Thursday, April 6, 2017
NGUYỄN MINH HÙNG * NỖI NIỀM MANG THEO
Nỗi niềm mang theo
Nguyễn Minh Hùng
Tôi xếp đôi tấm giấy ra trại đút vào túi áo sơ mi trước ngực, gài kim
tây cẩn thận, xong ngước lên ra vẻ chăm chú nhìn vị đại diện nhân dân
trãi lòng trên trang giấy nhắn nhủ đến đám người cải tạo vừa được chính
quyền cách mạng cho về xum họp với gia đình đang ngoan ngoãn im lặng
ngồi xổm dưới đất đối diện dãy bàn dài có 5 cán bộ mặc thường phục và
quân phuc nhìn xuống, với sự chứng kiến của hàng trăm người dân đứng bao
quanh trong sân trường Tiểu học.
Bóng ngã về chiều, bảy người chúng tôi mang túi hành trang lầm lủi theo
sau vị trưởng công an xã đến bến đò về quê sau buổi lể “trả tự do” kéo
dài hàng giờ với tất cả những ngôn từ đẹp đẽ mà các cán bộ chính quyền
“Cách mạng” gởi đếngởi đến những người đã được chứng nhận cải tạo tốt và
nhắn nhủ phải tiếp tục phấn đấu tuân thủ luật pháp dưới sự giám sát
chăm sóc của xã hội và nhân dân! Dĩ nhiên chúng tôi cũng có người đaị
diện đáp từ tri ân chính sách khoan hồng của chính quyền cách mạng và
hứa sẽ lột bỏ quá khứ hết lòng hoàn thiện để trở thành công dân nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Đúng ra những người tù được thả phải mang tâm
trạng vui mừng hạnh phúc sau bao năm tháng đọa đày kềm kẹp trong vòng
rào kẻm gai hay trong những bức tường kín cổng tối tăm, và hạnh phúc sẽ
được nhân lên trong vòng tay trìu mến của tình thiêng liêng gia đình anh
em cha mẹ và một bầu trời tự do mở rộng. Nhưng ngay sau niềm vui bất
chợt được gọi tên trả tự do, khi từ giã bạn tù, bước chân rời vòng kẽm
gai cuối cùng với túi hành trang lẻ loi vẫn là một tâm trạng chua xót
tủi hờn cùng hiện thực là mối đoe dọa, khủng bố canh cánh không rời của
bộ đội vũ trang áp tải xuống tàu (sợ nhân dân giết hại trả thù ?), sao
kỳ vậy, trả tự do rồi mà…! Và hiện thực trên ánh mắt trĩu nặng âu lo,
toan tính của người dân với môi trường sống đổi thay cùng cực, thay cho
những nụ cười rạng rỡ bình thường trước đây tay mắt mặt mừng, khi tiếp
nhận ánh mắt và nụ cười ngượng ngập chúc mừng của vài người thân quen
trên con đò chiều đưa tôi về xóm nhỏ ven sông. Nỗi buồn dâng lên theo
con nước lớn…!
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã.
Cũi một cành khô lạc mấy dòng.
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã.
Cũi một cành khô lạc mấy dòng.
HC
Lẳng lặng lấy tờ giấy ra trại xem lại, có gì đó nặng trĩu trong lòng với
tờ giấy khổ rộng bằng bàn tay, có màu ngà sần sùi, với hàng chữ đánh
máy trồi sụp và con dấu lem luốt mờ mờ không rỏ, từ Ty công an tỉnh Hậu
Giang (Cần Thơ...Cấp cho: Tên…NMH, Cấp bậc: không, Chức vụ: Khóa sinh Sĩ
quan Công an ngụy, đã cải tạo từ ngày…đến ngày….
Thật sự chỉ là mảnh giấy chứng nhận trả tự do cho một thằng tù (hạng
bét), thế mà cũng lể lộc trịnh trọng, đúng là người CS hành xử khôi hài,
họ thích phô trương hình
hình thức hóa những sự kiện tầm thường thành lố bịch, trơ trẽn dưới mắt
người dân. Đối với người CS sự nhận thức là rào cản cho mọi hành động
cụ thể của duy vật biện chứng, cứu cánh biện minh cho phương tiện, lễ
lộc trịnh trọng phô trương nhằm mục đích khẳng định thành tích cá thể
trong bộ máy quyền lực và sự tuân phục đồng tình hay không của người dân
là yếu tố xác định tinh thần đó, bất cứ môi trường nào, đẳng cấp nào họ
đều thể hiện tư duy kiêu ngạo cộng sản (muốn làm gì cũng được, ta đã
đánh thăng mọi kẻ thù)
Không biết ngày giờ này có thằng bạn nào
trong số 400 thằng “khóa sinh Sĩ quan Công an ngụy” (K10) cầm trên tay
tờ giấy giống như của mình hay không, chắc có và cũng có thể bi đát hơn
(tôi thầm nghĩ). Sau ngày bức tử tang thương, chúng tôi như những chiếc
lá khô bay tan tác theo cơn gió chiều hoàng hôn, không thể chấp vá trong
cuộc đời cuồng loạn khi chính quê hương thân yêu đã bức rời vòng tay
ôm ấp bởi bạo lực phi nhân. Quê hương đã một lần trân trọng chúng tôi,
những người con yêu từ mọi nẽo đường đất nước, từ những giảng đường Đại
học, lên đường theo tiếng gọi non sông bằng tâm huyết và lý tưởng trong
sáng, trừ bạo an dân, tiêu trừ cộng phỉ. Định mệnh áp đặt nghiệt ngã,
phũ phàng, khi ta cố miễn cưỡng chấp nhận sự thật mất mát ngỡ ngàng cho
đến hôm nay và có thể suốt cả cuộc đời này khi hoài niệm luôn hiện hữu,
ta đưa tay lên là nắm bắt được quá khứ xót xa, như món quà tinh thần của
thượng đế….! Trong cơn hồng thủy cuộc đời, trong nổi đắng cay tù tội,
tôi lại có tư tưởng lạc quan, suy diễn và thẩm thấu ý nghĩa của tự
nhiên, tôi đã gặp người đồng cảm, đó là một anh TS.1 Quân Cảnh (chừng
dưới 40 tuổi), anh thiền và có những tư tưởng rất hay, gần với triết lý
nhà Phật và trường phái Krisnamurti, anh an ủi tôi, hướng dẩn tâm thức
tồi chấp nhận…tự nhiên, hưởng ứng, đồng thời chiêm nghiệm hiện thực,
ngày mai sẽ không còn nữa, nổi khổ không thể nhân đôi khi ta chấp nhận
làm quen và triệt tiêu tự nhiên trong tâm thức, tâm thức vô cảnh giới,
không là tuyệt cùng.
Tôi vẫn lạc quan như ngày cuối cùng ở
Học Viện, bởi tự nhiên trong vô thức tôi đã quyết định bất ngờ khi dẩn
cả hai Tiểu đội bỏ vị trí phòng thủ (GTH) sau nhà ĐT Viện Trưởng và vườn
mía CLB để về cao ốc đại đội, trể chừng vài phút không biết hậu quả sẽ
thê lương cỡ nào với pháo cường tập của CS cày xới tan hoang. Chạy qua
khỏi CLB, anh Đông (GS Sử Địa) kéo tay tôi :
- Hùng .. anh khát nước quá, anh em mình vào CLB kiếm nước uống đi.
- À được, em cũng khô cổ quá...
Chúng tôi trở lại CLB trong tiếng pháo nổ chụp rầm trời khắp nơi, khói tỏa mịt mù. Anh Đông nhìn tôi hỏi :
- Hùng có sợ không …?
- Chưa đến nổi… tè trong quần anh à …
Anh
Đông cười sằng sặc. Chúng tôi bước vào CLB vắng hoe, hình ảnh đầu tiên
đặp vào mắt chúng tôi là một ông đàn em K11 (chưa có Alfa) đang ngồi
trên ghế chăm chú gặm một cục xương phở bò to tướng với trạng thái bình
thản lạnh lùng, dường như mọi diễn biến chung quanh và thế giới này
không… mắc mớ gì đến anh ta (thật khâm phục). Tôi đổ đầy bi đong trà
nguội lạnh sau khi uống một bụng, trong kia anh Đông kêu lên: “Hùng ơi
trong này có thau hột é, lười ươi quá đã nè, vào đây… " Tôi lại đổ bỏ bi
đong trà để đong đầy hột é mát lạnh. Rồi chúng tôi chạy về cao ốc Đại
đội để hơn một giờ sau… tan hàng…!
Chuyến đò chiều đưa tồi về
với gia đình, đoàn tụ ba má và các em tôi, vì là xã nhỏ, nên mọi sinh
hoạt của người dân đều không qua được những cặp mắt dò xét của bọn VC và
lũ điếu đóm “cách mạng ba mươi”, vài thằng bạn tiểu học ngày xưa theo
VC, nay nhìn lại nhau với đôi mắt diều hâu lạnh lùng, cùng những đêm dài
khó ngủ với cái loa phóng thanh oang oang ca tụng công đức Hồ Chí Minh
và đảng CSVN quang vinh, anh hùng, và ra rả sỉ vả bọn “bán nước" ngụy
quân, ngụy quyền thậm tệ…! Tinh thần khủng bố bao trùm toàn xã, trên mọi
sinh hoạt vốn nghèo nàn nay lại càng xác xơ hơn, trên những ánh mắt
người dân cúi gằm lo sợ cho hiện tại và ngày mai, vì khi VC mới vào
“tiếp thu” họ đã trả thù tức khắc bằng phát đạn vào tim giết chết một
ông trưởng ấp ngay tại xóm chợ và gần một năm sau chúng đã xử tử Bác năm
Xã Trưởng (Võ Thành Nhơn) ngay trong lúc đang cải tạo chung với tôi
(Bác có người em là Trung Tá Võ Thành Quân, Phi đoàn trưởng trực thăng ở
Cần Thơ). Phải buồn mà xác định thực trạng miền Nam thời điểm tiền CS
đã thay đổi toàn diện, phá vỡ cấu trúc vững chắc tích cực của nền tảng
xã hội miền Nam đã xây dựng qua bao thời kỳ khó khăn để cố hoàn thiện
theo thế giới ngày càng văn minh. Ý thức hệ không gây chia rẽ Dân tộc mà
chính bom đạn, chém giết sát hại nhau kéo dài cuộc chiến đã nuôi dưỡng
hận thù đầy ấp trong huyết quản của người VN. Thử hỏi thằng du kích,
Cộng sản là gì, từ đâu ra, nó không trả lời được, nhưng nó biết bản thân
nó là VC, cầm súng bắn Mỹ, Ngụy…trả thù cho cha nó, đơn giản vậy thôi…!
Hận thù được tôn vinh trong cách đối xử với chúng ta ở đời thường, nên
tinh thần thủ ác được hành xử trọn vẹn bởi người CS trả thù xương máu…!
Chúng
tôi vẫn thỉnh thoảng được triệu tập để nghe chính quyền xã thuyết trình
chính sách mới, hay phân bố công tác toàn xã lao động (gọi là lao động
XHCN ) v.v... Cũng là mục đích tập trung quản chế thành phần ngụy quân
ngụy quyền một cách chặt chẽ. Cho đến một vài năm sau tinh thần sợ hãi
vẫn tác động lên đời sống hằng ngày của chúng tôi, có những cách ngăn
định hình hay vô hình tạo nên thảm trạng đổ vỡ tâm lý trên bình diện xã
hội nhỏ bé. Tâm lý sợ hãi tiết ra nỗi ám ảnh mông lung, như… tiếng bước
chân vội vã trong đêm trường vắng lặng, tiếng chó sủa văng vẳng đầu
làng, cả tiếng dừa khô rụng bình bịch gần kề đâu đó… cũng làm kẻ thua
cuộc thót tim..!.
Tôi thường nghĩ và nhớ đến bạn bè đồng ngủ K10
của tôi sau ngày đất nước vỡ tan, họ tan tác nơi nào, có bình yên hay
không, nhất là những bạn miền Trung chắc phải gặp nhiều khó khăn hơn
trên chặng đường xuôi ngược tìm về đất sống bên gia đình người thân.
Thỉnh thoảng trong giấc ngủ mộng mị mông lung tôi vẫn nghe văng vẳng bên
tai... “Ta như nước dâng, dâng tràn không bao giờ tàn… Máu từ thành Văn
Lang dồn lại…" hay “Trên đầu súng Quê hương Tổ quốc đã vươn mình…” Các
bạn đó, những đứa con ưu tú của Tổ Quốc ngạo nghễ vào đời, trọn vẹn
được định danh SVSQ/ K10/ HVCSQG, dù bất cứ ở phương trời nào chúng ta
cũng nhớ về nhau, một thời đã có nhau nơi HV/CSQG
Tâm tình này tha thiết gởi đến các bạn.
Nguyễn Minh Hùng (K10)
TRIỆU PHONG * TRUYỆN VƯỢT BIÊN
Trong lịch sử vượt biển của Thuyền Nhân Việt Nam tới trại tị nạn
Palawan-Philippines, có lẽ tàu của tôi là lớn và chở đông người nhất bởi
tàu của tôi dài tới mười chín mét chở hai trăm bốn mươi sáu người gồm
đủ cả nam phụ lão ấu, tấp đảo El Nido vào ngày Bốn tháng Sáu năm 1989
khiến cho đảo này trở nên nhộn nhịp, ồn ào suốt ngày đêm trong khoảng
thời gian chúng tôi lưu lại đó vì vậy chúng tôi được gọi là người của
Group 246 El Nido.
Tôi còn nhớ ngày ấy dân chúng và chính quyền trên đảo đã hoảng hồn khi
đưa "cào cào*" ra để đón chúng tôi vào bờ vì số người cứ liên tục từ các
hầm tàu chui lên mãi khiến họ vô cùng vất vả để vận chuyển. Do người
quá đông nên Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thường được gọi tắt là UNHCR
(The United Nations High Commissioner for Refugees) đã phải phối hợp với
chính quyền địa phương cho chúng tôi ở tạm trong một ngôi trường tiểu
học và họ rất khó khăn để đếm chính xác con số thuyền nhân của tàu vì
người ta cứ đi lung tung không thể nào kiểm soát được. Đầu tiên họ tổng
kết có hai trăm năm mươi tám người cả thảy, dần dà con số này thụt xuống
từ từ cho đến cuối cùng là còn lại hai trăm bốn mươi bảy người. Lúc đó
ai cũng tưởng thế là xong và yên chí là tàu mình chở từng ấy người nhưng
khi về tới trại tị nạn PFAC (The Philippine First Asylum Camp) sau cả
tháng trời làm giấy tờ, làm ID...thì mọi người mới té ngửa ra là chỉ có
hai trăm bốn mươi sáu mà thôi! Bởi chỉ tới khi Cao Ủy cho nhân viên Ban
An Ninh đi lùng sục tìm một người bị mất tích thì mới phát giác ra anh
Nguyễn Văn Giàu còn có thêm một tên khác nữa là Trần Văn Sang. Anh bảo
anh khai thế để được lãnh hai phần lương thực cho chắc ăn!
El Nido là một đảo lớn, đẹp nằm cách thủ phủ Puerto Princesa của tỉnh
Palawan hai trăm ba mươi tám cây số tức khoảng một trăm bốn mươi tám dặm
về hướng Đông Bắc với hai mùa mưa nắng. Người dân ở đây hiền hoà, hiếu
khách, có một đời sống thanh bình đa số theo nông nghiệp, ngư nghiệp và
du lịch. Họ đã giúp đỡ, tiếp đón người tị nạn chúng tôi hết sức niềm nở
và chân tình cho đến ngày chúng tôi rời đi.
Ngày đầu tiên đến trại chúng tôi được đưa vào barrack. Đây là những ngày
chật vật, khốn khổ về vấn đề vệ sinh và ăn ngủ do số người quá đông.
Mỗi lần cần phải xài nhà cầu là cả một cực hình với tôi vì phân và nước
tiểu đã tràn đầy ra tới bên ngoài không thể bước vào trong được.
Sáng sớm một hôm tôi thấy một người đàn ông tây phưong dẫn theo một toán
An Ninh Việt Nam vô barrack đi thẳng tới nhà cầu. Ông ta mở toang cánh
cửa mặc cho mùi hôi thúi xông lên và ruồi muỗi bay loạn xạ ra ngoài, đưa
tay chỉ vào đó ông la hét dữ dội. Rồi tôi thấy mấy người an ninh đi ra
giếng múc nước vào cùng ông ta rửa dọn nhà cầu! Thờì đó tiếng Anh tôi
chỉ biết bập bẹ nên chẳng hiểu ông ta nói gì nhưng nhìn dáng vẻ giận dữ
của ông ta tôi vô cùng xấu hổ cho sự ăn ở kém văn minh và thiếu ý thức
của người Việt mình. Tuy nhiên suy cho cùng thì barrack nhỏ so với số
người quá đông như vậy và lại giữ người ta quá lâu nên vấn đề mất vệ
sinh là chuyện không tránh khỏi mà thôi. Lúc đó do tin đóng cửa đảo
trong vùng Đông Nam Á khiến ai cũng cố gằng tìm cách vượt thoát lần cuối
cùng hơn nữa chính phủ Việt Nam biết rằng rồi ra họ sẽ bị trả về dù có
tới được các đảo nên chẳng thèm chận bắt chi nữa. Đó là hai nguyên nhân
chính làm cho dân số vượt biên nơi các trại tị nạn Đông Nam Á đột ngột
tăng vọt. Chỉ tính riêng trại PFAC không thôi, thời điểm ấy dân tị nạn
trong trại đã hơn mười ngàn người. Đó là một con số kỷ lục chưa bao giờ
có ở đây từ ngày thành lập trại tị nạn đến giờ. Sự quá tải này đưa đến
nhiều vấn nạn khó khăn đau đầu cho Cao Uỷ, chính quyền sở tại lẫn người
tị nạn. Nhưng dẫu sao tôi vẫn cảm kích hành động lo lắng cho dân tị nạn
ấy của ông nên lân la tìm hiểu thì mới biết đó là Cao Uỷ Trưởng của
trại, Ông Jan Top Christensen, người Đan Mạch (Denmark.)
Đối với tôi chờ đợi là một cực hình nên những ngày sống tại đây thật là
dài và khủng khiếp! Lần này vì chỉ đi có một mình nên dù mừng là đã
thoát khỏi chế độ cộng sản nhưng tôi vẫn không tránh khỏi cảm giác buồn
bã do nỗi cô đơn tràn ngập. Nhiều hôm tôi đứng lặng hằng giờ ngoài sân
barrack trong một góc dưới bóng râm mát nào đó và đưa mắt nhìn mọi
người, mọi vật một cách bỡ ngỡ, đầy lạ lẫm. Cũng như quê tôi, nhà ở Phi
cũng được lợp bằng lá dừa. Trên gác thì cửa sổ được trổ qua nóc nhà và
dùng một cây (que) nhỏ để chống lên khi mở. Trời mưa thì chỉ cần lấy cây
chống ra, hạ cửa xuống thì chỉ còn thấy một mái lá bằng phẳng, thật đơn
giản!
Group của tôi có một cặp trai gái lúc nào cũng quấn quít bên nhau không
rời nửa bước. Họ luôn nắm tay hoặc ôm nhau một cách tình tứ, thỉnh
thoảng họ đưa nhau vào chỗ vắng và hôn nhau nồng nàn say đắm. Người
thanh niên trạc tuổi tôi, người con gái nhỏ hơn độ vài tuổi. Cả hai đều
đẹp tựa Phan An, Tống Ngọc. Thật là xứng đôi vừa lứa! Sau này tôi được
biết người con trai tên Trung còn cô gái là Hương. Cả hai đều có cha là
trung tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang học tập cải tạo ngoài Bắc.
Họ quen nhau qua các chuyến đi thăm nuôi rồi yêu nhau. Hai gia đình sau
đấy đã đính ước chuyện vợ chồng cho cả hai và quyết định cho họ đi vượt
biên để mong đổi phận "con Ngụy." Thảo nào mà cả hai chẳng thương nhau
là thế!
Trong lúc đó thì tại cửa và ở trong ngoài hàng rào của barrack lúc nào
cũng có người đứng, ngồi, trò chuyện rôm rả. Mỗi khi có tàu tấp đảo và
được đưa về đây thì bà con ở các khu thường kéo nhau tới để tìm thân
nhân hay bạn bè rồi bảo lãnh về ở chung nhà với mình. Từ đây mới có câu
chuyện khôi hài thường được truyền miệng trong trại về việc "bốc nhân
đạo!"
Do có một số người, phần lớn là thanh niên cũng hay la cà ở barrack mỗi
khi có người tới rồi lựa những cô gái trẻ đẹp, dễ thương...để giúp đỡ
bằng cách bằng lòng nhận họ về nhà mình. Người nào có nhà nhận về thi
được Ban Kế Hoạch chấp thuận ngay còn không nếu để họ phân chia thì nhằm
khi vào nhà quá đông hoặc quá phức tạp thì rất phiền, rất là khó sống.
Sự giúp đỡ ban đầu lại có hậu ý lợi dụng về sau ấy khiến cho cụm từ "lên
barrack bốc nhân đạo" bị hiểu theo một ý nghỉ không tốt từ đó.
Suốt cả tuần trong barrack, cuối cùng chúng tôi được chia ra ngoài khu.
Tôi với thằng Phong và cha con anh Quá được chia vào Nhà 5 Khu 8. Trước
khi đi mọi người nhận được một ít đồ trợ cấp xã hội do CADP (The Center
Assistance for Displaced Persons) cấp phát mà lúc đó mọi người cứ tưởng
là của cơ quan này nhưng kỳ thực là của Cao Ủy ký thác công việc này cho
văn phòng CADP giúp đỡ mà thôi!
Vì danh sách sắp theo họ nên tôi còn nhớ rõ hôm đó tôi cùng cô Trần Thị
Đủ nhận được một số đồ cho hai người như một cái xô đỏ, hai tấm đắp
chiều ngang khoảng năm tấc dài chừng chin tấc, hai cái chén nhựa, hai
bàn chải đánh răng và một dây kem đánh răng Colgate màu đỏ có khoảng
chừng năm bảy tép gì đó, một đôi đủa tre và một cái khăn lông tắm loại
lớn và hai đôi dép Nhật (chỉ mang độ một tuần là sẽ xẹp và mỏng như tờ
giấy.) Hai anh em tôi dẫn nhau ra cây cổ thụ to lâu đời ở gần đó của Khu
7 để chia. Vật dụng nào có hai thứ đểu chia được dễ dàng duy có đôi
đũa, khăn lông tắm và cái xô thì không biết chia thế nào? Ngày đó mới
tấp đảo, mọi thứ đều cần nên thật là khó xử. Đủ khá xinh, nước da trắng
trẻo, người cũng như tên gọi lại nghe đâu có họ hàng với chủ tàu nên
trong khi tôi còn lúng túng thì Đủ nhỏ nhẹ lên tiếng:
- Em tính vầy anh xem được không nha. Thôi anh lấy cái khăn, đôi đũa cho
em xin cái xô. Em sẽ đưa anh thêm 15 pesos nữa được không?
Thật ra thì Đủ đã tính toán trước rồi. Thời ấy trong hoàn cảnh đó ai
cũng cần cái xô nhất là phụ nữ vì cái xô rất hữu dụng dùng được cho mọi
thứ. Nghe Đủ nói tôi nghỉ thầm trong bụng "dẫu gì người ta cũng là đàn
bà con gái cần cái xô đó hơn, mình so đo và nhận tiền làm gì dù lúc này
tôi đang rất cần tiền." Tuy nhiên tôi chưa kịp mở lời thì lúc ấy chú
Trần Như Bân chung group với chúng tôi đi ngang nghe thế liền ngừng lại
bày vẽ:
- Trời ơi dễ ợt, có gì mà tụi mày chia hoài hổng được vậy. Để tao tính
cho, này nhé cái xô dùng để múc nước cho hai đứa tắm. Tắm thì con Đủ tắm
trước mày tắm sau. Khăn thì nó lau trước mày lau sau. Đôi đũa hai đứa
ăn chung. That s it! Có gì mà lo quá.
Phán xong một câu "xanh dờn" ông cười ha hả ra vẻ khoái chí bỏ đi mất.
Để lại Đủ mặt đỏ như đu đủ chín cây trông thật dễ thương, còn tôi sượng
cứng người nhất thời ú ớ chả biết làm sao. Nhưng rồi tôi cũng nhường Đủ
cái xô mà không nhận thêm tiền, từ đó cho đến các ngày về sau đi đâu nếu
chúng tôi đụng mặt nhau Đủ đều chào vui vẻ nhưng có phần thẹn thùng,
bẻn lẻn, không tự nhiên hay đôi lúc đi nhận luơng thực gặp Đủ thì nàng
thường nhường cho tôi phần cá hay thịt của mình với lý do hết sức đơn
giản là "em không biết ăn cái này" chứ kỳ thực ra thì Đủ thuộc thành
phần có tiền trong trại còn tôi thì "con mồ côi" làm gì có tiền mà mua
thực phẩm ngoài?
Tháng ngày lang thang trong trai đợi chờ Thanh Lọc xác định tư cách tị
nạn, thỉnh thoảng tôi gặp Trung và Hương, chúng tôi hay ghé lại ngồi
dưới cây me trước văn phòng Cao Uỷ tán gẫu và nghe ngóng tình hình, tin
tức thời sự nóng bỏng về Chương Trình Thanh Lọc vì nơi này lúc nào cũng
tập trung đông đảo dân tị nạn. Ôi thì thôi đủ thứ tin gà, tin vịt hay
tin đồn thổi được tung ra như cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa sẽ được
thanh lọc trước, con cựu quân nhân cũng được ưu tiên giúp đỡ, ai có giấy
tờ bị đuổi đi Vùng Kinh Tế Mới hay bị đánh Tư Sản chắc chắn sẽ
đậu..v.v.và v.v..nghe riết rồi bị khủng hoảng tinh thần và "phát mệt!"
Trước tình trạng quá nguy ngập của tiến trình thanh lọc lúc ấy, Ban Đại
Diện Nhiệm Kỳ thứ 29 của trại đã phối hợp với một số ban nghành đoàn thể
lựa chọn một số người trí thức hoặc có khả năng để giúp đỡ các người
không có kiến thức hay không hiểu thế nào là nhân quyền căn bản mà Liên
Hiệp Quốc đã công nhận...thành lập Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc để giúp đỡ
đồng bào khai báo hồ sơ "tiền thanh lọc."
Haloween năm 1989, lần đầu tiên được biết, được sống và được tham dự Lễ
Hội Hoá Trang của thế giới tự do thật là vui. Tất cả các thiện nguyện
viên từ ngoại quốc tới Việt Nam của mọi ban nghành đoàn thể đều giả quỷ
ma, mặc những áo quần vằn vện với khuôn mặt biến hóa dị dạng tham gia
diễn hành hay tham dự buổi văn nghệ do Cao Uỷ tổ chức tại Sân Khấu Trung
Tâm vô cùng nhộn nhịp! Ba Thiện Nguyện Viên của cơ quan IOM (The
International Organization for Migrants) là bác sĩ Sabine, người Bi
(Belgium) và bác sĩ Cory, người Phi, cùng cô Racheal, người Mỹ, thì hoá
trang thành các thiên thần với trang phục thật lộng lẫy khiến cho lễ hội
thêm phần hấp dẫn. Riêng nhà tôi, mấy anh em PA (tức là mấy người tới
trước khi đảo đóng cửa, đương nhiên được quyền tị nạn, chỉ chờ các nước
phương tây phỏng vấn và đưa đi định cư) dù nghèo áo quần đã rách rưới
cũng ráng xé thêm cho tơi tả để mặc vào rồi lôi tôi đi nghêu ngao khắp
trại. Thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy mấy em trai "unaccompanied minors
(trẻ em đơn hành)" kéo theo một đống xoong nồi mà chúng khéo cột dính
thành một chùm còn tay thì cầm nắp đập vào nhau kêu loãng xoảng vừa đi
vừa hét "trick or treat!" với khuôn mặt trét đầy lọ nghẹ nom thật buồn
cười. Trong cảnh rộn ràng tấp nập của ngày lễ tôi thấy Trung và Hương
cũng có mặt khi tới Sân Khấu Trung Tâm. Nhìn cả hai âu yếm đứng ôm lấy
nhau tựa lưng vào cột bóng rổ để xem văn nghệ tôi thấy họ thật hạnh phúc
làm sao! Và đây cũng là lần đầu tiên tôi nghe Teacher Andrew của trường
HTC (The Holy Trinity College) ca bài "Hello" vô cùng xuất sắc. Phải
công nhận rằng trong vùng Châu Á thì có lẽ người Phi ca nhạc Mỹ là hay
nhất bởi họ được học tiếng Anh từ hồi ở tiểu học nên hơn 95% người Phi
đều biết tiếng Anh và xử dụng tiếng Anh để giao thiệp với ngoại quốc!
Bây giờ dù ở bất cứ đâu, sống trong hoàn cảnh nào tôi vẫn không quên
được ngày tháng đó và quả thật đó là khoảng thời gian vui, đẹp nhất của
quãng đời tị nạn!
Thu tàn lá vàng lặng lẽ rơi, đông tới trời se sắt lạnh, mới đó mà đã hết
năm. Để bớt buồn và đỡ phải suy nghĩ, âu lo, ngoài giờ học Anh Văn
chính thức ra tôi còn học dự thính các lớp khác kể cả phải đứng ngoài
vỉa hè. Tôi cũng vào cả những lớp của HTC tuy nhiên không được nhận vì
lúc ấy HTC chỉ dành cho minor mà thôi! Nhưng tôi không có khiếu sinh ngữ
hay sao ấy vì học nhiều mà vẫn dở. Tôi nhớ có mấy em nhỏ group tôi ngày
tấp đảo không biết một chữ tiếng Anh nhưng chỉ sau ba năm học đã có đứa
làm thông dịch cho văn phòng Cao Ủy! Rõ ràng là cây được trồng trên đất
tốt sẽ tăng trưởng nhanh, người sống ở môi trường thuận lợi sẽ dễ phát
triển tài năng hơn!
Lúc này tôi không có tiền nên ngoài cuốn tập được CADP phát cho vào đầu
khoá học tôi thường lượm các tờ giấy trắng còn dùng được của anh em
trong nhà đóng lại từng xấp để viết. Quần dài thì chỉ có hai cái của
người ta đi định cư bỏ lại, tôi lấy mặc đại để đi học. Áo thì nhiều hơn
bởi mặc chung với anh em trong nhà. Chỉ có một cái khổ là dép thì không
có dư và cũng chẳng mượn được ai vì ai cũng cần mang, đường sá bên trại
thì lởm chởm đá do xứ đảo mà dép của tôi lại mòn và mỏng nên mỗi khi đi
rất là đau chân.
Ngày lại ngày qua chỉ có một lon cá hộp nhỏ cho hai người với đu đủ, rau
muống với một ít thịt heo mà mỡ nhiều hơn thịt, hôm nào lãnh phải thịt
heo nọc thì kể như đành ăn cơm với nước mắm vậy bởi thịt heo nọc rất hôi
khi nấu lên, hay có bửa cầm cái cánh gà bé bằng hai ngón tay mà ngán
ngẫm nhưng vẫn chờ đợi và hy vọng!
Rồi điều không mong đợi đến cũng đã đến và đó là bất hạnh đầu tiên không
chỉ của riêng tôi mà của đa số đồng bào trong trại vì tôi đã "bị đá!"
Sau khi được phỏng vấn thanh lọc để xác định tư cách tị nạn chừng sáu
tháng sau người lánh cư bắt đầu nhận kết quả. Việc bác đơn tị nạn hàng
loạt mà mọi người gọi nôm na là "bị đá" khiến cho chuyện nhận kết quả
trở thành nỗi ám ảnh hãi hùng của trại. Sự ban phát quyền tị nạn tùy
tiện, hiểu biết sai lệch hoặc hạn chế về chế độ cộng sản ở Việt Nam của
phỏng vấn viên nước sở tại khiến cho chuyện thanh lọc người tị nạn trở
nên bi hài. Không có tiêu chuẩn hay thước đo nào nói lên được chuẩn mực
của vấn đề thanh lọc. Kẻ đậu người rớt khó ai nói được mình tài giỏi hơn
ai, tuy thế mặc cảm "bị đá" làm cho lắm người tủi hổ, cảm thấy thua
thiệt hay ngu dốt là điều không tránh khỏi!
Nhiều người quá sợ hãi sẽ bị trả về Việt Nam đã trở nên khùng điên, trại
bắt đầu xuất hiện vô số kẻ bị tâm thần ngày tối cứ lang thang như người
điên hết dạo công viên đến bãi biển. Ngày phát kết quả thanh lọc được
gọi là ngày xổ số, ai đậu được ví như trúng số vì cho đó là sự hên xui.
Nói thế để thấy cái "The Comprehensive Plan of Action" tức CPA (Chương
Trình Thanh Lọc Toàn Diện) này nó thiếu sót và bất công đến cỡ nào!
Đấy là chưa nói tới cá tính của các phỏng vấn viên hay cảm xúc buồn vui
từng ngày của họ nữa. Hoặc trường hợp của một số cựu quân nhân bị đá "te
tua" bởi bà phỏng vấn viên Teano chẳng hạn. Những ngày đầu tới trại
chuẩn bị cho việc phỏng vấn, bà có tiếp xúc với một số thiện nguyện viên
người Việt của văn phòng Cao Ủy. Đa số các thiện nguyện viên này là cựu
quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa và bà tỏ ra rất có cảm tình với họ
vì theo lời bà nói thì chồng bà cũng là cựu quân nhân, thế là họ sắp
xếp hồ sơ để các ông cựu quân nhân được bà Teano phỏng vấn với hy vọng
bà dễ dàng thông cảm cho hoàn cảnh người lính thì vấn đề thanh lọc có
nhiều cơ may hơn nhưng khi kết quả xồ ra thì hầu hết đều bị bác quyền tị
nạn. Mọi người khi ấy mới "tá hỏa tam tinh" và tìm hiểu thì được biết
rằng bà vừa bị chồng li dị, từ đó bà thù hận mấy ông cựu quân nhân.
Chuyện chồng bà là cựu quân nhân chỉ là một cái bẫy bà giăng ra để rửa
mối căm hận dù là mấy người cựu quân nhân Việt Nam này chẳng dính dáng
gì đến chồng bà cả! Từ đó danh từ "sát thủ Teano với cú đá liên hoàn" ra
đời ở PFAC. Thật là oan uổng!
Và chuyện tống tình, tống tiền của nhân viên di trú nước sở tại với
người lánh cư rồi chuyện giữa Naoko Obi, cô gái người Nhật tốt nghiệp
luật khoa ở Đại Học Cambridge thay thế Jan Top Christensen, làm Cao Ủy
Trưởng thời thanh lọc đã xung đột dữ dội với các nhân viên di trú sở tại
trong việc cấp phát quyền tị nạn cho người lánh cư nữa. Vì Cao Uỷ có
đưa ra một chỉ tiêu ban đầu là cấp chừng 10% quyên tị nạn trên tồng số
người nhưng khi thấy các nhân viên di trú Phi ban phát nhiều quá, cô
Naoko phản đối, tìm cách chận lại. Có trường hợp bị nghi ngờ, cô gọi lên
văn phòng và đích thân tìm hiểu, phỏng vấn lại. Việc này đã chạm tự ái,
danh dự quốc gia của Philippines vì theo CPA thì thanh lọc và cấp quyền
tị nạn đã được uỷ thác cho nước chủ nhà. Cao Uỷ chỉ giữ vai trò giám
sát và có 1% Mandate cho những trường hợp nào xét thấy oan ức, sai xót
mà thôi. Do đó hành động của cô Naoko khiến cho người Phi không chấp
nhận được nên để phản đối việc cô Naoko phỏng vấn lại và huỷ bỏ sự công
nhận quyền tị nạn của họ đối với người lánh cư họ đã hè nhau cho tị nạn
cả một tàu họ vừa phỏng vấn đâu cũng cở gần bốn chục người mà lâu quá
tôi không còn nhớ là group nào. Thành thử có thể nói thanh lọc là một
xui xẻo của người này nhưng lại hên với người khác không chừng. Tuy
nhiên từ dó Naoko được dân chúng gọi với một cái tên không mấy thiện cảm
lắm dù cô ta rất đẹp và luôn luôn tỏ ra lịch sự với mọi người, bà "No
OK!"
Một cảnh trưa trọng trại.
Một bất ngờ đã xảy ra cho group tôi là trong số những người bị đá thì có
cả Hương nhưng Trung thì lại đậu. Đúng là ông Trời đã khéo trêu người
khiến cho đôi uyên ương bây giờ giống như Ngưu Lang Chức Nữ!
Vì nghe theo lời của Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc nên Trung và Hương đã không
khai vơ chồng do đó mỗi người có một hồ sơ riêng với tự tin vững vàng
vì cả hai đều có "back ground" mạnh. Nhưng chẳng hiểu Hương khai thế nào
mà lại bị người nhân viên di trú "denied" với lời lẽ như sau "tôi hoàn
toàn tin những gì cô âý nói là sự thật vì có giấy tờ chứng minh đầy đủ,
tuy nhiên cô ấy vẫn sống được suốt mưòi mấy năm sau 1975 mà không bị
nguy hiểm đến tính mạng nên tôi tin là cô ấy có thể tiếp tục sống được ở
quê hưong của cô ấy. Do đó cô không hội đủ một trong các tiêu chuẩn của
tị nạn để được hưởng quy chế tị nạn!"
Đọc lời phê trên hẳn các bạn cũng thấy có nhiều vấn đề cần phải nói đến,
thế là tranh cãi, bàn tán nổ ra khắp nơi trong trại. Những câu hỏi được
đưa ra như tiêu chuẩn tị nạn là gỉ? Thế thì bị ngược đãi, bị chỉ định
nơi cư trú, không được tự do thờ phượng...đâu phải là các bằng chứng để
xin tị nạn? Sao lại có mâu thuẫn giữa Liên Hiệp Quốc và nước sở tại
trong tiêu chuẩn chọn lựa tị nạn thế? Con trung tá Quân Lực Viêt Nam
Cộng Hòa đi cải tạo (tù) cả chục năm mà còn bị đá thì con những người
dân bình thường khai sao đây? Làm sao chứng minh được là mình bị nguy
hiểm đến tính mạng sau 1975 đến phải bỏ trốn khi lúc ấy mình chỉ là một
đứa nhỏ? Đau đầu, đau óc, nhiều kẻ chưa thanh lọc đã bị khủng hoảng tinh
thần và khùng rồi.
Thời kỳ này là thời kỳ "cơn sốt" thanh lọc lên đến cao độ, vì ở tất cả
các trại tị nạn số người bị đá, bị ăn "cánh gà" rất nhiều. Các cuộc biểu
tình chống thanh lọc bất công, chống cưỡng bức hồi hương bắt đầu nổ ra.
Ở Mỹ, Canada và những xứ tự do khác nhiều cộng đồng Việt Nam đã lên
tiếnuy
nhiên phải công nhận rằng Cao Uỷ và thế giới tự do đã thành công trong
chuyện ngăn chặn làn sónn và cử họ sang tận trại tị nạn giúp lo kháng
cáo cho
đồng bàoc của mọi người.nạn...Các anh chị em sinh viên học sinh khắp
nơi, các văn nghệ sĩ, ca
nhạc sĩ cũn như BP SOS (The Boat People SOS) dg vượt biên bởi từ đó con
số người ra đi giảm
hẳn và chấm dứt luôn vì ở Việt Nam mọi người đã biết khó khăn của chương
trình thanh lọc nên chẳng còn ai dám đi nữa!
Trong khi
đó ở trại tị nạn PFAC, trước tình cảnh nguy nan ấy nhiều người đành
phải lật ngửa con g, trao thỉnh nguyện thư tới Cao Uỷ Tị Nạn tới chính phủ sở tại yêu
cầu tái xem xét lại tiêu chuẩn thanh lọc tị n lấy bàn tay đến nỗi phải
cưa mất gần cả cánh tay. Về PFAC, sau gần hai năm chờ đọi chi "đậu"
thanh lọc rồi chuyển trại lên Bataan đi định cư trước sự ngạc nhiên và
thán phụ
g tích cực đem sức mình ra hỗ trợ đồng bào ruột thịt đang bị
kẹt bên các đảo bằng những hình thức như walk-a-thon, đêm không ngủ,
đêm văn nghệ ca hát gây quỹ. Mạnh mẽ hơn họ còn lập ra các cơ quan pháp
lý với nhiều luật sư Việt Nam cũng như ngoại quốc đầy nhiệt huyết, tham
gia làm thiện nguyệ
o anh Nguyễn Đình Thắng làm
giám đốc hay JRS (Jesus for Refugee Services) ở Palawan chẳng hạn. Tbài tẩy, "quyết đấu trận cuối cùng" của mình như
trường hợp chi Phấn chẳng hạn. Chị chỉ có một tay! Khi còn ở El Nido chị
nói với tôi là ở Việt Nam chị bán nước mía và bất cẩn bị máy nước mía
cá
Một thời gian sau người thông dịch cho chị mới tiết lộ rằng ngày ấy chị
khai với người phỏng vấn rằng chị là liên lạc viên của một tổ chức phục
quốc nào đó. Việc bại lộ, chị bị bắt, bị đánh đập tra tấn dã man mà
không được cứu chữa đến phải bị cưa mất một cánh tay! Tuy nhiên cái tài ở
đây là chẳng hiểu chị nói thế nào, thuyết phục làm sao mà nhân viên
phỏng vấn tin và ban cho chị quy chế tị nạn và cái giấy ra trại của chị
là do một người trong trại làm với thủ thuật đơn sơ nhưng rất hiệu quả.
Giấy thì kêu thân nhân ở bên nhà gửi qua rồi dùng nước trà phun nhẹ và
phơi nắng cho tờ giấy cũ đi, tìm hiểu để đánh máy các chi tiết như ở
trại nào, ai là trưởng trại thời gian đó, ai ký giấy ra trại... và cuối
cùng là mộc (con dấu) thì được làm bằng củ khoai lang! Đang khi đó một
anh chàng khác khai vì ba anh ta là thiếu tá Thuỷ Quân Lục Chiển, tử
trận tháng Ba năm1975, gia đình bị đuổi đi Kinh Tế Mới nhưng đã không đi
nên bị cộng sản gây khó khăn cho cuộc sống, anh ta bị bắt đi Thanh Niên
Xung Phong, anh phải trốn, sống chui rúc như chuột, không hộ khầu...lại
bị đá vì không có giấy tờ chứng minh. Anh ta lập luận rằng có chính
quyền nào đàn áp dân chúng mà để lại giấy tờ chứng minh không? Nhưng
người phỏng vấn viên lắc đầu từ chối và nói rằng nếu nói như anh thì ai
chả nói được? Vô cùng phức tạp và rắc rối chuyện thanh lọc vậy!
Khai mà không có giấy tờ chứng minh thì bị đá nhưng có giấy tờ mà giấy
tờ thật đàng hoàng cũng bị đá tuy nhiên giấy tờ dõm thì lại đậu thì quả
thật chẳng biết đâu mà rờ. Từ đó người ta kháo nhau rằng thanh lọc tị
nạn chỉ là một cuộc thi "nói dóc." Ai nói dóc giỏi thì đậu và trớ trêu
thay một số thành viên của Ban Hướng Dẫn Thanh Lọc cũng bị đá rồi người
chuyên làm giấy tờ giả cho mọi người cũng bị đá luôn! Oan nghiệt, oan
nghiệt!
Thời gian này tôi đã chuyển xuống Khu Một, và quá buồn nhiều khi không
nén nỗi sự chán chường. Lắm hôm tôi bỏ học ngồi hằng giờ đâu đó trước
cửa nhà hay lang thang ra biển hoặc vườn dừa mà chẳng thiết làm gì nữa
cả. Một chiều tôi ngồi trên chiếc ghế đóng thật cao dùng để coi phim
ngoài Sân Khấu Trung Tâm thì một số lớp Anh Văn của CADP hết giờ học.
Tan trường, kẻ về người lại đến lớp tấp nập lên xuống Bất ngờ Đủ xuật
hiện từ hướng dưới lò Bánh Mì của CADP và đi về phía tôi. Tôi hơi lúng
túng và mặc cảm thua cuộc vì tôi nghe tin Đủ đậu thanh lọc mấy tuần qua
rồi.
Ngừng lại trước mặt tôi, Đủ ấp úng:
- Anh...khỏe...không?
Nghe Đủ hỏi thế tôi hiểu nàng biết rõ kết quả thanh lọc của tôi, tôi hít
lấy một hơi dài nhảy xuống đất, dựa tay vào thành ghế cười gượng gạo:
- Cũng Ok, cám ơn em. Em thì sao? Mới học ra hả?
Đủ nhìn tôi chăm chú như dò xét:
- Em bình thường. Nghe nói...anh...anh...
- Kệ nó em, số phận mà biết làm sao hơn? Chúc mùng em nha! Tôi ngắt lời nàng.
- Dạ, bây giờ anh tính thế nào?
Tôi nhún vai:
- Biết tính gì bây giờ nữa em. Thì cũng lo làm kháng cáo vậy thôi chứ chắc không mấy hy vọng.
Đủ bỗng đổi giọng xăng xái hẳn lên:
- Hay là... anh ghép hộ đi. Em nghe nói ai bị đá mà ghép hộ vợ chồng với
người đậu sẽ rất có nhiều hy vọng trong đợt kháng cáo đó anh.
- Anh cũng nghe thế, nhưng hình như là phải mất bốn năm bảy ngàn đô lận, anh đâu có tiền.
- Thì... thì... tìm ai quen đó anh, đâu nhất thiết phải là có tiền mới được đâu.
- Em nói chơi hoài, nhiều người có tiền còn tìm chưa ra người đồng ý
ghép hộ chứ nói gì người như anh. Có "cái cọng" không thì làm sao? Hổng
phải dễ đâu em!
Giọng Đủ chợt trầm xuống:
- Anh hỏi thăm thử xem, em nghĩ anh kiếm được đó.
Nói xong, Đủ vội vã chào tôi ra về nhưng không bỏ đi ngay. Nàng nhìn tôi
thật lâu như muốn nói thêm gì đó rồi tần ngần cúi chào thêm lần nữa.
Sau này tôi kể lại cho anh em trong nhà chuyện đó, ai cũng mừng và đều
khuyên tôi nên gặp Đủ vì nàng đã mớm ý, mở cho tôi một sinh lộ. Tuy
nhiên vì danh dự tự ái, những cục xương khó nuốt của một thằng đàn ông,
tôi đã im lặng và trả giá gần mười một năm ở lại vì cái cục xương này!
*
"Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về. Gọi hồn liễu rủ lê thê, gọi bờ
cát trắng đêm khuya... Ngày mai em đi, đồi núi nghiêng nghiêng đợi
chờ....Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về....Ngày mai em đi, cồn đá
rêu phong rủ buồn..!" Từ tờ mờ sáng tiếng Saxophone nức nở trong nhạc
phẩm Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn văng vẳng phát ra khắp trại từ các loa
của Ban Truyền Thông đã làm lòng dạ mọi người chợt chùng xuống. Hôm nay
là ngày chuyển trại. Trong nhà tôi tất cả đã thức dậy. Người đi thì ồn
ào, cười nói huyên thuyên, náo nức chuẩn bị khiêng đồ đạc được đóng
trong các thùng thuốc Winston hay những chiếc vali cũ mèm ra trước hiên
nhà, kẻ ở thì ngồi bó gối lơ đãng theo làn khói thuốc gặm nhấm nỗi buồn
thân phận. Khi trời sáng tỏ người người ở các khu lũ lượt kéo nhau ra
Cổng Mười Hai, nơi chia tay buồn nhiều hơn vui. Những cái xiết tay thật
chặt, những ôm hôn nồng ấm, những ánh mắt lưu luyến, những lời chúc
phúc, những an ủi, những...tiếng khóc nức nở vang lên khắp mọi nơi đến
não nùng trong cái nóng gắt của nắng càng lúc càng lên cao.
Lẫn trong dòng người áo quần sặc sỡ, tôi đứng lặng yên, tâm trạng đầy
chán chường. Lẽ ra tôi không đến đây bữa nay nhưng vì thằng em quá thân,
đi chung group lên đường đi định cư nên tôi phải tới tiễn nó. Khi thằng
nhỏ ra khỏi cổng là tôi vội vã về ngay. Tôi không muốn nấn ná lại đây
lâu hơn, nhưng từ trong đám đông đang đứng chụp hình kỷ niệm, Đủ chợt
tách ra chặn lấy tôi:
- Anh! Nàng gọi nhỏ.
- Ơ, em chuyển trại hôm nay hả? Tôi hỏi khi thấy thẻ chuyển trại RS
(Refugee Status) của cơ quan IOM lủng lẳng trên ngực áo nàng.
- Dạ. Nhà anh... số mấy?
- 14 Khu Một!
Đủ hít lấy một hơi thật dài nhìn thẳng vào mắt tôi nói một mạch:
- Em sẽ viết thư cho anh. Em lên Bataan cũng phải ở lại đó mấy tháng.
Chuyện hôm nọ em bàn với anh thì bất cứ lúc nào anh cần cứ cho em hay.
Em sẽ giúp anh nếu anh muốn nhưng càng sớm càng tốt. Anh suy nghĩ cho kỹ
đi. Thôi anh ở lại gìn giữ sức khoẻ nha. Chúc anh may mắn!
- Cám...ơn... em. Bảo trọng!
Tôi lúng búng trả lời trong miệng, cúi đầu bước đi vội vàng khi nhận
thấy giọng Đủ chợt ngẹn ngào. Và cách đó không bao xa, mặt Hương đẫm lệ,
dàn dụa nước mắt giữa đám đông. Trung thì ôm lấy Hương cười như mếu
trước các câu nói khôi hài của bạn bè.
Vừa đi vừa nghĩ ngợi, băn khoăn tràn ngập tâm tư, tôi tự hỏi lấy mình
"rồi mai tôi cũng sẽ ra đi, chẳng thể ở mãi chốn này được dù là không
biết sẽ đi đâu? Tuy nhiên tới khi ấy ai sẽ là người tiễn đưa tôi?" Chỉ
mới nghĩ tới chừng đó thôi thì cả một cảm giác ê chề. Lúc đi gần tới vòi
nước Khu 3, tiếng nhạc xập xình từ trong quán René vang to ra tận bên
ngoài "Hey, if we can't solve any problems and why do we lose so my
tears... Every time you go away... everytime you go away...!" qua giọng
ca mạnh và truyền cảm của Paul Young trong bản nhạc "Every time you go
away" khiến tôi tê tái. Quang cảnh trại tị nạn trước mắt bỗng nhạt nhòa.
Những kẻ đưa tiễn cũng đang lần lượt trở về. Lê thê, thất thểu!
*
Hai cha con tôi lẽo đẽo theo sau, vợ tôi cứ đi tới đi lui lựa chọn tiệm
ăn khiến tôi sốt cả ruột vì không còn bao nhiêu thời gian để trở về Mỹ
nữa. Thằng con thì đói, mặt bí xị như "bánh bao chiều" dưới thời tiết
nóng, gắt, của phố Tàu ở Canada. Cuối cùng chúng tôi vào đại quán Anh
Đào!
Dù đã quá trưa nhưng quán vẫn còn một số thực khách. Chúng tôi chọn lấy
một bàn phía trong gần counter. Bồi bàn là một em trai nhanh nhẫu mang
thực đơn chạy ra. Tính sẵn trong bụng khi còn bên ngoài nên tôi chỉ liếc
sơ qua các món ăn và chọn ngay phần của mình đoạn đảo mắt khắp tiệm một
vòng. Cạnh bên một người trung niên cỡ tôi với hai đứa nhỏ mà tôi đoán
chừng đứa con gái lớn năm nay cũng ngoài mười tuổi, thằng con trai thì
chắc nhỏ hơn con tôi một tí và cô gái kia nếu là vợ ông ta thì quả có
hơi chênh lệch vì cô ấy chỉ trạc độ ngoài ba mươi thôi.
Khi người đàn ông ngẫng đầu nhìn lên, tôi thấy ngờ ngợ quen mà nhất thời
không nhớ ở đâu. Chợt người đàn ông cất tiếng hối thúc cô gái:
- Lẹ lẹ đi em, ticket đậu xe sắp hết giờ rồi đó.
- Nghe ba nói không con? Hai đứa ăn mau đi đặng về. Người thiếu phụ lên tiếng nói với hai đứa nhỏ.
Người đàn ông nhìn đồng hồ rồi ngó ra ngoài làu bàu:
- Giờ này chạy về tới DC (Whashington DC) chắc cũng mất bảy, tám tiếng!
Tôi nhíu mày, bóp trán nghĩ ngợi mông lung. Gương mặt người đàn ông đã
quen, giọng nói lại càng quen hơn mà chẳng biết đã gặp ở nơi nào? Tôi
lục lạo ký ức, mớ hình ảnh ngày cũ lộn xộn trong đầu chẳng biết đâu mà
mò. Lúc người ta bưng thức ăn đến, mùi phở thơm lừng lôi tôi ra khỏi
vùng dĩ vãng tối tăm thì gia đình bên cạnh đã rời khỏi quán tự lúc nào
rồi.
Sau hơn hai giờ kẹt xe trong phố chúng tôi mới tới được biên giới Mỹ và
Canada. Theo GPS thì chúng tôi phải qua Detroit của Michigan rồi về
Toledo và phải theo hướng I-75 S để tới Dayton-Ohio. Dự trù sẽ đến nhà
lúc 12 giờ đêm nay, vậy là còn tới sáu tiếng lái xe nữa. Không mệt nhưng
hơi buồn ngủ vì mấy ngày nay đi nhiều về khuya tôi ngồi thư giãn, buông
thỏng người, thả xe trôi theo dòng xe đang đợi qua trạm trước mặt. Có
cả thảy tới gần cả chục trạm kiểm soát mà vẫn kẹt cứng vì số lượng người
đổ qua Mỹ quá nhiều. Và đường vô Mỹ thì khi nào cũng bị xem xét gắt gao
hơn. Tuy nhiên các xe trước hàng tôi chờ đợi được kiểm soát tương đối
dễ dàng nên có phần nhanh hẳn lên. Thấy họ chỉ trình giấy tờ rồi vài
phút sau được cho đi tôi thầm tiếc mình đã quá cẩn thận và nghe theo lời
khuyên của mọi người mà không dám mua gì cả. Hình ảnh màu vàng tươi của
xoài mà chỉ có mười đô một thùng hay mãng cầu (trái Na) nở gai thơm
tho, ngọt ngào, mười đồng ba trái dọc theo phố Tàu lúc xế chiều làm tôi
tiếc nuối. Nhưng tôi đã lầm! Bởi tôi cứ tưởng xuất trình passport cho
người lính biên phòng là xong nào ngờ ông ta hỏi lung tung như qua Canda
làm gì? đến đâu? ở đâu? đi bao nhiêu ngày? bây giờ về đâu? có mang trái
cây, thịt hay rau cải gì không...? khiến hai vơ chồng tôi ú ớ trả lời
không giống nhau nên ông ta bước ra khỏi chỗ ngồi, yêu cầu tôi tắt máy
xe, ở yên trong đó, đoạn ông đi ra mở cửa sau xe lên kiểm soát. Đến
chừng ấy tôi mới thấy quyết định không mua gì cả hồi chiều của vợ tôi là
đúng. Hú hồn!
Hai tay mân mê tay lái (Steering), đầu óc lan man, tôi thả hồn thơ thẩn
theo đám mây ngũ sắc đang trôi lơ lững, mặt trời to tròn đỏ ửng như cái
thúng nhuộm tím một góc trời. Hoàng hôn đang xuống dần, trời chiều thật
đẹp. Tôi tà tà trên xa lộ thênh thang sau khi ra khỏi trạm được một lúc
rồi bỗng nhiên trong đầu chợt lóe lên hình ảnh một người. Tôi buột miệng
thảng thốt:
- Ô, thằng Trung!
- Ai? Trung nào? Vợ tôi ngó tôi, ngạc nhiên hỏi.
Hình ảnh người đàn ông trong quán hồi trưa và Trung với Hương ngày nào
luôn âu yếm, tay trong tay dzung dzăng dzung dzẻ ôm nhau đi tới đi lui
bên trại tị nạn hiện ra trong tâm trí tôi. Cả một trời tị nạn với những
hình ảnh ngày xưa lần lượt kéo về. Tôi chép miệng nhủ thầm "không biết
bây giờ cô ấy ra sao?" Tội nghiệp! Đời thật nghiệt ngã! Thương nhau là
thế! Yêu nhau là thế mà cuối cùng lại chẳng lấy được nhau mới thật là
kỳ! Hai mươi năm hơn đã trôi qua! Nghĩ tới đó tự nhiên tôi cảm thấy đau.
Một nỗi đau vô hình xoáy mạnh vào tim.
Thôi, niềm đau ơi! Xin hãy ngủ yên!
"Every time you go, you take a piece of me with you! Every time you go, you take a piece of me with you!" lại văng vẳng đâu đây!
Triều Phong (TPN)
Ghi chú:
- Ghe "cào cào": Tên tiếng Phi là Bangka. Cào cào là một loại ghe nhỏ,
mỗi bên có gắn thêm một thanh tre dài song song với ghe và được nối vào
ghe bằng các thanh ngang, nhỏ, ngắn cũng bằng tre, trông như cánh con
cào cào, cho khỏi lật hoặc chìm mà người Phi dùng để chạy ven biển.
SƠN TRUNG * VỀ MIỀN TRUNG
VỀ MIỀN TRUNG
SƠN TRUNG
Hè năm 1988, tôi lại về thăm quê tôi. Đây là chuyến đi thứ hai của tôi về thăm quê nhà. Chuyến này tôi đi bằng xe ô-tô từ Sài gòn ra Huế, đến Huế thăm bạn bè và bà con, sau đó đáp xe đò Huế - Vinh để về nhà.Hôm đó tôi lên xe xích lô máy ra bến xe Pétrus Ký. Lúc này muốn đi Trung, Bắc, người ta phải ra nơi này lấy xe. Sau này, xa cảng miền Đông ra đời, người ta bỏ bến xe này. Tôi đi thật sớm, khoảng năm giờ sáng vì khoảng 6giờ sáng, xe đã lăn bánh. Xe đi ngang trường đại học Sư Phạm ở đuờng Cộng Hòa. Suốt đường này trồng hai hàng cây cao, hoa màu hồng nhạt. Đây là nơi tôi đã theo học trong ba năm trời, và đã tốt nghiệp, đi dạy học vài năm trời, mà nay thì tôi đã gĩã từ sân trường. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy một hiện tượng rất lạ.
Từ xa tôi thấy đường Cộng Hòa như có sương mù dày đặc. Xe chạy lại gần,
tôi mới thấy từ trên ngọn cây cao, hàng ngàn con sâu buông mình xuống
lưng chừng trời bằng những sợi tơ trắng. Thế mà trước đây tôi không
thấy. Có lẽ khi đêm thanh tĩnh, sương rơi xuống nhiều, đàn sâu mới thả
dây xuống rong chơi phố phường, gần sáng, xe cộ qua lại ồn ào, chúng
rút lui về chiến khu an toàn, và biến mất trên tàng cây cao. Té ra phải
có những lúc nào đó ta mới có thể thấy những điều mà bình thường ta
không thấy.
Đi xe đò thì dễ mua vé hơn là đi xe lửa, và không bị người ta nằm võng
đu đưa trên đầu. Xe đò lúc này đuợc sơn phết sáng sủa , lại được trang
bị cassette cho hành khách nghe âm nhạc. Sau 1975, bao nhiêu radio,
cassette tôi đã bán sạch. Hơn mười năm tôi không nghe âm nhạc, bây giờ
ngồi xe đò đuợc nghe lại những giọng hát của Thái Thanh, Thanh Thúy, Lệ
Thu, Elvis Phương qua những băng nhạc hải ngoại, lòng tôi thật cảm xúc
vô cùng. Tiếng hát thật êm ái, bay bổng nhắc nhở tôi thực tại xung
quanh, những tiếng hát cộc cằn thô lỗ trên đài Sài gòn sau 1975. Một
anh bạn sinh viên tâm sự với tôi rằng anh ta là một sinh viên nằm vùng,
rất có uy tín trong địa phương. Sau 1975, anh đuợc giao công tác văn
nghệ địa phương và anh dề nghị rằng bây giờ đã hoà bình, nên có giọng
hát êm ái hơn là những tiêng gào thét inh tai điếc óc như trước. Kết quả
là anh đuợc người ta đem đi lao động cải tạo một thời gian vì cái ý
kiến đổi mới đó.
Sống trong chế độ cộng sản, cái gì cũng trở thành những vấn đề quan
trọng. Âm nhạc dường như là một niềm say mê của tuổi trẻ. Töi đã đi lao
động tại nông trường Lê Minh Xuân ( Củ Chi). Nông trường này đưọc coi
là thí điểm của thành phố, và điểm son của thành phố. Đây là vùng nước
mặn, lại sõi đá cằn khô, nông dân chỉ trồng lúa mỗi năm một vụ. Nay đảng
bắt trồng một năm hai vụ. Còn chỗ nước mặn, xưa nay bỏ hoang, đảng bắt
thanh niên xung phong đáp đê ngăn nước mặn, lập thành ruộng trồng thơm
( dứa) xuất khẩu. Thơm cũng không chịu nổi nưôc mặn, chết lớp này đến
lớp khác nhưng đảng vẫn kiên trì bắt dân đi lao dộng trồng thơm, để rồi
thỉnh thoảng cũng sản xuất đuợc một vài trái thơm nhỏ xíu và chua lè!
Tội nghiệp những dân thành phố, xưa nay chưa biêt ruộng đồng là gì, nay
phải lội sình đào đất làm thủy lợi và đi trồng thơm. Người ta gọi
những nông trường là những 'trung tâm tàn phá sắc đẹp'' . Sau 1975, Sai
gòn đã chết, Saigon trở thành đia ngục. Những hình bóng thân thương
ngày xưa đã mất. Đa số người dân Việt Nam phải sống trong đau khổ chứ
không như lời ca ngợi giả dối của Trịnh Công Sơn:
Em ra đi nơi này vẫn thế. Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ. Vườn xưa vẫn còn tiếng mẹ ru.Và đi lao động trên công trường là một đày ải chứ không vui vẻ như lời ca tụng ca Trịnh Công Sơn về nông trường đỏ.
Trên nông trường không xa lắm
Có đôi chân đi không ngại ngần
Em bây giờ, quen mưa nắng
Gánh trên vai vấn vương bụi trần
Từng vai áo phơi sẽ xanh thêm đời
Bàn tay làm nên những mùa vui...
của những người cộng sản, Liên Xô sẽ xây dựng nơi đây một thành phố
Sài gòn thứ hai. Nhưng sự thực những khó khăn cứ đổ dồn tới. Nông
trường muốn xin tiền làm một cái gì cũng phải có đủ 20 chữ ký của cấp
trên. Cuối cùng những đám giải phóng miền Nam như Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ
đã bị cho về hưu, và nông trường Lê Minh Xuân cũng như bao nông trường
khác sau một thời gian thổi phồng để lấy thành tich cho một vài vị vào
trung ương đảng hay vào tỉnh ủy thì bị rơi vào quên lãng.
Cuối tuần, nông trường tổ chức văn nghệ do thanh niên xung phong tổ chức. Toàn là những bài hát nhạt nhẽo, buồn chán. Nhưng cuối cùng một màn trình diễn rất cảm động. Không có trống, không có đờn, những thanh niên xung phong đã lấy song, nồi, thùng thiếc sáng tạo ra những trống và đàn để trình bày những bản nhạc ngoại quốc thật sôi động.Họ bảo là nhạc Liên Xô, Đông Đức, Hungary nhưng âm hưởng giống nhạc kích động Mỹ.
Tôi nhớ một buổi chiếu phim trên đài Sài gòn về lễ quốc khánh Khmer.
Theo thường lệ, sau thủ tục chào quốc kỳ Khmer, chụp hình các quan
khách Liên Xô, Trung quôc, Việt Nam, và các đại biểu lên phát biểu là
phần văn nghệ, và cuối cùng là một ban nhạc Khmer trình bày nhạc ngoại
quốc mà dường như là nhạc Mỹ. Những nhạc sĩ và ca sĩ trình bày rất sống
động , chứng tỏ nhạc Mỹ có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Tôi cũng nhớ đến
tình hình trước đây, bọn thanh niên Nga mê nhạc Beatles , đã lén thu
băng, lén tập hát và tạp nhảy theo nhạc Mỹ.
Những đứa trẻ Việt Nam lên hai lên ba, khi nghe bài hát Alababa và 40
tên cướp đã vỗ tay vui cười thích thú. Và cũng ở Việt Nam, người ta đã
khủng bố , đánh đuổi dân thiểu số từ nam chí bắc để chiếm rừng phá núi
nhưng bề ngoài họ trình diễn thứ âm nhạc, gọi là nhạc dân tộc, cho các
văn công mặc áo Thái Mèo, đánh đờn Tơ Rưng hoặc đàn tre, hát tiếng
Thái, Mường, Mán, Mèo và tiếng Việt.
Trong những buổi trình diễn này người ta đã trình diễn vài bản nhạc theo điệu nhạc Rock của Mỹ và một ca sĩ đóng khố đã gào thét như một người da đen trên màn ảnh Mỹ. Âm nhạc Mỹ đã chinh phục thế giới . Âm nhạc đích thực là một thứ ngôn ngữ quôc tế, vượt qua mọi lứa tuổi ở mọi quốc gia. Âm nhạc vô hình xuyên qua những bức tường thép, và đi vào trái tim con người và thể hiện ở nét mặt và chân tay. không cần giảng giải và lý luận. . Còn âm nhạc tuyên truyền là một hình thức tra tấn của chế độ.
Trong những buổi trình diễn này người ta đã trình diễn vài bản nhạc theo điệu nhạc Rock của Mỹ và một ca sĩ đóng khố đã gào thét như một người da đen trên màn ảnh Mỹ. Âm nhạc Mỹ đã chinh phục thế giới . Âm nhạc đích thực là một thứ ngôn ngữ quôc tế, vượt qua mọi lứa tuổi ở mọi quốc gia. Âm nhạc vô hình xuyên qua những bức tường thép, và đi vào trái tim con người và thể hiện ở nét mặt và chân tay. không cần giảng giải và lý luận. . Còn âm nhạc tuyên truyền là một hình thức tra tấn của chế độ.
Tôi về Huế, trong các tiệm ăn người ta đã mở nhạc vàng. Và tôi lại được nghe những tiếng hát hải ngoại như hồn tôi đi vào thần thoại.
Sau một ngày ở Huế, tôi ra bến xe An Hòa đón xe Huế- Vinh. Đây là một
chiếc xe cũ kỹ như xe buýt An Cựu- Bến Ngự hay Bến Ngự -Đông Ba hồi
1956. Trên xe toàn là dân chúng thôn quê mà phần lớn là dân Huế, Quảng
Trị. Xe chạy một đoạn lại dừng để hành khách xuống hoặc lên. Con đường
quốc lộ, hai bên đồng ruộng trải dài, thỉnh thoảng có xóm làng nhà của
lưa thưa và những bụi tre cằn cỗi. Đường đi toàn là ổ gà hoặc đá lởm
chởm, xe chạy nhảy như ngựa lồng. Đàn bà có thai không thể đi xe này
được. Trên xe là một bác tài xế tuổi khoảng 35-40 rất hoạt bát nhanh
nhẹn. Tôi không hiểu bác là dân xã hội chủ nghĩa hay dân Huế mới được
học tập cải tạo vì bác 'trình diễn' quá. Bác ca hát luôn miệng:
Huế của ta ơi! Biết mấy tự hào!
Bác lại ngâm thơ bài Mẹ Suốt , rồi bài Bầm ơi của Tố Hữu:
Ai về thăm mẹ quê ta,
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm.
Bầm ơi có rét không bầm,
Heo may gió núi lâm thâm mưa phùn.. .
Bác xách bình đựng nước, tu một hơi rồi đọc tiếp thơ Tố Hữu:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Ai về với quê hương ta tha thiết
Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng
Ai vô đó với đồng bào, đồng chí. . .
Tháng tám vùng lên Huế của ta,
Quảng Phong ơi! Hương Thủy, Hương Trà.
Phú Vang, Phú Lộc, đò lên Huế,
Đỏ rợp dòng sông, rộn tiếng ca. . .
Hết ngâm thơ Tố Hữu, bác kể chuyện bác Hồ, bác Tôn kính yêu. . . .
Bác là diễn viên, là cán bộ thông tin văn hóa độc nhất trên xe. Bác là người tốt, muốn giúp vui đồng bào trên xe. Mà bác cũng là cán bộ tốt, muốn tuyên truyền con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời bác cũng là con người khôn ngoan muốn chứng tỏ bác là người vừa chuyên vừa hồng, theo đúng túi khôn xã hội chủ nghĩa là phải ''ca tụng bác Hồ đọc thơ Tố Hữu'' thì khi đi xin việc, đi thi , và làm việc đều đưọc diểm cao.
Khi xe đến Bàu Cá, Quảng Bình thì mấy công an xuất hiện, và họ ra dấu
hiệu ngừng lại. Bác tài xuống xe trình giấy tờ và mỉm cười cầu tài.
Không biết bác phạm lỗi gì, anh công an xé một lúc khoảng hai chục tờ
giấy phạt. Một lúc sau bác lên xe, nét mặt vô cùng buồn bã và tức giận.
Từ đó cho đến khi xe ra sông Gianh bác vẫn im lặng, khác hẳn thái độ
vui tươi trước kia.
Khác với lần trước, lần này trong thôn có vài đám cưới. Thôn tôi và thôn bên cạnh, khắp nơi inh ỏi tiếng nhạc phát ra từ các loa phóng thanh. Lúc này quê tôi theo mốt mới. Họ mua máy thu băng và loa, mở máy lớn cho anh em bà con trong đám cưới nghe nhạc vàng của Sài gòn. Đa số dân chúng không có máy và băng cassette cho nên họ rất sung sướng khi nghe tiếng nhạc vang lên từ hai ba chiếc loa treo trong đám cưới. Và chủ nhân cũng tỏ ra tự hào vì đám cưới gia đình ta rất tân tiến! Một vài người thấy đây là mối lợi cho nên đã cho các đám cưới thuê băng và máy, khiến cho ở tận thôn quê miền Trung trước đây là vùng đất xã hội chủ nghĩa nay vang lên giọng hát của Thái Thanh, Thái Hiền, Duy Trác, Tuấn Ngọc. . , Nhưng việc mở nhạc này cũng chỉ thịnh hành một thời. Tôi về lần thứ ba thì nghe nói đã bị cấm.
Khác với lần trước, lần này trong thôn có vài đám cưới. Thôn tôi và thôn bên cạnh, khắp nơi inh ỏi tiếng nhạc phát ra từ các loa phóng thanh. Lúc này quê tôi theo mốt mới. Họ mua máy thu băng và loa, mở máy lớn cho anh em bà con trong đám cưới nghe nhạc vàng của Sài gòn. Đa số dân chúng không có máy và băng cassette cho nên họ rất sung sướng khi nghe tiếng nhạc vang lên từ hai ba chiếc loa treo trong đám cưới. Và chủ nhân cũng tỏ ra tự hào vì đám cưới gia đình ta rất tân tiến! Một vài người thấy đây là mối lợi cho nên đã cho các đám cưới thuê băng và máy, khiến cho ở tận thôn quê miền Trung trước đây là vùng đất xã hội chủ nghĩa nay vang lên giọng hát của Thái Thanh, Thái Hiền, Duy Trác, Tuấn Ngọc. . , Nhưng việc mở nhạc này cũng chỉ thịnh hành một thời. Tôi về lần thứ ba thì nghe nói đã bị cấm.
NGUYỄN VĂN SÂM * GS ĐÀM QUANG HƯNG
GS Đàm Quang Hưng, Một Tấm Gương Cho Tôi
Nguyễn Văn Sâm
Ai trong đời cũng có nhiều Thầy học. Có những vị Thầy nhiều ảnh hưởng
lên cuộc đời mình vì mình thích, phục vài điều gì đó trong lời giảng khi
theo học nhưng sau nầy xa cách trong đời do hoàn cảnh; có những vị Thầy
trong khi học mình không thủ đắc được nhiều về cách sống ngoài những
kiến thức giáo khoa nhưng sau nầy lại là bạn vong niên vì có hoàn cảnh
gần gũi. Đối với tôi, Thầy Nguyễn Văn Phú, Thầy Bạch Văn Ngà, Thầy Roch
Cường… là những trường hợp cụ thể thứ nhứt. Thầy Đàm Quang Hưng là
trường hợp cụ thể thứ hai. Còn biết bao nhiêu vị khác nữa trong thời
gian theo học Trung học và Đại học nhưngkhông thế nào kể ra cho hết.
Thầy Hưng dạy lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài 1, năm đó 1957-58, Thầy
dạy tương đối nổi tiếng, lớp đông đảo học sinh. Tôi đang theo học lớp Đệ
Nhị B ở trường Văn Lang của Thầy Ngô Duy Cầu ở trường Cô Bắc, dư thời
giờ bèn đi học thêm các môn chánh cho kỳ thi sắp tới.
Thầy Hưng giảng bài trầm trầm, mắt ngó lên bảng, chăm chú như thầm xét
lại những gì Thầy đã viết hơn là nhìn vào đám học trò. Lớp luyện thi lúc
đó được giảng về kiến thức làm sao giải được bài toán Hình học không
gian nầy, bài toán Đại số kia, bài toán Lượng giác nọ…. trong chương
trình. Chuyện ngoài lớp học, chuyện đời sống bên ngoài và cách ăn ở thế
nào để làm người xứng đáng tuyệt đối không có. Ấn tượng lúc ấy của tôi
về Thầy Hưng phải nhận là không sâu đậm do nhiều lý do, trong đó có việc
tôi theo học lớp luyện thi của Thầy trong thời gian thiệt ngắn vì gia
đình không thể đóng học phí cho anh em tôi học cùng một lúc hai trường.
Ba năm sau Thầy trò thường gặp nhau khi cả hai cùng là tác giả những
quyển sách giải Toán Lý Hóa… do nhà xuất bản Sống Mới của các ông Võ Văn
Khoái và Nguyễn Tấn Long ở đường Phạm Ngũ Lão, Sàigòn mà sách của thầy
Hưng là những quyển bán chạy nhứt nhì, thường được tái bản nhiều lần
với số lượng in khá lớn.
Tôi lúc nào cũng thưa Thầy khi nói chuyện. Thầy Hưng bao giờ cũng thưa ông Sâm.
Tôi kính trọng và lễ phép với Thầy có lý do, mình từng là học trò của
Thầy. Thầy Hưng lễ phép với học trò vì đó là bản tánh và là con người
thật của Thầy. Cuộc giao tình dừng lại ở những lần gặp nhau như vậy
trong vài ba năm trời.
Rồi cuộc đời mỗi người mỗi hướng do cuộc sống và hoàn cảnh. Thầy vào Thủ
Đức, ra trường, về dạy trường Võ Bị Đà Lạt rồi về mở trường Trung học
tư thục Nhân Chủ của riêng Thầy. Tôi chuyển sự say mê của mình về mặt
văn chương Việt Nam và dính khắn vào đó. Hai Thầy trò không gặp nhau từ
dạo giửa thập niên 60..
Chúng tôi gặp lại nhau lúc Thầy Hưng mới dọn nhà đến Houston sau một
thời gian ở nơi khác, năm đó hình như là 1981. Và chúng tôi thân nhau.
Tôi nói chuyện vẫn thưa Thầy và Thầy Hưng luôn luôn dùng chữ ông Sâm
để nói chuyện với người học trò ngày trước. Chúng tôi bàn đủ thứ chuyện
cũ mới, giáo dục, cuộc sống ở đất nước mình định cư... Và gặp nhau
nhiều hơn ở những canh mà chược mà tôi mới học sau mấy năm đến nước Mỹ, thường làm Thầy cúng đem tiền nạp cho thiên hạ và Thầy Hưng thường khuyên tôi đừng nên chơi trò chơi nầy mà tôi không có kinh nghiệm…
Tôi thích đến nhà Thầy tham dự vào môn mới học nầy cũng như thăm
viếng chuyện trò từ căn nhà nhỏ hẹp bằng gỗ ở trong thành phố Houston,
vùng cuối đường Westminster, tới căn nhà khang trang hơn ở khu Bellaire,
ngoài vòng đay 610, đến căn nhà sau cùng trên khu Bellaire, trong vòng
đay. Thăm viếng, làm Thầy cúng và nhứt là những kỳ hội của Hội
Cựu Giáo Chức vùng Houston kết được tình thân giửa hai Thầy trò chênh
lệch nhau độ chừng mười tuổi, mà tôi cho là cái duyên rất đáng quý.
Luôn luôn tôi học được ở Thầy tính điềm đạm, nhẹ nhàng, lễ phép nhưng
không khách sáo, nhứt là thái độ dễ chịu của Thầy trong việc chi tiêu và
chịu khó sửa soạn dọn dẹp cho những buổi hội họp rất bổ ích của những
người trước đây ở trong ngành giáo dục. Nhờ những buổi họp hằng tháng
của Hội Cựu Giáo Chức Houston nầy tôi gặp được vài vị Thầy cũ cũng như
năm ba người bạn đồng nghiệp ngày trước. Rất vui về điều đó…
Ấy là những chuyện thuộc về cá nhân, về cách xử thế tiếp vật của Thầy mà tôi được biết.
Thưa Thầy Hưng, em thích và kính trọng Thầy về chuyện đó nhưng em
thương Thầy ở những công việc Thầy làm bất vụ lợi và chịu sống đủ, sống
bình dị hơn là dùng thời giờ của mình để chạy theo kim tiền và những thị
phi vô ích…
Thầy Hưng không lý thuyết với tôi về chuyện phải làm thế nào để giúp ích đời về mặt văn học, nhưng Thầy cặm cuội dịch toàn bộ Liêu Trai Chí Dị, một việc làm không có nhiều người làm được. Dịch Liêu Trai
thì trước sau đã có nhiều, Yã Hạc và Trinh Nguyên trong tạp chí Bách
Khoa với lời văn siêu thoát, lãng đãng, mơ hồ, người đọc chỉ cần ghé mắt
vài dòng là bị cuốn hút. Nhiều tác giả khác, danh tiếng hay không,
thỉnh thoảng cũng ghé vô bộ truyện dễ tìm độc giả nầy để dịch, nhưng rồi người thì vài ba truyện, người dài hơi hơn thì năm ba chục. Nhưng tất cả đều dịch không trọn bộ.
Thầy Hưng cứ nhẩn nha dịch từ truyện đầu đến truyện cuối trong vòng 7 năm, kể cả những truyện cực ngắn, chẳng có chút xíu tính chất Liêu Trai nào mà độc giả thường tự hỏi tại sao Bồ Tùng Linh lại đem vào trong toàn tập.
Tôi không hỏi Thầy tại sao Thầy lại dịch toàn bộ vì đã biết chắc câu trả lời ‘muốn
giới thiệu thiệt là đầy đủ để người đọc có cái nhìn ít sai lạc về Bồ
tiên sinh và có thể tự giải thích tại sao ông ta lại viết những truyện
ma quái.’
Tôi thích bản dịch của Thầy Hưng tuy không bay bướm bằng Yã Hạc Trinh
Nguyên nhưng cũng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng chứ khôngphải tầm thường như một
bản dịch cũng gọi là khá đầy đủ hiện xuất bản ở trong nước.
Rồi Thầy tung ra bản dịch Kim Vân Kiều Truyện, quyển tiểu thuyết
văn xuôi có tánh cách bình dân bằng những mô tả quá đáng của Thanh Tâm
Tài Nhân, tác phẩm gợi hứng cho Nguyễn Du để tạo thành truyện Kiều sau
nầy. Đọc Đoạn Trường Tân Thanh, thích, mộ Đoạn Trường Tân Thanh nhưng mấy ai đã được đọc nguyên truyện, dầu là từ bản dịch, của Thanh Tâm Tài Nhân! Đây cũng là việc làm của người chịu bỏ một phần cuộc sống của mình cho văn học, nhóm chữ mà tôi thường dùng để xưng tụng Thầy và Thầy bao giờ cũng điềm đạm từ chối rằng không dám nhận.
Khi Thầy thủ đắc được hai bản Nôm Đoạn Trường Tân Thanh viết tay
quý giá của Tăng Hữu Ứng (1874), và Lâm Nọa Phu (1870) thì Thầy hăng
hái kêu tặng bản sao cho những ai quan tâm đến chữ Nôm và truyện Kiều
để họ có tài liệu làm việc; khác với nhiều người ở trong cùng trường
hợp, bo bo giữ riêng cho mình, nói rằng để sau nầy khi có thời giờ thì
làm việc… nhưng không biết bao giờ mới bắt tay vào.
Tôi cảm phục tinh thần chia xẻ đó của Thầy.
Tính tình thân thiện và tinh thần hi sinh cho văn học của Thầy đã tạo
nên sự thương mến của nhiều người, nhà thơ Vĩnh Liêm trong một email cho
bè bạn nói rằng: ‘Sự ra đi của GS Đàm Quang Hưng là một mất mát lớn cho nên Văn Học VNHN!’ Nói như vậy vì thi sĩ Vĩnh Liêm đã thấy giá trị trong những việc làm đã qua và cũng hé thấy những công trình sắp tới của Thầy.
Nhưng tiếc thay, sự việc đã biến sang chiều hướng khác. Thầy ra đi sau một ca mỗ bình thường về tim…
Người thương tiếc Thầy quá nhiều. Tôi xin mượn vài dòng rất cảm động
của người học trò chưa từng được học với Thầy là cô Nguyễn Vũ Trâm-Anh:
Ở tuổi 85, Thầy ra đi cũng đã gọi là thọ nhưng sao con vẫn thấy nuối
tiếc. …tinh thần làm việc cẩn trọng, nghiêm ngặt, cầu thị sự chuẩn xác
của một ông Thầy Toán học mà lại làm công việc sưu khảo Văn học…..
Hành vi con người ở đời có thể nói được bắt đầu từ một nhân duyên nào đó
từ muôn trùng xưa trong không gian và thời gian. Thầy có nhân duyên tốt
để thành môt bậc Thầy đáng ngưỡng mộ bằng những việc làm cặm cụi không
ích lợi cho Thầy mà là cho nhân thế. Điều nầy chắn chắn rằng sẽ tạo cảm
hứng và làm gương tốt cho nhiều thế hệ tiếp theo: Làm việc cho văn hóa,
dân tộc, ‘vì đời không vì mình’.
Xin kết thúc bài nầy bằng câu chí tình và rất cảm động của cô Trâm-Anh, nói được lòng thương Thầy của tôi:
Bài viết này như một nén hương lòng của con gửi đến Thầy. Con sẽ nhớ mãi Thầy, một người Thầy tài giỏi, đức độ, nhân từ.
Nguyễn Văn Sâm (Victorville, CA, March 14, 2017)
GS Đàm Quang Hưng, Một Tấm Gương Cho Tôi
Nguyễn Văn Sâm
Ai trong đời cũng có nhiều Thầy học. Có những vị Thầy nhiều ảnh hưởng lên cuộc đời mình vì mình thích, phục vài điều gì đó trong lời giảng khi theo học nhưng sau nầy xa cách trong đời do hoàn cảnh; có những vị Thầy trong khi học mình không thủ đắc được nhiều về cách sống ngoài những kiến thức giáo khoa nhưng sau nầy lại là bạn vong niên vì có hoàn cảnh gần gũi. Đối với tôi, Thầy Nguyễn Văn Phú, Thầy Bạch Văn Ngà, Thầy Roch Cường… là những trường hợp cụ thể thứ nhứt. Thầy Đàm Quang Hưng là trường hợp cụ thể thứ hai. Còn biết bao nhiêu vị khác nữa trong thời gian theo học Trung học và Đại học nhưngkhông thế nào kể ra cho hết.
Thầy Hưng dạy lớp Toán Lý Hóa luyện thi Tú Tài 1, năm đó 1957-58, Thầy
dạy tương đối nổi tiếng, lớp đông đảo học sinh. Tôi đang theo học lớp Đệ
Nhị B ở trường Văn Lang của Thầy Ngô Duy Cầu ở trường Cô Bắc, dư thời
giờ bèn đi học thêm các môn chánh cho kỳ thi sắp tới.
Thầy Hưng giảng bài trầm trầm, mắt ngó lên bảng, chăm chú như thầm xét
lại những gì Thầy đã viết hơn là nhìn vào đám học trò. Lớp luyện thi lúc
đó được giảng về kiến thức làm sao giải được bài toán Hình học không
gian nầy, bài toán Đại số kia, bài toán Lượng giác nọ…. trong chương
trình. Chuyện ngoài lớp học, chuyện đời sống bên ngoài và cách ăn ở thế
nào để làm người xứng đáng tuyệt đối không có. Ấn tượng lúc ấy của tôi
về Thầy Hưng phải nhận là không sâu đậm do nhiều lý do, trong đó có việc
tôi theo học lớp luyện thi của Thầy trong thời gian thiệt ngắn vì gia
đình không thể đóng học phí cho anh em tôi học cùng một lúc hai trường.
Ba năm sau Thầy trò thường gặp nhau khi cả hai cùng là tác giả những
quyển sách giải Toán Lý Hóa… do nhà xuất bản Sống Mới của các ông Võ Văn
Khoái và Nguyễn Tấn Long ở đường Phạm Ngũ Lão, Sàigòn mà sách của thầy
Hưng là những quyển bán chạy nhứt nhì, thường được tái bản nhiều lần
với số lượng in khá lớn.
Tôi lúc nào cũng thưa Thầy khi nói chuyện. Thầy Hưng bao giờ cũng thưa ông Sâm.
Tôi kính trọng và lễ phép với Thầy có lý do, mình từng là học trò của
Thầy. Thầy Hưng lễ phép với học trò vì đó là bản tánh và là con người
thật của Thầy. Cuộc giao tình dừng lại ở những lần gặp nhau như vậy
trong vài ba năm trời.
Chúng tôi gặp lại nhau lúc Thầy Hưng mới dọn nhà đến Houston sau một
thời gian ở nơi khác, năm đó hình như là 1981. Và chúng tôi thân nhau.
Tôi nói chuyện vẫn thưa Thầy và Thầy Hưng luôn luôn dùng chữ ông Sâm
để nói chuyện với người học trò ngày trước. Chúng tôi bàn đủ thứ chuyện
cũ mới, giáo dục, cuộc sống ở đất nước mình định cư... Và gặp nhau
nhiều hơn ở những canh mà chược mà tôi mới học sau mấy năm đến nước Mỹ, thường làm Thầy cúng đem tiền nạp cho thiên hạ và Thầy Hưng thường khuyên tôi đừng nên chơi trò chơi nầy mà tôi không có kinh nghiệm…
Luôn luôn tôi học được ở Thầy tính điềm đạm, nhẹ nhàng, lễ phép nhưng
không khách sáo, nhứt là thái độ dễ chịu của Thầy trong việc chi tiêu và
chịu khó sửa soạn dọn dẹp cho những buổi hội họp rất bổ ích của những
người trước đây ở trong ngành giáo dục. Nhờ những buổi họp hằng tháng
của Hội Cựu Giáo Chức Houston nầy tôi gặp được vài vị Thầy cũ cũng như
năm ba người bạn đồng nghiệp ngày trước. Rất vui về điều đó…
Ấy là những chuyện thuộc về cá nhân, về cách xử thế tiếp vật của Thầy mà tôi được biết.
Thưa Thầy Hưng, em thích và kính trọng Thầy về chuyện đó nhưng em
thương Thầy ở những công việc Thầy làm bất vụ lợi và chịu sống đủ, sống
bình dị hơn là dùng thời giờ của mình để chạy theo kim tiền và những thị
phi vô ích…
Thầy Hưng cứ nhẩn nha dịch từ truyện đầu đến truyện cuối trong vòng 7 năm, kể cả những truyện cực ngắn, chẳng có chút xíu tính chất Liêu Trai nào mà độc giả thường tự hỏi tại sao Bồ Tùng Linh lại đem vào trong toàn tập.
Tôi không hỏi Thầy tại sao Thầy lại dịch toàn bộ vì đã biết chắc câu trả lời ‘muốn
giới thiệu thiệt là đầy đủ để người đọc có cái nhìn ít sai lạc về Bồ
tiên sinh và có thể tự giải thích tại sao ông ta lại viết những truyện
ma quái.’
Tôi thích bản dịch của Thầy Hưng tuy không bay bướm bằng Yã Hạc Trinh
Nguyên nhưng cũng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng chứ khôngphải tầm thường như một
bản dịch cũng gọi là khá đầy đủ hiện xuất bản ở trong nước.
Rồi Thầy tung ra bản dịch Kim Vân Kiều Truyện, quyển tiểu thuyết
văn xuôi có tánh cách bình dân bằng những mô tả quá đáng của Thanh Tâm
Tài Nhân, tác phẩm gợi hứng cho Nguyễn Du để tạo thành truyện Kiều sau
nầy. Đọc Đoạn Trường Tân Thanh, thích, mộ Đoạn Trường Tân Thanh nhưng mấy ai đã được đọc nguyên truyện, dầu là từ bản dịch, của Thanh Tâm Tài Nhân! Đây cũng là việc làm của người chịu bỏ một phần cuộc sống của mình cho văn học, nhóm chữ mà tôi thường dùng để xưng tụng Thầy và Thầy bao giờ cũng điềm đạm từ chối rằng không dám nhận.
Khi Thầy thủ đắc được hai bản Nôm Đoạn Trường Tân Thanh viết tay
quý giá của Tăng Hữu Ứng (1874), và Lâm Nọa Phu (1870) thì Thầy hăng
hái kêu tặng bản sao cho những ai quan tâm đến chữ Nôm và truyện Kiều
để họ có tài liệu làm việc; khác với nhiều người ở trong cùng trường
hợp, bo bo giữ riêng cho mình, nói rằng để sau nầy khi có thời giờ thì
làm việc… nhưng không biết bao giờ mới bắt tay vào.
Tôi cảm phục tinh thần chia xẻ đó của Thầy.
Tính tình thân thiện và tinh thần hi sinh cho văn học của Thầy đã tạo
nên sự thương mến của nhiều người, nhà thơ Vĩnh Liêm trong một email cho
bè bạn nói rằng: ‘Sự ra đi của GS Đàm Quang Hưng là một mất mát lớn cho nên Văn Học VNHN!’ Nói như vậy vì thi sĩ Vĩnh Liêm đã thấy giá trị trong những việc làm đã qua và cũng hé thấy những công trình sắp tới của Thầy.
Nhưng tiếc thay, sự việc đã biến sang chiều hướng khác. Thầy ra đi sau một ca mỗ bình thường về tim…
Người thương tiếc Thầy quá nhiều. Tôi xin mượn vài dòng rất cảm động
của người học trò chưa từng được học với Thầy là cô Nguyễn Vũ Trâm-Anh:
Ở tuổi 85, Thầy ra đi cũng đã gọi là thọ nhưng sao con vẫn thấy nuối
tiếc. …tinh thần làm việc cẩn trọng, nghiêm ngặt, cầu thị sự chuẩn xác
của một ông Thầy Toán học mà lại làm công việc sưu khảo Văn học…..
Hành vi con người ở đời có thể nói được bắt đầu từ một nhân duyên nào đó
từ muôn trùng xưa trong không gian và thời gian. Thầy có nhân duyên tốt
để thành môt bậc Thầy đáng ngưỡng mộ bằng những việc làm cặm cụi không
ích lợi cho Thầy mà là cho nhân thế. Điều nầy chắn chắn rằng sẽ tạo cảm
hứng và làm gương tốt cho nhiều thế hệ tiếp theo: Làm việc cho văn hóa,
dân tộc, ‘vì đời không vì mình’.
Xin kết thúc bài nầy bằng câu chí tình và rất cảm động của cô Trâm-Anh, nói được lòng thương Thầy của tôi:
Bài viết này như một nén hương lòng của con gửi đến Thầy. Con sẽ nhớ mãi Thầy, một người Thầy tài giỏi, đức độ, nhân từ.
Nguyễn Văn Sâm (Victorville, CA, March 14, 2017)NGHIÊM HỮU HÙNG * ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN
BS
Nghiêm Hữu Hùng là một đồng môn trong nhóm CVA646566. Anh sống ở San
Jose và thỉnh thoảng liên lạc với tôi về những đề tài văn học, nghệ
thuật. Hoặc nhắc lại một số địa danh và kỷ niệm với miền Tây khi tôi đi
dạy trung học ở dưới đó và
anh là y sĩ quân y trong quân đội. Gần đây anh có gửi cho tôi mấy
truyện ngắn do anh viết, chẳng hạn "Nợ Ấm Ớ" viết rất dí dỏm về kỷ niệm
thời gian 4 năm đi "học tập cải tạo".
Dưới
đây là một kỷ niệm của anh với cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, nguyên Tỉnh
trưởng Chương Thiện. Mời đọc để biết thêm về con người của Đại tá Hồ
Ngọc Cẩn. VCH
Một kỷ niệm về Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
Nghiêm Hữu Hùng
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn
Tôi thuộc lòng bài thơ "Après la bataille" của Victor Hugo và luôn xem đó là hành trang vào đời khi nhập ngũ: "Làm cách nào đối xử với con người cả bạn lẫn thù với lòng nhân".
Tuy nhiên những gì xảy ra ngoài chiến trường nhiều khi khác hẳn với thơ
Victor Hugo, nhân vật chính (mon père ...) trong bài thơ là một vị Tổng
chỉ huy, có toàn quyền quyết định về hành động của mình còn tôi chỉ là Y
Sĩ Trung Úy, một cấp bậc rất nhỏ, ngoài phạm vi chuyên môn ra, có rất
nhiều hoàn cảnh không thể tự mình quyết định được như câu chuyện sau
đây:
Thời Chiến Tranh Việt Nam, thông thường các
sĩ quan cao cấp đối xử với bác sĩ rất tốt, cả hai bên đều tỏ lòng quý
trọng lẫn nhau. Nhưng cũng có rất nhiều nghịch cảnh, một
chuyện ai cũng biết là đôi khi có vài binh sĩ vì sợ chết nên đã "tự huỷ
hoại thân thể" bằng nhiều cách như:
- Chích mủ xương rồng vào ngón tay để gây gangrène (mất ngón trỏ bàn tay phải thì sẽ được giải ngũ vì không thể bóp cò súng)
- Tự bắn vào lòng bàn tay
- Đào một cái hố, thò bàn chân vào trong rồi ném kíp lựu đạn xuống hố, tự hủy hoại bàn chân v.v.
Đại khái có rất nhiều cách mà chỉ trong thời gian ngắn một bác sĩ
có thể phân biệt được vết thương nào là thật, vết thương nào tự tạo.
Tuy nhiên cái khó nhất là xử sự ra sao với tình trạng hủy hoại thân thể.
Tuy nhiên cái khó nhất là xử sự ra sao với tình trạng hủy hoại thân thể.
Trong phần lớn trường hợp, dù biết tôi cũng bỏ qua không báo cáo, vẫn cho xe cứu thương hoặc gọi trực thăng tải thương.
Lần đầu tôi phải đối phó với sự trớ trêu là
tháng 8 năm 1974 khi đi hành quân tăng phái cho Tiểu Khu Chương Thiện,
lúc đó Tỉnh Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Đại Tá Cẩn sau ngày 30 tháng 4
năm 1975 bị Việt Cộng kết án tử hình và xử bắn tại Sân Vận Động Cần
Thơ).
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn hơn tôi khoảng 5
tuổi, có vẻ mặt thư sinh và nho nhã, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhưng
trái với những huyền thoại về một chiến binh can trường, cách nói
chuyện của ông lại rất từ tốn và chín chắn, tuy ông vẫn lấy làm tiếc là
không được học cao nhưng là một quân nhân đúng nghĩa, thương binh sĩ,
chiến đấu hết mình và rất trọng người có học.
Ông tỏ ra rất quý mến tôi, mỗi buổi chiều thường mời ăn cơm chung và những lúc rảnh rỗi ông bỏ ra cả giờ để tâm sự về cuộc đời.
Nhưng một buổi sáng giao tình của chúng tôi
đột nhiên trở nên căng thẳng khi ông "mời" tôi đến thăm "chuồng cọp",
nơi giam giữ các quân nhân bị kỷ luật và các quân nhân tự hủy hoại thân
thể.
Đại Tá Cẩn chỉ một anh lính bị vết thương hoại tử (gangrène) ở mắt cá chân rồi hỏi tôi, rất lịch sự:
"Xin bác sĩ cho biết trường hợp này nếu đưa vào bệnh viện sẽ phải cưa chân tới đâu?"
"Tôi thấy là phải tải thương anh ta ngay,
còn cưa chân tới đâu thì bác sĩ ở bệnh viện mới quyết định đươc". Rồi
tôi cũng gần như quên chuyện này vì quân nhân đó là thuộc cấp của ông
ta, không thuộc quyền tôi.
Nhưng hai, ba hôm sau Đại Tá Cẩn lại mời tôi
tới thăm "chuồng cọp". Tôi ngạc nhiên tới mức không còn phản ứng gì khi
thấy vẫn là anh lính cũ mà vết thương đã nặng hơn nhiều, sốt cao và
gangrène đã tới gần đầu gối, Đại Tá Cẩn vẫn nói rất từ tốn nhưng có vẻ
hơi lạnh lùng:
"Bác sĩ cho biết nếu bây giờ tải thương thì cưa chân tới đâu?"
Tôi trả lời:
"Xin đại tá cho tải thương ngay đi, vì cầm chắc phải cưa tới đầu gối".
"Vậy tôi nhờ bác sĩ mỗi ngày ghé qua đây một lần, khi nào cưa tới háng thì báo cho tôi biết". Bây giờ thì tới lượt tôi nổi nóng:
"Đại tá có đùa với tôi không đấy? Là y sĩ tôi không thể mất nhân tính như vậy được".
Mặt ông ta đột nhiên đỏ bừng và chuyển thái độ xưng hô:
"Anh có biết là chưa có một ai trong Tỉnh này dám trái lệnh tôi không?"
Và cũng là lần đầu tôi lớn tiếng với một sĩ quan cao cấp:
"Tôi
biết, người đầu tiên dám trái lệnh ông là tôi, ngay từ bây giờ ông có
thể kiếm bất cứ ai không dám trái lệnh ông mà hỏi, tôi sẽ không làm việc
với ông nữa".
Rồi cả hai chúng tôi đều quay mặt bỏ đi không nói với nhau thêm lời nào.
Một điều tôi biết chắc chắn là ngoài chiến
trường những Sĩ Quan cao cấp và có toàn quyền như Đại Tá Cẩn, nếu muốn
giết một quân y sĩ như tôi rất dễ dàng, có thể sai bất cứ một thuộc cấp
nào làm rồi đổ cho chiến tranh là xong.
Tối hôm đó khi trở về phòng ngủ, mấy người
lính Quân Y và người cận vệ lo ngại lắm, tổ chức gác vòng trong vòng
ngoài nhưng tôi chỉ biết cám ơn và nói với họ:
"Nếu họ muốn giết mình thì canh gác được tới bao giờ?"
Tôi ngồi viết một bản tường trình nhờ người cận vệ cất giữ để "nếu có gì xẩy ra" sẽ trao cho gia đình tôi.
Qua hai ngày như thế, tới đêm thứ ba thì
bỗng nhiên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đích thân tới phòng tôi mời lên tư dinh để
"nhậu chơi" với thái độ rất hòa hoãn và lịch thiệp.
Trong bữa tiệc rượu chỉ có hai người, ông tâm sự:
"Bác Sĩ có thể xem
thường tôi nhưng thử nghĩ xem, tôi là một quân nhân thuần túy, phải
trừng phạt họ để cảnh cáo chứ tôi cũng biết đau lòng, và nếu ai cũng hủy
hoại thân thể thì lấy ai đánh Việt Cộng?
"Khi đất nước mất rồi thì chúng nó "cưa đầu" tất cả anh em mình, thành ra cái chân của một thằng hèn đâu có nghĩa lý gì?"
Tôi thật sự cảm động với thái độ hết sức lý lẽ của ông ta nên cũng đáp lại:
"Tôi cũng suy nghĩ nhiều mấy ngày hôm nay,
tôi hiểu và cảm phục Đại Tá nhưng mong Đại Tá cũng hiểu cho là những gì
tôi được dạy dỗ từ trong gia đình tới học đường đều là đúng và tôi không
thể thay đổi cách suy nghĩ được".
Đaị Tá Hồ Ngọc Cẩn đã đứng dậy bắt tay tôi rồi nói:
"Tôi thành thật xin lỗi việc vừa qua, sáng mai nhờ Bác Sĩ tải thương binh này sang Quân Y Viện”.
Câu chuyện đã gần 40 năm mà mỗi tháng tư
đến, tôi vẫn nhớ tới Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn như chuyện mới xảy ra hôm qua và
rất khâm phục thái độ “quân tử” của ông.
Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn tiếc là ngày đó mình còn quá trẻ đầy tự ái và cao ngạo. Đúng ra tôi phải tìm đến trước để nói chuyện với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn thì mới phải lẽ!
Mong hương hồn Đại Tá xem đây là một lời tạ lỗi của tôi, dù có hơi muộn màng.
Bác sĩ Nghiêm Hữu Hùng
________________
PS:
Anh Hùng ơi, nếu tháng 4 năm nay anh vẫn còn nhớ tới Đại tá Cẩn thì hãy
ghé lại đài tưởng niệm 7 vị sĩ quan tự sát vào tháng tư, 1975 đặt tại
Viet Museum trên đường Senter, San Jose để thắp cho ông một nén hương.
VCH
MAI LINH LAN * VÒNG XOAY TRÊN ĐẠI LỘ
VÒNG XOAY TRÊN ĐẠI LỘ
MAI LINH LAN
Bữa tiệc chiêu đãi các Phó Giáo sư, Giáo sư mới bổ nhiệm hôm ấy tổ chức ở
một khu resort thật náo nhiệt. Mọi thứ được trang hoàng rực rỡ, sang
trọng khiến ai nấy có mặt đều cảm thấy dễ chịu, hân hoan. Ai dám bảo
giới trí thức chỉ suốt ngày chìm đầu trong nghiên cứu khoa học khô khan
mà không biết hưởng thụ cơ chứ. Thì đây, nhìn những chiếc váy họ mặc,
kiểu tóc họ làm và cả cách họ trò chuyện với nhau cũng đã thể hiện rõ
giới thượng lưu đang rất đỗi hòa nhịp với thời cuộc hiện đại ngày nay.
Tình cũng có mặt ở buổi tiệc hôm đó. Sau khi dạo một vòng chúc tụng các
quan khách, anh thấy chuếnh choáng và lui về phía khu đài phun nước ngồi
đốt thuốc. "Ôi chào Phó Giáo sư Tình!" Giọng một phụ nữ cất lên phía
sau khiến anh giật mình quay lại. Anh còn ngơ ngác khi thấy một phụ nữ
trẻ mặc chiếc váy đỏ rực rỡ, mùi nước hoa thoang thoảng, quyến rũ đang
mỉm cười thì cô gái đã nói: "Anh quên nhanh em thế? Em Tâm- phóng viên
sự kiện của Đài truyền hình đây mà!". "Ồ, xin lỗi, nhưng hôm nay cô lộng
lẫy như công chúa thế này, tôi đúng là không thể nhận ra". "Phó Giáo sư
cũng khéo đùa ghê, em không biết nhưng em cứ tin là thật đấy!" "Tôi nào
dám đùa, cô thử hỏi mọi người xem có phải tôi đang đứng cạnh người phụ
nữ đẹp nhất bữa tiệc hôm nay không". Tâm đỏ mặt, ngồi xuống cạnh Tình.
Họ chuyện trò thân mật như đôi bạn lâu ngày gặp mặt.
Tâm là phóng viên trẻ, cô không xinh nhưng duyên dáng và sắc sảo. Năm
ngoái, khi có quyết định bổ nhiệm chức danh Phó Giáo sư ngành Sinh học
và được trao tặng danh hiệu Phó Giáo sư trẻ nhất miền Bắc, Tình đã được
mời đến trường quay của Đài Truyền hình để thực hiện buổi trò chuyện,
giao lưu. Người phỏng vấn Tình hôm đó chính là Tâm. Một năm không gặp,
Tình thấy cô ngày càng đằm thắm, mặn mà hơn. Cuối buổi, Tâm nói rất vui
khi gặp lại Tình và hẹn sẽ sớm liên lạc anh.
Nhiều lần sau đó, khi thì Tâm chủ động liên lạc với Tình để xin ý kiến
về mấy chương trình liên quan đến chuyên ngành sinh học của anh. Lúc lại
nói muốn gặp để tâm sự với anh. Chẳng hiểu sao, mỗi lần nhận được tin
nhắn, cuộc gọi của Tâm, dù câu chuyện rất ngắn ngủi, vu vơ nhưng Tình
thấy thật ấm áp. Và dù có bận đến mấy, anh cũng sắp xếp gặp Tâm. Càng
tiếp xúc với Tâm, Tình càng thấy mình trẻ ra, anh như sống lại hồi mới
yêu. Tâm có dáng cao, rất thông minh, cách nói chuyện của cô thật khéo
léo và cuốn hút. Tâm chăm chú nghe anh nói về việc nghiên cứu khoa học
của Tình với vẻ rất say mê. Có một điều đặc biệt là Tâm không bao giờ
hỏi chuyện gia đình của Tình. Cô thẳng thắn và cũng rất tôn trọng Tình.
Không bao giờ cô gọi điện, nhắn tin vòi vĩnh anh bất cứ điều gì, cũng
chẳng hề đòi hỏi Tình phải có bất cứ trách nhiệm nào với mình. Ngày
trước, Tình tưởng phụ nữ nào cũng chỉ thích hoa thơm và áo đẹp, thích
õng ẹo, vòi vĩnh trước mặt người yêu. Nhưng với Tâm thì hoàn toàn ngược
lại. Rất tự nhiên, Tình coi cô là tri kỷ, một người sẵn lòng nghe anh
tâm sự, cho anh lời khuyên trong cuộc sống. Tình càng cảm thông hơn khi
biết hoàn cảnh hiện tại của Tâm. Cô đã ly hôn chồng được gần 2 năm.
Chồng Tâm làm kinh doanh ở Công ty lớn, vốn không chịu được công việc đi
tối ngày của cô nên muốn vợ nghỉ việc chỉ ở nhà sinh con và làm nội
trợ. Tâm không thể chấp nhận điều đó. Và họ đã chia tay.
***
DÂN LỘC HÀ BAO VÂY TRỤ SỞ UBND HUYỆN
Sau cả năm chịu tác động, đến nay cuộc sống của họ ra sao?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/formosa-victims-in-desperate-flight-gm-03312017094547.html
Thảm họa môi trường do nhà máy thép Formosa ở Vũng Áng, Hà Tĩnh xả hóa
chất ra biển khiến cá, hải sản chết hằng loạt gây tác động nặng nề đến
cuộc sống người dân sống ven biển các tỉnh miền Trung.
Lệnh của ông Donald Trump nhằm xem xét lại "lý do và thủ phạm" gây thâm hụt thương mại lên tới hơn 500 tỷ USD mỗi năm với 16 quốc gia, trong đó lớn nhất là Trung Quốc.
Thông báo được đưa ra chỉ vài ngày trước cuộc gặp chính thức đầu tiên
giữa Tổng thống Hoa Kỳ với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Florida
tuần này.
Nhiều nhà quan sát đánh giá đây là dấu hiệu cảnh báo Bắc Kinh, dù Washington nhấn mạnh lệnh của Tổng thống Trump không tập trung cụ thể vào bất kỳ một quốc gia nào.
Bản thân ông Trump không tiếc lời chỉ trích các nền kinh tế nói trên.
"Họ là những kẻ lừa đảo. Từ giờ trở đi, những ai phá luật sẽ phải chịu hậu quả và sẽ có những hậu quả nghiêm trọng," Tổng thống Trump nói mà không nhắc tên bất kỳ nước nào.
Phát biểu tại Phòng Bầu Dục hôm 31/03/2017 sau khi ký sắc lệnh, ông nói:
"Hàng nghìn nhà máy bị đánh cắp đi khỏi đất nước chúng ta, nhưng những người Mỹ không có tiếng nói nay đã có tiếng nói của họ trong Tòa Bạch Ốc. Chính quyền của tôi sẽ chấm dứt các vụ trộm cắp sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ bảo vệ nền công nghiệp của mình và tạo ra sân chơi bình đẳng cho người lao động Mỹ."
Lệnh này cũng sẽ khởi động cuộc điều tra "từng quốc gia một, từng sản phẩm một" trong 90 ngày, theo Bộ trưởng Thương mại Wilbur Ross.
Điều tra sẽ truy tìm chứng cứ cho thấy có "lừa đảo", các hành vi sai phạm, thỏa thuận thương mại không đúng cam kết, thi hành lỏng lẻo, sai lệch về tiền tệ và "những giới hạn gây phiền nhiễu của Tổ chức Thương mại Quốc tế", trang Investvine dẫn lời.
Trang USA Today
trích lời ông Peter Navarro, cố vấn thương mại cao cấp của tổng thống,
nói đây là phần "cực điểm" trong lời hứa mang lại công việc cho người Mỹ
được đưa ra từ chiến dịch tranh cử của ông Trump.
"Hôm nay, đây là khởi đầu của việc thực hiện những lời hứa đó một cách vĩ đại," tiến sỹ Navarro nói.
Thư ký báo chí Nhà Trắng, Sean Spicer nói nhiều quốc gia "bán phá giá hàng hóa giá trị thấp" vào thị trường Hoa Kỳ, khiến doanh nghiệp nội địa "không thể" cạnh tranh với mức "giá rẻ giả tạo".
"Vấn đề này đặc biệt xuất hiện ở những quốc gia mà chính quyền trợ cấp xuất khẩu hàng hóa sang đất nước chúng ta. Vậy, để ngăn cách làm này, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ có cơ chế đánh giá cách giao dịch kiểu này và áp dụng hình phạt tài chính, được gọi là thuế chống trợ cấp, khi cơ quan này xác định có xảy ra tình trạng bán phá giá độc hại," Financial Time dẫn lời ông Spicer nói.
Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ lớn nhất với Trung Quốc (347 tỷ USD), Nhật Bản 68,9 tỷ USD; với Việt Nam, con số này là 32 tỷ USD.
Bộ trưởng Wilbur Ross giải thích thêm, con số thâm hụt thương mại không hoàn toàn do các thỏa thuận thiếu công bằng hay gian lận mà còn do lượng nhập khẩu dầu của Hoa Kỳ, hoặc việc buộc phải nhập khẩu một số sản phẩm Hoa Kỳ không sản xuất, Investvine viết.
Dự kiến vấn đề này cũng sẽ được đưa vào lịch trình trong cuộc gặp Donald Trump - Tập Cận Bình ở khu nghỉ dưỡng Mar-a-Lago, Florida sắp tới.
http://www.bbc.com/vietnamese/business-39482697
Tình thắp nến. Ánh sáng lung linh khắp gian phòng. Chiếc bánh ga tô 2
tầng màu hồng và lọ hoa hướng dương – loài hoa Tâm thích nhất đã sẵn
sàng chào đón chủ nhân của bữa tiệc sinh nhật. Tâm mở cửa bước vào, ngạc
nhiên và tràn đầy sung sướng khi thấy Tình ngồi bên bàn tiệc. Cô nhào
tới ôm chặt anh. Tình thì thầm "Chúc mừng công chúa của anh bước sang
tuổi 28". Tâm khóc, đã rất lâu rồi, cô mới lại có cảm giác êm đềm như
vậy. Hôm nay, biết Tâm đi làm sự kiện muộn, Tình đã đến chung cư, chuẩn
bị món quà bất ngờ chờ đón cô về.
Tình kéo ghế giúp Tâm ngồi xuống, anh mở điệu valse nhè nhẹ, rồi rót
rượu. Ly rượu vang đỏ sóng sánh in hình hai người đang chìm đắm trong
hạnh phúc ngất ngây. Tình tiến tới ôm eo Tâm: "Em hãy thổi nến và hãy
ước nguyện một điều đi".
"Em ước anh luôn được hạnh phúc"- Tâm nhắm mắt, chắp tay trước ngực mỉm cười.
"Sao em lại ước cho anh, hôm nay sinh nhật em, em phải ước cho mình chứ"- Tình ngạc nhiên.
"Đương nhiên là em ước cho em rồi. Vì anh hạnh phúc, em cũng sẽ hạnh phúc".
Tâm xoay người lại, đôi mắt ươn ướt của cô ngước nhìn Tình đắm đuối.
Tình cảm động thật sự, anh hiểu cô nói thật lòng. Lúc này cảm xúc dâng
lên trong anh không chỉ là tình yêu, đó còn là sự biết ơn, đúng là anh
đang biết ơn Tâm vì đã ở bên anh, thấu hiểu và sẵn sàng sẻ chia với anh.
Thời buổi này, tình yêu chân thật hiếm lắm. Người ta gắn mác hai chữ
tình yêu nhưng thực ra đến với nhau vì vụ lợi, người ham nhục dục, kẻ
muốn đổi tiền tài, địa vị từ thân xác. Nhưng Tình cảm nhận được tình yêu
Tâm dành cho mình khác xa những điều ấy. Chuyện tình cảm không giống
như việc nghiên cứu khoa học mà anh sẽ chứng minh được tính chính xác ở
trong phòng thí nghiệm. Gia đình Tâm có điều kiện kinh tế, chưa đầy 30
tuổi cô đã có một căn hộ hạng sang ở chung cư, ngoài làm phóng viên mảng
sự kiện của Đài Truyền hình, cô còn là chủ một shop thời trang đắt
khách. Còn anh, một Phó Giáo sư gần nửa đời người mài đũng quần cho việc
nghiên cứu, tài sản nhiều nhất, quý giá nhất chỉ là kho sách vở. So với
bạn bè cùng trang lứa, kinh tế của anh không giàu cũng chẳng nghèo.
Vậy, chắc chắn Tâm đến với anh không phải vì tiền? Thế còn địa vị? Anh
cũng chỉ là Viện Phó Viện Nghiên cứu Khoa học sự sống của vùng, có hề gì
với chức danh Giám đốc Doanh nghiệp làm ăn phát đạt như bố của Tâm.
Tình cảm vốn dĩ bắt đầu và chỉ bền chặt khi hai con tim biết đồng cảm.
Tình hiểu rất rõ điều ấy. Với những gì Tâm dành cho anh, anh tin mình
đang đón nhận một tình yêu chân thành. Tâm rất cá tính, mạnh mẽ, hiện
đại nhưng cũng rất truyền thống, điều ấy đã hấp dẫn, lôi cuốn anh.
"Anh nghĩ gì mà thần người ra thế?"- Tâm khẽ lay vai anh.
"À, anh chỉ đang hạnh phúc thôi, chưa có ai quan tâm và hiểu anh như em?"
"Suỵt"- Tâm giơ tay bịt miệng Tình, rồi khẽ đặt vào đó một cái hôn dài,
nồng cháy. Nụ hôn lẫn men rượu vang đỏ và cả hương thơm, hơi thở nồng
nàn của người phụ nữ đương xuân thì mãnh liệt lửa yêu.
***
Suốt hai năm sau phẫu thuật chữa trị ung thư cho vợ, Tình đã phải bán
gần như toàn bộ gia sản. Vợ chồng anh bây giờ ở trong một ngôi nhà nhỏ
cách xa trung tâm thành phố. Nhưng may sao, sau ca phẫu thuật, sức khỏe
vợ anh đã hồi phục nhanh chóng. Bác sĩ nói rằng, chính tình yêu, sự quan
tâm của người thân đã khiến tâm lý cô ấy hưng phấn, giúp liệu trình
điều trị hiệu quả hơn rất nhiều. Vợ anh là tuýp phụ nữ hết lòng với công
việc và chu toàn với gia đình. Cũng bận rộn với chuyên môn ở Viện
Nghiên cứu như anh nhưng chuyện nhà cô ấy vẫn lo chu toàn. Chị lúc nào
cũng nhận phần thua thiệt về mình để chồng vui, giữ hạnh phúc gia đình
yên ấm. Trong nhà anh chưa bao giờ xảy ra chuyện vợ chồng to tiếng. Vợ
anh cũng chưa bao giờ nghi ngờ anh có tình cảm với một cô gái nào khác.
Ai cũng nói, gia đình anh đúng là hình mẫu hôn nhân lý tưởng của giới
trí thức.
Khi tỉnh táo trở lại, nhìn thấy anh vừa việc cơ quan, vừa chăm nom con
cái, lại chạy vào viện lo cho vợ, chị đã rất xúc động. Điều đó phần nào
khiến cảm giác tội lỗi của anh nhẹ đi rất nhiều. Dù đôi lúc căng thẳng
trong công việc, mệt mỏi vì áp lực kiếm tiền khiến anh cồn cào nhớ Tâm,
muốn đến dựa vào vai cô để nghỉ, trút mọi tâm sự buồn vui. Nhưng mỗi lần
nhìn vợ đau đớn trên giường bệnh, suy nghĩ ấy trong anh lại bị dập tắt.
Anh thấy quyết định rời xa Tâm của mình là hoàn toàn đúng đắn. Khi phải
dứt bỏ đam mê của mình, ai mà không xót xa, nuối tiếc. Nhưng rồi mọi
chuyện sẽ qua nhanh thôi. Anh tự nhủ: "Vợ mày thật tội nghiệp. Nếu mày
đến với Tâm lúc này, chẳng phải mày là một thằng đàn ông khốn nạn hay
sao. Còn Tâm, cô ấy phải xây dựng hạnh phúc mới chứ đâu thể mãi là tình
nhân của mày được!". Anh nhớ lại buổi chiều hôm ấy, anh đã phải rất dũng
cảm để đến gặp và nói lời chia tay Tâm. Thật ngạc nhiên khi nghe xong,
cô ấy rất bình thản. Tâm còn cảm ơn anh vì đã dành cho mình quãng thời
gian hạnh phúc vừa qua và dặn dò anh hãy chăm sóc vợ thật tốt. Điều ấy,
càng làm Tình cảm thấy day dứt hơn. Hóa ra, trong lòng mỗi người đàn ông
cũng có những hố sâu vực thẳm tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua
được. Từ đó đến nay, Tâm chủ động cắt liên lạc với Tình. Cô đổi số và
chuyển luôn chỗ làm. Cái thành phố này tưởng chừng rất nhỏ bé nhưng khi
ta muốn tránh mặt ai thì việc tìm thấy nhau cũng không phải dễ. Tình coi
khoảng thời gian bên Tâm chỉ là một giấc mơ đẹp, mà giấc mơ vốn không
lặp lại hai lần. Anh dành toàn tâm, toàn ý cho gia đình, động viên và
luôn bên vợ mỗi ngày.
Vợ anh khỏe lại, vui vẻ như xưa. Rồi bất ngờ chị quyết định sang Pháp để
hoàn thành nốt luận án nghiên cứu sinh mà cách đây ba năm chị đang thực
hiện dang dở. Ngày bố con anh tiễn vợ ra sân bay, chị cúi xuống hôn và
ôm hai bố con thật chặt. Cậu con trai vít cổ mẹ nói lớn: "Mẹ ơi, mẹ đi
nhanh nhanh về với con, con nhớ mẹ lắm". Anh nhìn chị, đôi mắt tràn đầy
hy vọng.
... Chưa đầy 1 tháng nữa là ngày vợ về nước. Tình vừa xem lịch vừa mỉm
cười đánh dấu. Anh muốn dành cho vợ một bất ngờ nho nhỏ ở tổ ấm mới.
Đang miên man trong dòng suy nghĩ, chợt Tình nghe tiếng người bưu tá gọi
báo có bưu phẩm. Anh mở cổng, bước ra ký nhận. Đó là một hộp quà, địa
chỉ từ Paris - Pháp. Chẳng lẽ là vợ anh? Cô ấy vẫn thường gửi những món
quà nho nhỏ cho cha con anh trong suốt thời gian bên đó. Anh mở hộp quà,
đập vào mắt anh là bức thư vợ anh viết: "Anh ơi! Em là một phụ nữ không
ra gì. Xin anh hãy cứ mắng và chửi em đi. Nhưng em đã yêu và chuẩn bị
cưới một Việt Kiều bên này, tên anh ấy là John Việt. Em đang mang giọt
máu của anh ấy. Chúng em cùng làm việc ở một Viện Nghiên cứu ngay
Paris". Tình bỏ cặp kính, anh choáng váng, mồ hôi vã ra và ngồi bệt
xuống bậc cửa. Tay anh run run dở tiếp bức thư đọc dở: "Anh hãy tha thứ
cho em bởi những lời em nói trong đây đều là sự thật. Em yêu John thật
lòng từ đợt nghiên cứu sinh trước đó. Khi trở về biết mình bị bệnh, em
đã suy sụp hoàn toàn. 2 năm qua, anh làm tất cả, luôn bên em khi em đau
yếu. Em thấy ân hận quá. Em đã quyết tâm quên anh ấy. Nhưng rồi em nhận
ra, em không thể sống thiếu John. Nếu cứ duy trì hôn nhân với anh để che
mắt mọi người, e rằng chúng ta chỉ càng làm khổ nhau hơn. Xin anh hãy
tha thứ cho em. Em chỉ mong, anh hãy chăm sóc tốt con trai chúng ta. Em
tin anh sẽ tìm được người phụ nữ tốt hơn em. Ngàn lần tạ lỗi và chúc anh
hạnh phúc!"...
Tình gục xuống bậc cửa. Chiếc hộp vuông đựng chiếc nhẫn đính hôn của vợ
anh kèm và bức thư rơi xuống. Trước mắt anh bỗng hiện ra rõ rệt vòng
xoay sáng màu của Đại lộ Champs-Elysées cho đến Quảng trường Concorde
tại thủ đô Paris hoa lệ. Nơi này ngày trước, anh và vợ qua sự mai mối
của cô em họ đã gặp nhau, cùng viết lên câu chuyện tình yêu ngọt ngào.
Vòng quay bỗng quay rất nhanh, ánh sáng của nó làm anh bị lóa mắt, mất
phương hướng. Bỗng, anh va phải một phụ nữ mặc chiếc váy len đỏ đi ngược
chiều làm chiếc cốc đựng nến và hộp nhạc trên tay cô ta rơi xuống đất.
Anh cúi xuống nhặt, cố gắng chạy theo đưa trả nhưng người phụ nữ rảo
bước nhanh quá, phút chốc đã mất hút giữa những quầng sáng đổi màu liên
tục trên đại lộ...
Mai Linh Lan
TIN TỨC QUỐC TẾ
Công bố một số quan chức bị đề nghị chế tài theo luật Magnitsky
RFA
2017-04-03
2017-04-03
Hồ sơ số 1 những quan chức Việt Nam bị chế tài theo Luật Magnitsky được
Uỷ ban cứu người vượt biển BPSOS công bố ngày 3/4. Hồ sơ này bao gồm 25
nhân vật liên can đến các hành vi tra tấn đối với Mục Sư Nguyễn Công
Chính và vợ là Bà Trần Thị Hồng. Một số nhân vật điển hình trong hồ sơ
như Đại Tá Vũ Văn Lâu, Giám Đốc Sở Công An Tỉnh Gia Lai, Đại Tá Nguyễn
Văn Long, Giám Đốc Sở Công An Thành Phố Pleiku, Đại Tá Nguyễn Văn Trạch,
nguyên Phó Giám Đốc Sở Công An Tỉnh Gia Lai, Ông Lê Văn Hà, Chánh Án
Toà Án Nhân Dân Tỉnh Gia Lai,…
Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS cho biết 25
nhân vật trong hồ sơ này không chỉ bị cấm nhập cảnh mà cả vợ, chồng, con
đều bị cấm nhập cảnh vào Hoa Kỳ, và nếu những người này đang ở Hoa Kỳ
thì sẽ bị trục xuất.
Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế chính thức chọn hồ sơ số 1 này
cho Đề Án Tù Nhân Lương Tâm Tôn Giáo. Đề án này là nỗ lực của Uỷ Hội để
cung cấp dữ kiện cho Hành Pháp Hoa Kỳ trong việc đưa một số quốc gia,
trong đó có Việt Nam, vào danh sách Quốc Gia Phải Quan Tâm Đặc Biệt
(CPC) và sẽ được công bố vào ngày 6/4 tới đây tại Quốc Hội Hoa Kỳ.
Bấm vào đây để đọc nguyên văn 'Hồ Sơ Số 1 do BPSOS chuyển sang Quốc Hội Hoa Kỳ'
5 bộ hồ sơ còn lại sẽ lần lượt được công bố vào những thời điểm phù hợp
trong những tháng sắp tới. Hiện tại BPSOS vẫn đang thu thập thêm hồ sơ
mới để mở rộng tầm ảnh hưởng cho cuộc vận động chế tài các thủ phạm đàn
áp nhân quyền ở Việt Nam.
6 bộ hồ sơ năm nay được lựa chọn dựa theo các tiêu chuẩn: Sự đàn áp
nghiêm trọng vì xảy ra hành vi tra tấn hay đánh chết người, Nạn nhân là
những người tranh đấu cho nhân quyền, Hồ sơ khả tín vì đã được quốc tế,
nhất là chính quyền Hoa Kỳ, công nhận, Vấn đề trách nhiệm có thể truy
cứu đến những giới chức chính quyền.
Luật Magnitsky Toàn Cầu có mục đích để chế tài từng cá nhân giới chức
chính quyền liên can đến hành vi đàn áp nhân quyền một cách trầm trọng.
Các biện pháp chế tài bao gồm cấm thủ phạm nhập cảnh và đóng băng tài
sản ở Hoa Kỳ của họ.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/the-list-of-168-vn-official-sanctioned-by-magnitsky-act-has-been-completed-04032017081320.html
RFA
2017-04-03
2017-04-03
Tuyên bố với báo chí vào chiều ngày 3/4, Chủ tịch UBND huyện Lộc Hà, ông
Lê Trung Phước, cho biết: “Lực lượng công an sẽ điều tra làm rõ và xử
lý nghiêm các đối tượng bao vây trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện sáng ngày
3/4/2017”.
Ông Lê Trung Phước nhấn mạnh: “Việc tụ tập đông người, hò hét, gây cản trở công việc, an toàn trật tự tại trụ sở Nhà nước là vi phạm pháp luật. Chính quyền đã tuyên truyền người dân hãy bình tĩnh và cảnh giác trước mọi âm mưu gây kích động”.
Cùng quan điểm này, bà Nguyễn Thị Hà Tân, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh cũng khẳng định: “Việc người dân tụ tập, cản trở, gây mất trật tự ở huyện Lộc Hà ngày hôm nay là hành động quá khích. Việc tụ tập đông người vừa gây mất an toàn, trật tự trị an, vừa ảnh hưởng đến việc sản xuất, buôn bán, ra khơi bám biển. Yêu cầu bà con cần nâng cao cảnh giác, tránh bị đối tượng xấu lợi dụng, kích động. Nếu không cảnh tỉnh thì vô tình vi phạm pháp luật”.
Tin cho hay, hàng nghìn người dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, biểu tình và tràn vào chiếm Ủy ban nhân dân huyện Hà Tĩnh trong vài giờ đồng hồ vào sáng ngày 3 tháng tư.
Một người dân tham gia biểu tình trong ngày 3 tháng tư đến Ủy ban Nhân dân Huyện Lộc Hà cho Đài Á Châu Tự do biết vào lúc 5:30 chiều ngày 3 tháng tư như sau:
“Vào đêm 2 tháng tư, công an trà trộn vào những bạn trẻ uống cà phê để áp đảo dân: một công an huyện và một công an xã đánh dân bị thương tích và nổ súng.
Sáng 3 tháng Tư chúng tôi tập trung lên huyện đòi hỏi thứ nhất sao công an đánh đập dân công an xã sao có quyền dùng súng, nổ súng.
Thứ hai đòi hỏi về việc bôi nhọ linh mục đoàn và giám mục Giáo phận Vinh.
Thứ ba đòi hỏi về việc đền bù cho người dân đã kê khai, số hàng đã lập văn bản, kê khai nhưng đến nay không giải quyết.”
Tin từ những người trong cuộc cho biết, có tình tạng công an mặc thường phục trà trộn vào với người dân biểu tình và gây ra đánh nhau. Có tin hai công an bị thương và người thân của nạn nhân cùng cơ quan chức năng phải giải quyết. Cuối cùng người dân yêu cầu viết cam kết và để hai nạn nhân được đi cấp cứu.
Đại diện ủy ban nhân dân huyện cũng hứa vào ngày 4 tháng 4 gửi giấy mời đến dân chúng địa phương ở Lộc Hà để giải quyết những yêu cầu mà dân đưa ra trong ngày 3 tháng tư.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/protest-at-locha-people-committee-update-04032017080118.htmlÔng Lê Trung Phước nhấn mạnh: “Việc tụ tập đông người, hò hét, gây cản trở công việc, an toàn trật tự tại trụ sở Nhà nước là vi phạm pháp luật. Chính quyền đã tuyên truyền người dân hãy bình tĩnh và cảnh giác trước mọi âm mưu gây kích động”.
Cùng quan điểm này, bà Nguyễn Thị Hà Tân, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh cũng khẳng định: “Việc người dân tụ tập, cản trở, gây mất trật tự ở huyện Lộc Hà ngày hôm nay là hành động quá khích. Việc tụ tập đông người vừa gây mất an toàn, trật tự trị an, vừa ảnh hưởng đến việc sản xuất, buôn bán, ra khơi bám biển. Yêu cầu bà con cần nâng cao cảnh giác, tránh bị đối tượng xấu lợi dụng, kích động. Nếu không cảnh tỉnh thì vô tình vi phạm pháp luật”.
Chúng tôi tập trung lên huyện đòi hỏi thứ nhất sao công an đánh đập dân công an xã sao có quyền dùng súng, nổ súng. Thứ hai đòi hỏi về việc bôi nhọ linh mục đoàn và giám mục Giáo phận Vinh.Bà Nguyễn Thị Hà Tân cảnh báo những người biểu tình: “Việc chi trả bồi thường sự cố môi trường biển, chính quyền địa phương sẽ giải quyết sớm trên cơ sở yêu cầu, nguyện vọng và thiệt hại chính đáng của người dân. Đối với những đối tượng kích động, gây mất trật tự nơi công cộng sẽ bị cơ quan công an điều tra, xử lý nghiêm trước pháp luật”.
- Một người tham gia biểu tình -
Biểu tình phản đối công an đánh dân
Trong khi đó các nguồn tin tại chỗ cho biết, lý do khiến hàng ngàn người dân tụ tập trước trụ sở Ủy ban Nhân dân huyện Lộc Hà sáng 3/4 là nhằm yêu câu chính quyền giải quyết vụ công an đánh dân xảy ra vào tối trước đó, Chủ nhật 2/4/2017.Tin cho hay, hàng nghìn người dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, biểu tình và tràn vào chiếm Ủy ban nhân dân huyện Hà Tĩnh trong vài giờ đồng hồ vào sáng ngày 3 tháng tư.
Một người dân tham gia biểu tình trong ngày 3 tháng tư đến Ủy ban Nhân dân Huyện Lộc Hà cho Đài Á Châu Tự do biết vào lúc 5:30 chiều ngày 3 tháng tư như sau:
“Vào đêm 2 tháng tư, công an trà trộn vào những bạn trẻ uống cà phê để áp đảo dân: một công an huyện và một công an xã đánh dân bị thương tích và nổ súng.
Sáng 3 tháng Tư chúng tôi tập trung lên huyện đòi hỏi thứ nhất sao công an đánh đập dân công an xã sao có quyền dùng súng, nổ súng.
Thứ hai đòi hỏi về việc bôi nhọ linh mục đoàn và giám mục Giáo phận Vinh.
Thứ ba đòi hỏi về việc đền bù cho người dân đã kê khai, số hàng đã lập văn bản, kê khai nhưng đến nay không giải quyết.”
Tin từ những người trong cuộc cho biết, có tình tạng công an mặc thường phục trà trộn vào với người dân biểu tình và gây ra đánh nhau. Có tin hai công an bị thương và người thân của nạn nhân cùng cơ quan chức năng phải giải quyết. Cuối cùng người dân yêu cầu viết cam kết và để hai nạn nhân được đi cấp cứu.
Đại diện ủy ban nhân dân huyện cũng hứa vào ngày 4 tháng 4 gửi giấy mời đến dân chúng địa phương ở Lộc Hà để giải quyết những yêu cầu mà dân đưa ra trong ngày 3 tháng tư.
Nạn nhân Formosa trong tình cảnh ngặt nghèo
Gia Minh, RFA
2017-03-31
2017-03-31
Sau cả năm chịu tác động, đến nay cuộc sống của họ ra sao?
Một người dân tại xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh vào chiều 30
tháng 3 cho Gia Minh biết về tình cảnh hiện nay của họ. Trước hết ông
này thông tin về hành xử của chính quyền đối với người dân ra xã biểu
tỉnh từ ngày 28 tháng 3:
Ba ngày vừa rồi thì trước hết có dân quân của xã cũng như công an xã đàn
áp dân. Sau khi được tin như vậy bà con vào nhiều hơn, gây áp lực thì
họ lẩn trốn. Dân chúng bây giờ rất phẫn nộ đợi Ủy ban nhân dân xã ra để
hỏi. Và bây giờ họ lẩn trốn không ra gặp dân.
Bây giờ cuộc sống của người dân coi như là đói hẳn rồi. Giờ lấy gì mà ăn?
- Người dân Thạch Bằng
Gia Minh: Lâu nay báo Nghệ an, báo Hà Tĩnh, Đài truyền hình
Trung ương cho rằng người dân bị các linh mục ở Vinh kích động để đi
biểu tình. Là người đang đòi hỏi quyền lợi thì ông thấy điều mà báo chí
và truyền hình nhà nước nói ra sao?
Người dân Thạch Bằng: Thưa anh, hiện nay truyền hình nhà nước bảo
vệ chính quyền chứ không bảo vệ cho người dân cho nên bây giờ nói sai
lệch thông tin tất cả. Mong toàn thế giới hiểu cho rằng thông tin của
nhà nước sai lệch, bóp méo sự thật.
Gia Minh: Suốt cả năm nay không có công ăn việc làm, không có
kế mưu sinh thì làm sao mà sống được? Và mọi người có cách nào để mà tồn
tại trong thời gian qua?
Người dân Thạch Bằng: Hiện nay người dân không có việc làm. Biển
cả đi đánh bắt về không ai mua để ăn vì cũng sợ cho nên mất việc hoàn
toàn, thất nghiệp. Nói chung, người đi biển cũng như người buôn bán tại
chợ đi các tỉnh thì hiện nay đang bị thất nghiệp. Thời gian vừa qua có
nguy cơ ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Bây giờ người dân trông chờ
ở biển, trông chờ đi chợ, buôn bán… Các ngành nghề bị ‘dập tắt’ tất cả
nên có nguy cơ dẫn đến tình trạng chết đói.
Trong xã Thạch Bằng, hiện nay người đông mà đất thì chật. Nếu mà chuyển
đổi ngành nghề thì không có vì đất chật mà người thì đông.Vốn thì nhà
nước nói cho vay nhưng cũng không có cho vay để phát triển các nghề
nghiệp khác. Dân chúng tôi, riêng ở đây không có ngành nghề nào khác
ngoài đi biển và buôn bán. Và bây giờ trông chờ ở biển bình yên và biển
phải sạch thì mưu sinh của chúng tôi mới có được, cuộc sống mới bình
yên.
Nghề nghiệp hiện nay đã là thất thu hoàn toàn. Bây giờ giới trẻ một số đã đi Thái Lan, Campuchia để kiếm việc làm.
- Người dân Thạch Bằng
Gia Minh: Thực tế lâu nay làm sao sống được khi không có gì để sống và lấy gì mà sống?
Người dân Thạch Bằng: Bây giờ cuộc sống của người dân coi như là
đói hẳn rồi. Giờ lấy gì mà ăn? Mọi người vay mượn kiếm kế để đủ sống
hằng ngày. Bây giờ đang đi vay mượn. Anh thì mượn em; Em thì mượn chị;
Chị thì mượn bác; Bác thì mượn cô… Anh em mình ở xa quê cung cấp về để
anh em mình có cuộc sống tạm qua những ngày tháng vừa rồi.Tính đến nay,
không có nghề nghiệp gì nữa thì có thể là chuyển di cư vào miền Nam hoặc
là đi Thái Lan hay Campuchia làm ăn chứ ở đây không thể đảm bảo cuộc
sống được.
Nghề nghiệp hiện nay đã là thất thu hoàn toàn. Bây giờ giới trẻ một số
đã đi Thái Lan, Campuchia để kiếm việc làm. Và hiện nay tương lai ăn học
của các em cũng không còn nữa. Cha mẹ không có tiền cung cấp cho con ăn
học. Nguy cơ ảnh hưởng rất lâu dài sau nầy. Một số các em trung cấp,
đại học đã bỏ học. Chương trình 3 năm mà mới học có 2 năm cũng đã bỏ. Và
sẽ dẫn đến thất học hoàn toàn.
Gia Minh: Ngay sau khi thảm họa xảy ra thì có một số tổ chức cứu trợ. Vậy lúc nầy ông thấy chuyện cứu trợ có còn không?
Người dân Thạch Bằng: Khi bắt đầu chịu ảnh hưởng từ tháng 4 thì
đến tháng 5 thì có một số hội Chữ Thập Đỏ, Địa phận Vinh rồi một số hội
Bác Ái ở các vùng Sài Gòn ra. Tháng 5, tháng 6, các nhà Tình Thương cho
mỗi gia đình từ 5 kilô gạo đến 1hoặc 2 yến. Cuộc sống từ tháng 4 cho đến
tháng 8 cuộc sống cũng qua ngày được nhờ sự cứu trợ của các hội Chữ
Thập Đỏ, của các ân nhân, của Mái ấm tình Thương; nhất là ở địa phận
Vinh cũng như của các xứ ở gần tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An đã cung cấp gạo
cho bà con tạm ổn mấy tháng vừa qua. Bây giờ thì đã cạn kiệt cũng như
địa phận Vinh cũng đã cạn kiệt, không có để mà cứu trợ cho dân.
Gia Minh: Cảm ơn ông rất nhiều về những thông tin mà ông vừa cho biết.
Quốc hội Đài Loan buộc Formosa phải rời khỏi VN , phút thứ 7 trở đi
Việt Nam nằm trong danh sách những quốc gia 'gian lận thương mại' vừa bị Tổng thống Hoa Kỳ ký lệnh hành pháp hôm 31/03.
Ngoài Việt Nam và Trung Quốc, các quốc gia trong danh sách này còn có
Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia, Malaysia,
Pháp, Thụy Sĩ, Đức, Mexico, Ireland, Ý, Canada.Lệnh của ông Donald Trump nhằm xem xét lại "lý do và thủ phạm" gây thâm hụt thương mại lên tới hơn 500 tỷ USD mỗi năm với 16 quốc gia, trong đó lớn nhất là Trung Quốc.
Nhiều nhà quan sát đánh giá đây là dấu hiệu cảnh báo Bắc Kinh, dù Washington nhấn mạnh lệnh của Tổng thống Trump không tập trung cụ thể vào bất kỳ một quốc gia nào.
Bản thân ông Trump không tiếc lời chỉ trích các nền kinh tế nói trên.
"Họ là những kẻ lừa đảo. Từ giờ trở đi, những ai phá luật sẽ phải chịu hậu quả và sẽ có những hậu quả nghiêm trọng," Tổng thống Trump nói mà không nhắc tên bất kỳ nước nào.
Phát biểu tại Phòng Bầu Dục hôm 31/03/2017 sau khi ký sắc lệnh, ông nói:
"Hàng nghìn nhà máy bị đánh cắp đi khỏi đất nước chúng ta, nhưng những người Mỹ không có tiếng nói nay đã có tiếng nói của họ trong Tòa Bạch Ốc. Chính quyền của tôi sẽ chấm dứt các vụ trộm cắp sự thịnh vượng của Hoa Kỳ. Chúng ta sẽ bảo vệ nền công nghiệp của mình và tạo ra sân chơi bình đẳng cho người lao động Mỹ."
Lệnh này cũng sẽ khởi động cuộc điều tra "từng quốc gia một, từng sản phẩm một" trong 90 ngày, theo Bộ trưởng Thương mại Wilbur Ross.
Điều tra sẽ truy tìm chứng cứ cho thấy có "lừa đảo", các hành vi sai phạm, thỏa thuận thương mại không đúng cam kết, thi hành lỏng lẻo, sai lệch về tiền tệ và "những giới hạn gây phiền nhiễu của Tổ chức Thương mại Quốc tế", trang Investvine dẫn lời.
'Bán phá giá'
"Hôm nay, đây là khởi đầu của việc thực hiện những lời hứa đó một cách vĩ đại," tiến sỹ Navarro nói.
Thư ký báo chí Nhà Trắng, Sean Spicer nói nhiều quốc gia "bán phá giá hàng hóa giá trị thấp" vào thị trường Hoa Kỳ, khiến doanh nghiệp nội địa "không thể" cạnh tranh với mức "giá rẻ giả tạo".
"Vấn đề này đặc biệt xuất hiện ở những quốc gia mà chính quyền trợ cấp xuất khẩu hàng hóa sang đất nước chúng ta. Vậy, để ngăn cách làm này, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ có cơ chế đánh giá cách giao dịch kiểu này và áp dụng hình phạt tài chính, được gọi là thuế chống trợ cấp, khi cơ quan này xác định có xảy ra tình trạng bán phá giá độc hại," Financial Time dẫn lời ông Spicer nói.
Thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ lớn nhất với Trung Quốc (347 tỷ USD), Nhật Bản 68,9 tỷ USD; với Việt Nam, con số này là 32 tỷ USD.
Bộ trưởng Wilbur Ross giải thích thêm, con số thâm hụt thương mại không hoàn toàn do các thỏa thuận thiếu công bằng hay gian lận mà còn do lượng nhập khẩu dầu của Hoa Kỳ, hoặc việc buộc phải nhập khẩu một số sản phẩm Hoa Kỳ không sản xuất, Investvine viết.
Dự kiến vấn đề này cũng sẽ được đưa vào lịch trình trong cuộc gặp Donald Trump - Tập Cận Bình ở khu nghỉ dưỡng Mar-a-Lago, Florida sắp tới.
TRẦN ĐỨC THẢ0 * HỒ CHÍ MINH
HÌNH TƯỢNG CON KHỦNG LONG BA ĐẦU CHÍN ĐUÔI
Bác Thảo thú nhận là minh lúc đầu vì còn trẻ, quá ngây thơ, nên đã kỳ vọng nhiều vào tình cảm của “ông cụ”. Cứ tưởng đấy là một con người bình thường, dễ kết thân, mà không hiểu được là trong thực tại cách mạng, đã có một khoảng cách khó vượt qua để tới gần được lãnh tụ! Bởi chung quanh lãnh tụ là cả một thành luỹ bè phái vây quanh, bao phủ, với những con mắt, nhũng cái tai, những bàn tay của những thế lục nghỉ kỵ nhau, kình chống nhau rất phức tạp. Trong chế độ tương tự, trong đường lối hành động và tổ chức cứ như vậy, ngay từ thời Lénỉne, cho tới Stalin, cho tới Mao và nay tới thời “bác Hồ”, đã hình thành cả một truyền thống đối xử rất nghiệt ngã giữa các “đồng chí” ở cấp lãnh đạo, ở cấp Trung ương. Họ đã từng hạ bệ nhau, từng chèn ép nhau không chút nương tay, không chút thương hại, để qua mặt nhau, để gạt bỏ nhau! Nói chi tới những kẻ bị xếp vào loại “đối thủ tiềm ẩn”, loại “có vấn đề”, loại phản động, kẻ thù…
- Vì thế càng về sau này, tôi càng khám phá ra rằng mọi cuộc gặp với “ông cụ” đều đã được chuẩn bị rất máy móc, đã qua sàng lọc kỹ lưỡng, trong quy trình làm việc của lãnh tụ. Vì bắt buộc phải giữ khoảng cách như thế, mà những lần gặp đã k
Bác Thảo thú nhận là minh lúc đầu vì còn trẻ, quá ngây thơ, nên đã kỳ vọng nhiều vào tình cảm của “ông cụ”. Cứ tưởng đấy là một con người bình thường, dễ kết thân, mà không hiểu được là trong thực tại cách mạng, đã có một khoảng cách khó vượt qua để tới gần được lãnh tụ! Bởi chung quanh lãnh tụ là cả một thành luỹ bè phái vây quanh, bao phủ, với những con mắt, nhũng cái tai, những bàn tay của những thế lục nghỉ kỵ nhau, kình chống nhau rất phức tạp. Trong chế độ tương tự, trong đường lối hành động và tổ chức cứ như vậy, ngay từ thời Lénỉne, cho tới Stalin, cho tới Mao và nay tới thời “bác Hồ”, đã hình thành cả một truyền thống đối xử rất nghiệt ngã giữa các “đồng chí” ở cấp lãnh đạo, ở cấp Trung ương. Họ đã từng hạ bệ nhau, từng chèn ép nhau không chút nương tay, không chút thương hại, để qua mặt nhau, để gạt bỏ nhau! Nói chi tới những kẻ bị xếp vào loại “đối thủ tiềm ẩn”, loại “có vấn đề”, loại phản động, kẻ thù…
- Vì thế càng về sau này, tôi càng khám phá ra rằng mọi cuộc gặp với “ông cụ” đều đã được chuẩn bị rất máy móc, đã qua sàng lọc kỹ lưỡng, trong quy trình làm việc của lãnh tụ. Vì bắt buộc phải giữ khoảng cách như thế, mà những lần gặp đã k
không tạo ra một cởi mở tự nhiên, cũng
không thì có một quan hệ hay trao đổi gì về mặt tư tưởng, cũng không có
một xúc động tình cảm nào, ngoài sự xa cách, sợ sệt “đến lạnh cả thân
thể”! Sau này thì tôi mới hiểu rằng hi vọng đạt tới một sự thân cận,
thân mật nào đó với lãnh đạo là một điều không tưởng, không thể nào có!
Rồi bác Thảo phần trần:
- Tôi về nước với mộng ước được tham gia làm cách mạng, góp ý giúp dân, giúp nước, chứ không mưu tìm một địa vị trong quyền lực. Tôi nghĩ mình phải giữ sao cho cái đầu và con tim như của mọi người, để có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của mọi người! Nhưng “ông cụ” thì khác. Bởi “ông cụ” có cuồng vọng làm lãnh tụ, muốn tận tay mình dẫn dắt dân tộc từ thân phận nhược tiểu đi lên thế giới đại đồng. Muốn vậy, thì phải nắm cho bằng được uy thế tột đỉnh, quyền lực trong tay, để chung quanh phải kính nể, kính phục mà tuân lệnh, mà sùng bái. Làm lãnh tụ không thể là một người bình thường, càng không thể tỏ ra là tầm thường. Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Đấy là tôi chưa bàn tới những bàn tay của bao phe phái quỷ quái, của cả ngoại bang… đang bao vây lãnh tụ!
- Nhưng lần tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ là thế nào?
- Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với Pháp, vì sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vã chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình…
Cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, thì tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.
Tôi còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”!
- Nghe vậy, thì cụ Hồ đã có phản ứng như thế nào?
- Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi thì “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:
- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn.
Tôi hơi bị bất ngờ trước lời khước từ đột ngột như thế. Tôi đã kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy.
Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
- Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì tìm cách lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi đấy!
- Sao mà anh sợ hãi, hốt hoảng quá vậy? Chuyện ấy xảy ra cũng đã lâu rồi, năm, sáu năm rồi. Chứ có phải mới hôm qua đâu. Mà có gì khiến anh hoảng sợ quá vậy?
Đa lại lắc đầu nói:
- Vậy là anh chẳng hiểu gì về “ông cụ” và đám người chung quanh “ông cụ” cả sống ở gần “trung ương” mà không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm lắm đấy! Vì trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
- Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ mình là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế. Tất cả đều đã bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta ưa kể cho nhau nghe rằng Tạ Thu Thầu đã chết mất xác vì cầu nói: “Ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”!
Rồi bác Thảo giải thích thêm:
- “Ông cụ” có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi tới thế giới đại đồng. Phải hiểu ý chí ấy, cuồng vọng ấy của “ông cụ;” Dù khó khăn mấy, hao tổn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng được. Vì thế nên “ông cụ” quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri của đạo lý… cứ như theo sách vở của Machiavel mà tôi nghĩ ông cụ đã đọc, và đã thuộc lòng! Vì thế “ông cụ” thấy con dường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên nước ngoài đã không chú ý nhiều tới “cuồng vọng lãnh tụ” ấy khi họ tìm hiểu “ông cụ”!
Họ thấy phong cách lãnh đạo của “ông cụ” như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy đã mang sẵn trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói loà bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng quả nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của “đảng”. Họ đã không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng. Như vậy thì làm sao họ hiểu hết được mặt trái, mặt phải “ông cụ”.
Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của “bác Hồ” là tác phẩm của cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao độ, một công trình điểm tô, dàn dựng, để công kênh “ông cụ” lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thành, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Tất cả phải bày tỏ lòng lòng kính trọng; bằng tâm thức hãnh diện tự nguyện làm vật sở hữu của lãnh tụ như một vinh dự, một mẫu mực giá trị… “Ông cụ” được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng: cái gì có giá trị thì cũng phải là của “bác Hồ”, của “cụ Hồ!”
Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, cây vú sữa “bác Hồ”, “nhà sàn bác Hồ” cho tới anh “bộ đội cụ Hồ”! Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị… thì cái đó phải là của “bác”, của “đảng”. Trong tuyên truyền có cả một “huyền thoại về quả cam” của bác Hồ: có cán bộ thơ, cán bộ chính trị, quan lại triều Nguyễn đã kể về thành tích được “bác Hồ” tặng một quả cam! Quả cam ấy đã được trân trọng đón nhận như một “ơn thánh thiêng liêng”, được mang ra chia sẻ cho cả gia đình… Giai thoại “quả cam” được coi như biểu tượng cuồng tín của một “thứ phong kiến cộng sản”!
Trong tuyên truyền, người dân được dạy bảo phải một lòng kính cẩn những gì liên quan tới đòi sống “bác Hồ”, nhưng thực tế thành công thì trong hành động, người dân lại hiểu rõ kinh nghiệm linh động muôn mặt, muôn hướng, muôn phương cũng như hành tung bí mật, phức tạp của “bác Hồ”!
Đau đớn cho một nhà văn, khi vừa hoàn thành một tác phẩm, một bài báo ưng ý, hí hửng tới đưa cho chủ nhiệm đọc thì bị chê: “Bài này thiếu tính bác, tính đảng, chỉ vì trong tác phẩm, trong bài báo thiếu vắng cái phần không thể thiếu là phần công thức ca ngợi công ơn của “bác Hồ”. Tại sao một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của ỉãnh tụ, của đảng cầm quyền?
Đấy không phải là tâm thức của con người đã được giải phóng, mà đấy là tâm thức của con người đã bị dụng cụ hoá, nghĩa là đã mất tự do. Bởi phải tỏ ý nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tế, cho nhóm quyền lực “lãnh đạo”! Đấy là do tình trạng đã của kẻ đã quá sùng bái, đã quá tin. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa “ngu tín”, chủ nghĩa “cuồng tín”. Phải giải mã cho cặn kẽ những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ thì mới mong thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Khi muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải tìm hiểu tất cả những công việc bố trí của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời sống công và tư, tuỳ thuộc tính tình, tuỳ cách xử sự trong gia đình… tới cả các biện pháp tổ chức phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn dựng lên những giai thoại, tạo ra những khung cảnh huyền bí chung quanh ”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn sùng, thờ kính, phục tùng lãnh tụ như thế, thì mới có thể tương đối hiểu phần nào cung cách hoạt động, ý hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của lãnh tụ. Tất cả phải là tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ.
Từ những quyết định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng phương pháp tâm lý tinh vi tôn sùng lãnh tụ. Chính vì sự sùng bái tuyệt đối này mà đã đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và tích cực của lịch sử. Vì khi khen quá, hay chê quá, thì phải chối bỏ cái phần tiêu cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế thì không còn gì là sự thật lịch sử nữa, mà chỉ còn là… huyền thoại đã đượt thêu dệt theo hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi đã thêu dệt huyền thoại thì không còn giá trị khoa học của nghiên cứu nữa.
Lịch sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có xấu thôi thì không được. Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét vấn đề công, tội. Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. Vì dễ sa vào thái độ cực đoan! Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.
- Cứ theo thực tại mà xét, thì “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để hở ra cái áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những cách thức phô diễn đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy tạo ra một thứ vương bào siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô sản! Vương miện của “Người” chính là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính khỉnh mạt, bất chấp thời trang quyền quý, quan cách, như thách thức cái lối ăn mặc sang trọng, hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự phỉ báng những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến.
Lối ăn mặc cố ý tạo vẻ “bình dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh lùng, khinh bạc, cách nhìn thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức, cách hỏi han đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những dáng điệu, cử chỉ trong mỗi tấm hình, trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp… đều có cùng một mục đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng đỉnh của một vị lãnh tụ tối cao sáng ngời, phi thường!
Tất cả chi tiết ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đã được gạn lọc, đã được nghiên cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để hình ảnh “Người” không bị chìm lẫn trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một thần tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử! “Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một cách nhầm lẫn, không để một mưu toan tìm tòi khám phá nào có thể thẩm thấu vào những suy tư, vào những hậu ý, vào tư tưởng của “Người”!
- Đấy là bác nghiên cứu về mặt tư tưởng, của lãnh tụ, thế còn về đòi tư trong vòng bạn bè tri âm, tri kỷ thì sao? Tại sao chẳng thấy có tư liệu nào, chẳng thấy ai nói rõ về khía cạnh ấy?
- Thực ra thì “ông cụ” chọn lựa rất kỹ những “bạn hữu” như là đối tác của mình. Những người được chọn, được giới thiệu ấy đều là những nhân vật có ảnh hưởng, có chút uy thế chính trị. Họ sẽ là những người được sử dụng như những bậc thang, để ”Người” đẫm lên đó mà đi tới đỉnh vinh quang. Thật sự là, khi đã đạt tới đỉnh quyển lực, thì ông cụ đã phải sống trên đỉnh tháp ngà, không có bạn hữu thân tình, tri âm, tri kỷ nào cả. Không người thân thương để tâm sự, không người chân thành để đối thoại vui vẻ trong tóc nhàn rỗi, bông đùa khi trà dư, tửu hậu.
Không bạn thơ, không bạn rượu; không cả bạn đời tâm tình thẩm kín riêng tư. Tất cả chỉ là những dụng cụ, cuộc đời khô khan của lãnh tụ lịch sử, không có chỗ cho bạn tâm giao, tâm tình… mà cũng chẳng hề có đồng môn, đồng chí! Chỉ có những kẻ tỏ ra sự trung thành của đám bầy tôi, khúm núm chờ lệnh dưới ngai vàng của quyền lực, chỉ có những đối tác officiel (chính thức) trong chốn cung đình, chính trường… Đa số những người được chọn đều là mấy nhà văn, nhà thơ, mấy nhân vật chính trị, mấy nhà văn hoá nước ngoài đã được guồng máy tuyên, truyền ca ngợi…
Điển hình cho sự đề cao, đề bạt; một cách phi thường là trường hợp của nhà thơ Tổ Hữu, một cán bộ không có thành tích chính trị hay cách mạng gì xuất sắc nào ngoài, mấy bài thơ ca ngợi lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt là một bài thơ đã được đưa vào chương trình giáo dục vì nó hết lòng ca ngợi, tôn thờ “bác Hồ”! Và vì vậy mà “đụng tới Tố Hữu” là đáng tội phản động cách mạng.
- Nhưng khi đã ông cụ lên tới đỉnh vinh quang như thế thì tại sao không thấy lưu lại một tác phẩm nào về mặt tư tưởng hay lý luận nào của “ông cụ”?
- “Ông cụ” đã giải thích rằng “vì bác Stalin, bác Mao… đã viết cả rồi!”. Sự khiêm tốn của lời tuyên bố ấy đã làm cho máy tay trí thức có xu hướng sùng bái hiểu lầm. Với lời tuyên bố ấy, thật ra là ông cụ muốn nói rằng tư tưởng của “Người” là bao hàm, là gom thâu tất cả tư duy của các nhà tư tưởng lớn của cách mạng. Chẳng nhũng thế mà còn là của cả nhân loại, qua tất cả mọi thời đại của sử sách.
Đã hơn một lần “Người” khoe khéo tư tưởng của Người là cả một kho tàng tư tưởng của các bậc tổ tiên, của các nền văn hoá xuất phát từ Khổng Tử, Trang Tử của Trung Quốc, cho tới Phật Thích Ca của Ấn Độ, cho tới Chúa Ki-tô của nền văn minh phương Tây! Rồi còn là tư tưởng của nền văn minh Ả Rập với đấng Tiên tri Mahomet, đấng đã hứa mang vào thiên đàng, những ai dám hi sinh ôm bom lao vào kẻ thù… Bởi các đặc công của “Người” cũng thường hi sinh, ôm bom lao vào… kẻ thù trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, ở nông thôn cũng như ở thành thị như thế! Tự tôn là một căn bệnh tâm lý thường thấy nơi các lãnh tụ độc tài trong lịch sử. Lãnh tụ luôn luôn chứng tỏ mình là đỉnh cao chót vót trong thiên thu lịch sử của tất cả các nhà tư tưởng cổ kim!
Sự khiêm tốn, sự bình dân của lãnh tụ chỉ là sự dàn dựng của một thứ mặc cảm tự tôn siêu đẳng! Nên nhớ là có khả nhiều tác phẩm đã hết lời ca tụng “ông cụ”, mà tác già cũng chính là “ông cụ”! Chính ông cụ đã tự xưng tụng minh là “Ái Quốc” là “Vương”, là “Chí Minh” cơ mà!
Sau khi dài dòng nêu ra những đặc tính của lãnh tụ như thế, bác Thảo nhấn mạnh:
- Thực tế mà nói thì “ông cụ” biết rằng về trình độ tư tưởng, lý luận cách mạng, thì mình làm sao so được với những Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ là những người đã được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy…
Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thù ấy. Phải cố nêu gương, nêu phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của “cụ Hồ”, lúc “xuất quỷ”, lúc “nhập thần” như thế nên không ai có thể sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân “Phải sống và làm việc theo gương bác Hồ”. Nhưng làm sao một người bình thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như “bác Hồ” được! Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại của một cuộc đời phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề sang, hèn khác nhau… Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của ”bác Hồ” thì khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan Thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thuỷ, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm ái quốc “An-nam” viết báo, viết kiến nghị gửi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tầu, nay bị Đệ Tam Quốc tế loại trừ vì có đầu óc “quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi”, mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung Quốc, ở Xiêm… rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại hội thứ V của Đệ Tam Quốc tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương… Rồi sau lại thấy “bác” xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi là trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc thì sống y như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh… Sau biết bao truân chuyên, thì rồi bỗng “bác” nổi bật như một nhà chính trị của mọi cơ hội, một lãnh tụ của cách mạng! Một con người đa năng, muôn mặt, muôn ý, muôn hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy được!
Rồi bác Thảo phần trần:
- Tôi về nước với mộng ước được tham gia làm cách mạng, góp ý giúp dân, giúp nước, chứ không mưu tìm một địa vị trong quyền lực. Tôi nghĩ mình phải giữ sao cho cái đầu và con tim như của mọi người, để có thể chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của mọi người! Nhưng “ông cụ” thì khác. Bởi “ông cụ” có cuồng vọng làm lãnh tụ, muốn tận tay mình dẫn dắt dân tộc từ thân phận nhược tiểu đi lên thế giới đại đồng. Muốn vậy, thì phải nắm cho bằng được uy thế tột đỉnh, quyền lực trong tay, để chung quanh phải kính nể, kính phục mà tuân lệnh, mà sùng bái. Làm lãnh tụ không thể là một người bình thường, càng không thể tỏ ra là tầm thường. Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Đấy là tôi chưa bàn tới những bàn tay của bao phe phái quỷ quái, của cả ngoại bang… đang bao vây lãnh tụ!
- Nhưng lần tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ là thế nào?
- Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng buổi chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với Pháp, vì sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật, vồn vã chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi mình như đứa em trong gia đình…
Cuối bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng chiến, thì tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng và quê hương.
Tôi còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng “tôi cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”!
- Nghe vậy, thì cụ Hồ đã có phản ứng như thế nào?
- Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi bắt tay tôi thì “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:
- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn.
Tôi hơi bị bất ngờ trước lời khước từ đột ngột như thế. Tôi đã kể lại lần gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có vẻ cởi mở hiếm thấy.
Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
- Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì tìm cách lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi đấy!
- Sao mà anh sợ hãi, hốt hoảng quá vậy? Chuyện ấy xảy ra cũng đã lâu rồi, năm, sáu năm rồi. Chứ có phải mới hôm qua đâu. Mà có gì khiến anh hoảng sợ quá vậy?
Đa lại lắc đầu nói:
- Vậy là anh chẳng hiểu gì về “ông cụ” và đám người chung quanh “ông cụ” cả sống ở gần “trung ương” mà không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm lắm đấy! Vì trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay ngang như thế đấy.
- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
- Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử “con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha thứ cho một ai dám tỏ mình là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế. Tất cả đều đã bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta ưa kể cho nhau nghe rằng Tạ Thu Thầu đã chết mất xác vì cầu nói: “Ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”!
Rồi bác Thảo giải thích thêm:
- “Ông cụ” có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi tới thế giới đại đồng. Phải hiểu ý chí ấy, cuồng vọng ấy của “ông cụ;” Dù khó khăn mấy, hao tổn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng được. Vì thế nên “ông cụ” quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri của đạo lý… cứ như theo sách vở của Machiavel mà tôi nghĩ ông cụ đã đọc, và đã thuộc lòng! Vì thế “ông cụ” thấy con dường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên nước ngoài đã không chú ý nhiều tới “cuồng vọng lãnh tụ” ấy khi họ tìm hiểu “ông cụ”!
Họ thấy phong cách lãnh đạo của “ông cụ” như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy đã mang sẵn trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói loà bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng quả nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của “đảng”. Họ đã không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng. Như vậy thì làm sao họ hiểu hết được mặt trái, mặt phải “ông cụ”.
Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của “bác Hồ” là tác phẩm của cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao độ, một công trình điểm tô, dàn dựng, để công kênh “ông cụ” lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thành, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Tất cả phải bày tỏ lòng lòng kính trọng; bằng tâm thức hãnh diện tự nguyện làm vật sở hữu của lãnh tụ như một vinh dự, một mẫu mực giá trị… “Ông cụ” được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng: cái gì có giá trị thì cũng phải là của “bác Hồ”, của “cụ Hồ!”
Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, cây vú sữa “bác Hồ”, “nhà sàn bác Hồ” cho tới anh “bộ đội cụ Hồ”! Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị… thì cái đó phải là của “bác”, của “đảng”. Trong tuyên truyền có cả một “huyền thoại về quả cam” của bác Hồ: có cán bộ thơ, cán bộ chính trị, quan lại triều Nguyễn đã kể về thành tích được “bác Hồ” tặng một quả cam! Quả cam ấy đã được trân trọng đón nhận như một “ơn thánh thiêng liêng”, được mang ra chia sẻ cho cả gia đình… Giai thoại “quả cam” được coi như biểu tượng cuồng tín của một “thứ phong kiến cộng sản”!
Trong tuyên truyền, người dân được dạy bảo phải một lòng kính cẩn những gì liên quan tới đòi sống “bác Hồ”, nhưng thực tế thành công thì trong hành động, người dân lại hiểu rõ kinh nghiệm linh động muôn mặt, muôn hướng, muôn phương cũng như hành tung bí mật, phức tạp của “bác Hồ”!
Đau đớn cho một nhà văn, khi vừa hoàn thành một tác phẩm, một bài báo ưng ý, hí hửng tới đưa cho chủ nhiệm đọc thì bị chê: “Bài này thiếu tính bác, tính đảng, chỉ vì trong tác phẩm, trong bài báo thiếu vắng cái phần không thể thiếu là phần công thức ca ngợi công ơn của “bác Hồ”. Tại sao một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của ỉãnh tụ, của đảng cầm quyền?
Đấy không phải là tâm thức của con người đã được giải phóng, mà đấy là tâm thức của con người đã bị dụng cụ hoá, nghĩa là đã mất tự do. Bởi phải tỏ ý nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tế, cho nhóm quyền lực “lãnh đạo”! Đấy là do tình trạng đã của kẻ đã quá sùng bái, đã quá tin. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa “ngu tín”, chủ nghĩa “cuồng tín”. Phải giải mã cho cặn kẽ những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ thì mới mong thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Khi muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải tìm hiểu tất cả những công việc bố trí của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời sống công và tư, tuỳ thuộc tính tình, tuỳ cách xử sự trong gia đình… tới cả các biện pháp tổ chức phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn dựng lên những giai thoại, tạo ra những khung cảnh huyền bí chung quanh ”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn sùng, thờ kính, phục tùng lãnh tụ như thế, thì mới có thể tương đối hiểu phần nào cung cách hoạt động, ý hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của lãnh tụ. Tất cả phải là tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ.
Từ những quyết định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng phương pháp tâm lý tinh vi tôn sùng lãnh tụ. Chính vì sự sùng bái tuyệt đối này mà đã đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và tích cực của lịch sử. Vì khi khen quá, hay chê quá, thì phải chối bỏ cái phần tiêu cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế thì không còn gì là sự thật lịch sử nữa, mà chỉ còn là… huyền thoại đã đượt thêu dệt theo hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi đã thêu dệt huyền thoại thì không còn giá trị khoa học của nghiên cứu nữa.
Lịch sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có xấu thôi thì không được. Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét vấn đề công, tội. Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. Vì dễ sa vào thái độ cực đoan! Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.
- Cứ theo thực tại mà xét, thì “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để hở ra cái áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những cách thức phô diễn đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy tạo ra một thứ vương bào siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô sản! Vương miện của “Người” chính là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính khỉnh mạt, bất chấp thời trang quyền quý, quan cách, như thách thức cái lối ăn mặc sang trọng, hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự phỉ báng những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến.
Lối ăn mặc cố ý tạo vẻ “bình dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh lùng, khinh bạc, cách nhìn thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức, cách hỏi han đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những dáng điệu, cử chỉ trong mỗi tấm hình, trong từng bối cảnh, trong từng trường hợp… đều có cùng một mục đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng đỉnh của một vị lãnh tụ tối cao sáng ngời, phi thường!
Tất cả chi tiết ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đã được gạn lọc, đã được nghiên cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để hình ảnh “Người” không bị chìm lẫn trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một thần tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử! “Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một cách nhầm lẫn, không để một mưu toan tìm tòi khám phá nào có thể thẩm thấu vào những suy tư, vào những hậu ý, vào tư tưởng của “Người”!
- Đấy là bác nghiên cứu về mặt tư tưởng, của lãnh tụ, thế còn về đòi tư trong vòng bạn bè tri âm, tri kỷ thì sao? Tại sao chẳng thấy có tư liệu nào, chẳng thấy ai nói rõ về khía cạnh ấy?
- Thực ra thì “ông cụ” chọn lựa rất kỹ những “bạn hữu” như là đối tác của mình. Những người được chọn, được giới thiệu ấy đều là những nhân vật có ảnh hưởng, có chút uy thế chính trị. Họ sẽ là những người được sử dụng như những bậc thang, để ”Người” đẫm lên đó mà đi tới đỉnh vinh quang. Thật sự là, khi đã đạt tới đỉnh quyển lực, thì ông cụ đã phải sống trên đỉnh tháp ngà, không có bạn hữu thân tình, tri âm, tri kỷ nào cả. Không người thân thương để tâm sự, không người chân thành để đối thoại vui vẻ trong tóc nhàn rỗi, bông đùa khi trà dư, tửu hậu.
Không bạn thơ, không bạn rượu; không cả bạn đời tâm tình thẩm kín riêng tư. Tất cả chỉ là những dụng cụ, cuộc đời khô khan của lãnh tụ lịch sử, không có chỗ cho bạn tâm giao, tâm tình… mà cũng chẳng hề có đồng môn, đồng chí! Chỉ có những kẻ tỏ ra sự trung thành của đám bầy tôi, khúm núm chờ lệnh dưới ngai vàng của quyền lực, chỉ có những đối tác officiel (chính thức) trong chốn cung đình, chính trường… Đa số những người được chọn đều là mấy nhà văn, nhà thơ, mấy nhân vật chính trị, mấy nhà văn hoá nước ngoài đã được guồng máy tuyên, truyền ca ngợi…
Điển hình cho sự đề cao, đề bạt; một cách phi thường là trường hợp của nhà thơ Tổ Hữu, một cán bộ không có thành tích chính trị hay cách mạng gì xuất sắc nào ngoài, mấy bài thơ ca ngợi lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt là một bài thơ đã được đưa vào chương trình giáo dục vì nó hết lòng ca ngợi, tôn thờ “bác Hồ”! Và vì vậy mà “đụng tới Tố Hữu” là đáng tội phản động cách mạng.
- Nhưng khi đã ông cụ lên tới đỉnh vinh quang như thế thì tại sao không thấy lưu lại một tác phẩm nào về mặt tư tưởng hay lý luận nào của “ông cụ”?
- “Ông cụ” đã giải thích rằng “vì bác Stalin, bác Mao… đã viết cả rồi!”. Sự khiêm tốn của lời tuyên bố ấy đã làm cho máy tay trí thức có xu hướng sùng bái hiểu lầm. Với lời tuyên bố ấy, thật ra là ông cụ muốn nói rằng tư tưởng của “Người” là bao hàm, là gom thâu tất cả tư duy của các nhà tư tưởng lớn của cách mạng. Chẳng nhũng thế mà còn là của cả nhân loại, qua tất cả mọi thời đại của sử sách.
Đã hơn một lần “Người” khoe khéo tư tưởng của Người là cả một kho tàng tư tưởng của các bậc tổ tiên, của các nền văn hoá xuất phát từ Khổng Tử, Trang Tử của Trung Quốc, cho tới Phật Thích Ca của Ấn Độ, cho tới Chúa Ki-tô của nền văn minh phương Tây! Rồi còn là tư tưởng của nền văn minh Ả Rập với đấng Tiên tri Mahomet, đấng đã hứa mang vào thiên đàng, những ai dám hi sinh ôm bom lao vào kẻ thù… Bởi các đặc công của “Người” cũng thường hi sinh, ôm bom lao vào… kẻ thù trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, ở nông thôn cũng như ở thành thị như thế! Tự tôn là một căn bệnh tâm lý thường thấy nơi các lãnh tụ độc tài trong lịch sử. Lãnh tụ luôn luôn chứng tỏ mình là đỉnh cao chót vót trong thiên thu lịch sử của tất cả các nhà tư tưởng cổ kim!
Sự khiêm tốn, sự bình dân của lãnh tụ chỉ là sự dàn dựng của một thứ mặc cảm tự tôn siêu đẳng! Nên nhớ là có khả nhiều tác phẩm đã hết lời ca tụng “ông cụ”, mà tác già cũng chính là “ông cụ”! Chính ông cụ đã tự xưng tụng minh là “Ái Quốc” là “Vương”, là “Chí Minh” cơ mà!
Sau khi dài dòng nêu ra những đặc tính của lãnh tụ như thế, bác Thảo nhấn mạnh:
- Thực tế mà nói thì “ông cụ” biết rằng về trình độ tư tưởng, lý luận cách mạng, thì mình làm sao so được với những Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ là những người đã được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy…
Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thù ấy. Phải cố nêu gương, nêu phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của “cụ Hồ”, lúc “xuất quỷ”, lúc “nhập thần” như thế nên không ai có thể sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân “Phải sống và làm việc theo gương bác Hồ”. Nhưng làm sao một người bình thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như “bác Hồ” được! Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại của một cuộc đời phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề sang, hèn khác nhau… Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của ”bác Hồ” thì khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan Thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thuỷ, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm ái quốc “An-nam” viết báo, viết kiến nghị gửi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tầu, nay bị Đệ Tam Quốc tế loại trừ vì có đầu óc “quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi”, mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung Quốc, ở Xiêm… rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại hội thứ V của Đệ Tam Quốc tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương… Rồi sau lại thấy “bác” xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi là trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc thì sống y như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh… Sau biết bao truân chuyên, thì rồi bỗng “bác” nổi bật như một nhà chính trị của mọi cơ hội, một lãnh tụ của cách mạng! Một con người đa năng, muôn mặt, muôn ý, muôn hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy được!
Kể tới đó, bác Thảo thú nhận:
- Nhiều lúc cứ nhớ lại lúc ở Paris, với đầu óc non nớt bạch diện thư
sinh, mà dám ăn nói lỗ mãng như đã thân quen với “ông cụ” ngay lần đầu
gặp gỡ! Nay nghĩ lại mà thấm thía ý nghĩa câu ngạn ngữ của Pháp: “có
những lời nói đã tuyên án tử hình ngay kẻ vừa phát ngôn ra nó!” Sao mà
đã dám hỗn xược, láo lếu, phạm thượng coi trời bằng vung đến thế! Vì cái
tội phạm thượng ấy, mà hồi đó tôi đã bị bỏ lại Paris! Rồi sau này, khi
về tới quê hương, thì đã bị xếp ngay vào diện “có vấn đề”, nên cuộc sống
đã gặp đầy khó khăn, vất vả như thế… Tất cả là do cái tội “đã đọc nhiều
sách vở ở bên tây”!
Rồi là kèm theo một lời dạy bảo như một mệnh lệnh “Phải… gắng mà học tập nhân dân!” Thật không có một đòn “chỉnh huấn” nào, không có một sự hạ tầng công tác hào nặng nề hơn cái lời nghiêm khắc ấy. “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi!
Rồi là kèm theo một lời dạy bảo như một mệnh lệnh “Phải… gắng mà học tập nhân dân!” Thật không có một đòn “chỉnh huấn” nào, không có một sự hạ tầng công tác hào nặng nề hơn cái lời nghiêm khắc ấy. “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi!
- Lời dạy bảo ấy đã như một tia sét cực mạnh đã đánh cháy tâm can, đến
độ đã để lại vết hằn hối hận sâu hoắm trong ký ức của tôi… Rồi từ đó tôi
mang nặng mặc cảm như đã phạm một thứ tội tổ tông không báo giờ gột rửa
được nữa:
- Nghe bác tâm sự như vậy, tôi vẫn có cảm tưởng rằng bác oán hận “ông cụ” nhiều lắm, phải không?
- Anh vẫn lại hiểu lầm tôi rồi. Tôi không phải là kẻ ưa nói xấu, đổ ác
cho ai. Với đầu óc một kẻ có học, có ý thức trách nhiệm, thì mọi sự kiện
xấu xảy ra cho mình, trước mắt minh đều có lý do khách quan, chủ quan
của nó, đều có lô-gích của nó… Trong chính trị cũng như trong chiến
tranh, tác ứng dĩ nhiên gây phản ứng. Đẩy một kẻ, một phe vào thế thù
địch, thì dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng của kẻ thù ấy. Dùng thể du kích đại
trà, chuyển quân như kiến, như muỗi vào rừng núi Trường Sơn thì sẽ gặp
chiến tranh “hoá học trừ kiến, trừ muỗi” đó lả hoá chất “da cam”!… Chiến
tranh của hoá học, của điện tử, của “bom tinh quái”, của mìn “ngửi hơi
người”…
Đấy là tương tác của chiến tranh của ta, của địch. Dùng du kích đại trà của ta thì sẽ gặp phản ứng chống chiến tranh du kích đại trà của Mỹ! Biết quy luật, lô gích của chiến tranh là như thế thì chẳng thể đổ riêng tội, riêng lỗi cho riêng một bên. Bên này tác ứng như thế thì, dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng như thế của bên kia, có gì là lạ đâu. Việc của tôi làm là lý giải, là chỉ ra cốt lõi, nhân quả của vấn đề. Nay già rồi mới thấy, mới hiểu thẩu hết những sự kiện, những di sản của nó, nên tôi muốn nói ra với mọi người, về những trải nghiệm đã giải độc, đã giải thoát chính tôi khỏi tình trạng bế tắc của oán thù. Bởi những sự kiện, nhất là những sự kiện xấu, thì luôn luôn ám ảnh con người là tự nhiên. Riêng với dân ta, với cái đầu đã nhiễm thói quen cúi đầu, thụ động tiếp thu ý chí thù hận, với phản xạ hung bạo quyết tâm “giết thù”, như một giáo điều cuồng tín… Tất cả ảnh hưởng của những sự kiện ấy đều kích thích tội ác, đều là do mê muội, do ngu tín… Vì thế mà có kẻ không dám nghe tôi phân tích sự thật về cuộc đời ly kì, về những hành động khủng khiếp của “ông cụ”, vì sợ bị liên luỵ. Sự thật là tôi chỉ muốn lý giải cái gốc của tội ác trong hoàn cảnh của con người. Phải tạo ra ý thức tỉnh ngộ, giác ngộ để giải phóng con người khỏi căn bệnh cuồng tín, ngu tín như thế, Phải nêu ra cái gốc của thảm kịch, cái căn nguyên nhân quả của bao nỗi vui, buồn, đau của dân tộc, và dĩ nhiên cũng là của chĩnh tôi. Tôi nghĩ phải làm sao cho dân mình hiểu rằng “ông cụ” đã từ một cán bộ cấp thấp cho tới khi trở thành lãnh tụ, thì cũng có lúc đã có phản ứng của tội ác, đã vấp ngã.
Ông thánh cũng có lúc phạm tội, nhưng hơn người ở chỗ sớm biết sám hối, biết hành động để chuộc tội… Chứ cứ quen thói hung bạo, quen thói cúi đầu sùng bái, rồi quy cho hoàn cảnh, cho số phận, đổ lỗi, đổ tội cho khách quan… thì không được. Cứ suy tư, đổ tội như thế thì xã hội rồi sẽ suy đồi, đất nước sẽ không trong sáng lên được. Thời cách mạng là thời có quá nhiều vấp váp, tội lỗi, quá nhiều “mảng” u tối, đa gây ra cái xấu, cái ác nên nó về lâu, về dài, đã gây tai hoạ cho cả dân tộc…. Đã sống trong thời đó, thì nay mỗi người phải tự giải độc cái đầu minh trước khi giải phóng thân xác, thân phận mình. Làm con người tự do là khó lắm: vì con người luôn luôn phải gánh chịu những lời chỉ dậy đam mê, bị dẫn dắt tới ngu tín, cuồng tín, làm cho nó mất tự do!
Đấy là tương tác của chiến tranh của ta, của địch. Dùng du kích đại trà của ta thì sẽ gặp phản ứng chống chiến tranh du kích đại trà của Mỹ! Biết quy luật, lô gích của chiến tranh là như thế thì chẳng thể đổ riêng tội, riêng lỗi cho riêng một bên. Bên này tác ứng như thế thì, dĩ nhiên sẽ gặp phản ứng như thế của bên kia, có gì là lạ đâu. Việc của tôi làm là lý giải, là chỉ ra cốt lõi, nhân quả của vấn đề. Nay già rồi mới thấy, mới hiểu thẩu hết những sự kiện, những di sản của nó, nên tôi muốn nói ra với mọi người, về những trải nghiệm đã giải độc, đã giải thoát chính tôi khỏi tình trạng bế tắc của oán thù. Bởi những sự kiện, nhất là những sự kiện xấu, thì luôn luôn ám ảnh con người là tự nhiên. Riêng với dân ta, với cái đầu đã nhiễm thói quen cúi đầu, thụ động tiếp thu ý chí thù hận, với phản xạ hung bạo quyết tâm “giết thù”, như một giáo điều cuồng tín… Tất cả ảnh hưởng của những sự kiện ấy đều kích thích tội ác, đều là do mê muội, do ngu tín… Vì thế mà có kẻ không dám nghe tôi phân tích sự thật về cuộc đời ly kì, về những hành động khủng khiếp của “ông cụ”, vì sợ bị liên luỵ. Sự thật là tôi chỉ muốn lý giải cái gốc của tội ác trong hoàn cảnh của con người. Phải tạo ra ý thức tỉnh ngộ, giác ngộ để giải phóng con người khỏi căn bệnh cuồng tín, ngu tín như thế, Phải nêu ra cái gốc của thảm kịch, cái căn nguyên nhân quả của bao nỗi vui, buồn, đau của dân tộc, và dĩ nhiên cũng là của chĩnh tôi. Tôi nghĩ phải làm sao cho dân mình hiểu rằng “ông cụ” đã từ một cán bộ cấp thấp cho tới khi trở thành lãnh tụ, thì cũng có lúc đã có phản ứng của tội ác, đã vấp ngã.
Ông thánh cũng có lúc phạm tội, nhưng hơn người ở chỗ sớm biết sám hối, biết hành động để chuộc tội… Chứ cứ quen thói hung bạo, quen thói cúi đầu sùng bái, rồi quy cho hoàn cảnh, cho số phận, đổ lỗi, đổ tội cho khách quan… thì không được. Cứ suy tư, đổ tội như thế thì xã hội rồi sẽ suy đồi, đất nước sẽ không trong sáng lên được. Thời cách mạng là thời có quá nhiều vấp váp, tội lỗi, quá nhiều “mảng” u tối, đa gây ra cái xấu, cái ác nên nó về lâu, về dài, đã gây tai hoạ cho cả dân tộc…. Đã sống trong thời đó, thì nay mỗi người phải tự giải độc cái đầu minh trước khi giải phóng thân xác, thân phận mình. Làm con người tự do là khó lắm: vì con người luôn luôn phải gánh chịu những lời chỉ dậy đam mê, bị dẫn dắt tới ngu tín, cuồng tín, làm cho nó mất tự do!
- Vậy là bác muốn trút tất cả trách nhiệm vả tội lỗi lên những đam mê, cuồng vọng của “ông cụ” sao?
- Về vấn đề này thì tôi phải nói rõ, phải giải thích cái cách nhìn của
tôi. Thật sự là tôi muốn giải mã hoàn cảnh của “ông cụ” để tháo gỡ, để
làm nhẹ một phần trách nhiệm, làm giảm một phần cả công lẫn tội của “ông
cụ”, cũng như của chính tôi! Người ta thường cho rằng mỗi người đều có
một định mệnh, một thân phận đã cố định. Quậy mấy cũng không thoát ra
khỏi định mệnh, khỏi số phận mà ông trời đã dành cho. Tôi phủ nhận cách
nhìn u mê thụ động của “số phận” như vậy. Tối nghiệm ra, và môn tâm lý
xã hội cũng nhìn nhận như vậy, là mỗi con người sinh ra và lớn lên, thì
đương nhiên phải tiếp cận và tiếp nhận nhiều ảnh hưởng nặng nề của môi
trường ấy…
Ta có thể tạm gọi cái môi trường bao quanh, đè nặng lên, thẩm thấu vào mỗi con người như thế là một hoàn cảnh. Cái hoàn cảnh mà chung quanh đã tạo ra và đã tác động, đã tác thành nó. Đấy chính là cách nhìn của tôi. Nhìn như thế để thấy rõ hoàn cảnh của mỗi con người, để thấy bên trên, bên ngoài, mỗi con người, nhất là mỗi lãnh tụ chính trị, đều có một bóng ma uy quyền lớn trùm kín lên nó, đè lên nó. Đấy là cách suy nghĩ của tôi.
Khi gặp một trở ngại, gặp một điều không vừa ý, thì phải dừng lại, để phân tích tìm hiểu, để nhận ra cái vòng cương toả mãnh liệt đang bao quanh hoàn cảnh… phải tìm cho ra cái bóng ma quái đang chi phối mỗi thân phận, như vậy mới có thể biết cách giải quyết, tìm ra lối vượt qua trở ngại, để thoát ra khỏi bế tắc… Nếu không thì là tự minh cam chịu bị cầm tù trong bế tắc, để rồi còn chỉ biết oán hận, oán thù… Không biết các anh có hiếu hết ý tôi không? Phải giải độc, giải tà quá khứ của mình, để giải phóng chính mình, rồi từ đó giải phóng hiện tại, giải phóng tương lai…
Ta có thể tạm gọi cái môi trường bao quanh, đè nặng lên, thẩm thấu vào mỗi con người như thế là một hoàn cảnh. Cái hoàn cảnh mà chung quanh đã tạo ra và đã tác động, đã tác thành nó. Đấy chính là cách nhìn của tôi. Nhìn như thế để thấy rõ hoàn cảnh của mỗi con người, để thấy bên trên, bên ngoài, mỗi con người, nhất là mỗi lãnh tụ chính trị, đều có một bóng ma uy quyền lớn trùm kín lên nó, đè lên nó. Đấy là cách suy nghĩ của tôi.
Khi gặp một trở ngại, gặp một điều không vừa ý, thì phải dừng lại, để phân tích tìm hiểu, để nhận ra cái vòng cương toả mãnh liệt đang bao quanh hoàn cảnh… phải tìm cho ra cái bóng ma quái đang chi phối mỗi thân phận, như vậy mới có thể biết cách giải quyết, tìm ra lối vượt qua trở ngại, để thoát ra khỏi bế tắc… Nếu không thì là tự minh cam chịu bị cầm tù trong bế tắc, để rồi còn chỉ biết oán hận, oán thù… Không biết các anh có hiếu hết ý tôi không? Phải giải độc, giải tà quá khứ của mình, để giải phóng chính mình, rồi từ đó giải phóng hiện tại, giải phóng tương lai…
- Bác nói như vậy là những việc làm, những ảnh hưởng xấu đều có một bóng
ma quái đã đè lên thân phận của “ông cụ”, của bác, của cả dân tộc trong
thời gian qua… phải không?
- Tầm nhìn như thế là để thấy toàn thể hoàn cảnh, vượt lên trên mỗi thân
phận. Vì nhìn gần thì tất cả đều như là tử “ông cụ” mà ra, mà có. Nhưng
như đã nói, đó chỉ là một tầm nhìn hạn hẹp, nên chỉ thấy uy quyền trước
mắt. Phải đưa tầm nhìn vượt lên trên, vượt ra rộng hơn, xa hơn, để tìm
hiểu tại sao con người, tại sao từ dân tới lãnh tụ cứ u mê cam chịu ngụp
lặn trong bế tắc, tại sao cứ phải sống để gieo oán, gieo thù? Tại sao
phải chấp nhận để oán thù làm động lực của hành động cách mạng? Ai, học
thuyết, lý thuyết nào đã gợi ý, ai đã dạy ta phải biến oán thù thành
động lực như thế?
Xét như thế, thì thấy tất cả đều phát xuất từ một học thuyết, từ một ý thức “đấu tranh giai cấp” mà ra… Và chính học thuyết ấy, giáo điều ấy đã tạo ra cái bóng ma quyền uy của Lenin của Stalin, của Mao và cả của Pol Pot nữa… Nhưng trên tất cả các lãnh tụ ấy, lại là tư tưởng Marx! Thủ phạm gốc chính là Marx! Vì thế mà tôi phải phân tách những khía cạnh thực tế của con người “ông cụ”, để tìm hiểu cội nguồn, của những ảnh hưởng, những lập trường, những quyết định trầm trọng có tính lịch sử của “ông cụ”. Đối với những gì mà ta nhìn thấy, thì những quyết định ấy, bắt nguồn từ tham vọng quyện lực, từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được… Tới lúc vui mừng gập được tía sáng của học thuyết “giai cấp đấu tranh”! Rồi chấp nhận học thuyết ấy lấm kim chỉ nam để đi tới…
Tất cả những bước đi theo hướng ấy đều tạo cợ hội để thành danh, thành lãnh tụ. Để nắm bắt cơ hội ấy, thì phải suy tư vô cảm, coi những đau khổ của con người là những hi sinh cần thiết. Những bước “cơ hội” vô cảm ấy chó phép tung hoành muôn mặt, muôn hướng, không biết thế nào mà lường. Chính “ông cụ” cũng biết, có những điều ông cụ làm, là điều không hay, nên “ông cụ” vẫn thường bảo những “đồng chí” chung quanh, những kẻ thân cận rằng “Bác làm gì kệ bác”
Xét như thế, thì thấy tất cả đều phát xuất từ một học thuyết, từ một ý thức “đấu tranh giai cấp” mà ra… Và chính học thuyết ấy, giáo điều ấy đã tạo ra cái bóng ma quyền uy của Lenin của Stalin, của Mao và cả của Pol Pot nữa… Nhưng trên tất cả các lãnh tụ ấy, lại là tư tưởng Marx! Thủ phạm gốc chính là Marx! Vì thế mà tôi phải phân tách những khía cạnh thực tế của con người “ông cụ”, để tìm hiểu cội nguồn, của những ảnh hưởng, những lập trường, những quyết định trầm trọng có tính lịch sử của “ông cụ”. Đối với những gì mà ta nhìn thấy, thì những quyết định ấy, bắt nguồn từ tham vọng quyện lực, từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được… Tới lúc vui mừng gập được tía sáng của học thuyết “giai cấp đấu tranh”! Rồi chấp nhận học thuyết ấy lấm kim chỉ nam để đi tới…
Tất cả những bước đi theo hướng ấy đều tạo cợ hội để thành danh, thành lãnh tụ. Để nắm bắt cơ hội ấy, thì phải suy tư vô cảm, coi những đau khổ của con người là những hi sinh cần thiết. Những bước “cơ hội” vô cảm ấy chó phép tung hoành muôn mặt, muôn hướng, không biết thế nào mà lường. Chính “ông cụ” cũng biết, có những điều ông cụ làm, là điều không hay, nên “ông cụ” vẫn thường bảo những “đồng chí” chung quanh, những kẻ thân cận rằng “Bác làm gì kệ bác”
- Như vậy thì tại sao bây giờ lại có phong trào kêu gọi noi theo gương “bác Hồ”?
- Xét rộng ra mối thấy tầng lớp lãnh đạo sau này chỉ là cái đuôi… của
tuyên truyền giáo điều máy móc, thiếu biện chứng, phản biện chứng! Vấn
đề là không thể bắt buộc noi gương “bác Hồ”. Bởi cách sống muôn mặt,
muôn phương, đa nguyên của “bác” đâu có phải là gương sáng! Bởi những
điều “bác” đã làm nó rất khác, rất trái ngược với những lời “bác” dạy.
Bởi đảng, nhà nước đã hành động muôn mặt như “bác” nên xã hội đã loạn!
Trong thực tế đâu có ai sống theo lời dạy của “bác”! Tôi còn được biết
rõ mỗi lần sắp xếp những ai được tháp tùng bác đi gặp các nhân vật nước
ngoài, thì bác thân chinh dặn dò thật là chi tiết, từ cách ăn mặc, cách
nói năng, cách ứng xử phải như thế này, thế nọ. Và lời dặn dò luôn luôn
được kết thúc bằng câu: “Các chú phải ăn mặc, nói năng, ứng xử thật đúng
cách, còn bác ăn mặc ra sao, “bác làm gì kệ bác”.
Thật sự là “ông cụ” biết việc mình làm, thái độ giai đoạn, các quyết định cơ hội của mình thường là không trong sáng, nên không muốn bất cứ ai được phép hành xử như… mình, được phép bắt chước mình! Khi gặp khách nước ngoài, đặc biệt là khi gặp người Pháp, thì “ông cụ” ra lệnh đoàn tuỳ tùng phải ráng ăn mặc văn minh, sạch sẽ, hợp thời… Còn “ông cụ” thì mặc theo kiểu lãnh tụ cách mạng Trung Quốc. Thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh trước khi được tháp tùng đi Pháp, thì “ông cụ” đã bảo ông cứ mặc “complet”, thắt “cravate” cho thật đàng hoàng!
Còn “ông cụ” thì vẫn cứ mặc theo kiểu cách mạng! Khi qua Trung Quốc thăm Mao chủ tịch, thì “ông cụ” lại mặc một cách hơi khác đi một chút, với cái áo khoác pardessus bên ngoài cho có vẻ Tây phương, khác hẳn lối mặc của “bác Mao”. Khi sang Pháp để gặp các nhà lãnh đạo Pháp, “ông cụ” còn phong ông Vũ Đình Huỳnh làm đại tá “vì ở bên tây, lãnh đạo luôn luôn có aide de camp (sĩ quan tuỳ tùng) đi hầu cận!” Và từ đó ông Huỳnh cũng phải chịu khó tập chào cho đúng kiểu “bộ đội cụ Hồ”!
Thật sự là “ông cụ” biết việc mình làm, thái độ giai đoạn, các quyết định cơ hội của mình thường là không trong sáng, nên không muốn bất cứ ai được phép hành xử như… mình, được phép bắt chước mình! Khi gặp khách nước ngoài, đặc biệt là khi gặp người Pháp, thì “ông cụ” ra lệnh đoàn tuỳ tùng phải ráng ăn mặc văn minh, sạch sẽ, hợp thời… Còn “ông cụ” thì mặc theo kiểu lãnh tụ cách mạng Trung Quốc. Thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh trước khi được tháp tùng đi Pháp, thì “ông cụ” đã bảo ông cứ mặc “complet”, thắt “cravate” cho thật đàng hoàng!
Còn “ông cụ” thì vẫn cứ mặc theo kiểu cách mạng! Khi qua Trung Quốc thăm Mao chủ tịch, thì “ông cụ” lại mặc một cách hơi khác đi một chút, với cái áo khoác pardessus bên ngoài cho có vẻ Tây phương, khác hẳn lối mặc của “bác Mao”. Khi sang Pháp để gặp các nhà lãnh đạo Pháp, “ông cụ” còn phong ông Vũ Đình Huỳnh làm đại tá “vì ở bên tây, lãnh đạo luôn luôn có aide de camp (sĩ quan tuỳ tùng) đi hầu cận!” Và từ đó ông Huỳnh cũng phải chịu khó tập chào cho đúng kiểu “bộ đội cụ Hồ”!
Về cách “bác” nể nang và bênh vực ông Vũ Đình Huỳnh
, có giai thoại do chính đương sự đã khoe ra rằng khi bị mấy uỷ viên
trong bộ chính trị mách rằng “ông Huỳnh vẫn giữ thói ngông tiểu tư sản,
lúc nào cũng quần áo ủi là thật thẳng, lúc nào cũng xức nước hoa “Rêve d’Or”,
thì ông cụ bênh ngay: “Ông ấy thích vậy thì kệ ông ấy”. Việc Vũ Đình
Huỳnh được gọi bằng “ông” tức là đa có sự phân cách để cho thấy Vũ Đình
Huỳnh không phải là một “đồng chí”, nghĩa là không phải người của cách
mạng, nên sẽ có ngày bị hất xuống vực thẳm một cách không thương tiếc.
Và sau này thì sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Phải chi được “ông cụ”
coi như con cháu, như gia nhân trong nhà thì tương li, hậu vận mới khá
được.
Những người thân cận còn kể rằng “ông cụ” rất chú ý cả tới cách nói
năng, ăn mặc của cánh phục vụ. Mỗi trường hợp tháp tùng, đi ra bên
ngoài, là cả một sự dặn dò, chỉ bảo thật kỹ từng chi tiết, vấn đề là cả
một dàn cảnh làm nổi trội hình ảnh một lãnh tụ giữa đám quần chúng bình
dân bao quanh! Nghĩa là phải làm sao cho thật là nổi bật vóc dáng một
lãnh tụ, thật uy nghi, nhưng lại thật là hoà đồng, mà không bị hoà lẫn
trong cảnh quan! Đây là một minh hoạ cho ngạn ngữ “chiếc áo đã làm nên
thày tu”! Chính phong cách nói năng, ăn mặc của “ông cụ”, đã tạo ra một
phong cách “lãnh tụ cách mạng”, chứ không phải trình độ lý thuyết,
phương pháp lý luận! Không diễn thuyết, không viết sách để “đảng” và dân
học tập, nhưng rất chú ý tới kỹ thuật dàn dựng bề ngoài: mỗi bức hình,
mỗi ký sự phải là một “kiểu ảnh” để hậu thế chiêm ngưỡng! Phải chọn cận
cảnh, viễn cảnh nổi nhất, phải cân nhắc đưa đẩy máy ảnh, máy quay tới
lui nhiều lần để sao cho có một “thế đứng, thế ngồi” được “bác” chấp
nhận, để lưu lại cho hậu thế!
Vì “ông cụ” là một nhà dàn cảnh chiến lược có tài, rất tỉ mỉ và khó
tính. Bởi đối tượng trong hình, ở mọi tình huống, chính là “bác”, một
lãnh tụ luôn luôn muốn minh nắm độc quyền quyền lực.
Những ai đã trải qua, đã sống sót sau cuộc cách mạng, rồi thì cũng đều
có cái kinh nghiệm của “cụ Hồ” là phải biết vượt qua mọi trở ngại, trong
mọi hoàn cánh khó khăn, để nắm bắt mọí cơ hội để vươn lên, để thành
đạt, dù có phải đụng tới lương tri, đạo lý!
- Khi đã biết lãnh tụ là như vậy, ai ai cũng phải chấp nhận là như vậy,
thì tôi đã có phản ứng đối phó. Một là cố gắng đổi dạng, học cách sống
theo cách mạng, nghĩa là cũng áo quần nâu sồng, cũng ăn uống đạm bạc, cố
tạo ra cái vỏ ngoài sống lam lũ như một nông dân bần cố. Cứ sống trong
những điều kiện “vô sản”, để cố xoá đi những phô trương lỗ mãng thời
trẻ. Phải bằng cách này, cách khác, biết “cải thiện” mình trước cái nhìn
của đối tác, đối phương cực kỳ sắt thép, đối phương tức là “ông cụ”.
Nhưng thật ra tất cả đều là vô ích. Bởi “ông cụ” đã có cái nhìn phân biệt, cái nhìn định kiến đối với tôi ngay từ lúc đầu như thế mất rồi. “Ông cụ” đã sắp hạng con người tôi như thế, tức là đã mặc nhiên tuyên một bản án bất thành văn, vô phương kháng cáo. Cách nhìn như thế không phải là của trí tuệ. Thật là đáng tiếc đối với một lãnh tụ. Vì nó quá hẹp hòi. Bởi cách mạng đã quen nếp hành động “chẳng thà bắt lầm chín đứa, để không cho một đứa chạy thoát”. Khổ thế đầy! Pascal, một nhà tư tưởng Pháp có viết: “Con người vừa là thiên thần, vừa là thú vật. Kẻ muốn làm thiên thần, thì lại là làm thú vật”. Cách mạng muốn làm ông thành giải phóng con người, thì lại là làm con quỷ bạo lực của hận thù để nô dịch con người. Lối hành động ấy là phản thần thánh, vì là phạm tội ác!
Nhưng thật ra tất cả đều là vô ích. Bởi “ông cụ” đã có cái nhìn phân biệt, cái nhìn định kiến đối với tôi ngay từ lúc đầu như thế mất rồi. “Ông cụ” đã sắp hạng con người tôi như thế, tức là đã mặc nhiên tuyên một bản án bất thành văn, vô phương kháng cáo. Cách nhìn như thế không phải là của trí tuệ. Thật là đáng tiếc đối với một lãnh tụ. Vì nó quá hẹp hòi. Bởi cách mạng đã quen nếp hành động “chẳng thà bắt lầm chín đứa, để không cho một đứa chạy thoát”. Khổ thế đầy! Pascal, một nhà tư tưởng Pháp có viết: “Con người vừa là thiên thần, vừa là thú vật. Kẻ muốn làm thiên thần, thì lại là làm thú vật”. Cách mạng muốn làm ông thành giải phóng con người, thì lại là làm con quỷ bạo lực của hận thù để nô dịch con người. Lối hành động ấy là phản thần thánh, vì là phạm tội ác!
Không giấu được phẫn nộ khi kể ra những kỷ niệm cay đắng về hai lần gặp
gỡ đầy ấn tượng1 bế tắc với “cụ Hố” hồi ấy, bác Thảo nhái giọng Sài Gòn,
nói với chúng tôi y như tự chế nhạo mình:
- Hồi năm 1946, ở Paris, với vị thế từng được bầu làm “Đại diện cho kiều
dân Đông Dương”, tưởng thế là mình “ngon lành” lắm, sau lại còn dám to
ra ngang hàng với lãnh tụ, rồi có lúc còn ngoan cố toan tính đấu lý với
đám cố vấn Tàu… Bây giờ nghĩ lại mới thấy “nói zậy” mà chưa mất mạng là
may lắm!
- Theo bác thì tại sao bác không bị thanh toán như những kẻ đã dám tỏ ra mình ngang hàng, là đối trọng với “bác Hồ”?
- Cái đó là do tôi đã sớm đề phòng; Vì thế mà tôi mới sống sót cho tới
ngày nay. Thứ nhất là tôi giữ ý, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu tìm một
vai về chính trị nào, tuyệt đối không mưu tìm gặp gỡ, kết thân với
những trí thức, để tránh bị coi là có ý gây phe phái ở chung quanh. Bởi
chung quanh ông cụ đã có quá nhiều phe phái rình rập nhau. Lúc nào tôi
cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. Vì tôi biết quanh tôi toàn là những
con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác… của các cục “bảo vệ A
này, A nọ”. Sống trong một xã hội ngu tín, của thời cuồng tín như thế
không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!
- Lúc có dịp nêu những ý kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, thì tôi
luôn luôn phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng
đảng”. Đã nhiều lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi
chỉ ước ao được học tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng
tỏ một sự đầu hàng “lãnh tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót…
Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn tới một thế lực đã bảo vệ tôi, đó là
sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ
đã tận tình tỏ ra chăm sóc, theo dõi hoàn cảnh và sức khỏe của tôi khi
họ biết tôi đang bị kìm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm hỏi và đôi
khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ còn đòi qua tận Việt Nam để thăm
tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng
ông và đám bạn bè của ông rất quý trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. Vì thế,
tuy bị cánh tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể
của trí thức của thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đã có sự e nể đối với
tôi. Lúc tôi lâm nguy tới tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán
bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ
cực đoan đã chụp lên đầu tôi cái tội đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản
cách mạng của bọn đệ tứ”!
Nhưng vì “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó còn ra những trò gì”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn. Hơn nữa, những nhận xét phê bình của tôi, chính “ông cụ” và mấy tay lý thuyết của đảng cũng không bắt bẻ được, nhưng vì địa vị thượng đỉnh của “ông cụ”, vì cố giữ “chuyên chính vô sản”, nên họ không thể chấp nhận ý kiến phản biện có tính dân chủ của tôi.
Ngay trong lúc có cải cách ruộng đất, dân kêu than, khóc lóc quá thì “ông cụ” cũng biết đấy. Vì thế mà “ông cụ” đã khôn khéo ra chỉ thị “không được dùng nhục hình”, nhưng chỉ thị ấy đã bị cất xó, để sau này làm sử liệu, chứ nó không hề được phổ biến, rộng rãi. Bởi còn ý kiến có tính mệnh lệnh của Ban cố vấn, là phải thẳng tay “phát động đấu tố để tạo khí thế cách mạng”…
Nhưng vì “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó còn ra những trò gì”. Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn. Hơn nữa, những nhận xét phê bình của tôi, chính “ông cụ” và mấy tay lý thuyết của đảng cũng không bắt bẻ được, nhưng vì địa vị thượng đỉnh của “ông cụ”, vì cố giữ “chuyên chính vô sản”, nên họ không thể chấp nhận ý kiến phản biện có tính dân chủ của tôi.
Ngay trong lúc có cải cách ruộng đất, dân kêu than, khóc lóc quá thì “ông cụ” cũng biết đấy. Vì thế mà “ông cụ” đã khôn khéo ra chỉ thị “không được dùng nhục hình”, nhưng chỉ thị ấy đã bị cất xó, để sau này làm sử liệu, chứ nó không hề được phổ biến, rộng rãi. Bởi còn ý kiến có tính mệnh lệnh của Ban cố vấn, là phải thẳng tay “phát động đấu tố để tạo khí thế cách mạng”…
- Khổ thế đấy! Và vì vậy mà tôi muốn nhấn mạnh tới hoàn cảnh phải chịu
sức ép cũng không mấy vinh quang của “cụ Hồ” trong suốt thời gian phát
động chiến tranh! Muốn qua sông phải luỵ đò! Muốn có vũ khí làm chiến
tranh thì phải nghe người ta, phải kiêng nể cố vấn, nên cũng đành phải
hi sinh một phần uy quyền, chủ quyền. Chứ mình có tự chủ hoàn toàn như
mình muốn đâu. Lúc đó lãnh đạo đang bận tâm vì chiến tranh, không ai
nghĩ tới chuyện phát động cải cách ruộng đất dã man như thế. Nhưng, như
tôi đã nói, trên mỗi thân phận đều có một bỏng quyền lực ma quái hơn nó
bao trùm, nó ép, nó đè…
Trên thân phận. Trần Đức Thảo là cái bóng ma quyền lực Hồ Chí Minh, nhưng trên thân phận Hồ chí Minh lại là cái bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao! Nhưng xét cho cùng, thì trên tất cả những thân phận lãnh tụ cộng sản, đều có cái bóng ma vô cùng vĩ đại, vô cùng áp đảo của Marxí Nhưng mà riêng đối với tôi, thì trên tất cả và tận cùng, qua bao tiếp cận thực tại tàn nhẫn của cách mạng trong một thời gian dài, thì nay tôi mới nhận ra là còn có một quyền lực lớn lao vô cùng, vô tận của sự thật, của lương tri… nó đè nặng lên đầu óc Trần Đức Thảo, nó phát xuất từ sự đau khổ của dân tộc Việt trong cuộc cách mạng này. Đó cũng là những đau khổ vô cùng của con người trong các cuộc cách mạng bằng bạo lực của hận thù ở Nga, ở Trung Quốc, ở ta, ở Campuchia… Chính vì đã đẩy tầm nhìn lên thượng tầng của tư tưởng, đưa lý luận, lý giải tới tận cùng của lương tri như vậy, thì phải nhìn thấy rõ cái gốc của mọi sai lầm và tội ác của cách mạng và của chính mình! Muốn phân tích rõ mọi sự thì phải là một cuốn sách vĩ đại… Bây giờ thì chỉ có thể bàn trong giới hạn của một vài chi tiết, một vài khía cạnh mà thôi.
Trên thân phận. Trần Đức Thảo là cái bóng ma quyền lực Hồ Chí Minh, nhưng trên thân phận Hồ chí Minh lại là cái bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao! Nhưng xét cho cùng, thì trên tất cả những thân phận lãnh tụ cộng sản, đều có cái bóng ma vô cùng vĩ đại, vô cùng áp đảo của Marxí Nhưng mà riêng đối với tôi, thì trên tất cả và tận cùng, qua bao tiếp cận thực tại tàn nhẫn của cách mạng trong một thời gian dài, thì nay tôi mới nhận ra là còn có một quyền lực lớn lao vô cùng, vô tận của sự thật, của lương tri… nó đè nặng lên đầu óc Trần Đức Thảo, nó phát xuất từ sự đau khổ của dân tộc Việt trong cuộc cách mạng này. Đó cũng là những đau khổ vô cùng của con người trong các cuộc cách mạng bằng bạo lực của hận thù ở Nga, ở Trung Quốc, ở ta, ở Campuchia… Chính vì đã đẩy tầm nhìn lên thượng tầng của tư tưởng, đưa lý luận, lý giải tới tận cùng của lương tri như vậy, thì phải nhìn thấy rõ cái gốc của mọi sai lầm và tội ác của cách mạng và của chính mình! Muốn phân tích rõ mọi sự thì phải là một cuốn sách vĩ đại… Bây giờ thì chỉ có thể bàn trong giới hạn của một vài chi tiết, một vài khía cạnh mà thôi.
- Như mọi người đã thấy đấy, chỉ vì ảnh hưởng của ý thức hệ mà chưa bao
giờ ở đất nước này lại thấy có một chính quyền, một đảng chính trị lại
vâng lời, lại phục tùng, lại sùng bái con đường hùng bạo của đáng cộng
sản Trung Quốc đến mức đó. Cứ như mình là con đẻ của đảng cộng sản Trung
Quốc. Mà sự thực là như thế! Dĩ vãng ngàn năm Bắc thuộc đâu dễ gì xoá
đi được. Rồi với hàng vận cán bộ của “đảng ta” đo Trung Quốc đào tạo về
mặt ý thức hệ nữa… Vì hiểu rõ tình trạng ấy, nên tôi cố gắng tìm luận
chứng phản biện thật sáng tỏ, để thuyết phục lãnh đạo, để tránh những
bước mù quáng quá trớn tai hại trong giai đoạn bị thôi thúc phải chuẩn
bị mở lại chiến tranh. Vì làm chiến tranh thì phải nhờ vả, quỵ luỵ bên
ngoài, tức là phải sùng bái anh cả đỏ Trung Quốc, chứ tay không thì đánh
ai được. “Ông cụ” cứ tưởng có thể làm chủ tình hình trên đất nước của
mình, cứ tưởng có thể tung hoành áp đảo dư luận quốc tế… nhưng kỳ thực
là trên bàn cờ quốc tế, ở thời nào cũng vậy, một lãnh tụ nước nhỏ luôn
luôn hứng chịu sự khuynh đảo tàn nhẫn của các thế lực nước lớn.
Đang lúc chiến tranh sôi động trên đất nước, mà phải chấp nhận khuyến cáo của Trung Quốc phát động cải cách ruộng đất theo y như lối “thổ cải” dã man của Mao ở Trung Quốc như thế, thì đó là một nỗi nhục, nỗi đau của “ông cụ”. Khi phải mang bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của cách mạng ra mà bắn như thế, mà chính “ông cụ” đã nhìn nhận là mình không muốn như vậy, thì đấy là một thú nhận nỗi bất lực, một mối nhục lớn của “ông cụ”! Chung quy chính “ông cụ” cũng bị chi phối bởi những thế lực luôn luôn có cái nhìn quyền lợi, cái nhìn chiến lược toàn cảnh, toàn cầu, cái nhìn “ảnh hưởng”, “thế lực” của họ. Trung Quốc nó muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc. Tôi đã hơn một lần nhắn nhủ, cảnh giác cấp lãnh đạo cách mạng rằng trong lịch sử thế giới, chưa hề thấy có trường hợp một nước lớn nào có chính sách chịu hi sinh, để mà giúp đỡ vô tư, để chi viện vô vụ lợi cho một nước nhỏ bao giờ đâu. Các nước lớn không bao giờ quên quyền và lợi của họ… Trong lịch sử nước ta từ trước tới nay, và cả về sau này, Trung Quốc đã, đang và vẫn sẽ là cái bóng ma quái vĩ đại, mãi mãi đè nặng lên đất nước, lên lãnh đạo, lên lãnh thổ của chính chúng ta!
Đang lúc chiến tranh sôi động trên đất nước, mà phải chấp nhận khuyến cáo của Trung Quốc phát động cải cách ruộng đất theo y như lối “thổ cải” dã man của Mao ở Trung Quốc như thế, thì đó là một nỗi nhục, nỗi đau của “ông cụ”. Khi phải mang bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của cách mạng ra mà bắn như thế, mà chính “ông cụ” đã nhìn nhận là mình không muốn như vậy, thì đấy là một thú nhận nỗi bất lực, một mối nhục lớn của “ông cụ”! Chung quy chính “ông cụ” cũng bị chi phối bởi những thế lực luôn luôn có cái nhìn quyền lợi, cái nhìn chiến lược toàn cảnh, toàn cầu, cái nhìn “ảnh hưởng”, “thế lực” của họ. Trung Quốc nó muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc. Tôi đã hơn một lần nhắn nhủ, cảnh giác cấp lãnh đạo cách mạng rằng trong lịch sử thế giới, chưa hề thấy có trường hợp một nước lớn nào có chính sách chịu hi sinh, để mà giúp đỡ vô tư, để chi viện vô vụ lợi cho một nước nhỏ bao giờ đâu. Các nước lớn không bao giờ quên quyền và lợi của họ… Trong lịch sử nước ta từ trước tới nay, và cả về sau này, Trung Quốc đã, đang và vẫn sẽ là cái bóng ma quái vĩ đại, mãi mãi đè nặng lên đất nước, lên lãnh đạo, lên lãnh thổ của chính chúng ta!
Bác Thảo lắc đầu ỉm lặng một hồi rồi nói tiếp:
- Bởi có cái nhìn như thế nên tôi bị ganh ghét, tuy chưa bị tiêu diệt,
nhưng cứ bị trừng phạt bằng cách để cho sống dở, chết dở, lúc nào cũng
như có thanh kiếm treo lơ lửng trên đầu. Dù bị canh chừng, bị đe doạ,
nhưng tôi vẫn kiên trl lập trường, để tiếp tục là tôi, thế nên phải sống
khổ. Cứ như mình muốn khổ chứ không muốn sung sướng, không muốn được ưu
đãi! Bi hài là như thế!
Bác Thảo kể tới đó rồi bỗng cười rũ đến chảy nước mắt làm chúng tôi ngạc
nhiên. Bác kể ra những gian nan khổ cực của bác với một niềm kiêu hãnh,
tự đắc. Cứ như là những nỗi đau khổ ấy là những thành tích của mối tình
lãng mạn giữa bác với cách mạng, giữa triết học với chân lý. Lúc tâm
sự, bác thường mỉm cười tê tái, trong khi mắt ngấn lệ. Chúng tôi tuy
cũng có lúc phải mỉm cười theo, nhưng rồi cũng chảy nước mắt. Vì thấy
nhà triết học của chúng tôi lấy tay áo chấm nước mắt mà vẫn cứ cười như
đứa trẻ! Thật là thê thảm!
Rồi bác Thảo ôn lại tâm trạng mình ở Paris hồi ấy. Lúc thấy phái đoàn Hồ
Chí Minh về nước… cùng bốn trí thức Việt kiều, mà mình thì bị bỏ lại!
Thật là mất mặt cho kẻ cứ tưởng mình là một tay mác-xít có hạng, tràn
trề hi vọng, tưởng mình sẽ rất là tâm đầu ý hợp với nhà lãnh đạo kháng
chiến và cách mạng ấy!1
Bác Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay
chuyến ấy là ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, và bác
sĩ Trần Hữu Tước. Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có
nhiều kiến thức về vũ khí nên đã được tin dùng đặc biệt. Và đã được “cụ
Hồ” đặt cho một tên mới là Trần Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm
thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu tiên của chiến khu, rồi sau được
ca ngợi như là người đã sáng chế ra loại súng chống tăng, mang tên SKZ
(Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:
- Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa. Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế.
Kể tới đó, bác Thảo lại mỉm cười tề tái! Trên mặt khô héo của nhà triết
học luôn toát ra nỗi buồn, nhưng vẫn cứ giấu nó sau nụ cười mỉm. Đấy
không phải là thứ cười vui, mà chỉ là một thứ cười đã phai bạc, đầy gian
truân, đắng cay… muốn khóc! Đấy là thứ cười cố hữu của con người khổ
ải, thường để che giấu thân phận tủi nhục, u buồn của mình. Nụ cười héo
hắt ấy rất thường gặp trên môi mỗi con người cùng khổ. Đến nỗi dân ta đã
nổi tiếng là “cái gì cũng cười”, lúc đau khổ cũng vẫn cứ… cười!
Rồi bác Thảo còn thành thật thú nhận:
- Hồi ấy, không được cùng về với phái đoàn “cụ Hồ”, tôi cảm thấy bị coi
thường, nên tự ải bị va chạm nặng. Vì vậy lại càng có quyết tâm mưu tính
cho bằng được sự trở về sau này! Nay nghĩ lại mới hiểu rõ vì sao lúc đó
tôi đã bị bỏ lại, và rồi không được tin dùng sau này: chỉ vì đã lỗ mãng
phạm thượng, nhưng có lẽ công và tội nặng nhất của tôi là đã có những
suy nghĩ, nhận định nghiêm trọng trước mấy vấn đề lớn. Vì thế mà đã vô
tình đụng tới những tính toán của lãnh đạo, của “đảng”! Đó là việc tối
kỵ không ai dám làm. Nhưng vì tính nghiêm trọng ấy mà tôi thấy phải nói
ra. Chung quạnh ông cụ người ta chỉ quen khen nịnh thôi. Tôi muốn thay
đổi cách làm việc như vậy. Bởi đằng sau những vụ việc được đề cao là
những hậu quả nặng nề và lâu dài có những chọn lựa tưởng là tốt đẹp,
nhưng với thời gian, nó sẽ mang lại những tai hại lớn lao. Dù là chọn
lựa hay quyết định của lãnh đạo thì cũng có lúc sai. Tôi không thể giữ
im lặng trước những cái sai ấy. Vì thế người ta không muốn cho tôi tiếp
cận lãnh đạo một cách thân cận. Luôn luôn có một bức tường ngăn cách.
- Thế thì bác chỉ được gặp “cụ Hồ” có hai lần ấy thôi à?
- Còn nhiều lần gặp mặt sau này nữa chứ, nhưng những lần gặp ấy thì là
sự tham dự ở vòng ngoài, nghĩa là do sự sắp đặt, để trang trí theo ý
muốn của quyền lực, của cơ quan, cơ chế, chứ không phải là được mời để
có tiếp xúc riêng, để tạo quan hệ thân mật với lãnh tụ. Trong những lần
gặp theo chương trình đã sắp xếp của “tổ chức”, nên giữa “bác” và tôi,
chúng tôi không hề trao đổi với nhau một câu nào có tính thân tình, tâm
sự về một sự cố hay vấn đề nào đó… Như tôi đã được tập huấn ngay từ đầu,
trước mặt “bác” tôi không được tự ý nói câu nào “ngoài chương trình”,
ngoài lễ tân!
- Như vậy là những lần gặp gỡ ấy, thật ra cũng là vô ích!
Cũng không hẳn là vô ích đâu. Bởi mỗi dịp nêu ra được một điều của lê
phải, của sự thật, để rồi nó lọt đến tai lãnh đạo hay ai đó thì cũng như
mình gieo trồng được một mầm tốt. Nhưng nếu cái hạt mà minh gieo đó bị
coi là hạt xấu thì mình sẽ phải trả giá. Tôi còn nhớ một lần gặp gỡ rất
bí mật, không thể nào quên. Lúc đó là cuối năm 1964, tức là hoà bình sau
hiệp định Genève đã gần mười năm, nhưng cả miền Bắc thì đang sôi sục
ngầm chuẩn bị mở chiến tranh nổi dậy một cách quy mô ở miền Nam. Bỗng
một cán bộ Trung ương tên là Sông Trường, tới bảo “bác” ngỏ ý muốn nghe
tôi phát biểu về đề tài “chiến tranh và hoà bình”, tại phủ chủ tịch.
Và tôi được biết rõ là buổi thuyết trình này chỉ dành riêng cho một số người rất hạn chế, rất thân cận của “bác”. Lệnh đó đã làm tôi suy nghĩ rất kỹ. Bởi lúc đó trong dân chúng, nhất là tại nông thôn, nơi không có tai mắt của quốc tế, đang dấy lên phong trào hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Các địa phương đang thi đua thành tích “giao quân”. Khắp nơi tràn đầy bích chương, pa-nô kêu gọi “vì yêu nước, yêu xã hội chủ nghĩa, phải hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự”!
Và tôi được biết rõ là buổi thuyết trình này chỉ dành riêng cho một số người rất hạn chế, rất thân cận của “bác”. Lệnh đó đã làm tôi suy nghĩ rất kỹ. Bởi lúc đó trong dân chúng, nhất là tại nông thôn, nơi không có tai mắt của quốc tế, đang dấy lên phong trào hô hào thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự. Các địa phương đang thi đua thành tích “giao quân”. Khắp nơi tràn đầy bích chương, pa-nô kêu gọi “vì yêu nước, yêu xã hội chủ nghĩa, phải hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự”!
Thật tế là lúc ấy, trong mỗi gia đình dân chúng, đang rạo rực mối lo
“đảng” chuẩn bị mờ lại chiến tranh quy mô xuống miền Nam. Bởi trong dân
chúng những tin tức Trung Quốc đang ùn ùn chở vũ khí nặng vượt qua biên
giới vào cho ta, rồi lệnh gấp rút thu gom thanh niên đi làm “nghĩa vụ”…
Do đó tôi cố tìm hiểu tại sao “bác”, là người chẳng ưa gì tôi, mà nay
lại muốn nghe tôi thuyết trình về một đề tài đang làm cho dân chúng lo
âu, đang được bàn tán, tuy âm thầm nhưng rất là sôi nổi, trong thời sự.
Cán bộ phủ chủ tịch cho biết “bên trên” ra lệnh cho tôi phải chuẩn bị kỹ
bài nói chuyện, và yêu cầu tôi đưa trình bài đã soạn để “trên” duyệt
trước. Thế nhưng tôi cố ý chỉ đưa trước một dàn bài tóm lược đại cương
với hai phần chính. “Một lá cách đánh giá nhu cầu và di sản của chiến
tranh. Hai là cách đánh giá nhu cầu và di sản của hoà bình, Và phần kết
luận: cách đánh giá thắng và bại qua những di sản của chiến tranh và của
hoà bình”. Tôi không đi sâu vào chi tiết trong dàn bài đưa trình, là có
ý để không gặp cấm cản những điều mà tôi muốn nói, mà có lẽ “bác” và
những người chung quanh cũng không muốn tôi nêu ra. Trong bài thuyết
trình, tôi đã cố phân tích thật sâu sự kiện “chiến tranh” và sự kiện
“hoà bình”, qua quá trình lịch sử đương đại, với cách nhìn triết học phê
phán đối với ỉịch sử.
Tôi ôn lại những bài học của lịch sử, để nhấn mạnh tới sự độc hại không thể nào kể xiết của chiến tranh. Bởi nhu cầu chiến tranh đòi hỏi thật nhiều mưu trí, thủ đoạn. Còn hoà bình bền vững đòi hỏi phải có trí tuệ thật là trong sáng, minh bạch. So sánh con người của chiến tranh với con người của hoà bình về mặt lương tri đạo đức thì sẽ thấy rõ đâu là giá trị đích thực của chiến tranh, của hoà bình. Hơn nữa, hai cuộc đại chiến tranh thế giới đã kết thúc với thắng lợi của phe cắc nước dân chủ tư bản ở châu Âu, đã để lại những bài học đắt giá.
Tôi ôn lại những bài học của lịch sử, để nhấn mạnh tới sự độc hại không thể nào kể xiết của chiến tranh. Bởi nhu cầu chiến tranh đòi hỏi thật nhiều mưu trí, thủ đoạn. Còn hoà bình bền vững đòi hỏi phải có trí tuệ thật là trong sáng, minh bạch. So sánh con người của chiến tranh với con người của hoà bình về mặt lương tri đạo đức thì sẽ thấy rõ đâu là giá trị đích thực của chiến tranh, của hoà bình. Hơn nữa, hai cuộc đại chiến tranh thế giới đã kết thúc với thắng lợi của phe cắc nước dân chủ tư bản ở châu Âu, đã để lại những bài học đắt giá.
Bởi sự thật là sau mỗi lần chiến thắng, châu Âu đã thụt lùi một bước về
mặt uy thế đối với thế giới, vì suy yếu, vì đã kiệt sức đến phải nhờ vả,
phải vịn vào Mỹ để đứng dậy! Từ đó, nhất là từ sau đệ nhị thế chiến, Mỹ
đã trở thành cường quốc số một, một cách không thể chối cãi, còn châu
Âu thì đã vĩnh viễn mất hẳn vị trí đứng đầu thế giới. Các nhà sử học và
xã hội học còn ghi nhận, về mặt văn hoá, nhân văn, về mặt trật tự, kỷ
cương và đạo lý, thì còn người thời hậu chiến đã bị suy thoái về tất cả
các mặt ấy. Hai nước chiến bại là Đức và Nhật đã vươn lên thành hai
cường quốc kinh tế nhờ họ là nước thua trận, không có quyền thành lập
quân đội. Do đó dân của họ không bị gánh vác nặng nề những chi phí quốc
phòng trong một thời gian dài. Nghiên cứu về hiện tượng ấy cho phép đánh
giá cái hại lâu dài của chiến tranh, dù là đã đại thắng. Bởi cái giá
phải trả sau khi chiến thắng thì rất là đắt. Những chiến công hiển hách,
có thể mang ra ca ngợi trong hàng ngàn trang sách..
Nhưng nỗi đau, nỗi khổ mà các dân tộc phải chịu do hậu quả chiến tranh thì lâu dài, không có giầy bút nào có thể kể ra cho hết. Cụ thể cho thấy cái lọi về cách sử dụng hoà bình một cách tuyệt đối, nghĩa là không phải dồn nỗ lực vào guồng máy chiến tranh đã cho phép các dân tộc quanh ta tránh được bao đau khổ, không bị trong tình trạng thua kém, tụt hậu như nước ta, dân ta. Vả lại nhờ chính sách tận dụng hoà bình mà Đức và Nhật đã qua mặt những nước chiến thắng như Anh, như Pháp. Kinh nghiệm ấy là một bài học quý cho nước ta.
Nhưng nỗi đau, nỗi khổ mà các dân tộc phải chịu do hậu quả chiến tranh thì lâu dài, không có giầy bút nào có thể kể ra cho hết. Cụ thể cho thấy cái lọi về cách sử dụng hoà bình một cách tuyệt đối, nghĩa là không phải dồn nỗ lực vào guồng máy chiến tranh đã cho phép các dân tộc quanh ta tránh được bao đau khổ, không bị trong tình trạng thua kém, tụt hậu như nước ta, dân ta. Vả lại nhờ chính sách tận dụng hoà bình mà Đức và Nhật đã qua mặt những nước chiến thắng như Anh, như Pháp. Kinh nghiệm ấy là một bài học quý cho nước ta.
Thực tế là tình trạng miền Bắc ta, cho tới lúc này (1964), cũng chưa xoá
bỏ được nghèo khổ, dù là việc ký kết hiệp định hoà bình ở Genève đã
mười năm. Đời sống nhân dân ta còn vô cùng tối tăm về mọi mặt. Thế mà
nay ta lại phải lo mở lại chiến tranh trong những ngày sắp tới đây. Mà
nước ta vẫn chưa làm ra được súng đạn, thì dĩ nhiên phải nhờ vả trầm
trọng vào nước ngoài, về mặt vũ khí, về lương thực… Sự nhờ vả ấy sẽ là
món nợ vô cùng nặng nề. Nó sẽ là một di sản lâu dài của chiến tranh. Bởi
chiến tranh, đối với loài người, là một độc dược với muôn vàn “hậu quả
độc hại từ bên trong”, về lâu về dài. Chiến thắng chỉ mang lại phần
thưởng vinh quang cho một thời gian nhất định.
Nhưng di sản tai hại trầm trọng của nó, ngoài những thiệt hại về nhân mạng, về đổ vỡ trên lãnh thổ, còn là sự đổ vỡ thấm sâu trong tinh thần, trong nếp sống, trong nếp suy nghĩ, trong đầu óc con người. Bởi chiến tranh lâu dài sẽ tồn đọng trong đầu óc, thành một thứ văn hoá chiến tranh. Nó làm cho con người trở thành hung bạo hơn, gian xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, trong hành động, trong nếp sống hằng ngày. Bởi con người chiến thắng sẽ khoe khoang, sẽ thành kiêu binh, sẽ tin tưởng vào những xảo trá, quỷ quyệt đã dùng để đánh gục quân thù! Nhưng rồi nó tồn đọng như những món nợ vật chất và tinh thần, trong thể xác và đầu óc con người và xã hội. Đó là những món nợ văn hoá trong lối sống… lối suy nghĩ, mà các thế hệ mai sau không thể nào thanh toán cho hết được.
Vì thế mà người xưa, sau chiến thắng, thì đã phải vội ra chính sách “an dân”, để cố tẩy xoá ngay lối sống, lối suy nghĩ của chiến tranh, để cho người dân an tâm mà làm ăn… Ta thì sau khi thắng xong, là lại lo áp đảo tinh thần đề huy động dân chúng, để phát triển “xã hội chủ nghĩa”, rồi tiếp tục cổ vũ hận thù triệt để, để chuẩn bị mở lại chiến tranh!
Nhưng di sản tai hại trầm trọng của nó, ngoài những thiệt hại về nhân mạng, về đổ vỡ trên lãnh thổ, còn là sự đổ vỡ thấm sâu trong tinh thần, trong nếp sống, trong nếp suy nghĩ, trong đầu óc con người. Bởi chiến tranh lâu dài sẽ tồn đọng trong đầu óc, thành một thứ văn hoá chiến tranh. Nó làm cho con người trở thành hung bạo hơn, gian xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, trong hành động, trong nếp sống hằng ngày. Bởi con người chiến thắng sẽ khoe khoang, sẽ thành kiêu binh, sẽ tin tưởng vào những xảo trá, quỷ quyệt đã dùng để đánh gục quân thù! Nhưng rồi nó tồn đọng như những món nợ vật chất và tinh thần, trong thể xác và đầu óc con người và xã hội. Đó là những món nợ văn hoá trong lối sống… lối suy nghĩ, mà các thế hệ mai sau không thể nào thanh toán cho hết được.
Vì thế mà người xưa, sau chiến thắng, thì đã phải vội ra chính sách “an dân”, để cố tẩy xoá ngay lối sống, lối suy nghĩ của chiến tranh, để cho người dân an tâm mà làm ăn… Ta thì sau khi thắng xong, là lại lo áp đảo tinh thần đề huy động dân chúng, để phát triển “xã hội chủ nghĩa”, rồi tiếp tục cổ vũ hận thù triệt để, để chuẩn bị mở lại chiến tranh!
(Cũng nhân đây, phải lưu ý rằng ở châu Âu, có hai nước đã coi nhau
như kẻ thù truyền kiếp, quyết không đội trời chung là Đức và Pháp. Nhưng
những lãnh đạo có trỉ tuệ, biết nhìn xa, đã hoá giải được moi thù
truyền kiếp ấy bằng hoà giải, để rồi Pháp và Đức ngày nay đã trở thành
cột trụ của nền hoà bình và thịnh vượng của châu Âu, do châu Âu chứ
không còn là do Mỹ cho châu Âu! Đấy là một kinh nghiệm, là một bài học
hoà bình và thịnh vượng, mà chìa khoả là sự công nhận giá trị của nhau,
kính trọng nhau để cộng tác với nhau mà đi tới).
- Vì thế, khi đã có hoà bình mà không cấp bách và tích cực xoá bỏ cho
nhanh, cho hết nếp suy tư, nếp ứng xử quá khích, xảo trá thời chiến
trong xã hội, xoá sạch hậu quả của những thói quen quá trớn của chiến
tranh, để cho dân thay đổi cách nghĩ, cách sống, để cho cuộc sống trở
lại lương thiện bình thường, thì rồi sẽ khó tránh được, những hậu hoạ xã
hội suy tàn là di sản lâu dài của chiến tranh.
Sau chiến tranh mà vẫn duy trì nếp sinh hoạt của thời chiến, vẫn phát triển các chính sách của bạo lực, vẫn quen dùng thủ đoạn tuyên truyền dối gạt của chiến tranh, thì xã hội sẽ mãi mãi sống trong căng thẳng, trong những phản xạ tàn bạo… như vậy là độc tố chiến tranh đã nhiễm sâu vào con người, vào xã hội. Như vậy là di sản chiến tranh vẫn tác hại trong thời bình, giữa chúng ta với nhau. Vậy là những chiến thắng cuối cùng đã đưa tới toàn là tai hoạ. Chiến thắng như thế cuối cùng là một thất bại. Vì không phải là thắng, và cũng chẳng phải là lợi. Chúng ta cũng nên chú ý rằng nhờ bao tổn thất và hi sinh của ta trong chiến thắng Điện Biên, mà Trung Quốc đã có cơ hội lên mặt kẻ cả của một đại cường quốc ở hội nghị Genève khi bàn về ngưng bắn ở Việt Nam. Bởi Trung Quốc đã từng bị mất mặt khi phải ký kết chấp nhận đình chiến ở Triều Tiên… Thế nên Trung Quốc đã có ý đồ phục thù trong chính sách giúp ta đánh đuổi Pháp, để gỡ danh dự. Cứ xem như việc Mao chủ tịch, vừa mới thắng Tưởng Giới Thạch, vừa mới nắm được chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, thì đã vội xua quân qua chiếm Tây Tạng năm 1950! Rồi sau đổ đã thúc Bắc Triều Tiên mở chiến tranh để xoá ảnh hưởng Mỹ ở Nam Triều Tiên. Nhưng rồi Trung Quốc đã thất bại sau khi phải xua quân qua cứu Bắc Triều Tiên, và rồi đã phải ký một cách khiêm tốn hiệp định đình chiến tại Bàn Môn Điếm, phải chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài ở Nam Triều. Tiên… Mà Nam Triều Tiên đứng vững không chỉ do Mỹ, mà còn là do dân ở đó không ưa “cộng sản”.
Đó là những điều ta phải suy nghĩ cho kỹ để rút kinh nghiệm cho tương lai của ta. Ta phải cân nhắc kỹ lại về việc ký kết và thi hành hiệp định Genève mà ta đã ký năm 1954. Tôi muốn gợi ý ở phần kết luận bài thuyết trình với kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á này: chiến tranh không phải là một giải pháp tốt. Mà những hậu quả tai hại của chiến, tranh thì không thể lường hết được, mà cũng không thể nào thanh toán hết được.
Sau chiến tranh mà vẫn duy trì nếp sinh hoạt của thời chiến, vẫn phát triển các chính sách của bạo lực, vẫn quen dùng thủ đoạn tuyên truyền dối gạt của chiến tranh, thì xã hội sẽ mãi mãi sống trong căng thẳng, trong những phản xạ tàn bạo… như vậy là độc tố chiến tranh đã nhiễm sâu vào con người, vào xã hội. Như vậy là di sản chiến tranh vẫn tác hại trong thời bình, giữa chúng ta với nhau. Vậy là những chiến thắng cuối cùng đã đưa tới toàn là tai hoạ. Chiến thắng như thế cuối cùng là một thất bại. Vì không phải là thắng, và cũng chẳng phải là lợi. Chúng ta cũng nên chú ý rằng nhờ bao tổn thất và hi sinh của ta trong chiến thắng Điện Biên, mà Trung Quốc đã có cơ hội lên mặt kẻ cả của một đại cường quốc ở hội nghị Genève khi bàn về ngưng bắn ở Việt Nam. Bởi Trung Quốc đã từng bị mất mặt khi phải ký kết chấp nhận đình chiến ở Triều Tiên… Thế nên Trung Quốc đã có ý đồ phục thù trong chính sách giúp ta đánh đuổi Pháp, để gỡ danh dự. Cứ xem như việc Mao chủ tịch, vừa mới thắng Tưởng Giới Thạch, vừa mới nắm được chính quyền tại Bắc Kinh năm 1949, thì đã vội xua quân qua chiếm Tây Tạng năm 1950! Rồi sau đổ đã thúc Bắc Triều Tiên mở chiến tranh để xoá ảnh hưởng Mỹ ở Nam Triều Tiên. Nhưng rồi Trung Quốc đã thất bại sau khi phải xua quân qua cứu Bắc Triều Tiên, và rồi đã phải ký một cách khiêm tốn hiệp định đình chiến tại Bàn Môn Điếm, phải chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài ở Nam Triều. Tiên… Mà Nam Triều Tiên đứng vững không chỉ do Mỹ, mà còn là do dân ở đó không ưa “cộng sản”.
Đó là những điều ta phải suy nghĩ cho kỹ để rút kinh nghiệm cho tương lai của ta. Ta phải cân nhắc kỹ lại về việc ký kết và thi hành hiệp định Genève mà ta đã ký năm 1954. Tôi muốn gợi ý ở phần kết luận bài thuyết trình với kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á này: chiến tranh không phải là một giải pháp tốt. Mà những hậu quả tai hại của chiến, tranh thì không thể lường hết được, mà cũng không thể nào thanh toán hết được.
Vì đã ý thức nỗi lo sợ của dân chúng trước viễn ảnh và nguy cơ mở lại
chiến tranh, nên tôi buộc lòng phải nhấn mạnh tới hậu quả tai hại, với
hi vọng mỏng manh là nếu không thể ngăn chặn, thì ít ra cũng trì hoãn
được thêm một thời gian nữa dự tính mở lại chiến tranh xuống miền Nam.
Vì đứng trên quan điểm của con người trong lịch sử mà xét, những tiếng
gào khóc của hàng triệu sinh linh trong chiến tranh và sau chiến tranh,
dù cho có bao nhiêu bia tượng, đền đài miếu mạo ghi công, tưởng nhớ đến
muôn đời sau, thì cũng không thể nào an ủi được những nỗi đau, không thể
nào đền bù được những mất mát và tàn phá do chiến tranh gây ra, mà dân
chúng đã phải gánh chịu mãi mãi cho tới sau này.
Để chấm dứt bài thuyết trình, tôi đã chậm rãi nói dằn từng chữ:
- Có một sự thật có thể gây tranh cãi, nhưng không thể nào chối cãi
được, là chiến tranh luôn mang theo những hậu quả vô cùng tai hại. Vì nó
làm băng hoại xã hội, vì nó phá hoại hạnh phúc con người… Chỉ có hoà
bình mới tạo cơ hội xây dựng được no ấm và hạnh phúc, tạo ra được một xã
hội có căn bản luân thường đạo đức, trật tự kỷ cương.
Nghe tới câu ấy, “bác” thay đổi thái độ: đang ngồi nghe một cách vô cảm,
với dấu hiệu mệt mỏi, bỗng cau mặt, đứng phắt dậy, mím môi, chau mày,
có vẻ không vui ra mặt, rồi vỗ tay sơ sài, lẹt đẹt, làm như thế “bác”
chỉ chờ cho tôi chấm dứt. Gần chục người chung quanh, hình như đa số là
của “bộ chính trị”, cũng phải vội vã đứng đậy vỗ tay hời hợt theo cho
phải phép. Rồi “bác” vừa đi ra, vừa ngoảnh mặt nói vọng lại với tôi:
- Chú Thảo nói hay lắm. Cám ơn chú! Bây giờ bác phải về làm việc.
Tôi đã cố quan sát thật kỹ thái độ, dáng điệu lúc bác ngồi nghe. “Bác”
đã giữ vẻ mặt trầm tĩnh cho tới lúc đứng dậy, đổi ra mặt cau có, rồi vứt
lại một lời cảm ơn, như miễn cưỡng, để vội vã đi ra, bước thật nhanh,
không vui chút nào khi rời phòng hội. Những người chung quanh cũng phải
vội vã chạy theo. Chỉ có một người bước lại gần, tươi cười nói khẽ và
vội một câu, như để an ủi tôi, đó là tướng Giáp:
- Được “bác” khen như thế là tốt lắm. Thế là thành công đấy!
Nhưng tôi thì đứng lại đó, bơ vơ, lo âu, suy nghĩ về câu khen “nói hay
lắm” mà “bác” vứt lại khi bước ra khỏi nơi họp. Tối cứ bãn khoăn ngẫm
nghĩ về thái độ của lãnh tụ với câu “khen” ngắn ngủi ấy. Chờ mãi hồi
lâu, cho tới khi một cán bộ của phủ chủ tịch bước tới để dẫn tôi ra về
bằng cổng sau…
Đấy là thêm một lần, tôi đã có dịp tìm hiểu cách ứng xử của “ông cụ” đối
với tôi. Thật sự là cuộc gặp gỡ, buổi thuyết trình ấy đã không làm “ông
cụ” vui. Vì nội đung bài thuyết trình đã nhấn mạnh tới nhũng hậu quả vô
cùng tai hại của lá bài chiến tranh! Và rồi tôi cũng không vui với lời
khen mỉa mai “nói hay lắm!” (nhưng ý không hay?) ấy. Bởi tôi biết việc
ký và thi hành hiệp định Genève như thế, là để chuẩn bị mở lại chiến
tranh, tức là vĩnh viễn xé bỏ hiệp định! Bởi trong hiệp định, có các
khoản cam kết của các nước chù trì hội nghị dùng đế bảo vệ cách thi
hành, nhưng chẳng thấy ta dùng tới những cam kết ấy. Ngoài ra, tôi còn
nhắc khéo tới ý đồ bành trướng của Trung Quốc trong vụ vội vã “giải
phóng” Tây Tạng… Nhất là trong lúc toàn miền Bắc ta còn nghèo khổ mà đã
lăm le mở lại, mở rộng chiến tranh xuống miền Nam!
“Ông cụ”, với nét mặt nghiêm trang, lạnh lùng, có vẻ đã mỏi mệt, nên đã không giấu được thái độ bực bội, như là vừa làm một thử nghiệm không vừa ý, với một kẻ “có vấn đề”, nên nét mặt đã chuyển ngay sang cau có, khó chịu vào phút chót ấy. Và câu “Chủ Thảo nói hay lắm!” đã như một gáo nước lạnh hắt vào mặt tôi. Bởi nếu thật sự đồng ý với tôi, dù là chỉ một phần nhỏ thôi, thì ít ra cũng lại gần tôi mà trao đổi vài câu, và bắt tay để nói lời khen ấy. Nhưng đây lại là một câu nói miễn cưỡng vứt lại phía sau, trong khi vội vã bước ra khỏi phòng hội. Chung quanh tưởng đấy là một lời khen, nhưng kỳ thực chỉ có tôi hiểu đấy là một lời phê phán nặng nề: “Nói thì hay lắm, nhưng ý tứ thì không hay chút nào”!
Chỉ có tôi là người trong cuộc, đang sống trong vòng cương toả của “Người”, mới cảm nhận, mới hiểu rõ ý nghĩa thâm thuý của từng câu, từng chữ của “Người”! Rồi tôi lại nghĩ cho dù “ông cụ” có muốn kéo dài thêm thời gian hoà bình để kiến thiết xử sở, nhưng còn có uy lực của Mao nó ép phải mở lại chiến tranh thì sao? Vấn đề nó thâm sâu, tàn nhẫn và phúc tạp vô cùng!
“Ông cụ”, với nét mặt nghiêm trang, lạnh lùng, có vẻ đã mỏi mệt, nên đã không giấu được thái độ bực bội, như là vừa làm một thử nghiệm không vừa ý, với một kẻ “có vấn đề”, nên nét mặt đã chuyển ngay sang cau có, khó chịu vào phút chót ấy. Và câu “Chủ Thảo nói hay lắm!” đã như một gáo nước lạnh hắt vào mặt tôi. Bởi nếu thật sự đồng ý với tôi, dù là chỉ một phần nhỏ thôi, thì ít ra cũng lại gần tôi mà trao đổi vài câu, và bắt tay để nói lời khen ấy. Nhưng đây lại là một câu nói miễn cưỡng vứt lại phía sau, trong khi vội vã bước ra khỏi phòng hội. Chung quanh tưởng đấy là một lời khen, nhưng kỳ thực chỉ có tôi hiểu đấy là một lời phê phán nặng nề: “Nói thì hay lắm, nhưng ý tứ thì không hay chút nào”!
Chỉ có tôi là người trong cuộc, đang sống trong vòng cương toả của “Người”, mới cảm nhận, mới hiểu rõ ý nghĩa thâm thuý của từng câu, từng chữ của “Người”! Rồi tôi lại nghĩ cho dù “ông cụ” có muốn kéo dài thêm thời gian hoà bình để kiến thiết xử sở, nhưng còn có uy lực của Mao nó ép phải mở lại chiến tranh thì sao? Vấn đề nó thâm sâu, tàn nhẫn và phúc tạp vô cùng!
- Thế sau lần gặp đặc biệt ấy, bác còn được gặp lại cụ Hồ nữa không?
- Cũng còn, nhưng những lần gặp sau này thì thật ra là chỉ thấy “ông cụ”
thôi chứ không được tới gần. Bởi những lúc đó, tôi chỉ là kẻ tháp tùng ở
vòng ngoài, như một cán bộ tới góp mặt trong một buổi tiếp tân, chứ
không phải là tới để có thể trao đổi vài câu với “ông cụ”. Vả lại, vì
tôi không biết a dua, tâng bốc, nịnh nọt như mọi người, nên không khi
nào được bố trí để “ông cụ” tỏ vẻ thân thiện, nói chuyện với tôi. Nhưng
tôi cũng đã biết, trong nhiều buổi tiếp tân, lễ hội, lúc “ông cụ” xuất
hiện, tươi cười đảo mắt nhìn nhanh mọi người, nhưng cái nhìn ấy bỗng trở
thành nghiêm nghị, ngập ngừng, dừng lại đôi chút, rồi quay quá chỗ khác
khi thấy tôi:
Có lẽ lúc đó “ông cụ” nhận ngay ra “kẻ có vấn đề” là tôi cũng có mặt ở đây. Cảm nhận do kinh nghiệm đã trải qua, tôi biết đối với ban lãnh đạo sau này, do nhận định tôi vẫn là “kẻ có vấn đề”, nên các lãnh đạo khác cũng dị ứng, luôn luôn giữ khoảng cách, tránh không tới gần tôi để trở chuyện, dù chỉ là xã giao, khi họ nhận ra tôi ngay trong đám đông. Sở dĩ tôi thường được mời tới dự các buổi họp mặt có tính tuyên truyền và ngoại giao, như vài trí thức khác, vì Trung ương có ý dùng sự có mặt của chúng tôi như một yếu tố trang trí, ra điều có đông đủ các thành phần trí thức. Trong những dịp đó, chỉ có vài vị khách nước ngoài là muốn lại nói chuyện với tôi, vì họ đã biết tôi từ trước…
Có lẽ lúc đó “ông cụ” nhận ngay ra “kẻ có vấn đề” là tôi cũng có mặt ở đây. Cảm nhận do kinh nghiệm đã trải qua, tôi biết đối với ban lãnh đạo sau này, do nhận định tôi vẫn là “kẻ có vấn đề”, nên các lãnh đạo khác cũng dị ứng, luôn luôn giữ khoảng cách, tránh không tới gần tôi để trở chuyện, dù chỉ là xã giao, khi họ nhận ra tôi ngay trong đám đông. Sở dĩ tôi thường được mời tới dự các buổi họp mặt có tính tuyên truyền và ngoại giao, như vài trí thức khác, vì Trung ương có ý dùng sự có mặt của chúng tôi như một yếu tố trang trí, ra điều có đông đủ các thành phần trí thức. Trong những dịp đó, chỉ có vài vị khách nước ngoài là muốn lại nói chuyện với tôi, vì họ đã biết tôi từ trước…
Đã hơn một lần, tôi được nghe mấy trí thức khoa bảng than rằng “ông cụ”
rất cảnh giác với những kẻ có bằng cấp. Chỉ những kẻ khiêm tốn, tạng
khúm núm vâng lệnh, ngoan ngoãn đi theo phục vụ “bác” từ thủa hàn vi,
thì sau này mới được tin dùng, và được đề bạt cất nhắc lên. “Ông cụ” là
một mẫu lãnh đạo còn mang nặng tâm thức thời phong kiến phương Đông cổ
xưa, cũng y như Mao Trạch Đông, rất tự tin vào tài đa mưu, túc trí của
mình, nên coi đám học thức “không bằng một cục phân”. Hơn nữa, “ông cụ”
rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận “ông cụ”, không hề có một
chuyên viên tri thức nào cố bằng cấp tốt nghiệp Đại học cả.
Chỉ toàn là những hầu cận, cận vệ ít học được “ông cụ” đào tạo, để phục tùng, thì sau đều được “ông cụ” đề bạt lên thành tướng, thành giám đốc, thành bí thư v v… Còn giới học thức chỉ được làm việc ở vòng xa bên ngoài. Bởi “tổ chức” muốn bố trí để “ông cụ” nổi bật trong đám người ít học, y như một đại bàng chúa tể, bày lượn trên đỉnh Thái Sơn của quyền, lực, ngó xuống chốn sơn lâm chính trị thấp kém bên dưới với con mắt nghi kỵ, khinh mạn, với cái nhìn vô cùng sắc bén, thấu hiểu đầu óc từng người… để dễ phân biệt kẻ cận thần, với những đối thủ tiềm ẩn. “Ông cụ” có tâm thức cảnh giác của một lãnh tụ cách mạng như Stalin, như Mao… Khốn nạn cho kẻ nào bị “tổ chức” đánh giá như là một địch thủ tiềm năng đối với “ông cụ”! Tôi nhận thấy các nhà sử học khi nghiên cứu về “bác Hồ”, đã chỉ căn cứ trên những tư liệu của đảng cộng sản, nên không thể nào nhìn rõ sự thật; không thể nào hiểu rõ cái biện chứng duy tâm, duy ý chí của lãnh tụ, nên họ không thể hiểu nổi “ông cụ”.
Bởi họ chỉ nhìn thấy “lãnh tụ” qua lăng kính đẹp đẽ, sáng chói của bộ máy tuyên truyền. Không biết nên đánh giá như thế nào đối với nhũng bộ óc thông thái, uyên bác “kinh điển” mà cứ trích tư liệu tuyên truyền của đảng cộng sản như là trích ra từ một thử thánh kinh! Họ chỉ là những ông thầy bói mù được sờ vào, không phải là một con voi, mà là một con khủng long ba đầu, chín đuôi!
Chỉ toàn là những hầu cận, cận vệ ít học được “ông cụ” đào tạo, để phục tùng, thì sau đều được “ông cụ” đề bạt lên thành tướng, thành giám đốc, thành bí thư v v… Còn giới học thức chỉ được làm việc ở vòng xa bên ngoài. Bởi “tổ chức” muốn bố trí để “ông cụ” nổi bật trong đám người ít học, y như một đại bàng chúa tể, bày lượn trên đỉnh Thái Sơn của quyền, lực, ngó xuống chốn sơn lâm chính trị thấp kém bên dưới với con mắt nghi kỵ, khinh mạn, với cái nhìn vô cùng sắc bén, thấu hiểu đầu óc từng người… để dễ phân biệt kẻ cận thần, với những đối thủ tiềm ẩn. “Ông cụ” có tâm thức cảnh giác của một lãnh tụ cách mạng như Stalin, như Mao… Khốn nạn cho kẻ nào bị “tổ chức” đánh giá như là một địch thủ tiềm năng đối với “ông cụ”! Tôi nhận thấy các nhà sử học khi nghiên cứu về “bác Hồ”, đã chỉ căn cứ trên những tư liệu của đảng cộng sản, nên không thể nào nhìn rõ sự thật; không thể nào hiểu rõ cái biện chứng duy tâm, duy ý chí của lãnh tụ, nên họ không thể hiểu nổi “ông cụ”.
Bởi họ chỉ nhìn thấy “lãnh tụ” qua lăng kính đẹp đẽ, sáng chói của bộ máy tuyên truyền. Không biết nên đánh giá như thế nào đối với nhũng bộ óc thông thái, uyên bác “kinh điển” mà cứ trích tư liệu tuyên truyền của đảng cộng sản như là trích ra từ một thử thánh kinh! Họ chỉ là những ông thầy bói mù được sờ vào, không phải là một con voi, mà là một con khủng long ba đầu, chín đuôi!
Có một điều rất đảng tiếc là các nhà sử học khi tìm hiểu về “cụ Hồ” đã
bỏ qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực do chính
đương sự là tác giả… Đó là ý nghĩa của những biệt hiệu hay những tên
giả mà chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho minh qua từng giai đoạn mưu tìm con
đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát tìm cách tiến thân, tìm đường
hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng nước ngoài khá ngộ
nghĩnh! Nhưng đáng cầu ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành (1911)
(với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ hành đạt…), rồi cho tới, sau này
thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái
tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh! (1945).
Nói chung là với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế đã phản ánh một cách chân thực, những bước chuyển biến trong đầu óc của “ông cụ”. Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước, có ý nghĩa trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (“Ái Quốc”), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh)! Thật ra thì trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể là do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử mà được người đời sau công nhận là xuất sắc, là xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng đây lại là do chính “đương sự” ngay trong hiện tại đầy vấp váp, mà đã tự mình “tặng” cho chính mình! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu ốc tinh táo, có liêm sỉ, một bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình là “Vướng”, là “Ái Quốc”, là “Chí Minh”… như thế. Thật khó mà giải thích một kẻ tự coi minh là “ông vua”, là bậc “quân tử” siêu phàm, mà lại có hoài bão làm một nhả cách mạng, một chiến sỹ vô sản, cộng sản! Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh…! Đây chỉ là những biểu hiện của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lí trí, liêm sỉ, đạo lý… Khi tự xưng tụng minh một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có thể là vì đã quá khao khát danh vọng. Đấy rõ ràng là một khát khao hành động của một cuồng vọng. Ngoài ra còn có thể tìm hiểu nội tâm, chỉ hướng của nhân vật lịch sử này qua một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng cầu mang nặng một khát vọng trong hai tập sách tuyên truyền “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào học Trưởng Thuộc Địa của “mẫu quốc Pháp” với hi vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ mãng của cuồng vọng như thế, mà “ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo, một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để ”cướp quyền”, để thành công, để chiến thắng! Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch của lịch sử! Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình như thế, chúng ta có thể hiểu “lãnh tụ” là người cố đầu óc, có tâm trí, có đạo lý như thế nào! Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tinh quái như thế! Bởi họ còn thua “bác Hồ” ở chỗ họ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình! Thật tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy.
Không ít người bênh vực nói “nhờ vậy mà “ông cụ” đã làm nên lịch sử”. Xét tới tận cùng lý luận trên những cơ sở như thế, cho phép ta giải thích những điều đã định hướng cho những hành động, những chọn lựa “khó hiểu, khó chấp nhận” của “bác Hồ”! Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn như thế. Hậu thế, phải đặt trên cơ sở phân tích thực tại đó, để mà có thể hiểu rõ vấn đề công tội, đạo đức của ”ông cụ”…
Nói chung là với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế đã phản ánh một cách chân thực, những bước chuyển biến trong đầu óc của “ông cụ”. Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước, có ý nghĩa trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (“Ái Quốc”), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh)! Thật ra thì trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể là do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử mà được người đời sau công nhận là xuất sắc, là xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng đây lại là do chính “đương sự” ngay trong hiện tại đầy vấp váp, mà đã tự mình “tặng” cho chính mình! Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu ốc tinh táo, có liêm sỉ, một bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình là “Vướng”, là “Ái Quốc”, là “Chí Minh”… như thế. Thật khó mà giải thích một kẻ tự coi minh là “ông vua”, là bậc “quân tử” siêu phàm, mà lại có hoài bão làm một nhả cách mạng, một chiến sỹ vô sản, cộng sản! Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh…! Đây chỉ là những biểu hiện của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lí trí, liêm sỉ, đạo lý… Khi tự xưng tụng minh một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có thể là vì đã quá khao khát danh vọng. Đấy rõ ràng là một khát khao hành động của một cuồng vọng. Ngoài ra còn có thể tìm hiểu nội tâm, chỉ hướng của nhân vật lịch sử này qua một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng cầu mang nặng một khát vọng trong hai tập sách tuyên truyền “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào học Trưởng Thuộc Địa của “mẫu quốc Pháp” với hi vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ mãng của cuồng vọng như thế, mà “ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo, một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để ”cướp quyền”, để thành công, để chiến thắng! Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch của lịch sử! Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình như thế, chúng ta có thể hiểu “lãnh tụ” là người cố đầu óc, có tâm trí, có đạo lý như thế nào! Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tinh quái như thế! Bởi họ còn thua “bác Hồ” ở chỗ họ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình! Thật tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy.
Không ít người bênh vực nói “nhờ vậy mà “ông cụ” đã làm nên lịch sử”. Xét tới tận cùng lý luận trên những cơ sở như thế, cho phép ta giải thích những điều đã định hướng cho những hành động, những chọn lựa “khó hiểu, khó chấp nhận” của “bác Hồ”! Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn như thế. Hậu thế, phải đặt trên cơ sở phân tích thực tại đó, để mà có thể hiểu rõ vấn đề công tội, đạo đức của ”ông cụ”…
- Cứu xét như thế, thì bác thấy những chọn lựa nào, những phán quyết
định nào của “ông cụ” là thuộc về công, phần nào là thuộc về tội?
- Không thể dễ dàng đưa ngay ra một lời đáp thoả đáng cho câu hỏi rất
quan trọng này. Có lẽ; phải nhiều thế hệ sau, có khi phải hàng trăm năm
sau, qua những công trình nghiên cứu tập thể nghiêm túc, khách quan thì
may ra mời có thể đưa ra một kết luận có giá trị. Nhưng tôi nêu ra vấn
đề là muốn mỗi người chúng ta, tự xét xem dân tộc đất nước đã thự hưởng
những gì, đã chịu đựng như thế nào những di sản, những hậu quả mà sự
chọn lựa lịch sử của “cụ Hồ” đã mang lại… rồi từ đó mà tự đưa ra lời
giải đáp chân thực cho riêng mình.
Khi cân nhắc những chọn lựa, những quyết định có tính lịch sử của “cụ Hồ” thì, về lâu, về dài, sẽ thấy phần lợi, phần hại là như thế nào. Tôi tin chắc rằng mỗi người dân, từng trải nghiệm đầy đủ những hậu quả của những chọn lựa hay quyết định ấy, sẽ có thể rút ra một kết luận công bằng để mà luận công tội cho “ông cụ” mà sẽ không cần phải tranh cãi với ai… Cái đó là tuỳ mỗi trải nghiệm của mỗi người, tuỳ theo những vui sướng, những đau khổ hôm qua và hôm nay, của mỗi người.
Khi cân nhắc những chọn lựa, những quyết định có tính lịch sử của “cụ Hồ” thì, về lâu, về dài, sẽ thấy phần lợi, phần hại là như thế nào. Tôi tin chắc rằng mỗi người dân, từng trải nghiệm đầy đủ những hậu quả của những chọn lựa hay quyết định ấy, sẽ có thể rút ra một kết luận công bằng để mà luận công tội cho “ông cụ” mà sẽ không cần phải tranh cãi với ai… Cái đó là tuỳ mỗi trải nghiệm của mỗi người, tuỳ theo những vui sướng, những đau khổ hôm qua và hôm nay, của mỗi người.
- Nhưng bác có thể nêu ra chọn lựa nào, quyết định nào đã mang tính lịch sử trọng đại của cụ Hồ được không?
- Thú thật là tôi đã từng có nhận xét phê phán về những chọn lựa và
quyết định tốt và xấu có tính lịch sử của “ông cụ” trước vài cán bộ cao
cấp trong “đảng”, khi nêu ra những thắc mắc lớn như dựa vào ý thức hệ
cộng sản để giành dộc lập thì là tốt hay xấu, nhất là khi so sánh với
những nước đã giành được độc lập quanh ta mà họ đã không dùng tới ý thức
hệ ấy…
hưng chung quanh đã can tôi, đã khuyên tôi không nên đụng tới những điều nguy hiểm nhậy cảm, có thể bị mất mạng đó. Có người đã bỏ chạy không dám ngồi nghe tôi phân tích vì sợ liên luỵ… Kể lại chuyện này để cho các anh thấy việc đánh giá công tội ông cụ là việc làm vô cùng nguy hiểm, vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh hiện nay ở trong nước, đó là điều không thể nào làm được…
hưng chung quanh đã can tôi, đã khuyên tôi không nên đụng tới những điều nguy hiểm nhậy cảm, có thể bị mất mạng đó. Có người đã bỏ chạy không dám ngồi nghe tôi phân tích vì sợ liên luỵ… Kể lại chuyện này để cho các anh thấy việc đánh giá công tội ông cụ là việc làm vô cùng nguy hiểm, vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh hiện nay ở trong nước, đó là điều không thể nào làm được…
- Nhưng ít ra thì bác cũng có thể nêu ra vài thí đụ chứ?
- Như tôi đã nói, đánh giá sự chọn lựa này là tuỳ theo người, tuỳ theo
hoàn cảnh. Những cán bộ đảng viên nhờ “đảng” mà đã có cuộc sống giàu
sang, có và địa vị thì dĩ nhiên họ sẽ nói tốt cho “bác Hồ”. Những người
phải gánh chịu phần thiệt thời và đau khổ vì những chính sách của “bác
và đảng” thì họ sẽ nói là xấu. Riêng trường hợp của tôi thì lúc đầu tôi
cho đó là một chọn lựa tốt, là đúng, nhưng rồi càng về sau, tôi càng
nhận ra rằng chọn lựa ấy đã đưa tới tình trạng không thể sửa đổi, không
thể thích nghi với xã hội ta, với văn hoá của tổ tiên ta, vì cứ dập
khuôn theo đúng mô hình nước ngoài, nhất là của Mao, thì đó thật sự là
một chọn lựa xấu, rất xấu, vì nó hoàn toàn sai, sai từ cái gốc học
thuyết, sai từ lý luận…
Tôi chỉ mới hé mở, nêu ra sơ sơ như thế mà đã bị vĩnh viễn đẩy ra bên lề chính trị. Nhưng vì thế mà “ông cụ” vẫn muốn theo dõi đầu óc tư tưởng, lý luận của tôi… Nếu cứ bảo lưu cái ý thức hệ “duy nhất đúng” này thì dĩ nhiên sẽ có ngày nó bị đào thải bẵng sự đổ vỡ thảm khốc! Và cho tới nay, ở vài nơi, ta đã thay nhiều lần xảy ra những đổ vỡ như vậy.
Tôi chỉ mới hé mở, nêu ra sơ sơ như thế mà đã bị vĩnh viễn đẩy ra bên lề chính trị. Nhưng vì thế mà “ông cụ” vẫn muốn theo dõi đầu óc tư tưởng, lý luận của tôi… Nếu cứ bảo lưu cái ý thức hệ “duy nhất đúng” này thì dĩ nhiên sẽ có ngày nó bị đào thải bẵng sự đổ vỡ thảm khốc! Và cho tới nay, ở vài nơi, ta đã thay nhiều lần xảy ra những đổ vỡ như vậy.
- Thế còn các lãnh đạo khác, sau “bác Hồ”, thì họ có chú ý tội tư tưởng của Trần Đức Thảo không?
- Vẫn có chứ! Vì họ lúc nào cũng e ngại, nghi ngờ tôi. Vì tôi lúc nào
cũng cố bắc cầu, bắn tiếng, tìm cách truyền đạt những điều hay, lẽ phải
của sự thật, Thế nên lúc náo họ cũng muốn theo dõi xem ý kiến của tôi là
như thế nào, tuy họ rất e ngại và không ưa những ý kiến ấy. Vì những
góp ý của tôi luôn luôn hướng về chân thiện mỹ, nên đôi khi họ cũng đồng
ý cho tôi gặp một cách miễn cưỡng.. Tôi còn nhớ lần gặp gay go với tổng
bí thư Trưởng Chính, sau cái vụ tôi vùng lên muốn đấu lý với cố vấn
Trung Quốc.
Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thì rất gờm tôi, vì biết tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. Còn một lần gặp riêng ông Lê Duẩn thì rồi ông ấy cũng không ưa tôi, vì lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư, ông ta muốn tôi chấp bút viết hồi ký cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả tiếng đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả lời thẳng là tôi nghe ông nói mà không hiểu gì cả! Vì thế sau này ông ấy cũng cay ghét tôi, đến nỗi không muốn sự có mặt của tôi ở những nơi ông đi qua… Lúc tôi vào Sài Gòn thì được nghe những câu chuyện ly kỳ của phe chủ chiến đến cùng, mà đứng đầu là cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ… Phe này đã gây bè phái, rồi nắm được đa số trong bộ chính trị, đến mức đã chèn ép, cô lập được chính cả “cụ Hồ” trong giờ phút nghiêm trọng. Bởi lúc ấy “ông cụ” hình như muốn xây dựng một miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho thật là ấm no trước đã. Võ Nguyên Giáp là người “nhất trí” với “ông cụ”. Vì thế mà cánh Lê Duẩn đã phê phán, phao ra lập luận là “Giáp sợ Mỹ”. Chính cánh này còn tìm cách triết hạ uy tín của Giáp bằng cách tung tư liệu chứng minh Giáp là con nuôi tên trùm mật thám Marty, Giáp thắng trận Điện Biên là nhờ mấy tướng Trung Quốc “bày binh bố trận”. Trong giới đảng viên cao cấp có cả một giai thoại ly kỳ về “âm mưu cất cái mũ phớt”, vì Giáp là đảng viên duy nhất vẫn ưa đội mũ phớt kiểu công tử Hà Nội khi đi tìm cách mạng!
Giai thoại này chứng tỏ chung quanh “ông cụ” có nhiều phe cánh lình chống nhau, ngầm hạ uy tín của nhau rất là tản nhẫn: Vả điều đó cho thấy “ông cụ” lúc lên tới đỉnh cao quyền lực thì đã lâm vào hoàn cảnh của một phù thuỷ không còn điều khiển được đám âm binh hung bạo, tuỳ tiện, hỗn xược đo chính mình đã tạo.
(NHỮNG LỜI TRĂNG TRỐI. Chương 12.Giải mã lãnh tụ)
Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thì rất gờm tôi, vì biết tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. Còn một lần gặp riêng ông Lê Duẩn thì rồi ông ấy cũng không ưa tôi, vì lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư, ông ta muốn tôi chấp bút viết hồi ký cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả tiếng đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả lời thẳng là tôi nghe ông nói mà không hiểu gì cả! Vì thế sau này ông ấy cũng cay ghét tôi, đến nỗi không muốn sự có mặt của tôi ở những nơi ông đi qua… Lúc tôi vào Sài Gòn thì được nghe những câu chuyện ly kỳ của phe chủ chiến đến cùng, mà đứng đầu là cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ… Phe này đã gây bè phái, rồi nắm được đa số trong bộ chính trị, đến mức đã chèn ép, cô lập được chính cả “cụ Hồ” trong giờ phút nghiêm trọng. Bởi lúc ấy “ông cụ” hình như muốn xây dựng một miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho thật là ấm no trước đã. Võ Nguyên Giáp là người “nhất trí” với “ông cụ”. Vì thế mà cánh Lê Duẩn đã phê phán, phao ra lập luận là “Giáp sợ Mỹ”. Chính cánh này còn tìm cách triết hạ uy tín của Giáp bằng cách tung tư liệu chứng minh Giáp là con nuôi tên trùm mật thám Marty, Giáp thắng trận Điện Biên là nhờ mấy tướng Trung Quốc “bày binh bố trận”. Trong giới đảng viên cao cấp có cả một giai thoại ly kỳ về “âm mưu cất cái mũ phớt”, vì Giáp là đảng viên duy nhất vẫn ưa đội mũ phớt kiểu công tử Hà Nội khi đi tìm cách mạng!
Giai thoại này chứng tỏ chung quanh “ông cụ” có nhiều phe cánh lình chống nhau, ngầm hạ uy tín của nhau rất là tản nhẫn: Vả điều đó cho thấy “ông cụ” lúc lên tới đỉnh cao quyền lực thì đã lâm vào hoàn cảnh của một phù thuỷ không còn điều khiển được đám âm binh hung bạo, tuỳ tiện, hỗn xược đo chính mình đã tạo.
(NHỮNG LỜI TRĂNG TRỐI. Chương 12.Giải mã lãnh tụ)
VƯƠNG TRUNG HIẾU* NGUỒN GỐC PHỞ
Nguồn gốc của Phở
Sinh
1959 tại An Giang, thông thạo Anh, Pháp, Hoa và tốt nghiệp tiến sĩ môn
Khoa học Lịch sử, Vương Trung Hiếu đã cho xuất bản trên 200 đầu sách
thuộc các thể loại biên soạn, dịch thuật và tiểu thuyết.
Nguồn gốc của Phở là một nghiên cứu công phu với phân tích chi tiết về từ gốc của món ăn này.
Trần Vũ
|
Nguồn gốc của Phở
Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc của phở vào
ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết về vấn đề này và
nhận
ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống nhất quan
điểm về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa
đàm”này, hy vọng rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều…
Phở ra đời từ năm nào?
Có
thể khẳng định rằng tính đến năm 1838, từ “phở” chưa xuất hiện trong từ
điển, bởi vì trong năm này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của
AJ.L Taberd (còn gọi là Từ điển Taberd) được xuất bản lần đầu, nhưng
trong
đó không có từ “phở”. Theo nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở xuất hiện trong từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (1896) với nghĩa là “nổi tiếng tăm”(trang 200). Năm 1898, phở có mặt
trong Dictionnaire Annamite-Français của J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ồn ào” (trang 614). Trong bài Essai sur les Tonkinois (Khảo
luận về người Bắc Kỳ) đăng trên Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương)
ngày 15-9-1907, Georges Dumonutier
đã giới thiệu nhiều thức ăn uống phổ biến ở miền Bắc vào cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm 1931, từ phở có nghĩa là một món ăn mới bắt đầu xuất hiện, ít nhất là trong quyển Việt Nam Tự Điển của Ban Văn
học Hội Khai Trí Tiến Đức (NXB Mặc Lâm): phở “do chữ phấn mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò: Phở xào, phở tái” (trang 443) (1). Một khi từ phở đã xuất hiện trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ biến. Thật
vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Công
Hoan viết: “1913… trọ số 8 hàng Hài… thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng
phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu,5 xu)”(2). Từ yếu tố này ta có thể
khẳng định phở đã ra đời từ đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc của phở
Hiện nay, có ba quan điểm chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó là : phở xuất phát từ món pot-au-feu của Pháp, từ món ngưu nhục phấn của Trung Quốc và cuối cùng là món xáo trâu của Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt
tham khảo từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu.
Gốc Pháp
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là cách nói tắt của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu). Quan điểm này được củng cố bằng quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của
Gustave Hue (1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
Chúng tôi thật sự không hiểu: pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước có thể làm súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại có thể ghép món này với cháo phở của
Việt Nam, cho dù
trong giai đoạn ấy, do ảnh hưởng người Pháp, người Việt đã bắt đầu làm
quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu món cháo thịt bò. Trên thực tế,
xét về nguyên liệu, cách chế biến và cả cách ăn thì phở và pot-au-feu
là hai món hoàn toàn khác nhau,. Theo Wikipedia,
pot-au-feu là món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây, cần tây,
hành tây; kết hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương… Thịt bò sử
dụng cho món này thường dầy và to (chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ
chân…), trong khi đó thịt bò trong phở lại mỏng
và nhỏ; mặt khác, những thứ như cà rốt, củ cải, tỏi tây… không phải là
nguyên liệu để làm phở, mùi vị pot-au-feu cũng không giống như phở.
Người Pháp ăn món này với bánh mì, khoai tây, dùng muối thô, mù tạt
Dijon, đôi khi cũng ăn với dưa chuột ri ngâm giấm
chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm khi cho rằng phở có
nguồn gốc từ món pot-au-feu.
Gốc Trung Quốc
Đây là giả thuyết mà nhiều người đồng ý nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc từ món Ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món làm từ bún và thịt bò (ngưu牛: bò; nhục 肉:
thịt và phấn 粉: bún, bột gạo dạng sợi). Món này đọc theo tiếng Quảng Đông là Ngầu– yụk -phẳn. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán món Ngưu nhục phấn tại Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ngầu.. yụk..phẳn
..a” rồi dần dần hô tắt còn “yụk …phẳn…a” rồi “phẳn…a” và cuối cùng hô trại thành “phở”. Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (đã nêu trên): phở “do chữ phấn mà ra”.
Củng cố thêm là định
nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển
An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue (1937), trong đó có đoạn: “Abréviation de “lục phở: phở xào: beignet farci et sauté”
nghĩa là “viết tắt của từ
“lục phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và được chiên”. Nhiều người thắc
mắc, không biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng tôi đây là từ có thật.
Tương truyền rằng ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn môn, Yên phong,
Bắc Ninh) có sáng tác một bài thơ nói về chợ
Đồng Xuân, để các cô đi chợ ngâm nga giải trí trên đường đi, trong đó
có câu liên quan tới “lục phở”, xin trích đoạn sau:
—-
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau lưng hàng giò
……
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết về từ “lục phở”: “abréviation de “lục phở”: bouilli – cháo – pot au feu”…, “Lục phở: prononciation cantonaise
des caractères chinois: (ngưu) nhục phấn” bouilli de boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của ” lục phở”, còn “lục phở” là từ phát âm của “(ngưu) nhục phấn” trong tiếng Trung Hoa.
Đến năm 1970, Nhà
sách Khai Trí ( Sài-gòn) xuất bản quyển Việt Nam Tự-điển, do Lê Ngọc Trụ
hiệu đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chắc hơn, trong đó định
nghĩa “phở” như sau: “Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng hấp chín xắt thành sợi
nấu với thịt bò (do tiếng Tàu “Ngầu-dục-phảnh” tức “Ngưu-nhục-phấn” mà ra: Ăn phở, bán phở”, trang 1169, tập 2).
Thật ra, những quan điểm trên chỉ cho thấy chữ “phở” có nguồn gốc từ tên Ngưu nhục phấn, nhưng đáng tiếc là nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn, hoặc “cách tân” từ món Ngưu nhục phấn, chế biến
cho hợp với khẩu vị của người Việt. Một số người lại dựa theo bài “Phở, phởn, phịa…” của Nguyễn Dư, dẫn chứng quyển Technique du peuple annamite (Kỹ
thuật của người An Nam, 1908 – 1909) của Henri Oger (3) để củng cố quan
điểm này. Họ giới
thiệu hai bức tranh khắc, bức đầu tiên (mang số 26 trong tập tranh 4577
bức) miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú thích “Chinois vendeur ambulant à la tombée de la nuit” (Người
Tàu bán hàng trong buổi tối – Trần Đình Bình dịch).
Nhưng họ không thể khẳng định người đàn ông ấy bán cái gì, chỉ bảo rằng
gánh hàng trông giống như gánh phở ở Hà Nội ngày xưa); bức còn lại là
hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn 行肉粉, họ cho rằng giống như thùng của gánh
hàng trong bức đầu tiên. Thế là họ vội khẳng định dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉, và bán Ngưu nhục phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách khác, phở chính là Ngưu nhục phấn (!). Tuy nhiên,
nếu nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người bán hàng có tóc đuôi sam, vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉 ở Hà Nội chứ không phải người Việt Nam bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả gánh hàng Ngưu nhục phấn ra làm
sao để đối chiếu với gánh phở. Có khả năng gánh “nhục phấn” giống gánh “phở” chăng?
Theo chúng tôi, ngưu nhục phấn và phở là hai món ăn
khác nhau. Từ điển bách khoa Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa
phương, nguyên liệu và cách chế biến ngưu nhục phấn có thay đổi đôi
chút, song nhìn chung, nguyên liệu gồm có:
thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, hành,
tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô,
rau mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải…Trong khi đó, thành phần
chính của phở gồm có sợi phở, nước dùng (ninh
từ xương ống lợn/bò và một số gia vị khác), thịt bò bắp (để làm thịt
chín), thịt thăn mềm (để làm thịt tái), con sá sùng, tôm nõn, hành khô,
gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây, hành hoa, húng bạc hà,
chanh, ớt, rau thơm…
Xét về nguyên liệu, ngưu nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải
bắp, bơ, tinh dầu hạt cải…những thứ không dùng để chế biến phở; ngược
lại phở sử dụng con sá sùng (có thể thay bằng bột ngọt), tôm nõn, dứa,
chanh, ớt, rau thơm…những thứ không thấy khi làm
món ngưu nhục phấn.
Cách chế biến hai món này
cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không trình bày ở đây,
mời bạn đọc tìm hiểu thêm từ những clip giới thiệu cách làm ngưu nhục
phấn và phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây (bên trái) bạn sẽ
thấy nước phở trong,
bánh phở nhỏ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn 牛肉粉, có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Việt Nam.
Gốc Việt Nam
Trước
hết, xin phép nhắc lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm khẳng định món phở
là của Việt Nam. Song song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm dần dần trở
thành văn tự chính của nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ
20, chính quyền Pháp quyết định giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho (năm
1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung Kỳ). Họ dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm
để làm văn tự chính thức ở nước ta từ năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời
xuất hiện để chúng ta thấy rằng phở chẳng liên quan gì tới phấn 粉 trong Ngưu nhục phấn 牛肉粉. Nhìn chung, có một số cách cấu tạo chữ Nôm, ở đây chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để bạn đọc đối
chiếu với từ phấn:
– Thứ nhất, cách vay mượn nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ
Nôm có cách đọc và nghĩa khác với chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt) để tạo chữ Nôm biết 別(hiểu biết); mược chữ đế 帝
(vua chúa) để tạo ra chữ Nôm đấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
– Thứ hai, cách ghép hai
chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là thành tố biểu ý,
chữ thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt 月 (biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ Nôm tháng;
mượn chữ thượng 上 (biểu ý) + thiên 天 (biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.
Vậy có bao nhiêu chữ Nôm đọc là phở?
Theo những tự điển mà chúng tôi đã tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm có ba chữ (𡂄 và
㗞, đều thuộc bộ khẩu; 頗, thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở bò có một chữ (普, thuộc bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa
là món phở thì gồm hai chữ Hán ghép lại: mễ 米+ phả 頗.
Những thí dụ trên cho thấy hai chi tiết đáng chú ý sau:
1. Bánhphở bò: trong Từ điển nhật dụng thường đàm, mục Thực phẩm (食
品 門 Thực phẩm môn) có đoạn giải thích về “bánh phở bò” bằng chữ Nôm. Chúng tôi sắp xếp lại cho dễ đọc: “Chữ Hán:
玉 酥
餅 (âm Hán Việt: ngọc tô bính) giải thích bằng chữ Nôm:
羅 普 (là
羅 bánhphở 普 bò); tiếng Anh : rice noodle. Ta thấy gì?
普 là một chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt là phổ. Người Việt xưa đã mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở. Tuy nhiên, cách giải thích của Từ điển nhật dụng thường đàm khiến chúng tôi rất phân vân, bởi
vì từ tiếng Anh rice noodle có nghĩa là phở, tức món phở mà ta đang bàn, song chữ Hán玉
酥 餅 (ngọc tô bính) lại nói về một loại bánh khác, vì trong đó tô 酥 có nghĩa là món ăn làm bằng bột nhào với dầu. Thí dụ: hồng đậu ngọc tô bính
红豆玉酥餅 (bánh ngọt nhân đậu đỏ), hạch đào tô 核桃酥 (bánh bột trái đào). Vậy từ phở 普 ở đây dùng để chỉ món phở hay bánh bột? Đây là điều
cần phải xem lại.
2.
Theo Từ điển chữ Nômcủa Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF), hai chữ Hán: mễ米 (biểu ý) kết hợp với phả 頗 (biểu âm) tạo thành một chữ Nôm
có nghĩa là phở(trong cơm phở). Đây là cách ghép từ rất đáng chú ý, vì mễ 米 có nghĩa là gạo, biểu ý cho món ăn chế biến
từ gạo (bánh phở); còn phả 頗 đọc theo tiếng Hoa là “pho” hoặc “phỏ”, dùng làm từ biểu âm để tạo ra chữ phở là rất hợp lý.
Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở (𡂄,
㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn 粉 trong ngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên
quan gì cả. Nếu thật sự phở là từ đọc trại từ chữ phấn 粉, tại sao người Việt xưa không mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở ? Vì điều này tiện hơn là mượn một chữ khác? Nói rộng hơn, chữ Nôm bò 𤙭
trong phở bò cũng chẳng có liên quan gì tới chữ ngưu 牛 trong tiếng Hán.
Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò 𤙭 cho
thấy rằng người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm
khẳng định rằng “phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng
gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉
của Trung Quốc.
Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?
Chúng tôi ủng hộ quan
điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc,
đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Để làm món này người ta chuẩn bị
nguyên liệu : thịt trâu thái mỏng (ướp gia vị cho thấm), hành lá, hành
ta (tím), tỏi,
mỡ, rau răm cắt dài 1 đốt ngón tay, khế chua cắt ngang…Sau đó họ xáo
(xào) thịt trong chảo khoảng 30 giây rồi đổ ra bát riêng, kế tiếp bỏ khế
vào, đảo đều tới lúc khế chuyển sang màu trắng; rồi cho thịt, rau răm
và hành vào, đảo cho tới lúc tỏa mùi thơm (khoảng
một phút) ; cuối cùng họ chế nước vào, để lửa liu riu. Khi ăn, họ lấy
bún cho vào bát, sau đó gắp vài miếng thịt trâu bày trên mặt bún rồi
chan nước xáo thịt vào.
Nhìn chung, xáo trâu là món ăn thông thường ở các chợ nông thôn,
xóm bình dân của Hà Nội ngày xưa. Trước năm 1884, việc nuôi bò ở miền
bắc chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp, người Việt chưa có thói quen ăn
thịt bò, nhưng ít nhiều gì người Hà Nội cũng đã
từng ăn món Ngưu nhục phấn do Hoa kiều bán rong trên đường phố.
Có
nhà nghiên cứu cho rằng vào thời đó, thịt bò bị chê là nóng và gây nên
chẳng mấy người mua, giá bán rất rẻ, chỉ có người Pháp mới ăn thịt bò.
Và chính vì thế một số người bán xáo trâu mới chuyển sang bán xáo bò.
Thật ra không phải vậy. Thịt bò thời đó khan hiếm và đắt tiền. Theo nhà
nghiên cứu Vũ Thế Long, trước năm 1885 “các quan chức Tây còn không có
đủ thịt bò mà ăn nói chi đến người Việt. Ngay cả đến những năm 40-50 của
thế kỉ trước, khi phở đã khá thịnh hành
và thành món ăn “gây nghiện” cho một tầng lớp người khá giả ở Hà Nội
thì việc cung cấp thịt bò ở Hà Nội cũng không phải dư giả cho lắm. Trong
bài Phở Gà, Nhà văn vũ Bằng đã phải thốt lên: “Ở Hà nội có hai ngày
trong tuần mà những người “chuyên môn ăn phở”
bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai ngày không có thịt bò.
Anh nào nghiện thịt bò, nhớ thịt bò hai hôm ấy như gái nhớ trai, như
trai nhớ gái”…”.
Nhìn
chung, từ khi người Pháp vào nước ta, người Việt đã chịu ảnh hưởng phần
nào thói quen ăn uống của người Pháp. Dân ta đã bắt đầu ăn khoai tây,
súp lơ, su hào, cà rốt, bánh mì, bơ, phó mát…, đặc biệt là thịt bò.
Những món ăn mới có thịt bò dần dần xuất hiện, đó là cháo bò và xáo bò…
Xáo bò là một món “biến tấu” từ xáo trâu. Tuy nhiên, do thịt bò ăn với
bún không hợp lắm nên người ta mới nghĩ ra cách ăn với những loại bánh
khác, trong đó có loại bánh cuốn chay mỏng
phổ biến ở Hà Nội rồi cuối cùng “sánh duyên” lâu dài với bánh phở. Phải
chăng, để phân biệt với món xáo bò, người ta đã nghĩ ra từ phở bò, xuất phát từ việc ăn bánh phở với thịt bò ? Nếu bánh phở là từ xuất hiện trước món phở thì
ta có quyền tin vào giả thuyết này. Và nếu đúng vậy thì phở là từ nằm trong bánh phở chứ không phải do đọc trại chữ phẳn 粉 theo giọng Quảng Đông.
Phần viết thêm
Trong
từ điển Wikipedia bản tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…
đều có mục riêng viết về phở và gọi đích danh là “Phở”, chứ không gọi
bằng tên món ăn nào đó của Pháp hay Trung Quốc. Điều này cho thấy
thế giới công nhận “phở” là một món ăn của Việt Nam. Riêng bản Trung
văn, mục viết về phở có tựa đề là
越南粉 (Việt Nam phấn), cũng cho thấy rằng người Trung Quốc
công nhận “phở” là món ăn Việt Nam. Do đặc điểm về ngôn ngữ, trong phần
nói về nguồn gốc của từ phở, họ chú thích hình ảnh tô phở là
越 南牛肉粉 (Việt Nam ngưu nhục phấn), có thể dịch
là “phở bò Việt Nam”. Viết như thế thì chấp nhận được. Nhưng có những
website dạy tiếng Trung Quốc lại ngang nhiên giảng phở bò là Ngưu
nhục phấn 牛肉粉 thì thật đáng báo động (!).
(1) Nguồn gốc và sự ra đời của phở của Vũ Thế Long.
(2) Nguyễn Công Hoan. Nhớ và ghi về Hà Nội, NXB Trẻ 2004.
(3)
“Kỹ thuật của người An Nam” (tựa tiếng Pháp: “Technique du peuple
Annamite”, tựa tiếng Anh: “Mechanics and crafts of the Annamites”) là
một công trình nghiên cứu văn minh vật chất ở An Nam khoảng 100 năm về
trước,
chủ yếu phản ánh cuộc sống của người Hà Nội. Quyển này tập hợp 4577 bức
tranh khắc, do Monsier Henri Oger (người Pháp) và những nghệ nhân người
Việt Nam thực hiện trong hai năm (1908 – 1909), phát hành với số lượng
hạn chế (60 bản). (theo Wikipedia tiếng Việt).
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Hải quân Mỹ đưa thêm chiến hạm đến Thái Bình Dương
RFA
2017-04-02
2017-04-02
Hải quân Hoa Kỳ đưa thêm chiến hạm đến khu vực Tây Thái Bình Dương, thực hiện những cuộc tuần tra bao gồm cả vùng Biển Đông.
Thông cáo phổ biến trên mạng của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ Tại Thái Bình Dương
cho hay 2 chiếc khu trục hạm có tên lửa dẫn đường USS Sterett và USS
Dewey đã rời bến từ cảng San Diego hồi sáng thứ Sáu, 31 tháng Ba 2017,
để đến Tây Thái Dương, phối hợp hoạt động chung với hàng không mẫu hạm
USS Carl Vinson và đoàn tầu hộ tống, có mặt trong khu vực từ tháng Hai
vừa rồi.
Hai khu trục hạm USS Sterett và USS Dewey thuộc Hạm Đội Ba của hải quân
Hoa Kỳ đến Thái Bình Dương trong khuôn khổ kế hoạch phối hợp hoạt động
chung với Hạm Đội 7 để cùng ứng phó với tình hình an ninh khu vực. Các
giới chức quân sự Mỹ cho biết thêm dù có mặt ở Thái Bình Dương nhưng cả 2
chiến hạm này vẫn được đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh tại San
Diego, thay vì nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội 7.
Truyền thông Hoa Kỳ cũng cho hay phạm vi hoạt động của chiến hạm USS
Sterett và USS Dewey bao gồm cả khu vực Biển Đông. Năm ngoái, chiếc USS
Decatur của Hạm Đội 3 đã tuần tra ở gần đảo Tri Tôn và Phú Lâm thuộc
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhưng đang bị Trung Quốc chiếm đóng.
Chừng 2 tuần lễ trước đây, tin từ Washington nói rằng hải quân Hoa Kỳ
không chỉ tăng cường tuần tra ở Biển Đông mà còn muốn thử thách Bắc Kinh
bằng cách đưa tầu chiến đi vào phía trong vùng 12 hải lý ở những hòn
đảo Trung Quốc đang chiếm giữ, với mục đích gửi thông điệp là Hoa Kỳ
không công nhận Bắc Kinh có chủ quyền ở vùng biển đảo đang chiếm giữ.
Vẫn theo giới thạo tin, yêu cầu này chưa được Nhà Trắng chấp thuận.
Các giới chức Nhà Trắng từ chối bình luận về tin này, nhưng cho hay Biển
Đông là một trong những để tài được Tổng Thống Donald Trump nói tới khi
thảo luận với Chủ Tịch Nhà Nước Trung Quốc Tập Cận Bình trong 2 ngày
mùng 6 và mùng 7 tháng này ở Florida.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/us-south-china-sea-04022017134425.htmlTổng thống Trump: Thượng đỉnh Mỹ-Trung rất quan trọng
RFA
2017-04-01
2017-04-01
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump trông chờ ngày gặp Chủ Tịch Nhà Nước
Trung Quốc Tập Cận Bình, gọi thượng đỉnh Mỹ-Trung là “cuộc họp rất quan
trọng, thật đặc biệt”, cho mối quan hệ song phương.
Lên tiếng với báo chí chiều hôm qua ở Nhà Trắng, Tổng Thống Hoa Kỳ không nói đến những điểm ông sẽ thảo luận với nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng tỏ ý cho thấy chính ông nóng lòng trông chờ kết quả, khi nói là “chúng ta hãy chờ xem những gì xảy ra” trong cuộc thảo luận giữa ông và ông Tập.
Tổng Thống Trump đưa ra phát biểu này khi đón tiếp phái đoàn đại diện Hiệp Hội Các Nhà Sản Xuất Hoa Kỳ, dùng cơ hội này để nhắc lại điều ông từng cam kết với cử tri khi vận động tranh cử là sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các công ty Mỹ mở nhà máy hoạt động ngay trong nước để tạo thêm việc làm cho công nhân, thay vì bỏ vốn đầu tư ở nước ngoài.
Qua phát biểu, Tổng Thống Hoa Kỳ cũng nhắc lại nước Mỹ “đang chịu thiệt thòi, việc làm từ Mỹ chạy sang Trung Quốc, Mexico và những nước khác”, nên trách nhiệm của ông là phải xây dựng một sân chơi công bình, để tạo việc làm cho công nhân Mỹ.
Một ngày trước đó, Tổng Thống Hoa Kỳ đã dùng trang mạng xã hội Twitter để bày tỏ lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, dự báo cuộc thảo luận giữa ông và Chủ Tịch Tập Cận Bình của Hoa Lục là cuộc gặp gỡ “đầy khó khăn”.
Ông cũng viết rằng Hoa Kỳ “không thể tiếp tục bị thâm thủng mậu dịch to lớn (với Trung Quốc)” khiến “(công nhân Mỹ) mất việc làm”.
Dựa theo đó, các nhà quan sát dự đoán thương mại sẽ là để tài quan trọng nhất của cuộc thượng đỉnh, đồng thời những vấn đề khác cũng sẽ được Tổng Thống Hoa Kỳ nói đến, như căng thẳng tại Biển Đông và tình hình bất ổn đang xảy ra ở bán đảo Triều Tiên.
Thượng đỉnh Mỹ-Trung sẽ diễn ra trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Tư này, tại khu nghỉ dưỡng Mar A Lago của ông Trump ở bang Florida.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/us-china-summit-update-04012017124218.html
Lên tiếng với báo chí chiều hôm qua ở Nhà Trắng, Tổng Thống Hoa Kỳ không nói đến những điểm ông sẽ thảo luận với nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng tỏ ý cho thấy chính ông nóng lòng trông chờ kết quả, khi nói là “chúng ta hãy chờ xem những gì xảy ra” trong cuộc thảo luận giữa ông và ông Tập.
Tổng Thống Trump đưa ra phát biểu này khi đón tiếp phái đoàn đại diện Hiệp Hội Các Nhà Sản Xuất Hoa Kỳ, dùng cơ hội này để nhắc lại điều ông từng cam kết với cử tri khi vận động tranh cử là sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho các công ty Mỹ mở nhà máy hoạt động ngay trong nước để tạo thêm việc làm cho công nhân, thay vì bỏ vốn đầu tư ở nước ngoài.
Qua phát biểu, Tổng Thống Hoa Kỳ cũng nhắc lại nước Mỹ “đang chịu thiệt thòi, việc làm từ Mỹ chạy sang Trung Quốc, Mexico và những nước khác”, nên trách nhiệm của ông là phải xây dựng một sân chơi công bình, để tạo việc làm cho công nhân Mỹ.
Một ngày trước đó, Tổng Thống Hoa Kỳ đã dùng trang mạng xã hội Twitter để bày tỏ lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc, dự báo cuộc thảo luận giữa ông và Chủ Tịch Tập Cận Bình của Hoa Lục là cuộc gặp gỡ “đầy khó khăn”.
Ông cũng viết rằng Hoa Kỳ “không thể tiếp tục bị thâm thủng mậu dịch to lớn (với Trung Quốc)” khiến “(công nhân Mỹ) mất việc làm”.
Dựa theo đó, các nhà quan sát dự đoán thương mại sẽ là để tài quan trọng nhất của cuộc thượng đỉnh, đồng thời những vấn đề khác cũng sẽ được Tổng Thống Hoa Kỳ nói đến, như căng thẳng tại Biển Đông và tình hình bất ổn đang xảy ra ở bán đảo Triều Tiên.
Thượng đỉnh Mỹ-Trung sẽ diễn ra trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Tư này, tại khu nghỉ dưỡng Mar A Lago của ông Trump ở bang Florida.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/us-china-summit-update-04012017124218.html
Ông Trump dự đoán cuộc gặp với Chủ tịch Tập sẽ ‘cam go’ (VOA60 châu Á)
0:00:15 /0:01:01
Hàn Quốc bắt cựu Tổng thống. Tổng thống Hoa Kỳ đã viết trên Twitter điều
gì về cuộc họp tuần tới với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình? Tổng
thống Philippines Rodrigo Duterte có thể mở rộng tầm ảnh hưởng của mình
http://www.voatiengviet.com/a/3791551.html
http://www.voatiengviet.com/a/3791551.html
Trung Quốc đang cố giảm căng thẳng trong quan hệ với Mỹ
RFA
2017-03-31
2017-03-31
Trong thời gian vận động tranh cử và ngay sau khi đắc cử, Tổng Thống
Trump từng nhiều lần nói rằng ông sẽ liệt Trung Quốc vào danh sách những
nước cố ý hạ giá đồng bạc để trục lợi, cũng như đánh cắp việc làm của
công nhân Mỹ. Ông Trump còn dọa sẽ đánh mức thuế cao hơn đối với h
Trung Quốc cố gắng làm nhẹ những trở ngại đang diễn ra trong mối quan hệ Mỹ-Trung, trước khi Chủ Tịch Tập Cận Bình sang Hoa Kỳ gặp Tổng Thống Mỹ Donald Trump.
Trở ngại được nói đến trong tin nhắn Tổng Thống Trump phổ biến qua mạng xã hội Twitter từ ngày hôm qua, trong đó nói rằng cuộc thảo luận giữa ông và người lãnh đạo nhà nước Trung Quốc là cuộc thảo luận đầy khó khăn.
Mặc dù đề tài thảo luận chưa được hai nước công bố hay tiết lộ, nhưng giới thạo tin tại Washington cho hay phía Hoa Kỳ sẵn sàng đặt những vấn đề thời sự nóng bỏng trên bàn hội nghị, bao gồm việc Trung Quốc cố ý hạ giá đồng nhân dân tệ để trục lợi khi đưa hàng vào Mỹ, vấn đề an ninh ở bán đảo Triêu Tiên, và cả những hoạt động mang tính quân sự mà Bắc Kinh đang làm ở Biển Đông.
Hôm qua trong tin nhắn qua mạng, Tổng Thống Trump viết rằng Hoa Kỳ không thể tiếp tục chấp nhận chuyện bị thiệt thòi, tức thâm thủng mậu dịch, và không thể tiếp tục ngồi yên nhìn thấy công nhân Mỹ bị mất việc.
Tin từ Nhà Trắng cho hay hôm nay, Tổng Thống Trump sẽ ký kết một số sắc lệnh, trong đó ghi rõ mức thâm thủng mậu dịch mà Hoa Kỳ phải gánh chịu khi trao đổi hàng hóa với nước khác, đồngàng hóa sản xuất từ Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ.
Hôm nay trong cuộc họp báo thường lệ tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Lục Khảng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói rằng hai nước cần tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết những khác biệt trong chiều hướng cả đội bên cùng có lợi, đồng thời để đảm bảo ổn định cho mối quan hệ thương mại Mỹ-Trung.
Ngoài ra, Thứ Trưởng Ngoại Giao Trịnh Trạch Quang của Trung Quốc còn bày tỏ sự lạc quan, tin tưởng thượng đỉnh Mỹ-Trung sẽ thành công, vạch ra một hướng đi tốt đẹp cho mối quan hệ song phương.
Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Trịnh Trạch Quang khẳng định Bắc Kinh không chủ trương thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ, cũng không hề có chính sách phá giá đồng nhân dân tệ để trục lợi khi xuất khẩu hàng sang Mỹ.
Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc còn nói là ngay chính Trung Quốc cũng phải chịu thâm thủng mậu dịch khi trao đổi hàng hóa với nước khác. Ông giải thích rằng khi mức tiêu thụ nội địa tăng, lúc đó Trung Quốc sẽ tăng hàng nhập khẩu và dịch vụ của những nước bạn hàng, trong đó có Hoa Kỳ.
Ông cũng nói mức vốn đầu tư Trung Quốc bỏ vào Mỹ đang tăng, điều đó có nghia là tạo thêm việc làm cho công nhân Hoa Kỳ.
Cuộc gặp giữa Tổng Thống Mỹ và Chủ Tịch Nhà Nước Trung Quốc sẽ diễn ra trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Tư tới đây, ở khu nghỉ dưỡng riêng Mar-a-Lago của ông Trump tại bang Florida.
Một số nhà quan sát cho rằng đón Chủ Tịch Trung Quốc ở khu nghỉ dưỡng riêng cho thấy quy mô và tầm cỡ cuộc gặp bị giảm nhẹ, nhưng chiều hôm qua, một viên chức cao cấp Nhà Trắng lại nói với chúng tôi rằng quyết định đón nhà lãnh đạo Trung Quốc tại nhà riêng chứng tỏ Tổng Thống Trump muốn xây dựng quan hệ thân thiện với người đang lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/cn-downplay-tension-w-us-as-xi-prepares-meet-03312017091059.html
Trung Quốc cố gắng làm nhẹ những trở ngại đang diễn ra trong mối quan hệ Mỹ-Trung, trước khi Chủ Tịch Tập Cận Bình sang Hoa Kỳ gặp Tổng Thống Mỹ Donald Trump.
Trở ngại được nói đến trong tin nhắn Tổng Thống Trump phổ biến qua mạng xã hội Twitter từ ngày hôm qua, trong đó nói rằng cuộc thảo luận giữa ông và người lãnh đạo nhà nước Trung Quốc là cuộc thảo luận đầy khó khăn.
Mặc dù đề tài thảo luận chưa được hai nước công bố hay tiết lộ, nhưng giới thạo tin tại Washington cho hay phía Hoa Kỳ sẵn sàng đặt những vấn đề thời sự nóng bỏng trên bàn hội nghị, bao gồm việc Trung Quốc cố ý hạ giá đồng nhân dân tệ để trục lợi khi đưa hàng vào Mỹ, vấn đề an ninh ở bán đảo Triêu Tiên, và cả những hoạt động mang tính quân sự mà Bắc Kinh đang làm ở Biển Đông.
Hôm qua trong tin nhắn qua mạng, Tổng Thống Trump viết rằng Hoa Kỳ không thể tiếp tục chấp nhận chuyện bị thiệt thòi, tức thâm thủng mậu dịch, và không thể tiếp tục ngồi yên nhìn thấy công nhân Mỹ bị mất việc.
Tin từ Nhà Trắng cho hay hôm nay, Tổng Thống Trump sẽ ký kết một số sắc lệnh, trong đó ghi rõ mức thâm thủng mậu dịch mà Hoa Kỳ phải gánh chịu khi trao đổi hàng hóa với nước khác, đồngàng hóa sản xuất từ Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ.
Hôm nay trong cuộc họp báo thường lệ tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Lục Khảng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói rằng hai nước cần tôn trọng lẫn nhau để tìm cách giải quyết những khác biệt trong chiều hướng cả đội bên cùng có lợi, đồng thời để đảm bảo ổn định cho mối quan hệ thương mại Mỹ-Trung.
Ngoài ra, Thứ Trưởng Ngoại Giao Trịnh Trạch Quang của Trung Quốc còn bày tỏ sự lạc quan, tin tưởng thượng đỉnh Mỹ-Trung sẽ thành công, vạch ra một hướng đi tốt đẹp cho mối quan hệ song phương.
Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Trịnh Trạch Quang khẳng định Bắc Kinh không chủ trương thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ, cũng không hề có chính sách phá giá đồng nhân dân tệ để trục lợi khi xuất khẩu hàng sang Mỹ.
Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc còn nói là ngay chính Trung Quốc cũng phải chịu thâm thủng mậu dịch khi trao đổi hàng hóa với nước khác. Ông giải thích rằng khi mức tiêu thụ nội địa tăng, lúc đó Trung Quốc sẽ tăng hàng nhập khẩu và dịch vụ của những nước bạn hàng, trong đó có Hoa Kỳ.
Ông cũng nói mức vốn đầu tư Trung Quốc bỏ vào Mỹ đang tăng, điều đó có nghia là tạo thêm việc làm cho công nhân Hoa Kỳ.
Cuộc gặp giữa Tổng Thống Mỹ và Chủ Tịch Nhà Nước Trung Quốc sẽ diễn ra trong 2 ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Tư tới đây, ở khu nghỉ dưỡng riêng Mar-a-Lago của ông Trump tại bang Florida.
Một số nhà quan sát cho rằng đón Chủ Tịch Trung Quốc ở khu nghỉ dưỡng riêng cho thấy quy mô và tầm cỡ cuộc gặp bị giảm nhẹ, nhưng chiều hôm qua, một viên chức cao cấp Nhà Trắng lại nói với chúng tôi rằng quyết định đón nhà lãnh đạo Trung Quốc tại nhà riêng chứng tỏ Tổng Thống Trump muốn xây dựng quan hệ thân thiện với người đang lãnh đạo đảng và nhà nước Trung Quốc.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/cn-downplay-tension-w-us-as-xi-prepares-meet-03312017091059.html
Tổng thống Trump gửi thư cho Chủ tịch Trần Đại Quang
RFA
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã gửi một bức thư cho Chủ tịch Việt Nam
Trần Đại Quang, nói rằng Hoa Kỳ muốn thúc đẩy các quan hệ với Việt Nam,
và bản thân ông sẽ cân nhắc đến chuyện sang Việt Nam tham dự Hội nghị
Thượng đỉnh Diễn đán Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương APEC vào cuối năm
nay ở Đà Nẵng.
Bức thư được ông Trump gửi cho ông Trần Đại Quang từ hôm 23/3 nhưng đến hôm nay mới được truyền thông trong nước loan tải, sau khi Chủ tịch Việt Nam đề cập đến nhân buổi tiếp đón Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.
Thông tấn xã Việt Nam cho biết, trong thư gửi Chủ tịch Việt Nam “Tổng thống Donald Trump khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, các vấn đề khu vực và quốc tế, cùng Việt Nam và các nước trong khu vực đảm bảo hòa bình, thịnh vượng ở châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”.
Đáp lại, Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang nhờ Đại sứ Ted Osius gửi lời cảm ơn tới Tổng thống Donald Trump, nói rằng “lãnh đạo Việt Nam sẵn sàng hợp tác duy trì và phát triển quan hệ giữa hai nước, thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện trên cơ sở cùng có lợi, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước”.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/trump-sent-letter-to-vietnam-president-04012017101929.html
Bức thư được ông Trump gửi cho ông Trần Đại Quang từ hôm 23/3 nhưng đến hôm nay mới được truyền thông trong nước loan tải, sau khi Chủ tịch Việt Nam đề cập đến nhân buổi tiếp đón Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius.
Thông tấn xã Việt Nam cho biết, trong thư gửi Chủ tịch Việt Nam “Tổng thống Donald Trump khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế - thương mại, các vấn đề khu vực và quốc tế, cùng Việt Nam và các nước trong khu vực đảm bảo hòa bình, thịnh vượng ở châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”.
Đáp lại, Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang nhờ Đại sứ Ted Osius gửi lời cảm ơn tới Tổng thống Donald Trump, nói rằng “lãnh đạo Việt Nam sẵn sàng hợp tác duy trì và phát triển quan hệ giữa hai nước, thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện trên cơ sở cùng có lợi, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước”.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/trump-sent-letter-to-vietnam-president-04012017101929.html
Tân chính quyền Mỹ bắt đầu từ tuần tới có thể âm thầm phủi bỏ khả năng
được làm việc hợp pháp tại Mỹ của hàng trăm ngàn di dân, hầu hết là phụ
nữ, buộc họ phải lui về làm nội trợ hay rời khỏi nước Mỹ.
Những người này là vợ của những người đến Mỹ làm việc theo visa cấp cho lao động tay nghề cao, mà chính các bà vợ này cũng là lực lượng lao động có kỹ năng cao. Nhiều người trong số họ đã mở các công việc kinh doanh mang lại việc làm cho công dân Mỹ.
Trường hợp của doanh nhân Keerthi Ranjith, 37 tuổi, đang cư trú tại South Riding, Virginia, là một đơn cử.
Bà Ranjith đến Mỹ năm 2004, theo diện ‘ăn theo’ chồng, một kỹ sư phần mềm máy vi tính đến Mỹ bằng visa H-1B. Là một giáo viên, bà Ranjith hiểu rõ nếu sang Mỹ với chồng, ít nhất trong tạm thời, bà phải hy sinh sự nghiệp của mình vì theo quy định, vợ của các lao động nhập cư H-1B không được làm việc ăn lương.
Tuy nhiên, công ty của chồng bà hứa bảo lãnh để ông có được thẻ xanh. Điều này có nghĩa là trong vòng một vài năm, cả hai vợ chồng họ đều có công ăn việc làm ở Mỹ. Khi đó, bà có thể dùng kỹ năng chuyên môn của mình kiếm thêm thu nhập cho gia đình đang gia tăng thành viên.
Theo luật hiện hành, có một hạn ngạch hàng năm về số thẻ xanh đối với mỗi quốc gia và số này đồng đều cho các nước, dù nước đó đông hay ít dân. Cho nên, những người thuộc một nước nhỏ như Lichtenstein có thể nhận được thẻ xanh hầu như ngay lập tức sau khi tiến trình bảo trợ và rà soát hoàn tất, trong khi những người từ các quốc gia đông dân như Ấn Độ và Trung Quốc có thể phải chờ nhiều chục năm.
Bà Ranjith đã chờ đợi mòn mỏi. Ở nhà thì bồn chồn, nhưng không được đi làm, bà tới tình nguyện tại trường học của các con và ấp ủ giấc mơ một ngày nào đó có thể mở một dịch vụ riêng là một trung tâm dạy kèm. Bà chuyển tiếp văn bằng tại Ấn và được cấp giấy dạy học của tiểu bang Virginia. Bà nghiên cứu sách vở và chương trình học, cũng như đi tìm địa điểm.
Nhiều năm trôi qua, Quốc hội Mỹ đã một vài lần nỗ lực bất thành không cải cách được hệ thống thẻ xanh có nhiều khuyết điểm.
Cuối cùng, chính quyền Obama đưa ra một biện pháp ‘chữa cháy’ : bắt đầu từ tháng 5 năm 2015, chính quyền loan báo vợ hay chồng của những công nhân có kỹ năng cao, trong thời gian chờ thẻ xanh, sẽ được phép đi làm.
Nhờ đó, sau ngót 11 năm ròng, bà Ranjith được phép làm việc (trong trường hợp của bà, được bắt đầu công việc kinh doanh).
Bà tiến hành nhanh chóng. Trong vòng một tháng, bà mở Trung tâm giáo dục South Riding. Hiện nay trung tâm có gần 250 học sinh theo học và bà thuê hơn 15 nhân viên.
Nay, bà Ranjith và đội ngũ nhân công của bà có thể bị mất việc.
Tân Bộ trưởng Tư pháp từ thời còn là Thượng nghị sĩ, ngoài việc chống cải cách thẻ xanh, ông Jeff Sessions đã cực lực bác bỏ qui định cho phép những người như bà Ranjith mở công việc kinh doanh. Nay trong tư cách Bộ trưởng Tư pháp, ông có thể bỏ qui định này nhanh chóng và dễ dàng hơn nữa.
Một vụ kiện thách thức qui định được đệ nạp lên tòa vào năm 2015, và mới đây đã lên đến tòa phúc thẩm liên bang.
Chính quyền ông Trump đã yêu cầu tạm ngưng 60 ngày để “cho phép giới chức lãnh đạo mới có đủ thì giờ cứu xét vấn đề.” Và thứ hai tuần sau là thời hạn chót của hai tháng tạm ngưng đó.
Theo Washington Post/Quartz
Những người này là vợ của những người đến Mỹ làm việc theo visa cấp cho lao động tay nghề cao, mà chính các bà vợ này cũng là lực lượng lao động có kỹ năng cao. Nhiều người trong số họ đã mở các công việc kinh doanh mang lại việc làm cho công dân Mỹ.
Trường hợp của doanh nhân Keerthi Ranjith, 37 tuổi, đang cư trú tại South Riding, Virginia, là một đơn cử.
Bà Ranjith đến Mỹ năm 2004, theo diện ‘ăn theo’ chồng, một kỹ sư phần mềm máy vi tính đến Mỹ bằng visa H-1B. Là một giáo viên, bà Ranjith hiểu rõ nếu sang Mỹ với chồng, ít nhất trong tạm thời, bà phải hy sinh sự nghiệp của mình vì theo quy định, vợ của các lao động nhập cư H-1B không được làm việc ăn lương.
Tuy nhiên, công ty của chồng bà hứa bảo lãnh để ông có được thẻ xanh. Điều này có nghĩa là trong vòng một vài năm, cả hai vợ chồng họ đều có công ăn việc làm ở Mỹ. Khi đó, bà có thể dùng kỹ năng chuyên môn của mình kiếm thêm thu nhập cho gia đình đang gia tăng thành viên.
Theo luật hiện hành, có một hạn ngạch hàng năm về số thẻ xanh đối với mỗi quốc gia và số này đồng đều cho các nước, dù nước đó đông hay ít dân. Cho nên, những người thuộc một nước nhỏ như Lichtenstein có thể nhận được thẻ xanh hầu như ngay lập tức sau khi tiến trình bảo trợ và rà soát hoàn tất, trong khi những người từ các quốc gia đông dân như Ấn Độ và Trung Quốc có thể phải chờ nhiều chục năm.
Bà Ranjith đã chờ đợi mòn mỏi. Ở nhà thì bồn chồn, nhưng không được đi làm, bà tới tình nguyện tại trường học của các con và ấp ủ giấc mơ một ngày nào đó có thể mở một dịch vụ riêng là một trung tâm dạy kèm. Bà chuyển tiếp văn bằng tại Ấn và được cấp giấy dạy học của tiểu bang Virginia. Bà nghiên cứu sách vở và chương trình học, cũng như đi tìm địa điểm.
Nhiều năm trôi qua, Quốc hội Mỹ đã một vài lần nỗ lực bất thành không cải cách được hệ thống thẻ xanh có nhiều khuyết điểm.
Cuối cùng, chính quyền Obama đưa ra một biện pháp ‘chữa cháy’ : bắt đầu từ tháng 5 năm 2015, chính quyền loan báo vợ hay chồng của những công nhân có kỹ năng cao, trong thời gian chờ thẻ xanh, sẽ được phép đi làm.
Nhờ đó, sau ngót 11 năm ròng, bà Ranjith được phép làm việc (trong trường hợp của bà, được bắt đầu công việc kinh doanh).
Bà tiến hành nhanh chóng. Trong vòng một tháng, bà mở Trung tâm giáo dục South Riding. Hiện nay trung tâm có gần 250 học sinh theo học và bà thuê hơn 15 nhân viên.
Nay, bà Ranjith và đội ngũ nhân công của bà có thể bị mất việc.
Tân Bộ trưởng Tư pháp từ thời còn là Thượng nghị sĩ, ngoài việc chống cải cách thẻ xanh, ông Jeff Sessions đã cực lực bác bỏ qui định cho phép những người như bà Ranjith mở công việc kinh doanh. Nay trong tư cách Bộ trưởng Tư pháp, ông có thể bỏ qui định này nhanh chóng và dễ dàng hơn nữa.
Một vụ kiện thách thức qui định được đệ nạp lên tòa vào năm 2015, và mới đây đã lên đến tòa phúc thẩm liên bang.
Chính quyền ông Trump đã yêu cầu tạm ngưng 60 ngày để “cho phép giới chức lãnh đạo mới có đủ thì giờ cứu xét vấn đề.” Và thứ hai tuần sau là thời hạn chót của hai tháng tạm ngưng đó.
Theo Washington Post/Quartz
http://www.voatiengviet.com/a/my-co-the-buoc-hang-chuc-ngan-di-dan-hop-phap-ve-nuoc/3791915.html
NGUYỄN KHÔI * QUA ĐAN PHƯỢNG NHỚ QUANG DŨNG
------
Ôi,"Nam - Bắc phân tranh" đến nay đã 42 năm, NK cũng đã sang tuổi 80,nhân lên thăm Đan Phượng/ Phùng...hoài niệm dĩ vãng có đôi dòng cảm tác :
*
*
Đôi mắt Sơn Tây ráo hoảnh rồi
*
---------
TUYẾT XỨ THI CÁC
GIẤC NGỦ
Đặng Phùng Quân
Giấc ngủ M trên lưng một ngọn đồi cao
Ở đó dòng suối gặp những tiếng hú không tên người
Cỏ hoa chết với hơi thở em trong nỗi vắng
Hư không chẳng là điều người ta thấy
Em cảm nghĩ và hư không gặp những lời im lặng vô vàn
Hãy nghĩ anh không thể cùng thế giới đó
Anh không trong giấc ngủ
Vì anh là thi sĩ và thi sĩ không nhìn người đàn bà trong giấc ngủ hư không
Sự trọng đại cũng như chiếc mặt nạ nỗi mơ em
Em đi trên những lối đường của thần chết
Giấc ngủ M triền hô như giữa cơn mưa cao
Lời thi sĩ là lời tình yêu không ảo giả
Ngoài những mặt nạ người chưa gặp cơn chân lý chán cuộc đời
Ôi thần tượng nhớ nhung
THƯƠNG XÓM ĐẠO
DTDBCó một hôm con về qua Xóm Đạo
Mỹ Đông buồn thiếu bóng dáng thân yêu
Cảnh vật xưa, ôi hoang vắng tiêu điều!
Nghe thương nhớ, những ngày xưa thân ái
Cha tác chiến, mẹ, con về quê ngoại
Sống những ngày lo lắng nhớ thương cha
Trước sân nhà ngoại trồng đủ loại hoa
Con luôn phụ giúp bắt sâu, tỉa lá
Có những hôm mẹ bận ngoài bệnh xá
Theo bạn ra đồng câu cá bẫy chim
Dòng sông Cái Thia tha thiết êm đềm
Gió lay nhẹ, hàng dừa xiêm in bóng
Cha trở về sau mùa vui thắng trận
Đưa mẹ, con ra phố thị mua quà
Quà cho con, cho mẹ, cho ông bà
Khi xem hát, lúc dạo vườn bách thú
Con đến tuổi được vào trường học chữ
Mẹ thay cha nắn nót dạy từng câu
Cuộc chiến gian nguy, cha mãi tuyến đầu
Lâu lắm không về thăm con và mẹ…
Bỗng một hôm đất trời như sụp đỗ!
Mẹ qua đời trong khói lửa đau thương
Sau tang mẹ, cha trở ra sa trường...
Nhà mình vắng, vì quê hương chinh chiến
Ba Mươi Tháng Tư! Cộng nô cưỡng chiếm
Cha bị đày tù cải tạo chung thân!
Con mười bảy, nguyện vào chí nguyện quân
Tiêu diệt địch trên mọi miền đất nước
Nay con đứng nơi nhà mình ngày trước
Nghe lòng lưu luyến thương nhớ mẹ cha
Cha ở đâu, Suối Máu hay Chí Hòa…
Phú Quốc, U Minh… rừng già Bắc Việt?
Chuông nhà thờ âm vang nghe tha thiết
Nhưng giáo đường thưa thớt bóng giáo dân
Bởi Cộng nô xây chủ nghĩa vô thần
Con chua xót, ngậm ngùi thương Xóm Đạo!
Mùa Quốc Hận, 30 tháng 4
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Email : dtdbuon@hotmail.com
‘’ : dtdbuon@gmail.com
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh cỏ biếc trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông
Hôn em trời đất một lòng chứa chan
Tiếng cười đâu đó ròn tan
Nụ hôn ngày đó miên man một đời
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
Trưa vàng cỏ biếc vườn xanh
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.
QUỐC VIỆT * ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
QUỐC VIỆT
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
TTO - “Đôi mắt người Sơn Tây/ U uẩn chiều luân lạc/ Buồn viễn xứ khôn khuây/ …Đường hoa khô ráo lệ”.
Gần 70 năm trôi qua với bao thời cuộc thăng trầm, bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây, về sau được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc, đã thấm sâu vào lòng người, dựng thành tượng đài âm nhạc bất hủ.
Nhưng đời sau có mấy người biết đôi mắt ấy là đôi mắt nào, chàng thi nhân, chiến binh Quang Dũng đã đắm say ai để dệt mộng thành những dòng thơ trác tuyệt này?
Bên tủ sách, bàn thờ Quang Dũng
Là lớp hậu sinh, tôi mê mẩn nằm lòng bài Tây Tiến, đắm đuối khôn khuây với Đôi mắt người Sơn Tây, Ba Vì mờ cao mà chưa bao giờ được may mắn hầu trà tác giả thi nhân.
Nhưng chính những dịp cầm viết rong ruổi, tôi tình cờ tao ngộ hoặc được sắp đặt trước với các người con và bạn bè văn chương, kháng chiến tri âm tri kỷ của ông đã gợi dậy nhiều kỷ niệm đặc biệt.
Nhà thơ Quang Dũng năm 1951
Gặp gỡ ở chợ tao nhân
Nhiều tên tuổi tao nhân mặc khách đã xuất hiện ở nơi này, từ Phạm Duy trước khi lên rừng và ngày trở về đều không thể không dừng chân, đến Huyền Kiêu, Tản Đà, Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Tạ Tỵ… Một số tướng lãnh, chiến sĩ lừng danh chiến cuộc như Tạ Đình Đề, Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo, Văn Tiến Dũng, Hoàng Sâm… cũng thoắt ẩn thoắt hiện gieo rắc kinh hoàng cho quân Pháp cũng như hút cả đám tai mắt tình báo tụ về.
Cô hàng cà phê Akemi
Lúc ấy, ông Đề là đội trưởng biệt động Hà Nội, chuyên làm nhiệm vụ trừ khử quân Pháp và Việt gian, nên thiết lập rất nhiều đầu mối mật báo và hiểu rõ nhiệm vụ bí mật của Akemi”, ông Giáp còn kể thêm chính mình và Tạ Đình Đề cũng nhiều lần ghé quán cà phê này.
Quán tranh nhỏ bé, nhưng Akemi pha cà phê rất ngon, đặc biệt là dung nhan và nghệ thuật ăn nói thu hút của cô đã khiến nhiều bậc trai hùng mê mệt, không đành lỡ bước ngang qua. Và tất nhiên, trong đó cũng không thiếu Quang Dũng, một chiến binh Tây Tiến có trái tim thi nhân lãng mạn trong cái vẻ bề ngoài phong trần, khinh bạc...
Tranh của Quang Dũng
Nỗi sầu tương tư
Chiến tranh kết thúc, Quang Dũng giã từ áo lính, về Hà Nội tiếp tục nghiệp cầm viết, có đi tìm đôi mắt người xưa nhưng người ấy đã xa rồi…
Nhà thơ Quang Dũng chụp tại Lâm Đồng năm 1983 cùng con gái Bùi Phương Thảo (thứ hai từ phải sang) - Ảnh tư liệu
GS. TRẦN VĂN CHI * CƠM THỐ CHỢ CŨ
Cơm thố Chợ Cũ năm xưa của Sài Gòn
Kể cũng tiếc…
LUÂN TẾ * KỊCH VÀ ĐỜI
KỊCH VÀ ĐỜI
“Kịch” có khoảng 600 năm trước Công Nguyên.
“Đời”, nếu căn cứ vào Thánh Kinh, được tạo nên khoảng 6000 năm trước.
Tức là con người phải mất trên 5000 năm mới biết đóng kịch (trên sân khấu), tuy ngoài đời thực thì con người biết đóng kịch ngay từ lúc bắt đầu có trí khôn (giả vờ là một hình thức đóng kịch và nếu lúc đó tiếng nói loài người chưa trở thành hệ thống ngôn ngữ thì là kịch câm - mime).
Theo sách vở thì kịch sĩ đầu tiên là một người Hy Lạp, tên là Thespis. Vì thế những diễn viên kịch còn được gọi là Thespian trong tiếng Anh. Vào khoảng 600 năm trước Công Nguyên, Thespis đã tạo ra hình thức diễn kịch trên sân khấu lộ thiên, với khán giả ngồi quay tròn chung quanh. Những vở kịch đầu tiên do Thespis đóng thực ra là những màn độc diễn vì chỉ có một mình ông trên sấn khấu, diễn nhiều vai, và mỗi lần chuyển vai là ông đổi sang một cái mặt nạ khác.
Kịch nghệ bắt đầu bằng những bi kịch (vì bi kịch rất gần với cuộc đời nên khán giả dễ chia sẻ với tình huống của các nhân vật trong kịch hơn), sau mới có những chuyển hướng sang hài kịch và một thứ hybrid gọi là Bi Hài Kịch (trong cuộc đời là “cười ra nước mắt”).
Người Hy Lạp sáng tạo ra và nổi tiếng về bi kịch. Cho đến bây giờ, những chuyện bi thương nhất xẩy ra trong cuộc đời vẫn được ví như một Greek Tragedy.
Kịch sĩ là người dùng thân xác của mình để diễn tả trạng thái thể xác và tâm hồn của nhân vật trong kịch. Nếu kịch sĩ đó đặt hết tâm hồn của mình trong vai diễn thì tiếng nhà nghề gọi là “Nhập Vai”.
Chính vì thế mà thường có chuyện lẫn lộn giữa “Kịch” và “Đời”.
Có hai trường phái diễn xuất. Một trường phái đặt trọng tâm vào “Đời”, lấy cuộc đời làm căn bản cho kịch sĩ lúc diễn xuất. Kịch sĩ được huấn luyện và khuyến khích “sống” qua những hoàn cảnh của nhân vật mình thủ diễn rồi đưa cái “sống” đó vào vai trò trên sân khấu / màn ảnh. Trường phái thứ hai dựa vào “khả năng diễn xuất” thuần túy của kịch sĩ để thuyết phục khán giả tin và, trong một vài tiếng đồng hồ ngồi trong rạp, cho là thật.
Một cách để làm cho câu trên dễ hiểu hơn là đem một cuộc làm tình trên màn ảnh ra làm thí dụ. Trong những phim XXX, các diễn viên làm tình “thật” - real; trong các phim rated R hay NC-17, các hành động ấy là những hành động “giả” – simulated, giả vờ làm như thật.
Nhưng dù có “sống” thật trong vai trò cách mấy chăng nữa, một kịch sĩ cũng vẫn giữ lại một phần nào con người thật (đời) của mình lúc đóng kịch trên sân khấu. Chẳng hạn như, khi đóng vai một kẻ sát nhân, có thể dùng dao thật để đâm một người nhưng không bao giờ đâm “thật”, chỉ đâm “giả” một cách khéo léo cho khán giả tưởng là “thật”. Và kịch sĩ đó “biết” là mình đâm giả. Hay trường hợp đang “nhập vai” mà terrorist ôm bom trong người rồi cho nổ trước cửa rạp thì cũng “biết” ngay và ra khỏi vai lập tức rồi…cắm cổ chạy.
Sân khấu và phim ảnh đòi hỏi hai lối diễn xuất khác nhau. Vì sân khấu ở xa khán giả nên kịch sĩ phải diễn xuất “cường điệu” để khán giả ở cuối rạp cũng có thể nhìn thấy rõ, nghe thấy rõ và cảm nhận được những gì kịch sĩ muốn diễn tả. Trong khi đó màn ảnh trong rạp ciné phóng đại tất cả các chi tiết trên khuôn mặt và dáng điệu của diễn viên trong phim và các loa phóng thanh khuếch đại các lời đối thoại, nên sự “cường điệu” đó không cần thiết mà còn có tác dụng ngược - overacting. Nếu bạn xem những phim Samurai của Nhật thì sẽ thấy trường hợp “overacting” này một cách rõ ràng khi các ông võ sĩ đạo nói như hét và diễn xuất nặng nề như trong các tuồng hát bội.
Tiếng Mỹ có hai chữ, Actor và Movie Star, để chỉ những tài tử đóng phim. Hiểu sâu xa một chút thì Actor là những người thực sự có khả năng diễn xuất, trong khi Movie Star thì là những người đóng phim có tiếng tăm, có khi diễn rất dở hoặc không hề biết diễn xuất là gì nhưng vẫn ăn khách vì một lý do nào đó.
Thường thì các kịch sĩ sân khấu, tuy lương ít và không nổi tiếng, được trọng nể hơn các đồng nghiệp đóng phim. Một số lớn các tài tử phim ảnh ở Mỹ đều muốn có cơ hội chứng tỏ là mình có khả năng diễn xuất thực sự bằng cách “mậu dịch” để được đưa lên đóng kịch trên sân khấu (go on Broadway). Nếu người nào đoạt được cả hai giải Oscar và Tony thì người đó được coi như một diễn viên thượng thặng (Rita Moreno, Audrey Hepburn và Liza Minelli là những người đã đoạt được cả hai giải thưởng này).
Khán giả Việt Nam khi xem phim, thường chê cách diễn xuất của tài tử Việt Nam, nói là: “Anh chàng / cô này đóng kịch quá ”. Và đó là sự thật. Nếu các bạn xem nhiều phim Việt Nam, bạn sẽ thấy là các diễn viên ở Việt Nam đóng phim với lối diễn xuất của kịch (nhất là phần đối thoại). Một lý do cho sự kiện này là vì phần lớn phim Việt Nam được “lồng tiếng”, tức là thâu âm thanh - dùng những diễn viên lồng tiếng chuyên nghiệp, không phải diễn viên đóng trong phim - sau khi phần hình ảnh và ráp nối đã xong. Nhiều diễn viên lồng tiếng xuất thân từ kịch nghệ và cải lương nên cách diễn tả đối thoại trong phim không phải là đối thoại của phim ảnh. Hơn nữa, vì không thâu đối thoại trực tiếp lúc thâu hình nên diễn viên thường lười không học bài, nương nhờ vào người nhắc “tuồng”. Chờ nhắc trong lúc đóng phim thì không thể nào “nhập vai” được. Và vì thế một số đông đã thất bại cả về diễn xuất lẫn đối thoại.
Kể cả những phim do các đạo diễn trẻ gốc Việt ở ngoại quốc thực hiện tại Việt Nam, dù thâu đối thoại trực tiếp, vẫn mắc vào cái tình trạng “kịch quá” vì các đạo diễn này, một phần vì không rành tiếng Việt, một phần không có kinh nghiệm diễn xuất để chỉ đạo cho diễn viên, nên phải nhờ đến những “cây cổ thụ” đầy kinh nghiệm sân khấu ở Việt Nam trong vai trò “chỉ dẫn diễn xuất và đối thoại” - acting and dialogue coach - trong phim. Thế là cũng giống như “gửi trứng cho ác”.
Lúc về Việt Nam làm phim, tôi đã phải phân tích rõ điều này cho các diễn viên. Và khi họ hiểu được, một số lớn đã đóng rất tự nhiên, đóng như đang sống, đang thở; hay nói rõ ra là đóng như cuộc đời thật, đóng như là không đóng. Và tôi không dùng chuyên viên lồng tiếng chuyên nghiệp trừ một vài trường hợp ngoại lệ. Các diễn viên chính lồng tiếng của mình. Tôi còn nhớ lúc thử vai (screen test) với Minh Trang, lúc đó (1990) là nữ kịch sĩ số một của Việt Nam, tôi yêu cầu Minh Trang đọc phần đối thoại của cô trong phim với tôi. Khi nghe thấy cái giọng đầy “kịch”, tôi hỏi Minh Trang là nếu nói chuyện với tôi ngoài “đời” cũng bằng những lời ấy thì cô sẽ nói như thế nào.
Bây giờ xin nói một chút về “kịch” và “đời” tôi.
Khoảng đầu năm 1971 tôi lập một ban kịch riêng lấy tên là “Ban Kịch Tự Do” trình diễn hàng tháng trên đài Truyền Hình. Lúc đó đài TH số 9 nằm trên đường Hồng Thập Tự, góc Đinh Tiên Hoàng, đối diện với Sân Vận Động Lam Sơn. Khi tôi bắt đầu vào nghể năm 1967 thì đài TH chỉ là một cái studio nhỏ nằm “ké” trong Trung Tâm Quốc Gia Điện Ảnh trên đường Thi Sách (hình như lúc đó Tài Tử Lê Quỳnh làm Giám Đốc) và cứ mỗi buổi tối, một chiếc máy bay Caravelle cất cánh từ Tân Sơn Nhất bay vòng vòng trên không phận Sài Gòn chuyền tín hiệu và hình ảnh cho các máy truyền hình (to nhất là 17 inches) tại phòng khách các gia đình tương đối khá giả có tiền mua máy TV đen trắng.
Với Vũ Huyến 1967
Đáng nhẽ vai trò đầu tiên tôi được “cho” đóng là vai người bạn thân của anh chàng Raskolnikov (do Vũ Huyến đóng), một sinh viên nghèo và nhân vật chính trong truyện Crime and Punishment của văn hào Nga Fyodor Dostoyevsky. Đây là một vở kịch có thể gọi là vĩ đại đầu tiên do Ban Gió Nam thực hiện trên truyền hình. Truyện do nhà văn Trương Đình Cử dịch; kịch tác gia Hoàng Năm soạn thành kịch; có vào khoảng 30 vai, và với sự góp mặt của hầu như tất cả các kịch sĩ “Bắc kỳ” nổi tiếng sống tại Sài Gòn thời đó như Kiều Hạnh, Vũ Đức Duy, Linh Sơn, Bích Sơn, Bích Thủy, Anh Tuấn (Ria), Phạm Đình Sĩ vv…. Nhưng trong lúc đang tập kịch này (kéo dài 2 tháng), nhà văn Phan Tùng Mai cũng lập một ban kịch (dùng những vở kịch ngắn ông viết cho Đài Tiếng Nói Tự Do) và “cho” tôi đóng vai một chàng phóng viên cầm camera chạy lăng xăng quay phim cảnh cuộc họp báo của một nhân vật quan trọng. Thành ra vai trò đầu tiên trong cái “nghiệp” kịch của tôi là một vai “câm”.
Sở dĩ tôi lập ban kịch riêng vì các vai trò tôi được cho (lúc đầu) và mời (sau này) đóng hầu hết là những vai “chết”, “cố hữu”, không có cơ hội sáng tạo (tiếng Mỹ có chữ Typecast). Vì dáng dấp tôi mảnh khảnh, trắng trẻo, tôi chỉ toàn được cho (mời) đóng các vai con nhà giầu, học giỏi, đi ngoại quốc về, lấy vợ đẹp. Những vở kịch do Ông Vũ Đức Duy viết và đạo diễn thường là loại Comédie legère - hài kịch nhẹ - lấy hoàn cảnh và hoạt cảnh gia đình là chính, giống như loại Situation Comedy (Sitcom) của Mỹ sau này. Những vở của Ban Gió Nam của các Ông Vũ Huân, Vũ Huyến chuyên về kịch tố cộng. Những ban kịch “Nam” như Tân Dân Nam, Kim Cương, Túy Hồng phần nhiểu dùng tình yêu ngang trái, éo le làm tiêu đề chính của vở kịch.
Khoảng năm 1971, tôi đang học năm chót ở Văn Khoa và đã bắt đầu đọc và dịch một số kịch của Mỹ. Và càng đọc tôi càng cảm thấy nền kịch nghệ Việt Nam nghèo nàn quá. Một phần vì ích kỷ, một phần vì liều, tôi quyết định viết một loại kịch mới, ra khỏi những đề tài thông thường, lập đi lập lại (melodrama). Tôi thuyết phục được ban giám đốc đài TH cho tôi làm với chiều hướng này. Và vì tôi là diễn viên nên tôi viết những vở kịch đó cho mình đóng, tạo ra những nhân vật khác hẳn với những vai trò tôi đóng từ trước (tiếng Mỹ có chữ cast against type). Lúc đó tôi đã trở thành diễn viên trẻ nam (jeune premier) duy nhất trong làng kịch Bắc; người “counterpart” chính của tôi là Bích Thủy.
Ban Tự Do và loại kịch mới này đã đem đến cho tôi một số khán giả rất đông, phần nhiều là giới sinh viên, học sinh tại Sài Gòn. Báo chí cũng để ý đến những vở kịch này trong mục “Phê Bình Kịch” trên trang Văn Nghệ. Nhưng nếu bạn về miền Hậu Giang hay miền Trung hỏi về tôi thì có lẽ không ai biết. Và vì tôi không thích lấy tên thật lúc viết kịch nên muốn tìm môt cái tên khác. Sau cùng, tôi nghĩ ra hai chữ Luân Tế. Cho đến ngày hôm nay, lúc ngồi viết những dòng này, tôi vẫn gặp một vài khán giả cũ gọi tôi là Luân Tế (Đã lâu lắm tôi không gặp Khánh Ly. Nhưng Khánh Ly vẫn thường gọi tôi bằng cái tên này lúc mới sang Mỹ). Và tôi phải thú thật với các bạn là tôi vẫn thích được gọi bằng cái bút hiệu này. Cũng như rất hãnh diện khi được gọi là kịch sĩ.
Một trong những vở kịch đầu tiên của ban Tự Do là “Kịch Và Đời”. Chuyện một anh chàng kịch sĩ cố gắng tập trung tư tưởng trong vai một kẻ giết người. Một ngày kia, anh ta chạy ra ngoài trong lúc đang diễn trên sân khấu và cầm dao đâm một người ngoài phố. Bích Thủy đóng vai em gái. Kiều Hạnh vai mẹ. Anh Tuấn (Ria) vai luật sư. Phạm Đình Sĩ vai thanh tra cảnh sát. Kết cục vở kịch là anh chàng này phải vào dưỡng trí viện tuy không bị tù (not guilty for reason of insanity).
Một cái kịch khác mà tôi rất thích là vở kịch tên là “Đời”. Kịch chỉ có 5 vai đàn ông. Chuyện kể hai người đàn ông đứng tuổi, lấy vợ trẻ và bị vợ cắm sừng. Hai ông này gặp nhau lúc đến tìm một tên chuyên môn chém mướn để thuê tên này “thịt” bà vợ trẻ và thằng tình địch. Nhưng tìm đến nơi thì nhà tên này đã trở thành một cái am và tên này nói đã xuống tóc đi tu, không còn làm ác nữa. Hai ông buồn bã ra quán cà phê đầu ngõ ngồi tâm sự với nhau về hoàn cảnh của mình. Sau khi biết là 2 người ở hai tỉnh khác nhau, ông A đề nghị với ông B là mình sẽ đến tỉnh của ông B “thịt” cô vợ trẻ và thằng tình địch của ông B; trong cùng lúc đó ông B sẽ đến tỉnh của ông A làm chuyện tương tự.
Tôi bắt đầu khởi nghiệp trên truyền hình. Khoảng năm 1970, khi tôi đóng vai Sơn Ca trong kịch Thành Cát Tư Hãn của GS Vũ Khắc Khoan do Học Giả Hoàng Trọng Miên đạo diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc thì tôi mới biết sân khấu là thế nào. Sau đó, ban kịch Tự Do (Tu Do Theater Group) của tôi cộng tác với Hội Việt Mỹ cùng với một người bạn, TS Duane E. Hauch, dựng được 4 vở kịch của Mỹ diễn bằng tiếng Việt trên sân khấu HVM Sài Gòn. Ba vở đầu - Chuyến Xe Dục Vọng (A Streetcar Named Desire), Những Đứa Con Tôi (All My Sons), và Mưa (Rain) – dùng toàn kịch sĩ nhà nghề và chúng tôi được sự cộng tác cùa Vũ Đức Duy, Mỹ Tín, Tâm Phan, Kiều Hạnh, Bích Thủy, Thanh Lan, Diễm Kiều, Lê Cung Bắc và đặc biệt là sự có mặt của Đỗ Anh, một kịch sĩ với tất cả những ý nghĩa của danh từ này. Đỗ Anh tốt nghiệp QGAN và được coi là khuôn mặt tiêu biểu nhất của trường về bộ môn kịch nghệ.
[Một tờ quảng cáo buổi trình diễn kịch tại HVM]
Với Đỗ Anh và Mỹ Tín trong “Những Đứa Con Tôi” 1972
Vở kịch thứ tư, Dục Vọng Dưới Tàn Du (Desire under the Elm), một vở kịch nổi tiếng của Eugene O’Neill, dùng diễn viên trong giới sinh viên và có lẽ là vở kịch duy nhất ở Việt Nam diễn với hình thức Simulcast. Đêm ra mắt, chúng tôi mời tất cả các giới chức Hoa Kỳ có liên hệ đến văn hóa tại Sài Gòn đến dự. Hơn một nửa rạp là người Mỹ. Vở kịch được trình diễn bằng Việt ngữ. Hai người, Duane và Stephanie, ngồi trước microphone trong hậu trường diễn lời Mỹ cho khán giả qua những ống nghe áp vào tai (giống trong các phiên họp của Liên Hiệp Quốc).
Tôi không biết là trước thế hệ của tôi đã có những vở kịch của Pháp dịch ra tiếng Việt rồi diễn trên sân khấu hay không, nhưng Duane và tôi đã có công đem những vở kịch Mỹ lên sân khấu Việt Nam vào những năm đầu thập niên 70. Đáng tiếc là chúng tôi đang sửa soạn thực hiện vở nhạc kịch “Giấc Mơ Tuyệt Vọng” - Man of La Mancha thì biến cố tháng Tư năm 1975 xẩy ra.
Với Vũ Đức Duy trong “Mưa” 1973
Cách đây hơn một năm, khi tôi thực hiện một chương trình nói chuyện về những cuốn sách của tôi viết và dịch trên báo chí, truyền thanh và truyền hình trong cộng đồng Việt Nam ở khắp nước Mỹ, một khán giả gửi email cho tôi yêu cầu gửi sách và nói là ông không bao giờ quên được bộ ria mép của tôi. Tôi còn nhớ như chuyện xẩy ra ngày hôm qua về bộ ria mép này. Năm đó là năm 1971. Hôm đó tôi đến đài Truyền Hình quay một vở kịch của ông Vũ Đức Duy. Anh La Thoại Tân đang đóng cho Kịch Sống của Túy Hồng ở studio bên cạnh. Lúc tôi đang ngồi trong một góc làm makeup lấy thì La Thoại Tân sang chơi. Anh nhìn tôi một lát rồi nói, “Tôi nghĩ Tuấn để râu mép chắc là đẹp”.
Nhờ anh La Thoại Tân mà tôi có bộ ria mới (giả) lần đóng TV đó rồi về nhà nuôi bộ ria thật. Mất gần 2 tháng. Như vậy là tôi đã đem bộ ria có nguồn gốc từ một vở kịch ra ngoài đời và giữ nó 40 năm.
Tôi nhắc đến Bích Thủy ở phần trên. Nếu tôi là diễn viên Nam chính nói giọng Bắc duy nhất thì Bích Thủy cũng là diễn viên Nữ chính duy nhất nói giọng Bắc. Và vì chung một lứa tuổi nên chúng tôi hay đóng “cặp” với nhau. Ngoài ra, Bích Thủy còn có một giọng đọc rất hay trên đài phát thanh. Chúng tôi làm việc chung hàng ngày ở Đài Tiếng Nói Tự Do (ngay bên cạnh đài TH số 9) nên lúc nào đi thâu kịch chỉ cần đi bộ sang. Thường thì tôi chỉ có một hai bộ đồ nên dễ sách, còn Bích Thủy thì phải vác cả một valise. Từ ngày sang Mỹ, Bích Thủy giã từ sân khấu, thỉnh thoảng chúng tôi gặp lại nhau trong những buổi họp bạn.
Câu trả lời là Passion Play. Đây là vở kịch được dựng lên nói về sự việc Chúa Jesus bị kết tội và đóng đinh trên thánh giá. Hầu hết các nhánh thuộc Tin Lành và Công giáo đều trình diễn vở kịch này hàng năm vào Mùa Vọng (Lent), dịp lễ Phục Sinh, kể cả những nước theo đạo Hồi. Có lẽ chỉ có nước Do Thái là không dựng vở kịch này vì Do Thái Giáo (Judaism) là quốc giáo, người Do Thái không thờ Chúa Jesus, và Passion Play hàm ý kết tội dân Do Thái là Kẻ Giết Chúa (Christkiller).
Có lẽ đây là trường hợp tiêu biểu nhất của “Kịch và Đời”.
Luân Tế
Photos: Michael Douglas, Karl Melden và Luân Tế.
BS. HĐD * CÁI DÂM TRONG TƯỚNG MỆNH HỌC
HIỀN VŨ * THẦY GIÁO ĐI BÁN BÁNH GIÒ Ở LITTLE SÀIGÒN
THẦY GIÁO ĐI BÁN BÁNH GIÒ Ở LITTLE SÀIGÒN
Hien Vu
Tuesday, March 28, 2017 5:12 PM
Tôi xin làm sáng tỏ thêm về bản tin này. Tôi đã dạy trung học đúng 30 năm (1980-2010) tại San Francisco nên khá rành về nghề dạy học ở tiểu bang này. Cũng có một số điều mà người VN trong nước cũng như hải ngoại không biết rõ về nghề dạy học bên Mỹ. Tôi xin kể mấy điều sau đây:
2/ Hai vợ chồng này là giáo viên ở VN. Ông chồng không biết dạy cấp mấy nhưng bà vợ dạy mẫu giáo tức không có bằng cử nhân. Điều kiện để được đi dạy từ mẫu giáo đến lớp 12 ở Cali(chắc cũng tương tự các tiểu bang khác) là:
Có văn bằng cử nhân hoặc tương đương.
Học thêm 30 credits về giáo dục (kể cả những người đã tốt nghiệp ĐHSP 4 năm như tôi).
Pass kỳ thi CBEST gồm: Reading, Writing, Mathematics. Rất nhiều người rớt kỳ thi này mặc dù mức độ khó không cao lắm, nhưng nguoi Mỹ thường rớt môn Math, còn người gốc ngoại quốc thường rớt môn Reading (kể cả ông Giáo sư Toán gốc Nhật, có bằng Tiến sĩ và đang dạy tại đại học danh tiếng).
Ảnh khuyết danh
Ảnh khuyết danh
Tới đây chắc sẽ có vài bạn thắc mắc, tại sao đang dạy đại học lại xin xuống dạy trung hoc? Xin thưa: dạy đại học chỉ có tiền lương cao hơn trung học nếu đã là Giáo sư Thực thụ. Còn lãnh lương theo giờ, thí dụ $80/giờ, mỗi tuần 6 giờ thì một tháng chỉ được: $80 x 6 x 4 tuần = khoảng $2000. Trong khi học khu SF đang trả lương cho teachers từ mẫu giáo đến lớp 12 (bằng nhau) là $75 ngàn/năm (starting salary). San Mateo County trả tới $84 ngàn vì giàu hơn và tiền thuê nhà mắc hơn. (Do đó không như VN, ở bên Mỹ dạy mẫu giáo có thể lương cao hơn dạy đại học mà chưa vô chính ngạch. Và rất đông thầy cô giáo trung tiểu học Mỹ có bằng Master vì đã có cử nhân và phải học thêm 30 tín chỉ giáo dục nữa thì cũng gần đủ điều kiện để lấy Master.)
Dạy tập sự thêm một năm (Tốt nghiệp ĐHSP được miễn).
3/ Đại đa số những thầy cô giáo đã tốt nghiệp ĐH 4 năm ở VN không trở lại nghề khi sang Mỹ vì lý do nào đó. Riêng cá nhân tôi rất hài lòng khi trở lại nghề dạy học bên Mỹ, nhất là khi về hưu
VCH
GS. TÔN THẤT THIỆN - HỒ CHÍ MINH
Mối liên quan giữa HCM, Đảng CSVN và Đệ Tam Quốc Tế
Tôn Thất Thiện
Cần xét lại lịch sử Đảng Cộng Sản Việt NamĐệ Tam Quốc Tế được thành lập năm 1919. Nó là con đẻ của Lênin
HẢI ÂU * TẠI SAO CHẠY TRỐN CỘNG SẢN?
Vì sao nhiều người trốn khỏi “thiên đường” xã hội chủ nghĩa
Saturday, April 1, 2017
HÀNG RONG
Nỗi niềm gánh hàng rong
Nỗi niềm gánh hàng rong
Với những người mưu sinh chốn hè phố, thì Sài Gòn những tháng ngày này đầy ám ảnh chuyện nhân danh quyền lực nhà nước. Các quan chức nói rằng để Sài Gòn sớm lấy lại danh hiệu hòn ngọc viễn đông, cần bắt đầu dọn dẹp vỉa hè, triệt luôn nơi buôn bán lâu nay của những gánh, những xe hàng rong.
Bày cái bàn nhỏ nép nhờ sát căn nhà vệ đường để bán xôi, bà Trương Thị Hoa cho biết tiện tặn lắm thì tiền lời cũng chỉ đủ đắp đổi qua ngày:
Ít vốn nên người nghèo sắm sửa chút vật dụng chế biến trên chiếc xe đẩy đi bán khắp các nẻo đường. Bán kiểu này, bà Dung kể, khổ nhất vào ngày mưa:
“Thiếu thốn lắm chú, bằng là đủ sống, như tháng mưa thì không đủ sống nhưng mà tháng nắng này thì đủ cũng như ăn gạo đồ chứ hổng có dư. Có nhiều khi buôn bán người ta đuổi thì phải chạy. Như chỗ nào mà người ta không muốn cho mình buôn bán thì người ta nói này nói nọ, chửi bới thì mình lại chỗ này nè, bán thì ế vậy đó. Muốn có chỗ ổn định để buôn bán này nọ, kiếm sống qua ngày”.
LÊ XUÂN NHUẬN * TÔN THẤT THIỆN
Về thời-điểm ra đời của tài-liệu này thì Ông Thiện cho biết là “lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960. Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960. Điều nhận xét nay được đưa ra năm 1960” (có nơi Ông Thiện viết là năm 1962).
Nói chung, mục-đích của công trình này là để phác-hoạ “con đường phát triển dân tộc”, đưa Việt Nam ra khỏi “tình-trạng chậm tiến”.
Tuy thế, Ông Tôn Thất Thiện còn đánh giá nó cao hơn: “Chính Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những người ‘lãnh đạo xứng danh’. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cọng Hoà I, mà ngay cả Việt Nam: nó có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn hiện đại hoá”.
2/ Ngay trong bài viết nói trên, Ông Tôn Thất Thiện đã tự giới-thiệu như sau: “Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung học, 1942-44, rồi qua những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai học, từ năm 1947 cho đến nay, 2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạng bô lão, tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt mọi người. ... vấn đề căn bản của rất nhiều nước... trong đó có Việt Nam, là những nước ở tình trạng chậm tiến. ‘Chậm tiến’ là dẫm chân, thua xa về đời sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng khoa học kỹ thuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại... . Tôi đã được học hỏi ở những Đại học có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính trị, Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát triển; tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó...” và “(tôi) là một học giả đã để nhiều thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề”.
Thắc-Mắc: Ông Tôn Thất Thiện theo phò Thủ-Tướng rồi Tổng-Thống Ngô Đình Diệm với một tấm lòng tín-nghĩa, và sau Ngày Định-Mệnh 1-11-1963 thì vẫn giữ vững một niềm kiên-trung đối với cố lãnh-tụ họ Ngô. Đương-nhiên Ông Thiện cũng thân-cận không ít với Cố-Vấn Ngô Đình Nhu (Ông Thiện cũng là thông-dịch-viên tín-cẩn của Ông Nhu tỷ như trong cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9 năm 1963, về những tin đồn rằng Ông Ngô Đình Nhu liên-lạc với cộng-sản). Cương-vị, trách-vụ, năng-khiếu và sở-trường của Ông Thiện gắn liền với chữ-nghĩa, tư-tưởng, chủ-thuyết và... chính-đề ‒ Thế mà tập tài-liệu (“Chính Đề”) này, dù đã “kết-tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng một số phụ tá thân cận” và “một phần đã được thảo-luận trong hàng-ngũ cán-bộ lãnh-đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng-Hoà”, rồi sau chính-biến 1963 còn được “xuất-bản năm 1964 ở Việt Nam, được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988”, với một nội-dung hệ-trọng và cấp-thiết như thế, thế mà nó vẫn tàng-hình như một hồn ma, và phải đợi mãi đến năm 2004 ông Thiện mới có được “ cái may-mắn được nghe nói đến, rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam”.
Tôi không tin rằng một tập tài-liệu, chỉ là giấy mực, có thể chơi trò cút+bắt (trốn+tìm) với Ông Thiện; nhưng tôi thắc-mắc tại sao các bạn đồng-tâm đồng-chí của Ông Thiện, hẳn là vẫn còn và vẫn còn trung-thành chứ, nhất là “một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên nhau trong nhiều năm” lại không có lòng, không có tình, báo tin hay bắn tin cho ông Thiện biết về sự có mặt của tập tài-liệu quý-giá vô-song này, khiến ông phải mất hơn 40 năm mới biết đến nó. Phải chăng trong hơn 40 năm ấy Ông Tôn Thất Thiện không còn liên-lạc với các “cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà” hay là chính họ (“một số chiến-hữu trung kiên”) không còn liên-hệ với ông (vì lý-do nào)?
2) Ông Tôn Thất Thiện viết: “Vấn đề được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển” và “Sau khi đọc xong Chính Đề Việt Nam, phản ứng đầu tiên của tôi (Tôn Thất Thiện)” là: “Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã mất gần 50 năm... tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã viết lên rồi.”
Thắc-Mắc: “Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, từ thập-niên 1940, nhất là trong suốt thời-gian 9 năm cầm quyền từ 1954 cho đến 1963, cũng đã đem hết tim óc ra để, không những tìm cách tiếp-cận, mà còn cố gắng thực-hiện con đường “đưa dân tộc ra khỏi tình-trạng chậm tiến” (Phát Triển Cộng Đồng, Cộng Đồng Đồng Tiến), qua chủ-nghĩa Nhân Vị, thể-hiện bằng Đảng Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng và quốc-sách Ấp Chiến Lược ‒ và chính Ông Tôn Thất Thiện trên cương-vị Giám Đốc Báo Chí và Thông-Dịch-Viên riêng của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm rồi Tổng Giám Đốc Việt Tấn Xã của Đệ Nhất Cộng Hoà, cũng đã tích-cực tham-dự vào quá-trình ấy, trong chế-độ ấy. Thế mà nay Ông Tôn Thất Thiện mới tìm ra được cái may mắn đọc tác phẩm Chính Đề Việt Nam, là “tài-liệu học-tập” về “con đường phát triển dân tộc” và Ông Thiện đã vội kêu lên “ Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn!” Điều này đưa đến giả-thuyết:
Thắc-Mắc: Trong bài viết này, Ông Tôn Thất Thiện đã khiến độc-giả ngỡ-ngàng khi đọc đến tên của một nhân-vật lạ-hoắc đối với đa-số đồng-bào Việt-Nam (mặc dù có thể là một bí-danh trong Đảng Cần Lao?), đó là Tùng Phong, tác-giả của tập tài-liệu “Chính Đề Việt Nam”, “viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng”. Từ đầu đến sát cuối, cái gì cũng Tùng Phong. Nào là Tùng Phong giải-thích, Tùng Phong soi sáng, Tùng Phong cảnh-báo, Tùng Phong dự-đoán, v.v... cứ lặp đi lặp lại mãi cái tên Tùng Phong. Cho đến cuối bài Ông Tôn Thất Thiện mới chịu chêm chú rằng Tùng Phong chính là cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu. Là một ngạc-nhiên thú-vị, nhưng điều thắc-mắc của tôi lại càng gia-tăng. Ông Thiện viết: “Lúc đó (2004), vấn đề gặp một số trở ngại về danh tánh của tác giả.” Theo tôi, Ông Ngô Đình Nhu, dù có kẻ tôn lên là “kiến-trúc-sư” của nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà, là “đầu não” của Chủ Nghĩa Nhân Vị, là “cha đẻ” của Quốc Sách Ấp Chiến Lược, v.v... nhưng có người đã phản-bác, phủ-nhận; tuy nhiên, dù sao Ông Nhu cũng đã là Tổng Bí Thư của Đảng Cần Lao, Cố Vấn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một nhân-vật lịch-sử, thì tại sao lại không chịu đề tên thật của tác-giả tập tài-liệu ngay từ đầu là Ngô Đình Nhu, nhất là sau khi Đệ-Nhị Cộng-Hoà cũng đã không còn, và Ông Thiện cùng các “chiến hữu trung kiên” thì cũng đã được sống trong Thế-Giới Tự-Do từ ngót 30 năm nay rồi? Phải chăng cái tên Ngô Đình Nhu vẫn còn có thể gây dị-ứng gì trong lòng độc-giả quần-chúng? Hơn nữa, mãi đến năm 2004 mà Ông Thiện còn viết là việc xuất-bản tập tài-liệu ấy vẫn “gặp muôn vàn khó khăn”: Phải chăng “Nhóm chủ trương” bị ai làm khó dễ? hoặc “Nhóm chủ trương” không quyên góp đủ tiền để thuê in?
4) Ông Tôn Thất Thiện viết: “Những kết luận của Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu) đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay, 2009, có thể nói là tiên tri. Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi học ở Trường L.S.E. (London School of Economics)”
Thắc-Mắc: Qua đoạn văn này, Ông Tôn Thất Thiện đã tự mâu-thuẫn:
Như thế, phải chăng tập “Chính Đề Việt Nam” này là tuyển-tập những bài viết của các “phụ tá thân cận” và người hâm-mộ của cố Cố Vấn, (“nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu”) chứ không thực-sự là bài viết của Ông Ngô Đình Nhu, mà họ muốn cho độc-giả tưởng là của Ông Nhu, nên họ cùng nhau gán hết cho Tùng Phong là tác-giả, rồi cuối-cùng để cho Ông Thiện chêm một cái chú trong hai dấu ngoặc rằng Tùng Phong là Ngô Đình Nhu?
2. Ông Tôn Thất Thiện đã viết rất nhiều về tình-hình Trung Cộng xâm-lấn Việt-Nam hiện nay, và đặc-biệt là đã viết ở trong hai dấu ngoặc kép, tức là trích lời của chính Ông Ngô Đình Nhu như sau: “Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu) nhận xét rằng: miền Bắc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ”.
Ông Thiện đã giới-thiệu rằng “Tùng Phong (Ông Ngô Đình Nhu) soạn tài liệu này vào khoảng những năm 1957-1960” (có nơi Ông Thiện lại viết: “ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962”), mà dù cho đến ngày 2-11-1963 là ngày ông mất, Nga Sô cũng vẫn còn bình chân như vại, nếu không muốn nói là đang đe-doạ cả thế-giới, thì làm sao mà có mấy chữ “Nga Sô đã bỏ” (chủ nghĩa cộng sản)? Phải chăng tập “Chính Đề Việt Nam” này mới được viết ra không chỉ sau ngày chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hoà, mà còn vào đầu thế-kỷ 21 này?
3. Ông Tôn Thất Thiện mới được đọc “Chính Đề Việt Nam” sau khi tập tài-liệu này đã thành-hình rồi, tức là Ông Thiện chỉ viết bài giới-thiệu (“Phụ Giải”), mà bài giới-thiệu thì tóm tắt hầu hết nội-dung toàn tập, ca-tụng nó là “một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn” và đánh giá nó là “một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại” Như thế tức là nhờ có Ông Thiện mà tập tài-liệu này mới được “ra đời” công-khai, chính-thức và “sáng giá” đến thế.
Phải chăng Ông Tôn Thất Thiện không chỉ tô son hình-ảnh của cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu để phục-hồi vang-bóng một thời của chế-độ Ngô Đình Diệm (“Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam... uy tín của chế độ Đệ Nhứt Cọng Hoà... sẽ được công nhận” và “nhằm khởi động sức phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay”) ‒ mà Ông Thiện còn muốn tự giới-thiệu mình như một nhân-vật của thời-thế:
* vừa là “phụ-tá tín-cẩn và kiên-trung của cố Tổng-Thống Diệm”, để quy-tụ và lãnh-đạo “những người còn lại của Đệ Nhất Cộng Hoà” (“nhóm thân hữu” không nhờ người khác mà lại nhờ Ông Thiện viết bài “Phụ Giải”) ;
* vừa được Đệ-Nhị Cộng-Hoà trọng-dụng (không bị sa-thải sau cuộc Cách Mạng 1-11-1963 mà còn được mời làm Tổng-Trưởng Bộ Thông-Tin, một chức-vụ cao hơn), để được sự ủng-hộ của các giới hậu-Ngô;
* vừa không bị kỳ-thị mà còn được mời khai-lập và đảm-trách Khoa-Trưởng Khoa Xã-Hội tại Viện Đại-Học “Vạn Hạnh”, để được lòng của đồng-bào Phật-Giáo-Đồ;
* vừa sống theo truyền-thống của Đạo Nho bên nội và chịu ảnh-hưởng của Cửa Thiền bên ngoại, để phù-hợp với đời sống tâm-linh của phần đông người mình;
* vừa áp-dụng chủ-trương của nhà cách-mạng Phan Chu Trinh, là văn-hoá & kinh-tế đi trước chính-trị (ưu-tiên cho dân-trí mở-mang & dân-sinh tiến-bộ, trước cả dân-quyền độc-lập: hãy cải-tiến giáo-dục, nới rộng tự-do và nâng cao mức sống của người dân, rồi hãy thay-đổi chính-quyền), điều đó trấn-an phần nào các nhà cầm quyền trong nước hiện nay, đồng-thời đi sát với lộ-trình “diễn biến hoà bình” của Hoa Kỳ, trong lúc Ông Tôn Thất Thiện đã được Mỹ, qua Đại Sứ Ellsworth Bunker, khẳng-định rằng Ông Thiện (tuy thuộc Lực Lượng Thứ Ba, chống cả chủ-nghĩa thực-dân lẫn chủ-nghĩa cộng-sản) là “một trong những người chỉ-trích Hoa-Kỳ và chính-phủ VNCH một cách sáng-suốt và hùng-hồn nhất, nhưng vẫn là một nhân-vật có khả-năng, nghị-lực và tinh-thần ái-quốc, và dĩ-nhiên là không chống Mỹ”, hẳn là không gặp khó-khăn gì với Chú Sam;
* vừa quen biết với hầu hết các khuôn mặt chính-trị, quân-sự, kinh-tế, tình-báo, truyền-thông của Thế-Giới Tự-Do liên-quan đến Việt Nam từ cuối thế-kỷ trước, có sẵn tư-thế dễ-dàng giao-tiếp với ngoại-bang;
* vừa đã tự mình thực-thi (chứ không phải là chỉ hô-hào hay hứa-hẹn suông) chính-sách tự-do (bãi bỏ chế-độ kiểm-duyệt, tạo hoàn-cảnh cho người dân được tự-do chỉ-trích, kể cả truy-cố, thậm-chí chửi-bới Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà thành-tích ấy được vinh-danh bằng giải thưởng Magsaysay), đó là nhu-cầu cấp-thiết và là mục-tiêu tiên-quyết của cuộc tranh-đấu chung cho Việt Nam ngày nay?
2- Song le, dưới đây là một số kết-luận của Ông Tôn Thất Thiện và “nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu”, viết rõ trong bài “Chính Đề Việt Nam” (trích đoạn ở trong ngoặc kép), chứ không phải là của tôi:
Ông Ngô Đình Diệm Biết Làm Thơ? (Thanh Thanh)
Ngô Đình Diệm (Lê Xuân Nhuận)
Ấp Chiến Lược (Lê Xuân Nhuận)
Johnson gọi Diệm là “Thằng nhãi” (Lê Xuân Nhuận)
Lại "Chín Năm Bên Cạnh TT Ngô Đình Diệm"! (Lê Xuân Nhuận)
Ông Bà Ngô Đình Nhu Dưới Mắt Người Đời (Lê Xuân Nhuận)
Đọc bài viết của Ông Tôn Thất Thiện (Lê Xuân Nhuận)
Chế Độ Ngô Đình Diệm: Từ Hiến Pháp Phi Dân Chủ... (Nguyễn Kha)
Tôn Thất Thiện: Cần thẩm định lại giá trị của Ông Ngô Đình Diệm & nền Đệ nhứt Cộng Hòa (Tôn Thất Thiện)
Trả lại sự thật cho lịch sử (Vtruong2602)
Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy (Phạm Viêm Phương, Mai Sơn dịch)
Về Đề Nghị Xây Tượng Ngô Đình Diệm (Ca Hát)
Cách Mỹ Chọn Đồng Minh Tại Châu Á: Trường Hợp NĐD (Lý Nguyên Diệu)
HẠ TRẮNG * NHỔ LẠI LIẾM
Nhổ ra rồi lại liếm vào như chơi
BILL HAYTON * TRUNG QUỐC
01/04/2017
Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?
Danh sách của đô đốc
Quyền “lịch sử”
Hoang tưởng lịch sử
VŨ ĐÔNG HÀ * PHÚC NGHỂN
Chú Phúc còn muốn Đi-Mỹ không?
Thế là chú Lê Hải Bình bị chú Phúc đá văng ra khỏi chức loa rè ngoại giao và thay thế bằng loa mới là mợ Lê Thị Thu Hằng.
VIETTUSAIGON * NGƯỜI MẸ
Xin cúi đầu trước một người mẹ
Có thể nói rằng chị Nguyễn Thị Như Quỳnh ở vị trí đặc biệt nhất trong số 13 người được trao giải. Bởi hai lý do: Tình cảnh của chị hiện nay và; Chị là người sống trong một đất nước mà ở đó có quá nhiều thứ đặc biệt, công cuộc đấu tranh của chị cũng là một công cuộc đặc biệt.
Nói về tình cảnh của chị Quỳnh, kể từ lúc bị bắt cách đây hơn 5 tháng đến nay, dường như mọi thông tin về chị đều bặt vô âm tín với gia đình. Mẹ của chị Quỳnh, bà Lan đến thăm con thì lần nào cũng chỉ được đến trại giam để gởi quà chứ không đuộc gặp mặt dù chỉ 1 giây.
Bà nhiều lần thắc mắc tại sao không cho bà gặp con thì phía công an chỉ trả lời là “bình thường”, lần nào cũng như lần nào, họ đều trả lời ‘bình thường”. Bà Lan lại lủi thủi quay về. Có lần, Mẹ Nấm có viết mấy dòng lên tờ giấy gói quà gởi ra cho bà Lan, công an đã dùng bút xóa, xóa lên hai mặt khiến cho bà không tài nào đọc được. Một lần nữa, bà lại hoang mang, lo lắng và đau khổ.
Và trong lúc chị Quỳnh bị giam giữ không có lý do, bà Lan vừa phải đấu tranh đòi trả tự do cho con gái, vừa phải nuôi hai đứa cháu ngoại là bé Nấm và cu Gấu. Vừa làm bà ngoại lại vừa làm mẹ của hai đứa cháu ngoại còn nhỏ, vừa phải làm bảo mẫu dỗ dành khi hai đứa bé khóc đòi mẹ. Sự khổ nhọc, sức chịu đựng và đức hi sinh cho con cháu của bà khiến cho bất kì ai chứng kiến đều phải thốt lên “Ôi chao, bà như thế này thì nhất định con gái bà phải làm được việc lớn rồi!”. Tôi cũng không ngoại lệ, tôi từng nói với bà là “cô ơi, cô là một người mẹ của những đứa con vĩ đại, được làm con của cô là một may mắn và hạnh phúc!”.
Đáp lại, bà chỉ cười nhẹ, hiền từ “Thôi mà con, làm mẹ thì ai mà chẳng thương con, thương cháu, vả lại, Quỳnh nó làm việc chính đáng, làm việc vì xã hội thì có chết cô cũng ủng hộ và đồng hành với nó. Chứ nó làm quan, tham nhũng hay ức hiếp người khác thì…” (cười). Tôi vớt vát “Nhưng mà đã là con của cô thì sẽ không bao giờ có loại người đó!”. Bà lại cười, nụ cười hiền từ nhưng đầy vẻ kiên nghị, đoan chính của một người mẹ, tôi chỉ biết nói như vậy!
Và cũng qua bà Lan, tôi mới hiểu thêm rằng dường như gia đình bà trở nên đặc biệt là nhờ bà tất cả (cũng có thể là nhờ chị Quỳnh tác động đến bà khi chị tham gia các hoạt động đấu tranh dân chủ, tự do…). Hiếm có người phụ nữ nào vừa tuổi cao sức yếu, tay xách nách mang đứa cháu đến lớp, mang quà thăm con gái trong trại giam, lo liệu bếp núc, làm kiếm tiền mua mớ rau, lát thịt, miếng đậu hủ… mà lại hiểu biết về xã hội một cách sâu rộng như bà. Chuyện cá chết, biển chết, thực phẩm độc hại thì ai cũng biết. Nhưng để thông cảm và thấu hiểu như bà thì có lẽ hiếm, nhất là khi tuổi đã cao, người ta thường lo lắng cho sức khỏe bản thân, sợ trái gió trở trời, sợ nhiều thứ. Bà thì không sợ gì ngoài việc sợ con gái của mình dang dở công việc.
Và công việc mà bà đang đồng hành cùng con gái bằng cách này hay cách khác, hiện tại cũng dang dở thực sự bởi cái hệ thống đối lập với những người như con gái bà, họ đang nhân danh chính thống, nhân danh quyền lực để một tay che mặt trời, để mặc cho ngư dân miền Trung đau khổ, rên xiết. Tôi là người tiếp xúc với ngư dân khá nhiều. Đôi khi tôi phải rùng mình ớn lạnh bởi đời sống cũng như sự bức xúc của ngư dân.
NS. TUẤN KHANH * RÁC
Rác của một thời
Trong những bức ảnh được giới thiệu trên mạng xã hội, người ta nhìn thấy đoàn quân ô hợp của ông Hải, phó chủ tịch quận 1, đã chuốt nhọn và nham nhở bậc tam cấp của quán café Starbuck nằm ở ngã sáu Phù Đổng Thiên Vương. Bức ảnh nói thật nhiều điều về một chiến dịch thị uy và duy ý chí, phia trước là sự hài lòng vô minh của một nhóm người, và phía sau là tiếng thở dài của đám đông.
Cuối tháng ba, những dòng tin vội vã và ít ỏi cho biết ông Hải tạm dừng các chuyến hành quân “dọn dẹp” của mình, lừng lẫy không khác gì các cuộc tuần tiễu trên biển Đông. Có bình luận là do công việc đã thành công bước đầu và ông Hải giao lại cho các quận. Nhưng cũng có lời bàn rằng ông Hải phải thu mình lại, trước những chỉ trích không vừa và các dấu hiệu sai phạm ngày càng lộ rõ.
Cơn mưa chiều tháng Ba quá lớn, tạt ướt cả khoảng nhà trước của một người dân trên đường Hồng Thập Tự cũ. Vừa che, vừa lau, người đàn ông này liên tục quát lên một mình “mẹ cha tụi nó, cái mái hiên xếp thì có ngăn cản gì vỉa hè mà tụi nó ập vô tháo rồi lấy?”.
Trong những bức ảnh ghi lại về chiến dịch này, có hình ảnh một cụ già ngồi im lặng nhìn bậc tam cấp của nhà hát Nguyễn Văn Hảo có gần trăm năm bị đập đi. Bức ảnh gợi nhớ một truyện ngắn của Pearl Buck (1892-1973) về một chiến dịch dọn dẹp nhân danh phát triển ở Trung Quốc, mà một cụ già ngồi nhìn những ngổn ngang gạch đá bị đập phá trong hiện thực của mình và ngơ ngác lắng nghe giấc mơ của những nhà làm chính trị. Cụ già không hiểu. Cụ khóc. Với cụ, chính trị cùng mọi thứ đó cũng chỉ là rác.
Mọi người dân Sài Gòn đều yêu thành phố của mình. Và chắc chắn ai cũng vỗ tay cho một đổi thay thiết thực và hợp lý cho thành phố mà mình đang sống. Nhưng khi vỗ tay, có không ít người chậm nhịp dần, buông xuôi vì nhận ra rằng đằng sau của tiếng hô đầy âm điệu chính nghĩa ấy, là những điều gì đó rất chính trị. Loại chính trị xa vời đời sống của người dân. Loại chính trị cũng như rác.
Chiến dịch dọn dẹp ấy làm dậy lên những lời bàn từ vỉa hè, có thể không hoàn hảo như một chứng cứ, nhưng đó là những lời bàn từ lòng dân bật ra, cũng không kém thú vị để lắng nghe.
Trong chiến dịch đập phá của một người miền ngoài trực tiếp chỉ huy, người ta nhìn thấy có bóng của vị bí thư - cũng ở miền ngoài - đang nắm quyền lực ở Sài Gòn. Chiến dịch như một phương án tái cấu trúc lại quyền lực giữa một tình thế mà người có quyền ấy cảm thấy không vui vì sự bất phục ở chung quanh.
Ông Hải là một giải pháp phá băng, và thị uy, và phần nào giúp giải tỏa được những sự tức giận của vị bí thư cảm giác mình lạc lõng. Thậm chí, chính ông Hải cũng là người lạc lõng đáng thương khi tự mình đương đầu với tất cả trong chiến dịch, trong cơn bão phản ứng từ mọi phía. Trong cuộc họp giao ban ngày 11/3, khó chịu vì các quan chức địa phương ở Sài Gòn thiếu hợp tác với ông Hải, bí thư Thăng phải lớn tiếng “Các anh phải xuống đường, đồng hành cùng ông Hải, đừng để dư luận bức xúc”. Có vẻ như nhiều quan chức Sài Gòn không muốn dính vào các hoạt động bị nhiều bình luận là “bất nhân” ấy.
Trong bối cảnh Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn đều bị đồn đoán là có hệ thống cát cứ - và nếu có - thì ắt hẳn Sài Gòn như đang sở hữu một tính “cát cứ” rất riêng và thâm trầm của mình. Đến lúc này, người ta phải tự hỏi là không biết là báo chí ở TP đã cỗ vũ nhiệt tình cho chiến dịch chỉ tay của ông Hải, hay là vô hình trung lẳng lặng thu thập các chứng cứ bất lợi cho ông Hải, bao gồm cả những phát ngôn có thể bị khởi kiện về Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.
Và có vẻ như đòn quyết định được tung ra vào ngày 26/3, khi có nhận định rằng những việc làm của ông Hải, thông qua sự yểm trợ của ông Thăng là “không có luật pháp”, được phát đi từ trang cá nhân của ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Việt Nam, Con trai trưởng của cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh. 3 ngày sau lời nhận định mạnh mẽ và trực tiếp bất ngờ này, ông phó chủ tịch quận 1 tuyên bố tạm dừng.
Lời nhắn của ông Lê Mạnh Hà ghi rằng “Thế kỷ 21 mà vẫn còn nghe tiếng búa đập vào văn hóa của Hồng vệ binh, nhưng ghê rợn hơn bởi tiếng hò reo ủng hộ từ những tờ báo mạng” có một sức mạnh khó lường. Lý do không phải chỉ bởi từ một người có chức vụ cao trong hệ thống, mà quan trọng vì ông Hà được coi là một người hết sức liêm khiết trong bộ máy. Sự lên tiếng này, không khác gì đòn điểm huyệt vào chiếc đồng hồ Patek Philippe và chiếc điện thoại Vertu mà ông Hải đã im lặng tháo đi ngay trong những ngày đầu.
Ông Hà viết “người ta coi dân như kẻ thù, vỉa hè như chiến trường, TPHCM như trong thời chiến và không có luật pháp”.
Vang lên từ vỉa hè, sau những tiếng búa tiếng chày nện đinh, người ta nói rằng có thể đó là lương tâm của những người có trách nhiệm trước viễn cảnh Sài Gòn hoang tan bật lên tiếng. Nhưng cũng có người nói rằng đó là những phần phông màn phía trước của các câu chuyện thâm sâu khó lường đang diễn ra trước Hội nghị Trung ương 5, khóa 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 5 sắp tới. Dĩ nhiên đó chỉ là những lời bàn từ vỉa hè, như một loại rác của thời, rác của cuộc đời, rác của chính trị.
Dĩ nhiên, trong chiến dịch của ông Hải, không phải là không có người thật sự ủng hộ. Sau 42 năm, chứng kiến sự bất toàn và bất nhất trong việc lãnh đạo, người dân Việt Nam nói chung đã quá mệt mỏi và luôn bừng dậy trước một hình ảnh nào đó mang lại cho họ hy vọng rằng sự tốt đẹp nhất đã đến. Thậm chí, để được tốt đẹp, họ chấp nhận những sai lầm ban đầu của những người dám làm. Thật không có gì tàn nhẫn hơn khi lợi dụng sự khổ đau của con người Việt Nam đang vọng về một tương lai tốt đẹp hơn, rồi mị dân, dẫn dắt họ đi về những lý lẽ biện luận lạc lối với nền văn minh và luật pháp.
Và trong các chiến dịch pha màu sắc dân túy cực hữu như vậy, luôn có một đám đông được sinh ra, loạn lạc và tự diệt trong những sự điên cuồng ủng hộ và điên cuồng đập phá. Thời của Hitler, để có một đám đông “ghê rợn” như ông Lê Mạnh Hà mô tả, nước Đức đã tạo ra các đoàn thanh niên Quốc xã như Deutsches Jungvolk và Bund Deutscher Mädel. Thời của Mao Trạch Đông, cũng có những đám đông “ghê rợn” như vậy từ Hồng Vệ Binh.
Trong lịch sử, từ những câu chuyện và con người đã đi qua hỗn loạn ấy, chiến dịch ấy… - nếu chúng ta lùi lại để ngắm nhìn – thì thấy mọi thứ đều chỉ là rác của một thời.
Cám ơn cơn mưa tháng Ba. Làn gió mát và những dòng nước như đang cố rửa sạch rác rưởi còn lại từ những ngày qua. Sài Gòn, thành phố của chúng ta vẫn còn đó, dù như thế nào đi nữa, thì hôm nay đã lại dầy thêm trong lịch sử hơn 300 năm thăng trầm, về những chuyện kể từ vỉa hè. Chuyện kể về rác của một thời.
SƠN TRUNG * VÔ SẢN ĐOÀN KẾT
I. CỘNG SẢN VÀ VÔ SẢN
Kết thúc Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx kêu gọi:Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
Thời Marx cho đến Lenin,Stalin, chỉ có nước Anh với cách mạng khoa học, kỹ thuật, đã tiến lên thành một nước tư bản chủ nghĩa, còn Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc vẫn còn là những quốc gia chậm tiến với kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Nói đúng ra, Pháp, Đức, Nga... đang bắt chước nước Anh mà khởi đầu xây dựng tư bản chủ nghĩa. Nhìn chung, giai cáp thợ thuyền các nước chỉ chiếm khoảng 1% dân số.Chính Marx cũng công nhận điều này khi ông viết trong Tuyên Ngôn Cộng sản "Trong những nước như nước Pháp, ở đó nông dân chiếm quá nửa dân số..(TNCS III.B. Chủ Nghĩa Xã Hội Tiểu Tư sản)
Theo Đào Duy Anh, lực lượng thợ thuyền Việt Nam thời Pháp có khoảng 150 ngàn (Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, 68). Theo Nguyễn Thế Anh , lực lượng thợ thuyền có khoảng 200 ngàn kể cả trẻ con.
Nguyễn Thế Anh cho rằng những con số trên chỉ có một giá trị tương đối: chúng chỉ bao gồm số công nhân được dùng trong các xí nghiệp tư bản Pháp chứ không kể đến số người làm việc trong những xí nghiệp kỹ nghệ, thương mãi hay nông nghệ Hoa kiều hay của người Việt, chúng lại không bao gồm các công nhân giao thông. hầu hết là phu bắt ở các đia phương, trả theo công nhật. Mặt khác, đa số công nhân không phải là thợ chuyên nghiệp, mà chỉ làm phu, làm thợ theo từng giai đoạn mà thôi. ( Việt Nam Dưới Thời Pháp Thuộc, Lủa Thiêng, 1970, 256).
Lúc bấy giờ dân số Việt Nam là 20 triệu. Theo như tài liệu Nguyễn Thế Anh, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1% dân số. Nếu tính theo Marx và Engels, nghĩa là loại bỏ công nhân nông nghiệp, công nhân thương mại, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ có khoảng 100 ngàn mà thôi, tức là chiếm tỷ lệ 0,5% dân số . Giai cấp công nhân Nga và Trung Quốc có lẽ cũng tương tự.Ngay tại Nga và Trung Quốc đều chưa có giai cấp tư sản và vô sản như Marx quan niệm. Và cuộc khởi nghĩa tháng 10 Nga là do toàn dân, lực lượng chủ yếu là trí thức và nông dân nổi dậy lật đổ Nga hoàng chứ không phải là cách mạng vô sản vùng lên tiêu diệt tư sản như Marx mong muốn.
Về con số thì quá ít mà về ý chí tranh đấu cũng không có. Chính giai cấp tiểu tư sản, hay nói đúng hơn giai cấp trí thức đã kích thích, xúi dục thợ thuyền đứng lên tranh đấu. Bọn trí thức và con quan lại đã dùng công nông làm lực lượng quân sự mà chiếm quyền. Họ cũng dùng chiêu bài dân tộc để kêu gọi quần chúng. Cộng sản chỉ thành công tại các nước nghèo đói và bị thực dân cai trị. Còn tại các nước văn minh , giàu mạnh, công nhân thờ ơ với chủ thuyết cộng sản.
Trong hàng ngũ cộng sản đầu tiên, hầu hết là con cái địa chủ, phong kiến, hay thợ thuyền cá thể. Ấy thế mà nhờ tài tuyên truyền xảo quyệt, Marx đã đưa "hồn ma " cộng sản trở thành những âm binh,những cương thi, những con thú khủng bố và tàn hại nhân loại.
Cộng sản là một đảng phản loạn, gồm những tay phiến loạn chuyên nghiệp (1) và lưu manh, với đường lối bất chấp nhân nghĩa. (2)
Người Trung Quốc và Việt Nam nghĩ giai cấp vô sản là giai cấp nghèo (ai mà chẳng nghèo). Người cộng sản còn lợi dụng danh từ giai cấp lao động ( ai mà chẳng lao động). Người cộng sản còn gọi vô sản là giai cấp thợ thuyền cho nên thợ mộc, thơ nề, thợ hoạn lợn...) đều cho mình là giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. Trong kháng chiến, đa số người Việt tin rằng mình là giai cấp vô sản được đảng chiếu cố, nhưng sau 1954, mâm cỗ bày ra, họ bị gạt ra ngoài, vì họ không được đảng cho là giai cấp vô sản.Trong kháng chiến, đa số người Việt tin rằng mình là giai cấp vô sản được đảng chiếu cố, nhưng sau 1954, mâm cỗ bày ra, họ bị gạt ra ngoài, vì họ không được đảng cho là giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản bây giờ mới đem định nghĩa của Engels, giai cấp vô sản là giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là giai cấp vô sản có trình độ lao động công nghiệp cao, là đứa con của nền đại công nghiệp hiện đại (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1995, tập 2, trang 393).
Nói rõ ra giai cấp vô sản là một số người phải có nhiều kiện, chứ không phải ai cũng là thợ, ai cũng là vô sản, ai cũng là giai cấp công nhân.
(1). Làm việc cho tư bản trong lãnh vực công nghiệp là giai cấp công nhân công nghiệp. Như vậy, thợ thiến heo ( như bác Đỗ Mười) , thợ quét vôi ( như cụ Võ Chí Công) , thợ mộc, thợ nề là thợ cá thể, làm việc trong các xóm làng, không phải trong các hãng ,các công xưởng như làm trong nhà máy dệt Nam Định hay hãng Bason? Bác Hồ con nhà phong kiến, làm bồi tàu, không phải là công nhân. Trần Quốc Hoàn nguồn gốc là vô sản lưu manh! Cộng sản kê khai lý lịch láo toét. Thân phụ bác Hồ làm quan say rượu sai lính đánh chết người lại bảo là ông bị sa thải vì chống Pháp.
Phải có tay nghề cao. Như vậy đàn bà, trẻ con phụ việc, không phải là công nhân.
Về thành phần giai cấp, ta thấy có nhiều điều trớ trêu:
(1). Như đã nói, bọn trí thức, con nhà tư sản, địa chủ, phong kiến thành lập đảng cộng sản chứ đảng cộng sản lúc đầu không do công nhân đích thực lãnh đạo. Đa số lãnh tụ đảng đều không thuộc giai cấp vô sản. Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng con nhà quan lại, không phải là công nhân...Một số đảng viên con nhà bình dân như Tôn Đức Thắng, Đỗ Mười, Võ Chí Công, Trần Quốc Hoàn...là về sau mới được kết nạp cho có mùi vô sản, và cũng vì bọn này có thành tích giết người hơn tất cả!
(2).Đảng cộng sản do trí thức con nhà tư sản, phong kiến mà lại kết tội tư sản, phong kiến và trí thức như Marx, Engels, Lenin, Hồ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng , Pol Pot..Họ cũng trí thức, con nhà tư sản, phong kiến thì họ có quyền gì giết, bỏ tù các trí thức, các gia đình quan lại, các nhà tư sản,và địa chủ ?
Hàng chục ngàn đảng viên cộng sản bi giết và thanh trừng trong CCRD và Chỉnh huấn đau phải là ngụy quân, ngụy quyền và tư bản bóc lột?
Khoảng một triệu người bị giết, tra tấn, tù đầy và vợ con họ cũng bị trừng trị trong CCRD thì họ có tội tình gì?Nhất là trong số đó có những tư sản dân tộc, tư sản cách mạng, và trung nông, bần nông bị đôn lên cho đủ chỉ tiêu 5% dân số, là "dấu tranh giai cấp" ư?
Cộng sản khác vô sản vì Marx cho rằng cộng sản lãnh đạo, và giáo dục vô sản ( vì vô sản ngu quá phải không?), còn vô sản là tay sai, là nô lệ của đảng, là thành phần bung xung cho cộng sản lợi dụng.
Trong phần IV Tuyên Ngôn Cộng Sản, Marx viết:" ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên[7] về mặt lý luận, và về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nh bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản.
Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền.
Những người cộng sản bảo vệ và đại biểu cho tương lai của phong trào... Nhưng không một phút nào Đảng cộng sản lại quên giáo dục cho công nhân một ý thức hết sức sáng rõ về sự đối kháng kịch liệt giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản (Tuyên Ngôn Cộng Sản).
Qua tuyên bố trên của Marx, ta thấy Marx đã phân biệt công sản với vô sản. Cộng sản là chủ, công nhân là nô, cộng sản là giai cấp cai trị, công nhân là giai cấp bị trị.
Tuy vậy, trong văn bản cũng nhưng trong thực tế, Cộng sản nhập nhằng và giả dối khi vỗ ngực xưng là giai cấp công nhân. Thực tế công nhân ngàn đời vẫn là công nhân, giai cấp bị bóc lột ngay cả trong chế độ cộng sản, mặc dầu một số công nhân, nông dân đã gia nhập đảng cộng sản rồi trở thành tư sản đỏ!
Ở đây, chúng ta chỉ nói đến cộng sản. Vô sản đoàn kết nghĩa là cộng sản đoàn kết! Đây là một ý niệm tốt vì đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Nhưng đoàn kết để xây dựng hòa bình và phát triển thì tốt, còn đoàn kết để giết người cướp của là tội ác. Cộng sản nói rất hay nhưng thực tế khác hẳn. Thực tế cộng sản chia rẽ nhau, tranh giành nhau và tàn hại nhau. Lịch sử đảng Cộng sản là lịch sử máu tanh. Người cộng sản giết đồng bào và giết cả đồng chí của họ gây nên cảnh núi xương, sông máu, tàn ác gấp mấy Đức Quốc xã. Thành tich của họ theo Sách Đen (Le Livre noir du communisme) khoảng 100 triệu người đã bị giết dưới các chế độ cộng sản, cao hơn cả dưới chế độ Đức Quốc xã là 25 triệu người.
II. ĐOÀN KẾT BẰNG CÁCH NÀO?
Các tôn giáo, đảng phái, thế lực quân sự dùng lời hay ý đẹp để quảng cáo. Cộng sản cũng quảng cáo và tuyên truyền tuyệt đỉnh dối trá. Nhưng phần lớn họ không dấu diếm chủ trương tàn ác của họ như " đấu tranh giai cấp", " vô sản chuyên chính"...Một số trí thức chứ không phải dân ngu như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Albert Camus, J. Paul Sartre chạy theo cộng sản trong khi đa số nhân dân và đảng viên chống đối cộng sản. Lenin, Stalin biết đa số loài người thù ghét cộng sản cho nên tìm cách trói buộc cộng sản thành một khối "đoàn kết". Cộng sản sợ phản động, sợ chống đối, sợ diễn biến hòa bình bằng cách dùng tuyen truyền xảo trá và bạo lực để bắt dân chúng và đảng viên cúi đầu.
Cộng sản cần kỷ luật sắt, cần bàn tay sắt, cần bịt miệng người khác, cần thanh toán tất cả mọi người vì họ nghĩ rằng họ theo đúng chủ trương bạo lực cách mạng của Marx, và vô sản chuyên chính của Lênin. Đó là họ theo đường lối bá đạo của Tần Thủy hoàng và các bạo chúa khác dùng võ lực và thể chế hà khắc để cai trị nhân dân. Tập trung tài sản, tập trung quyền lực là sức mạnh vô đich, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã cùng chung một chí hướng.Nói chung, Cộng sản bắt nhân dân và đảng viên phục tòng tuyệt đối trong cái vòng kim cô "đoàn kết".
1. KỶ LUẬT SẮT
Lenin và Stalin mượn cớ kỷ luật để bắt mọi người tuân phục họ.Lenin đặc biệt nhấn mạnh điều này trong tiến trình cách mạng (Trong Luận cương Hội nghị thứ II Quốc tế cộng sản, phần “Điều kiện kết nạp vào Quốc tế Cộng sản”):
“Trong giai đoạn nội chiến khốc liệt hiện nay đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình nếu được tổ chức một cách tập trung nhất, trong đảng phải có kỉ luật sắt, bên cạnh kỉ luật thời chiến, nếu ban chấp hành trung ương là cơ quan quyền lực có uy tín, được giao quyền lực rộng rãi và nhận được sự tin cậy của các đảng viên”
Stalin còn nói thêm:
“Trong điều kiện cuộc đấu tranh trước khi giành được chính quyền chuyên chính, kỉ luật đảng đã là như thế. Sau khi giành được chính quyền kỉ luật đảng càng phải được nâng cao hơn nữa. Tinh thần cảnh giác cách mạng, những đòi hỏi cấp bách về sự thống nhất về mặt tư tưởng, tính đặc thù về chính trị và tư tưởng, chủ nghĩa tập trung, tất cả những điều đó đã không biến mất sau khi giành được chính quyền mà ngược lại ngày càng trở thành gay gắt hơn, trầm trọng hơn.”(GIAI CẤP MỚI II,3).
2.THỐNG NHẤT TƯ TƯỞNG
Bên cạnh việc nêu cao kỷ luật, cộng sản còn hô hào việc thống nhất tư tưởng. Đó cũng là một cách nói văn hoa để che đậy tính độc tài của Cộng sản.
Milovan Djilas viết:"
Hậu quả của sự thống nhất về tư tưởng thật là tai hại: nền chuyên chế của Lenin dĩ nhiên là khắc nghiệt, nhưng nó chỉ trở thành toàn trị dưới trào Stalin. Việc chấm dứt cuộc đấu tranh tư tưởng trong nội bộ đảng đã dẫn đến sự tiêu diệt tự do trong toàn xã hội. Sự bất dung đối với các trào lưu tư tưởng khác và việc khăng khăng khẳng định tính khoa học giả tạo của chủ nghĩa Marx-Lenin đã tạo ra sự độc quyền tư tưởng của ban lãnh đạo chóp bu của đảng và cuối cùng là sự thống trị tuyệt đối của nó đối với xã hội. [. .].
Việc diệt trừ các quan điểm khác nhau trong ban lãnh đạo đảng tự động dẫn đến việc loại bỏ các trào lưu, xu hướng trong nội bộ phong trào và như vậy đồng nghĩa với việc giết chết dân chủ trong các đảng cộng sản. Trong chế độ cộng sản “lãnh tụ là người biết tuốt” đã trở thành nguyên tắc: những kẻ có quyền dù ngu dốt đến đâu cũng đều trở thành nhà tư tưởng hết. [.. ]. Nhiệm vụ này khó khăn đến nỗi nó đòi hỏi không chỉ thái độ không khoan nhượng đối với các tư tưởng khác và các nhóm xã hội khác mà còn đòi hỏi sự khuất phục của toàn xã hội và sự cố kết của chính giai cấp cầm quyền. Đấy chính là lí do vì sao đảng cộng sản cần một sự ổn định vững chắc về tư tưởng. (GIAI CẤP MỚI IV, 10)
3. TUÂN PHỤC LÃNH TỤ
Cộng sản nói dân chủ nhưng thực chất là độc tài, mà lại là độc tài của ngu dốt. Marx, Lenin, Stalin dù đỗ bằng cấp gì đi nữa cũng không phải là kinh tế gia chuyên nghiệp ấy thế mà bày ra kế hoạch này, kế hoạch nọ là chết hàng chục triệu người! Nói chi đến Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Pol Pot và bọn cán bộ tỉnh, huyện, xã thôn!
Họ ngu nhưng lại tư cao, tự đại, cho họ là trí tuệ đệ nhất hành tinh. Họ tin vào chủ nghĩa Marx là cây gậy thần và họ cũng tin họ có khả năng di sơn đảo hải. Họ bày ra phê và tự phê nhưng cái đó chỉ dành cho tội nhân trước cuộc kiểm thảo. Còn lãnh tụ là anh minh, không bao giờ sai lầm. Do đó họ thù ghét những chỉ trich của nhân dân và đảng viên.
Chủ trương chuyên chính vô sản đã đưa đến việc tôn sùng cá nhân và lãnh tụ trở thành độc tài. . Mao Trạch Đông cũng vậy. Thời quân chủ Á Đông, trong triều có những vị ngự sử có bổn phận chỉ trích vua quan. Trong chế độ dân chủ Tây phương, báo chí có quyền phê bình chính phủ. Trái lại, trong chế độ cộng sản, dân chúng và đảng viên đều phải cúi đầu im lặng.
Quy phục tuyệt đối lãnh tụ là đường lối chung của cộng sản. Đó là tính thống nhất, là mệnh lệnh của đệ tam quốc tế. Trên hết, đảng Cộng sản các nước phải phục tòng Kremlin , coi Lenin, Stalin là đại đế của chủ nghĩa cộng sản quốc tế, và ở các nước, lãnh tụ cộng sản là bậc thiên tử, đảng viên phải tuyệt đối tuân lệnh. Chủ tịch, Tổng bí thư có quyền tuyệt đối, nhân dân và đảng viên không có quyền dân chủ. Dân chủ của dân do cộng sản nắm giữ, là chủ trương mà Stalin gọi là dân chủ tập trung- theo điều 12 của Comintern - . Đây là việc đưa đến độc tài, bóp chết dân chủ, tạo ra việc nịnh hót, tôn sùng cá nhân.
Milovan Djilas viết về niềm tự hào đỉnh cao trí tuệ của họ như sau:
Cách làm đó dựa trên cơ sở lí luận như sau: các lãnh tụ cộng sản tin tưởng rằng họ nắm được các qui luật kinh tế và có thể quản lí sản xuất trên cơ sở các qui luật đó. Nhưng sự thật lại không phải như thế, sự thật là: họ đã chiếm được nền kinh tế và cũng giống như họ đã giành được thắng lợi của cách mạng, một lần nữa điều đó tạo cho họ ảo tưởng dường như tất cả mọi chuyện xảy ra đều là kết quả của phương pháp khoa học tuyệt vời của họ (GIAI CẤP MỚI V ,6)
Nếu ai chỉ trích thì họ nổi giận, cho là chống đối cách mạng, là phản động, là gián điệp CIA, và sẽ bị giết hoặc bị giam trọn đời trong ngục tối.
Họ mang tâm lý của nhà thờ thời trung cổ, tự cho họ là chân lý, còn kẻ khác là tà giáo, cần thanh trừ cho đẹp lòng thượng đế, dù phải lấy máu để tô điểm thiên đường.
Marx cuồng tín và nhiều ảo tưởng.Ông tin rằng vô sản sẽ thành công, sẽ đem lại tự do, ấm no và hòa bình. Người cộng sản lại càng cuồng tín và tự hào về chủ nghĩa Marx bách chiến bách thắng cho nên họ càng say sưa thực hiện các chương trình không tưởng bất chấp tốn nhân tài vật lực và sự phản đối của nhân dân.
Nhưng ảo tưởng lớn nhất chính là ảo tưởng rằng cùng với việc công nghiệp hoá và tập thể hoá nghĩa là cùng với việc thủ tiêu sở hữu tư bản chủ nghĩa, Liên Xô sẽ trở thành xã hội phi giai cấp. Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử (GIAI CẤP MỚI III , 1)
Một khi không thấy mộng trở thành sự thực, bọn lãnh đạo sẽ tìm cách bưng bít, dối trá, còn bọn thủ hạ thì tìm cách nịnh hót, lừa chủ và lừa nhân dân. Lúc này hai bộ phận được sử dụng Thứ nhất là báo chí, đài phát thanh, truyền hình và nhà trường ra sức ca tụng đảng và các chính sách của đảng. Thứ hai, họ dùng quân đội và công an để trừng trị những ai lên tiếng, dù chỉ là tiếng thở dài.
Richard Pipes viết như sau:
. . . tháng 12 năm 1925, đấy là lúc đại hội Đảng thông qua cương lĩnh đầy tham vọng tức là công nghiệp hoá bằng vũ lực. Mà công cuộc công nghiệp hoá này, vì những lí do sẽ được trình bày dưới đây, được hiểu là tập thể hoá nông nghiệp. Vì cả hai mục tiêu này đều có những khó khăn vô cùng to lớn cho nên phải bịt miệng những người bất mãn. Chủ nghĩa Stalin trở thành một lí thuyết nhất quán từ đó và chỉ đứng vững được khi không ai được động đến các thành phần cấu thành ra nó (CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN III , 3)
4.BẠO LỰC, KHỦNG BỐ
Kỷ luật là một cách nói hoa mỹ mà thực tế là bạo lực và khủng bố.
Thường thường, tại các quốc gia khác, sau khi đã cướp được chính quyền, nhà nước mới sẽ nới lỏng bàn tay, trả tự do lại cho nhân dân. Người ta quan niệm việc này rất cần thiết để xây dựng niềm tin cho nhân dân và xây dựng hòa bình. Trái lại cộng sản vẫn tiếp tục dùng bạo lực đối với tất cả mọi người dù cả sau khi cướp chính quyền thành công. Stalin cũng gần như Trotsky quan niệm " cách mạng thường trực", " cảnh giác cách mạng", nghĩa là luôn luôn trấn áp và đề phòng mọi người. Thành thử suốt bao thời kỳ, cộng sản đối xử với đảng viên và nhân dân bằng roi vọt.
Richard Pipes cũng nói đến tính chất cuồng tín đưa đến việc tàn sát, việc diệt chủng của người cộng sản:Đúng như định nghĩa của George Santayana rằng cuồng tín là những người cố gắng gấp đôi sau khi đã quên mục đích chính của mình, những người cộng sản đã lao vào những vụ chém giết điên cuồng. Kết quả là, đi từ Lenin đến Stalin, từ Stalin đến Mao và Pol Pot, chủ nghĩa cộng sản đã để lại trên đường đi của mình cả biển máu những người vô tội.(CHU NGHĨA CỘNG SẢN VI, 4)
Người cộng sản cuồng tín, tin tưởng vào đường lối của Marx, Lenin nhưng khi họ thấy dân chúng không theo họ thì ác niệm nổi lên, họ ra tay tàn sát những ai chống đối họ, hoặc không đứng cùng chiến tuyến với họ. Tâm trạng của họ là tâm trạng của nhà thờ thời trung cổ , và cuộc thánh chiến muốn tiêu diệt những ai chống thượng đế hay không cùng đường lối phụng thờ thượng đế như mình. Và đó cũng là tâm lý khiếp sợ cho nên họ phải tàn sát để trấn áp nhân dân và lòng họ. Simon Sebag Montefiore [5] viết:Năm 1917 Lenin giành được chính quyền ở nước Nga. Sau khi phát hiện ra rằng hàng triệu công nhân và nông dân không chấp nhận tư tưởng mác-xít, ông ta quyết định rằng chỉ có thể giữ được quyền lực cho đảng cộng sản bằng vũ lực, bằng khủng bố và áp bức. Cuối cùng mục đích đã biện minh cho phương tiện. Lenin chính là một tín đồ cuồng nhiệt của chủ nghĩa Marx và vì vậy ông ta đã hạ lệnh bắn giết hàng ngàn người và bỏ cho chết đói hàng triệu người khác, ông ta đã dùng tư tưởng của Marx về tính tất yếu của cách mạng để biện hộ cho những quyết định đó của mình. “Cho bọn nông dân chết đói đi”, Lenin đã nhiều lần nói như vậy. Ông ta còn nói: “Muốn hoàn thành cách mạng mà không bắn giết được ư?”(QUAI VẬT KARL MARX .2)
Trần Độ kết án cộng sản dùng công an trị để đàn áp nhân dân:
một hệ thống các cơ quan an ninh của Bộ công an, Tổng cục II Bộ quốc phòng, Cục an ninh bảo vệ của tổng cục chính trị. Hệ thống này tha hồ lộng quyền theo sát hành vi từng công dân, được trang bị rất hiện đại (và tốn tiền) để tổ chức nghe trộm điện thoại, phá hoại thông tin của công dân. Đảng cộng sản Việt Nam ( TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN IV ,3)
Milovan Djilas nhận định về điểm này:
Để tiến hành cách mạng và công nghiệp hoá một cách nhanh chóng phải cần rất nhiều hi sinh, cần phải có những cuộc thanh trừng dã man, lí trí không thể nào tưởng tượng nổi, để buộc người ta tin vào lời hứa “xây dựng thiên đàng trên trái đất”(GIAI CẤP MỚI, II, 1)
Milovan Djilas viết về chủ nghĩa quân phiệt Liên Xô:
Nhà nước cộng sản được xây dựng trên cơ sở bạo lực và đàn áp, luôn luôn xung đột với nhân dân, cho nên ngay cả khi không có tác nhân bên ngoài thì vẫn là một bộ máy nhà nước quân phiệt. Không ở đâu sự tôn sùng sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh quân sự, lại được đề cao như trong các nhà nước cộng sản. Chủ nghĩa quân phiệt là nhu cầu nội tại của giai cấp mới, là một trong những hình thức tồn tại của nó và đồng thời cũng là tác nhân củng cố đặc quyền đặc lợi của nó.
Là một tổ chức mang tính bạo lực, và khi cần thì chỉ thực hiện vai trò bạo lực, nhà nước cộng sản khởi kì thuỷ là một nhà nước quan liêu. Hoàn toàn phụ thuộc vào một nhóm nhỏ những kẻ cầm quyền chóp bu, cơ quan nhà nước, không ở đâu bằng chế độ cộng sản, tràn ngập đủ các thứ văn bản pháp qui. (GIAI CẤP MỚI 5 ,3)
III. MẶT THẬT ĐOÀN KẾT CỘNG SẢN
Công sản cũng đã hô hào đoàn kết toàn dân nhưng đó chỉ là đoàn kết dân tộc một cách giả dối vì "chuyên chính vô sản" thì đâu có chỗ cho tư sản, trí thức, tính đồ các tôn giáo, thơ thủ công, buôn bán cá thể và nhân dân lao động nói chung. Hơn nữa, điều 2 đệ tam quốc tế quy định đảng đó phải từ bỏ những quan điểm cải lương, hòa bình, và quốc gia. Theo điều 2 của Quy chế Đệ Tam Quốc Tế, tổ chức nào xin gia nhập Đệ Tam Quốc Tế "phải loại trừ tất cả những người có quan điểm cải lương và "đứng giữa" và thay thế họ bằng những người cộng sản". Theo điều 17, Đệ Tam Quốc Tế "cương quyết tuyên chiến với toàn thể thế giớí trưởng giả (bourgeois), và tất cả các đảng dân chủ xã hội". Và theo điều 6, một đảng xin gia nhập Đệ Tam Quốc Tế phải "khước từ mọi tinh thần ái quốc, và cả tinh thần chuộng hòa bình về mặt xã hội". Người cộng sản phải từ chối "dân chủ tiểu tư sản" và phương thức không cách mạng (không bạo động). Do vậy, hòa hợp, hòa giải là không bao giờ có trừ khi cộng sản quá yếu phải dùng tạm chủ trương này để lừa bịp kẻ non dạ.! Vì vậy, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Nguyễn Văn Trấn...giết nhân dân trong vụ Ôn Như hầu, tàn sát các giáo phái và các đảng phái quốc gia, CCRD, Mậu thân Huế...trong suốt chiến tranh Việt Nam là theo đúng sách vở và chủ trương sắt máu Mác -Lê. Nhưng cái quan trọng hơn cả, đặc biệt hơn cả là Cộng sản tàn hại các đồng chí của họ một cách quyết liệt, " không khoan nhượng". Họ xem đồng chí của họ cũng là kẻ thù! Sau đây là một số tội ác cộng sản đối với các đồng chí của họ.
1. QUỐC TẾ CỘNG SẢN
Cộng sản là một tổ chức Quốc tế, cho đến cuối thế kỷ XX có 4 tổ chức Quốc tế cộng sản:
1.Đệ Nhất Quốc tế tên đầy đủ là Hội Liên hiệp Lao động Quốc tế, tiếng Anh The International Workingmen's Association (IWA, 1864–1876), là tổ chức tranh đấu đầu tiên của các nhóm xã hội quốc tế, được thành lập ở Luân Đôn vào ngày 28 tháng 9 năm 1864, mục đích là để đoàn kết các nhóm xã hội khuynh tả, cộng sản, các nhóm vô chính phủ và các tổ chức công đoàn. Trong thời gian tồn tại, Đệ Nhất Quốc tế tiến hành năm đại hội, thông qua các nghị quyết quan trọng: tán thành bãi công, thành lập công đoàn, đấu tranh đòi ngày làm 8 giờ, đòi cải thiện đời sống công nhân. Do sự ảnh hưởng của Đệ Nhất Quốc tế, công nhân các nước tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh chính trị. Vào điểm cao, theo như tường trình của cảnh sát liên hiệp có tới khoảng 5 triệu hội viên Theo những tài liệu chính thức của IWA thì họ có khoảng 8 triệu hội viên.
Năm 1876, tại Philadelphia, Hoa Kỳ, Đệ Nhất Quốc tế tuyên bố giải tán vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Marxism và Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ mà lãnh tụ là Bakunin.
2. Quốc tế 2 hay là Đệ Nhị Quốc tế tức Liên minh Quốc tế các Đảng Xã hội thành lập tại Paris năm 1889.Đệ Nhị Quốc tế còn gọi Quốc tế thứ hai là liên minh quốc tế, với sự kết hợp của các đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên thế giới - chủ yếu là tại châu Âu, được thành lập ngày 14 tháng 07 năm 1889 ở Paris, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951. Tham dự đại hội thành lập có hầu hết đại biểu các tổ chức công nhân của các nước châu Âu, Mỹ (Gồm 400 đại biểu với 22 quốc gia). Phái vô chính phủ bộc lộ sự bất đồng ý kiến ngay từ đầu, nhưng sau đại hội London (thủ đô Anh) năm 1896, bị loại bỏ hoàn toàn ra khỏi tổ chức quốc tế này.
Đệ Nhị Quốc tế thông qua các nghị quyết quan trọng: nêu lên sự cần thiết phải thành lập các chính đảng của giai cấp vô sản, đề cao vai trò đấu tranh chính trị, lấy ngày 1/5 hằng năm làm ngày Quốc tế lao động.... Đệ Nhị Quốc tế có nhiều đóng góp quan trọng vào việc phát triển phong trào công nhân thế giới. Do không thống nhất về chiến lược, chia rẽ về tổ chức Đệ Nhị Quốc tế tan rã khi Chiến tranh thế giới I bùng nổ. Marx, Lenin thân Đức nhưng nhiều đảng viên yêu nước chống phát xit Đức xâm lược, vì vậy mà Đệ nhị quốc tế tan.
Đệ tam Quốc tế, còn gọi là Quốc tế cộng sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cương lĩnh hoạt động của Đệ Tam Quốc tế là đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin, Đệ Tam Quốc tế đã tiến hành 7 lần đại hội, qua đó vạch ra chiến lược, sách lược chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và đề ra biện pháp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít.
Vào ngày 15 tháng 5 năm 1943 Ủy ban hành động của Quốc tế Cộng sản tuyên bố quyết định giải tán tổ chức mình vào ngày 10 tháng 6 năm 1943. Ngay cả các cán bộ của Quốc tế Cộng sản cũng rất ngạc nhiên về loan báo này
Sau khi 31 đảng Cộng sản trong liên minh trả lời đồng ý, các cơ sở của Quốc tế Cộng sản đã chấm dứt hoạt động.
Người ta cho là sự giải tán này là quyết định của Iosif Vissarionovich Stalin. Trong một cuộc phỏng vấn với thông tấn xã Reuters vào ngày 28 tháng 5 năm 1943, Stalin cho biết, việc giải tán của tổ chức Quốc tế Cộng sản có 2 vấn đề chính:
Moskva không xen vào vấn đề riêng của các nước khác.
Các đảng Cộng sản của các nước xử sự theo quyền lợi của công dân nước mình chứ không phải theo lệnh từ bên ngoài
Thực tế việc giải tán Quốc tế Cộng sản là một mánh khoé giả trá được cho là nhượng bộ của Stalin đối với đồng minh phương Tây, Hoa Kỳ và Anh, do Liên Xô cần sự giúp đỡ để chống lại cuộc tấn công của Adolf Hitler.
Đệ tứ quốc tế theo khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky đưa ra từ sau khi Lenin qua đời (1924) để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin. Kể từ năm 1953, Đệ Tứ Quốc tế phân hóa ra nhiều nhóm nhỏ. Vì Trotsky chống Stalin cho nên Stalin ra lệnh giết Trotsky năm 1940 và triệt hạ Đệ tứ Quốc tế. Vì vậy các ôngTạ Thu Thâu,Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch bị Việt Minh giết.
2. MENSHEVIKS VÀ BOLSHEVIKS
Bolshevism và Menshevism, hai chi nhánh chính của chủ nghĩa xã hội Nga từ năm 1903 cho đến khi sự hợp nhất của chế độ độc tài Bolshevik dưới thời Lenin trong cuộc nội chiến năm 1918-20. Đảng Lao động Xã hội Dân chủ Nga, bí mật thành lập tại một đại hội tại Minsk năm 1898, dựa trên các học thuyết của chủ nghĩa Mác. Tại Đại hội Đảng lần thứ hai, tổ chức tại Brussels và sau đó là Luân Đôn năm 1903, hai phe tranh cãi rồi chia rẽ. Cuộc Cách mạng Nga năm 1905 là một nỗ lực chung của tất cả các phong trào cách mạng và cải cách. Trong Duma đầu tiên của năm 1906, do Đảng Dân chủ Xã hội tẩy chay, Đảng Dân chủ Hiến pháp tự do là đảng mạnh nhất, nhưng năm 1907, đảng Dân chủ Xã hội tham gia vào cuộc bầu cử. Năm 1912 các Bolsheviks và Mensheviks chính thức trở thành các bên riêng biệt. Trong Thế chiến I, Bolsheviks hy vọng cho sự thất bại của Nga hoàng và Nga đã tìm cách biến đổi cuộc xung đột thành một cuộc nội chiến quốc tế sẽ đưa giai cấp vô sản lên nắm quyền.
Cánh phải của Mensheviks ủng hộ chiến tranh của Nga; Cánh trái kêu gọi hòa bình.Trong Cách mạng Nga năm 1917, Mensheviks tham gia vào chính phủ lâm thời Kerensky. Lenin, trở lại từ lưu vong vào tháng Tư, tuyên bố rằng Nga đã chín muồi cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ngay lập tức. Bolsheviks đã giành được đa số trong các chính phủ quan trọng và lật đổ chính phủ trong Cách mạng tháng Mười. Mensheviks đã phản đối cuộc đảo chánh này và tham gia vào Hội đồng Lập hiến ngắn ngủi (tháng 1 năm 1918), nhưng họ thường từ chối không tham gia vào lực lượng chống Bolshevik trong cuộc nội chiến. Mensheviks bị đàn áp vào năm 1921. Trong khi đó, vào năm 1918, Bolsheviks trở thành Đảng Cộng sản Nga.
Lãnh tụ của Mensheviks là Julius Martov ( L. Martov (1873 – 1923). Ông là bạn của Trotsky.
Khởi đầu tại Nga, Martov là bạn thân của Lenin. Ông đã cùng Lenin thành nhóm nhỏ trí thức Marxist thành lập Liên đoàn Đấu tranh cho Giải phóng Phong trào Lao động ( League of Struggle for the Emancipation of the Working Class ) vào năm 1895. Các lãnh tụ phong trào này bị bắt, Martov và Lenin bị đày Siberia. Sau Martov bị lưu đày khỏi nước Nga, ông tham gia Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (Russian Social Democratic Labour Party- RSDLP) và, vào năm 1900, cùng với Lenin, là những thành viên sáng lập, của tạp chí đảng Iskra.Năm 1903, trong đại hội lần hai của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga, Lenin và Martov cãi nhau, và Lenin rút lui khỏi đảng và viết bàiWhat Is to Be Done? bày tỏ ý kiến mình. Martov từ chối hợp tác với tờ Iskra.
Bolsheviks và Mensheviks tách đôi.Lenin tự xưng là phe đa số (Bolsheviks) mà gọi phe Martov là phe thiểu số ( Mensheviks). Mensheviks có đường lối ôn hòa trong khi Bolsheviks chủ trương bạo lực.
Martov được xem là một trí thức và chính trị gia tốt, gắn chính trị với triết lý.
Martov sau hợp tác với Trotsky ở Paris năm 1914 xây dựng tờ Nashe slovo ("Our Word").Năm 1914, Martov chống đệ nhất thế chiến.
Ông tham gia cách mạng tháng mười 1917, và trở thành lãnh tụ Mensheviks ở Quốc hội.Ông theo Hồng Quân chống Bạch Quân. Ông chống đối Khủng bố đỏ. Năm 1920, Martov và các đồng chí Mensheviks bị bắt buộc rời Nga đi Đức rồi chết ở Schömberg, Germany, tháng tư 1923.
3. STALIN VÀ KHỦNG BỐ ĐỎ
Ngay từ lúc đầu của cuộc cách mạng Nga, dùng cảnh sát mật để trấn áp những kẻ có quan điểm chống đối là một công cụ của những người Bolshevik để giữ vững quyền lực. Trong suốt nửa thập niên cuối của 1920, Joseph Stalin đã dùng công cụ này để giành được quyền lực tuyệt đối chống lại những thành phần đối lập với ông trong đảng Cộng sản Liên Xô. Những nạn nhân đầu tiên là những người trong bộ chính trị Leon Trotski, Grigori Zinoviev, và Lev Kamenev, mà đã bị đuổi ra khỏi đảng cuối năm 1927. Stalin sau đó quay lại chống cả Nikolai Bukharin, mà đã ủng hộ ông dành lấy quyền lực, bởi vì ông này đã chống đối chính sách áp buộc tập thể hóa nông nghiệp và kỹ nghệ hóa nhanh chóng mà người nông dân phải trả giá đắt.
Stalin đã loại trừ tất cả những kẻ có thể đối đầu với sự lãnh đạo của mình vào cuối năm 1934 và trở thành một lãnh tụ tuyệt đối trong đảng và chính quyền. Tuy nhiên ông ta tiếp tục thanh trừng mọi tầng lớp trong đảng và khủng bố cả nước với những cuộc bắt giam và xử bắn tập thể. Trong suốt thời kỳ đại khủng bố, mà bao gồm những vụ án trình diễn đối với những đối thủ trước đó trong đảng 1936-1938 mà cao điểm là giữa 1937 và 1938, hàng triệu công dân vô tội Liên Xô đã bị đi đày tại các trại tù lao động hay bị giết trong tù. Theo ủy ban Shatunovskaja năm nghiên cứu tại văn khố Nga, trong số 7 người trong bộ chính trị của Lenin, chỉ có Stalin thoát khỏi tòa án "Tschistka". Trong số 19 thành viên của bộ chính trị 1934, năm 1938 chỉ có 7 người còn tại chức, từ 139 thành viên ủy ban trung ương 1934, chỉ có 41 người sau năm 1941 vẫn chưa chết hoặc bị bắt giam.
13 thành viên cũ của bộ chính trị đảng Cộng sản Liên Xô:
Bubnov:là một trong 7 thành viên bộ chính trị năm 1918, bị bắt vào tháng 10 và trục xuất khỏi ủy ban trung ương đảng vào tháng 11 năm 1937, bị kết án tử hình ngày 1 tháng 8 năm 1938 và bị bắn chết cùng ngày. Bubnov được phục hồi nhân phẩm vào năm 1958.
Bukharin: từ 1917 thành viên ủy ban trung ương, từ 1917 đến 1929 chủ nhiệm báo Đảng Sự thật, từ 1920 thành viện bộ chính trị, 1929 bị trục xuất khỏi bộ chính trị vì chống lại chính sách tập thể hóa nông nghiệp của Stalin, 1937 bị bắt vì tội làm gián điệp và âm mưu lật đổ Stalin, 1938 bị tử hình.
Kamenev:từ 1917 đến 1926 thành viên ủy ban trung ương, và từ 1919 tới 1926 trong bộ chính trị, cùng với Sinowjew và Stalin lập thành bộ 3 cô lập Trotzky. Vì phản đối việc sùng bá lãnh tụ Stalin, bị mất ghế bộ chính trị và cuối năm 1927 bị đuổi ra khỏi đảng. 1936 bị bắt và bị xử tử.
Kossior: 1925-28 bí thư ủy ban trung ương, 1930-38 thành viên bộ chính trị, mặc dù là người thâm cận của Stalin, nhưng vì bị vu khống từ Kiev, vẫn bị xử tử năm 1938, 1956 được Chruschtschow phục hồi nhân phẩm.
Krestinski, Rudsutak, Rykow, Serebrjakow, Sokolnikow, Sinowjew, Tomski, Trotzki (bị ám sát ở Mexico), Tschubar và 3 ứng cử viên bộ chính trị (Eiche, Jeschow và Postyschew)
98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban Trung ương do Đại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa là 70 %, đã bị bắt giữ và bị xử bắn (phần đông vào những năm 1937-38) (Trong diễn văn Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó)
Trên 15 người là thành viên của chính phủ, không kể những người đã nêu trên Radek, Yagoda, Jeschow, Krylenko, Rosenholz, Grinkow, Brjuchanow, Anatow, Meshlauk
3 trong số 5 Nguyên soái Liên bang Xô viết đầu tiên: Tukhachevsky, Blyukher, Yegorow
13 trong số 15 tướng Hồng quân
16 ủy viên chính trị của quân đội
25 trong số 28 giám thị quân đội
Tất cả các phó giám thị bộ quốc phòng
98 trong số 108 thành viên hội đồng quân sự tối cao.
4. TỘI ÁC MAO TRẠCH ĐÔNG
Đại nhảy vọt được đa số mọi người, kể cả trong và ngoài Trung Quốc, coi làmột thảm họa kinh tế mà ảnh hưởng của nó vẫn tác động lên Trung Quốc trong nhiều năm sau đó; nhiều người ví von nó với cái tên "Đại nhảy lùi". Những chính sách không đúng đắn, cùng với những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (lũ lụt, hạn hán) là nguyên nhân dẫn đến Nạn đói lớn ở Trung Quốc giai đoạn 1958-61.Theo nhiều nguồn thống kê khác nhau, số người chết do thiếu đói dao động từ 20 triệu đến 46 triệu (khoảng 5% dân số, tổng dân số Trung Quốc bấy giờ là 600 triệu), trở thành nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại.[69] Ngoài chết đói, khoảng 2,5 triệu người bị tra tấn đến chết do phản đối những chính sách của Mao: "họ bị chôn sống hoặc đánh tới chết." Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc trong suốt 6 thế kỷ, dân số giảm đi một cách rõ rệt.
Trong những Đại hội Đảng năm 1960 và 1962 sau đó, Mao Trạch Đông đã bị chỉ trích trước Đại hội do những hậu quả mà Đại nhảy vọt để lại. Điều này đã khiến cho những đảng viên dung hòa như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình được lợi và dành được quyền lực nhiều, và Mao bị mất đi tiếng nói. Chính điều trên đã khiến cho Mao khởi xướng cuộc cách mạng văn hóa năm 1966, một cuộc thanh trừng chính trị quy mô lớn cùng với giai đoạn hỗn loạn và vô chính phủ trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, kéo theo hàng triệu người trở thành nạn nhân của cuộc bài trừ những đổi thủ chính trị của Mao, bao gồm cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Cách mạng văn hóa (1966–1976):Sau khi kế hoạch Đại nhảy vọt thất bại, Mao Trạch Đông dần mất đi tiếng nói trong Đảng Cộng sản. Để củng cố lại quyền lực, Mao khởi xướng cuộc cách mạng văn hóa năm 1966 với mục đích loại bỏ những "tư sản tự do" để tiếp tục cuộc cách mạng vô sản, đồng thời cũng loại bỏ những người bất đồng ý kiến với Mao, bao gồm các quan chức khác như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài và Đặng Tiểu Bình.
4. TỘI ÁC CỘNG SẢN VIỆT NAM
Việt Cộng đã thủ tiêu các đồng chí của họ. Họ giết nhiều lắm, chúng tôi chỉ kể vài vụ.
Khởi đầu Lý Thụy đã bán các đồng chí của ông cho Pháp để lấy tiền xài.
Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản. Hà Huy Tập đã viết trên tạp chí Bônsơvích (số 8/12-1934).
Năm 1935, ngày 20-4, Hà Huy Tập, tân bí thư Cục Hải ngoại của ĐCSĐD, gởi cho QTCS một bức thư tố cáo trước đây NTT biết Lâm Đức Thụ là một tay mật thám nhưng vẫn làm việc với Thụ. Hậu quả là cảnh sát của Tưởng Giới Thạch có hình và bắt hàng trăm đảng viên An Nam Cọng Sản đảng của Hồ Tùng Mậu, những hình này do trước đó các đảng viên đã nộp cho NTT ( Hồ sơ lưu trữ Mạc Tư Khoa, hồ sơ mang ký hiệu số RC. 459, 154, 586 ).(3)
Ngoài ra những cái chết bí ẩn, bề ngoài là do Pháp giết nhưng sự thật là Hồ Chí Minh mượn dao giết các đồng chí cộng sản như là Hà Huy Tập, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Bình ...
-Lâm Đức Thụ (1890-1947), tên thật là Nguyễn Công Viễn, Thư Ký Thường Trực Tổng Bộ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, là một trong mấy người sáng lập tổ chức Tâm Tâm Xã (1923), Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925), người cùng Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu. Bị HCM vu cho là chỉ điểm, mật thám, tay sai thực dân đế quốc… để rồi kết thúc cuộc đời trước họng súng của dân quân vào năm 1947 tại quê hương Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình mà có lẽ vì bép xép chuyện bán cụ Phan và biết quá nhiều về HCM.
– Đại Biểu QH Dương Bạch Mai (1904-1964), từng du học Pháp, Liên Xô, bị đột tử khi uống ly bia giữa 2 phiên họp Quốc Hội trước khi đọc diễn văn phản đối xã hội kiểu trại lính của Trung Quốc.
– Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam, kiêm Chính Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam, bút hiệu Hạ Sĩ Trường Sơn (Con trai út là Nguyễn Chí Vịnh, năm 2010 là Trung Tướng, nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, từng bị tố cáo về tư cách và những thủ đoạn chụp mũ phe đối lập. Vợ là Nguyễn Thị Cúc, có 4 con, nhưng khi hoạt động trong Nam có vợ 2 và thêm con trai là Nguyễn Hữu Nghĩa, Nghĩa được đưa về thành phố sinh sống, khi lớn đi sĩ quan VNCH, tỵ nạn CS qua Canada, làm báo Làng Văn…). (*) Ghi chú thêm xem bên dưới.Nguyễn Chí Thanh bị chết thình lình sau khi dùng cơm chia tay với HCM ở Phủ Chủ Tịch về nhà, thì đêm hôm đó, gần sáng ngày 6/7/1967 bị ói ra máu chết, đúng ngày định trở lại miền Nam lần thứ 2 (nhà cầm quyền nói chết vì bệnh tim).
-Đại Tướng Chu Văn Tấn (1909-1984), nguyên là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bị cho là theo phe Hoàng Văn Hoan.
– Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái (1915-1986), có mặt trong đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, sui gia với Võ Nguyên Giáp. Khi chuẩn bị lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng thay thế Văn Tiến Dũng thì chết đột ngột chết ngày 2/7/1986. Trước khi chết, chính Hoàng Văn Thái nói với vợ “Người ta giết tôi.”. Có tin là bị Lê Đức Thọ sát hại vì e ngại người khác phe sẽ khui ra nhiều chuyện của Dũng và Thọ… để đưa Đại Tướng Lê Đức Anh lên vào tháng 2/1987.
– Thủ Tướng CSVN Phạm Hùng? (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, tại nhiệm 1987-1988. Chết đột ngột (vì bệnh tim) ngày 10/3/1988 tại Sài Gòn, khi đang tại chức.
– Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám (1948-2008), đặc trách tình báo gián điệp đột tử trong lúc khỏe mạnh và đi công tác đó đây liên tục vào ngày 12/12, mà ngày 15/12, các cơ quan truyền thông mới được đồng loạt loan tin là chết sau một thời gian dài lâm bệnh, mà không nói bệnh gì!?… Nhiều tin đồn cho rằng bị đầu độc?
Tóm lại, chủ nghĩa cộng sản vô cùng dã man, tàn ác. Một mặt họ dùng ngoa ngôn xảo ngữ để tuyên truyền dối trá, một mặt họ theo chủ trương bá đạo, không không giấu diếm các thủ đoạn của họ với những chính sách " vô sản chuyên chính", bãi bỏ tư hữu, cưỡng bách lao động, Giết lầm hơn bỏ sót",
Cộng sản là lang sói, chúng giết nhân dân và giết cả đồng chí của họ chỉ vì tính ác, vì tham quyền lợi địa vị. Nhân dân đã biết tội ác cộng sản, một ngày bão tố sẽ nổi dậy quét sạch rác rến và và sâu bọ ra khỏi vùng trời tự do.
----
CHÚ THÍCH
(1). This struggle must be organised, according to “all the rules of the art”, by people who are professionally engaged in revolutionary activity. The fact that the masses are spontaneously being drawn into the movement does not make the organisation of this struggle less necessary. On the contrary, it makes it more necessary.
Lenin, The Primitiveness of the Economists and the Organization of the Revolutionaries (1901)
This struggle must be organised, according to “all the rules of the art”, by people who are professionally engaged in revolutionary activity.
Lenin, What Is To Be Done?, “The Primitiveness of the Economists and the Organization of the Revolutionaries” (1901)
(2). There are no morals in politics; there is only expedience. A scoundrel may be of use to us just because he is a scoundrel. Vladimir Lenin
(3).Ngày nay nhiều tin tức cho biết Hồ Chí Minh ( Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy) đã chết năm 1932 tại Hương Cảng, Trung quốc đưa Hồ Tập Chương, người Khách gia-Đài Loan lên thay vai Hồ Chí Minh. Việt Cộng không phủ nhận. Việc đưa Hồ Tập Chương thế Hồ Chí Minh được giữ kín cho nên Hà Huy Tập, Trần Phú cũng không biết.