NĂM TRUYỆN NGẮN TUYỆT HẢO
Hiện tại, Việt Nam có bốn truyện ngắn rất hay:
1.Phạm Thế Việt: Nợ cứt
2. Thế Giang:Thằng người có đuôi
3. Nguyễn Quang Lập: Saigòn giải phóng tôi.
4.Huy Quang: Linh nghiệm.
5. Võ Kỳ Điền:Câu cá xứ lạnh
1. NỢ CÚT… BÁC HÊN DỄ SỢ !
Phạm Thế Việt
Ngày đó hợp tác xã ở miền Bắc VN xã hội chủ nghĩa ra một chiến dịch thu gom phân bắc (cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã hội loài người. Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch về xây cầu tiêu. Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. >>>
Chuyện ỉa đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết. Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu.
Có nhiều chuyện dở khóc dở cười trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết. Khi chiến dịch ra đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết. Chó chết vì đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước dành mất thì lấy gì mà sống. Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi. Quả đúng không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy
Mấy ông nhà nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước. Họ không cho má tôi phân bua gì hết. Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát.
Bà nói : “Việc tôi làm gian lận tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt để mà nộp cho mấy ông. Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông.”
Nói gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không thể nào trả nổi, đó là nợ cứt./
BÁC HÊN DỄ SỢ!
Bùi Bảo TrúcBáo Hà Nội Mới cho biết tòa án nhân dân huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố Kèo Sòn Thúy ra tòa về tội xúc phạm chủ tịch Hồ Chí Minh bằng những “hành động dâm ô” với những “biểu hiện ngoại hình khiêu dâm đồi trụy”.
Đây không phải lần đầu tiên bị cáo có những hành động như thế, mà 2 năm trước đó, theo bí thư ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc là Hoàng Chánh Tân, đương sự cũng đã có những việc làm tương tự. Kèo Sòn Thúy đã nhiều lần xúc phạm lãnh tụ Hồ Chí Minh và những việc làm đó đã khiến nhân dân huyện Cao Lộc hết sức “bức xúc”. Tuy nhiên, vì cha của đương sự, Kèo Sòn Minh, là người có công lớn trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ nên huyện chỉ cảnh cáo và giao đương sự lại cho gia đình giáo dục uốn nắn. Nhưng Kèo Sòn Thúy vẫn ngoan cố tiếp tục xúc phạm Hồ chủ tịch nên huyện phải đưa đương sự ra toà.
Theo tòa án nhân dân thì Kèo Sòn Thúy đã có những việc làm đồi trụy như mang hình Hồ Chí Minh ra hôn hít, để hình ảnh của bác Hồ vào chỗ kín tự kích dục (bác hên dễ sợ!) , cho người khác vẽ lên mình của bị cáo những hình ảnh hở hang bộ phận sinh dục của chủ tịch Hồ Chí Minh v…v… Kèo Sòn Thúy đã làm những chuyện vừa kể có khi công khai ngay ở trong lớp học khiến bạn bè trong lớp phải trình báo với ban giám hiệu để có biện pháp. Ở nhà thì Kèo Sòn Thúy đem những hình chụp Hồ Chủ tịch vào giường ngủ, dấu trong chăn ngủ chung , ép những tấm ảnh này vào chỗ kín để kích dục (bác hên dễ sợ!).
Nhưng có một chi tiết đáng nói ra ở đây là lúc bị đưa ra tòa, bị cáo Kèo Sòn Thúy chỉ là một học sinh mới 8 (tám) tuổi. Lần đầu tiên Kèo Sòn Thúy bị nhà trường cảnh cáo, đương sự mới có 6 (sáu) tuổi.
Ô hay lúc thì người ta kêu gọi các nhi đồng phải yêu bác Hồ, rồi lại hát nhắng lên rằng “không ai yêu bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng”, rồi lại “đêm qua em mơ thấy bác Hồ”, rồi lại “đêm qua trên bến Ô Lâu, cháu ngồi cháu nhớ chòm râu bác Hồ”… và một đoạn dưới của bài thơ của thợ thơ Thanh Hải thì viết nguyên văn như thế này:
“…Đêm đêm cháu những bâng khuâng
Giở xem ảnh bác cất thầm bấy lâu
Nhìn mắt sáng, nhìn chòm râu
Nhìn vầng trán rộng, nhìn đầu bạc phơ
Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ
Ôm hôn ảnh bác mà ngờ bác hôn.”
Thế thì có lôi bác ra hôn thì đã sao mà tại sao phải đổ cho Kèo Sòn
Thúy là xúc phạm bác? Trong lúc bác hôn các cháu thả cửa khi các cháu
đến thăm bác ở phủ chủ tịch (bác hên dễ sợ!). Có cháu từ miền Nam ra
thăm bác, bác hôn cho một trận tới… mất trinh luôn thì sao?
Kèo Sòn Thúy làm đúng những trò bác rất thích, lại được hô hào
khuyến khích bằng thơ bằng nhạc thế thì tại sao lại lôi em ra tòa?
Kèo Sòn Thúy là người thiểu số Vân Kiều. Cháu yêu bác Hồ có hơi sớm một chút thôi chứ có gì là sai quấy đâu mà huyện làm nhắng lên như vậy. Đây nhé, cháu biết “gu” của bác lắm đấy chứ. Bác đã từng vồ một chị người thiểu số Tày đẻ ra Nông Đức Mạnh. Rồi bác lại được tặng chị Nông Thị Xuân cho bác vui (bác hên dễ sợ!), chị lại đẻ được cho bác thằng cu Nguyễn Tất Trung mà bác cho đi trước khi cho đàn em Trần Quốc Hoàn hưởng sái nhị, sau đó giết chị quăng xác ra dốc Cổ Ngư. Kèo Sòn Thúy chỉ không biết bác đã chết từ năm 1969 nên mới đây vẫn còn tơ tưởng bác. Đó là sai lầm duy nhất của em mà thôi. Còn những việc khác em làm là đều đúng bài bản cả đấy chứ.
Kèo Sòn Thúy nuôi (?) bác đúng câu ‘bác sống mãi trong quần chúng’ thì bỏ bác vào quần mỗi tối đi ngủ cho bác … ấm thì sai quấy ở đâu (bác hên dễ sợ!)? Rồi Kèo Sòn Thúy vạch quần ra nhờ người vẽ chân dung bác vào cho đỡ nhớ thì sao? Không sẵn râu thì nhờ vẽ thêm cho … giống, chờ thêm vài năm nữa …lớn lên (?) khỏi phải nhờ vẽ râu, đỡ phải “bức xúc” như nhà thơ Thanh Hải (đêm qua trên bến Ô Lâu / Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu bác Hồ…) Kèo Sòn Thúy kẹp bác vào giữa hai ngón chân cái (?) để hôn bác và …ngờ bác hôn đó mà (bác hên dễ sợ!).
Có điều bọn đàn em ngu dốt nhìn vấn đề hoàn toàn sai. Đáng lý ra thì phải dùng Kèo Sòn Thúy như một anh hùng thiếu nhi thay thế cho Lê Văn Tám, một nhân vật ngụy tạo bịa đặt hoàn toàn không có thật do Trần Huy Liệu dựng lên và nhà sử học Phan Huy Lê đã nói rất rõ, thì chúng nó đưa Kèo Sòn Thúy ra tòa. Lẽ ra, bọn chúng phải túm lấy chuyện này và hô hoán ầm lên rằng bác Hồ là một thần nhục thể khiến cho ngay cả một cháu thiếu nhi 6 tuổi cũng cầm lòng không đậu, “bức xúc” lia chia, tối tối phải nhét bác vào chỗ kín cho bõ những ngày cơ cực thì mới vẻ vang lãnh tụ chứ (bác hên dễ sợ!). Ai lại lôi Kèo Sòn Thúy ra tòa làm mất mặt bầu cua hết trơn.
Kèo Sòn Thúy bị qui lỗi là đem hình bác Hồ ra hôn hít một cách “đồi trụy” thì từ nay ai còn dám lôi bác ra mà hôn hít và cho bác hôn nữa?
Sau này không còn con chó dại nào hôn bác thì đừng có trách à nghe!
Có điều không rõ Kèo Sòn Thúy bị trừng phạt thế nào. Phải chi mà còn bác thì biết đâu bác lại sai trùm ma cô Trần Quốc Hoàn lên Lạng Sơn đón Kèo Sòn Thúy về Hà Nội với bác không chừng!
II.THẾ GIANG: THẰNG NGƯỜI CÓ ĐUÔI
Kèo Sòn Thúy là người thiểu số Vân Kiều. Cháu yêu bác Hồ có hơi sớm một chút thôi chứ có gì là sai quấy đâu mà huyện làm nhắng lên như vậy. Đây nhé, cháu biết “gu” của bác lắm đấy chứ. Bác đã từng vồ một chị người thiểu số Tày đẻ ra Nông Đức Mạnh. Rồi bác lại được tặng chị Nông Thị Xuân cho bác vui (bác hên dễ sợ!), chị lại đẻ được cho bác thằng cu Nguyễn Tất Trung mà bác cho đi trước khi cho đàn em Trần Quốc Hoàn hưởng sái nhị, sau đó giết chị quăng xác ra dốc Cổ Ngư. Kèo Sòn Thúy chỉ không biết bác đã chết từ năm 1969 nên mới đây vẫn còn tơ tưởng bác. Đó là sai lầm duy nhất của em mà thôi. Còn những việc khác em làm là đều đúng bài bản cả đấy chứ.
Kèo Sòn Thúy nuôi (?) bác đúng câu ‘bác sống mãi trong quần chúng’ thì bỏ bác vào quần mỗi tối đi ngủ cho bác … ấm thì sai quấy ở đâu (bác hên dễ sợ!)? Rồi Kèo Sòn Thúy vạch quần ra nhờ người vẽ chân dung bác vào cho đỡ nhớ thì sao? Không sẵn râu thì nhờ vẽ thêm cho … giống, chờ thêm vài năm nữa …lớn lên (?) khỏi phải nhờ vẽ râu, đỡ phải “bức xúc” như nhà thơ Thanh Hải (đêm qua trên bến Ô Lâu / Cháu ngồi cháu nhớ chòm râu bác Hồ…) Kèo Sòn Thúy kẹp bác vào giữa hai ngón chân cái (?) để hôn bác và …ngờ bác hôn đó mà (bác hên dễ sợ!).
Có điều bọn đàn em ngu dốt nhìn vấn đề hoàn toàn sai. Đáng lý ra thì phải dùng Kèo Sòn Thúy như một anh hùng thiếu nhi thay thế cho Lê Văn Tám, một nhân vật ngụy tạo bịa đặt hoàn toàn không có thật do Trần Huy Liệu dựng lên và nhà sử học Phan Huy Lê đã nói rất rõ, thì chúng nó đưa Kèo Sòn Thúy ra tòa. Lẽ ra, bọn chúng phải túm lấy chuyện này và hô hoán ầm lên rằng bác Hồ là một thần nhục thể khiến cho ngay cả một cháu thiếu nhi 6 tuổi cũng cầm lòng không đậu, “bức xúc” lia chia, tối tối phải nhét bác vào chỗ kín cho bõ những ngày cơ cực thì mới vẻ vang lãnh tụ chứ (bác hên dễ sợ!). Ai lại lôi Kèo Sòn Thúy ra tòa làm mất mặt bầu cua hết trơn.
Kèo Sòn Thúy bị qui lỗi là đem hình bác Hồ ra hôn hít một cách “đồi trụy” thì từ nay ai còn dám lôi bác ra mà hôn hít và cho bác hôn nữa?
Sau này không còn con chó dại nào hôn bác thì đừng có trách à nghe!
Có điều không rõ Kèo Sòn Thúy bị trừng phạt thế nào. Phải chi mà còn bác thì biết đâu bác lại sai trùm ma cô Trần Quốc Hoàn lên Lạng Sơn đón Kèo Sòn Thúy về Hà Nội với bác không chừng!
II.THẾ GIANG: THẰNG NGƯỜI CÓ ĐUÔI
Những năm 1985-1986 Thế Giang đột ngột xuất hiện trên văn đàn ngoài nước với những truyện ngắn Cay Ðắng Nở Hoa, Hạnh Phúc Là Ðấu Tranh, Hà Nội Uống Như Thế Ðấy, Vũng Lầy, Một Ngày Của Ðồng Chí Chủ Tịch, Thằng Chung Hâm, Ngày Xuân Lên Chùa... Thằng Người Có Ðuôi trước hết là một khắc hoạ con người Việt Nam sau Cách Mạng Tháng 8. (Trần Vũ)
THẾ GIANG
Thằng người có đuôi
- Tên chị là gì?
- Thưa em tên Mơ.
- Mơ gì? Mộng mơ hay
quả mơ?
-Tùy, ai muốn hiểu thế
nào thì hiểu...
- Quê quán ở đâu vậy?
- Em ở Thạch Thất, Hà
Tây.
- Chị công tác ở cơ quan
nào?
- Thưa, ở ty Văn Hóa
Thông Tin Hà Sơn Bình.
- Chắc chưa vào Ðảng...?
- Vâng, em mới phấn
đấu ở cương vị đoàn...
- Chị lập gia đình
chưa?
- Em chưa lập, nhưng
đối tượng thì có rồi!
- Các cụ nhà ta còn cả
chứ?
- Vâng, thầy u em vẫn còn.
- Gia đình được
mấy anh chị em nhỉ?
- Thưa, được tám
cả thảy...
-
...
Một bản sơ yếu lý
lịch? Một cuộc hỏi cung ngắn?
Tôi thò đầu ra
khỏi gầm ghế, hé mắt nhìn về cuối toa xe
lửa. Cửa vẫn còn mở có nghĩa là đội
công an, thuế vụ trên tàu chưa làm việc, nếu không
họ đã đóng chặt hai đầu toa cho hành khách
không có đường đi lại hoặc tẩu tán hàng
hóa.
-
Chị đi đâu mà hành lý
cồng kềnh thế này?
-
...
Bỏ mẹ rồi,
đội kiểm tra cơ động đặc
biệt! Tôi rụt đầu vào gầm ghế, cay
đắng lo cho số phận hai bịch thuốc lá sợi
của mình. Hôm nay thứ sáu, nhưng 15 tây, 8 âm lịch: ngày
lành. Tử vi tôi tháng này không xung với tuổi, trong năm
không có sao Ðịa Không, Ðịa Kiếp ghé thăm để
mà lãnh tai họa, trộm cắp.
Chuyến tàu khởi hành
chậm hai tiếng đồng hô như lệ
thường. Nếu chả may nó chạy đúng giờ
thì người ta còn coi như báo trước một
điềm gở... Khổ quá, tôi đã tham lam đóng
hết hàng, chỉ chừa lại số tiền vừa
đủ ăn đường và nộp hụi chết
cho cánh công an thuế vụ thường trực trên tàu,
đám đột xuất này mà sờ đến thì chỉ
còn nước bỏ của chạy lấy người.
Tàu lắc lư chạy trong
đêm. Hành khách ba miền của bao nhiêu âm ngữ đã
đồng tiếng ngáy. Ngay sát mặt tôi, dưới
gầm ghế là hai bàn chân giao chỉ với ngón cái xòe ra,
dính đầy bùn đất của anh nông dân vừa lên
tắt hai bao sắn qua cửa sổ. Trên ghế
đối diện, thuộc về giai cấp khác, mấy
ông cán bộ đi công tác với cặp táp, điếu cày
đang ép nhau ngồi. Thỉnh thoảng, những khi tàu lắc
mạnh, các vị lại xón cho giai cấp dưới cùng
tí nước điếu. Hai con bé con tóc khét nằng, áo bà
ba đen, quần đùi, đang ôm lấy bao than củi
ngủ, chả hay biết nước thánh cam lồ
chảy tong tỏng trên lưng mình. Trên đâu tất
cả là mấy ông con trời bộ đội đang nhịp
nhàng kẽo kẹt thượng tọa trong võng. Chú lính treo
gần tôi nhất đầu ngoẹo ra khỏi võng
ngủ, môi trề ra, nước dãi nhểu nhảo
chảy xuống bụng chị có con mọn đang
tốc áo cho con bú ngáy khò khò trên ghế.
Trời ơi, muốn ra
được cũng thật khó, tôi gồng sức
đẩy hai bàn chân chắn ngang mặt mình mà không
được. Sau mỗi cố gắng, anh nông dân lại
cho tôi một cái đạp hoa cả mắt. Ðau vì bị
đạp thì ít, mà ức vì bị đèn nén thì nhiều,
tôi nghiệm thấy, quy luật đấu tranh của xã
hội cũng đúng cả dưới gầm ghế này.
Nhưng thôi, tất cả đều đã mệt, cần
được ngủ để có sức chiến
đấu cho lúc xuống tàu.
*
Tỏng tỏng... róc rách... Tàu
chạy vào khúc xuôi gió thì vẳng lên tiếng nước
chảy, rồi âm ấm ở đầu. Nghiến
răng chịu cho cái chân ghế cứa vào cổ, tôi
ngỏng đầu lên để nhìn. Trời đất,
suối nguồn thiên thai được bắt từ cái
cần câu cong vút của thằng bé đang nằm nghiêng
trên ghế ngậm ti mẹ. Xung quanh không ai để ý. Tôi
rút tay, vuốt vuốt tóc rồi đưa lên mũi
ngửi. Cũng may, trẻ nhỏ nó chưa ăn mặn
nên tè ra không khai lắm, chứ như cái mùi thường
trực bốc lên từ cầu tiêu đầu toa thì
bỏ mẹ. Hành khách đi xe lửa Thống Nhất
chả bao giờ bị cảm mạo, trúng gió cũng là
nhờ cái mùi này chủng ngừa trước.
-
Chị có tranh thủ mang ít
hàng để cải thiện không ?
-
...
Cái giọng lấy cung kia
lại quái ác nổi lên, tôi đã tỉnh ngủ, nghe
rất gần, ngay khoang bên cạnh. Khổ nổi không làm
sao chui người ra đuợc để còn biết
đường mà chuồn. Thôi thì trăm sự đành
cậy nhờ cây đèn bão tù mù này. Giá có ngọn gió nào
thổi tắt nó đi thì đỡ biết mấy.
Lúc vừa nhảy lên tàu tôi
đã chọn ngay cái toa toàn các khuôn mặt hao hao đói
của cán bộ, ngô nghê chất phác của nông dân này
để trao thân. Tôi định mập mờ đánh
lận con đen giữa đám người lương
thiện hòng trốn tránh các toán kiểm tra bất ngờ.
Tôi đã mừng rơn khi những «thành phần cơ
bản», chủ nhân của toa tàu giương cặp
mắt tò mò, đố kỵ, sợ bóng sợ gió nhìn
mấy bà «ngụy» đi thăm nuôi chồng con cải
tạo ở miền Bắc về rồi từ chối
không cho họ ngồi ké.
Tuy
đã đuợc thực tế phũ phàng của
những trại tù, cuộc sống đầy tương
lai của miền Bắc XHCN nhuộm xanh lè cả mặt,
nhưng mớ áo quần bằng vải tốt,
đống guốc dép, đầu tóc khác lạ, nhất là
thói quen nhìn lại chỗ ngồi, phủi phủi vài cái
rồi mới e dè đặt mông xuống của mấy bà
khiến cho hai miền không thể lại gần nhau
được. Tôi tiếc rẻ vận cổ nhìn
tiễn theo mấy cái gót chân thon nhỏ, dính chút bùn đi
tìm bến đậu khác. Nhưng đời là một
cuộc chiến đấu lớn, phải biết tiêu
diệt những tình cảm phù phiếm trong mình để
đi tới đích. Than ôi, những hy sinh lẻ tẻ
đó cũng không cứu được hai bao hàng, đám
con chiên hiền lành kia cũng không giúp tôi được
chút gì, cái mánh mung của tôi đã hại tôi, chuyến này
thì tiền mất tật mang rồi. Không còn cách nào hơn,
tôi đành dọn mình, chuẩn bị đón tai họa
sắp tới. Trong bóng tối, dưới gầm ghế,
bên cạnh hai bàn chân chỉ chực đạp vào mặt
với mùi khai của nước tiểu, tôi chợt
nhớ đến bài hát của Trịnh Công Sơn «Nơi
đây tôi chờ... nơi kia anh chờ... » để
được ngồi trên «...chuyến xe qua ba miền...».
Phải rồi, bên đây tôi nằm, bên kia em nằm,
cũng chuyến xe qua ba miền. Cái bậc nghệ sĩ
họ thật giàu tưởng tượng và lãng mạn.
-
Rụt chân lại !
Tôi hét to, cấu mạnh
vào chân anh nông dân. Một cái đạp tương xứng
với cái cấu tung vào mặt tôi nhanh nhạy như
phản xạ co giật của con ếch khi bị
truyền điện. Anh ta cằn nhằn trong miệng
rồi tiếp tục ngáy.
-
Xê ra cho người ta đi...
tiểu !
Không dám cấu nữa, tôi
chỉ biết, cũng cốt ý cho đám công an bên cạnh
nghe thấy để hợp pháp hóa việc bỏ đi
của mình. May làm sao anh chàng nông dân trở mình đổi
thế nằm, hai hòn đá chắn cửa hang rụt
lại, tôi vội nhoài người ra, đứng dậy
leo trèo qua đống thịt ngổn ngang nằm kín
lối đi để ra ngoài. Ðứng trong cầu tiêu
một lúc cho vừa đủ thời gian tiểu
tiện, tôi hé cửa nhìn ra. Toa tàu hoàn toàn yên tĩnh,
chỉ có gió lùa ở hai bên cửa sổ, tiếng bánh
sắt nghiến xuống đường rầy. Quái
lạ, công an biến đâu hết rồi ? Ðánh
bạo, tôi mò lại gần. Hai bên thành toa võng giăng kín
thành hàng, đưa đẩy. Hành khách trên ghế gật
gù ngủ. Chả có bóng áo vàng nào hết! Tôi nằm mơ
chăng ? Rất có thể vì dân chạy hàng bọn tôi
suốt ngày đêm bị rình rập, phải đề
phòng, trốn chạy nên riết rồi méo mó nghề
nghiệp, nó theo cả vào giấc ngủ. Cứ sống
với cái nghề này có ngày vỡ tim mà chết. Tôi
đứng tựa lưng vào thành ghế, định
thần lại. Chị có con mọn đã ngã choãi lên
người tay thiếu úy trẻ để ngủ, vú vê
bày thõng thượt. Ðứa con lọt vào kẽ nách mẹ,
ngỏng cổ mân mê cái đầu tí. Chả biết
họ có chồng vợ gì không, nom chị ta vẫn còn
trẻ, già độ hai ba năm về trước có ai
động đến tí của «trời cho» đó sẽ
bị nhảy lên đùng đùng tru tréo chửi. Người
thứ tư trên ghế, một ông cụ già râu tóc lưa
thưa, nghiêng người cho đủ chỗ ngồi, tay
bám với lên thành ghế, đầu cúi gục xuống
gần ngực chị có con mọn gật gù ngủ. Bao
nhiêu mật ngọt lòng thòng rỉ từ miệng chú lính
trên võng, cái đầu ông hứng hết. Ba ông cán bộ tóc
điểm muối tiêu, áo sơ mi trắng cọc tay,
khư khư ôm cặp táp trong lòng đang nhịp nhàng
lắc lư trên ghế đối diện. Ngay trong
giấc ngủ họ cũng có cái vẻ «nhất trí»
như khi làm việc. Tàu sắp đến ga Nha Trang, vùng
đất bão lửa đối với dân buôn chuyến.
Chỉ còn một ngày đường nữa những
sứ giả nguyên thủy của CNXH sẽ đổ
bộ vào Sài Gòn, thành phố đang trên đường
cải tạo để trở về với miền
Bắc, với CNXH. Tôi cúi xuống nhìn vào gầm ghế.
Hai bao hàng vẫn ngủ yên trong đó. Cái bào thai đã
đi được chín tháng chín ngày. Cầu trời cho nó
được mẹ tròn con vuông. Khoang bên cạnh cũng
toàn các khuôn mặt trong biên chế, những lá bùa dán đè lên
bản mặt «bất chính» của tôi. Ðừng rẻ
xuống ga lẻ dọc đường, bỏ tôi côi cút
một mình nhé, hỡi các bạn yêu dấu. Tôi sẽ chi
viện cho miền Nam ruột thịt ít sợi thuốc lá
vàng, do chính tay vợ con các bạn trồng. Những ông ba
tàu chợ lớn với kỹ nghệ làm giả tuyệt
hảo, hơn hẳn nền đại công nghiệp XHCN
sẽ vấn thành những điếu thuốc CAPSTAN
thẳng thớm, đẹp đẽ trong hộp carton
giấy bóng kính để các bạn trầm tư,
đắn đo, quyết định tốn kém, mang
ngược về miền Bắc làm quà cho anh em bè bạn.
Một cặp trai gái vẫn
còn thức, họ ngồi nép vào nhau, thỉnh thoảng trao
đổi những cái nhìn. Gã trai với cây đàn ghi ta treo
trên đầu, tóc dợn sóng, có dáng dấp của một
vĩ nhân tỉnh lẻ, ông chủ hiệu may, hiệu
chụp ảnh, một bậc văn hóa lớn ở
phố huyện ( ?) không ; gã có vẻ là anh
đội trưởng đội chiếu bóng huyện
hơn là những vị kinh doanh thẩm mỹ vì cái kính râm
nội hóa cài khéo ở ngực, áo sơ mi trắng loại
vải không pha ny lông, quần kaki xanh mua phân phối, ở
cổ tay thiếu cái đồng hồ. Cô gái ngồi bên
cạnh tuổi chừng đôi mươi, tóc dài, hoe màu
nắng cháy. Khi cô ngước mặt lên nhìn tôi thì trời
đất ơi, một trang tuyệt sắc giai nhân. Ðôi
mắt có đuôi, mở lớn hiêng hiếng xếch
đang cười lăn tăn. Mũi cô thon nhỏ,
thường tìm thấy nơi tượng Ðức Mẹ
hoặc trong hình thiếu nữ e lệ in trên băng,
đĩa vọng cổ. Cặp môi cũng chúm chím
cười như mắt, phơn phớt hồng, nổi
trên miền da trắng. Những đường nét, màu
sắc đó được ướp trong vẻ hồn
nhiên tươi tắn của cô gái mới mập mờ
linh cảm về nhan sắc của mình. Toa tàu như
tỏa mát hương sen, tôi ngó vội xuống quần áo
của mình, lúng túng dấu mấy ngón tay dắt kín
đất đen ở kẽ móng. Trong phút chốc tôi quên
bẵng hai bịch thuốc lá, mũi tôi điếc
với mùi khai, mắt tôi mù với thân thể nếu
được phơi bày ra hết sẽ diệt dục
trai tráng của thiếu phụ có con mọn bên cạnh, tôi
ngây người như đười ươi giữ
ống chiêm ngưỡng cô gái. Gã trai cảm thấy bị
hao mòn mất mát bởi đống tình si chảy nhão
nhoẹt trước mắt mình bèn đưa tay kéo cái
vạt áo hở của cô gái, ra điều hoa đã có
chủ. Gạt nhẹ tay gã ra, cô sửa lại thế
ngồi rồi thẹn thò liếc tôi. Gã trai húng hắng ho.
Như để chạy đua vũ trang với tôi,
khẳng định với cô gái, gã xoay hẳn
người lại, cặp mắt nhừa nhựa la
liếm lần trên gò má hồng, bò quanh miệng, rồi
chui xuống cổ cô. Cảm thấy gã sắp
trườn vào lòng người đẹp đến
nơi, tôi «e hèm» đánh tiếng, quay mặt đi chỗ
khác. Sự buồn giận vô cớ chợt xâm chiếm
lòng tôi. Hương hoa thế kia dãi gió dầm mưa làm chi
trên chuyến tàu này. Vẻ đẹp mong manh bên cạnh
sự lố bịch. Vâng, người là hoa của
đất, là bà chúa của thiên nhiên, bao nhiêu cuộc
đời mới dâng hiến một khuôn mặt
đẹp, cũng chỉ đẹp trong tích tắc,
một lần phát hương rồi trơ mình ra cho
cuộc sống chìa hàm răng vẫu thô lậu nghiền
nát. Chỉ sau lời tuyên bố ngắn ngủi của
đồng chí chủ tịch xã kiêm chủ hôn, sau ba năm
sống không có ca nhạc, ti vi chiếu bóng đêm,
người đẹp ngồi kia sẽ biến thành cái
máy đẻ, con đường đi đến thiếu
phụ sau lưng tôi sao mà gần. Quần xanh, áo trắng
mới tinh khôi, tôi nổi giận với cả sự
ăn diện của cô gái. Ở xã hội này mỗi khi
muốn chứng tỏ «Tôi đi chơi », «Tôi làm
đẹp », người ta không có chọn lựa nào
khác ngoài màu trắng để tách mình ra khỏi màu nâu lam
lũ với đất, màu tím than đánh lẫn với
dầu máy, màu áo lính nhuộm xanh cả đất
nước. Từ đồng chí Tổng Bí Thư trên
diễn đàn đại hội đảng, chú cai
ngục hỏa lò Hà nội hai tay đút túi quần
bước vào quán phở, cho đến cặp trai gái
đi dạo quanh hồ Hoàn Kiếm, ai ai cũng chỉ
một màu áo trắng. Cái màu trắng đẹp đẽ
thanh khiết bị lạm dụng, bị cưỡng
hiếp trở nên nhàm chán, làm nhòe nhoẹt các khuôn mắt
đời vốn đa dạng, biến nó thành một
thứ đồng phục ngớ ngẩn.
-
Mặt mũi không đến
nỗi nào mà ăn mặc bẩn thỉu như mọi
rợ...
Gã trai thì thầm với cô gái.
Cô ngước mắt nhìn tôi. Họ cùng cười với
nhau.
-
Chị đã mệt
chưa ? Cứ ngả lên người tôi mà
nghỉ... ?
Gã đề nghị,
ngồi lấn vào cụ già đang ôm cái tay nải bên
cạnh để nhường chỗ. Tôi ngờ ngợ,
dỏng tai chờ đợi
-
Không. Cảm ơn anh em còn
ngồi được.
Cái giọng «lấy cung»
khi nãy ? Tôi nhìn chăm chăm vào mặt họ. Cô gái
ngượng ngùng quay mặt đi chỗ khác. Gã trai
nghĩ tôi là chướng ngại cản trở dịp may
chờ đợi đã lâu nên lừ mắt hằn hộc
xua đuổi. Thấy địch thủ vẫn không
nhụt chí, chả cần bóng gió xa xôi, gã ném thẳng vào
mặt tôi câu chửi :
- Chỉ có đồ vô
văn hóa mới thò mõm vào việc người khác! Thôi
đúng rồi, chả có Công An nào hết, tôi cũng không
nằm mơ, cũng không có ma quỉ gì quấy phá, anh
bạn trẻ ngồi trước mặt chính là tác
giả bản «hỏi cung» khi nãy. Tôi sờ lên túi áo
ngực. Trong cuốn chứng minh thư (cũ) của Công
An cấp, ngoài tên tuổi, địa chỉ, quê quán, đã
can án lần nào chưa, còn những mục về cha
mẹ, vợ con, còn sống hay đã chết... Tôi nhớ
đến những lúc mới làm quen, người ta
cũng hỏi và trả lời đầy đủ
những điều cần thiết trong một bản
sơ yếu lý lịch. Hỏi như một thói quen,
nhiều khi chả để làm gì và sau đó ai đi
đường nấy. Thói quen méo mó đó ngấm sang cả
địa hạt yêu đương.
«Nơi em về trời
xanh không em... » Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu
hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy, còn các
Vũ Hoàng Chương, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử...
đã bị đánh bật rễ khỏi người
đọc, gom lại trong cái nghĩa địa văn hóa
cổ, le lói trong ký ức người già. Các tay «yêu»
lừng lẫy một thời vẫn còn đấy,
nhưng đã biến thành Xuân Diệu Xuân Xang Xuân... Tóc
đỏ. Người ta đã tiêu thổ kháng chiến
đến cả yêu đương. Nói đến «yêu»
cũng phạm húy, phải gọi là «tìm hiểu»,
người yêu là «đối tượng tình cảm»
(đối tượng đoàn, đối tượng
đảng, đối tượng của pháp
luật ). Hôn nhân được xây hào đắp
lũy thành «lập gia đình». Chữ «chàng» và «nàng»
được cách mạng hóa thành những chữ «anh»,
những chữ «chị», những «gã», những «hắn»
trong văn học hiện hành. Người ta lập pháp
hóa cả tình yêu, vớ vẩn có thể bị qui là «quan
hệ bất chính», «tác phong thiếu lành mạnh». Ða
sầu đa cảm, yêu lăn yêu lóc cả trong nhạc
lẫn ngoài đời như ông Phạm Duy dám đi
cải tạo không có ngay về.
Tình yêu không được
thi ca ấp ủ, dẫn dắt, hướng
thượng, thè lè đi ngoài đường trong những
dịp quốc khánh, hội hè đông người
để sờ mó, gỡ gạc lẫn nhau, «hủ hóa»
với nhau trong nhà kho công sở, hoặc nếu đúng
đắn nghiêm chỉnh hơn thì đặt ra tiêu
chuẩn «3B» (Bôn sê vích, buồng ở, bia cung cấp)
để «tìm hiểu». Vì vậy những lời yêu
đương được mở đầu bằng
«Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?...»
Tôi cười rú lên
giữa toa tàu. Gã trai giật mình rụt vội bàn tay có
mắt về. Một vài hành khách luống tuổi tỉnh
giấc, khó chịu nhìn thằng điên đang sắp
ngửa leo qua đống người nằm giữa
lối đi để ra ngoài. Ông bạn trẻ cay cú
tiễn với theo...
-
Thật đúng là đồ
quái dị!
*
Chuyến tàu đó đã
dừng lại ở Việt Nam. Hai năm sau, trên
chuyến tàu ở xứ tị nạn, tôi lủi thủi
đi lại một mình giữa toa tàu trống vắng. Lác
đác vài cặp mắt xanh sợ gió máy đóng kín cửa
sổ, khụt khịt mũi nhìn con người dị
hợm cuồng cẳng. Không được chen chúc,
hằm hè chửi bới nhau, không sợ cảnh sát
bằng mấy con chó cảnh chạy lăng xăng bên
cạnh mấy bà già, buồn, tôi lẩn thẩn
ước lượng số ghế trống rồi nao
lòng nhớ về những anh em bè bạn ở quê nhà. Xót xa
với máu mủ mình chưa hết, tôi còn thương
lấy cả cái ngành hỏa xa của xứ người.
Làm ăn như thế này thì lỗ chết. Tôi quên béng
đi mất, rằng tiền vé chém rất nặng,
cuốc đường ngắn như thế này nếu
gửi quà về Việt Nam thì «chúng nó» lai rai quán cóc cả
tháng trời. Tôi nhớ về bên nhà như một kẻ
thiếu nợ. Con thú hoang dã đã được thuần
giống bằng trợ cấp thất nghiệp (cho mày
đủ ăn để tự giam mình trong chuồng,
đừng có nhìn sang túi khác). Tôi đã «quên» chưa trả
lời gần chục cái thư, thư nào cũng giống
nhau một điểm là ngắn (đỡ tiền tem).
Chữ nghĩa tiết kiệm rồi, lại còn bóng gió xa
xôi, nhưng cái bóng gió xa xôi tài tình đến độ
lồ lộ hiện ra khuôn mặt dài ngoẳng vì đói vì
chờ của ông bạn. Trước khi đi, tôi đã
dại dột bốc đồng «Tụi mày yên tâm đi,
tao mà...» Cái «tao mà...» ấy cho đến giờ này cũng
chỉ tiến thêm được một bước thành
«tao sẽ...» nhưng tôi cũng không ân hận là đã cho
họ ăn bánh thánh. Có vị bác sĩ nào đủ can
đảm nói với người bệnh đang hấp
hối của mình «Xin thưa, tôi bất lực, tôi không có
thuốc...?» Những con tin của lương tâm ở bên
nhà hiện đang sống bằng hy vọng. Tôi lừa
họ chưa đủ, họ còn phải tự lừa
mình nữa thì mới sống nỗi. Méo mặt trả xong
tiền tem, cầm bằng mua xấp vé số, họ xoa
tay yên tâm chờ đợi. Nhưng mấy chục cái
đơn xin việc của tôi mất hút không về,
sổ vẫn chưa mở, lại tiếp tục «quên».
Xuống tàu phải mua ngay
mấy tấm vé số! Tôi hạ quyết tâm cho lòng yên
ổn (lại tự lừa mình?) để còn nghĩ sang
chuyện khác. Ðúng lúc đó thì có tiếng «hèm» sau lưng.
Lại một cụ ông, cụ bà bản xứ với
những câu hỏi đầy bác ái như cho kẹo
trẻ con về cảnh ngộ, sự hội nhập,
phong cảnh quê hương? Tôi gắn vội nụ
cười ba phải lên môi, chuẩn bị sẳn mấy
câu thuộc lòng để trả lời.
-
Xin lỗi, anh là người
Việt Nam?
Trời ơi tiếng
Việt! Tôi quay phắt lại ngó sững người
bắt chuyện.
-
...
-
Xin lỗi ông tôi lầm
lẫn...
Người đàn ông
tuổi trạc bốn mươi, mắt sáng, ăn
mặc buông thả lúng túng xin lỗi bằng tiếng
bản xứ, vẻ mặt đầy thắc mắc. Tôi
hiểu ngay sự thắc mắc đó. Người
Việt gặp gỡ tình cờ ở ngoài đường
ít khi nhìn nhận nhau vì họ không nói được
tiếng Việt.
-
Không, tôi là người
Việt!
Tôi vội vã xác quyết.
-
Anh đi từ miền
Bắc?
Người đàn ông
vồ vập. Tôi cũng nhận ra ngay cái giọng Bắc
toang toác của ông ta.
-
Dân tỉnh nào đấy?
-
Hà Nội đây!
-
Ðây cũng Hà Nội!
Khỏi cần nói về
nỗi mừng. Chúng tôi xoắn xuýt ôm lấy nhau mà hỏi
chuyện. Chuyện bên nhà, chuyện đi đứng,
chuyện ổn định đời sống bên này... Khi
đã cạn những vấn đề thời sự
(miếng trầu của đầu câu chuyện) trong
tiếng xe xé gió, chúng tôi ôn lại những ngày tháng xa
xưa của Hà Nội. Như hai anh lính trẻ đi
giữa Sài Gòn, cái phố huyện hẻo lánh giáp vùng
thượng du Bắc Bộ của họ là nhất thì Hà
Nội đối với chúng tôi là vô địch. Bát
phở Quyền ở ngã tư Phú Nhuận (té ra anh cũng
đã nếm) thịt thà hùng hậu, nước
độc đáo thật, nhưng độc đáo trên cái
nền nhòe nhoẹt đánh lẫn với nước
hủ tiếu ở Sài Gòn, không «ác ôn» bằng phở Thìn
đối diện đền Ngọc Sơn ngoài Hà
Nội.
- Cậu thử
tưởng tượng xem, về khuya đi ngược
gió đông, cách cả trăm thước mà cái thằng phù
thủy ấy nó dở nắp thùng phở lên có sởn gai
ốc không hả...? Trong túi không có tiền thì bỏ
mẹ!
Tôi cảm thấy hơi
phở nóng phả ra từ mặt anh nên gật gù.
- Thế mới là phở
chứ những chỗ cậu kể đi sắp ngã vào
nồi cũng không hay, bát phở bưng đến
trước mặt, mở mắt ra mới biêát thì còn gì là
phở?
Sau khi đi một vòng các
hàng quà Hà Nội, anh dắt tôi đến quán cà phê. Cà phê Hà
Nội cũng lại nhất. Anh kể ra tên mấy cái
quán ít ỏi của đất Thăng Long với từng
«gu» của nó. Quán «Moka» phố Bùi Thị Xuân có cô con gái
đẹp như Kiều, nhưng không át được
mùi thơm của cà phê ông bố. Quán «Nhỉ» phố Hàng Cá
đậm đà chút nước mắm nhỉ (nên mới
gọi là ông Nhỉ). Quán «Nhân» đầu Hàng Gai có
hương vị huyền ảo khó tả, người
không biết, tưởng ông đánh thuốc phiện
khách... Anh thừa nhận không gì sánh nổi hạt cà phê Ban
Mê Thuột, nhưng Sài Gòn có vẻ chưa để ý
đến nghệ thuật pha trộn. Cà phê nó có nhiều
loại. Vối cho vị chát, mít cho vị chua, và chè cho vị
đắng. Nếu nhiều chè một chút, tí vối, tí mít
thì thành gu « Moka», hoặc đổi lại thì thành Nhân
thành Nhỉ... Rốt cục tròn trịa, óng ả, no
đủ như hạt cà phê Ban Mê Thuột chỉ cho
được mùi thơm choáng ngợp khi mở nắp
phin. Hết!
-
Nhưng hình như các ông Nhân,
Nhỉ, Moka bây giờ pha hơi nhiều muồng muồng
trong đó thì phải...?
Tôi rụt rè phát biểu.
Anh xìu người, gãi đầu rồi cười. Dù sao
cũng phải công nhận anh là bậc thượng
tọa trong cái đạo ăn uống này.
Hết chuyện ẩm
thực, chúng tôi xoay sang chuyện người đẹp.
Trong địa hạt này anh không dám cục bộ
địa phương nữa vì biết tôi cũng đã
chui qua cái xã hội lấy chiêu bài «bình đẳng, giải
phóng» để đẩy người phụ nữ
xuống bùn, chui rúc trong hầm mỏ, lẫn lộn ngoài
chiến trường như nam giới. Bên cạnh đó
là hệ thống tuyên truyền đồ sộ, ăn ý
như dàn nhạc giao hưởng luôn gõ trống thúc
dục cho bắp thịt nở nang của phái yếu trong
bức tranh «ai nhanh tay cuốc bằng tay em...» trong nhịp
nhạc «niềm vui cô gái mở đường
Trường Sơn» trong văn học. Gái Bắc Hà
đạ bị déformée biến dạng thành cái vai nở,
thân hình trùng trục vì lao động nặng.
- Cứ nhìn thấy gái Sài
Gòn là tớ nghĩ đến chuyện ly dị...
Anh đốt điếu
thuốc, phả khói lên trần toa lim dim mắt
cười. Tôi nói đến gái Cần Thơ, Vĩnh Long,
đất gạo trắng nước trong da thịt mơn
mởn như xoài. Anh kể về mấy chị Huế
nhu mì e ấp dưới mái tóc thề, ẩn dật kín
đáo với làn da trắng xanh, nhưng con mắt thì
đi nhiều hơn chân, làm nhiều hơn tay, nói
nhiều hơn miệng, quả tim như núi lửa
chỉ chực bất tử phun nham thạch.
- Ờ lạ thật...
Sài Gòn là đất tứ xứ, nhưng bất cứ
người ở đâu hễ nhập vào nó ba bốn
năm là thay da đổi thịt, biến thành dân Sài Gòn.
Ðâu như Hà Nội mình, anh từ Hải Phòng lên, sống
cả hai chục năm, đẻ con ra vẫn lơ
lớ giọng nước lợ, tính tình tềnh toàng
của dân thành phố cảng. Chị ở chiến khu
về, sống đến mấy đời hộ
khẩu vẫn không tẩy được cái cách nhấm
nước bọt đếm tiền. Sức cảm hóa,
khả năng hội nhập ở Sài Gòn nó khác...
Tôi lấy Huế
để giải thích hiện tượng đó cho anh.
Nếu chính anh có dời cư về đó ở, không
phải hai chục năm mà bốn-sáu chục năm, cho đến
chết, chất Huế cũng không thắm vào anh
được. Vùng đất nào đã được
chọn làm kinh đô trên một thế kỷ tự nó
sẽ tạo nên bản sắc riêng biệt cho mình, hội
nhập sẽ rất khó...
Chúng tôi cãi nhau như
mổ bò (dấu hiệu đã thân thiện) về
những vấn đề cả hai đều không nắm
vững, hoặc chả có gì đối nghịch nhau. Ðể
đừng đập vào đầu nhau trong lần
gặp gỡ đầu, tôi lái câu chuyện trở về
người đẹp Hà Nội. Thế là lại một
màn truy tìm các bóng dáng xưa. Ðể chứng tỏ mình
cũng là tay cung kiếm một thời, những con nhà
nọ, em gái thằng kia... Câu chuyện trở nên gần
gũi, tôi râm ran bồi hồi với tên tuổi một
vài người đẹp đã làm mình điêu đứng.
Lần mò một lúc, anh dẫm trúng phải cô em vợ tôi
ở phố Hàng Ngang. Người đồng hành,
đồng hương càng trở nên thân thiết. Tôi
như thấy cả Hà Nội đang thở nóng bên tai
mình.
Ðêm đó tôi không ngủ
được. Khi chia tay chúng tôi cho nhau địa chỉ,
hẹn nhất định phải gặp lại. Tôi
sắp xếp thời gian rãnh rỗi trong đầu
rồi sốt ruột mong sớm được ăn
tục nói phét với ông bạn còn quí hơn vàng ở cái
xứ buồn hiu này. Cũng nhờ anh mà ký ức vốn
trí tuệ vì mưu sinh của tôi được khai thông.
Tôi trằn trọc nhớ Hà Nội, tưởng
tượng rõ ràng từng quán cà phê, góc phố, cô láng
giềng với từng tiết xuân, hạ, thu, đông.
Thơ thẩn đi hết một vòng thành phố, bắt
đầu mỏi mệt với ký ức, tôi trở
về với con người anh. Lứa tuổi ấy,
nghề nghiệp ấy, số nhà ấy, la cà ở quán cà
phê ấy với những người quen ấy... Tôi
cười tủm trong bóng tối vì sự trùng lặp
những ham hố, thói hư tật xấu của mình
với anh bạn. Ờ, tại sao không biết anh từ
trước nhỉ? Tôi lần mò những mối quan
hệ trong đầu, vẫn không lòi ra con người
ấy. Khuôn mặt này cũng chưa nhác thấy ngoài
phố một lần. Tôi lay vai vợ để hỏi xem
có biết anh nào tên Q. hồi trước có đến tán
em gái không. Nàng đang ngủ, sẳng giọng trả
lời là không cho xong chuyện.
Tôi lại trằn trọc
hâm nóng trí nhớ sét rỉ để tìm kiếm. Cái phố
nhỏ ấy, với số nhà, không nhớ chính xác,
nhưng tôi có thể mường tượng
được anh ở đâu gần quán phở mậu
dịch, nơi thôi thường đến tán tỉnh
mấy cô bán hàng để được mua bia hơi không
kèm đồ ăn. Mắt mày cũng là bợm nhậu, sau
chưa tặng nhau mũ cối vào đầu trong
những lần chén nhỉ? Hay ít nhất cũng hối
lộ vài điếu thuốc để được
nhường khéo đứng trước mình với lý do
gửi chỗ? Lạ thật, Hà Nội nó nhỏ như
cái túi vải dắt trong cạp quấn của bà bán rau,
đồng xu cắc bạc cọ xát nhau luôn xoành xoạch
mà sao không bật ra khuôn mặt này. Tôi điểm lại
trường hợp ra đi của anh. Theo như lời
kể thì lẫn trong làn sóng người Hoa năm 79,
vợ chồng anh không đủ tiền, phải sang
lại căn buồng cho người khác để
lấy tiền hoa hồng. Ðồ đạc trong nhà bán
sạch từ quạt bàn, giường tủ, xoong
nồi, chổi cùn, rế rách.v.v... Anh là người
Việt, để che mắt mọi người về
chuyện bất thường này, hai vợ chồng
phải đóng kịch, cứ tối tối đóng
cửa chửi nhau toáng lên ở trong nhà, ra cái điều
cơm không lành, canh không ngọt. Ðước hôn một
tuần, ngó chừng màn kịch đã ngấm sang hàng xóm,
họ mới mở cửa đi rêu rao với mọi
người rằng không thể sống với nhau
được nữa, phải bán nhà, bán đồ chia
đều tiền rồi ai đi đường nấy.
Cũng có thể đúng vì ngoài Bắc rất nghèo, ở
những chốn nghèo nhất cử nhất động
đều bị để ý. Tuy mỗi xuất đi
thời đó chỉ ba ngàn đồng (một lạng
vàng) nhưng không sang lại nhà thì tiền đâu mà đóng.
Tất cả mọi chuyến táu ra đi từ Hải
Phòng đều cặp bến Hồng Kông, tôi cũng ở
đó cả năm trời mà sao không thấy mặt anh? Có
điều gì bất ổn rồi! Tôi khựng
người như húc phải bức tường, ngồi
bật dậy đi tìm thuốc hút. Mường
tượng lại khuôn mặt anh, thái độ vồ
vập của anh khi bắt chuyện, tôi đưa lên kính
hiển vi rọi chiếu, phân tích từng câu nói rồi ráp
những dữ kiện rời rạc lại với nhau
để tìm sự mâu thuẫn của chúng. Không lòi ra
một kẻ hở vô lý nào. Anh không hề vờn dứ,
dò dẫm tôi về thái độ chính trị. Những
chuyện anh đã nói với tôi được toát ra
từ lỗ chân lông của con người, không có sự
nhào nặn, gửi gắm của mưu tính, thậm chí còn
có phần luông tuồng phàm tục thái quá của con
người bị ức chế, đè nén lâu ngày mới
được giải phóng.
Tôi mừng như chính mình
được minh oan đốt thêm điếu thuốc
tự thưởng. Có thế chứ, chưa gì đã
để cho thói đa nghi hàm hồ của mình giết
chết một người bạn, một con
người! Ra đi từng vùng đất nghi kỵ,
tỵ hiềm, vô tình tôi đã mang theo thói quen của ông bác
sĩ sống trong thế giới bệnh tật, nhìn
đâu cũng thấy vi trùng.
Nhưng niềm lạc
quan đó không kéo dài, điếu thuốc chưa kịp tàn
thì từ bên trong cất lên tiếng nói ma quái «mày vẫn còn
phổi bò, nhẹ dạ như đàn bà. Kết luận
một cách dễ dãi về con người là khởi
đầu một tai họa!»
Tôi dụi vội
điếu thuốc, vò nát mớ tóc, bực bội với
thằng người ma quỷ trong mình. «Tao nói không sai
đâu, đời mày vẫn bao lần vấp ngã, hộc
máu mồm củng chỉ vì tính cả tin đó. » Tôi thù
ghét thằng người này. Nó luôn canh chừng nhắc
nhở tôi, nó đông lạnh con mắt nhìn đời
của tôi, đục đẽo khuôn mặt tôi, xoá nhoà bóng
mát trên mặt người khác. Nhưng tôi nể sợ nó,
vì chính nó đã cứu tôi bao lần thoát khỏi tai họa,
đưa tôi đến được bến bờ
tự do. Sao lại không nhỉ, với những thằng
nằm vùng thì lần sơ kiến nào cũng bao bọc
mình cẩn thận, nó chuẩn bị lương khô cho
cả quãng đường dài mười, hai mươi
năm, nó chống Cộng hơn ai hết, nó kháng chiến
hơn ai hết để sau khi «hoàn toàn nhiệm vụ
cách mạng» nó được tha bổng bên cạnh
những án tử hình khác với lý do «thành khẩn» rồi
thay áo ngồi viết bản báo cáo thành tích. Ðã vậy thì
việc đội lốt, hoá thân vào một mẫu
người có thật ngoài đời chỉ là trò vặt.
Tôi rùng mình vì những điều vừa phát hiện.
Chế độ chỉ dạy cho tôi vài thủ thuật
điều tra sơ đẳng của thói quen, một
thứ Công An theo bản năng, đụng đến
vấn đề phức tạp có tính phản gián này thì ôm
đầu chịu thua.
Ðốt hết nửa gói
thuốc, đầu óc tôi càng thêm rối. Vợ tôi bị
ngợp khói, tỉnh ngủ. Nhìn bóng chồng in nghiêng trên
tường, sau ánh đèn mờ, im lặng hút thuốc,
nàng bực mình cằn nhằn rồi với tay tắt cái
đèn ngủ.
-
Khuya rồi không đi ngủ
còn ngồi sừng sững như ma hiện hình!
-
Tôi không trả lời,
đầu thuốc lá vẫn lập loè cháy sáng. Nàng
ngạc nhiên bật lại đèn, tung chăn vùng dậy.
-
Có chuyện gì thế anh?
-
Không... Anh nghĩ chuyện
kiếm việc làm...
Tôi trấn an, ấn
nhẹ nàng xuống giường, phủ chăn lên
người.
-
Anh nói đi, em thấy có
chuyện gì không thường thì phải...?
Nàng nhỏm dậy, lo âu
hỏi. Tôi thấy khó trả lời, nấn ná hút thuốc
câu giờ. Từ lo âu chuyển sang hoảng sợ, nàng
bấu mạnh lấy tay chồng tìm sự che chở.
Phụ nữ thường có linh cảm bén nhạy
trước tai họa. Khi còn ở Việt Nam, mỡi
lần bị mối nguy hiểm đe doạ, biết nói
với vợ mình cũng không ích gì, tôi lặng lẽ hút
thuốc trong đêm một mình để nghĩ cách thoát
hiểm. Nàng đánh hơi được, không dám hỏi,
chỉ rón rén đến bên cạnh sửa lại cổ áo
cho chồng, tìm hộ bao diêm, tay cũng bấu chặt
lấy vai chồng như để truyền thêm sức.
Từ ngày sang đây cuộc sống của chúng tôi đã
an toàn, những khó khăn về mưu sinh được
bạch nhật hoá giữa hai vợ chồng, tôi không còn
trầm ngâm trong bóng tối một mình để tìm kẻ
hở lách qua tù đày nữa, và nàng cũng mất đi
thói quen đánh hơi tai hoạ trên mặt chồng,
hồn nhiên sống với tiền trợ cấp thất
nghiệp. Thật không ngờ đằng sau vẻ mơn
mởn hồi sinh đó sự lo sợ vẫn tìm ẩn
trong nàng, nó như cuốn phim lắp sẵn trong máy,
chỉ đợi chồng bật đèn là hiện hình ra
mặt mũi, cử chỉ hành động. Tôi chợt
hiểu nàng đã lo hơn tôi lo, đã sợ hơn tôi
sợ trong những ngày còn ở Việt Nam.
-
Không có gì đâu em ạ.
Tôi ôm chặt bờ vai
nhỏ của vợ, kéo vào lòng mình. Biết không dấu
được nàng, mà bịa ra chuyện khác chỉ làm nàng
nghi ngờ lo sợ thêm, tôi kể lại đầu
đuôi chuyến gặp gỡ trên tàu của mình. Vẻ
mặt nàng biến đổi dần theo câu chuyện.
Cặp mắt lạc thần bình tĩnh trở lại,
nàng đứng dậy mở cửa sổ cho loãng bớt
khói thuốc trong nhà, vừa làm vừa nói:
-
Con Quyên nhà mình không có ai là
bạn tên Q. cả, nhưng có thể anh ta lẫn trong
đám bạn trai từng tới nhà, hoặc đứng
từ xa phải lòng thì sao?
-
Không, nghe cách kể qua tay này
thì có vẻ thân thiết lắm, những chi tiết về
gia đình em anh ta còn biết cơ mà?
Nàng cười, vẻ
mặt rạng rỡ như thơm lấy với nhan
sắc của cô em gái mình được người khác
để ý.
-
Thì cũng như anh
đấy. Khi em chưa biết mỗi tối trời
mưa có thằng trộm koát áo đứng ngóng
trước cửa sổ nhà mình thì anh đã kể vanh vách
với cô em gái về em rồi cơ mà?
Tôi cười
ngượng ngịu, nhưng cố vớt vát:
-
Anh vẫn thấy có gì bâùt
ổn em à...
Nàng gạt phắt đi:
-
Anh chỉ vớ vẩn, sang
đến đây rồi còn sợ. Cứ mời tay đó
đến đây chơi, thật giả trắng đen gì
rồi mình kết luận vẫn còn chưa muộn!
Tôi không đồng ý cách
giải quyết của nàng, nó có vẻ thụ động
theo cảm tính đồng bóng của phụ nữ. Tôi
cũng không muốn mời khách vào nhà để rồi
đóng cửa vĩnh viễn những lần gõ sau. Còn dung
dưỡng một quái thai trong bụng mình thì chả khoái
chút nào.
Tôi bỏ dự
định đến thăm anh ta. Q. gọi điện
thoại tới hai lần, mời đến nhà anh
chơi. Nại cớ con ốm, tôi từ chối khéo.
Ðến lần thứ ba thì anh ngỏ ý muốn lên tôi
chơi thay vì tôi xuống. Thật khó trả lời, tôi
ậm ừ cho xong chuyện rồi cầu mong anh lạc
đường kiếm không ra nhà.
Q. mò đến
được, vẫn cái áo khoát lần trước, trên
tay ôm đồm mấy gói quà cho vợ con chủ nhà. Tôi
đứng trước cửa ra vào, lúng túng không biết nên
chọn thái độ đón tiếp nào cho thích hợp. Còn
anh thì tự nhiên như người trong nhà, thấy
chủ nhân ngần ngại đứng sau cửa,
tưởng bị nhắc khéo đôi giày dính tuyết nên
vội quẹt quêt vào miếng thảm nhỏ rồi
cảnh cáo nhẹ:
-
Ở Hà Nội người ta
không bắt khách cởi giày khi vào nhà đâu...
Tôi cười
gượng gạo, đỡ giúp mấy gói quà cho anh
cởi áo khoác. Ðống đồ của nợ này khiến
tôi thêm khó chịu, nó có vẻ “gài” cho mối quan hệ mới
mở đầu. Q. tinh ý nhận ra ngay thái độ
đó, cười hềnh hệch:
-
Thủ tục bắt buộc
khi đi hỏi vợ, tớ cũng giả vờ làm cho
xong chuyện. Nhưng xuống nhà tớ cậu
đừng dở lại trò này nhé, một lần là
đủ.
Tôi phì cười vì
lối giải thích ba bứa, đi treo giúp anh chiếc áo
khoát nặng chình chịch.
-
Ấy, nhẹ tay thôi... – Q.
nhắc nhở rồi chạy theo – Có cái nhày cho tụi
mình...
Anh moi từ cái túi to
tổ bố khâu bằng tay ở mặt trong chiếc áo ra
nào thuốc sợi, tẩu, khăn giấy hỉ mũi
dở, rồi một chai rượu mạnh.
-
Dân “quốc lủi” tụi
mình thì phải “chơi” cái này. Uống khắp mặt
rượu ở đây tớ chỉ thấy mỗi nó là
gần gủi với rượu lậu Hà Nội.
Anh nháy mắt cười
với tôi. Tôi thì e ngại với đống đồ
nghề anh mang tới, nó chứng tỏ anh không dừng
lại ở mức xã giao. Vợ tôi biết khách sẽ đến
từ hôm trước nên chuẩn bị sẵn sàng
để tiếp. Khi thấy chúng tôi đã yên vị trên
ghế, nàng kín đáo nhìn qua khe cửa bếp, quan sát khách.
Q. không hay biết gì, đảo mắt nhìn quanh nhà rồi
hỏi thăm vợ con tôi. Lúc đó nàng mới bưng cà
phê ra để chào khách. Anh nói chuyện ồn ào, về
đủ các vấn đề mà phụ nữ quan tâm
tới ở xứ này. Vợ tôi khép nép nghe ầu luôn luôn
gật, thỉnh thoảng mới thêm vài ý kiến nhỏ.
Thật oái ăm, khách thì ăn nói hoạt bát tự nhiên
như chủ nhà, còn chúng tôi thì rụt rè giữ ý như làm
khách vậy. Q. không nhận thấy điều đó,
chiều đến, vợ tôi nhấp nhổm đắn
đo hai ba lần rồi mới mời khách ở lại
ăn cơm, giọng thăm dò. Anh sốt sắng nhận
lời rồi buộc miệng kêu đói. Tuy chỉ
định bụng mời rơi, nhưng nàng chuẩn
bị khá kỹ càng. Thịt, rau được thái ướp
từ sáng sớm, đống đồ biển này mới
lấy khỏi ngăn đá từ lúc khách nhấn chuông cho
nó tươi. Chuyện vãn giữa hai gã đàn ông trở nên
uể oải, anh xắn tay áo đòi vào bếp giúp bà
chủ nhà làm cơm. Tôi cản cho có lệ rồi nằm
dài ra ghế, vớ bừa một cuốn sách để
đọc. Nếu ở Việt Nam thì tôi không ngạc nhiên
với thái độ tự nhiên thoải mái của anh,
nhưng ở đây, nhất là sau những thắc mắc
tôi thấy nó có vẻ đi đúng bài bản “hoà mình xâm
nhập quần chúng” nên những nghi ngờ càng có
điểm tựa.
Ngoài tài ăn tục nói phét,
ông khách còn chứng tỏ khả năng nấu bếp có
hạng. Ngồi trên phòng khách nghe tiếgn dầu sôi
lửa cháy phừng phừng một cách hết sức
đàn ông, tôi biết vợ tôi đã bị gạt ra ngoài.
Tài năng của nàng chỉ riu riu ở món kho, sình sịch
ở món hầm. Cái rón rén của phụ nữ khi
dùnglửa khác với sự phóng khoáng của đàn ông nên
món ăn không bao giờ lên tới cỡ, chỉ lưng
chừng ở ngang dốc rồi nhoè nhoẹt giống nhau
ở trong tất cả các món xào nát nhũn.
Mặt đỏ bừng,
chiếc khăn bàn làm bếp trên vai, hai tay bưng
đĩa cá đút lò bốc khói. Q. nghiêng mặt như
mấy ông bồi bàn có ngạch bước lên phòng khách. Tôi
luống cuống nhỏm dậy thu dọn đĩa tách
cà phê cho anh có chỗ bày. Tưới một chút rượu
mạnh trong chai mình mang tới lên đĩa cá. Q. bật
diêm cho lửa bùng cháy rồi hãnh diện nhìn chủ nhà. Tôi
trố mắt như trẻ xem trò ảo thuật. Vợ
tôi đứng sau lưng Q. cười ngượng ngùng
như muốn đổ lỗi sự vụng về cho
thái độ sốt săáng của khách. Anh rút chiếc
khăn trên vai thấm mồ hôi gáy rồi chả hiểu
sao lại lau bừa lên mặt, bất kể mùi đồ
ăn ngấm lưu cửu trong đó.
Phong cách giang hồ của
mấy món ăn quyến rũ tôi ăn, uống nhiều.
Có chút hơi men Q. nói càng hoạt bát, mà ăn cũng không
kém. Anh kháo chuyện Hà Nội, tự diễu mình về
những bỡ ngỡ khi mới đặt chân lên xứ
văn minh. Những câu chuyện bình thường
được anh diễn tả bằng thứ ngôn
ngữ giang hồ như món ăn trở nên có duyên
đến tức cười. Lũ trẻ ngồi quanh
bàn cứ há hốc mồm nghe ông khách lạ, quên cả
ăn. Tôi bị cuốn vào câu chuyện hồi nào không hay,
vừa nhồm nhoàm nhai vừa kình cãi với khách. Vợ
tôi ăn ít, nàng chống hai khuỷu tay lên bàn, xoa xoa hai bàn
tay vào nhau nghe chúng tôi nói chuyện và tiếp thức ăn
cho mọi người. Q. gắp cho nàng một khúc cá, khi
đưa đến gần chén của nàng thì nó
trượt khỏi đôi đũa rơi tòm xuống
chén nước sốt.
-
Ðấy, chết rồi mà
vật lộn với nó còn khó. Tôi luôn luôn chỉ bắt
được vẩy cá trong những lần tát ao.
Anh chữa thẹn rồi
thản nhiên lấy tay chùi nước sốt văng trên áo
mình, đưa lên miệng liếm .
Tối đó anh ngủ
lại nhà tôi. Cơm nước xong thì đã chín giờ
rưỡi, chuyến xe lửa cuối cùng hai giờ sáng
mới chạy, tôi buộc lòng phải giữ anh lại.
Q. thấy đó là điều đương nhiên, không
một câu từ chối khuôn sáo, anh hăng hái giúp chủ
nhà dọn dẹp để lấy chỗ ngủ. Nhà
chật nên chúng tôi dùng chiếc ghế sa lông lớn kéo ra
làm giường cho khách. Ngồi trên đống chăn
gối mới mang ra, anh nạp một mẩu thuốc,
nhìn vợ tôi và mấy cháu nhỏ như dò hỏi rồi
tự cho phép mình mồi lửa hút.
Nằm trong phòng ngủ tôi
sốt ruột đợi vợ vào để nghe nàng
đưa ra những nhận xét về ông khách mới. Nàng
còn lịch kịch rửa chén dưới bếp, chuẩn
bị nồi cháo gà cho bữa điểm tâm sáng mai. Tôi
ngủ quên lúc nào không hay.
Nửa đêm tôi tỉnh
giấc vì khát nước. Uống xong ly nước lạnh
thì tỉnh ngủ hẳn, tôi lần ra phòng khách kiêùm
thuốc lá hút. Cả nhà đã ngủ say, tiếng Q. ngáy
rền cả phòng khách. Anh đã uống khá nhiều
rượu, hơi thở nặng nề, nồng nặc
mùi men. Tôi định vào phòng ngủ hút, nhưng sợ nàng
thức gậy lại phát hoảng lên như lần
trước nên lộn trở ra ban công. Tuyết rơi
nhiều, lún phún rắc trong ánh đèn đường, bay
cả vào nhà. Ðứng một lúc người đã thấm
lạnh, tôi lập cập mở cửa bước vào
phòng khách. Q. vẫn ngáy như sấm, thỉnh thoảng nói
lảm nhảm điều gì khôgn rõ rồi cười khì
khì trong mơ. Tôi nảy ra ý định quan sát anh khi
đang ngủ. Phải rồi, con người không thể
dấu mình được trong trạng thái này. Những nét
nhuần nhuyễn của kịch cợm lúc tỉnh sẽ
bị lột sạch, cái ưu cái khuyết, những hang
hốc mối mọt của cái tủ cũ sẽ bị
cạo mất lớp son lẫn ghét phủ ngoài, trơ ra
chất gỗ thật của mình dưới vòi
nước xịt mạnh. Không cưỡng lại
được ý định ngắm anh, tôi dò dẫm
lần đến cây đèn mờ đứng ở phòng,
bật nhẹ. Ánh sáng vừa đủ rọi tới
mặt Q., anh hơi nhíu mày, rồi mặt dãn nở
lại, ngáy tiếp. Mớ tóc cứng, bồng bềnh
những nếp quăn tự nhiên lúc này bết mồ hôi
bám quanh sọ. Chân mũi vuông, vun đọng thịt ở
chóp của con người thiên về hành động,
ăn nhậu. Những chân rễ chằn chịt như
dây võng bắt nguồn từ đuôi mắt toả
rộng ra hai bên thái dương hằn rõ mồn một.
Lúc tỉnh, cặp mắt sáng tia điện nghịch
ngợm đã toả lấp phần nào cái nhàu nát ở vùng
mắt anh. Trán anh cao, gồ, sần sùi những nếp
nhăn xếp sóng. Quai hàm vuông, ngay trong giấc ngủ
cũng bạnh ra như đang ngấm ngầm chịu
đựng cơn đau bụng. Khuôn mặt đó là
dương bản của bộ não sau khi trải qua
thuở thiếu thời cơ cực, tuổi thanh niên
lận đận với mắm muối củi lửa bám
rêu trong đầu.
Không thấy quen, cũng
chả phát hiện ra điều gì bất thường khi
đưa khuôn mặt này rọi chiếu trước quang
tuyến, tôi tắt đèn ngồi hút thuốc. Con
người thật thảm hại, đáng thương
trong giấc ngủ, nếu đẹp có chăng chỉ là
nàng công chúa được tạo hóa sàng lọc những đường
nét thanh tú từ đời ông bà cha mẹ, ướp mình
trong nhung lụa rồi nằm mơ bị con sâu bò
đến gần đe dọa. Không biết vợ tôi có thường
ngắm chồng trong giấc ngủ? Hôm nay rõ ràng Q. đã
kiếm được nhiều điểm của mẹ
con nàng. Cứ nhìn con mắt, nụ cười trong
trẽo của nàng thì rõ, những điều cảnh giác
trước của tôi tan biến ngay khi con người xù
xì này lướt vào nhà. Thật đúng là đàn bà với con
nít. Giá họ có ác cảm với anh ta thì ngược
lại, tôi sẽ chú tâm tìm kiếm những điểm
dễ thương để biện hộ trước
vợ con, xác tín với mình. Tôi ngồi trong bóng tối hàng
giờ, nghi ngờ phủ nhận, đốt sạch gói
thuốc Q. vẫn say sưa ngủ, không hay biết chủ
nhà đang trăn trở thắc mắc về mình,
thỉnh thoảng lại đưa tay quệt nước
dãi ở miệng.
Sau đó đều
đều mỗi tháng anh vẫn đến nhà tôi chơi,
còn dắt theo cả vợ con (để làm tin?) Tôi bị
xô đẩy vào mối quan hệ như ép duyên, rồi
cũng quen dần với nó. Hai người đã làm
tốn khá nhiều thời giờ và rượu bia của
nhau. Mặc dù vậy, sau mỗi lần trò chuyện, chi
bộ nhỏ trong tơi vẫn họp lại để
kiểm thảo, đào bới xem anh có mặc áo giấy
đi đêm không. Một nửa con người tôi phải
lòng anh, chấp nhận anh, đi với anh trên bề
nổi cuộc sống, nhưng phần chìm, khuất trong
bóng tối vẫn nhắc nhở, cảnh tỉnh
khiến tôi khổ sở như ăn hộp cá ngon mà không
biết date, xuất xứ của nó.
Hai bà vợ thân thiết
với nhau hơn cả chị em ruột. Họ đã tìm
lại Hà Nội thuở ấu thời, hàng quà hàng bánh,
chợ Ðồng Xuân, chợ Cửa Nam trong nhau. Lũ
trẻ mất dần đi những câu “con bác Q.”, “tụi
nó...” mà thành “anh R...”, “chị H...”. Chúng xóa nhoà ranh giới
giữa hai nhà, ôm tất cả vào lòng rồi chia
đều theo thứ tự tuổi tác.
Không được phép
đầu độc cuộc sống của vợ con
bằngnhững nghi ngờ, tôi thu mình lại bên cạnh
những mối quan hệ cởi mở đó. Những
lời tâm sự giữa hai vợ chồng tắt dần,
thỉnh thoảng buột miệng đưa ra một
nhận xét lạc lõng về Q. làm cả nhà ngạc nhiên,
khó hiểu, tôi vội xoá nó bằng nụ cười
gượng gạo rồi giải thích sang hướng
khác. Mỗi lần bị qủy ám, nửa đêm tôi không
dám ngồi trong phòng ngủ, ngoài phòng khách mà chui vào toilette
khoá cửa lại đốt thuốc trong đó. Tôi cố
gắng chặt lìa con ma nghi ngờ ra khỏi người
mà không được, sau mỗi nhát dao chém nó càng bấu
chặt lấy ruột gan tôi hơn, xác nhận tính cấu
thành vững chắc trong tôi. Tôi kinh hoàng nhận ra mình là
kẻ tàn tật đi trên cõi đời này. Tôi không
phải đoàn viên, chả phải đảng viên, chưa
một ngày đứng trong cơ chế Cộng Sản,
trong tôi không có những cuộc đấu tố rùng
rợn, không có bội phản, giả trá, nhưng thói
đa nghi, đề phòng cảnh giác luôn bắt tôi phải
soi mói, phân tích và phê bình con người. Tôi không hài lòng
với thời trang, tôi bực bội với đầu
tóc của kẻ khác, tôi tuyên chiến với những
cặp nhân tình ôm hôn nhau ở ngoài đường, tôi nhéin
vạn vật với con mắt cần cải tạo. Tôi
trở thành kẻ thù của con người lúc nào không hay.
Những cố gắng đẽo gọt, cạo rửa
bản thân mình trở nên vô ích, tôi là viên gạch vô tình
nằm trong lò sát sinh và đã bị ám khói lửa thiêu
người.
Jean Paul Sartre sau khi phản
tỉnh đã thổ lộ “Tôi ly khai chủ nghĩa
Cộng Sản, có nghĩa đã ghê tởm, phỉ nhổ
nó, đoạn tuyệt hẳn với nó, nhưng mỗi
sáng ngủ dậy đứng trước bồn tắm
rửa mặt tôi vẫn thấy một thằng cán bộ
đang rình mò, xoi mói nhìn mình trong gương...” Không biết
ông đã đặp vỡ bao nhiêu miếng gương, còn
tôi, tôi luôn sống với cảm giác sau lưng mình có
mọc một cái đuôi.
THẾ GIANG
6/ 1986
IV. HUY QUANG: LINH NGHIỆM
Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết thân làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ ... bằng nguyên bản nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hàng ngày Hinh sống như người nuốt phải quả chùy gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu thư khuê các ...
Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn. Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái nhìn mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiện hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh. Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói : "Ơn Người, Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con ... Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người ..." Thế rồi như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng, đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí Linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm tỏa một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy tỏa hào quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa ... Hinh bàng hoàng thốt lên.
- Không phải ! Cô gái mỉm cười độ lượng. Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập Đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm không ? Người đang bận, việc hành đạo mới chỉ ở bước khởi đầu ...
- Kính thưa, tôi là người của xứ sở Nhọc nhằn tăm tối ...
- Thôi anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo đạo thư này, anh sẽ tìm được chân lý.
Vị sứ giả trao cho Hinh đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc.
"Hãy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó, đừng vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi : "Có đi không ?" thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để "tìm cái này". Cứ thế ... chỉ cần một lúc sau, anh sẽ có được thiên hạ ..."
Hinh ấp cuốn đạo thư vào ngực tức tưởi. "Trời ơi, bảo bối, bảo bối ..." Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi ...
Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất, mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dần bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng và một bên biển ? Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng, con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi, sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui dăm chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô điếm vật vờ.
- Có đi không ? Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống, trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật, chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách ? Đi tiếp, gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hóa đã thấy vườn hoa Mùa Xuân. Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng như ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa muốn trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại ... "Tìm cái này" là tìm cái gì, anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoe, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba sắp đi qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất ... Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ giáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và từng bước một chậm rãi.
Những người qua đường lấy làm lạ ...
Bắt đầu là một nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ, đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp được.
- Anh ơi, anh tìm cái gì đấy ?
Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm thì sự lạ tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm, đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi :
- Tìm cái gì đấy ?
Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường. Hỏi tiếp đến ...
Bây giờ là dân xích lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến.
- Tìm cái gì đấy ?
- Tìm cái này.
- Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru bi, có lẽ tối qua, tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra bì đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ê, ông kia được một viên rồi hả, bắt nộp phạt chúng mày ...
Cứ thế ...
Và số người hy vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như một đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng lên nhìn họ, hóa ra thiên hạ đã bu lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ ... Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về. Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước, thất vọng ra về trước, người đến sau, thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai biết nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn để họ trở thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và ... vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
Trần Huy Quang - Báo Văn Nghệ ngày 4-7-1992.
III. NGUYỄN QUANG LẬP: SAIGON GIẢI PHÓNG TÔI
Mãi tới ngày 30 Tháng Tư năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh
nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái
gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc
đến mỗi kỳ chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc
tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Ðúng ngày “non sông thu về
một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho
hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến
độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày
trọng đại.” Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi.
Sau ngày 30 Tháng Tư cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của
tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của
ông và các con ông hai chữ “đã chết,” giờ đây là triệu phú số một Sài
Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú
số một Sài Gòn.” Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn
nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản.” Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước
mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi
nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi
nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ
lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó
là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh
thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó
bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp,
không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy
há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút
tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương
khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một
mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào
đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước
bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ
ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được
ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành vũ trụ, người thường
không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ.
Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là
tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973, quê tôi lần đầu xuất
hiện một cái cassette của một người du học Ðông Ðức trở về. Cả làng
chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động
tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm
rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và
thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi
thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình
nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá
hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả.
Tôi bĩu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm
cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc
Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7.
Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên,
đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới
Sài Gòn. Kỳ nghỉ Hè năm sau, Tháng Tám năm 1976, tôi mới được vào Sài
Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế,”
nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất
yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi
được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác
tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh ,ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và
bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy
cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm
rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin
kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường
thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng
tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi
ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách
hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười
khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt
vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh
của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ.
Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các
mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên
dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lý.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun
bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói
hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả
những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi
nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc
hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi
hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài
Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng
sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh
cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn
không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn
đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần
đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng
sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã
bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi
xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng
sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để
biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè
chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ
nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan (cho anh phát
súng tim anh nát/nhưng anh tin số phận anh còn), tự thấy mình lên hẳn
mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình
sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ
lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy
tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một
ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng
sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm
đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay
không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy
sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi
không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe
tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác-Lê.
Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành Trình Trí Thức của Karl Marx
của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ
Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm
sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách
Mác-Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả
Mác-Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật
khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được
đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng
nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi
bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi.
Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
29 Tháng Tư 2016
(Nguồn: https://www.facebook)
IV. HUY QUANG: LINH NGHIỆM
26/05/12 | Tác giả: Bùi Tín
Câu chuyện "người dám vuốt râu Ông Cụ"
Ông Hồ Chí Minh sinh ra đã được tròn 122 năm, ngày 19 tháng 5 năm 1890.
Vừa rồi một blogger trẻ ở Sài Gòn gửi "meo" cho tôi hỏi rằng tôi đánh giá về ông Hồ ra sao? Rằng năm nay, gần đến ngày 19 tháng 5, ông tuyên giáo thành ủy Sài Gòn vẫn còn kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh, nghe sao lạc lõng quá.
Tôi liền nghĩ đến câu chuyện cách đây đúng 20 năm, về một bài báo tôi còn nhớ mãi, coi là một tuyệt tác của nền văn học - thông tin báo chí thời hiện đại. Đó là bài báo xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ, cơ quan của Hội Nhà Văn Việt Nam, số 27, ra ngày 4 tháng 7 năm 1992. Số báo này được nghiêm lệnh "tuyệt mật" của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đảng CS hồi đó "triệt để thu hồi" ngày 8 tháng 7, sau khi ra được 4 ngày.
Các bạn trẻ ngày nay chắc chưa biết gì về hiện tượng văn hóa - chính trị lý thú này.
Đó là bài Linh Nghiệm, rất ngắn, chỉ chừng 2 ngàn chữ, hơn một trang báo khổ nhỏ. Bài báo nói về một con người, về tham vọng và "học thuyết" của con người ấy, về quần chúng bị con người ấy mê hoặc, và về sự kết thúc là công toi, là trắng tay, nhưng vẫn còn nhiều người bị cám dỗ đi theo hoài. Tác giả là nhà văn Trần Huy Quang, trong tòa soạn báo Văn nghệ, lúc ấy ở tuổi 49, tuổi vận hạn. Anh bị đuổi khỏi báo, bị treo bút 3 năm. Nhà văn Hữu Thỉnh, chủ bút báo bị khiển trách.
Bài báo vừa kín đáo như đánh đố bạn đọc, vừa gợi mở, với giọng điệu diễu cợt hóm hỉnh, lại vừa nghiêm trang triết lý, nói về cuộc đời của một anh thanh niên gốc nông dân lại không muốn tu tỉnh học hành. Anh ta chỉ muốn xuất dương tìm một nguồn học thuyết thần bí để tiến thân thành lãnh tụ. Do thủ thuật tinh ma, anh ta mê hoặc và lôi kéo vô vàn con người, lũ lượt theo chân mình để đi tìm "cái ấy", nhưng không bao giờ tìm thấy Vườn hoa Mùa Xuân - Thiên đường trên trái đất.
Anh ta là ai vậy?
Ngay chữ đầu tiên của bài báo đã nêu rõ tên anh ta, vậy mà rất ít người nhận ra. Nhà văn Trần Huy Quang thật khôn khéo, có thể nói vui là tinh ranh. H…INH là tên. H rồi 3 chấm, rồi INH, ai cũng đọc là Hinh, nhưng không phải, đó là tên "Hồ Chí Minh" được cô gọn lại. Kín mà hở, hở mà vẫn kín, vì thời trẻ ông Hồ mang tên Nguyễn Sinh Coong, rồi Nguyễn Tất Thành. Chả thế mà qua mắt được 2 người duyệt, có chữ ký duyệt của thủ trưởng ban biên tập và của thư ký tòa soạn trước khi đưa in. Không ai nghĩ H…INH là Hồ Chí Minh cả. Và lọt lưới suốt 4 ngày, rồi cả Ban Tư tưởng - Văn hóa mới giật bắn mình, thốt lên: Thằng này láo quá, dám vuốt râu cụ Hồ, tội đáng chết, đáng xử trảm. Nhưng chậm quá rồi. Lệnh thu hồi, phá hủy không mấy có hiệu quả. Không thể ra lệnh công khai, càng kích thích tò mò và gây chú ý, sẽ bất lợi to. Cho nên quả sơ xuất này cay, cay hơn ớt chỉ thiên.
Ngày 19-5 năm nay, nhân dịp trong nước Ban Tuyên huấn của đảng CS lại kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh tôi xin có vài lời nhắc đến bài báo Linh nghiệm vừa đúng 20 năm trước,để các bạn trẻ biết.
Từ những năm 1980 Trần Huy Quang đã có những phóng sự Ông Vua Lốp, Lời khai của bị can, Người làm chứng, Chiếc áo màu lửa rất được chú ý, vì luôn bênh vực những người bị cường quyền áp bức..
Được biết sau Linh nghiệm anh được bạn bè gọi yêu là "Người dám vuốt râu Ông Cụ".
Blog Bùi Tín (VOA)
_____________________________
Câu chuyện "người dám vuốt râu Ông Cụ"
Ông Hồ Chí Minh sinh ra đã được tròn 122 năm, ngày 19 tháng 5 năm 1890.
Vừa rồi một blogger trẻ ở Sài Gòn gửi "meo" cho tôi hỏi rằng tôi đánh giá về ông Hồ ra sao? Rằng năm nay, gần đến ngày 19 tháng 5, ông tuyên giáo thành ủy Sài Gòn vẫn còn kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh, nghe sao lạc lõng quá.
Tôi liền nghĩ đến câu chuyện cách đây đúng 20 năm, về một bài báo tôi còn nhớ mãi, coi là một tuyệt tác của nền văn học - thông tin báo chí thời hiện đại. Đó là bài báo xuất hiện trên tuần báo Văn nghệ, cơ quan của Hội Nhà Văn Việt Nam, số 27, ra ngày 4 tháng 7 năm 1992. Số báo này được nghiêm lệnh "tuyệt mật" của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đảng CS hồi đó "triệt để thu hồi" ngày 8 tháng 7, sau khi ra được 4 ngày.
Các bạn trẻ ngày nay chắc chưa biết gì về hiện tượng văn hóa - chính trị lý thú này.
Đó là bài Linh Nghiệm, rất ngắn, chỉ chừng 2 ngàn chữ, hơn một trang báo khổ nhỏ. Bài báo nói về một con người, về tham vọng và "học thuyết" của con người ấy, về quần chúng bị con người ấy mê hoặc, và về sự kết thúc là công toi, là trắng tay, nhưng vẫn còn nhiều người bị cám dỗ đi theo hoài. Tác giả là nhà văn Trần Huy Quang, trong tòa soạn báo Văn nghệ, lúc ấy ở tuổi 49, tuổi vận hạn. Anh bị đuổi khỏi báo, bị treo bút 3 năm. Nhà văn Hữu Thỉnh, chủ bút báo bị khiển trách.
Bài báo vừa kín đáo như đánh đố bạn đọc, vừa gợi mở, với giọng điệu diễu cợt hóm hỉnh, lại vừa nghiêm trang triết lý, nói về cuộc đời của một anh thanh niên gốc nông dân lại không muốn tu tỉnh học hành. Anh ta chỉ muốn xuất dương tìm một nguồn học thuyết thần bí để tiến thân thành lãnh tụ. Do thủ thuật tinh ma, anh ta mê hoặc và lôi kéo vô vàn con người, lũ lượt theo chân mình để đi tìm "cái ấy", nhưng không bao giờ tìm thấy Vườn hoa Mùa Xuân - Thiên đường trên trái đất.
Anh ta là ai vậy?
Ngay chữ đầu tiên của bài báo đã nêu rõ tên anh ta, vậy mà rất ít người nhận ra. Nhà văn Trần Huy Quang thật khôn khéo, có thể nói vui là tinh ranh. H…INH là tên. H rồi 3 chấm, rồi INH, ai cũng đọc là Hinh, nhưng không phải, đó là tên "Hồ Chí Minh" được cô gọn lại. Kín mà hở, hở mà vẫn kín, vì thời trẻ ông Hồ mang tên Nguyễn Sinh Coong, rồi Nguyễn Tất Thành. Chả thế mà qua mắt được 2 người duyệt, có chữ ký duyệt của thủ trưởng ban biên tập và của thư ký tòa soạn trước khi đưa in. Không ai nghĩ H…INH là Hồ Chí Minh cả. Và lọt lưới suốt 4 ngày, rồi cả Ban Tư tưởng - Văn hóa mới giật bắn mình, thốt lên: Thằng này láo quá, dám vuốt râu cụ Hồ, tội đáng chết, đáng xử trảm. Nhưng chậm quá rồi. Lệnh thu hồi, phá hủy không mấy có hiệu quả. Không thể ra lệnh công khai, càng kích thích tò mò và gây chú ý, sẽ bất lợi to. Cho nên quả sơ xuất này cay, cay hơn ớt chỉ thiên.
Ngày 19-5 năm nay, nhân dịp trong nước Ban Tuyên huấn của đảng CS lại kêu gọi thanh niên học tập đạo đức Hồ Chí Minh tôi xin có vài lời nhắc đến bài báo Linh nghiệm vừa đúng 20 năm trước,để các bạn trẻ biết.
Từ những năm 1980 Trần Huy Quang đã có những phóng sự Ông Vua Lốp, Lời khai của bị can, Người làm chứng, Chiếc áo màu lửa rất được chú ý, vì luôn bênh vực những người bị cường quyền áp bức..
Được biết sau Linh nghiệm anh được bạn bè gọi yêu là "Người dám vuốt râu Ông Cụ".
Blog Bùi Tín (VOA)
_____________________________
Linh Nghiệm, Trần Huy Quang
H…INH là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân không nghèo nhưng cũng không giàu có gì lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan, nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước.Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết thân làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ ... bằng nguyên bản nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hàng ngày Hinh sống như người nuốt phải quả chùy gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu thư khuê các ...
Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn. Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái nhìn mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiện hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh. Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói : "Ơn Người, Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con ... Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người ..." Thế rồi như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng, đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí Linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm tỏa một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy tỏa hào quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa ... Hinh bàng hoàng thốt lên.
- Không phải ! Cô gái mỉm cười độ lượng. Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập Đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm không ? Người đang bận, việc hành đạo mới chỉ ở bước khởi đầu ...
- Kính thưa, tôi là người của xứ sở Nhọc nhằn tăm tối ...
- Thôi anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo đạo thư này, anh sẽ tìm được chân lý.
Vị sứ giả trao cho Hinh đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run dở ra đọc.
"Hãy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó, đừng vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi : "Có đi không ?" thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để "tìm cái này". Cứ thế ... chỉ cần một lúc sau, anh sẽ có được thiên hạ ..."
Hinh ấp cuốn đạo thư vào ngực tức tưởi. "Trời ơi, bảo bối, bảo bối ..." Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi ...
Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất, mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dần bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng và một bên biển ? Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng, con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi, sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui dăm chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô điếm vật vờ.
- Có đi không ? Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống, trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật, chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách ? Đi tiếp, gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hóa đã thấy vườn hoa Mùa Xuân. Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng như ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa muốn trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại ... "Tìm cái này" là tìm cái gì, anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoe, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba sắp đi qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất ... Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ giáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và từng bước một chậm rãi.
Những người qua đường lấy làm lạ ...
Bắt đầu là một nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ, đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp được.
- Anh ơi, anh tìm cái gì đấy ?
Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm thì sự lạ tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm, đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi :
- Tìm cái gì đấy ?
Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường. Hỏi tiếp đến ...
Bây giờ là dân xích lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến.
- Tìm cái gì đấy ?
- Tìm cái này.
- Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru bi, có lẽ tối qua, tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra bì đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ê, ông kia được một viên rồi hả, bắt nộp phạt chúng mày ...
Cứ thế ...
Và số người hy vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như một đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng lên nhìn họ, hóa ra thiên hạ đã bu lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ ... Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về. Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước, thất vọng ra về trước, người đến sau, thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai biết nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn để họ trở thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và ... vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
Trần Huy Quang - Báo Văn Nghệ ngày 4-7-1992.
Nguồn: http://www.danchimviet.info/archives/58475
www.geocities.ws/xoathantuong
V. VÕ KỲ ĐIỀN: CÂU CÁ XỨ LẠNH
Võ Kỳ Điền
Bạn hiền,
…..
Tôi sẽ kể cho bạn nghe chuyện câu cá nơi xứ lạnh và tôi tin là bạn chưa biết.
Tại sao tôi dám đoán ẩu như vậy, khoan trách nghen, bỡi vì tôi đã ở xứ nầy lâu
lắm, mãi cho đến mấy ngày gần đây tôi mới biết được trò chơi nầy lần đầu… Bạn ở
một nơi xa, đâu dễ gì biết được. Trừ khi bạn du lịch qua đây, có người hướng dẫn
đi câu cá trên nước đá thì mới biết được một trong những thú vui mùa đông là thế
nào. Mà nè, bạn có thiền hay tu hành không, nếu có thì dĩ nhiên là không được
rồi, chơi trò câu cá là dành riêng cho người phàm tục, chớ đối với kẻ tu hành là
phạm tội sát sanh đó, mình vui khi cá buồn, thiệt là tội lỗi, tội lỗi, không
nên. Nhưng tôi nhớ mang máng là bạn cũng thích câu cá lắm mà…
Khi thằng con trai tôi điện thoại rũ về Montréal câu cá trên nước đá thì tôi
đồng ý ngay, không do dự chút xíu nào. Thằng nhỏ bị ảnh hưởng tôi từ lúc còn bé
xíu, từ ngày định cư ở đây, vào mùa hè hai cha con suốt ngày thường kiếm bờ nước
câu cá, bất kể trời nắng hay mưa, từ lúc mờ sáng cho đến đêm khuya…, câu cho vui
chớ không phải để ăn vì cá sông St -Laurent bị ô nhiễm, các cơ quan truyền thông
đều nói vậy và cảnh báo nhiều lần, thiệt ra mức độ ô nhiễm bằng cá bày bán ở
siêu thị Việt Nam và Trung Hoa hay không, tôi không biết. Đi câu đối với đa số
người lớn tuổi là một thú giải trí, thể thao nhẹ nhàng vào những ngày cuối tuần,
giữa thiên nhiên khoáng đãng, hấp dẫn, thư thái, nhàn hạ, nhứt là ít tốn kém...
Sau khi nhận lời con thì tôi giựt mình nhớ lại, câu cá mùa đông đâu có giống như
câu cá mùa hè. Dĩ nhiên là khác nhau rất xa. Tôi vẫn thường nghe bạn bè nói
chuyện đi câu mùa đông và cũng từng coi truyền hình thấy cảnh câu cá của thổ dân
Inuits, Esquimaux,… họ mặc quần áo dày cộm bằng da thú, trùm kín cả người, mũ
nón bao tay kín mít, khoét một lỗ tròn trên nước đá, ngồi co ro cầm cần câu chờ
cá ăn mồi, giữa trời đất mênh mông tuyết phủ trắng xóa ở vùng Bắc Cực lạnh lẽo.
Tỉnh Québec của tôi ở đâu có cách xa Bắc Cực bao nhiêu, tôi tưởng tượng cách câu
của cha con tôi sắp thực hiện, chắc cũng y vậy thôi.
Nhận lời con xong rồi mới thấy mình dại, ham vui một chút lại đi làm chuyện mạo
hiểm, điên rồ. Câu cá suốt đêm đông trên một dòng sông lạnh lẽo, trong một làng
nhỏ tên là Sainte-Anne-de-la-Perade, trên đường đi về hướng Québec. Tại sao
không đi ban ngày cho đỡ, đi chi ban đêm cho khổ sở, vất vả. Thằng con nói ban
đêm câu đươc nhiều cá hơn… Trời đất ! kể từ hôm đó, trong đầu tôi miên man tưởng
tượng cảnh trên dòng sông mênh mông hiu quạnh, mặt nước đóng băng cứng ngắt,
trời tối mò mò, gió lạnh thổi phần phật từng cơn, tuyết bay phơi phới, hai cha
con trang bị quần áo mùa đông dầy mo, kín mít, đầu đội mũ (tuque), cổ quấn khăn
choàng (foulard), tay mang bao tay (gants), cả hai ngồi lom khom trên mặt nước
đá, tay cầm cần câu quờ quạng chờ mong rình rập bắt từng con cá ngu dại đêm
khuya đói bụng đi kiếm mồi. Thiệt tình, không biết vui sướng ở cái chỗ nào !
Ngàn năm trước, danh sĩ Đào Tiềm, người đời Tấn đã từng nói trong Qui Khứ Lai Từ
một câu bất hủ, làm sao mà quên cho được -ký tự dĩ tâm di hình dịch hề, trù
trướng nhi độc bi (bắt lòng ham muốn làm nô lệ cho thân xác, đó chẳng phải là
điều đáng buồn của kiếp người sao !) Cha con tôi bây giờ có khác gì câu nói
người xưa, do lòng ham vui một chút mà đem thân xác phơi bày giữa tuyết gió bão
bùng, giữa đồng không hiu quạnh mênh mông, tối tăm lạnh lẽo… suy đi nghĩ lại đâu
có cái ngu nào hơn !
Nhưng rồi lời hứa đã thốt ra, làm sao rút lại được, dù là hứa hẹn với con. Người
ta làm được thì mình làm được, tại sao lại sợ sệt, rụt rè… Thế là tôi bắt đầu lo
lắng chuẩn bị. Ngoài trời lạnh giá, không có bao tay làm sao chịu nổi, cần phải
móc mồi câu và rửa tay bằng nước lạnh buốt, tôi soạn lại các bao tay mùa đông,
lựa lấy một bộ thật ấm và ít thấm nước. Phải có một cái mũ trùm đầu cho thiệt
kín và dầy. Trời lạnh mà không có mũ trùm đầu, tôi thường thấy một cảm giác như
xương sọ bị nứt ra. Dĩ nhiên là cần một bộ quần áo mùa đông thật ấm, bên trong
lót bằng lông ngỗng trời, rồi bộ quần áo lót bằng len ấm, khăn quàng cổ… và nhứt
là đôi giày tuyết cao cổ, ít nhứt cũng phải chịu đựng nổi suốt đêm ngồi đứng
trên nước đá… Tất cả đã chuẩn bị đầy đủ, mà trong bụng phân vân không biết có
còn thiếu gì nữa hay không, trang bị như vậy có đủ không và tự dặn trong bụng là
phải nhớ đi đứng nhè nhẹ, êm ái, nếu quên mà bước mạnh chưn, dậm thình thịch,
rủi mặt nước đá nứt bể ra thì sao… Lọt xuống nước là toàn thân lạnh quéo rồi,
còn hơi sức đâu mà lội, rồi bám vào đâu mà leo lên, bờ nước đá trơn như thoa mỡ,
rồi giữa mặt sông lạnh khuya khoắc còn có ai huỡn mà tới cứu mình ?
Tôi đã sống ở xứ lạnh nầy gần ba mươi năm, đã từng đi bộ ngoài trời trên cả giờ
đồng hồ vào những lúc trời đổ lạnh trừ ba, bốn chục độ âm. Lúc gió nỗi lên từng
cơn thì độ lạnh càng xuống thấp khủng khiếp, khi đi ngoài trời, lạnh quá chịu
hết nổi, tay chưn đầu cổ, vành tai, lỗ mũi…tê cóng, tất cả biến đâu mất hết chỉ
còn duy nhứt trái tim đập thoi thóp, thì lẹ lẹ kiếm một nơi tá túc hoặc chạy
lánh vô nhà cửa bắt gặp dọc đường hầu sưởi ấm lại toàn thân, còn bây giờ thì già
rồi sức yếu, bày đặt ngồi câu suốt đêm trên sông lạnh. Nếu nửa đêm lạnh quá,
chịu hết nổi thì núp ở chỗ nào ? Trên mặt sông, giữa đồng không mênh mông hiu
quạnh, trời tối mù mù, biết đi đâu, về đâu. Thiệt tình tôi không tưởng tượng
được cảnh thê thảm khi đó tới mức nào… Không những tôi nghĩ như vậy mà những bạn
bè quen ở Toronto khi nghe tôi về Québec câu cá mùa đông, đều hỏi một câu giống
nhau -anh không sợ nước đá nứt bể sao ? rồi trời lạnh suốt đêm, anh lớn tuổi rồi
chịu lạnh nổi không, khi buồn ngủ quá thì làm sao ? Tôi bèn nhớ tới thằng con,
nó nói câu cá trên nước đá vui lắm, ba khỏi lo gì hết rồi không nói gì thêm nữa,
cúp phone. Hỗng lẽ nó hại cho mình khổ sở. Mình là cha nó, mình khổ thì nó đâu
có vui. Rồi tự dặn lòng, thôi đi đại, đừng sợ…
Nhưng mà bạn hiền nè, chuyện tưởng vậy chớ không phải vậy. Viết tới đây tôi đâm
nhớ câu thành ngữ mới nầy, thiệt tình khâm phục cách nói chuyện dân Sài Gòn
mình. Câu nầy áp dụng trong trường hợp câu cá mùa đông của riêng tôi cũng đúng
nữa. Những gì tôi tưởng tượng ra kể cho bạn nghe nảy giờ, đều khác xa thực tế.
Quả vậy, chuyện tưởng vậy mà không phải vậy !
Từ
Montréal, sau khi mua sắm thức ăn và đồ dùng cho chuyến đi, cha con tôi khởi
hành lúc sáu giờ chiều, mùa đông vào giờ nầy trời đã tối đen. May là xe chạy
trên xa lộ nên đường xá quang đãng dễ đi, đoạn đường dài chừng hai trăm cây số,
còn một đoạn ngắn nữa là tới thành phố Québec. Khi xe ghé lại một làng nhỏ có
tên là Sainte-Anne-de-la-Perade lúc tám giờ rưỡi, thì tôi ngạc nhiên sững sờ lẫn
thích thú, nhìn chỗ nầy chỗ kia, rồi đâm bật cười và thấy tất cả những gì mình
ngồi ở nhà tưởng tượng ra đều trật lật hết trơn ! Đúng là quê một cục!.
Bạn hiền nè, bạn biết tại sao tôi cười không ? bỡi vì nơi đây, chỗ xe cha con
tôi dừng lại, cũng là chỗ câu cá đêm nay, không phải là đồng không hiu quạnh,
cũng không tối tăm mù mù, cũng không vắng vẻ, quạnh hiu, cũng không thấy sông
nước đâu hết… Vậy thì nó ra sao ? Tôi sẽ kể rõ từng chi tiết cho bạn nghe. Từ
trên một con đường dọc bờ sông của cái làng nhỏ nầy, xe chạy thẳng xuống mặt
sông hồi nào tôi không hay, chỗ nào cũng có đường xe chạy, liên tiếp nhau, không
ngừng. Mặt sông đã đóng băng biến thành một cánh đồng trắng xóa rộng rãi, mênh
mông. Trước mắt tôi là một thành phố nhỏ, chấp chóa, rực rỡ ánh đèn vàng, người
đi đông đúc tươi vui, tiếng xe chạy, tiếng nói chuyện cười đùa rộn rịp. Trên các
con đường dọc ngang là các túp lều sơn trắng xinh xắn đẹp đẽ có lớn có nhỏ, lớn
thì như cái nhà, nhỏ như cái lều, được sắp xếp chạy dài san sát theo lối đi.
Ngay hàng thẳng lối trật tự, nhìn rất là đẹp mắt. Cạnh mỗi lều là hai ba cái xe
hơi của khách câu đậu sát cạnh bên.
Đèn điện được thắp sáng ngoài đường, dọc theo lối đi, trên nóc lều, bên trong
lều… chỗ nào cũng đèn đuốc sáng trưng, thiệt là vui mắt và ấm áp. Những người
câu cá kéo nhau đi từng đoàn trò chuyện tưng bừng, đông vui. Đa số khách câu
tham dự là người dân Québec, thường họ đi chơi cả gia đình cha mẹ, bạn bè cùng
con cái, cười nói giọng địa phương đặc sệt, tuy khó nghe nhưng từ lâu, tôi mới
được nghe lại giọng nói Québecois, cảm thấy quen thuộc dễ thương (giọng nói dân
quê Pháp thế kỷ 16, 17) Từng đoàn xe truợt tuyết chạy bằng xích sắt chỡ đôi
(motoneige -Skidoo) đua nhau vun vút, tiếng máy kêu ầm ầm vang động cả trời
khuya. Xa xa có vài chiếc máy cày màu vàng đậu im lìm lẻ loi, những chiếc nầy
nặng hàng năm, mười tấn dùng để kéo các lều sắp xếp ngay hàng thẳng lối đặt trên
mặt sông khi mùa câu bắt đầu… Có vài đứa trẻ đang tập đi patin té lên té xuống…
Nhìn toàn cảnh tôi cứ tưởng như là mình đang tham dự hội chợ (kermesse) của một
địa phương nào đó. Cái làng câu cá nhỏ trên mặt sông đóng băng nầy chứa năm, bảy
trăm cái lều cho mướn. Mỗi gia đình mướn một lều tùy theo số người đông hay ít.
Giá vé mỗi người là hai mươi đồng Canada. Nếu ít hơn bốn người thì giá tối thiểu
một lều phải trả là tám mươi đồng. Lều nhỏ ngang hai thườc rưởi, dọc ba thước
chứa được từ sáu đến tám người. Lều lớn hơn ngang hai thước rưởi, dọc năm thước
chứa được từ mười đến mười hai người. Lều lớn hơn nữa chứa tới hai mươi lăm
người câu. Con nít dưới mười hai tuổi được giảm nửa giá và dưới sáu tuổi thì
miễn phí. Trọn buổi câu nếu muốn dùng cà phê, cũi đốt lò sưởi và mồi câu thì
miễn phí, muốn lấy bao nhiêu cũng được.
Câu cá trên nước đá thì xứ lạnh nào cũng có (ice fishing) tiếng Pháp gọi là
pêche sur glace, cũng có thể gọi là pêche sous la glace hay pêche blanche, cá
thì nhiều loại lớn nhỏ khác nhau, tùy từng vùng. Những xứ lạnh xung quanh Bắc
Cực, mùa đông nước đóng cứng chắc thì có thể đi câu, nếu bạn chịu đựng được cái
lạnh teo ruột teo gan. Nhưng theo tài liệu được phổ biến mà tôi đọc được thì
vùng Mauricie của tỉnh Québec là nơi duy nhứt trên thế giới có loại cá tên gọi
là Poulamon Atlantique (tiếng Anh là Migragadus Tomcod), tiếng bình dân thường
dùng là poissons des chenaux (cáùsông rạch). Vào năm 1938 một dân làng tình cờ
thấy được trên dòng sông nhỏ Sainte-Anne nầy, từng đàn cá poulamon lúc nhúc chen
nhau trong một khúc sông nhỏ để đẻ trứng, mỗi năm vào giửa tháng chạp đến giửa
tháng hai tây, tất cả chừng chín trăm triệu con cá nhỏ cở bằng cườm tay, mỗi con
dài từ 15 đến 38cm, nặng chừng 45 đến 570 gr, da cá nâu đen, trơn láng hình dáng
giống con morue hay là cod tiếng Anh (thời tụi mình hiểu sai cod là cá thu, do
dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều quảng cáo dầu gan cá thu là Liver cod, đúng ra cá thu
là thon -tuna).
Chúng từ cửa sông Sainte-Laurent lội ngược dòng vô sông nhỏ Sainte-Anne, con mái
bụng phình ra với cặp trứng to cở bằng trứng gà chứa hàng trăm ngàn trứng nhỏ,
cá trống thì ốm nhỏ tong teo, bụng chứa đầy tinh trùng màu trắng sữa, khi cá mái
đẻ thì cá trống xịt làn sữa trắng trên các trứng để thụ tinh, làm xong nhiệm vụ
truyền giống chúng quay về biển. Khác hẳn với tất cả loài cá khác như cá hồi
(saumon…) chẳng hạn, khi đẻ thì chúng ngưng ăn uống, còn loại cá poulamon nầy
khi đẻ thì chúng ăn uống liên hồi, nhứt là vào đêm. Phải nói con người thiệt là
khôn, người ta lợi dụng khi chúng đói mà thả cần, làm sao không bắt thiệt nhiều
cho được !
Tôi bước vào chiếc lều đẹp đẽ, vững chải khá rộng, đã đặt mướn trước, chỉ có một
cửa ra vô, rất kín đáo và riêng tư chỉ dành riêng cho cha con tôi. Hai ngọn đèn
trăm watts chiếu sáng cả phòng. Trong phòng một chiếc ghế nệm dài dặt sát tường
để khi ai mệt mõi thì có chỗ mà nằm, một cái bàn nhỏ, hai cái ghế, một tủ cây,
một lò sưỡi đốt bằng cũi khô đang cháy nóng hừng hực. Trên mặt lò sưỡi nóng hực
đó mình có thể để chiếc ấm nấu nước sôi, để một vĩ sắt nướng bánh mì hoặc các
món ăn khuya. Phía duới mặt sàn được làm bằng dán ép dầy trên cái nền bằng cây
chắc chắn. Nhưng cái chánh tôi muốn thấy là chỗ câu trong phòng ra làm sao. Nhìn
kỹ đó là một đường rảnh sâu hình chữ nhựt, được cưa theo bề dọc của sàn trên mặt
nước đá, dài ba thước, bề ngang chừng bốn mươi phân tây, nhìn kỹ phía dưới nữa,
thấy nước đông đá cứng dầy chừng hai, ba mươi phân, dưới nữa là nước đóng váng
mỏng lỏng bỏng, nhấp nhô theo từng cơn sóng. Có một thanh sắt to dài, đặt dọc ở
giửa đường câu, để ngăn ngừa khi người câu mê man vô ý, tránh bị lọt xuống nước,
nguy hiểm...
Bên trên chiếc rảnh đó, có băng ghế dài để ngồi câu. Phía trên, trước mắt tôi có
một thanh gỗ được đóng theo bề dài của lều, cao hơn đầu người một chút. Hai mươi
dây câu được quấn vào những hàng đinh trên thanh gỗ ngang đó, mỗi cây đinh được
đóng đều đặn cách nhau khoảng hai mươi phân. Dây câu to bằng cọng bún nhỏ gắn
cục chì nặng và dưới mỗi cục chì có móc hai lưỡi câu cở tương đối lớn, loại câu
cá trê. Mỗi vách lều đều có cửa sổ gắng kiếng, bên ngoài đèn đuốc sáng sủa, khi
bên trong muốn kín đáo thì có màn cửa bằng vải che lại dễ dàng. Thiệt là tiện
lợi đôi bề, chỗ ngồi, dây câu, chỗ câu, chỗ để mồi... tất cả đều trong tầm tay
với.
Bên ngoài ở các túp lều kế cận, tụi tây đầm mỗi lần câu được cá, họ đua nhau la
hét reo hò, tiếng vang lồng lộng giữa trời khuya, thiệt là hồi hộp và vui hết
sức. Tôi có một thói quen xấu, hễ mỗi lần đi câu, thấy sông nước là mê man quính
quáng, bèn để nguyên quần áo mũ nón không kịp cởi thay, lụp chụp tháo từng sợi
dây câu, vội vàng móc mồi để bắt đầu. Mồi là gan heo đong lạnh được xắt nhỏ ra,
có loại mồi bằng tôm tép nhỏ.. Xung quanh người ta đã câu từ lâu, bây giờ mình
mới tới… biết đâu cá hết trơn rồi.
Khi mấy cha con tháo xong hai mươi sợi dây câu và gắn mồi đủ hết thì tôi toát mồ
hôi chịu hết nổi vì nhiệt độ trong phòng nóng quá. Lạnh đâu không thấy mà mồ hôi
toát ra đầy người, tôi phải cởi áo, tháo nón, tháo khăn quàng, và mở thoáng cửa
cho hơi lạnh ùa vào. Cửa vừa mở thì có vài người tay cầm chai bia, vừa uống vừa
thò đầu vô chào hỏi, chắc là say rồi nên giọng nhừa nhựa, ồm ồm -tụi bây câu
được nhiều không, tôi chưa kịp trả lời thì có thằng nhỏ nhìn vô thùng đựng cá,
thấy có một con nhỏ xíu, bèn la lớn -ê ê, ông nội coi nè, cá thiệt là lớn, cá
thiệt là lớn. Cả đám xúm nhau cười, chọc quê. Trước khi đi ông tây già nói nhắn
-nếu tụi bây muốn nhiều cá thì qua bên tao, nhiều lắm, tao cho. Rồi có một cô
đầm, cao lêu khêu, mặc đồ hề xanh đỏ (clown) quảng cáo chụp hình kỷ niệm, mỗi
ảnh chụp với cô giá bốn đồng.
Đám tây đầm nầy vừa đi thì đám khác tới, chào hỏi, làm quen nhau, vui vẻ thân
tình, ngoài đường thì mấy đứa con nít đi patin, năm ba cặp lớn tuổi đua xe trượt
tuyết, tiếng máy nổ ầm ầm, vang động cả đêm khuya. Xe chạy rất nhanh trên mặt
sông, biến mất trong đêm đen và đi tới đâu, tôi không biết ! Trong đầu tôi phân
vân tự hỏi, nửa đêm xe nặng chạy đua trên mặt sông như vầy, rủi nước đá nứt bể,
thì chuyện gì xảy ra. Ở đời, chuyện gì cũng có thể xảy ra được mà…
Lại có tiếng gõ cửa, một người làm của công ty cho mướn lều, ôm tiếp tế một
đống cũi mới dành đốt suốt đêm. Lò sưỡi đơn giản làm bằng sắt vuông vức, đặt cao
hơn mặt sàn chừng một gang tay, mỗi lần đốt độ ba khúc cũi to. Lữa cháy phừng
phừng, thiệt là ấm áp. Tôi bèn hỏi thăm vụ nước đá cứng mềm và có bao giờ bị
nguy hiểm chưa. Anh nầy trả lời -dễ lắm, quen rồi, thấy là biết liền, nhìn nước
đá trong xanh thì biết là cứng chắc, còn khi nào trắng hay đục mờ thì yếu bở.
Mặt nước đá phải dầy đủ hai mươi phân trở lên, mới được phép câu. Khi nhiệt độ
tăng trên không độ và bị liên tiếp bốn trận mưa lớn thì không được câu nữa, mặt
băng trên sông sẽ tan rã, như mùa đông năm vừa qua. Nói xong anh ta tiếp -ông
yên tâm, nếu có gì nguy hiểm thì người ta đóng cửa khu vực nầy rồi, đâu có cho
ai vô, thanh tra kỹ lắm... Cũi trong lò lâu lâu nổ lép bép như tiếng pháo chuột
ngày tết.
Trời càng về khuya thì cá ăn câu càng nhiều, đôi khi gỡ và móc mồi lại không
kịp. Cũng có nhiều lúc ngồi ngáp dài vì không có một con. Những lúc đó phải chịu
khó đổi mồi câu vì gan heo đã hết mùi thơm hấp dẫn cá rồi. Mồi để lâu trên năm
phút là phải đổi mồi mới cho thơm ngon. Mồi bằng tôm tép thì cá mê lắm. Cục chì
phải thả cho sát đáy sông, sau đó kéo lên cao chừng một lóng tay (inch) hầu cho
hai lưỡi câu nằm nghiêng theo mặt đất, phải đúng như vậy thì cá mới ăn. Tôi biết
được điều nầy nhờ đọc được bảng hướng dẫn có vẽ hình rõ ràng gắn trên vách.
Chừng độ hai giờ khuya thì tôi chịu hết nỗi, cơn buồn ngủ kéo đến và cái lưng
sao mà mõi quá chừng chừng. Thằng con tôi còn trẻ nên dáng còn tỉnh rụi, hết gở
cá dây câu nầy tới móc mồi dây câu kia.. Tôâi qua nằm trên chiếc ghế dài mong
tìm giấc ngủ ngắn ngủi cho đỡ mệt. Nằm thì cho có nằm vậy, chớ có nhắm mắt được
đâu, cặp mắt vẫn ngó lom lom hàng dây câu có gắn diêm quẹt, làm sao mà ngủ cho
được khi tranh nhau cá rỉa mồi.
Vừa nằm xuống chưa yên chỗ thì mấy cọng diêm quẹt tiếp tục đong đưa. Ở giửa mỗi
sợi dây câu người ta gắn sẵn cho mình một cây diêm quẹt nhỏ, khi cá rỉa mồi dù
nhẹ cách mấy đi nữa thì cây diêm quẹt cũng rung rinh, nhìn là biết liền. Như vậy
là cá đương rỉa mồi, phải giựt lên ngay, nếu không thì uổng lắm… Mấy chục cây
diêm quẹt cứ rung rinh hoài làm sao mà ngủ nghê cho đươc. Cứ như vậy mà cha con
tôi thức suốt đêm cho tới sáng, gần một trăm con cá câu được thì quăng ra ngoài
trời, ướp lạnh trong đống tuyết trước sân, coi chúng nằm lạnh tanh vậy chớ không
chết đâu. Khi trở về để trong thau, đổ nước thật lạnh vô một hồi là chúng ngáp
ngáp, cựa quậy, sống lại...
…..
Bạn hiền, như vậy là tôi suốt đêm không hề chợp mắt vì mê câu cá, vậy mà khi
thấy tia sáng đầu tiên le lói chưn trời xa, tôi đâm nhớ lại câu -tương dữ chẩm
tạ hồ chu trung, bất tri đông phương chi ký bạch, của đại thi hào họ Tô đời Tống
(ôm gối mơ màng trên thuyền, nào ngờ vừng đông đã sáng trắng hồi nào không hay)
. Bận về cha con phải thay nhau mà lái xe, nếu không cơn buồn ngũ kéo đến thì xe
lọt xuống ruộng chỉ trong một chớp mắt. Thằng con cười và hỏi -ba có còn sợ nước
đá nứt bể hay lạnh lẽo gì không ? Tôi cười trả lời -cái thằng, biết câu kiểu nầy
thì tao đâu có sợ, tao cứ tưởng mầy tổ chức kiểu câu thể thao khoan lỗ trên nước
đá ngoài trời như ở Alaska (ice fishing outside) , như của người da đỏ….
Buổi đi câu đêm đó tuy vất vả, mệt mỏi nhưng rất vui. Cũng nhờ sự hiểu lầm đó mà
tôi hiểu rõ tại sao, do đâu mà người Sài Gòn đặt được câu thành ngữ thần tình,
sau tháng tư đen. Một trong những thất bại đời người là do hiểu biết giới hạn
nên tưởng tượng, mơ mộng, vẻ vời đủ kiểu, cuối cùng khi sự thực xảy ra thì lại
khác xa -chuyện tưởng vậy chớ không phải vậy ! Câu nói mới nghe thì hơi cải
lương nhưng đối với riêng tôi, người nào đặt câu nầy đầu tiên, sao mà khéo và
hay quá sức… bái phục, bái phục !
(kỷ niệm buổi đi câu 6 janvier 2008)
SƠNTRUNG
sưu tập
Ottawa 17-3-2020
Ottawa 17-3-2020
No comments:
Post a Comment