Nhắc lại một chuyện cũ: Võ văn Kiệt hay Võ văn Kẹt?
Sách ” Bên thắng cuộc ” của Huy Đức kể lại nhiều chuyện bí ẩn trong hàng ngũ cộng sản mà người ngoài, nhứt là người miền nam, ít ai biết và cả một số chuyện liên hệ tới giới chức miền nam sau 30.04/1975 trong cải tạo và tù vượt biên dưới thời ông Võ văn Kiệt . Có chuyện tác giả kể hấp dẩn nhưng không đúng sự thật bỡi chính người trong cuộc, tức nạn nhơn, đọc qua chuyện của mình đã phải ngạc nhiên. Nhưng dầu sao, sách “Bên thắng cuộc “vẫn có giá trị thông tin khá hơn nhiều sách khác của người cộng sản viết mà ta đọc qua .
Dân nam kỳ cũng kỳ
Trong lúc làm việc ở Sài gòn, Ông Kiệt được cảm tình của một số trí thức miền nam thua cuộc . Họ chụp Ông Kiệt như cái bụp dừa (cái phao) để bám, không phải để lội qua sông, mà để khỏi chết chìm ngay trước mắt .
Ông Kiệt lúc làm Thành Ủy ở Sài gòn đã dám mời một số trí thức miền Nam, sau thời gian học tập về, giúp ông giải quyết những khó khăn kinh tế xã hội do chánh sách bao cấp theo cách quản lý xã hội chủ nghĩa gây ra để kịp tránh cho Việt nam khỏi bị sụp đổ. Khi nghe tin trí thức miền nam vượt biên bị bắt và ở tù, ông lập tức cho người đi lãnh ra và giữ họ làm việc với ông. Bày tỏ sự cởi mở với anh em miền nam và niềm tin tình hình Việt nam sẽ khả quan, ông vui vẻ nói với anh em miền nam mà ông vừa lãnh về: “Mấy anh ở lại làm vìệc . Trong 5 năm nữa mà Việt nam không khá thì tôi để mấy anh ra đi tự do” .
Một anh phản biện: “Thưa ông, nếu 5 năm nữa mà Việt nam không khá, thì ông ra đi, để cho tụi tui làm việc. Chớ sao tụi tui lại ra đi?”.
Thế là cùng cười với nhau. Người phát biểu câu này còn sanh sống ở hải ngoại .
Ở Sài gòn trước 1975, giới thương gia vải sợi đều biết Ông Phạm văn
Hai, biệt danh là Cậu Hai An nhơn, chủ lò nhuộm. Màu đen là do ông khám
phá ra từ trái rừng – trái mạc nưa . Màu đen của ông chế tạo rất tốt,
đen nhánh, càng giặt càng đen, không phai màu . Lanh mỹ a, vải ú đen,
lụa đen,… đều nhuộm bằng màu đen mạc nưa . Sự tìm ra màu đen của ông đã
tiết kiệm được cho chánh phủ Sài gòn hằng năm một số ngoại tệ khá lớn vì
khỏi nhập cảng màu đen.
Sau 1975, ông giao sự nghiệp của ông cho nhà cầm quyền cộng sản để
phủi tay. Nhưng họ từ chối, bảo cái gì của ông, ông cứ giữ. Cách mạng
không lấy cây kim sợi chỉ của ai hết cả .
Ông giữ và làm gác-gian cho kho hàng và cơ sở kỹ nghệ của ông. Những
bành tơ sợi, thuốc nhuôm, bị bỏ lăng lóc ngoài sân dưới mưa nắng. Ông
thấy xót ruột, phải tự đem vào kho cất .
Cán bộ Ban Khoa học cộng sản lấy hết tài liệu về nhuộm và bắt ông
hướng dẫn cách thực hành. Xong đem ra Hà Nội nạp. Nhưng họ không áp dụng
được nên phải trở vào Sài gòn gặp lại ông và yêu cầu ông ra Hà nội làm
việc nhưng công trình khoa học của ông, ông phải nói là do đảng lãnh đạo
mà ông thành công. Ông từ chối và nói rõ công trình đó vẫn là của ông
nhưng ông cho, ai muốn sử dụng cũng được.
Ông Hai là bạn cỡi trâu với Ông Kiệt ở nhà quê Vũng Liêm. Con nhà
nghèo chỉ mới đi học trong làng. Lúc vừa lớn lên, có nhà điền chủ nhờ
ông dẫn hai người con trai qua Pháp du học. Ông nhận lời. Ở Paris, có
sẵn chỗ ăn, chỗ ở . Ngoài công việc dẫn hai công tử đi học, ông rảnh
rang. Ông đi học thêm và sau cùng, ông ghi tên học ở Conservatoire
National des Arts et Métiers có lớp dành cho người lớn tuổi tới học đủ
ngành nghề thực dụng tùy theo khả năng của mình. Điều kiện vào học rất
dễ nhưng thi lên lớp mới khó nên bằng cấp của trường có giá trị không
thua nhiều trường kỹ sư có thi tuyển.
Ông tôt nghiệp kỹ sư Hóa học nên về Sài gòn lập Lò Nhuộm An nhơn.
Sau thời gian vài năm sống với cộng sản, ông quyết định phải tìm cách
đi khỏi xứ. Ông vượt biên nhiều lần bị bắt và mỗi lần bị bắt, thì được
ông Kiệt can thiệp thả ra. Khuyên ông đừng đi nữa vì lãnh ông ra hoài
cũng khó. Lần sau cùng, trước khi đi, ông viết thư để lại « chuyến
đi này là hoàn toàn do tôi quyết định . Vợ con của tôi chỉ nghe lời tôi
đi theo . Nếu tôi bị bắt, cứ giết tôi nhưng hãy thả gia đình tôi » .
Ông bị bắt. Và Võ văn Kiệt thêm một lần nữa can thiệp. Và lần này, Ông Kiệt nói với ông: «Tôi ký giấy cho anh đi chánh thức qua Thụy sĩ. Anh ở đây có ngày tụi nó giết anh».
Khi làm thủ tục xuất cảnh, công an giằn mặt ông: «Anh tưởng chúng
tôi cần những thứ ngụy như anh à? Chúng tôi làm xã hội chủ nghĩa hai
mươi năm nữa cũng được . Miễn là chính chúng tôi làm và thành công».
Qua thời kỳ đổi mới, Ông Phạm văn Hai trở về Sài gòn và gặp Ông Kiệt.
Ông Hai tìm hiểu về đá saphir của Việt Nam. Theo ông, Thái lan qua mua
đem về rồi mài lại, bán ra, hằng năm thu về được 600 triêu đô-la . Ông
đem chuyện nói với Ông Kìệt là nếu để ông mua lại saphir và trau dồi tại
Sài gòn, mỗi năm ông có thể thu về cho Việt nam tới cả tỷ đô-la . Ông
Kiệt đồng ý yểm trợ thực hiện dự tính kinh doanh của ông. Có ngay 3 ngân
hàng tham gia . Ông Hai trở về Los Angeles học nghề với một nhà kỹ nghệ
saphir ở Los Angeles vốn là người kế nghiệp của nhà kỹ nghệ thụy sĩ tại
Genève . Về mặt kỷ thuật, ông thành công qua vài cuộc triển lãm saphir ở
Huê kỳ .
Ông trở về Sài gòn với những viên saphir sản phẩm của ông. Ông nhận
tiền ngân hàng mở Labo và làm việc. Ông đào tạo một lớp chuyên viên. Khi
những hột saphir bắt đầu bán ra thị trường thì cũng là lúc đảng cộng
sản ra tay phát huy quyền làm chủ cơ sở của ông. Thế là ông chạy trở về
Mỹ. Ông Kiệt cũng “kẹt” nên không làm gì giúp người bạn thời niên thiếu
đầy thiện chí .
Bạn bè trách ông cứ để cho bọn cộng sản gạt. Ông thản nhiên nói “Anh
em biết tánh tôi mà. Tôi chỉ cần cho thấy là tôi thành công, còn ai
giựt thì cứ giựt . Nhưng giựt rồi có làm được hay không? ” .
Ông Võ văn Kiệt trước sau vẫn là người cộng sản mà với người cộng sản
thì “ áo làm sao mặc qua khỏi đầu ” được ? Nên người ta đặt cho Ông
Kiệt cái tên phù hợp với ông “ Võ văn Kẹt ” . Nhờ biết giử thế “ kẹt ”
mà ông leo lên tới ghế Thủ tướng và sống giàu sang tới 85 tuổi với bà
vợ trẻ, Bà Phan Lương Cầm, biệt danh là« Bà 10% » khi xây dựng đường
giây cao thế Bắc-Nam . Bà Cầm có thời du học về môn Hóa học ở Hòa lan .
Khi cưới Bà cầm, Ông Kiệt đã có tuổi nên dân chúng Sài gòn hát tặng ông :
”Cụ Kiệt cưới Cô Cầm .
Cái Cô Cầm cần, Cụ Kiệt cốc có
Cái Cụ Kiệt có, Cô Cầm cóc cần” .
Nhưng nghe nói bà Cầm có bầu và qua Thụy sĩ sanh đẻ cho chắc ăn. Ông
Kiệt già mà có con mọn. Cũng hay. Dầu sao ông cũng là ủy viên Chánh trị
bộ mà không làm cho bà Cầm có bầu được thì làm sao lãnh đạo chánh phủ
cách mạng chớ?
Vì chuyện gia đình, Ông Phạm văn Hai thường qua Paris . Một hôm, tình
cờ gặp lại Ông Trịnh Vĩnh Bình tỵ nạn ở Hòa lan, đi bán sữa đặc có
đường Ông Thọ, ông bảo ông Trịnh Vĩnh Bình hãy làm chả giò bán kiếm lời
mau và nhiều hơn. Ông cho bí quyết làm chả giò giữ giòn được lâu. Ông
thương Ông Trịnh Vĩnh Bình vì lúc ở Sài gòn, ông thấy Ông Bình là một
thanh niên có tài buôn bán vải . Ông Bình nắm trong tay một khúc vải, vò
vò rồi buông ra, có thể cho biết khá chính xác thành phần vải có bao
nhiêu phần trăm coton, polyester, …
Nhờ đổi qua làm và bán chả giò theo công thức của ông Phạm văn Hai
cho, Ông Trịnh Vình Bình phất lên làm «vua chả giò» ở Hòa lan (cũng là
vua chớ bộ?) và sau đó trở thành Đại gia ở Sài gòn nhờ biết cách làm ăn
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vả lại Ông Trịnh Vĩnh Bình là người
gốc tàu thì chỗ nào có dưỡng khí là sống được và sống theo đuổi triết lý
«lượm bạc cắc»! Mà bạc cắc thì xưa nay là thứ xuyên quốc gia và không
có mùi, cả mùi cộng sản!
Lần này, bạn rủ ông qua Miên tìm saphir làm nữa vì vùng có saphir lúc
đó không còn dưới sự kiểm soát của Khờ-me đỏ, ông Hai nhận lời liền.
Con trai của ông ngăn cảng nhưng ông bảo «Tao còn mạnh mà mày. Mới có 80 ăn thua gì!»
. Chờ qua sau Tết, có người đưa qua Miên và giới thiệu với chánh quyền
sở tại để bắt tay thực hiện dự tính khai thác saphir. Noël tới . Ông
viết thiệp chúc Noel bạn bè, chưa kịp gởi đi, thì ông đột ngột mất! .
Không có người cộng sản khác hơn
Nguyễn văn Linh, tự Mười Cúc, gần như suốt đời hoạt động trong Nam.
Ông phải am hiểu tâm tình người nam hơn ai hết . Các bà già trầu nam kỳ
đều thương ông vì thấy ông chỉ có một thân một mình ở đây đi làm kháng
chiến. Ông sống sót để leo lên tới tột đỉnh danh vọng trong hệ thống
cộng sản là hoàn toàn nhờ gáo nước, nồi cơm của đất Nam kỳ. Nhưng khi có
quyền, không chỉ vô ơn bạc nghĩa theo bản chất người cộng sản chuyên
chính, mà ông còn tìm cách ám hại, triệt tiêu những đồng chí Nam kỳ của
ông. Như Hồ Chí Minh đã hạ Nguyễn văn Cừ giữ quyền lãnh đạo đảng cho
Miền Bắc, sát hại tất cả những người yêu nước chơn chánh thời kháng
chiên để cướp công kháng chiến cho cộng sản quốc tế . Vì bản chất thật
của người cộng sản là «mục tiêu» . Mục tiêu giờ đây sẽ không phải là mục
tiêu của thời hô hào toàn dân kháng chiến . Tình cảm, ơn nghĩa, ăn ở có
trước, có sau, …là những thứ sản phẩm của tiểu tư sản, không phải đạo
đức cách mạng của cộng sản thứ thiệt .
Tháng 3 năm 1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đột ngột qua
đời. Theo Hiến pháp thì ông Kiệt sẽ lên thay cho đến khi Quốc hội bầu ra
người mới.
Tháng 6 cùng năm, Quốc hội nhóm họp đã bầu Đỗ Mười mặc dù rất nhiều
đoàn đại biểu đề nghị ông Kiệt. Hơn nữa, ai cũng biết Đỗ Mười dốt đặc
cán mai, cốt tử thiến heo và còn mang bịnh tâm thần trầm kha, đêm từng
leo lên cây bàng cạnh bịnh viện hát nghêu ngao « Ai yên Bác hồ hơn ….».
Đám y tá đã phải «lạy cụ tuột xuống cho chúng con nhờ» .
Ông Linh cho tới lúc hấp hối vẫn hô hào hạ bệ cho kỳ được Ông Kiệt
khỏi những chức vụ lãnh đạo tối cao. Như Tổng Bí thư. Giữa năm 1995,
Chính phủ ông Kiệt gặt hái được nhiều thành tích, uy tín của ông lên
cao. Khi đó Tổng bí thư Đỗ Mười đã ở tuổi 80. Ông Kiêt trở thành một ứng
cử viên nặng ký cho chức tổng bí thư vào kỳ Đại hội VIII.
Điều này đã làm cho Ba Tàu Bắc Kinh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, và đặc biệt
là ông Linh trở nên quyết liệt hơn, tàn nhẫn hơn đối với Ông Kiệt. Ông
Linh tung ra trận đánh tổng lực với nhiều chiến thuật khác nhau. Vừa
triệt hạ uy tín Ông Kiệt, ông Linh tìm cách cô lập và loại ông Kiệt ra
khỏi Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị. Ông Kiệt không được tham dự vào các
quyết định quan trọng nữa.
Đồng thời, ở Hà Nội, ông Linh lôi kéo Ông Nguyễn Hà Phan khi Phan
được Ông Kiệt cất nhắc ra Hà Nội làm Phó cho ông năm 1986. Ở đây, Phan
tưởng tương lai sẽ rộng mở cho mình nên cấu kết với nhóm của Ông Linh.
Phan bắt đầu trở mặt tấn công nhằm hạ bệ Ông Kiệt để giựt chiếc ghế Thủ
tướng . Nhờ thành tích tấn công Ông Kiệt, tháng 1/1994, nhơn Hội nghị
giữa nhiệm kỳ, Phan được kết nạp vào Bộ Chánh trị.
Trước thế lực mới và âm mưu thâm độc của đối phương trong đảng, Ông Kiệt kỳ này sẽ thật sự bị kẹt và suy vong luôn?
Nhưng không. Nhờ một cựu cán bộ đảng ở Cà mau mách nước cho Nguyễn
Tấn Dũng tố cáo tội lỗi của Nguyễn Hà Phan* lúc ở tù, Phan khai rõ tổ
chức của Phan giúp Pháp bắt và tiêu diệt sạch. Khi ra tù, Phan còn khai
thành tích lấy công cúa đồng đội chết. Sự tố cáo của Nguyễn Tấn Dũng vừa
cứu nguy ông Kiệt, vừa giành chiếc ghế Thủ tướng cho ông, vừa dọn đường
cho Phan văn Khải và, nhứt là Nguyễn Tấn Dũng, người có công lớn, tiến
thân tiếp theo. Ngôi sao của cộng sản Nam kỳ bỗng nhá lên sáng!
Võ văn Kiệt là người cộng sản đặc sệt, gốc Nam kỳ, tranh đấu gần như
trọn đời ở trong Nam hẳn phải hiểu rõ hai điều. Tại sao đồng bào Miền
Bắc di cư 54 khi cộng sản về Hà nội và dân Miền Nam vượt biển 30/04/75
khi cộng sản hà nội chiếm được Miền nam . Điều thứ hai là lịch sử xuyên
suốt của cộng sản, đối với đối phương, là cướp đoạt chánh quyền bằng bạo
lực và dối trá; đối với đồng chí, là thẳng tay hạ nhau để trèo lên .
Cộng sản bạc đầu, Ông Kiệt phải lao mình vào trò chơi tương quan lực
lượng theo qui luật biện chứng “ ai thắng ai” . Thật đúng ông là Võ văn
Kẹt!
Thật ra trong con người của Ông Kiệt, tuy Nam kỳ nhưng không có chất
Nam kỳ thứ thiệt vì ông không phải nông dân mà cũng không phải tiểu tư
sản thật lòng lên đường làm chiến tranh giải phóng dân tộc! Ông theo
cộng sản, cũng như bao nhiêu người cộng sản khác khác, chỉ vì không
không biết làm việc gì khác hơn!
Rất tiếc trường hợp ông Võ văn Kiệt vẫn chưa đủ làm bài học chơi với
cộng sản cho đám Nam kỳ chạy theo cộng sản từ thành phần thứ ba, từ
chánh phủ lâm thời cho tới ngày nay, về đầu tư, về giúp nước !
Riêng Nguyễn văn Linh phải năm lấy Tổng Bí thư đảng cộng sản để theo
đuổi thực hiện cho bằng được chủ trương “Thà mất nước chớ không mất
đảng” ! Và năm 2000, Linh cầm đầu phái đoàn đảng và chánh phủ qua dự Hội
nghị Thành đô .
Nguyễn Thị Cỏ May
—————————————
* Vụ Nguyễn Hà Phan, do 1 anh Nam kỳ tập kết,
tiến sĩ kinh tế ở Nga, Hiệu trưởng Trường đảng Nguyễn Ái Quốc, kể lại
với tác giả ở Paris, lúc ong mổ mắt ở nhà thương Bichat, Paris .
No comments:
Post a Comment