽ không xuân ấm vẻ huy hoàng.
Tai ƣơng cứ bắt ta ra luyện,
Càng khiến tinh thần lại khẩn trƣơng.
TRỜI QUANG MÂY TẠNH
Sự vật tuần hoàn nguyên đã định
Mƣa tan, nắng hửng, tất nhiên thôi.
Một giây, vũ trụ thay màn ƣớt
Muôn dặm, sơn hà trải gấm phơi.
Nắng ấm, hoa tƣơi, luồng gió thoảng.
Cây cao. cành mƣợt, tiếng chim rơi.
Ngƣời theo vạn vật càng sôi nổi,
Hết khổ là vui, vốn lẽ trời.
Tính duy tâm luận của mấy bài thơ này là hiển nhiên, vì thuyết tuần
hoàn luận thoát thai từ Nho Học, Đạo Học và Phật Học, giải thích số mệnh
con ngƣời là do trời định sẵn, con ngƣời không cƣỡng lại đƣợc, chỉ ngồi
chờ định mệnh an bài.
Thuyết tuần hoàn luận trái ngƣợc hẳn với chủ nghĩa
xã hội, do đó bị các nhà duy vật Mác-xít kết án. Thuyết tuần hoàn cũng
không có liên quan đến chủ nghĩa lạc quan cách mạng, bởi vì thuyết trên
tạo ra những con ngƣời tiêu cực, tin tƣởng vào các lực lƣợng thần bí bao
nhiêu thì thuyết dƣới tạo ra những con ngƣời tích cực, tin tƣởng vào các
lực lƣợng khoa học bấy nhiêu. Cũng vì hiểu nhƣ thể mà các nhà biên soạn
của Viện Văn Học đã phải dịch chữ tuần hoàn trong bài 113 là xoay vần.
Và dịch chữ lý tự nhiên là vốn lẽ đời trong khi nhóm từ lý tự nhiên phải
dịch là vốn lẽ trời mới đúng ý tác giả. Phải xoay sở câu thơ cho đúng tƣ
tƣởng của ‘’nhà chiến sĩ cộng sản vĩ đại’’ nên các dịch giả đã phải muối
mặt buôn văn bán chữ.
ĐỖ THÔNG MINH * NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Tác giả
NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
là ai?Đỗ Thông Minh
NHẬT KÝ TRONG TÙ
獄中日記
Bìa Ngục Trung Nhật Ký - Có viết bài "Vô Đề".
(無 題)
精欲精身
神成神体
更大在在
要事獄獄
大業外中
神成神体
更大在在
要事獄獄
大業外中
(Vô đề)
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại.
(Người dịch không rõ)
(Không đề)
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
Một trong số 60 bài về "Nhật Ký Trong Tù" đăng trong một cuốn sách là của tác giả Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh), giới thiệu về "Cụ Hồ thời gian ở tù bên Trung Quốc".Tham khảo các bài của BBC, Lê Hữu Mục (2003), Đỗ Nam Hải, Tâm Việt (2007), trang nhà Thi Viên, VN Thư Quán, Internet…
Mặc dù người viết bài này cũng như không mấy ai được xem trọn vẹn bản gốc vì bản gốc cũng giống như "Di Chúc Hồ Chí Minh" hầu như không được phổ biến đầy đủ để tha hồ tuyên truyền tùy theo tình hình. Nhưng qua những gì chúng ta biết được, cũng có thể thấy hàng chục điều chứng tỏ Hồ Chí Minh không phải là tác giả của tập thơ. Cuốn sổ tay được nói là gồm phần đầu là thơ với 53 trang và phần sau ghi chép cũng bằng chữ Hán, nhưng nét bút khác hẳn và có thêm chú thích tiếng Việt và Pháp.
Cuốn này nguyên từ Trung Quốc lưu lạc qua Việt Nam, hay HCM mang về, bị bỏ quên ở chỗ nào đó, sau mới được lôi ra và trao cho trách nhiệm đánh bóng HCM… theo đúng tinh thần cực kỳ tự ái, luôn muốn tự đề cao và muốn người khác lầm tưởng mà đề cao mình của HCM.
- Xem 120/133 bài thơ Đường… ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn tứ tuyệt hay bát cú… bằng chữ Hán, Hán-Việt và dịch: - http://www.thivien.net/viewpoemgroup.php?ID=6
- http://vnthuquan.net/TRUYEN/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nnn1ntn31n343tq83a3q3m3237ntn
- Ngục Trung Nhật Ký trên Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_k%C3%BD_trong_t%C3%B9
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_k%C3%BD_trong_t%C3%B9
- BBC - http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/05/050520_nhatkytrongtu.shtml
- - - - -
Ngục Trung Nhật Ký - 獄中日記
Nét bút của người Hoa, nhưng còn non, chưa cứng lắm.
"Ngục Trung Nhật Ký" được nói là của Hồ Chí Minh viết lúc bị tù lần
thứ 2 ở Quảng Tây. Nhưng ít nhất hàng chục dữ kiện về nét bút và nội
dung cho thấy cuốn sách này của một người Hoa, bìa sách ghi thời gian ở
tù và sáng tác là:
29.8.1932
10.9.1933
(hơi
nghiêng trái\, dùng chấm "." và không có gạch nối "-" giữa 2 ngày),
được thêm ngày bị giam "theo Hồ Chí Minh nói hay viết" ở bìa sau: 10.9.1933
29-8-1942
-
10-9-1943
(nghiêng phải /, dùng gạch nối "-" và có gạch nối "-" giữa 2 ngày) với nét bút khác.-
10-9-1943
Do đó, thời gian bị giam cũng có thể đã được chế ra, ghi cho hợp với bìa trước cuốn sách chứ không thật, chỉ sai biệt đúng 10 năm cho tạm hợp với năm tù thật?
2 nét bút rõ ràng khác nhau 1 bên nghiêng từ trái qua phải, 1 bên nghiêng từ phải qua trái, một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.
Xem trang nhà:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml
So với nét bút khi Hồ Chí Minh viết thư cho vợ người Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1928 (bên phải) thì nét bút đã rất cứng, rất tới, chứng tỏ cũng rành chữ Hán (như vậy là văn hóa giật lùi!?).
Để dễ nhận biết, so với chữ "trung" (中) nét vuông và ngang trên thì trong lưu bút tại Bắc Kinh năm 1968 (Việt-Trung hữu nghị, Vạn cổ trường thanh.) (bên trái) và các nơi khác đều với chữ nét tròn và nghiêng… thì khác hẳn.
Có thể xem thêm về chữ Hán cuốn "Chủ Tịch Hồ Chí Minh Bút Danh & Bút Tích", nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin, ngày 10/1/2007.
- Trích bìa "Bản Án Chế Độ" viết năm 1921, xuất bản năm 1925.
- Trích thư báo cáo về việc lập Chính Phủ Lâm Thời gửi Trần Tướng Quân (Trung Quốc) ngày 19/12/1945.
Hồ Chí Minh lấy sách của người ta đưa cho đàn em in, nhưng khi được hỏi không dám khẳng định là của mình. Trong khi đàn em và đám bồi bút cứ thế nhắm mắt ca tụng. Những dữ kiện cho thấy của người khác qua việc Hồ Chí Minh với bút danh Trần Dân Tiên viết về chuyện bị bắt giam.
- - - - -
Là người Việt Nam, một đảng viên CS quốc tế, thế mà không thấy trong tập thơ nói gì tới đất nước và chủ nghĩa CS cả, mà lại nói về Trung Hoa Quốc Dân Đảng!? Tập thơ phải là một người Hoa theo Quốc Dân Đảng nhưng vì lý do nào đó bị bắt.
Ba bài đầu trong Nhật Trung Nhật Ký
Khai quyển
Về Một Số Bài Thơ
Bài
2, Khai Quyển (Mở đầu tập nhật ký), tác giả tự xưng là Lão Phu, chỉ
người già, khi đó Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi, chưa thể tự coi mình
là "lão phu". Dịch giả chỉ dám dịch là "ta" trống không.Bài 5, Thế Lộ Nan (Đường đời hiểm trở), có thật bài này hay 4 câu giữa nằm trong Ngục Trung Nhật Ký không, hay được thêm vào vì cả 133+1 bài mà không bài nào nói tới Việt Nam thì kỳ?
Thế Lộ Nan
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
(Nam Trân dịch)
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
(Nam Trân dịch)
Đường đời hiểm trở
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm "khách quý" ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Có
nhiều thể thơ, hầu hết các bài trong tập này thuộc thể "Ngũ ngôn", "Tứ
tuyệt", "Thất ngôn bát cú"… nhưng đây là bài duy nhất thuộc thể "Thất
ngôn thập nhị cú" tác giả viết? Tác giả nếu là người Việt sao lại bị
coi là "Hán gian", tại sao bài 42 Nhai Thượng cũng lập lại chuyện "Hán
gian" này!?Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm "khách quý" ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Theo tác giả Tâm Việt: "Trong bài "Thế lộ nan", tác giả có đề cập đến từ Việt. Đối với người Quảng: Quảng Đông, Quảng Tây... Tiếng của họ được gọi là "Việt ngữ" (粵語) và đất của họ được gọi là Việt địa, Yue. Việt cũng là đất của Việt Vương Câu Tiễn, Việt địa cựu sơn hà. Tại Trung Quốc, tiếng Quảng Đông còn được gọi là "Việt ngữ" vì hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, nguyên trước là đất của dân tộc Bách Việt (百粵), nên họ gọi hai tỉnh ấy là tỉnh Việt."
Nhất là Quảng Đông, bảng số xe tỉnh này đều bắt đầu bằng "粵". Cũng có khi họ dùng越. Họ gọi chung người Việt Nam là người Kinh (京). Bản gốc dùng chữ "Việt" nào, 越 hay 粵?
- - - - -
Tiến Sĩ Đinh Thế Dũng ở Melbourne, Úc, biết tiếng Nhật (trong có chữ Hán), tiếng Anh, tiếng Pháp, lại là một nhà thơ, đã góp ý khi đọc bản thảo bài viết này của chúng tôi.Theo thiển ý, anh đưa 3 nhận xét mới cần lưu ý:
1- Cần có bản chính gồm đủ mọi bài và bút tự để kiểm chứng.
2- Nhận xét về bút tự từng trang, so sánh với bút tự mà Hồ Chí Minh đã viết (chữ Hán, và số) ở những nơi khác.
3- Bài Thế Lộ Nan rất đặc biệt: Bài này là bài duy nhất nói rõ tư cách đại biểu Việt Nam, thế nhưng rất lạ vì thể thơ toàn cuốn hình như là thể thơ Trung Hoa (tứ tuyệt là nhiều nhất), và bài này mà ở thất ngôn bát cú thì đúng là thể thơ người Trung Hoa miền Nam (những vùng Quảng Đông & Quảng Tây... rất thích). Thử bỏ đi 4 câu giữa, ý thơ đi xuyên suốt và 1 vần, câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu 6.
Kết luận: Nếu đây là bài thơ 8 câu 7 chữ thì chỉnh lắm. Cần phải có bản chính để đối khảo nét chữ.
Bài thơ 3 đoạn 4 câu 7 chữ, không chung vần từ đoạn này qua đoạn khác (kiểu Nam Trân dịch) có vẻ lạc lõng vì nó mang tích thơ mới, trong khi gần như toàn bài được chọn đăng lại là thờ Trung Hoa cổ điển.
Trong bài Thế Lộ Nan, đoạn mà tỏ rõ "danh nghĩa" Việt Nam nhất cần phải suy xét thật kỹ, không biết có thêm vào không. Đọc kỹ 4 câu chót, đây là khẩu khí của một người than thở về cách đối xử với đồng bào, hàng xóm, chỗ thân quen (vì vậy mới đem chuyện xử thế, nôm na là ăn ở ngày xưa và ngày nay). Nếu là một ông đại biểu VN thì lại "lãng xẹt" về cả nội dung đến hình thức!
Khi Nam Trân dịch thì mất hẳn tính thơ Đường, và tìm cách đưa bài Thế Lộ Nam một hình ảnh khác với hình ảnh của một người than thở là đường đời khó khăn. Hồ Chí Minh không có giọng điệu than thở như vậy, vì trong thơ phải có "thép" mà. Do đó, tôi đồng ý với anh là bài "Thế Lộ Nan" cần phải được đặt lại vấn đề.
- - - - -
Bài 40, Lạc Liễu Nhất Chích Nha (Rụng mất một chiếc răng), Hồ Chí Minh chưa già làm gì mà rụng răng, hình ảnh nào Hồ Chí Minh sún răng không?Bài 42, Nhai Thượng (Trên đường phố), Hồ Chí Minh là người Việt thì sao bị coi là "Hán Gian"?
Nhai Thượng
Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.
(Nam Trân dịch)
Trên đường phố
Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.
Bài 5 Thế Lộ Nam cũng đã đề cập tới chuyện "Hán gian" này.Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.
Bài 44, Trưng Binh Gia Quyến (Gia quyến bị bắt lính), nhà Hồ Chí Minh đâu có ai bị trưng binh đâu mà đem tâm tình ấy ra than thở?
Trưng Binh Gia Quyến
Lang quân nhất khứ bất hồi đầu
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.
(Nam Trân dịch)
Gia quyến người bị bắt lính
Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.
Bài 59, Thụy Bất Trước (Không ngủ được) có câu: "Mộng hồn hoàn nhiễm ngũ tiêm tinh", nên dịch là "Sao năm cánh nhọn mộng hồn quanh", tại sao Nam Trân lại dịch là: "Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh?".
Đâu có chữ nào nói tới màu vàng, đây là lối dịch của văn nô, gượng ép
kéo bài thơ vào chuyện Việt Nam vì hầu như cả tập thơ quên không nói
tới quê hương, dân tộc.Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.
Thụy Bất Trước
Nhất canh... nhị canh... hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
(Nam Trân dịch)
Không ngủ được
Một canh... hai canh... lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
Theo tác giả Tâm Việt: "Trong
bài Thụy Bất Trước, câu "Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh" 夢魂 環繞五尖星
(The dream-soul surrounds with five sharp stars), ý của tác giả là bày
tỏ giấc mơ may mắn cho mình và thịnh vượng cho tổ quốc mình. Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
Thật vậy, trong Sấm Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có câu: "Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng - Lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh.". Biểu tượng ngũ tinh là điềm may mắn mưa thuận gió hòa, nhân tình yên ổn.".
Như trong cuốn "Kỷ Niệm 100 Năm Phong Trào Đông Du" của chúng tôi đã trình bày, cờ của Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo đã dùng hình ảnh "Ngũ Tinh Liên Châu" (4 chấm tròn trắng tại 4 góc hình chữ nhật và 1 chấm tròn ở giữa lien kết với nhau bằng 2 đường chéo), đó là hiện tượng đặc biệt cứ một chu kỳ 60 năm (một hội) thì cả 5 ngôi sao nổi tiếng Kim, Mộc, Thủy, Hỏa Thổ tuy quay theo qũy đạo khác nhau, tốc độ khác nhau, nhưng cùng đứng về một phía. Theo quan niệm Đông Phương, đó là biểu tượng kỳ diệu và may mắn. Vậy "ngũ tiêm tinh" không phải là "sao 5 cánh" mà là "5 ngôi sao nhọn".
Bài 61, Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo (Viết hộ báo cáo cho các bạn tù), Hồ Chí Minh là người Việt đi viết đơn tiếng Hoa cho người Hoa sao lạ vậy?
Thân thế của tác giả cũng được biểu lộ, là người có đủ kiến thức về luật pháp để viết các đơn kiện cho các bạn tù, với sách luật có sẵn để tra cứu... "Phụng Thử", "Đẳng Nhân" (là đồng đẳng) trong tư pháp, hành chính vừa mới học, chứ không có nghĩa "thừa lệnh" như dịch giả viết.
Thế Nan Hữu Mẫn Tả Báo Cáo
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư;
"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thủy học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
Thế hữu biên tu báo cáo thư;
"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thủy học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
(Nam Trân dịch)
Viết hộ báo cáo cho các bạn tù
Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
"Chiểu theo", "thừa lệnh" (?)nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Bài 64, Song Thập Nhất (11-11),
Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt thì mắc mớ gì nhớ ngày chấm
dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918), cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật
xâm lược của nhân dân Trung Quốc, tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối năm
1942 là gần 6 năm và hô hào quân Trung Hoa phản công quân Nhật này…Viết thay báo cáo dám từ nan;
"Chiểu theo", "thừa lệnh" (?)nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Bài 74, Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích (Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta), Hồ Chí Minh khoảng 51-52 tuổi thì làm gì đã chống gậy sớm vậy? Ai lại cho phép đem gậy vào trong tù trừ khi người đó quá già yếu, không thể tự đi lại được?
Ngục Đinh Thiết Ngã Chi Sĩ Đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
(Nam Trân dịch)
Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Theo tác giả Tâm Việt: "Chiếc
gậy đã là bạn đồng hành của tác giả qua bao nhiêu năm dài. (Huề thủ
đồng hành kỷ tuyết sương), chứng tỏ tác giả già yếu từ lâu, mà chiếc
gậy này chắc chắn không phải là chiếc gậy thường vì giá trị của nó đi
với uy thế của tác giả - đó là sự chính trực và kiên cường của vị quan
thanh liêm. (Nhất sinh chính trực hựu kiên cương).". Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Đọc lại bài "Thất Cửu" trong cuốn Giáo Trình Chữ Hán của Lê Văn Quán, trang 22, do nhà xuất bản Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp Hà Nội năm 1978 để thấy có chỗ HCM khoe mình khỏe như thế nào.
(63 tuổi, nếu tính HCM sinh năm 1890 thì bài này làm năm 1953?)
Thất Cửu
Nhân vi ngũ tuần thường thán lao?,
Ngã kim thất cửu chinh khang cường,
Tụ cung thanh đạm tinh thần sảng,
Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.
Ngã kim thất cửu chinh khang cường,
Tụ cung thanh đạm tinh thần sảng,
Tố sự thung dung nhật nguyệt trường.
(Xuân Thủy dịch)
Sáu mươi ba tuổi
Chưa năm mươi tuổi đã than già,
Sáu ba, mình vẫn nghĩ là đương trai,
Sống quen thanh đạm nhẹ người,
Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung.
Bài 90, Tứ Cá Nguyệt Liễu (Bốn tháng rồi), Hồ Chí Minh đã già đâu mà nói răng rụng mất một chiếc, nhất là tóc bạc thêm mấy phần, tức đã bạc và nay bạc thêm nhiều?Sáu ba, mình vẫn nghĩ là đương trai,
Sống quen thanh đạm nhẹ người,
Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung.
Tứ cá nguyệt liễu
…
Lạc liễu nhất chích nha,
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.
Phát bạch liễu hứa đa,
Hắc sấu tượng ngã quỷ,
Toàn thân thị lại sa.
…
(Nam Trân dịch)
Bốn tháng rồi
…
Răng rụng mất một chiếc,
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
Tóc bạc thêm mấy phần,
Gầy đen như quỷ đói,
Ghẻ lở mọc đầy thân.
…
Bài 98, Mộng Ưu Đãi (Được ưu đãi),
qua bạn bè và liên hệ quyền thế, chúng ta có thể biết địa vị chức vụ
của tác giả. Trong khi HCM viết thời kỳ này là bị cùm gông, lê lết…
Mộng Ưu Đãi
Ngật câu phạn thái, thụy câu chiên
Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã
Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn
Hựu cấp linh tiền mãi báo, yên
Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã
Ngã tâm cảm khích bất thăng ngôn
(Huệ Chi dịch)
Được ưu đãi
Ăn có cơm rau, ngủ có mền
Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền
Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu
Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên.
HCM
từng kể trong cuốn "Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch"
là lần ở tù này bị cùm gông, lê lết cơ mà!? Và không hề có chỗ nào
viết là đã từng làm cả tập thơ trong tù Quảng Tây cả.Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền
Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu
Cảm kích lòng ta, chẳng nói nên.
Theo tác giả Tâm Việt: "Tác giả là một viên chức của TH Quốc Dân Đảng nên trong thời gian bị nghi ngờ vẫn được quyền lợi hơn hẳn những người tù bình thường. Ông cũng ca ngợi đưa chi tiết tài đánh giặc từ Hồ Nam, Chiết Giang, Miến Điện đến Vân Nam của tướng bạn và vui mừng khi bạn được thăng chức tướng, bài 109 (Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh). Khi ở tù, ông cũng được các viên chức đến thăm viếng, bài 102 (Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên).
Với sự quen biết thân thiết với tướng Lương Hoa Thịnh, ông đã có giọng văn kẻ cả với đàn em đệ tử của vị tướng này, bài 110 (Tặng Tiểu Hầu (Hải)) trong câu "Vô phụ Lương công giáo dục tình". Thêm nữa qua câu "Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân", chúng ta biết tác giả đảng viên đã sống theo câu nói này mà truyền lại cho người nghe là Tiểu Hầu.
Vì là bạn thân lâu đời của tướng Lương Hoa Thịnh nên tác giả được cung cấp mọi nhu cầu từ kinh tế đến tư tưởng. Vì biết nhau đã lâu nên các chiến công đánh Nam dẹp Bắc của tướng Lương Hoa Thịnh đều được tác giả ghi nhận và ca ngợi."
Bài 91, "Bệnh Trọng" (Ốm nặng). Theo tác giả Tâm Việt: "Tác giả đã ví thân thể mình như là nơi của cuộc chiến như tại đất Việt xưa, nơi Ngô-Việt giao tranh. Thường thường, bị bệnh vì khi bên trong tâm sinh lý không vững chãi thì một cơn gió lạnh hoặc một trận nóng ngắn cũng làm dao động cơ thể thành bệnh nặng. Nột thương ngoại cảm là danh từ thường được dùng để chỉ bệnh chứng như thế nào. Nội thương có thể là nhớ nhà, uất hận, buồn chán, tâm bệnh như tương tư hoặc ăn uống thiếu thốn nên cơ thể suy nhược - còn ngoại cảm là bị thời tiết, nơi ở, môi trường chung quanh ảnh hưởng. Người dịch Nam Trân đã cố ý dịch sai là "Nội thương" đất Việt cảnh lầm than" để đem Việt Nam, vùng Đông Dương ra khích động cảm xúc thù hận chiến đấu.
"Nội thương Việt địa cựu sơn hà", theo nghĩa đen là trong lòng nhớ thương đất Việt (chỉ Quảng Đông - Quảng Tây) núi sông xưa.
"Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt", nghĩa là còn bây giờ là Trung Hoa với cái cảm lạnh của khí trời mà thành bệnh. Ông so sánh quá khứ đất cũ là Việt địa và bây giờ là đất Trung Hoa."
Bệnh Trọng
Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;
Ngục trung hại bệnh chân tân khổ,
Bản ưng thống khốc khước cuồng ca.
(Nam Trân dịch)
Ốm nặng
"Ngoại cảm" trời Hoa cơn nóng lạnh,
"Nội thương" đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!
Cũng theo tác giả Tâm Việt: "Việt
Nữ Kiếm 越女 劍 (Sword of the Yue Maiden) là một câu chuyện của Kim Dung
do một người Trung Hoa viết, nếu không hiểu đầu đuôi, mọi người Việt
Nam cũng tưởng là câu chuyện nói về các anh thư Việt Nam. Hoặc nói về
Tây Thi 西施 gái nước Việt, một người kiếm củi họ Thi, dệt vải ở núi Trữ
La, Gia Lãm, thuộc nước Việt cổ - chúng ta lại gom vào mà nhận Tây Thi
là gái Việt Nam thì thật là ngu ngơ, đáng chê trách."."Nội thương" đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!
Bài 102, Ngũ Khoa Trưởng, Hoàng Khoa Viên (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng), đây là 2 viên chức Trung Hoa Quốc Dân Đảng, bạn tác giả thực là người Hoa, không thể là bạn Hồ Chí Minh được.
Bài 104, Dương Đào Bệnh Trọng (Dương Đào ốm nặng), một người Tàu bạn tác giả bị bệnh, không liên hệ gì Hồ Chí Minh.
Bài 108, Độc Tướng Công Huấn Từ (Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng), Hồ Chí Minh bị quân Tưởng Giới Thạch bắt, lại là người Cộng Sản, sao lại học lời và ca ngợi Tưởng Giới Thạch?
Độc Tưởng Công Huấn Từ
Bách chiết bất hồi, hướng tiền tiến,
Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên.
Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm, khổ cán dữ ngạnh cán,
Tự hữu thành công đích nhất thiên.
(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng
Gian khó không lùi, vẫn tiến lên,
Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen.
Theo tác giả Tâm Việt: "Tác
giả biết quá khứ thời niên thiếu của lãnh tụ Tưởng Giới Thạch. Trong
khi đó ông Hồ và người dịch không biết nên dịch sai câu "Cô thần
nghiệt tử, nghĩa đương nhiên" thành "Thù nhà nợ nước, nghĩa đương
nhiên". 辜臣 孽子: Cô thần nghiệt tử, nghĩa đương nhiên là đứa bé tội
nghiệp sinh ra không may mắn nên lẽ đương nhiên phải cố gắng tự thân
kiếm sống mà thành công. Không có chữ gia, chữ quốc, chữ thù, mà lại
dịch là thù nhà nợ nước là thế nào?".Thù nhà nợ nước, nghĩa đương nhiên;
Quyết tâm gắng gỏi và kiên nghị,
Nhất định thành công sẽ có phen.
Bài 109, Lương Hoa Thịnh Tướng Quân Thăng Nhậm Phó Tư Lệnh (Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh), làm gì mà khen cả Tướng của Tưởng Giới Thạch?
Bài 110, Tặng Tiếu Hầu (Hải) (Tặng chú hầu (Hải)), tác giả khuyên ghi khắc lời dạy "cần kiệm liêm chính" của Lương Khải Siêu, Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Một đảng viên Quốc Tế Cộng Sản suốt đời vì đảng mà sao không thấy chỗ nào nhắc gì tới Mác-Lê hay Cộng Sản cả?
Tặng Tiểu Hầu (Hải)
Ấu nhi học dã, tráng nhi hành,
Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân;
Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính,
Vô phụ Lương công giáo dục tình.
Thượng trung đảng, quốc, hạ trung dân;
Kiệm cần, dũng cảm hòa liêm chính,
Vô phụ Lương công giáo dục tình.
(Đỗ Văn Hỷ dịch)
Tặng chú hầu (Hải)
Bé thì phải học, lớn thì hành,
Với dân, đảng, nước, dạ trung thành;
Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính,
Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình.
Những bài còn lại hầu hết thuộc loại tả cảnh, tả tình… Với dân, đảng, nước, dạ trung thành;
Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính,
Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình.
Chẳng thấy "bạo lực cách mạng", "đấu tranh giai cấp" hay "vô sản chuyên chính" đâu cả!?
- - - - -
Nhân vật ông già tên "Lý" được nhắc tới trong cuốn "Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch" phải chăng là tác giả?- - - - -
Các ấn bản Nhật Ký Trong Tù
1- 1950, nxb Viện Văn Học, 114 bài.2- 1985, nxb Văn Nghệ, 85 bài và dịch ra tiếng Pháp.
3- 1994, nxb Thế Giới, 73 bài và dịch ra tiếng Anh.
4- 2003, nxb Văn Học, 135 bài.
Bài 135 "Tân Xuất Ngục Học Đăng Sơn"
(Kể
chuyện HCM vừa ra khỏi ngục và học leo núi, nếu đúng là tác giả tập
thơ thì thân đi phải chống gậy còn học leo núi làm gì!?)
Sao bây giờ lại đẻ thêm ra bài thứ 135?Đảng CSVN giữ tác phẩm rồi úm ba la muốn bầy trò gì thì bầy???
- - - - -
Ý KIẾN CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU
Lời nói đầu của bản in Nhật ký trong tù, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1960, cũng ghi đây là "Cuốn sổ tay của Hồ Chủ Tịch, gồm những bài thơ mà Người đã viết trong cảnh lao tù từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943."Trong tù thì Hồ Chí Minh lấy đâu ra giấy bút mà viết ngày này tháng nọ, làm một hơi 133 bài thơ và ghi chú chuyện thời sự...?
- - - - -
Về Niên Biểu
Bìa
sách ghi ngày 29/8/1932-10/9/1933, lưng sách lại ghi thêm ngày
29/8/1942-10/9/1943. trên chữ "Hoàn" (完, chấm hết) có vẻ thêm vào cho
phù hợp với năm tù của Hồ Chí Minh? Còn ngày tháng tù thì chưa hẳn. Một bên dùng chấm, 1 bên dùng gạch ngang.Theo ông Nguyễn Đình Thi (1924-2003, thuộc thế hệ các nghệ sỹ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1995, ông là Chủ Tịch Ủy Ban Toàn Quốc Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật) viết năm 1950 (tài liệu của Nha Thông Tin Việt Bắc) rằng: "Rồi hoạt động ở Tàu 1941-1942, Cụ bị bắt đi trong 62 ngày"…
Về Nét Bút
Từ
trang đó (ghi chú từ trang 54) trở đi, nét chữ viết khá khác
phần thơ. Theo những người biên soạn cuốn sách thì phần sau là
phần tác giả dùng làm sổ tay, ghi chép các sự kiện chính
trị quốc tế, khu vực và Việt Nam. Đặc biệt hơn là trong phần
sổ tay này có nhiều chữ tiếng Việt và tiếng Pháp viết lẫn
vào với chữ Hán.Hai nét chữ khác nhau (phần thơ và trong sổ tay ở phần sau của HCM), chứng tỏ phần sau là phần viết thêm vào để tự nhận là của mình, tức cướp "tác quyền".
Về Số Lượng Bài Thơ
Có
nơi thì nói 115 (Harrison S. Salisbury), 120, 133, 134, 150 (Nguyễn
Đình Thi)…??? Điều này cho thấy sự bất nhất và thiếu thành thật của
nhóm chủ trương đưa ra, cứ thập thò thêm bớt.
Theo Học Giả Lê Hữu Mục
"Họ đánh lừa độc giả trong nước là cuốn sách của tôi (Hồ Chí Minh Không Phái Là Tác Giả Nhật Trung Nhật Ký) ra sau tập sách của họ. Họ nói sách tôi ra năm 1990, còn sách họ ra năm 1989. Sự thật là các bài viết của tôi đã đăng từng kỳ trên tạp chí "Làng Văn" từ năm 1989, đến năm 1990 mới in thành sách. Còn sách của họ phát hành năm 1990, nhưng đề lui năm lại là 1989!
"Lại nữa, đề sách đã là lời thú nhận: "Suy nghĩ lại về Ngục Trung Nhật Ký". Tại sao lại phải suy nghĩ lại, có vấn đề mới phải suy nghĩ lại. Họ xác nhận là trong thời chiến họ phải dùng những lời dao to búa lớn để tuyên truyền, họ thú nhận là đã "cường điệu", mà cường điệu là "exagerate", là lớn lối, bịa đặt thêm. Họ bảo phải làm thế để tạo một quan niệm sáng tác gương mẫu, là phải theo hướng sáng tác như thơ của bác, bình dân và trong thơ phải có thép (chiến đấu tính).
"Trước sau gì chỉ là một vụ bịp, một tấn kịch đóng rất vụng. Hồ Chí Minh úp mở nhận là thơ của mình. Đám nô bộc văn nghệ cung đình dùng ống đu đủ thổi phồng lên rất lố bịch. Một chứng cớ không thể chối cãi là chữ ghi ngoài bìa sách năm tác giả bị tù là 29 – 8 - 1932 đến 10 – 9 - 1933. Năm đó thì Hồ Chí Minh chỉ bị Quốc Dân Đảng bắt và cầm tù ở bên Tầu vào năm 1942 - 1943 thôi. Thời gian cách xa nhau 10 năm trời.
Trong Tổng Tập Văn học của Hà Nội tại tập 38 trang 507 có in lại hình bìa, nhưng lại xóa bỏ ngày tháng tù của nguyên bản. Rõ ràng có sự che giấu, khuất tất.....
Thân thế tác giả Ngục Trung Nhật Ký
Tâm Việt
Tác giả viết cho ai?Chắc chắn là không viết cho dân tộc Việt Nam đọc, mà viết cho dân Trung Hoa, chẳng hạn như bài cổ động kháng chiến chống Nhật, ca ngợi Thống Tướng Đảng Trưởng Tưởng Giới Thạch hay bài khen con gà trống cạnh nhà tù bài 52 (Thính kê minh) nhờ tiếng gáy của nó đánh thức dân Tàu dậy mà thực hiện lòng ái quốc.
Địa vị ông thế nào?Đã có danh vọng sợ mất tiếng tốt sẵn có của mình. "Bả nhân danh dự bạch hy sinh" nghĩa là "Cho người vô cớ mất thanh danh". "Gián điệp hiềm nghi không niết tạo" nghĩa là "Bịa chuyện tình nghi là gián điệp".
Tuổi tác chừng bao nhiêu?Đã lên tuổi lão phải chống gậy, răng rụng, tóc bạc.
Tâm trạng ra thế nào?Tức giận vì bị hàm oan, kiêu hãnh vì sự hiểu biết và quá khứ của mình. "Thí vấn dư sở phạm hà tội ? Tội tại vị dân tộc tận trung!" nghĩa là "Thử hỏi chính ta phạm tội gì ? Có phải tội vì tận trung với dân tộc Trung Hoa của mình hay sao!". Bài "Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo", làm đơn kiện cho bạn tù.
Thân nhân bạn bè là ai?Các tướng lãnh trong quân đội Trung Hoa dân Quốc. Bài "Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên" và bài "Hoàng khoa viên lai thám", bạn bè viếng thăm.
Quan niệm chính trị thế nào?Cần kiệm liêm chính, trước trung với đảng, tổ quốc rồi mới đến nhân dân.
Tác giả yêu nước nào? Trung Hoa Dân Quốc.
Quê hương ông ở đâu?Túc Vinh, là nơi bị bắt khi ra phố chơi; thuộc huyện Thiên Bảo, Tỉnh Quảng Tây.
Niềm tin tôn giáo nào?Thờ Quan Công. "Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm" nghĩa là "Mặt trời đỏ sáng mãi như tâm của Quan Công". Đa số người Quảng thờ Quan Công.
Biết ngoại ngữ nào? Tiếng Anh.
Sức chịu đựng khó nhọc?Rất yếu vì tuổi cao, than vẫn khi bị rụng răng, mất gậy. Vì bị oan nên tinh thần buồn chán nhưng sau đó nhờ có vốn học vấn nên giải khuây bằng việc ngâm thơ, để sau đó gặp bạn hữu là tướng Lương Hoa Thịnh và Tiểu Hầu thiếu tướng giúp đỡ tiền bạc mua giấy mực bút lông mà viết, kể cả làm đơn khiếu nại cho bạn tù.
- - - - - - - - - - - - - -
Hiện giới thiệu trên mạng có 120 bài
1. Vô đề
|
81. Mạc ban trưởng
| |
2. Khai quyển
|
42. Nhai thượng
|
82. Thiên Giang ngục
|
43. Lộ thượng
| ||
84. Tha tưởng đào
| ||
5. Thế lộ nan
|
45. Giải trào
|
85. Lai Tân
|
6. Tảo
|
46. Vãng Nam Ninh
|
86. Đáo Liễu Châu
|
7. Ngọ
|
87. Cửu bất đệ giải
| |
8. Vấn thoại
|
48. Điệt lạc
|
88. Dạ bán
|
9. Ngọ hậu
| ||
10. Vãn
|
50. Nam Ninh ngục
| |
11. Tù lương
|
51. Nạp muộn
|
91. Bệnh trọng
|
12. Nạn hữu xuy địch
|
52. Thính kê minh
|
92. Đáo Quế Lâm
|
13. Cước áp
|
93. Nhập lung tiền
| |
14. Học dịch kỳ
|
54. Hựu nhất cá
|
94. ?!
|
15. Vọng nguyệt
|
95. ?
| |
16. Phân thuỷ
| ||
17. Trung thu
|
57. Hoàng hôn
| |
18. Đổ
|
58. Công kim
|
98. Mông ưu đãi
|
19. Đổ phạm
|
59. Thuỵ bất trước
|
99. Triêu cảnh
|
20. Nạn hữu Mạc mỗ
|
60. Ức bạn
|
100. Thanh minh
|
101. Vãn cảnh
| ||
62. Lại sang
| ||
23. Tẩu lộ
|
103. Hạn chế
| |
24. Mộ
|
64. Song thập nhất
|
104. Dương Đào bệnh trọng
|
105. Bất miên dạ
| ||
26. Điền Đông
|
66. Chiết tự
|
106. Cửu vũ
|
67. Lữ quán
|
107. Tích quang âm
| |
68. Tảo tình
| ||
30. Tự miễn
|
110. Tặng Tiểu Hầu (Hải)
| |
31. Dã cảnh
|
111. Thu cảm
| |
32. Chúc than
|
112. Nhân đỗ ngã
| |
33. Quả Đức ngục
|
73. Trúc lộ phu
| |
35. Tảo giải
|
75. Công lý bi
| |
116. Thu dạ
| ||
77. Ký Nê Lỗ
|
117. Tình thiên
| |
38. Dạ lãnh
|
78. Đăng quang phí
| |
39. Bang
|
119. Tức cảnh
| |
80. Quách tiên sinh
|
120. Kết luận
|
- - - - - - - - - - - - - -
Một Vài Suy Nghĩ
Sau Khi Đọc Lại Tập Thơ Ngục Trung Nhật Ký
Đỗ Nam Hải
Tường thuật từ Sài Gòn và chị Bảo Khánh ghi lại tại Sydney, Úc vì máy điện toán của anh bị công an tịch thu chưa trả lại.Ngày 19/5/2008, nhân kỷ niệm 118 năm ngày sinh HCM, nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tại Hà Nội, VN đã tái bản tập thơ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ hay NHẬT KÝ TRONG TÙ, được nói của HCM là tác giả viết khi bị quân Tưởng Giới bắt giam tại Quảng Tây, Trung Quốc từ 29/8/1942 đến 10/9/1943. TS Nguyễn Duy Hùng chịu trách nhiệm xuất bản và TS Nguyễn Minh Nghĩa chịu trách nhiệm nội dung.
Theo lời giới thiệu ở trang 7, tập thơ gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán, phần cuối có ghi những sự kiện về quân sự và thời sự.
Tập thơ được cho là: "Một văn kiện lịch sử quan trọng, một tác phẩm văn học xuất sắc, có tác dụng giáo dục sâu sắc, phẩm chất và đạo đức cách mạng trên nhiều thế hệ…".
1- Tâm hồn của tác giả là một người Trung Hoa.
Bài "Song Thập Nhật" thực ra là "Song Thập Nhất"
(11/11, ngày chấm dứt Thế Chiến Thứ 1 (1914-1918))
Ngày 10/10/1911 1à lễ Quốc Khánh Trung Hoa Dân Quốc kỷ niệm cuộc nổi dậy ở Vũ Xương năm Tân Hợi, kẻ thù của CS và không liên hệ gì tới VN.
2- Bài "Kỷ niệm họ Hầu tặng một cuốn sách" trang 267…
Chủ nhiệm họ Hầu tặng một bộ sách (Người dịch: Đỗ Văn Hỷ)
Sách ngài Chủ nhiệm mới đưa sang,
Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang;
Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ,
Chân trời một tiếng sấm rền vang.
Hầu Chủ Nhiệm là Hầu Chí Minh, chủ nhiệm chính trị Chiến Khu 4, đã theo lệnh Tưởng Giới Thạch thả HCM ra.Đọc đoạn, tinh thần chợt mở mang;
Còn vẳng bên tai lời lãnh tụ,
Chân trời một tiếng sấm rền vang.
Là người nước ngoài ở tù mà còn được tặng sách? Tháng 1/1941, HCM về hang Bắc Bó, tháng 5/1941 đã làm lãnh tụ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh), vậy còn lãnh tụ nào của HCM nữa đây? Đúng là câu chuyện của hai người Hoa chứ không phải người Việt.
3- Về tâm tư HCM, sao không thấy lo toan về chuyện đất nước?
Đọc cả tập thơ không thấy nói gì tới danh nhân, địa danh Việt Nam. Trong cuốn "Những Mẩu Truyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch" do nxb Văn Học, Hà Nội, phát hành năm 2001, trang 105 và 107… của Trần Dân Tiên tức HCM kể chuyện:
"Đi liền 10 đêm và 5 ngày, cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì chiều hôm đó cụ đã bị bắt và gian khổ lại bắt đầu. Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao CHS hơn 2 tuần, ngày thì mang gông, đêm đeo cùm. Trong khi cụ Hồ lê lết tấm thân mệt lử từ nhà giam này đến nhà giam khác, có lẽ những việc lớn đang dồn dập trong nước và trên thế giới, ai khuyên bảo đồng chí, ai giúp đỡ và đẩy mạnh việc tổ chức, có lẽ các nước Đồng Minh đã đổ bộ lên Đông Dương, có lẽ Phát-Nhật đã cắn nhau, có lẽ là các đồng chí trong đảng CS Đông Dương và các hội viên của Việt Minh đang đớn đau hỏi nhau cụ Hồ bị tai nạn gì? Lòng cụ Hồ rối như tơ vò vì phải ngồi im vô ích trong khi công việc đang đòi hỏi cụ, mà thời gian đi qua không chờ người…"Thế thì thật vô lý, văn suôi thì thiết tha kể những mối lo gan ruột như thế mà sao trong tập thơ không hề thấy nói gì, dù chỉ 1 dòng tới những chuyện này???
Tóm lại là dù ở tù, HCM luôn lo âu về tình hình đất nước, các đồng chí trong đảng CS Đông Dương…"
Nếu HCM ở tủ Quảng Tây hơn 1 năm 8/1942-10/1943 mà viết cả tập thơ như vậy, sao khi ở tù Hồng Kông 6/1931-1/1933, gần 2 năm mà không thấy viết chữ nào cả!?
Bài nói chuyện được phát trên VN Sydney Radio ngày 31/8/2008
(sau phần Võ Đại Tôn) và đưa lên mạng.
http://www.vnsr.net/
(từ quá giữa phần 2, sau phần nói chuyện của ông Võ Đại Tôn)
- - - - - - - - - - - - - -
Có người nghi ngờ, có người tin, có người cho là HCM lấy thơ người
khác và viết thêm thơ mình vào, lập lờ đánh lận con đen...!?
Nhưng căn cứ vào những chứng cứ hiển nhiên,
HCM không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký gốc được.
Tìm hiểu cuốn Ngục Trung Nhật Ký Trên BBC…
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/05/050520_nhatkytrongtu.shtml
Với các góp ý:
Hoa MaiTôi đã từng nghiền đi ngẫm lại tập Nhật Ký Trong Tù. Có một điều lạ là sau này trên báo người ta lại đăng thêm một số bài mới được dịch. Không lẽ bản dịch Hán văn đến chữ (khó đến độ nay) mới đủ khả năng dịch nó? Hay còn điêu gì khuất tất? Giọng thơ mà tôi cảm được ở Nhật Ký Trong Tù nghe rất khác với giọng thơ của các bài sau này. Tôi hoàn toàn không nghĩ rằng ngày tháng bị ghi lộn. Làm sao mà bạn có thể ghi lộn được cái ngày tháng quá nhiều ấn tượng lên cuốn sổ gọi là để đời?
Huy
Nếu trong bài thi của một thí sinh mà có hai nét chữ khác nhau (vần thơ và chữ trong sổ tay), trên bìa sách ngày, tháng trước khi thí sinh thi mười năm, quí vị có nghĩ là bài đó của chính thí sinh đi thi không? Ông Hồ Chí Minh hay dùng những danh ngôn của người khác nói, những người tôn sùng ông đã "lập lờ" là "bác nói". Tôi nghĩ chuyện này cũng không ngoại lệ.
Leo Wong, Toronto, Canada
Ông Hồ có cái tính thích tự tôn sùng bản thân của mình, chả có ai đi viết thơ hay lấy tên khác viết báo để tự ca ngợi bản thân mình như ông Hồ cả. Chưa kể bản thân của ông chụp quá nhiều hình, quay quá nhiều phim mà bản thân ông lại đóng một vai chính như một người rất ư là cao cả, nếu như ông cao cả như người ta tôn sùng hẳn nhiên bản thân ông Hồ phải biết khiêm tốn, đằng này lại ngược lại. Hồi còn học cấp ba, tui cứ thắc mắc mãi tại sao người khác lại rõ đến từng chi tiếc rằng ông Hồ bị đày đi đâu và làm gì mà xuất khẩu thành thơ từ những nơi như thế nếu không nói trắng ra là tự ông Hồ nói ra hoặc CS tự bịa ra. Chưa kể, nhà tù của Tưởng là tù chính trị, không nằm ngoài khả năng thơ của ông Hồ là thơ của người tù chính trị khác!!!
Da Vàng, San Jose
Cũng chẳng có gì lạ, người ta sẽ còn mãi đưa ra những tin thế này. HCM không được mất đúng ngày (3/9/1969 thay vì ông đã qua đời từ ngày hôm trước, 2/9/ 1969), thì cuốn nhật ký lấy gì gọi là đúng ngày chứ. Mà phía quan thầy cũng thế thôi. Stalin cũng đâu được chết đúng ngày đâu mà.
Xét về ý nghĩa, lắm bài trong "Ngục Trung Nhật Ký" chỉ là copy ý tưởng. Ví dụ: Thơ nguyên văn của Trung Hoa: "Quân tại Tương Giang đầu Thiếp tại Tương Giang vỹ Tương giao bất tương thức Đồng ẩm Tương Giang thuỷ.". Thì trong Nhật Ký Trong Tù, lại có thơ: "Quân tại thiết song tiền. Thiếp tại ..." Mà được tạm dịch là: "Anh ở trong song sắt em ở ngoài song sắt gần nhau trong tấc gang mà biển trời cách mặt..." còn nhiều bài trong đó cũng vậy nữa.
Nguyễn Hùng, Hoa Kỳ
Ngục Trung Nhật Ký là một tập thơ vừa có giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng. Cho dù có những ý kiến phảm bác, hay không đồng ý. Thì càng làm cho tác phẩm có giá trị hơn, nổi tiếng hơn và vĩ đại hơn.
Trịnh Chương, Thanh Hóa
Cách mạng VN dựa vào dân là chính, nếu như lấy người làm của mình thì người dân VN sẽ nghĩ thế nào? Hơn nữa tài năng thơ phú của Bác Hồ đã thể hiện qua hàng loạt các bài thơ bác làm gửi tặng đồng bào chiến sĩ.
Cũng đừng quên Bác Hồ sáng lập khá nhiều tờ báo ở nước ngoài. Còn về nhân cách, Người chưa bao giờ nhận riêng công trạng về mình, một đời giản dị vì dân vì nước. Con người tài đức như thế thì làm sao không phải là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký chứ? Nhiều bạn ở đây có khi chưa đọc hết một phần ba tập Nhật Ký đã vội ra ý kiến, như thế chả sai lầm sao. Còn giá trị nghệ thuật tác phẩm thì cứ để người có chuyên môn đánh giá mới thấy hết. Hồi cấp ba mới đọc vài bài thơ trong sách thì sao hiểu được giá trị của nó.
Tony, Canada
Nếu thật ông Hồ Chí Minh viết cuốn Nhật Ký Trong Tù thì nó cũng chỉ có giá trị lịch sử. Riêng tôi đã từng được học trong chương trình phổ thông và thú thật chẳng thấy có giá trị gì về tính văn chương. Chỉ có thể gượng ép ca ngợi theo kiểu ông là nhà quân sự mà viết được như thế là khá lắm rồi. Đem ra mà bình thơ của ông một cách tự do mà không bị bỏ tù tôi chắc là phát hiện ra khối vấn đề buồn cười.
Hoa Cỏ May, Hà Nội
Bác Tony cứ đùa. Ở Việt Nam làm gì có ai bị bắt vào tù vì chê Nhật Ký Trong Tù. Bác thích thì cứ viết thoải mái, chỉ có điều không được xuất bản thành sách báo để đời thôi. Bác cứ tin mấy thằng bất mãn, mấy ông phản động làm gì?
Em thì em không tin Nhật Ký Trong Tù không phải là của ông Hồ. Về giá trị nghệ thuật, em thấy Nhật Ký trong tù có nhiều bài chỉ đơn giản là tả thực, không hay mấy. Nhưng có những bài thì đúng là thơ của thi nhân thiên tài. Ấy là em nhận xét quả bản dịch thôi. Cũng chẳng chen "tính Đảng", "tính giai cấp" tẹo nào đâu nhá.
Hậu Sinh
Hồi tôi vượt biên bị bắt ở trong trại tù thì cách vài tuần lại đột xuất khám xét tư trang, ngay cả vài mảnh giấy báo để dùng cho việc cá nhân cũng bị kiểm tra, thì hoá ra bên Tầu thời họ Tưởng tù chính trị chỉ bị giam thể xác, còn tinh thần thì tự do, được thoải mái làm thơ bất khuất?
Tôi cũng nghe có kẻ ganh ghét đoán già đoán non là Bác Hồ lượm được tập thơ này của một người tù khác đã chết bỏ lại trong tù (?) Vào những năm 1932 đến 1933 thì Bác ở những đâu ? Tôi không biết người ta có thể kiểm tra hai ghi chú ngày tháng trong tập thơ, cái nào trước cái nào sau, có phải do cùng một người viết,và tại sao lại như vậy?
- - - - - - - - - - - - - -
Có thể xem thêm "Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh", Giáo Sư, tác giả cho là bị đưa lên mạng ngoài ý muốn, Chương VII: Hồ Chí Minh (trang 121-131), hé lộ thêm một số chi tiết về Hồ Chí Minh và Ngục Trung Nhật Ký…Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh lên tiếng về việc hồi ký của ông bị đưa lên mạng.
Thụy Khuê
Bài đăng ngày 13/09/2008 Cập nhật lần cuối ngày 15/09/2008 10:46 TU"Tôi là người hoạt động trong lãnh vực văn hoá nghệ thuật và tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc tranh luận tư tưởng trong văn học, suốt trong mấy chục năm. Tôi cũng trực tiếp tiếp xúc với hàng loạt nhà văn, vì thế cũng biết nhiều chuyện. Những tư liệu ấy có thể phản ánh được nhiều phương diện của nền văn học Việt Nam hiện đại." (Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh)
1. Audio trả lời phỏng vấn. http://www.rfi.fr/actuvi/articles/105/article_991.asp
2. Reading http://www.box.net/shared/6rbtbq2x14
Chương VII: Hồ Chí Minh
Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.
Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II ở trường Hàn Thuyên.
Một hôm được tin Hồ Chủ Tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ Tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.
Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.
Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.
Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô "Hồ chủ tịch muôn năm!"
Đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn - ấn tượng của tôi về Hồ Chí Minh là như thế.
Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động khá mạnh. Đã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên Ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.
Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ Tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh.
Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho Ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.
Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre - có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ Tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người:
- Đảng lao động Việt Nam Muôn năm!
- Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!
Ông Hồ vung tay rất cao.
Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!
Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống.
Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.
Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.
Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ: "Thanh cậy thế, Nghệ cậy..." thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại "cậy thần" là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.
Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về Ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện Ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí trong tù.
Ông Hồ về PắcBó đầu năm 1941 ngày 28 - 01, tháng 8 - 1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.
Ông Lê Quảng Ba cùng đi với Ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, Ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh phụ ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh phụ ngâm.
Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, Ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên là Dương Đào - tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27 - 8 - 1942).
Không phải Ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở PắcBó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.
Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giả Nhật kí trong tù cũng đã nói rõ trong thơ của mình:
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(Đường đời hiểm trở)
Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.
(Đi Nam Ninh)
Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt... nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tầu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.
Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sang chế độ nhà tù khác. Trong Nhật kí trong tù, bài Bốn tháng rồi có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của Ông Hồ - "Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời"
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn tháng rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm "Tam dân chủ nghĩa" của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn "Trung Quốc đích mệnh vận")...
Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. ở cuối tập Nhật kí còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan
Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.
Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật kí trong tù ông Hồ gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu)) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12 – 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.
Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:
"Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh"
Ông Hồ xin đối:
"Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách"
Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi: "Đối hay lắm!". Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: "Hồ Tiên Sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục!"
Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điệu Nga - la - tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.
Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù "chân mềm như bún", đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhẩy điệu Nga - la - tư?
Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa tháng 9 - 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:
Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường vừa kể chuyện)
Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp, trong tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: "Bữa ấy, tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:
- Anh xem có đúng là chữ của Bác không?
Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: "Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. ở bên này bình yên"
Phía dưới lại có một bài thơ".
Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9 - 1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12 - 1943)
Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.
Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.
Ngày 16 - 9 - 1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.
Ngày 14 - 9 - 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu: "Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng". Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy ở phòng "Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương"
Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.
Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết hoạ sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.
Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân... bằng đất sét.
Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.
ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.
Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ Chủ Tịch.
Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: "Chú cứ ăn trước đi". Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sỹ: "Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm!"
Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên Xô): Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).
ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: "Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ". Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi. (Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).
Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.
Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: "Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi"
Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.
Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong Anh em nhà Karamadôp: "Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (...) thế những tôi lại không thể sống chung với bất kì ai trong một căn phòng". Đó là loại người mà Dostoievsky gọi là chỉ có "tình yêu mơ mộng" chứ không có tình yêu thực sự. Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.
Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói: Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ.
Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống Pháp, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường. Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh cũng phải "diễn" những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!", ông nói: "Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!" Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ. Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (Người ta nuôi một con bò để lấy sữa cho ông).
Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ - hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.
Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature - ông Hồ nói: "Chúng mình là contrenature".
Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ Chủ Tịch. Ông kể chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với Cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: "Sao Bác không lấy vợ mà chịu được". Ông Hồ nói: "Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần áo vải. Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Để khỏi "nhàn cư vi bất thiện".
Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.
Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: "Các đồng chí có bao nhiêu nữ?"
Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu dài. áo cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy...
Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.
Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh hoạ đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.
Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân biệt này: Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.
Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy.
Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ: khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập thể như thế!
Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi nói chuyện về thơ Hồ Chủ Tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để ngâm thơ minh hoạ. Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ Tịch còn sống, vào dịp cuối năm, chị thường được gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát luôn trên đài. Tới dự có cụ Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một đoạn thơ buồn.
* *
*
Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không biết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.*
- Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cả ba chị em.
Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy Sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng.
Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái đến cho ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi quần, slip... rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói đầu, ông cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy – lấy vì mục đích chính trị – chắc ông nói cho vui.
Tô Hoài cũng cho biết, Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: "Không có vợ, khổ thế!"
- Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra nước ngoài là đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?
Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo cao cấp của ta, cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang Trung Quốc theo đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người bán nước mắm, từ Nghệ An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến và Nhạn.
Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.
Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng sản.
Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho Nguyễn Tất Thành đi Pháp.
- Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh?
Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn ái Quốc có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi thành lập đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được. Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn ái Quốc đi, thay bằng luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.
Xem chừng Hồ Chí Minh thích tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên hơn. ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc. Và "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" chính là khẩu hiệu cách mạng của Tôn Trung Sơn.
Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói với Hoàng Ngọc Hiến:
Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo Đại nó thoái vị sớm quá! ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành lập ở Việt Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước mình. Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông muốn cho người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Anh Phạm Tuyên cho biết, ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện lỡ rồi, ông chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi (ông gặp hai bà con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng gặp Phạm Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường). Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.
Ngoài ra, từ hồi dự hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh đã muốn liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính quyền Sài Gòn.
- Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt đại chiến thế giới thứ hai và cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.
Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài Diễn ca lịch sử nước ta: "Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành", thì ở hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe Đồng Minh là Staline, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.
Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh chống phát xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: Cụ Hồ có tử vi.
Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở thư viện quốc gia có cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho Cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ Cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: "Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:
- Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?
- Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú - Ông Hồ trả lời như vậy.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do "các chú".
- Một câu hỏi khác đặt ra: Cụ Hồ có ý thức tự thần thánh hoá mình không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại nói ông có ý thức thần thánh hoá? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu cầu chính trị, có khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa - Về mặt này, ông Hồ cũng khá "siêu" đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có tâm lý trọng người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người thường. Cho nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng là già Hồ. Và cũng không phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng, hồi kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán những câu sấm Trạng Trình ứng vào Cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là "sáng kiến" của Đảng ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viết Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn hiện trong mây. Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai!
- Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch, sống cứ phải "diễn" như thế, kể cũng khổ. "Không có gì quý hơn độc lập tự do". "Diễn" tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu đã ai hiểu cho ông cụ nỗi khổ này?
Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt đối với tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm 1946, Hồ Chí Minh ở hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và một kỹ sư tên là Quang theo về. Trên tàu, Cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với các thuỷ thủ. Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không theo Hồ Chí Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang. Nhưng Hoàng Ngọc Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này có gặp Quang rửa xe máy ở Sài Gòn.
- Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn độc lập (2/9)
Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ Sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn độc lập.
- Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình – Tôi cãi lại Hiến.
- Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao! – Hiến khẳng định thế. Một phán đoán không phải là không có lý!
Hà Nội, ngày 6.7.2006
(Nguồn: vietnamexodus.org)
Đọc thêm:
Phương Nam (Đỗ Nam Hải), Một vài suy nghĩ sau khi đọc lại tập thơ NHẬT KÝ TRONG TÙ, 2008.Lê Hữu Mục, về HUYỄN THOẠI Hồ Chí Minh, 2003.
Phan Thanh Tâm, Hai Tập Thơ Tù: Nguyễn Chí Thiện & Hồ Chí Minh 2008.
Tâm Việt, Ngục Trung Nhật Ký của Hồ Chí Minh? 2007.
MƯỜNG GIANG * SAIGON
Sài gòn vĩnh viễn không bao giờ mất tên
Cũng nhờ những ghi chép của họ Châu, chúng ta ngày nay mới biết được thực trạng của vùng Thủy Chân Lạp (Nam Phần), qua thủy lộ từ cửa Đại (Mỹ Tho), tới các vùng đất của miền Lục Chân Lạp (Kampuchia ngày nay) như Trà Nam (tức Tch’a Nan, tỉnh Kompong Chhnag), Bàn Lộ Thôn (Panlon Is’one),Phật Thôn (FoIs’one), Đàm Dương (Biển Hồ ố Tân Yang Tonlésap) và kinh đô lúc đó là Angkor, tức Đế Thiên Đế Thích.
Theo bút ký ghi lại, ở đâu cũng chỉ thấy cảnh hoang tàn cô quạnh, hầu như toàn là cỏ kê lau lách, không một bóng cây xanh, vườn tược, ruộng rẫy và sự sống hay bước chân của con người., ngoài tre nứa và từng đàn trâu rừng tụ họp trong các đầm lầy bùn sình, dọc theo hai bờ sông.đục ngầu và đặc sệt những đám lục bình lang thang xuôi ngược.
Đọc ‘Đất Việt trời Nam’, của Thái Văn Kiểm, ta thấy tác giả đã hết lòng ca tụng Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), và Trần NhânTông thuở trước, vì hai ngài nghĩ tới non nước, nên vua Trần thì đã gã Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân, vừa được thêm hai châu Ô-Rí (Quảng Trị-Thừa Thiên), lại vừa có được một đồng minh Chiêm Thành lúc đó, rất hùng mạnh ở phương Nam, để hai nước cùng lo chống giặc Mông Cổ..
Sau đó, chúa Sãi Vương cũng vậy, Ông đã vì nước, nên đem hai người con gái cưng là Ngọc Khoa gã cho vua Chiêm Thành Po Romé và Ngọc Vạn lấy vua Chân Lạp Chei Chetta II. Nhờ vậy Đàng Trong mới có hòa bình ở nam phương, tạo cơ hội cho người dân Thuận-Quảng tới được miền Thủy Chân Lạp lúc đó đang bị bỏ hoang, để khai khẩn làm ăn vì lãnh thổ của Chúa Nguyễn rất hạn hẹp, không có bao nhiêu đồng ruộng, trong đó đất đai hầu hết đều xấu vì sự xâm thực của cát biển, đất núi, không trồng trọt được là bao, dù nông dân đã tận lực.
Năm 1698, sau khi bình định xong Thuận Trấn, Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu vào Nam để mở rộng bờ cõi Đại Việt. Cùng theo đoàn quân đi mở đất phương Nam, lúc đó có rất nhiều di dân theo khai hoang lập nghiệp. Nhưng tất cả từ quân cho tới dân, ai nấy đều không khỏi kinh hoàng bạt vía, trong cảnh bơ vơ nơi đất lạ muôn trùng: ‘tới đây xứ sở lạ lùng, con chim kêu phải sợ, con cá vàng cũng kinh‘ và ‘chèo ghe sợ sấu cắn chưn, xuống sông sợ đỉa, lên rừng sợ ma‘. Sự kiện này cũng đâu khác gì hoàn cảnh của người Việt trước đó, khi theo chúa Nguyễn Hoàng, tới khai khẩn lập nghiệp các vùng đất miền Trung bỏ hoang của người Chiêm, từ Bình Định vào tới Bình Tuy ngày nay.
Tất cả đã nói lên mặt thật của miền đồng bằng sông Cửu Long và địa danh Sài Gòn, thuở xa xưa hơn 300 năm về trước, khi mà ông cha ta từ miệt ngoài vào đây khẩn hoang lập vườn. Tất cả thật sự là vùng ác địa, ma thiêng nước độc, chẳng những trên rừng hoang đầy rẫy thú dữ, mà ngay dưới sông cũng đặc nghẹt ngư kình.
Cũng may các vị tiền nhân trong đó hầu hết là các Chúa Nguyễn Nam Hà, nhất là Sãi Vương, Hiền Vương và Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu, cùng với các danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cửu Đàm, Nguyễn Văn Thoại, Lê Văn Duyệt.. và lưu dân Thuận-Quảng lúc đó, đã lấy mồ hội nước mắt, cùng với xướng máu và sự quyết tâm vượt qua mọi nguy hiểm tại họa chết người, mà ngày nay chúng ta con cháu mới có được miền đát Nam Phần trù phú, cũng như thủ đô yêu dấu Sài Gòn, để cho cọng sản đệ tam quốc tế , sau ngày 30-4-1975 vào cướp của và đổi tên.
Theo Trịnh Hoài Đức trong ‘Gia Đinh thành thông thái’, ngay từ năm 1623, thì dân Việt đã đến làm ăn tại Sài Gòn lên tới 10.000 người, nên Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên đã cho thu thuế thương chính cũng như lập đồn binh, trại quân để bảo vệ an ninh và tài sản của lưu dân Việt. Như vậy Sài Gòn đã trở thành vùng đất quan trọng của Nam Hà, từ nửa thế kỷ XVII .Nhưng theo Lê Quý Đôn trong ‘Phủ biên tạp lục’, thì địa danh Sài Gòn, mới thật sự chính thức vào sử sách, từ tháng 2-1674, khi Hiền Vương sai Nguyễn Dương Lâm vào bảo vệ cho Phó Vương Chân Lạp là Nặc Nộn, đóng đô ở đây.
Cũng từ đó Sài Gòn đã thay đổi không ngừng theo sự biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà khởi đầu là việc Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh năm 1698, dựng dinh Phiên Trấn, lập huyện Tân Bình và khai sinh ra đô thị Sài Gòn. Năm 1890 Chúa Nguyễn Phúc Ánh xây thành Bát Quái nguy nga tráng lệ với một chu vi tới 648m. Thành này được Vua Minh Mạng phá bỏ năm 1836, để xây Gia Định Thành và tồn tại tới 17-2-1859, mới bị thực dân Pháp và Tây Ban Nha phá sập. Từ đó Sài Gòn sống dưới gót giầy nô lệ của ngoại xâm nhưng đã không bị giặc dày xéo xóa tên, trái lại còn được trân quý, nổi danh thành ‘ Hòn ngọc Viễn Đông ‘ một thời lừng lẫy. Ngày 3-9-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện.
Thừa dịp chính quyền VN lúc đó đang bị bỏ ngỏ vì sự sụp đổ của Chính phủ Trần Trọng Kim, sự thoái quyền bất ngờ của Vua Bảo Đại, nên Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền. Cùng lúc thực dân Pháp cũng theo chân quân Anh Ấn, tái chiếm Sài Gòn dễ dàng, nhờ sự góp công của Ủy Ban Hành Chánh, do Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo.. cán bộ cọng sản đệ tam trá hình trong Mặt Trận Việt Minh lúc đó chỉ lo thanh toán các thanh phần đối lập, ruồng bắt thủ tiêu, chỉ điểm sát hại các lãnh tụ quốc gia, trong số này có Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo, kể cả người anh em cọng sản đệ tứ, làm cho tiềm lực kháng chiến chống Pháp tại Sài Gòn và Nam Phần bị chia rẽ, yếu kém.
Rồi lợi dụng lòng nhân từ, tình đồng bào và lệnh hưu chiến vào ngày Tết Nguyên Đán thiêng liêng nhất trong năm của dân tộc, Hồ Chí Minh và đảng Việt Cộng, ra lệnh tổng tấn công khắp lãnh thổ VNCH, từ bên này cầu Hiền Lương tại Vĩ tuyến 17, vào tới chốn tận cùng của đất Việt ở Cà Mâu, trong dịp tết Mậu Thân 1968. Thủ đô Miền Nam, bao gồm Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, bị cọng sản quốc tế tấn công 2 lần, đợt I vào dịp Tết và lần 2 trong tháng 5-1968.
Ngoài sự thiệt hại vật chất, nhất là ở những chốn thờ phụng tôn nghiêm, bị cọng sản chiếm đóng, đặt súng đạn để tấn công đồng bào và QLVNCH, nền đã bị bom đạn của cả hai phía tàn phá, cùng với nhiều khu vực sinh sống làm ăn của người dân lương thiện. Sài Gòn kinh hoàng trước cảnh tàn phá và người chết vì VC, đâu có khác gì cảnh quân Tây Sơn thuở trước đốt phá Đồng Nai, Biên Hòa, Gia Định, để trả thù dân chúng ở đây, đã theo chúa Nguyễn Ánh chống lại họ.
Nhưng cuối cùng nhờ sự hy sinh xương máu của người lính miền Nam, nên VNCH vẫn đứng vững và Sài Gòn vẫn là Hòn Ngọc Viễn Đông trân quý của thế giới tự do, cho tới trưa 30-4-1975, qua lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, bắt dân lính buông súng, rã ngũ và đầu hàng giặc xâm lăng, mới chịu gục ngã trước bạo lực.
Sau khi dẹp bỏ cái quái thai của thời đại, được gọi là ‘Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’ , ngày 20-12-1976 cộng sản đệ tam quốc tế, qua quyền hành của kẻ thắng trận, lập nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN gồm hai miền Nam-Bắc, thủ đô cả nước là Hà Nội, năm đó có 800.000 dân kể cả ngoại ô.
Còn Sài Gòn, thủ đô của Miền Nam, vùng đất thiêng của dân tộc, được tạo dựng bằng máu lệ xương thịt của tiền nhân, qua bao nhiêu thế hệ kể cả quân dân VNCH trong 20 năm (1955-1975), bị cộng sản quốc tế cưỡng đoạt, đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh, giá trị chỉ là một thành phố địa phương, như những thành phố lớn trong nước Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ.. dù Sài Gòn năm đó, có dân số đông nhất nước, là 1.860.000, nếu cộng thêm vùng ngoại ô, gồm 6 huyện Bình Chánh, Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè và Duyên Hải, tổng cộng là 2.680.000 người.
Ba mươi hai năm qua, kể từ ngày Sài Gòn bị mất tên, mà thật sự chỉ mất trên các văn kiện của đảng cộng sản chứ nơi tâm hồn của người Việt trong và ngoài nước, đâu có ai thèm xài cái xú danh này? dù là giai đoạn hung hiểm nhất (1975-1990). Sau khi thiên đàng xã nghĩa bị sụp đổ tại Đông Âu và Liên Xô, bắt buộc đảng VC phải mở cửa để kiếm sống và cứu mình. Cũng kể từ đó cho tới nay (2007), người VN trong và ngoài nước, hầu như không còn ai nhớ tới thành Hồ, kể cả những lúc bị bắt buộc, họ vẫn nói trỏng là thành phố mà thôi.
Mấy lúc gần đây, có một số văn nô trong nước, trước vấn nạn của đồng bào về việc tại sao phải đổi tên Sài Gòn, đã trả lời đó là để ghi nhớ công ơn của một số danh nhân, nên đảng đã lấy tên làm một số địa danh như TP.HCM, đường Nguyễn Văn Trổi, công viên Lê Văn Tám, trường Võ Thị Sáu, kênh Lê Anh Xuân.. rồi còn viết thêm, vì anh thanh niên Nguyễn Văn Ba, đã xuất dương cứu nước tại bến Đầu Rồng vào năm 1911, nên phải đổi tên Sài Gòn, để kỷ niệm.
Luận điệu y chang như việc thầy Thành tới dạy học ở trường Dục Thanh Phan Thiết, nên đảng phải tịch thu gia sản của Nguyễn Thông và đồng bào quanh vùng Cồn Cỏ-Đức Nghĩa, dọc theo bờ sông Cà Ty (đường Trưng Nhị), để lập nhà bảo tàng cho ‘bác’ được sống mãi trong quần, chúng Bình Thuận.
Vì gần hết cán bộ cao cấp của đảng cộng sản VN đều xuất thân tại Liên Xô, từ Hồ Chí Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong .. xuống tới các thế hệ đương cầm quyền hiện nay như Nông Đức Manh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, cho nên việc đảng cộng sản VC, sao y bản chánh từ đảng CS mẹ LX, đem về ứng dụng tại VN, cũng là điều bắt buộc.
Tại Liên Xô, sau cách mạng 1917, Lenin triệt hạ Sa Hoàng, đổi cờ, chế độ, xây tượng đài, lăng, ướp xác và đổi luôn tên của thành phố lớn thứ 2 của Nga, vốn là nơi sinh quán của mình (kể cả Putin sau này), từ tên nguyên thủy St.Petersburg thành Leningrad (hiện có 4.456.000 dân). Sau đó Staline cũng bắt chước Lenin, đổi thành phố sinh quán của mình là Volgograd thành Stalingard (hiện có 999.000 người).
Nhưng đời là một cuộc bể dâu trước mắt, nên đâu có ai ngờ được ngày mai, như chuyện bên Tàu, khi Trung Cộng chiếm được Lục địa, đã nhân danh khảo cổ, văn hóa, nghệ thuật.. mà thật sự là đào mả người khác để cướp vàng bạc châu báu, nên ra lệnh cho khai quật tất cả các lăng mộ của hầu hết các vị đế vương Trung Hoa, từ Tần Thủy Hoàng, Hán Cảnh Đế, Võ Tắc Thiên .. ở đồng bằng Guanzhong, tây bắc tỉnh Shannxi (72 hoàng đế), cho tới mộ của Càn Long, Từ Hi.. những vị vua Mãn Thanh, tại vùng đông bắc nước Tàu.
Năm 1991, chế độ cộng sản bị cáo chung tại Đông Âu và Liên Xô, ngoài việc hai thành phố Leningard và Stalingard được lấy lại tên củ, các tượng Lenin tại Mạc Tư Khoa và cả nước bị giựt sập, thảm nhất là bức tường bề thế tại quảng trưởng đỏ của thủ đô bị đồng bào chém đầu.
Riêng lá cờ máu búa liềm của Liên Xô, được xài từ năm 1917 tới đầu năm 1992, cũng được thay thế bằng lá cờ tam tài nằm ngang với ba màu trắng xanh lơ và đỏ của nước Nga, đã có từ thế kỷ XIX, với ý nghĩa thiêng liêng, nói lên sự hình thành của nước này, do ba chủng tộc: Bạch Nga (màu trắng), Ukraine (màu xanh lơ, nay đã tách riêng thành một nước độc lập) và người Moskva (màu đỏ).
Những ngày máu lửa cuối tháng 4-1975, nhiều người uất hận đau khổ bỏ nước ra đi trong tuyệt vọng và tin chắc rằng cả đời mình sẽ chẳng bao giờ được trở về quê hương, trong đó có Sài Gòn, bởi vậy Nguyễn Đình Toàn đã viết ‘Sài Gòn ơi ta đã mất người như người đã mất tên’. Nhưng bây giờ thì ai cũng ngang nhiên, dõng dạc về Sài Gòn hàng chục lần và ngay trước mặt công an VC, ai cũng xài tên Sài Gòn, chứ có người nào nói tới TP.HCM?
Như vậy Saìgòn đâu có mất tên, vì người Việt, nước Việt vẫn còn. Nên chuyện lấy lại cái tên chính thức chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi, vì cuộc biển dâu, đâu ai biết trước mà ngờ?. Theo tin của Reuters ngày 28-9-2005, thì các chóp bu Điện Cẩm Linh, trong đó có Putin, đang cứu xét việc đập bỏ lăng Lenin, lãnh tụ đầu tiên của đảng cộng sản đệ tam quốc tế, chết năm 1924, được xây tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moscow, đem chôn theo ý của dân Nga, đã đòi hỏi từ năm 2001 tới nay vẫn chưa nhúc nhích?
Những ngày còn sống trong nước, bất cứ nghe ai hát lén bài hát đầu tiên từ hải ngoại vọng về quê hương VN đang quằn quại ngoi ngóp trong địa ngục đỏ, khiến ai cũng phải khóc. Đó là bài ‘Vĩnh Biệt Sài Gòn’ của Nam Lộc, trước năm 1975 là một sĩ quan của QLVNCH, một nhạc sĩ tài tử, chuyên môn giới thiệu hầu hết các chương trình ‘Nhạc Trẻ của Sài Gòn’ trong thập niên 60-70.
Thiên hạ chưa kịp khô hết nước mắt hận hờn, thì Việt Dũng lại làm cho người người thét lên thành tiếng, khi anh viết ‘Một Chút Quà Cho Quê Hương‘:
‘Em gửi về cho anh dăm bao thuốc lá
anh đốt cuộc đời mòn trên ngón tay
gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
mẹ may hộ con quê hương quá đọa đày
con gởi cho cha một manh áo trắng
cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây .. ’
Những lời ca thắm thiết của một thời, nghe hoài vẫn thấy đứt ruột.
+ SÀI GÒN TRƯỚC NGÀY 1-5-1975:
Sài Gòn khởi thủy chỉ là một làng đánh cá nhỏ của người Miên, nằm ở vị trí giao lưu của Rạch Bến Nghé-Sông Sài Gòn và trở nên quan trọng, sau khi được chọn làm thủ đô miệt rừng của Phó vương Miên, cai quản miền Thủy Chân Lạp, nên mới được gọi là Prey Nokor. Trong lúc đó hầu hết lưu dân Việt đầu tiên, tới khẩn hoang lập ấp trên đất Miên, đều tập trung ở khu vực đông bắc, vùng Mõ Xùy-Đồng Nai, cách Sài Gòn chừng 30 km.
Tất cả cũng nhờ công lao của Hoàng Hậu Ngọc Vạn, nên triều đình Chân Lạp đã cho phép người Việt vào đất Miên lập nghiệp một cách dễ dàng. Năm 1698 Prey Nokor đổi thành Sài Côn, được mô tả là rộn rịp trù phú. Nhưng năm sau (1699) bị vua Chân Lạp là Nặc Thu, ra lệnh đốt phá nhà cửa và tàn sát (cáp Duồn) lưu dân Việt tại đây.
Trước tình cảnh nguy ngập của đồng bào, nên Chúa Nguyễn Phúc Chu, đã phái Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh, đem quân hai Dinh Bình Khang-Bình Thuận vào Nam, hợp với hai cựu tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, lúc đó đang cùng 3000 binh sĩ dưới quyền, được Chúa Nguyễn, cho khai phá vùng Đông Phố, Lộc Dã, Mỹ Tho.., để lập các làng định cư Minh Hương. Tất cả cùng nhau bình định Chân Lạp, đánh đuổi Nặc Thu chạy về Nam Vang. Sau khi tình hình khắp vùng đã ổn định, Nguyễn Hữu Cảnh trả lại đất Lục Chân Lạp cho vua Miên, rút quân về nhưng trên đường lui quân, thì nhuốm bệnh và mất tại Rạch Gầm (Định Tường), vào ngày mồng 9 tháng 5 năm Canh Thìn (1700), lúc đó chỉ mới 51 tuổi.
Được tin buồn trên, cả nước, từ triều đình, xuống tới dân chúng, ai cũng thương tiếc một đấng anh hùng cái thế, có công lao rất lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam., trên đường mở mang bờ cõi về phương Nam. Vì vậy gần như khắp nơi ở Đàng Trong, nhất là Nam Phần, nơi nào cũng có đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, dù theo tài liệu, thì ông được chôn ở Biên Hòa, ông thuộc dòng dõi của Nguyễn Bậc (Đời nhà Đinh), Nguyễn Trãi (Hậu Lê), còn Nguyễn Hữu Bài (Nhà Nguyễn) cũng là con cháu của ông. Người Chân Lạp cũng lập đền thờ ông tại Nam Vang,, vì kính phục đức độ nhân từ của một tướng lãnh VN..
Theo Trịnh Hoài Đức, từ năm 1698 trở đi, Nam Hà đã thiết lập được chính quyền tại Sài Gòn, dựa theo qui chế của nhà Hậu Lê., vì lúc đó các Chúa Nguyễn tuy đánh nhau với Họ Trinh nhưng vẫn còn thần phục Vua Lê. Mãi tới năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu, dời phủ chúa về kinh thành Phú Xuân (Huế), đúc ấn tín và chia bờ cõi Đàng Trong, từ Nam Bố Chính vào tới Hà Tiên, thành 12 dinh, 1 trấn, đặt Huyện Tân Bình (Gia Định) làm Phiên trấn dinh..
Sau khi Thống Suất Kinh Lược Sứ Nguyễn Hữu Cảnh mất, lần lượt các quan võ cao cấp nhất thời ấy, lần lượt thay thế như Trương Phúc Vĩnh (1731), giữ chức Điều Khiển. Năm 1753 quan Ký lục Bố Chính Dinh là Nguyễn Cư Trinh, giữ chức Tham mưu, chỉ huy 5 Dinh Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Đồng thời kiêm Kinh Lược Sứ, cai trị luôn đất Lục Chân Lạp. Năm 1772 Chúa Nguyễn Phúc Thuần cử Nguyễn Cửu Đàm con Nguyễn Cửu Vạn làm Điều Khiển Sài Gòn, kiêm Thống Suất các Dinh.
Ông là người đầu tiên cho đắp lũy đất, bao quanh các đồn dinh, chạy dọc theo Rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn để ngăn ngừa các cuộc tấn công của người Miên. Năm 1776 bị quân Trịnh từ Đàng Ngoài tấn công, Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng hoàng gia, bỏ Phú Xuân, chạy vào Sài Gòn nhưng năm sau (1777), lại bị Nguyễn Lữ (Tây Sơn) tấn công, nên Chúa Nguyễn phải chạy về Dinh Trấn Biên. Từ đó, trong suốt 10 năm (1777-1787), Sài Gòn trở thành bãi chiến trường giữa hai phe Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn. Cuối cùng vào tháng 8-1788, Chúa Nguyễn Ánh (cháu Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn giết), mới chiếm lại được Sài Gòn.
Năm 1802 Vua Gia Long đánh bại Nhà Tây Sơn và thống nhất đất nước từ Bắc vào Nam, đóng đô tại kinh thành Huế thuộc tỉnh Quảng Thuận (Thừa Thiên). Sài Gòn và toàn cõi Nam Phần, được giao cho quan Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, là một trong những tướng lãnh tài ba, đạo đức của Nhà Nguyễn. Vùng đất cuối cùng của miền Thủy Chân Lạp, được sáp nhập vào lãnh thổ của Đại Nam, năm 1840 là Sóc Trăng, kết thúc cuộc Nam tiến của người Việt, từ Quảng Bình vào tới Hà Tiên, kéo dài hơn 800 năm.
Năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu xâm lăng VN, chiếm Sài Gòn lúc đó, theo tài liệu của một người Pháp tên Barrière viết trong ‘Histoire de l’expédition en Cochinchine en 1861’, thì đây không phải là một thành phố, mà chỉ là các làng mạc rải rác, trên địa điểm của Sài Gòn ngày nay. Riêng lưu dân Trung Hoa đầu tiên tới lập nghiệp tại Biên Hòa từ năm 1680 nhưng thành phố này đã bị quân Tây Sơn tàn phá năm 1778. Do đó mọi người phải chạy về Rạch Bến Nghé lánh nạn và xây dựng ở đây thành phố Chợ Lớn.
Khi Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định Thành, đã chỉnh trang lại Chợ Lớn, thiết lập giang cảng, trải đá dọc theo Rạch Bến Nghé và cho xây cất nhiều kho hàng ở cả hai bên bờ. Ngoài ra còn cho đào nhiều kênh, biến các vùng đất thấp trũng nước thành ruộng lúa. Hàng hóa và ghe thuyền khắp nơi, nhờ có Rạch Bến Nghé (Trung Hoa) và kênh đào nên ra vào Chợ Lớn tấp nập. Tính tới năm 1861, Chợ Lớn có 40.000 dân và 500 nhà lợp ngói, ban đêm thành phố được soi sáng bởi đèn dầu phộng. Tóm lại trong thời Pháp thuộc, ở đây có hai thành phố riêng biệt: Người Việt và một số ít người Hoa sống ở Sài Gòn.
Còn Chợ Lớn là thành phố của người Hoa, ngăn cách nhau bởi một nghĩa địa lớn. Đề đốc Le Page (1859) và Bonnard (1861) là những người có công, tiếp nối công trình dang dở của Tổng Trấn Lê Văn Duyệt, trong việc chỉnh trang, xây dựng và mở rộng Sài Gòn-Chợ Lớn thành Hòn Ngọc Viễn Đông.
Từ năm 1954-30/4/1975, Sài Gòn-Chợ Lớn nhập chung thành một và là thủ đô của VNCH. Nhưng Chợ Lớn vẫn là trung tâm thương-công nghiệp số 1 của Miền Nam, giữ vai trò nhập-xuất cảng mọi sản phẩm chế biến, kể cả lúa gạo của đồng bằng sông Cửu Long. Trong lúc đó Sài Gòn là một thương cảng, thành phố Âu hóa với nhiều cao ốc, trường học, các gian hàng buôn bán và là trung tâm hành chánh của Chính Phủ.
- Sài Gòn thời Pháp thuộc (1861-1954):
Khi thực dân Pháp xâm lăng Nam Kỳ, chiếm Sài Gòn đã có ý đồ coi vùng đất này như là lãnh thổ của chính quốc. Vì vậy thành phố đã được chỉnh trang và xây dựng nhanh chóng, để đáp ứng với tình hình chính trị và quân sự lúc đó..
Trước đây, thành cổ Sài Gòn và Chợ Lớn thời nhà Nguyễn được bao bọc bởi hai con rạch Tàu Hủ, Thị Nghè và sông Sài Gòn, nắm ưu thế về quân sự lẫn kinh tế. Chính Chúa Nguyễn Ánh trong thời gian tẩu quốc, đã nhìn thấy sự lợi hại của Sài Gòn, nên quyết tâm chiếm lại trong tay Nguyễn Lữ, để làm hậu phương và căn cứ chính cho quân Nguyễn, chống lại Nhà Tây Sơn.
Qua các bản đồ cổ còn lưu trữ tại Nha Địa Dư VN, ta thấy đầu tiên Sài Gòn-Chợ Lớn, gần như phát triển riêng biệt. Cũng trong thời gian này tình trạng dân số tại hai thành phố tăng trưởng nhanh chóng, vì vậy Pháp đã mở nhiều trục lộ giao thông trong hai thành phố. Sau khi Đệ nhất thế chiến 1 chấm dứt, thực dân trở lại khai thác tài nguyên Đông Dương mà VN là quan trọng nhất. Từ Sài Gòn Chợ Lớn, Pháp di dân tới miền Đông là vùng đất xám đó rất phì nhiêu, để lập các đồn điền trồng cao su, cà phê, trà, mía, thuốc lá..
Đồng thới Pháp cũng di dân về đồng bằng sông Cửu Long, đào kênh, mở rộng đất đại trồng lúa. Sự phát triển kinh tế Nam Kỳ, giữa hai cuộc thế chiến, làm tăng thêm sự thịnh vượng của Giang Cảng Sài Gòn, nhất là việc xuất cảng gạo.
Cũng từ đó nhiều nhá máy xay lúa, các khu công nghệ chế biến.. gần như tập trung ở Chợ Lớn, thu hút cư dân cả nước đổ xô về thủ đô của Nam Kỳ lập nghiệp, nhờ sự phát triển của các hệ thống thiết lộ xuyên Việt từ Bắc vào tới Sài Gòn, Mỹ Tho và Lộc Ninh. Đường bộ lên tới Nam Vang của Cao Mên, được khai thác từ năm 1936 trong thời gian Doumer làm Toàn quyền Đông Dương. Mặc dù đã có đường xe lửa và đường bộ nối liền nhưng trước năm 1945, giữa Sài Gòn Chợ Lớn vẫn còn ngăn cách bởi khu nghĩa địa, nhiều đầm lầy, ruộng trồng lúa và các khu vườn trồng cây ăn trái.
Sau ngày 3-9-1945, Nhật thua trận đầu hàng Đồng Minh và rút hết về nước. Ngay lúc đó, thực dân Pháp được Anh giúp đỡ, đã trở lại cưỡng chiếm VN một lần nữa. Chiến tranh long trời lở đất khắp toàn cõi Đông Dương, kéo dài suốt 9 năm (1946-1954), gây cảnh nhà tan người chết nhưng thảm thê nhất, vẫn là tuyệt lộ của đồng bào, trong thời lửa đạn, một cổ hai tròng của giặc Pháp xâm lăng và cọng sản núp trong Mặt Trận Việt Minh, tha hồ nhiễu nhương bá tánh, nhất là những người không chịu theo phe đảng với chúng. Do vậy mà dân chúng khắp nơi, nhiều người phải bỏ làng mạc, đồng ruộng, chạy về Sài Gòn lánh nạn, làm cho dân số ở đây từ năm 1946 tới 1954, tăng thêm 4 lần (492.000 người - 1.900.800 người).
Cuối cùng quân viễn chinh Pháp đã bị toàn dân VN đánh bại tại Điện Biên Phủ nhưng thảm thê thay cho số phận của một dân tộc nhược tiểu trước sự sắp đặt của cái gọi là Liên Hiệp Quốc, nên đất nước lại chia đôi, làm cho nửa phần giang sơn gấm vốc của Hồng Lạc, đã phải ngậm ngùi đắng cay, lọt vào thế lực của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Ngày 20-7-1954, hiệp định phân đôi đất nước chính thức được ký tại Genève, lần nữa đã làm hơn cả triệu đồng bào Miền Bắc, trốn chạy vào Nam tị nạn cộng sản, trong số này có 850.000 người đổ xô về thủ đô Sài Gòn-Chợ Lớn. Ngày 7-7-1954 nội các Ngô Đình Diệm chính thức ra mắt quốc dân VN, trong một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn nhất của đất nước với tình trạng sứ quân như thời nhà Ngô và trên hết nạn nhân mãn tại thủ đô.
- Sài Gòn thời VNCH (1955-1975):
Ngay khi thu hồi được nền độc lập từ thực dân Pháp, chính phủ VNCH đã nỗ lực chỉnh trang và mở rộng thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, để giải quyết tình trạng gia tăng dân số. Thành phố được mở rộng khắp nơi, ngoại trừ phía bên Thủ Thiêm vì sự ngăn cách bởi con sông Sài Gòn quá rộng, không có cầu bắc ngang sông và vùng bên đó có nhiều ao hồ, trũng thấp nên thường bị lụt.
Nhiều cầu mới được bắc ngang kênh Tàu Hũ và Kinh Đôi, cùng với đường xe lửa và nhiều đường sá chạy song song với hai con kênh trên, khiến ranh giới giữa Sai Gòn-Chợ Lớn, được thu hẹp. Trong giai đoạn này, đã có nhiều xóm nhà bình dân, mọc lên ở vùng ven biên, gồm khu nhà sàn và nhà ghe dọc theo hai bờ kinh Tàu Hũ, từ Cầu Quây tới Chợ Quán, dọc theo bến Hàm Tử, Bình Đông và bến Phạm Thế Hiển (kinh Đôi).
Để giải quyết nạn nhân mãn tại thủ đô, ngoài việc hồi hương của quân viễn chinh Pháp và người Việt có quốc tịch nước này. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ban hành các Dụ số 7 (1955), Dụ số 57 (1956), nhằm mục đích khuyến khích nông gia có ruộng trở về tiếp tục canh tác, nếu bỏ hoang sẽ bị truất hữu để phân phối cho người khác. Đạo luật trên, cũng nhằm thực hiện chính sách cải cách điền địa của Chính phủ Quốc Gia, giúp tá điền trở thành chủ điền, bằng chính sách tịch thu ruộng của những chủ điền có trên 100 mẫu tây.
Ruộng này được bán lại cho tá điền, qua hình thức Tín Dụng, trả góp cho chính phủ trong 12 năm. Ngoài ra còn có Chính Sách Dinh Điền và Khu Trù Mật, dành cho đồng bào Di Cư Miền Bắc và Đồng Bào nghèo ở Miền Trung cũng như trên các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.. Tại các Khu Dinh Điền mới này, nông dân ngoài ruộng được cấp tùy theo nhân khẩu (từ 1-2 mẫu), còn có quyền khẩn hoang tới 5 mẫu đất. Còn Khu Trù Mật thì dành riêng cho các gia đình sống rải rác ở những vùng xa xôi các trục giao thông, quận, tỉnh.., được dồn về đây sinh cơ lập nghiệp. Đây là một địa điểm chuyển tiếp, giữa nông thôn và thành thị, nên có đủ cơ sở hạ tầng, trường học, chợ búa và bệnh xá. Tất cả miễn phí, nhà có điện và đất vườn trồng các loại cây ăn trái.
Tóm lại chỉ trong 3 năm (1955-1957), chính phủ đã thiết lập được 72 Khu Dinh Điền + Trù Mật ở Cao Nguyên Trung Phần, 37 ở Miền Trung và 97 Khu tại Nam Phần. Nhờ vậy đã giảm bớt 250.400 người tại Sài Gòn (80.325 đồng bào miền Bắc di cư + 70.075 dân Miền Trung + số dân Đô Thành tình nguyện).
Ngoài ra Chính Phủ còn thực hiện nhiều công trình chỉnh tranh thành phố như dẹp bỏ thiết lộ Sài Gòn-Mỹ Tho và hệ thống đường xe lửa điện trong thành phố, mở rộng các đại lộ chính, xây hai cầu Phan Thanh Giản và Thị Nghè, để mở rộng thành phố ra Xa lộ Biên Hòa.. Một hệ thống xe buýt công cộng cộng, nối liền trung tâm thủ đô với các quân ven biên Tân Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, khiến cho dân số vùng này, từ 64.700 (1951) tăng lên 236.000 (1959).
Ngày 20-12-1960, Hồ Chí Minh và cộng sản Hà Nội, lại phát động cuộc chiến tranh xâm lăng VNCH, qua bình phong MTGPMN , theo chiến thuật cố hữu ‘lấy nông thôn bao vây thành thị’, gây bất ổn đời sống của đồng bào khắp nơi, khiến cho nhiều người lại bỏ hết tài sản, ruộng vườn, để chạy ngược về Sài Gòn lánh nạn .Rồi thì chính biến 1-11-1963, anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại dã man trên chiếc Thiết Vận Xa, từ Chợ Lớn về Bộ Tổng Tham Mưu.
Dương Văn Minh lên nắm quyền Chủ Tịch Hội Đồng QLVNCH, ra lệnh đình chỉ chương trình chỉnh trang thủ đô, đồng thời giải tỏa và dẹp bỏ các Khu Dinh Điền và Trù Mật của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sự kiện trên đã làm hỏng chiến lược giảm dân thành phố và trên hết cô lập Việt Cộng trà trộn sống bám vào dân, tạo cơ hội cho cộng sản trở lại nằm vùng và len lỏi vào dân đang sống tại các Ấp Đời Mới (Tân Sinh), sau khi bỏ hết các vòng rào chiến lược, phòng thủ.
Sau 3 năm (1963-1966) xáo trộn chính trị vì nạn loạn tướng, kiêu tăng và cha cố ông trời, làm cho tình hình cả nước cũng như tại thủ đô nát bét vì sự tranh giành quyền lực của mọi phe nhóm, tạo cơ hội cho VC hồi sinh, đánh phá khắp nơi, khiến cho dân chúng nông thôn bồng bế chạy về các thị trấn, tỉnh lỵ và thủ đô lánh nạn, làm cho vật giá leo thang, thất nghiệp trầm trọng, nẩy sinh nhiều tệ đoan xã hội như trộm cướp, giết người, hút xách, đĩ điếm, lấy Mỹ và quân đội Đồng Minh có mặt tại VNCH.
Tháng 7-1967, Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống Đệ Nhị nền Cộng Hòa Miền Nam. Từ đó ông lại tiếp tục sự nghiệp phát triển Thủ Đô như mở mang hệ thống giao thông vận tải, thực hiện chương trình làm đẹp thành phố, xây cất cư xá, nhà ở. Ngoài ra còn xây dựng nhiều xí nghiệp tại Thủ Đức và Khu Kỹ Nghệ Sài Gòn-Biên Hòa. Về quân sự, để đối phó với cộng sản miền Bắc đang xâm lăng Miền Nam, Tổng Thống Thiệu tiếp tục chiến lược dang dỡ của Cố Tổng Thống Diệm, qua Chiến Dịch Phượng Hoàng (1969-1970), sau trận Mậu Thân (1968) để bình định nông thôn. Nhờ vậy QLVNCH đã đẩy lui VC trở lại rừng núi, mật khu, đồng thời kiểm soát hầu hết dân chúng Miền Nam VN tại cao nguyên cũng như miền đồng bằng từ Quảng Trị vào tới Hà Tiên.
Tăng cường an ninh tại khu Trù Mật, Dinh Điền, Ấp Đời Mới với các lực lượng Địa Phương Quân + Nghĩa Quân + Nhân Dân Tự Vệ và Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn.. Cuối cùng Chính Phủ lại tiếp tục chương trình cải cách điền địa còn dang dở của Tổng Thống Diệm nhưng vấp phải sự lấn đất dành dân của cộng sản. Do trên Chính Phủ lại phải xây dựng nhiều làng mạc mới trên các Quốc Lộ, để định cư dân chúng trong các vùng xa xôi bị giặc tạm chiếm, khiến đồng ruộng thôn xóm lại bị bỏ hoang, vì nhiều người về các thành phố sinh sống, lánh nạn.
Tóm lại từ ngày độc lập (tháng 7-1954) cho tới cuối tháng 4-1975, dù bị Hồ Chí Minh và cộng sản đệ tam quốc tế xâm lăng phá hoại không ngừng nhưng chính phủ VNCH, cũng đã cố gắng kỹ nghệ hóa đất nước, mở rộng các xí nghiệp khắp nơi tại thủ đô, nhất là ngành dệt và chế biến thực phẩm, hóa học, dược liệu, điện và các loại máy móc.. với số lượng thống kê là 8132 cỡ sở lớn nhỏ. Sài Gòn cũng là nơi tập trung tất cả cơ quan đầu não của chính phủ như các bộ, quốc hội, tòa đại sứ của các phái bộ ngoại giao.
Tính đến cuối tháng 4-1975, thủ đô (Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định) với tổng số trên 4 triệu dân, là một trong những thành phố đẹp đẽ tráng lệ nhất thế giới, là một thị trường tiêu thụ to lớn nhất VN vì có một đại giang cảng thuận lợi, với số hàng hóa xuất nhập lên tới 7,5 triệu tấn hằng năm, đó là chưa kể tới Tân Cảng và Giang Cảng nhập Xăng Dầu tại Nhà Bè.
Thủ đô Sài Gòn còn có phi cảng quốc tế Tân Sơn Nhất, vô cùng tấp nập với hơn 1.070.000 hành khách đi về (năm 1970) với đầy đủ các hãng hàng không quốc tế, nên được mệnh danh là Chicago Châu Á. Riêng Hàng Không VN đảm trách các đường bay quốc nội, tại các phi trường tối tân vừa được thiết lập ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Pleiku, Ban Mê thuột, Đà Lạt, Nha Trang, Tháp Chàm, Phan Thiết, Biên Hòa, Vũng Tàu, Cần Thơ, Phú Quốc, Mỹ Tho.
Sài Gòn là vậy đó, VNCH là vậy đó, thảm thay tất cả bị sụp đổ hoàn toàn vào trưa ngày 30-4-1975, qua lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh.
+ THÀNH HỒ (5/1975 - 5/2007), CÁI GÌ CŨNG CÓ:
Ngay khi Sài Gòn vừa lọt vào tay giặc, tháng 5-1975 VC lập Ủy ban quân quản thủ đô và Ủy ban cách mạng tại các tỉnh, ra lệnh phong tỏa ngân hàng và chiếm đoạt tất cả các xí nghiệp cả nước, công hay tư, từ lớn tới nhỏ. Bắt đầu từ đó, các xí nghiệp được điều hành bởi một thành phần quản lý mơi, gồm toàn cán bộ cộng sản miền Bắc hay tập kết. Riêng chủ nhân thực sự của xí nghiệp thì giữ vai trò ‘cố vấn kỹ thuật’. Đồng thời ra lệnh kiểm kê hết các cơ sở công nghiệp nhỏ và nhà buôn. nhưng ác liệt nhất vẫn là hai đợt cướp của, qua cái danh từ mỹ lệ: Đánh Tư Sản Mại Bản.
Vào tháng 9-1975, VC ra lệnh bắt giam hay quản thúc tại nhà, tất cả đại kỹ nghệ gia, thương gia, chủ cao ốc, khách sạn, nhà hàng, nhà in, tiệm sách báo.. tất cả hơn 100 người. Họ bị đuổi ra khỏi cửa, sau khi toàn bộ tài sản gồm nhà cửa, xí nghiệp, xe cộ, tiền bạc vàng ngọc .. bị đảng trấn lột hết. Đồng lúc là đợt đổi tiền đầu tiền.
Cũng từ đó đồng bạc VNCH không còn giá trị và được đổi thành tiền Mặt Trận, tối đa mỗi gia đình được 200 đồng (tương đương 100.000 tiền VNCH). Theo VC, miền Nam lúc đó có hai loại tư bản là Tư sản thương nghiệp bao gồm đại thương gia, trung thương gia, chủ tiệm ăn được đảng gán tội bóc lột nhân dân, đầu cơ tích trữ để trục lợi, nên phải có tội. Còn giới buôn bán nhỏ và các tiểu công nghệ.. là thành phần sản xuất có ích cho xã hội chủ nghĩa nhưng cũng phải được cải tạo để theo đúng đường lối của chế độ đề ra.
Từ tháng 3 -5/1978, để tiêu diệt và xóa sổ những gì còn lại của nền kinh tế VNCH trước năm 1975, VC lại đánh tư bản miền Nam đợt 2 vào ngày 23-3-1978, vô cùng qui mô và ác liệt, chẳng những tại thủ đô Sài Gòn, mà ở khắp các thành thị từ vĩ tuyến 17 vào tận Cà Mâu, Rạch Giá, Hà Tiên. Lần này coi như vĩnh tuyệt, vì tất cả tài sản của người miền Nam, từ tiền bạc, vàng ngọc, nhà cửa, cơ sở thương mại, lều nước mắm, nhà máy xay lúa, ghe thuyền đánh cá, xe đò, xe vận tải và các loại xe nhỏ.. đều bị đảng cướp giựt, tịch biên một cách công khai. Tàn nhẫn hơn, đảng còn ra lệnh cho những nạn nhân tay trắng này, trong vòng một tháng phải ra khỏi Sài Gòn, để đi vùng kinh tế mới.
Riêng tại Sài Gòn, tính đến ngày 3-5-1978 đã có hơn 30.000 người, bị đuổi khỏi mái ấm gia đình và nơi chôn nhau cắt rốn, để vất vưởng tha phương tới các vùng gọi là kinh tế mới, được thiết lập sát biên giới Việt-Miên trong các tỉnh Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, An Xuyên, An Giang, Đồng Tháp Mười, Châu Đốc Lâm Đồng.. hay gần hơn nếu còn chút tiền chạy chọt, sẽ được đưa tới các nông trường tập thể Lê Minh Xuân, Nhị Xuân, Thái Mỹ, Phạm Văn Cội 1 và 2, ở Củ Chi và Hậu Nghĩa.
Tóm lại ở đâu đồng bào cũng lâm vào tuyệt lộ, dù là công nhân tại các nông trường với đồng lương chết đói. Riêng chủ nhân xe đò, ghe bầu, tàu đánh cá, xe vận tải.. được xem là thành phần tư sản dân tộc nên trở thành xí nghiệp công tư hợp doanh nhưng do nhà nước quản lý, cán bộ đảng làm giám đốc, còn người chủ thật sự, thì lên chức cố vấn kỹ thuật.
Tuy nhiên giới này còn được chút an ủi, là được cho phép ở lai thủ đô, có hộ khẩu tem phiếu và hưởng qui chế công nhân viên nhà nước, từ 60-85 đồng bạc Hồ. Có một ít được lãnh lương đồng hóa chuyên viên, lương 105 đồng. Nhưng lỡ hết rồi, có không muốn cũng đành chịu. Sau rốt là những người buôn bán nhỏ, được đảng cho hành nghề trong các khu vực tập trung, với giá cả đã có sẵn.
Ngày 25-4-1978, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký một nghị định tuyệt mật, mang số 78, quyết định thống nhất tiền tệ cả nước và được thi hành bắt đầu ngày 3-5-1978.
Cũng Phạm Văn Đồng ký thêm một nghị định ngày 31-3-1978, bãi bỏ tư thương chuyển vận hàng hóa từ nông thôn ra thành thị. Chính sách bế quan tỏa cảng, phong tỏa thành phố này, với mục đích làm tê liệt giao thông giữa các tỉnh, chia các vùng đất ở miền Nam của VNCH thành các quốc gia riêng biệt. Tất cả theo đúng đề cương định hướng của Lê Duẩn, muốn biến mỗi huyện là một đơn vị kinh tế thời bình và là một Sô Viết Nghệ Tĩnh, một đơn vị chiến đấu trong thời loạn.
Nhưng trên hết là phải cô lập thủ đô Sài Gòn với các tỉnh miền Nam, qua thiên la địa võng kiểm soát trên bộ cũng như đường thủy. Tóm lại chỉ mới mấy năm Sài Gòn bị mất tên, VC đã đạt được mục đích cách mạng, là bần cùng hóa giới tư sản thủ đô, ăn mày hóa cả miền Nam, hủy bỏ nên kinh tế thị trường đê thay thế bằng chính sách kinh tế hoạch định quốc doanh đem từ miền bắc vào. Kết quả tất cả hàng hóa và sản phẩm tại các tỉnh thị ngoài Sài Gòn, bị ứ đọng vì không xuất tỉnh được nên cuối cùng phải bán tháo đổ, rẻ mạt cho NHÀ NƯỚC. Từ đó đảng lại chở những thứ này về Sài Gòn, bày bán trong các cửa hàng, xí nghiệp, khu chợ của đồng bào vừa bị tịch biên, với sự độc quyền.
Nhưng vỏ quýt dầy có móng tay nhọn, kẻ cướp luôn gặp bà già, đó là một chân lý. VC độc ác, bất lương, bạo tàn nhưng lại quá ngu si, luôn tưởng mọi người im lặng trước hành động thảo khấu của đảng và cán bộ, là đã đồng tình và sợ chúng. Vì vậy chúng lại càng tham lam, hấp tấp, đem các luật lệ rừng rú thú vật của cái gọi là xã hội chủ nghĩa, cùng với chính sách tập thể hóa cưỡng bách đất đại, để khống chế và nắm độc quyền kinh tế của người miền Nam ở thành thị cũng như nông thôn.
Tức nước vỡ bờ, VC bị dội ngược vào tường, vì gặp phải sự chống đối của toàn thể đồng bào VNCH, chẳng những tại Sài Gòn-Chợ Lớn mà ngay cả nông thôn miền Nam. Hậu quả nông dân không bán nông sản cho đảng theo gia rẽ mạt, khiến cho hệ thống thương nghiệp quốc doanh sập tiệm vì khan hiếm nhu yếu phẩm, làm cho giá cả tăng vọt.
Một sớ lớn nông dân tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nại lý do sưu cao thế nặng, nên tự ý bỏ ruộng đất hoang không thèm canh tác. Do trên nạn chợ đen, chợ trời phát triển khắp nơi với tình trạng lạm phát, dù khắp nơi đầy nghẹt các trạm kiểm soát nhưng hàng chui từ ngoài vẫn đổ về Sài Gòn, đủ cả gạo thịt cá rau quả, vì đã móc ngoặc, hối lộ, bỏ chân với công an và cán bộ địa phương..
Tình trạng dân đói lại càng bi thảm hơn, trước thảm cảnh của những gia đình bị đuổi lên vùng kinh tế mới, nhất là ở các chốn ma thiêng nước độc sát biên giới Việt-Miên, do đói rách, tật bệnh, nên lại liều chết quay về Sài Gòn, sống cảnh đầu đường xó chợ. Trong số này, phần lớn là thành phần quân, công, can, cảnh và cả thương phế binh VNCH.
Vì CS Hà Nội luôn coi Miền Nam như một thuộc địa, nên khi vào được Sai Gòn nhờ may mắn, đã vơ vét hết các chiến lợi phẩm về Bắc, kể cả những nguyên vật liệu rất cần thiết cho sự phát triển nền công kỹ nghệ VN. Từ sau năm 1977, hầu hết các cơ sở công kỹ nghệ luyện kim, dệt, chế biến thực phẩm tại Sài Gòn và vùng phụ cận, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vì nguyên liệu đã kiệt quệ. Đây cũng là thời gian VC bị thế dơi bên ngoài, từ Mỹ, Trung Cộng, Nhật , các nước trong Hiệp Hội Đông Nam A.. cho tới Ấn Độ, Liên Âu.. tẩy chay và quay mặt, trước những hành động thực dân trong nước, cũng như đã công khai làm nô lệ cho Liên Bang Sô Viết tại Châu Á.
Ngày 9-6-1980, Trương Như Tảng bộ trưởng ma trong chính phủ dỏm, của cái mặt trận ba làng GPMN, chạy thoát ra ngoài, tới Ba Lê họp báo, tố cáo cộng sản Hà Nội tham tàn bạo ác, ngu dốt rừng rú, nên chỉ mới một thời gian ngắn cai trị Miền Nam, đã làm cho Sài Gòn sụp đổ toàn diện về kinh tế, thiếu thốn lương thực và tệ nạn tham nhũng bất công cửa quyền, đã khiến cho hầu hết các công ty hợp doanh còn lại khánh tận vì thuế theo luật rừng. Cũng nhờ đảng quyết tâm cải tạo kinh tế, mà dân nghèo càng nghèo, bất công bất bình đẳng xã hội càng trầm trong gấp trăm lần trước ngày 30-4-1975, vì sự ham muốn hưởng thụ vất chất tiện nghi, của cán bộ đảng từ trên xuống dưới, nghĩa là chỉ cần có tiền đút lót, thì việc gì cũng tốt, cũng xong.
Để lấy lại niềm tin cứu đảng, ngày 3-2-1980, nhân kỷ niêm thành lập 50 năm đệ tam cộng sản quốc tế, tổng bí thư Lê Duẩn đòi diệt trừ nạn tham nhũng, hối lộ, lạm quyền và hứa tận diệt, qua chính sách ‘ba lợi ích’, lại tạo cơ hội thêm cho cán đảng tham ô lộng quyền, móc ngoặc với gian thương đem hàng hóa trong các cửa hàng quốc doanh bán ra thị trường chợ đen. Ba Tàu Chợ Lớn lại trỗi dậy, đóng vai trung gian các nghiệp vụ mua bán chui, giữa các Ba Tàu Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, bằng cách chở hàng hóa bằng thuyền tàu tới tận hải phận VN, để đổi chác vàng, mỹ kim hoặc các thổ sản VN như gạo, tôm cá đông lạnh..
Nhờ các dịch vụ chui béo bở này, mà các cán đảng giàu to nhanh chóng, trở thành những tư bản đỏ, trong xã nghĩa thiên đường. Cuộc dành ăn, đã khiến hai phe đảng giáo điều và đảng canh tân, thanh toán công khai đẫm máu tại Sài Gòn, làm Bắc Bộ Phủ phải xét lại vì đã nóng mặt, trong cảnh trâu cột nhìn trâu ăn, cũng thấy thèm.
- Chiến Cuộc Đẫm Máu, Giữa Tư Bản Đỏ Hà Nội Và Sài Gòn:
Cuộc đối đầu giữa hai nhóm tư bản đỏ Hà Nội và Sài Gòn, thật sự đã bùng nổ, sau kỳ đại hội đảng lần thứ V (27-31/3/1982), qua nhiều thay đổi chính trị nội bộ, khiến thủ tướng Phạm Văn Đồng, lại phải cải tổ nội các lần thứ ba (1980-1982), có 6 cán bộ trung ương đảng bị loại khỏi bộ chính trị, trong số này có Nguyễn Lam, Trần Phương, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Thành Thơ và Võ Nguyên Giáp. Riêng Võ Văn Kiệt bị bứng gốc Thành Ủy Thành Hồ, về Hà Nội ngồi chơi xơi nước, trong chức vụ phó thủ tướng kiêm chủ tịch ủy ban kế hoạch nhà nước, kể cả tướng công an Mai Chí Thọ (mới theo bác về chầu tổ Mac-Lê) cũng bị lung lay địa vị.
Phó thủ tướng Đỗ Mười được đảng giao thi hành chính sách sửa sai tại thành Hồ, với nhiệm vụ đánh tư sản thương nghiệp, trừng trị cán đảng hủ hóa tham ô, bắt đầu thi hành vào tháng 5-1983. Mục đích cũng chỉ là triệt tiêu các cửa hàng IMEX tại các quận trong thành Hồ, vì lúc đó tất cả hàng hóa xuất nhập đều do cửa hàng trung ương IMEX tại đường Nguyễn Huệ độc quyền. Cùng lúc Hà Nội ban hành nhiều sắc thuế nặng nề, đánh vào giới tiểu thương tại Chợ Bến Thành và các khu thương mại trong Quận Nhất, khiến cho nhiều cơ sở phải sập tiệm như Nhà Hàng Chí Tài, Tài Nam, Paris, Cola.., đành hiến cho đảng, sau đó thành công ty hợp doanh.
Độc hiểm hơn, Đỗ Mười còn mở chiến dịch đánh giới tư thương bán lẻ, hàng rong trên vệ đường, viện cớ chỉnh trang thành phố. Đối với đồng bào có thân nhân nước ngoài, Đỗ Mười ban lệnh hạn chế số quà cáp và qui định tiền nhận được, phải bỏ vào quỹ tiết kiệm. Hành động quái quỷ này, khiên cho ngoại viện của Việt kiều tụt giảm trầm trọng, vì không ai muốn của mồ hôi nước mắt, lọt vào tay đảng. Trong dịp này Đỗ Mười đã thanh toán được nhiều ngàn tư bản đỏ, trong đó cộm nhất có giám đốc xí nghiệp liên hiệp Cửu Long, bị tịch thu trên 20 ký lô vàng ròng. Cùng với nhiều cán đảng cao cấp tham ô trong các cửa hàng IMEX như Cholimex, Sidimex,Gidimex..
Mặc kệ cho đồng bào cả nước bất mãn vì sưu cao thuế nặng, lạm phát, khan hiếm thực phẩm, thất nghiệp và tham ô càng lộng hành, Hà Nội vẫn theo đúng đường hướng TÂN CHÍNH SÁCH (NEP) của Liên Xô đề ra, ban hành nghị quyết của bộ chính trị trong phiên họp ngày 17-12-1984 để tập thể hóa đất đai miền Nam và kiểm soát tư thương. Thêm vào, là nghị quyết số 8-1985,bãi bỏ chế độ bao cấp, ấn định lại giá hang quốc doanh gần bằng giá tại thị trường.
Cuối cùng là ĐỔI TIỀN MỚI lần thứ ba, vào ngày 14-9-1985, làm cho tiền Hồ lần nữa bị phá giá tới 90%, so với tiền trước. Đây cũng là cơ hội để đảng Việt Cộng có cơ hội vàng ròng, đẻ ra chính sách buôn bán nô lệ mới trong thế kỷ XX, một mặt đảng đầy ải đồng bào mạt rệp vì bị cướp cạn tài sản qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, tới các vùng đất ma thiêng nước độc, trên cao nguyên và sát biên giới để mở các đồn điền cao su, trà, cà phê được trả bằng lương công nhân viên chết đói. Nhưng quan trọng nhất là xuất người làm vật lao động, để đổi lấy ngoại tệ tại các nước Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc.. mà theo thống kê đã có tới cả trăm ngàn người.
Tuy nhiên tất cả kế hoạch của đảng hầu như thất bại hoàn toàn, dân chúng nghèo Sài Gòn vẫn bám trụ tại chỗ, mua hàng chui tại chợ trời chợ đen để sống, mà không cần vào tem phiếu tại cửa hàng quốc doanh. Nền kinh tế chợ trời-chợ đen phát triển lên tận mây xanh, giúp cho người nghèo tại thủ đô cũng như các thành phố lớn khác của miền Nam, không thèm đi kinh tế mới, mặc cho công an bộ đội hù dọa, bắt bớ và khủng bố.
- Sài Gòn bây giờ cái gì cũng có:
Như lời Tú Trinh quảng cáo, Sài Gòn bây giờ, qua danh xưng Thành Hồ cái gì cũng có, sau khi đảng VC lâm vào đường cùng ngay lúc thành đồng xã nghĩa Liên Số và Đông Âu tan rã và sụp đổ, cúp hết nguồn viện trợ nuôi sống Bắc Bộ Phủ. Đói và gần chết, nên đảng VC đành mở cửa, trải thảm đỏ chẳng những quì rước tư bản đỏ trắng, mà ngay cả kẻ thù không đội trời chung là Hoa Kỳ và Người Việt tị nạn khắp thế giới, một thời từng bị Hà Nội phỉ báng, chửi bới là những thành phần phản quốc, cặn bã của xã hội, trốn ra nước ngoài gái thì làm điếm, trai ăn cướp lưu manh., đâu có chừa ai, dù là kỹ sư, bác sĩ, tướng tá, nhà văn, nhà báo, kể cả sư cha và me Mỹ-Pháp..
Cũng nhờ mở cửa cứu đảng, mà từ năm 1990 tới nay, thành Hồ không những hóa rồng mà là xứ cáo, tưng bừng nhảy vọt qua tuyên truyền trên báo đảng và những luận điệu tâng bốc bợ đít của một vài tờ báo Việt ngữ và đài ngoại quốc có chương trình tiếng Việt, la làng quảng cáo giùm cho đảng VC, nào là năm du lịch, năm vận động ngoại giao, năm điện khí hóa, năm thanh lọc hành chánh, năm chấn chỉnh kinh tế.. rồi năm đối tác và giao lưu của Việt kiều sau khi đã đi hết biển..
Nhưng tất cả những người về nước thăm nhà, kể cả những người già gần xuống đất, cũng ráng trở lại quê hương thứ hai để hưởng trợ cấp và tiện nghi, chứ có ai ngu ở lại hòa hợp, hòa giải với VC để bị tham nhũng bóc trơ xương thịt? .
Sài Gòn là thiên đàng hạ giới của những Việt Kiều tị nạn CS, một thời liều chết bỏ nước ra đi tới xứ người, qua bao năm cầy tóe lửa, làm hộc máu, tìm đủ mọi cách lường gạt chính phủ lẫn đồng hương để có nhiều tiền, rồi vai vác bị bạc lẻ kè, ngạo nghễ như Simonov hay Don Quichotte, to tiếng rằng ta là Việt Kiều, ăn chơi xả láng, vung tiền qua cửa sổ, tại các sòng bạc ôm, karaoké hít, matxa lắc, hớt tóc đôi.. cho tới khi bị trất lột sạch túi. Lúc đó Việt Kiều ta lại trở lại Mỹ và mọi nẻo đường hải ngoại, tiếp tục cầy, gạt, khóc lóc với các chính phủ bản địa để có tiền tiếp và trở lại quê nhà., vung tiền qua cửa sổ.ạ, trả thù dân tộc, mà trước khi được vượt biển tìm tự do, không có dịp.
Và như thế thành Hồ cái gì cũng có, bách chiến bách thắng lừng lẫy nhất vẫn là nạn băng đảng Mafia VC, đứng đầu là chủ soái Nam Cam nghe nói đã bị tử hình tại pháp trường Thủ Đức, vào một buổi sáng mịt mù sương khói, tử tội bị trùm đầu, còn dân chúng chứng kiến thì đứng nhìn rất xa, nên có ai biết đâu mà mò?.
Băng đảng trộm cướp hoành hành cả nước, chẳng những tại Hà Nội mà ngay tại Sài Gòn, nơi nào cũng có và đây là một trong những tai ương thảm khốc nhất trong cận sử thời Hồ. Nhờ sự bao che của cán đảng, từ trung ương xuống tới khu phố, Sài Gòn có tới 39 băng đảng trộm cướp, suốt ngày kiểm soát sinh hoạt của người dân lương thiện, khắp phố phường, xí nghiệp tới các trung tâm buôn bán tại các chợ Bến Thành, Bàn Cờ, Hòa Hưng, Xóm Củi,Kim Biên, An Đông, Thị Nghè, Gò Vấp, Tân Định.. các bên xe Miền Trung,Lục Tỉnh, Bình Triệu, Chợ Lớn.. và đối tượng chính là Việt kiều, ngoại kiều.
Thành Hồ nói riêng, đảng VC nói chung ngày nay, đứng đầu thế giới về quốc nạn tham nhũng, như Phạm Trần đã viết ‘ tham nhũng VN nay thở ra như khói ‘ . Tham nhũng dám bán cả đất biên giới, lãnh hải, đảo và vận mệnh của dân tộc Hồng Lạc cho Trung Cộng, Nga, Mỹ, bọn tàu trắng, Nhật, Đại Hàn, Liên Ấu, Thái Lan.. để lấy vàng bạc chuyển ra ngoại quốc, chờ ngày đổi đời sắp tới, có được đời sống an nhàn như bọn khoa bảng trí thức, chính trị gia, tướng tá VNCH, đâm sau lưng QLVNCH, trốn chạy ra ngoại quốc trước ngày miền Nam thất thủ 30-4-1975.
Võ Văn Kiệt rồi Phan Văn Khải , từng được Lê Duẩn, Đỗ Mưới giao trách nhiệm thanh tra và bài trừ tham nhũng nhưng làm sao dẹp được vì tham nhũng là do bọn chúng bày ra và nếu không nhờ vào những tệ đoan này, ngày nat các cán cao cấp đảng trong Bắc Bộ Phủ, ma danh sách giàu nhất thế giới vẫn là Vỏ Văn Kiệt, Đỗ Mưới, Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Lê Đức Anh, Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Tôn Nữ Thị Ninh, Nguyễn Minh Triết.. và ‘ bác’Năm Cam, nghe nói đã chết nhưng vàng ngọc đô la đã chuyển hết ra nước ngoài.
Thành Hồ hiện nay đang bách chiến bách thắng trước con sốt Karaoke, Parabol, phim Sex, bán buôn bằng cấp giả và những quảng cáo du lịch, cái gì cũng có. Sài Gòn trước tháng 4-1975 là nơi buôn Phật bán Chúa, nhờ vậy cọng sản đệ tam mới có cơ hội nhuộm đỏ hoàn toàn VN. Thành Hồ sau tháng 5-1975 là thị trường tiêu thụ cổ vật VN và là chốn kinh doanh thần linh, ma quỉ, có như vậy đảng mới lập chùa để đúc tượng Hồ Tặc đem lên bàn thờ, ngồi chễm chệ chung với Phật, Đức Quốc Tổ Hùng Vương.
Tại Huế, qua những danh từ hoa mỹ như Festival hay trùng tu, để có cớ phá hoại và ăn cắp cổ vật trong thành nội, thời vua Gia Long và Minh Mạng nhà Nguyễn. Thủ phạm trộm đồ cổ chính là Nguyễn Khoa Thanh (chủ tịch UBND Huế) .Đây là những cổ vật lịch sử của dân tộc, được cán bộ trong đội kiểm kê tẩu tán, rồi đem bán cho một công ty Hòa Lan có tên Recherches Historis, trong những ngày đấu giá vào tháng 4-1994, vơi 239 món hàng trị giá 5 triệu đô la nhưng bán vội vàng, đổ tháo nên chỉ có 56.000 $ US. Sự kiện trên đã làm cho cơ quan UNESCO thất vọng và bất lực nhưng ai làm gì được VC?. nay qua bệ dựa vững chắc của siêu cường Mỹ. Ma túy từ Tam Giác Vàng, được Hà Nội thông đồng với Lào Cộng, để liên hệ với trùm Khum Sa, qua phương tiện của bộ đội công an biên phòng, chuyển thẳng tới Đà Nẵng, để phân phối khắp các nước Đông Nam Á và tràn ngập thành Hồ.
Nghèo đói tuyệt vọng, đã đẩy mọi tầng lớp đồng bào vào cuối đường hầm, nên họ chỉ còn biết tin vào những may rủi cuộc đời, như rủ nhau đi tìm vàng ở Hiếu Liêm (Phước Long), Tà Pao (Bình Tuy), Ba Thê (An Giang).. để mong một sự đổi đời. Đây cũng là cơ hội để cho bọn kinh doanh thần thánh ma quỉ hốt bạc, qua những màn thông điệp, phán quyết, sấm truyền.
Trong khi đó đâu đâu cũng có những ông bà cô cậu, thần thông quảng đại, chuyên môn chữa bệnh bằng bùa phép, qua các bậc tu hành lừng danh như Đại Đạo Tiên Cô, Thầy Bùa, Thầy Mo, Thầy Tư Nước Lạnh.. thầy cô nào tiếng tăm cũng lừng lẫy, chẳng những ở thủ đô mà còn vang dội cả nước. Tất cả đều là sản phẩm của thời mở cửa đổi mới, khiến cho người dân chẳng những đói lạnh mà còn mất hết niềm tin cuộc đời, nên phần lớn bị bệnh tâm thần, mộng du, tỷ lệ người bệnh chỉ thua A Phú Hãn mà thôi.
Tóm lại thành Hồ ngày nay cái gì cũng có, xoay tròn qua 3500 dịch vụ với những bàn tay nối dài, chằng chịt không khác gì hệ thống đường mòn mang tên ‘ bác’ ngày xưa. Đã cướp cạn hết tài sản của miền Nam trong nước, qua ba đợt đánh tư sản và đổi tiền, đảng VC qua Đỗ Mười, còn bày ra chiến dịch ‘kiều hối’, theo pháp lệnh ký ngày 22-9-1993 để móc túi mấy triệu nạn nhân, vì đảng phải vượt biên vượt biển tị nạn sống đời lưu vong khắp mọi nẻo đường thế giới.
Nhưng muốn là một chuyện, nên dù VC đã lập nhiều cơ sở kinh tài ở hải ngoại như Vinexco, Far East Express, VN Express.. để móc nối tuyên truyền đồng bào nhưng phần lớn hằng tỷ bạc, được gởi về nước cho thân nhân qua con đường chui., chứ đâu có ai ngu gửi chính thức, để đóng cho đảng tới 4 loại thuế.
Thua bài cào, VC gở me qua ngành du lịch mà cao điểm bắt đầu từ năm 1995, với sự hợp tác của các công ty du lịch ngoại quốc như EW và A.I.O tour (Japan), Đài Loan.. trụ sở đặt tại Imex cũ, đường Nguyễn Huệ, đã bị cháy ngày 14-10-1991.
Kèm theo trong dịch vụ béo bở này của Hà Nội, là dịch vụ kinh doanh phim SEX. Trong khi đó, thành Hồ cũng tưng bừng nạn tẩu tán vàng, đô la trong nước, ra ngoại quốc nhất là các nước Đồng Nam Á, qua các cửa khẩu ở biên giới Hoa Việt, Nghệ An, Tây Ninh, Long An, Châu Đốc.. tất cả đều của bọn tư bản đỏ, cán bộ gốc, chuyển ra ngoại quốc rữa thành tiền sạch, trước khi gửi tiếp vào các ngân hàng quốc tế.. nhất là Thụy Sĩ hay chuyển ngân cho Việt kiều tại Hoa Kỳ, Úc, Canada, Châu Âu.. để mở tiệm vàng, ra báo, mở đài phát thanh, tàu đánh cá, mua nhà.. Rồi thì những dịch vụ làm giấy tờ giả mạo, trong các chương trình ODP, HO, con lai, kết hôn.. tràn lan khắp Miền Nam, nhất là tại thành Hồ.. giúp cho một số lớn cán bộ và gia đình Việt Cộng, sau khi tham nhũng tom góp được một tài sản lớn, mua giấy tờ giả mạo, cưới vợ chồng giả, để trốn ra hải ngoại hưởng thụ..
hú quý sinh lễ nghĩa, giàu có thì phải xài tiền, không những chỉ có cán đảng, tư bản đỏ, bọn thương buôn tư bản ngoại quốc, mà cả Việt Kiều bốn phương về, vung tiền qua cửa sổ, để phanh thây xé xác những người con gái, đàn bà nghèo vô tội VN, vì tiền phải bán thân cho thú vật tại các tụ điểm ăn chơi hay trá hình ở các khách sạn hạng sang Bông Sen, Bến Thành, Cửu Long, Hướng Dương, Hải Âu, Hoa Sen, Lê Lai, Hữu Nghị,.. đồng lúc với những trung tâm du hí Bình Quới 1-2, Đầm Sen, Hồ Kỳ Hòa và Suối Tiên. Nơi nào dù ở trong khách sạn hay ngoài trời, đảng qua thân xác của người phụ nữ VN, tha hồ trấn lột những con thiêu thân, quyết lòng vung tiền, để trả thù dân tộc.
Thành Hồ cái gì cũng có mà bó tay không thể giải quyết được, vẫn là tham nhũng, tệ doan xã hội và nạn nhân mãn. Để giải quyết, đảng theo Mao-Đặng-Giang-Hồ, ban hành chính sách cai đẻ, từ sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, do Đại Tướng Anh Hùng Điện Biên là Võ Nguyên Giáp phụ trách, qua hàm Phó Thủ Tướng đảng VC.
Theo lệnh, mỗi gia đình chỉ được tối đa 2 con, sau đó được phá thai hợp pháp. Đối với Hoa kiều từ trước tới nay tại thủ đô, vẫn sống riêng biệt như một nước khác nước VN, ở Chợ Lớn theo thống kê năm 1958 đã có 600.000 người, chiếm tỷ lệ 75% Hoa Kiều cả nước. Sau ngày 30-4-1975, Hoa Kiều Chợ Lớn lập tức phản Đài Loan, theo Trung Cộng để dựa hơi hù VC nhưng vẫn bị đảng hốt sạch qua ba lần đánh tư sản và đổi tiền.
Sau đó Hoa Kiều càng thê thảm hơn, khi VC và TC trở mặt, một số nghèo bị đi kinh tế mới, trong lúc những kẻ có tiền chung vàng cho đảng để được chính thức xuất ngoại, lên tới 250.000 người, trong đó người Tàu chiếm tới 85%. Nhưng Hoa đi bớt, đã có Liên Xô và các nước Đông Âu đổ xô vào thành Hồ từ năm 1977 nhưng tập trung tại các căn cứ cũ của Mỹ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất, kể cả du hý cũng được dành riêng ở các khách sang sang trọng như Cửu Long (Majestic), Thống Nhất (Carevelle), Hữu Nghị (Palace) và Bến Thành (Rex)..
Nhưng Tàu đi rồi Tàu lại về, chẳng những Hoa kiều mà còn đủ Tàu trắng, Tàu đỏ. Tất cả đang làm chủ thành Hồ như trước tháng 4-1975 đã khống chế mọi sinh hoạt của Sài Gòn. Ba mươi hai năm qua, thành Hồ là thế đó, cho nên người Việt dù có thương nhớ Sai Gòn tới đứt ruột, vẫn không ai muốn nhắc tới cái tên Hồ Chí Minh đang hiếp dâm Hòn Ngọc Viễn Đông., dù biết chắc sớm muộn gì thủ đô yêu dấu cũng được mang tên Sài Gòn như tiền nhân ta đã gọi từ hơn ba trăm năm trước .’-
Xóm Cồn
Tháng 5-2007
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment