Trường Nữ trung học Gia Long
Trường Nữ trung học Gia Long còn được gọi là trường nữ sinh Áo Tím
là một trường trung học phổ thông công lập ở Sài Gòn. Được thành lập từ
năm 1913, cho đến nay trường Gia Long là một trong những trường phổ
thông lâu đời nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Thời Pháp thuộc
Khoảng đầu thế kỷ 20, nền giáo dục ở Việt Nam còn mang tính chất Nho
giáo nên ít chú trọng đến giáo dục nữ giới. Xuất phát từ ý định tha
thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, năm 1908, nghị
viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung cùng vợ của Tổng Đốc
Phương và một số nhân sĩ trí thức đã đề nghị chính quyền thực dân
Pháp thành lập một ngôi trường Sơ Học Cao Đẳng (bậc tiểu học) dành cho
nữ.
Năm 1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh
phí để thực hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, lễ đặt viên đá đầu
tiên xây dựng trường Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được
xây dựng trên một khu đất rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên
là đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), bên phải là đường Bà
Huyện Thanh Quan, bên trái là Đoàn Thị Điểm (Trương Định ngày nay), phía
sau là Ngô Thời Nhiệm, thuộc thành phố Sài Gòn.
Hai năm sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Ernest Nestor
Roume và Thống Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể
này, ban tổ chức đã chọn màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng
trưng đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhường của người thiếu nữ
Việt Nam. Từ đó, trường thường được gọi là “Trường Áo Tím”.
Khóa đầu tiên trường tuyển 42 nữ sinh, Các học sinh đầu tiên của
Trường thuộc những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần,
có nhiều học sinh từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
Trường đào tạo thành nhiều lớp: Đồng ấu (Enfantin), Cao đẳng
(Supérieur). Năm cuối Sơ học (CEP), học sinh phải thi lấy Chứng chỉ Căn
bản Giáo dục sau khi tốt nghiệp những lớp cao cấp.
Trong những năm 1917 – 1922, vì số lượng học sinh gia tăng, trường
xây dựng thêm một tòa nhà thứ hai song song với tòa nhà cũ.. Các phòng
trên lầu được dùng làm phòng ngủ nội trú cho các học sinh xa nhà. Cách
một sân cỏ, là một dãy nhà sau, thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có
bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh, phòng giặt và xếp quần áo học sinh
nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành Ban
Trung Học Nữ Học Đường. Một phiến đá bằng cẩm thạch khắc chữ Collège Des Jeunes Filles Indigènes
(Trường Của Những Thiếu Nữ Bản Xứ) được dựng lên trước cổng trường, tuy
nhiên trường vẫn được biết đến nhiều hơn với cái tên Trường Nữ Sinh Áo
Tím.
Bà Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm
Hiệu Trưởng ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên (lớp 6 bây
giờ) đến lớp đệ tứ niên (lớp 9 bây giờ), chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ
Học và kỳ thi tuyển vào trường.
Lúc đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất (lớp 12 bây giờ) thì học ban
Sư Phạm, sau bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai
ban đều học một chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt
đầu học Pháp Văn. Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng
Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ Việt Ngữ. Trong trường học sinh bị bắt
buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói
chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu phạt một hay hai xu. Nhưng
hình phạt không mấy khi thi hành.
Tuy trường khi này do người Pháp quản lý nhưng phong trào đấu tranh
chống thực dân trong học sinh vẫn âm ỉ, ít nhất đã hai lần nữ sinh
trường xuống đường. Lần thứ 1 vào đầu năm 1920, khi một giáo viên người Pháp yêu cầu học sinh người Việt phải nhường ghế ở hàng đầu cho học sinh người Pháp ngồi. Lần thứ 2 vào năm
1926, nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng
từ Nam chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh
trường Áo Tím nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị
bắt và phải đuổi khỏi trường.
Năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè.
Cũng trong năm này, trường đổi tên thành Collège Gia Long (Cao đẳng
tiểu học Gia Long), rồi Lycée Gia Long (Trường trung học đệ nhị cấp Gia
Long).
Năm 1941: tất cả thầy trò đều phải tản cư về trường tiểu học Đồ
Chiểu (Tân Định). Ngay khi Nhật trao trả lại trường thì quân đội Anh
tiếp thu làm trại lính, kéo dài trong 6 năm.
Năm 1947: khi được người Anh trao trả, trường bị hư hại nhiều đến nỗi
vị hiệu trưởng lâm thời là cô Mailleret phải vận động mạnh thường quân
quyên góp tài chính để lo việc tu sửa.
Năm 1949: trường lại được mở rộng: một tòa nhà hai tầng được xây mới ở
đường Bà Huyện Thanh Quan để đáp ứng số lượng học sinh ngày càng tăng.
Cũng trong năm 1949, nữ sinh trường cùng với nam sinh trường Trương Vĩnh
Ký tổ chức bãi khóa kỷ niệm ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa dẫn đến việc trường
bị nhà cầm quyền cho đóng cửa.
Quốc Gia Việt Nam
Năm 1950, sau một cuộc đấu tranh dài hơi có sự góp sức của đông đảo
học sinh các trường khác ở khắp vùng Sài Gòn – Gia Định (trong số ấy có
nhiều học sinh đã hy sinh, như Trần Văn Ơn của trường Trương Vĩnh Ký),
trường được mở cửa lại và đánh dấu một sự kiện lớn: cô Nguyễn Thị Châu,
cựu nữ sinh Áo Tím, là vị giáo sư Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm vào
chức hiệu trưởng; đó là một niên học đáng ghi nhớ trong lịch sử của
trường (Cô Châu qua đời tại Pháp năm 1996)
Đến 1952, chương trình giáo dục Việt dần thay thế chương trình giáo
dục Pháp; nữ sinh phải học cả hai ngoại ngữ là Anh – Pháp song song. Kỳ
thi tuyển vào trường rất khó và được đem so sánh với kỳ thi vào trường
dành cho nam là Lycée Petrus Ký với số học sinh tham dự đến từ khắp nơi
trong miền Nam: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Tân An…
Năm 1953, đồng phục áo dài tím được thay thế bằng áo dài trắng với
phù hiệu bông Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long
được thêu trên vải.
Thời Việt Nam Cộng Hòa
1954, chính quyền Việt Nam ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở
của người Việt và đương nhiên cả trong ngành giáo dục. Trong hệ thống
mới, tiếng Anh, tiếng Pháp trở thành ngoại ngữ. Tên trường được gọi
chính thức là Nữ trung học Gia Long.
Năm 1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư
ngụ cho các học sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả
năm mươi lăm lớp học từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi
chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp
8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả một trăm lớp học với tổng cộng
3000 học sinh. Trên bước đường phát triển, trường xây thêm: Thư Viện
(1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966).
Năm 1967, mở rộng Giảng Đường nằm bên cạnh thư viện. Xây dựng sân
khấu với mặt tiền chiếm hết chiều rộng của Giảng đường, đồng thời trang
bị thêm đàn dương cầm. Cùng thời gian này, trường trang bị thêm Phòng
nhiếp ảnh (nhưng chỉ hoạt động thời gian ngắn). Năm 1968, trường xây
thêm hồ bơi đối diện thư viện.
Vào khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ thất (lớp 6 ngày
nay) mỗi năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười
ngàn thí sinh. Một cuộc tuyển sinh vào hệ trung học trường vào khoảng
năm 1971 được ghi nhận như sau: có tổng cộng 8000 học sinh ghi danh và
thi tuyển nhưng chỉ có 819 đậu. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm
ngàn nữ sinh.
Thời gian này cũng là thời gian nữ sinh trường tham gia rất mạnh vào
các phong trào phản chiến chống chiến tranh Việt Nam, trong đó một số
học sinh đã tham gia trực tiếp vào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam, chính các phong trào như trên ở nữ sinh trường đã khiến cho
nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng gọi nhiều thế hệ nữ sinh là: Áo Tím trên các nẻo đường đất nước.
Saigon Xưa – Hòn Ngọc Viễn Đông tổng hợp –
No comments:
Post a Comment