( lược ghi)
Một
hiện tượng hiếm hoi trong lịch sử văn học Việt Nam đó là cuộc bút
chiến, xướng họa thơ giữa hai nhà Nho “yêu nước” Phan văn Trị và Tôn Thọ
Tường trong thời điểm đất nước đang bị thực dân Pháp xâm lược. Cuộc bút
chiến nầy đã góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà, có thể gọi
một hiện tượng “ khóang tiền vô hậu”. Việc họa thơ văn từ trước tới nay
vẫn thường xảy ra trên văn đàn, nhưng họa xướng theo đúng nghĩa của nó,
xem ra chỉ có Phan văn Trị và Tôn Thọ Tường. Thiết nghỉ cũng nên đưa ra
đây một ví dụ, để chúng ta cùng tham khảo
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
Về Hán trau tria mảnh má hồng
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng chi để thẹn non sông
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng
( Tôn Phu Nhân quy Thục-Tôn Thọ Tường)
LỜI DẪN
Lấy
tích từ truyện Tam quốc Diển nghĩa: Tôn Phu nhân là em ruột Tôn Quyền,
chúa xứ Đông ngô đời Tam quốc. Vì việc tranh giành đất đai, Tôn Quyền
theo kế của Châu Du tự là Công Cẩn giả bộ cầu thân với Lưu Bị vua nước
Hán. Tôn Quyền mời Lưu Bị qua Giang Đông nói là gả em gái để kết tình
lâng bang giao hảo, định dùng phục binh giết chết trong tiệc rượu. Am
mưu sắp đặt bí mật không tiết lộ bên ngòai. Khổng Minh là quân sư của
Lưu Bị biết rõ âm mưu sâu độc của Tôn Quyền liền bày kế cho Lưu Bị khi
sang đất Ngô tuyên bố ầm lên là mình được Tôn Quyền mời sang gả em gái.
Việc nầy thấu tai đến Ngô Quốc Thái, mẹ của
Tôn Quyền. Biết đó là mưu mô xảo quyệt, Bà cho gọi Tôn Quyền vào mắng
cho một trận, rằng tại sao lại dụng kế tiểu nhân để tiếng nhơ muôn đời.
Nhận thấy Lưu Bị là người đạo đức nhân hòa, bà buộc Tôn Quyền phải trọng
lời hứa và quyết nhất gả con gái cho Lưu Bị. Tôn Phu nhân không rõ mưu
kế của anh, vâng lời mẹ kết duyên với Lưu Bị.
Thất
bại mưu kế hại Lưu Bị, Tôn Quyền định dùng quyền tước và phú quý mua
chuộc Lưu Bị để cầm chân ông ở Đông ngô. Nhưng theo kế sắp sẳn của Khổng
Minh và lòng cương quyết theo chồng cho trọn đạo tòng phu của Tôn Phu
nhân, nên cả hai vợ chồng Lưu Bị trở về đất Hán được bình yên.
I/ TÔN THỌ TƯỜNG
Tôn
Thọ Tường trú quán tại Bình Dương tỉnh Gia Định. Cháu một vị công thần
nhà Nguyễn. Thuở nhỏ học ở Huế. Trượt thi Hương vào Gia Định lập “Tao
Đàn Bạch Mai Thi xã” ở chùa Cây Mai. Năm 1862 ông hợp tác với Pháp được
bổ nhiệm Tri Phủ Tân Bình, sau được thăng Đốc Phủ sứ. Là một người khét
tiếng ăn chơi, nên được gọi là cậu Ba Tường. Ong theo viên lãnh sự Pháp
ra miền bắc quan sát miền thượng du và bị bệnh chết.
Đọc
lại tất cả thơ văn của ông, ta nhận thấy một điều ông luôn bày tỏ niềm u
uất vì những tiếng khích bác của “ đồng hội.” . Ong gửi tâm sự vào mười
bài tự thán”, Tôn Phu nhân quy thục, Từ Thứ quy Tào…
Trong
bài “Tôn Phu nhân quy Thục” ông đã mượn tấm lòng băn khoăn, đau khổ lưu
luyến giữa Tình và Hiếu của người đàn bà quý phái nước Ngô, đau lòng ra
đi theo chồng cho trọn đạo Tòng phu, qua đó để biện hộ cho lập trường “
tiến thoái lưỡng nan” của mình khi ra hợp tác với pháp. Tâm trạng đó đã
được phô diễn rõ rệt trong những chữ “bịn rịn. trau tria…” Vì lúc bấy
giờ nhóm Nho sỹ công kích Tôn Thọ Tường là bán nước cầu vinh… Vì vậy cho
nên ông luôn phải cố gắng vạch rõ thế nào là trung thành hợp lý. Theo
ông thì chính sách bảo thủ của triều đình Tự Đức và tầng lớp Nho sỹ
đương thời đã đưa dân tộc vào con đường mất nước. Ngày xưa vì Tôn Quyền
quá tin lời Chu Công Cẩn mà Tôn Phu nhân phải đau khổ về Thục. Thì ngày
nay, Vua tôi nhà Nguyễn cũng đã
làm mất Nam Việt khiến ông phải “ dứt áo theo chồng”. Ong ra đi không
phải vì lợi danh mà đeo lấy một nhiệm vụ chính trị, “quyết tâm cứu nước”
Bài
thơ nầy Tôn Thọ Tường đã mượn tâm sự của người con gái đất Giang Đông
đi lấy chồng ở đất Thục, để phân trần việc ông ra hợp tác với Pháp:
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
Mấy
chữ “ cật ngựa thanh gươm” trong câu thơ trên, tác giả làm cho ta hình
dung lại cảnh Tôn Phu Nhân cầm gươm, lên ngựa lìa bỏ đất Ngô để về Kinh
Châu với Lưu Bị. Những chữ nầy cũng nhắc lại việc Tôn Phu Nhân đứng ra
ngăn cản quân Ngô, phá tan mưu kế của Châu Du để cứu chồng.
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
Hành
động như thế, Tôn Phu Nhân làm theo lẽ phải, đúng với giáo lý tam tòng
của đạo Nho. Danh tiết của người con gái đất Giang Đông nhờ đó được sáng
chói muôn đời
Lìa ngô bịn rịn chòm mây bạc
Ra
đi theo chồng để là tròn bổn phận làm vợ trong một hòan cảnh rất éo le,
bảo sao Tôn Phu Nhân không nhớ đến quê hương, lìa mẹ già và người anh
đáng kính để theo chồng về đất Thục. Tôn Phu Nhân không dằn được nổi nhớ
nhung, luyến tiếc
Về Hán trau tria mảnh mà hồng
Trong
cảnh nảo lòng ấy, nhưngTôn Phu Nhân vẫn phải lo tròn bổn phận của người
“sửa túi nâng khăn” dù biết rằng đức ông chồng của mình là người thù
của anh, của quê hương mình
Son phấn thà cam dày gió bụi
Đá vàng cho để thẹn non sông
Đã
trao thân gửi phận cho Lưu Bị rồi thì phải “bến nước mười hai” trong
nhờ đục chịu, theo chồng về đất Thục dù nhan sắc có tàn phai theo năm
tháng, Tôn Phu Nhân không thể nào lỗi đạo làm vợ được
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng
Tôn Phu nhân lại
nhắn với kẻ tạo ra cuộc tìn duyên bất ngờ ấy là Châu Công Cẩn rằng: “
Thà mất lòng anh, chớ không thể phụ nghĩa chồng” Lời lẽ nầy tuy có vẻ
sống sượng, nhưng đây là lời nói với Châu Du nên không đáng trách
Tại
sao Tôn Thọ Tường có thái độ cương quyết như vậy? Trong chuyến đi cùng
sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình về việc ba tỉnh miền đông, ông
thấy Triều đình nhà Nguyễn chỉ lo bảo vệ mồ mã của bà Từ Dũ mà không lo
gì cho dân chúng đang rên siết trong khói lửa của giặc Pháp. Hơn nửa
ông cũng thấy sức mạnh quân sự hiện đại của Pháp. Và có ý khuyến khích
phát triển văn minh kiểu phương tây.
Dùng
điển tích Tôn Phu Nhân để thanh minh việc làm của mình và để giới sĩ
phu đương thời hiểu rõ tâm trạng mình, Tôn Thọ Tường đã vô tình đưa ra
một đề tài trái hẳn với chủ đích của ông. Dù ông cố mượn lớp “ phấn son”
của người con gái đất Giang Đông “ ngàn thu rạng tiết” để bào chửa cho
việc theo Pháp của ông cũng vẫn không được mọi người tán thành. Vì một
lẽ rất giản dị và dễ hiểu : Tôn Phu Nhân không thể là ông Đốc Phủ Tôn
Thọ Tường, dù cả hai cùng đồng họ.
Đã
là kẻ sĩ, Tôn Thọ Tường tất phải hiểu rõ nhiệm vụ của bậc sĩ phu trong
cơn quốc biến. Trong khi tòan dân đang nỗ lực chống xâm lăng thì họ Tộn
ra hợp tác với thực dân Pháp. Muốn phân trần biện bạch với nhóm sĩ phu
hiểu rõ hòan cảnh trớ trêu đã xui mình ra hợp tác với kẻ thù dân tộc thì
phải nhắn nhủ cái gì khác hơn , chớ sao lại quá liều lĩnh cho rằng “
thà mất lòng anh đặng bụng chồng” (?!)
II/ PHAN VĂN TRỊ
Phan văn Trị người tỉnh Vĩnh Long, đậu cử nhân năm 1849 nămTự Đức thứ 2 , người ta thường gọi là Cử Trị. Khi
đỗ đạt Cử Trị không ra làm quan mà lui về sống nhàn tản ở quê hương, mở
trường dạy học. Trong thời gian nầy ông kết bạn tâm giao với Thủ Khoa –
Bùi Hữu Nghĩa. Nhân thấy Tôn Thọ Tường không còn giữ tiết tháo của một
nhà Nho chân chính, theo ra hợp tác với Pháp, Phan văn Trị dùng thơ văn
đả kích thóa mạ họ Tôn. Lúc bài “Tôn Phu nhân quy Thục” vừa ra đời, ông
đã thấy ngay nhược điểm của Tôn Thọ Tường và lấy ngay đề tài, thể thơ mà
họa xướng nguyên văn bài thơ, hạ họ Tôn bằng ngón đòn thích đáng. Trước
hết họ Phan nhận định: Tôn phu Nhân là phận gái tất phải theo trọn đạo
tam tòng. Mà đã theo chồng thì luân lý Nho giáo không cho phép người đàn
bà nói tới nhiệm vụ chính trị, mà phải sống theo khuôn phép người làm
vợ, phải e dè lúc ra đi.
Họa
lại nguyên vận bài “Tôn Phu Nhân quy Thục” của Tôn Thọ Tường, Phan văn
Trị châm biếm và mỉa mai hành động ra hàng người Pháp của họ Tôn. Đứng
về phương diện đạo lý Phan văn Trị tán thành việc làm của người con gái
đất Giang Đông, theo chồng để vẹn đạo tòng phu, tròn danh tiết… Phan văn
Trị đã xướng họa:
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
Phan
văn Trị có dụng ý muốn cho Tôn Thọ Tường biết bà Phu Nhân họ Tôn cũng
như bao nhiêu người con gái khác “ xuất giá tòng phu” thì phải “cài trâm
sửa áo” chớ không thể “ cật ngựa thanh gươm”. Cử Trị đã ngầm bảo với họ
Tôn : Ong đã theo về với Pháp, chịu hàng kẻ thù thì nên “ chỉnh tề khăn
áo” chớ có oai vệ nỗi gì mà “ cưỡi ngựa đeo gươm”!?
Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
Phan
văn Trị cho ta thấy Tôn Phu Nhân từ giả quê hương vào một buổi chiều
tà, bị bao trùm một màu ảm đạm thê lương. Dùng những chữ “ mặt ngả trời
chiều”. Tác giả muốn nói đến cảnh đau thương của dân tộc đang đắm chìm
trong khói lửa chiến tranh. Cử Trị muốn cho họ Tôn nhớ
rằng người con của đất Giang Đông đã lìa quê trong một hòan cảnh đau
buồn, chớ không phải được “rạng tiết gái” cũng như họ Tôn đã đang tâm
theo Pháp trong khi nước non suy tàn, như vậy sao lại gọi là rạng rỡ?!
Ngút tỏa đồi Ngô un sắc trắng
Duyên vầ đất Thục đượm màu hồng
Hình
ảnh những đám mây trắng vào một buổi chiều thu nắng nhạt gợi lên trong
lòng người ly hương mối sầu viễn xứ. Lìa quê trong cảnh buồn bã như thế
Tôn Phu Nhân chẳng bao giờ tưởng nhớ tới mẹ già và anh trai. Tác giả
muốn ám chỉ việc họ Tôn theo Pháp trong lúc đất nước điêu tàn, nhân dân
lầm than trước họa xâm lăng để hưởng sự vui sướng cho thân mình
Hai vai tơ tóc ngang trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
Họ
Phan nói thẳng với họ Tôn rằng: “ Tôn Phu Nhân đã vẹn hai vai tơ tóc”
và trọn đạo thờ chồng. Còn ông, ông theo về với Pháp có giữ được “ gánh
cương thường” không? Nếu không, ông đã bất trung với Vua, bất nghĩa đối
với nước non, vậy còn khoe khoang đạo nghĩa làm gì nữa? Ong là người bất
chính. Và khẳng định với Tôn Thọ Tường:
Anh hỡi! Tôn Quyền anh có biết
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng
Khen
Tôn Phu Nhân là người đàn bà, biết giữ tròn đạo nghĩa bao nhiêu thì họ
Phan lại chê trách Tôn Thọ Tường bấy nhiêu. Tôn Thọ Tường là người đàn
ông thì làm thế nào giống như trường hợp Tôn Phu Nhân được. Gái tiết
hạnh phải làm tròn bổn phận người vợ hiền, trai ngay phải trọn đạo làm
tôi đối với chúa. Trong lúc non sông nghiêng ngửa, Tôn Thọ Tường ra hợp
tác với kẻ thù cướp nước thì sao lại gọi là “ trai ngay” được?!
Sau
khi phá giải lợi dụng đề tài của Tôn Thọ Tường, Phan văn Trị còn lớn
tiếng bênh vực lập trường của nhóm sĩ phu yêu nước và quan điểm bút chiến của mình.
III/ NHẬN XÉT TÁC DỤNG
Mục tiêu của Tôn Thọ Tường là giải bày tâm sự, của Phan văn Trị là đả kích cá nhân. Nhưng
nếu nhìn xa hơn ta có thể thấy ngay đó là tiếng nói của hai lớp người
trong một giới Nho sĩ: Một đàng theo tiếng gọi của tây phương, của nền
văn minh cơ khí đang lần mò tìm chỗ trống ở Á châu, một đàng là tiếng
nói của thành trì cổ kính, muốn giữ đúng quan điểm Nho gia, chứ không
chiụ lìa bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Anh hưởng của cuộc đấu văn nầy
được phổ biến sâu đậm trong nhân gian khiến cho vai trò uy tín của nhà
Nho phải một phen lung lạc.
Vì
là một cuộc bút chiến, trong văn thơ của Tôn Thọ tường và Phan văn Trị,
chúng ta thấy không còn những vẻ phù phiếm, vốn rất phổ biến trong thơ
văn thời bấy giờ, lời văn đi sát thực tế hơn với mục đích phục vụ nhân
sinh, thúc đẩy nề văn học sử phát triển.
Những
vần thơ thời thế của Phan văn Trị và Tôn Thọ Tường đã ghi lại những dấu
vết của những biến cố lịch sử trong buổi giao thời của nền văn minh
Đông- Tây bắt đầu va chạm.
Cả
hai ông đều dùng văn thơ để bày tỏ tâm sự và chí hướng, vì thế lời văn
của hai ông có một giọng điệu chân thành, dễ rung cảm lòng ngưởi. Tạo ra
một cuộc bút chiến, xướng – họa thực sự đúng theo nghĩa của nó. Một
hiện tượng hiếm thấy trong nền văn học Việt Nam. Đó mới thực sự là họa thơ. Từ đó về sau, thử hỏi có ai xướng họa thơ đúng và hay hơn hai ông ?./.
No comments:
Post a Comment