Cần một tầm nhìn mới: Tầm nhìn thế giới, nhân loại và thời đại (Phần 1)
Thẹn những bác i ô chi lải nhải
Mải sân Trình, cửa Khổng, mải Ba lê!
Mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê
Quê nước ở trong hồn người tự chủ.
(Trích bài Quốc Sỉ - Thái Dịch Lý Đông A)
Tạ Dzu (Danlambao)
- Kể từ thời Nguyễn Gia Long, Việt Nam có thể xem như một quốc gia mới
theo hai nghĩa. Một, là rời xa trung tâm thiên hạ trước kia là Trung
Hoa; hai, là tiếp thu làn gió văn minh mới từ phương Tây thổi đến.
Việt tộc, nếu tính từ khi lập quốc tại Phong Châu, trong vài ngàn năm
tiến về phương Nam, hiện tiếp tục ra đi tới khắp các nẻo đường thế giới,
đã tiếp cận hầu hết các nền văn minh nhân loại. Từ hậu Lê, suốt 500 năm
biến động đầy sóng gió, với tình hình hiện nay, có thể xem như chúng ta
đang ngày càng rời xa khỏi đạo thống Tiên Rồng trải từ thời Hùng Vương
đến hai triều đại Lý-Trần, giờ lại còn bị đe dọa tiêu diệt bởi chủ
thuyết Mác-Lê. Việt Nam tuy được xem như đã hội tụ hầu hết các tôn giáo
và các nền văn minh lớn trên thế giới (Phật, Lão, Khổng, Cơ đốc; Hoa,
Ấn, Tây), chúng ta vẫn chưa định hình được một nền văn hoá đặc thù làm
nền tảng nhằm thoát Trung, bỏ Cộng để xây dựng đất nước.
Làn gió Âu thổi qua Việt Nam đưa đến cả cơ hội lẫn thách thức. Cơ hội
phát triển với kỹ thuật và học thuật Tây phương, nhưng cũng đầy thách
thức, dễ bị tụt hậu đưa đến kiếp sống nô lệ nếu không tạo được nền tảng
văn hoá vững chãi mang tính thế giới và thời đại, vừa Việt trong giòng
chảy quốc tế, vừa dân tộc trong đời sống nhân loại làm cơ sở cho một tầm
nhìn mới: Đa nguyên trong nhất nguyên; nhiều dân tộc nhưng duy nhất một
loài người.
Ba trăm năm qua, Việt Nam hết thoát Hán lại sa vào nạn thực dân. Thoát
thực dân lại rơi vào vòng nội chiến, điều khiển bởi Nga-Mỹ, rồi lệ thuộc
Hán cộng. Hán cộng là mối đe dọa nguy hiểm nhất đối với sự tồn vong dân
tộc trong suốt năm ngàn năm lịch sử.
Nếu thoát Trung được trong nay mai, Việt Nam sẽ đi về đâu hay lại lệ thuộc nối tiếp lệ thuộc, như cũ?
Việt Nam sẽ là gì trong thời đại toàn cầu hoá? Một tỉnh của Hán cộng hay thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ?
Thanh niên và trí thức cả trong lẫn ngoài nước, cần có nhiều cuộc thảo
luận, kiểm thảo lại toàn bộ một cách nghiêm chỉnh vừa những gì đã đạt
được, vừa những nguyên nhân thất bại của Việt Nam suốt 500 năm qua nhằm
tìm ra một tầm nhìn đột phá, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bế tắc
hiện nay, cùng nhân loại bước lên một mức tiến hoá mới. Nếu không, chúng
ta hiện đang bị tụt hậu hàng trăm năm so với ngay cả những quốc gia
trong vùng, sẽ càng lùi lại phía sau nhiều năm hơn nữa.
Rất nhiều người trong giới trí thức đã thất vọng với những hứa hẹn hão
huyền của chủ nghĩa cộng sản, đang mơ về một nền kinh tế - chính trị
kiểu Tây phương, đặc biệt là Mỹ, như giải pháp cứu tinh cho dân tộc.
Có thể nói văn minh ngày nay là văn minh cơ khí lẫn kim tiền đặt căn bản
trên triết Hy Lạp, luật La Mã, tiếng La tinh, và Cơ đốc giáo, phát xuất
và thống lĩnh bởi Tây phương qua nhiều đợt cách mạng kỹ thuật suốt bốn
trăm năm qua. Riêng nền chính trị dân chủ Tây phương, lúc đầu qua đại
diện của giai cấp quý tộc, thương nhân, tu sĩ, trong quá trình hiện đại
hoá đã trở thành nền dân chủ hiện đại (representative democracy) (1),
dựa trên tranh chấp quyền lợi đảng phái chứ chưa mang tính chính trị
toàn dân, của dân, do dân và vì dân thực sự.
Nền kinh tế - chính trị này hiện đang gặp phải những thách thức nghiêm
trọng nội bộ, đòi hỏi một sự cải tổ rộng lớn nhằm đáp ứng các vấn nạn
mang tính cốt lõi của những giá trị cổ điển, đã được một số học giả
phương Tây nêu ra nhưng chưa có giải pháp nhằm giảm chênh lệch
giầu-nghèo ngày càng tăng, và để toàn dân tham gia trực tiếp vào việc
quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống hàng ngày của họ, chứ
không chỉ gián tiếp qua các tranh chấp đảng phái.
Samuel Hungtington trong cuốn sách nổi tiếng, Sự Va Chạm Giữa Các Nền Văn Minh (The Clash of Civilizations),
nhận xét: “...hình ảnh của một nền văn minh [phương Tây] đang suy
thoái, miếng bánh kinh tế, chính trị và quân sự của nó trên thế giới
đang giảm xuống so với các nền văn minh khác. Chiến thắng của phương Tây
trong Chiến tranh Lạnh không mang lại vinh quang mà là một sự mệt mỏi.
Phương Tây ngày càng phải quan tâm đến các vấn đề và nhu cầu nội bộ khi
phải đối mặt với tăng trưởng kinh tế chậm, dân số dậm chân tại chỗ, thất
nghiệp, thâm hụt ngân sách chính phủ khổng lồ, suy giảm đạo đức nghề
nghiệp, tỉ lệ tiết kiệm thấp. Phân rẽ xã hội, ma tuý và tội phạm xuất
hiện ở nhiều nước, kể cả Hoa Kỳ.” (2) Ông lập luận, “Sự bành trướng của
phương Tây [ra khắp thế giới] có phần thuận lợi nhờ tính tổ chức, kỷ
luật và việc huấn luyện quân đội của họ, cộng với ưu việt về vũ khí, vận
tải, hậu cần - kết quả của Cách mạng Công nghiệp. Phương Tây chinh
phục địa cầu không phải vì tính siêu việt của ý tưởng hay giá trị hoặc
tôn giáo, mà nhờ vũ lực được tổ chức tốt. Người phương Tây thường
quên điều này.” (3) Nhận định đó cho thấy, nhờ kỹ thuật siêu đẳng, sức
mạnh quân đội và vũ khí ưu việt mà họ chinh phục cả thế giới - trước kia
bằng quân sự, ngày nay bằng kinh tế.
Năm 1992, trong cuốn The End of History and the Last Man, Francis
Fukuyama cho rằng lịch sử đã kết thúc với chiến thắng của nền văn hoá
phổ quát Tây phương. Phải chăng, thế giới sẽ tiếp thu hình mẫu kinh tế,
giáo dục phương Tây mà văn hoá phương Tây sẽ thành phổ cập? Huntington
cho rằng các quốc gia thuộc các nền văn minh khác muốn hiện đại hoá,
nhưng không muốn Tây phương hoá. Chẳng hạn, “Hồi giáo và hiện đại hoá
không xung đột nhau. Những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo có thể theo đuổi
khoa học, làm việc ở nhà máy hay sử dụng những công cụ hiện đại. Hiện
đại hoá không đòi hỏi một hệ tư tưởng chính trị hay hệ thống thể chế
nào: bầu cử, ranh giới quốc gia, các hiệp hội dân sự, những dấu ấn của
đời sống phương Tây không nhất thiết bắt buộc phải có để kinh tế phát
triển.” (4) Hay “Khả năng các xã hội khác chấp nhận sự chỉ đạo hay tuân
theo những lời giáo huấn của phương Tây đang ngày càng mất đi nhanh
chóng, cũng như sự tự tin và mong muốn thống lĩnh của phương Tây.” (5)
Huntington cho rằng Fukuyama đã kết luận quá sớm. Ông nhận thấy sau khi
Liên Xô sụp đổ, dân chủ tự do chiến thắng, nếu kết luận các nước thuộc
văn minh Hồi, Ấn, Hoa sẽ ôm chầm lấy chủ nghĩa tự do của phương Tây, là
một quan niệm sai lầm. Ngược lại, các nền văn minh được phân biệt bằng
lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống, và quan trọng nhất là tôn
giáo, đang có những va chạm với nhau. Ông cho rằng nguồn gốc của những
mâu thuẫn trong thế giới mới (sau Chiến tranh Lạnh) sẽ không chủ yếu
xoay quanh vấn đề hệ tư tưởng hay kinh tế, mà sự chia cách lớn của xã
hội loài người và nguồn gốc cơ bản của mâu thuẫn sẽ nằm ở yếu tố văn
hóa… Khác biệt văn minh sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong tương lai
và thế giới sẽ được sắp xếp thông qua tương tác giữa tám nền văn minh
lớn: Phương Tây, Khổng Tử, Nhật Bản [ông cho Nhật là văn minh thuộc về
một quốc gia], Hồi Giáo, Hindu, Chính thống, Mỹ La tinh, và có thể cả
văn minh châu Phi (6). Khó có thể có một nền văn minh thuần nhất, phổ
quát như phương Tây mong muốn.
Huntington nhận định rằng mâu thuẫn quan trọng nhất trong tương lai sẽ
diễn ra ở ranh giới phân chia các nền văn minh vì những nguyên nhân
sau:
“Thứ nhất, khác biệt trong các nền văn minh không chỉ tồn tại thực, mà còn rất cơ bản… Con người thuộc các nền văn minh có cách nhìn khác nhau
về Thượng đế và con người, cá nhân và nhóm, công dân và nhà nước, cha
mẹ và con cái, chồng và vợ, những nhìn nhận về tầm quan trọng của quyền
lợi và trách nhiệm, tự do và luật pháp, bình đẳng và cấp bậc. Những khác
biệt là sản phẩm của nhiều thế kỷ lịch sử, sẽ không sớm biến mất. Những
khác biệt này cơ bản hơn nhiều so với những khác biệt về hệ tư tưởng và
bộ máy chính trị. Những khác biệt không nhất thiết có nghĩa mâu thuẫn,
và [dù] mâu thuẫn không nhất thiết mang nghĩa bạo lực. Mặc dầu vậy, qua
nhiều thế kỷ, những khác biệt văn minh đã tạo ra những mâu thuẫn bạo lực
kéo dài chưa từng có.
“Thứ hai, thế giới đang trở nên chật chội hơn. Những tương tác giữa con
người thuộc các nền văn minh khác nhau ngày càng tăng, nhấn mạnh đến ý
thức văn minh, sự khác biệt giữa các nền văn minh và tương đồng của các
nền văn minh. Người Bắc Phi di cư đến Pháp tạo ra sự thù địch của người
Pháp và cùng lúc tạo ra sự chấp nhận của những người theo đạo Thiên Chúa
châu Âu ‘tốt bụng’. Người Mỹ phản ứng tiêu cực hơn nhiều với đầu tư của
Nhật Bản so với đầu tư từ Canada và châu Âu.
“Thứ ba, các quá trình hiện đại hoá kinh tế và thay đổi xã hội trên thế
giới đang tách con người khỏi những đặc điểm địa phương đã tồn tại từ
lâu đời. Những quá trình này cũng làm suy yếu các quốc gia với vai trò
là nguồn gốc tạo ra sự đa dạng. Trên thế giới, tôn giáo đang dần san lấp
khoảng trống này, thường là dưới dạng phong trào nền tảng
(Fundamentalist). Những phong trào như vậy xảy ra đối với đạo Cơ đốc,
đạo Do Thái, đạo Phật, đạo Hindu, và cả đạo Hồi.
“Thứ tư, sự tăng cường ý thức văn minh được củng cố bởi vai trò kép của
phương Tây. Một mặt, phương Tây đứng trên đỉnh quyền lực. Mặt khác, xu hướng trở về cội nguồn đang xảy ra ở những nền văn minh phi phương Tây. Càng ngày chúng ta càng nghe nhiều những điều hướng nội
như ‘Châu Á hoá’ ở Nhật Bản, ‘Hindu hoá’ ở Ấn Độ, sự thất bại của tư
tưởng phương Tây về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa dân tộc, và do đó là sự
tái sinh của chủ nghĩa Hồi giáo ở Trung Đông... Phương Tây đang đối mặt
với mong muốn lập lại trật tự thế giới theo cách phi phương Tây ở những
nơi khác [ngoài phương Tây]…
“Thứ năm, đặc điểm và những khác biệt văn hoá càng ít biến đổi và do vậy càng khó thỏa hiệp và giải quyết hơn
so với những đặc điểm chính trị và kinh tế. Trong Liên bang Xô Viết cũ,
người thuộc phe cộng sản có thể trở thành người thuộc đảng dân chủ,
người giầu có thể thành người nghèo, nhưng người Nga không thể biến
thành người Estonia, và người Azeria không thể biến thành người Armenia.
Trong mâu thuẫn về tầng lớp và hệ tư tưởng, câu hỏi chủ đạo là, ‘Anh
thuộc phe nào?’. Người ta có thể chọn và thay đổi phe mình muốn. Nhưng
trong mâu thuẫn về văn minh, câu hỏi là, ‘Anh là cái gì?’… Thậm chí cao
hơn vấn đề chủng tộc, tôn giáo phân biệt rất sâu sắc giữa người với
người. Một người có thể mang nửa dòng máu Pháp, nửa Ả-rập và cùng lúc là
công dân của cả hai quốc gia. Nhưng rất khó để vừa theo đạo Cơ đốc, vừa
theo đạo Hồi.
“Cuối cùng, chủ nghĩa khu vực kinh tế ngày càng phát triển. Tỉ lệ
thương mại nội khối từ năm 1980 đến 1989 tăng lên từ 51% lên 59% ở châu
Âu, tăng từ 33% lên 37% ở Đông Á, và từ 32% lên 36% ở Bắc Phi. Tầm quan
trọng của các khối kinh tế có xu hướng gia tăng trong tương lai. Một
mặt, chủ nghĩa khu vực kinh tế thành công sẽ đẩy mạnh ý thức văn minh.
Mặt khác, chủ nghĩa khu vực kinh tế sẽ chỉ thành công nếu xuất phát từ
nền văn minh chung. Cộng đồng châu Âu tồn tại dựa vào sự tương đồng văn
hóa và Cơ đốc giáo phương Tây. Thành công của Khu vực tự do Thương mại
Bắc Mỹ phụ thuộc vào sự hội tụ văn hóa của Mexico, Canada và Mỹ. Nhật
Bản, trái lại, đang phải đối phó với những khó khăn khi xây dựng một
thực thể kinh tế ở Đông Á bởi vì Nhật Bản là một xã hội và nền văn minh
độc nhất…”
Những nhận định của Hungtington về sự va chạm hay xung đột giữa các nền
văn minh có những điểm đáng chú ý, được in nghiêng bên trên:
1. Phương Tây chinh phục thế giới không phải vì tính siêu việt của ý
tưởng hay giá trị hoặc tôn giáo, mà nhờ những điều khác như biết cách tổ
chức, tiến bộ kỹ thuật và vũ lực ưu việt.
2. Con người thuộc các nền văn minh luôn có cái nhìn khác nhau, từ
thượng đế đến con người và xã hội, ngay cả những nhìn nhận về tầm quan
trọng của quyền lợi và trách nhiệm, tự do và luật pháp, bình đẳng và cấp
bậc. Qua tương tác với nhau, người ta nhận ra sự khác biệt và tương
đồng giữa các nền văn minh.
3. Những khác biệt về văn hoá, nhất là những văn hoá ít biến đổi, khó
thoả hiệp và giải quyết với nhau hơn so với khác biệt về chính trị và
kinh tế.
4. Xu hướng trở về cội nguồn hay hướng nội đang diễn ra ở những nền văn minh phi phương Tây.
5. Chủ nghĩa khu vực kinh tế đang lớn mạnh.
Những nhận xét này rất quan trọng vì chúng nêu rõ được các nguyên nhân
tạo ra xung đột giữa các nền văn minh, và phần nào gợi ý hướng giải
quyết.
Sự phân chia một cách đơn giản các quốc gia thời Chiến tranh Lạnh thành
ba khối - thế giới thứ nhất, thứ hai và thứ ba không còn phù hợp nữa, mà
là nhiều nền văn minh chung đụng và va chạm nhau, có thể trở thành xung
đột lớn nếu nền văn minh phương Tây tiếp tục thống lĩnh thế giới, cho
mình là thượng đẳng, tìm cách truyền bá chủ nghĩa tự do phương Tây (chủ
nghĩa cá nhân, chính trị đảng tranh) và nền kinh tế tư bản dựa trên lợi
nhuận tối đa bằng lòng tham, bất chấp sự khác biệt cần được tôn trọng từ
các nền văn minh phi phương Tây như Huntington nhận định. Các cuộc
khủng bố sẽ vẫn tiếp tục và ngày càng man rợ, khốc liệt hơn nhắm vào Tây
phương. Làn sóng di dân bằng chân từ các nước nghèo sang các nước giầu
sẽ không có hướng giải quyết triệt để. Không thể để cảnh Mỹ đổ quân vào
Đà Nẵng năm 1965, bất chấp chủ quyền và sự chấp thuận của chính phủ Nam
Việt Nam tái diễn. Huntington viết, “Năm 1919, Woodrow Wilson, Lloyd
George và Clemanceau cùng nhau thống lĩnh thế giới. Ngồi tại Paris, họ
quyết định nước nào sẽ tồn tại, nước nào sẽ diệt vong, nước nào mới sẽ
được tạo ra, biên giới của nó thế nào và ai sẽ cai quản chúng, và phương
cách phân chia Trung Đông và các khu vực khác của thế giới giữa những
kẻ chiến thắng. 100 năm sau đó, sẽ không có một nhóm nhỏ các nguyên thủ
quốc gia nào có thể có được những sức mạnh tương tự…” (7)
Cũng vậy, thế giới không thể chung sống hoà bình nếu Trung cộng tiếp tục
cho mình là trung tâm, nước lớn, khinh thường các nước nhỏ, hoặc quấy
nhiễu các nước khác qua ưu thế vũ lực hay lừa đảo qua bẫy nợ kinh tế. Họ
bành trướng thế lực quốc tế không qua giao thương bình đẳng nhưng bằng
mua chuộc, lũng đoạn, dọa nạt. Trung cộng phải trả lại quyền tự quyết
cho các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng và dẹp bỏ lá cờ năm sao của mình.
Dù là các nước nhỏ, Trung cộng cũng phải tôn trọng, không thể xâm lăng
bằng võ lực như trước kia hay ngày nay bằng kinh tế, đồng thời phải
ngưng bành trướng qua chính sách diệt chủng và đồng hoá, đưa người Hán
sang sinh sống ở những vùng mà họ chiếm đóng.
Khi các nền văn minh có cái nhìn khác nhau về các vấn đề của cuộc sống,
của xã hội và khó có thể thoả hiệp với nhau, điều đó có nghĩa nhân loại
phải tôn trọng những khác biệt đó, không thể hành xử theo tư duy lối
sống của ta là đúng, của người là sai, rồi tìm cách mở rộng ảnh hưởng
bằng quân sự hay kinh tế, hoặc kêu gọi thiết lập thế giới đại đồng bằng
cách loại bỏ biên giới dân tộc. Tất cả các cách trên đều bị phản ứng,
nếu không thấy được thế giới đa chủng tộc, đa văn minh nhưng duy nhất
một loài người. Ai cũng được quyền sống và tôn trọng như nhau. Cách hành
xử nước lớn hay đàn anh đều bị chống đối. Chương cuối cuốn sách, ông
kết luận, “Trong kỷ nguyên sắp tới, va chạm giữa các nền văn minh là mối
đe dọa lớn nhất cho nền hoà bình thế giới. Một trật tự quốc tế dựa trên
các nền văn minh là một bảo đảm chắc chắn nhất chống lại chiến tranh
thế giới.”
Một nhận định khác nữa Huntington nêu ra là phong trào trở về nguồn và
kinh tế khu vực đang lớn mạnh. Sau khi bị tuyên truyền xây dựng thế giới
đại đồng kiểu cộng sản, một nửa nhân loại đã thức tỉnh, chối bỏ phương
thức này để quay lại với những giá trị cổ truyền bị đứt quãng trong giai
đoạn cộng sản cai trị. Họ nhận thấy rằng không thể hy sinh những giá
trị truyền thống dày công xây dựng của tổ tiên cho mơ ước một đại đồng
viển vông.
Cũng vậy, sau khi khối cộng sản sụp đổ, Mỹ trở thành cường quốc duy
nhất, một vài trí thức Hoa Kỳ tin rằng chủ nghĩa tự do đã thắng, nhân
loại sẽ ôm chầm lấy nó mong hiện đại hoá nhanh chóng cho giống Tây
phương. Huntington cho rằng đây là quan điểm sai lầm. Văn minh phương
Tây đang bị các nền văn minh khác cưỡng lại, một phần vì nó tràn vào như
nước vỡ bờ qua các thương nhân tìm kiếm lợi nhuận khắp nơi, phá vỡ nếp
sống bình dị truyền thống ngàn đời của các dân tộc không thuộc văn minh
phương Tây. Ông nhận xét, “Thông tin liên lạc toàn cầu là một trong
những biểu hiện của sức mạnh đương thời của phương Tây. Sự bá chủ này
của phương Tây tuy thế đã khuyến khích các chính trị gia đại chúng ở
những xã hội ngoài phương Tây lên án chủ nghĩa đế quốc, văn hoá phương
Tây và tập hợp dân của họ để bảo vệ sự sống còn và toàn vẹn văn hoá của
họ.” (8) Họ muốn hiện đại hoá nhưng vẫn giữ lấy văn hoá cổ truyền của
mình. Ông viết, “Đâu đó ở Trung Đông, vài thanh niên mặc quần Jeans,
uống Coke, nghe nhạc rap, vẫn hành hương đến Mecca và đang chế tạo bom
để làm nổ tung máy bay hành khách của phương Tây. Trong thập niên 1970
và 1980, người Mỹ mua hàng triệu ôtô, TV, máy ảnh và hàng điện tử của
Nhật mà vẫn không bị ‘Nhật hoá’, ngược lại, đang đối địch với Nhật lúc
đó. Chỉ có sự ngạo mạn ấu trĩ mới khiến người phương Tây nghĩ rằng những
người ngoài phương Tây sẽ bị ‘phương Tây hoá’ một khi dùng hàng hoá
phương Tây. Thế giới nghĩ gì về phương Tây nếu người phương Tây xác định
bản sắc văn minh của mình bằng những thứ nước làm người ta quay cuồng,
bằng những chiếc quần mài bạc thếch và bằng những món ăn làm người ta
mập phì?” (9)
Việt Nam phải nhanh chóng nhìn thấy xu hướng chung đó mà chối bỏ chủ
thuyết Mác-Lê lỗi thời, trở về nguồn với đạo thống Tiên Rồng như các
quốc gia khác để xây dựng nội lực, mới mong có thể tiến ra biển lớn,
tranh đua cùng thiên hạ.
Chú thích:
(1) Samuel Huntington (1996), The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, Simon and Schuster, trang 37 của bản dịch tiếng Việt online, Sự Va Chạm Của Các Nền Văn Minh, Nguyễn Phương Sửu thay mặt nhóm dịch giả.
(2) Samuel Huntington. Sách đã dẫn, trang 44.
(3) S. Huntington. Sđd, trang 23. Những chỗ in nghiêng không có trong sách, chúng tôi in nghiêng là để nhấn mạnh
(4) S. Hungtington. Sđd, tr. 41.
(5) S. Hungtington. Sđd, tr. 44.
(6) S. Hungtington. Sđd, tr. 20.
(7) S. Hungtington. Sđd, tr. 51.
(8) (9) S. Hungtington. Sđd, tr. 51.
03.01.2020
No comments:
Post a Comment