Biện chứng (hay
phương pháp biện chứng,
phép biện chứng) là một
phương pháp luận, đây là
phương pháp chủ yếu của cả nền triết học phương Đông và phương Tây trong thời cổ đại. Từ
biện chứng ("dialectic") có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp cổ, và trở nên phổ biến qua những cuộc
đối thoại kiểu Socrates của
Plato.
Phương pháp biện chứng có nền tảng từ những cuộc đối thoại giữa hai hay
nhiều người với những ý kiến, tư tưởng khác nhau và cùng mong muốn
thuyết phục người khác. Phương pháp này khác với
hùng biện, trong đó một bài diễn thuyết tương đối dài do một người đưa ra - một phương pháp được những người
ngụy biện
ủng hộ. Nhiều dạng khác nhau của biện chứng nổi lên ở phương Đông và
phương Tây theo những thời kỳ lịch sử khác nhau. Những trường phái chính
theo phương pháp biện chứng là
trường phái Socrates,
đạo Hindu,
đạo Phật, biện chứng Trung cổ, trường phái
Hegel và
chủ nghĩa Marx.
Giải nghĩa phép biện chứng
“
|
Không có cái gì lại quá ngớ ngẩn hoặc nhảm nhí đến mức nó không được một triết gia này hay khác xem xét, phát biểu.
|
”
|
— Descartes (1596–1650)
|
Phép biện chứng là một phương pháp
triết học, cụ thể hơn, tư duy con người – phát triển theo một cách thức được đặc trưng bởi cái gọi là ba đoạn biện chứng:
- Chính đề: đầu tiên có một ý tưởng, hoặc một lý thuyết,
hoặc một xu hướng vận động nào đó được gọi là một "chính đề"; một chính
đề như thế thường sẽ tạo ra cái đối lập, do là, giống như hầu hết các sự
vật tồn tại trên trời đất, có lẽ nó sẽ có giá trị hạn chế và sẽ có các
điểm yếu
- Phản đề: ý tưởng hoặc xu hướng vận động đối lập được gọi là
"phản đề", bởi vì nó nhằm phản lại cái trước tiên, tức chính đề. Cuộc
tranh đấu giữa chính đề và phản đề diễn ra cho tới khi đạt được một giải
pháp nào đó mà, theo một nghĩa nhất định, vượt lên trên cả chính đề và
phản đề do nó phát hiện ra được các giá trị riêng của chúng và do nó cố
gắng bảo tồn các tinh hoa và tránh các hạn chế của cả hai;
- và Hợp đề: giải pháp đạt được ở bước thứ ba này được gọi là
"hợp đề". Đến khi đạt được, hợp đề đến lượt nó có thể lại trở thành bước
thứ nhất trong một của ba đoạn biện chứng mới khác, và quá trình sẽ lại
tiếp diễn như thế nếu hợp đề cụ thể vừa đạt được lại trở nên thiếu
thuyết phục, hoặc trở nên không thỏa mãn. Trong trường hợp này, mặt đối
lập sẽ lại nổi lên, và điều này có nghĩa là cái hợp đề vừa đạt được có
thể được mô tả như là một chính đề mới, cái chính đề tạo ra được một
phản đề mới. Do đó, ba đoạn biện chứng sẽ lại diễn ra ở một trình độ cao
hơn, và nó có thể đạt tới cấp độ thứ ba khi một hợp đề thứ hai đạt
được.
Hình thức cơ bản của phép biện chứng
- Phép biện chứng chất phác (tự phát):
là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả phương
Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã xem các sự vật, hiện tượng của vũ trụ
sinh ra, thay đổi trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên,
những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải
là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học;
- Phép biện chứng duy tâm: biện chứng được bắt đầu từ tinh thần
và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm
nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
Đỉnh cao của hình thức cơ bản này được thể hiện trong triết học cổ điển
Đức, mà người khởi đầu là nhà triết học Kant (1724-1804) và người hoàn thiện là nhà triết học Hegel.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại,
các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung
quan trọng nhất của phép biện chứng;
- Phép biện chứng duy vật: được thể hiện trong triết học do Karl Heinrich Marx và Friedrich Engels xây dựng, sau đó được Vladimir Ilyich Lenin phát triển[1]
Karl Marx và Friedrich Engels đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép
biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến
và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Các phép biện chứng trong triết học
Lịch sử phát triển
Phép biện chứng trải qua 3 hình thức, cũng là 3 giai đoạn phát triển
[2]:
Phép biện chứng chất phác
Phép
biện chứng này có từ thời cổ đại. Nổi bật về phép biện chứng này là các
nền triết học của Trung Hoa cổ đại, Ấn Độ cổ đại và Hy Lạp cổ đại:
“
|
Những nhà triết học Hy Lạp cô đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Aristotle, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu các hình thức căn bản nhất của phép biện chứng. Cái thế giới quan
ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan
của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Heraclitus
trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không
tồn tại, vi moi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi
vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong
|
”
|
Tuy nhiên, các tư tưởng này đều mang tính chất ngây thơ, chất phác về căn bản. Engels cũng có nhận xét như sau:
“
|
Trong
triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự
nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu. Chình vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên,
cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể mà đứng về
mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể đó. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiên tượng tự nhiên chưa được chính minh về chi tiết; đối với họ, mối liện hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp
|
”
|
Tổng kết lại, tuy phép biện chứng thời cổ đại nhân thức đúng về bản chất của
thế giới, nhưng lại nghiên cứu bằng trực kiến
thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, chưa có sự chứng minh cụ thể của
khoa học tự nhiên.
Phép biện chứng duy tâm
Vào
thế kỷ XV,
những nghiên cứu cụ thể của từng môn khoa học đã khiến cho phép siêu
hình ra đời và phát triển. Đến thế kỷ 18, khi đang trong thời kỳ hoàng
kim, phép siêu hình dần bị thay thế bởi phép biện chứng do các nhà khoa
học lúc này nghiên cứu một cách thống nhất các đối tượng.
“
|
Hình
thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà
khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hegel
|
”
|
Các nhà triết học này đã trình bày những tư tường cơ bản nhất của
phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thóng. Triết học Hegel duy tâm ở
chỗ phép biện chứng là cái được bắt đầu từ "
ý niệm tuyệt đối", coi
biện chứng chủ quan là cơ sở của
biện chứng khách quan. Theo ông, "ý niệm tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự "
tha hóa" thành tự nhiên và trở về bản thân nó trong tồn tại
tinh thần, "...tinh thần,
tư tưởng,
ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép
của ý niệm". Không chỉ có Hegel các nhà triết học cổ điển Đức đã xây
dựng phép biện chứng duy tâm bằng một
hệ thống có logic.
Vladimir Ilyich Lenin đã nói:
“
|
Hegel
đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện
tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm
|
”
|
Phép biện chứng duy vật
Engels lại nhấn mạnh ý kiến của
Karl Marx:
“
|
Tình
chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hegel tuyệt
nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên trình bày một cách
bao quát và có y thức những hình thái vận động chung của phép biến
chứng. Ở Hegel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng
nó lại là sẽ thấy được cái hạt nhận hợp lý của nó ở đàng sau cái vỏ thần bí của nó
|
”
|
Khắc phục tư tưởng duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức, đặc
biệt là của Hegel, Marx và Engels đã xây dựng nên phép biện chứng duy
vật bằng cách xem phép biện chứng là "
khoa học về những quy luật chung của sự vận động của thế giới bên ngoài cũng như của tư duy con người"
[3]:
“
|
Có
thể nói rằng hầu như chỉ có Marx và tôi là những người đã cứu phép biện
chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan
niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử
|
”
|
Tham khảo
- ^ Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không chuyên ngành Triết học). Hà Nội - 2005. Trang 158.
- ^ Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà xuất babr Chính trị quốc gia, xuất bản năm 2015, trang 62, 63, 64, 65, 66
- ^ Friedrich
Engels. "Ludwig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức",
Karl Marx và Friedrich Engels. Toàn tập, tiếng Nga, xuất bản lần thứ 2,
tập 21, trang 302, 276, 302
Liên kết ngoài
No comments:
Post a Comment