Monday, June 5, 2017
TUỆ CHƯƠNG * NGÀY TẾT ĐƯỢC THA
NGÀY TẾT ĐƯỢC THA
TUỆ CHƯƠNG
Trẻ Tạo hóa đành hanh quá ngán Chết đuối người trên cạn mà chơi!
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Mấy hôm nay trong trại anh em tù nhân bàn tán xôn xao vì sắp tới tết ta
Tết đến, hoặc "Ba ngày lễ lớn", thế nào cũng có một số người được "tha
ra khỏi trại cải tạo". ...
... Thời gian cải tạo, nhìn chung toàn bộ số người trong trại, ai ai
cũng tròm trèm 5 năm rồi. Có lẽ đó cũng là một cái mốc án tù nào đấy để
hy vọng được về.
Người ta chỉ đoán vậy thôi chứ tù ở đây chẳng ai có án, chỉ là "tập
trung cải tạo", "lao động tốt, học tập tốt" thì được thạ "Cách mạng" nói
như thế là cách nói lửng lơ, chẳng ai biết thế nào là tốt; cứ không
trốn trại, "an tâm học tập cải tạo", còn lao động tốt là cuốc đất làm
rẫy hết mình, không "chây lười lao động", còn ngày về thì có "cách mạng
lo". Toàn là những mỹ từ, hay nói cho đúng hơn là bánh vẽ, cứ thế mà
chờ. Hễ tới các dịp lễ tết, "ba ngày nễ nớn" - tiếng thường nhại theo
"cán bộ" Bắc kỳ - người ta lại hy vọng được thạ Cấp bậc càng nhỏ, trung
sĩ, thượng sĩ, thiếu úy v.v... thì hy vọng nhiều hơn trung úy, đại úy.
Nghĩ tới ngày về, Tăng đâm lọ Về đâu hè?!
Tăng vào "rờ sẹc" (recherche) hồi 18 tuổi, hồi đó là làm mật thám cho
Tây, hay còn gọi là "Công an Liên Bang" mà "xếp xòng" là cò Xuân. Trình
diện ông ta xong, nhận cây súng, Tăng lận vào lưng quần, phủ cái áo "sơ
mi" cụt tay ra ngoài, cố làm sao cho nó hơi cộm một chút để "giựt le"
chơi. Tăng cũng bắt chước "đàn anh", vào quán vịt quay ở Chợ Cũ, cố vói
tay chỉ con vịt treo cao để lòi cây súng dắt bên hông, cho chú Ba thấy,
chú sợ.
Tăng nhởn nhơ sống, cưới vợ, bồ bịch, ly dị, rồi lại cưới, rồi ly dị,
khi Tăng đã 40 tuổi, cưới vợ lần thứ ba, cô dâu chỉ mới 20. Đúng là "Khi
anh hai mươi, em mới sinh ra đời..."" Từ "rờ sẹc", sau gọi là Công An,
rồi Cảnh Sát Công An... Bao nhiêu lần đổi tên đổi họ như thế, cuối cùng,
trước khi CS chiếm miền Nam, Tăng mang "loon" thiếu úy, nhân viên Phòng
Tư Pháp một quận Cảnh Sát ở Saigon và sau ngày 30 tháng tư, trình diện,
đóng tiền đi ở tù theo lệnh của "cách mạng".
Khi Tăng vào trại cải tạo rồi, cửa nhà tan nát. Vợ Tăng lấy một "ông cán
bộ", vai vế lắm, con gái Tăng cũng đi lấy chồng xa. Hai đứa con trai
của hai bà vợ trước, nghe người ta nói là đã vượt biên cùng gia đình
-tức là mẹ, bố ghẻ và con cái của họ. Nói là nghe nói, bởi vì từ khi ly
dị với các bà ấy, Tăng chẳng bao giờ thăm hỏi mẹ con họ, chẳng bao giờ
gởi cho chút tiền bạc cấp dưỡng...
Đời Tăng, kể từ khi lớn lên, đi làm, chẳng bao giờ khổ. Vật giá Saigon
hồi xưa rẻ lắm, đồng lương của Tăng dư xài. Khi vật giá lên, lương cũng
lên. Khi mọi thứ leo thang quá, thì nhờ lâu năm, "sống lâu ra lão làng",
nhờ kinh nghiệm trong ngành, Tăng qua làm phòng Tư Pháp, làm nhân viên
thôi, nhưng nhân viên mới thật là khỏe. 'Đương đơn", ở đất Saigon này,
từ hồi dân di cư vào đông, kinh tế phát triển nhiều, thì bao giờ cũng
rất quen việc, trên dưới đâu đó ơn nghĩa đàng hoàng.
Đùng một cái, Tăng đi ở tù, mọi sự sụp đổ hết. Bây giờ Tăng mới thấm
thía câu nói của ông Thiệu: "Đất nước mất, mất tất cả". Ngày trước, nghe
câu đó, Tăng cho là chỉ hù thiên hạ. Mấy chả nói chính trị, hơi đâu mà
nghe, cái việc "mất đất nước", dễ không, làm sao có được!
Dĩ nhiên Tăng đau khổ. Hai năm đầu trong trại cải tạo, Tăng ở chung với
mấy ông "Đại úy Tuyên úy". Từ lâu, Tăng chẳng gần gũi với tôn giáo nên
chẳng ưa gì mấy ông tuyên úy. Tăng cho rằng "mấy chả đi tu còn ưa đeo
loon". Vậy thôi. Chùa, nhà thờ, Tăng có lai vãng, nhất là thời gian mấy
năm "mấy ông tu hành làm chính trị" cũng chỉ vì công tác thượng cấp giao
phó. Điều tra mấy ông tu hành này khi họ bị bắt, cũng như điều tra đám
sinh viên biểu tình, Tăng thấy phiền, chẳng có "xơ múi" gì mà mấy chả
thì ăn nói ngang phè, chướng tai. Thường thì Tăng tránh né, để thượng
cấp giao cho người khác.
Bây giờ, sống chung với mấy ông tuyên úy, nghe ông nói chuyện đạo, Tăng
cũng thấy hay hay, nhất là sau khi "cửa nhà tan nát". Dù Tăng chẳng hiểu
sâu sắc gì về kinh kệ, Tăng cũng thấm nhuần đôi chút "sắc sắc không
không". Tăng thấy đời Tăng thôi thế cũng đủ rồi, chẳng mong gì thêm.
Thật ra, Tăng hiểu có muốn thêm cũng chẳng được. Thời của mình, thế là
qua rồi, bây giờ là thời của người tạ Người ta từ ngoài kia vô đây, cầm
súng mấy chục năm rồi, tốn hao biết bao nhiêu xương máu, nay mới có được
chừng ấy, sức mấy mà người ta chịu nhả miếng ăn ra mà hòng tranh giành
với họ. CS, quanh thế giới, từ ngày họ có mặt đến giờ, chỉ có tới mà
không có lùi. Chịu thua đi cho xong. Với lại, kinh nghiệm mấy chục năm
trong nghề, Tăng thấy rõ, ai có quyền là người đó hơn.
Tự do, Dân chủ là cái quái quỉ gì đâu, giả hiệu cả!
Với lại cuộc sống trong Nam dễ dãi quá, cuộc sống Saigon cũng dễ dãi quá, đời Tăng cũng không có gì sóng gió, tới tháng thì lãnh lương, tới năm thì người ta "đè cổ ra" mà móc "loon", Tăng chẳng chạy chọt, xin xỏ.
Thậm chí việc vợ con, ưng thì lấy, chán vợ thì có bồ, vợ rầy rà thì ly dị cho khỏe. Cuộc đời cứ thế mà trôi đi, chẳng có gì vướng bận cả.. .
Bây giờ vào tù, Tăng mới thấy cái trăm ngàn khó khăn hiện ra, nhưng mà đời, như ông tuyên úy nói "sắc sắc không không". Cái có rồi sẽ mất, cái mất rồi sẽ có. Tăng, như mấy ông tuyên úy nhận xét khi Tăng tâm sự chuyện nhà với họ, đã có một đời nhởn nhơ sung sướng trong khi đất nước chịu cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn 30 năm, bao nhiêu người chết chóc khốn khổ, nay Tăng có chết, cũng là thường tình. Không trả trước thì trả sau. Vay trả trả vay. Mấy ông tu hành nói vậy mà hay.
Mới tháng trước đây, Trần Hứa Sơ, chung đội với Tăng, sáng sớm xuống nhà
bếp xin nước sôi, buồn tình đâm đầu vào lò củi đang cháy rần rần, may
người ta thấy kịp, kéo ra, đưa xuống trạm xá, cấp cứu, thành ra chỉ cháy
mấy mảng tóc, chỗ cháy thành sẹo, không có tóc, trông như con chó vá.
Ngu thiệt! Vợ bỏ đi vượt biên với bồ - bồ cũng là bạn thân của Sơ - thì
cho chúng nó đi một duộc với nhau -quân lừa thầy phản bạn- quân trốn
chúa lộn chồng- có gì mà tiếc để đến nổi phải đâm đầu vào lửa, mang cái
đầu chó vá, ngu thiệt là ngu! Tăng rủa thầm. Năm ngoái, cũng thằng Lịch,
nghe tín vợ bỏ, đang làm đội mộc, lấy đinh đóng vào đầu. Anh em người
ta khiêng ngay vào trạm xá cứu chữa, cũng tai qua nạn khỏi.
Ngoài kia, ngoài hàng rào trại tù, là đời thường, là Tự do, Hạnh phúc...
Người ta nghĩ thế. Và một điều gì đó xảy ra, bất như ý, có nghĩa là làm
cho người ta cho rằng hạnh phúc đó không còn nữa, tự do đó không còn
nữa, thì người ta đâm ra tuyệt vọng, rồi tự tử.
Tăng thì chẳng có ý niệm gì xa xôi hơn thế, nhưng Tăng cho rằng, ngoài
kia, ngoài hàng rào trại tù kia, Tăng chẳng có gì cả. Hạnh phúc đã không
mà tự do cũng không. Hạnh phúc, như Tăng thấy trong đời y, căn bản là
tiền, cũng như "Mác" nói, kinh tế là hạ tầng cơ sở vậy thôi. Còn tự do,
không có tiền thì chỉ có tự tử hay tự do làm nô lệ cho người tạ Tiền,
Tăng nghĩ là y đã hết thời.
Hết cây súng trong tay là hết tiền. Ngoài cái nghề y đã làm mấy chục
năm, từ hồi còn trẻ, tháng tháng lãnh lương, lâu lâu có tư lợi, Tăng
chẳng quen với bất cứ một nghề nào khác. Huống chi Tăng đã già, sức khỏe
không còn. Thằng Chiêu, thằng Ngọ, thằng Nẫm... bao nhiêu thằng ở chung
trại với Tăng, được tha hồi năm ngoái, năm kia, chỉ làm cho "đội ngũ
dân biểu" (1) càng thêm đông mà thôi, chẳng anh nào làm nghề gì khác, có
muốn làm cũng không làm được.
Gia đình tan nát, vợ không còn, con không còn, cha mẹ không còn, không còn ai hết, hạnh phúc, tự do cũng không còn.
Vậy thì Tăng về làm gì?! Nghĩ tới ngày về, Tăng băn khoăn, lo lắng. Về?
Về đâu? Về với ai? Ở nhà ai? Nếu một ngày kia, "cách mạng khoan hồng",
cho Tăng thoát khỏi "tù trong" ra "tù ngoài" thì Tăng nhận cái lệnh tha
để làm gì. Ra "tù ngoài", có nghĩa là Tăng phải tự lo lấy cái ăn, cái
mặc mà Tăng thì đã quen với cuộc sống chính phủ lo cho Tăng hết rồi.
Chưa bao giờ Tăng tính toán, lời lỗ mà thành ra tiền. Tăng không quen
buôn bán bao giờ. Tăng chỉ quen tháng tháng lãnh lương. Bây giờ, nếu ra
"tù ngoài" mọi thứ phải tự lo cho mình, Tăng thấy nhiều khó khăn.
Hơn thế nữa, Tăng không nhà không cửa không vợ không con, không bà con
bạn bè, nhất là bạn bè, Tăng thấy cô đơn. Dù sao ở đây cũng có bạn,
người thân kẻ sơ, chuyện trò với nhau. Về Saigon, đông mấy triệu dân, cả
tháng, chưa chắc gặp được ai quen để chuyện trò. Về? Về đâu? Nhà đâu? Ở
với ai? Không lý Tăng chui sống ở gầm cầu. Ở đó, toàn là ăn mày và đám
tội phạm, những thứ trước kia mỗi khi Tăng gọi lên điều tra thường run
rẩy, sợ hãi trước mặt Tăng. Tăng về ở chung với họ sao?! Vậy thì về làm
gì?! Tăng lo, nhưng để bụng, không nói với ai. Nếu "cách mạng" cho về mà
không về, thế nào tụi nó cũng cười cho thúi đầu. Thế rồi Tăng có lệnh
tha thiệt.
Tăng cũng chẳng nhờ cậy ai hỏi thăm giùm có tên hay không. Tăng sợ chuyện đó xảy ra cho Tăng thì Tăng còn hỏi thăm hỏi lom làm gì. Sáng nay, kẻng đánh tập trung ngoài sân trại để gọi đi lao động như thường lệ thì "thượng sĩ Thắng", "cán bộ giáo dục" cầm xấp giấy vào, xăm xăm đi thẳng vào chỗ phía trước mặt các đội tập trung. Thấy thế, anh em ồ lên một tiếng, biết là có lệnh tha, rồi chuyện vãn, gọi nhau ơi ới, xôn xao. Tăng ngồi im.
Khi "cán bộ" Thắng gọi tới tên Tăng, y uể oải đứng lên, buồn rầu quay gót vào "láng", treo "gô" (2) vào cột giường, lên chỗ nằm, nằm im, bất động.
Sau khi các đội đi hết rồi, "cán bộ" Lâm vào từng "láng" gọi các người
đưọc tha tập trung ngoài sân để được đưa lên văn phòng "ban" lập thủ tục
ra về. Tăng vẫn nằm im.
Thấy Tăng, "cán bộ" Lâm gọi:
- "Anh Tăng, sao còn "lằm" đó, thay áo quần nhanh "nên" ra "nàm" việc với "ban"."
Tăng ngập ngừng:
- "Thưa... thưa cán bộ, tui... tui không muốn về, cán bộ cho tui ở lại đây."
"Cán bộ" Lâm chưng hững:
"Anh 'lói' gì kỳ thế. "Cách mạng" khoan hồng, cho anh về, sum họp với
gia đình. Thế "nà" xung xướng "nắm", tại sao anh không về?!""
Thưa "cán bộ", tui còn ai nữa mà về. Gia đình tui chẳng còn ai nữa hết.
Vợ tui đi lấy chồng, con tui đi lấy chồng, chẳng còn ai, chẳng còn nhà
cửa chi hết, biết về đâu mà về." -Tăng cố gắng nói một hơi cho hết ý
muốn nói.
Cán bộ" Lâm xẳng giọng:
Đó "nà" chuyện của anh. Bây giờ "cách mạng khoan hồng" cho anh về "nà" anh phải về. Anh không thể cãi "nệnh" cách mạng được."
Tui không cãi lệnh. Nhưng mà "cách mạng khoan hồng" cho tui về thì "cách
mạng" cũng nên xét hoàn cảnh tui mà "khoan hồng" cho tui ở lại. Đó là
tình thiệt. Tui còn ai đâu mà về." Thôi, không "lói" "nôi" thôi. Tôi bận
việc, đưa mấy anh kia "nên" "ban". Anh không về sẽ có biện pháp." -"Cán
bộ" Lâm giận dữ.
Biện pháp gì?" -Tăng cũng nổi sùng- "Ở tù thì tui cũng đang ở tù đây
rồi, chỉ chờ có đem bắn mà thôi. Bắn tui, càng khỏe, tui ưng chết quách
cho rồi, cho xong nợ đời. Ở tù đây cũng chỉ là "tha tội chết, bắt tội
sống thôi"." (3)
Mười phút sau, hai ba "cán bộ" cùng vào, đi ngay lại chỗ Tăng. Tăng ngồi dậy. "Cán bộ" Thắng vẻ quan trọng:
- "Thế "lào"? "Cách mạng khoan hồng" cho anh, anh từ chối hả? Anh không tuân "nệnh" "cách mạng" hả?"
-"Thưa "cán bộ" -Tăng từ tốn nói- "Tui không từ chối, tui không chống lệnh. Chẳng qua hoàn cảnh gia đình tui, sau khi tui đi cải tạo, đổi khác rồi, vợ tui lấy chồng rồi, con tui lấy chồng rồi, nhà cửa không còn, tui biết về đâu? Dzậy nên tui xin ở lại đây để... "phục vụ cách mạng".
"Cán bộ" Thắng xẳng giọng:
- "Chẳng ai cần anh. Các anh "nà" người phản "cách mạng", ở tù, "lay" được tha, thế "nà" khoan hồng "nắm" rồi đấy, không thì có mà "dũ tù", biết không? Thế mà con ngoan cố, chống "nệnh". Anh phải ra "ban" ngay, nhận giấy tờ mà về."
Tăng cố nhịn. Một lúc lâu, y nói:
- "Tui có theo "cách mạng" hồi nào đâu mà nói tui phản? Tui đã nói rồi, tui không về được, tui không có chỗ mà về, vợ tui lấy chồng rồi, chồng bả là "cán bộ" làm lớn. Tui về sao được? Tui về, ông "cán bộ" sợ tui giành vợ lui, ông bỏ tù tui. Vậy tui đừng về là hơn."
-Tăng cố lý luận.
- "Anh "lói" bậy. -"Cán bộ" Thắng nói- Ngày trước, anh có tiền, anh có
quyền, anh ép buộc người ta "nấy" anh. Từ chối anh cũng không được.
"Lay" nhờ "cách mạng", phụ "lữ" được giải phóng, thế "nà" tốt. Còn "cán
bộ" "lào" mà "nấy" vợ anh, bỏ tù anh được. Tù anh "nà" chỉ có "cách
mạng" mà thôi."
- "Cán bộ" là "cách mạng", "cách mạng" là "cán bộ" chớ còn ai vô đây.
Tui hỏi, "cán bộ" vô đây, nói chuyện với tui, nhắm bộ không phải "cán
bộ" là "cách mạng" sao?"
"Cán bộ" Thắng giận dữ:
-"Tôi không muốn anh "lói" nhiều. Yêu cầu anh về. "Lếu" anh không tuân "nệnh", chúng tôi có biện pháp.
Xong, họ đi ra.
Trưa hôm đó, cả trại lại xôn xao về việc Tăng không chịu về. Thôi thì
người ta bàn tán lung tung. Tăng ít khi chuyện trò với ai nên chẳng ai
biết rõ hoàn cảnh của y để "tham mưu". Có điều, chuyển về trại này thế
là gần 4 năm, chẳng bao giờ Tăng được gọi thăm nuôi. Tăng an phận với
cái y có: Khoai, sắn, bobo, chủ nhật được chén cơm, lâu lâu gặp "ba ngày
lễ lớn", "quốc khánh", Tết ta, có thêm chút thịt "ruồi tha" -ý anh em
nói đùa miếng thịt nhỏ quá, ruồi có thể tha mất- Tăng âm thầm "cải
thiện": nắm rau muống mọc hoang bên hồ, nắm rau trai dưới suối v.v...
mỗi khi có dịp.
Với Tăng, Tăng hy vọng ngày nào đó, Tăng xuống đội "cấp dưỡng". "Giàu nhà kho, no nhà bếp". Ở đó suốt đời cũng chẳng sao.
Chiều hôm đó, khi các đội lại đi lao động, "cán bộ" lại xuống làm việc
với Tăng. Tử tế với Tăng thì Tăng tử tế, hung dữ với Tăng thì Tăng hung
dữ lại. Mấy ông già quét phòng thấy vậy, cười với nhau:
- "Dân Nam bộ mà, dân Saigon mà. "Chơi" thì "chơi" với.
Chọc thằng chả nổi nóng, chả chưởi thề tùm lum, làm gì được nhau! Không
lý không về mà cho vô "cát-xô"?" Tình trạng kéo dài được ba hôm. Tới
buổi sáng ngày thứ ba, "cán bộ" Thắng dẫn theo mấy "cán bộ" bảo vệ
xuống, ban đầu, ôn tồn với Tăng:
- "Nguyện vọng anh, "ban" đã trình về bộ "Lội vụ 2". Trên không bằng
"nòng" cho anh ở "nại". Yêu cầu anh chuẩn bị về. Các anh kia, người ta
về hết rồi."
- "Họ về kệ họ, ai có hoàn cảnh nấy, mắc mớ chi tui.
Họ còn vợ còn con, họ không "hy sinh", còn tui, tui không còn ai, tui
"hy sinh" được. Tui ở lại đây ngày nào là tui "phục vụ cách mạng" ngày
nấy. Tui lao động mà, tui có "ngồi mát ăn bát vàng" đâu?"
- "Nhưng "cách mạng" không cần anh. "Cách mạng" biểu anh về, anh phải về, tức "nà" "phục vụ cách mạng" đấy."
Thượng sĩ Thắng cố nén tức.
- "Cán bộ" nói mắc cười không. Tui về, tui "phục vụ" tui chưa xong, có đâu "phục vụ cách mạng" được?" -Tăng cố cãi.
- "Anh không được ngoan cố. Thượng sĩ Thắng gằn giọng. Anh phải rời khỏi trại ngay."
Nói xong, Thượng sĩ Thắng ra hiệu cho hai "cán bộ bảo vệ". Hai người này đứng hai bên, xóc nách Tăng kéo đi.
Ban đầu Tăng cố trì lại, nhưng hai "cán bộ bảo vệ" xiết cánh tay Tăng đau quá, Tăng nổi sùng, la to: - "Đ. Mẹ, làm gì dzữ dzậy?! Cứ thủng thẳng để tui đi, tay tui gần muốn lọi ra rồi nè!"
Một "cán bộ bảo vệ" nói gần như nạt Tăng:
- "Chửi thề hả? Vào "cát xô" đấy."
Tăng cũng chẳng sợ:
- "Vào thì vào, tui đâu có ngán. Giờ "cán bộ" muốn tui về hay muốn tui ở lại? "Cán bộ" muốn tống tui đi cho nhanh. Tui biết quá mà!"
Nói rồi, Tăng thờ thẩn đi giữa hai người công an. Thượng sĩ Thắng gọi người giữ phòng lục đồ đạc của Tăng, xách theo.
*
Tăng ôm cái bị bàng đựng quần áo ra chợ Gia Rây, với 30 đồng được trại
phát, Tăng lên xe lam ra ngã ba ông Đồn. Tăng đứng tần ngần ở đó, tay
cầm hơn 20 đồng còn lại, không biết đi hướng nào. Còn mấy ngày nữa là
Tết rồi. Ngày thường còn chưa biết sống đâu, nói chi Tết. Y nhìn dọc
theo quốc lộ, ra hướng Bắc, bỗng trong trí y hiện ra lờ mờ tấm ảnh mà y
từng được coi nhiều lần trong trại cải tạo: Hình lăng "bác Hồ vĩ đại" có
cờ đỏ cắm trên nóc cao.
Tăng thở dài, nhìn về hướng Nam, y thấy xa xa, có trụ sở xã hay gì đó,
cũng có cây cờ đỏ đang bay lất phất. Tăng sực nhớ "đất nước thống nhất"
đã mấy năm nay rồi, cờ xanh đỏ "mặt trận" ngày y đi "cải tạo" bị vứt vào
góc tủ rồi, chỉ còn cờ đỏ sao vàng thôi. Tăng bỗng nghe sau lưng y,
phía chân núi Chứa chan, tiếng còi tàu xe lửa hú lên dằng dặc một hồi
dài. "Hay mình nằm dài trên đường xe lửa, xe chạy qua cái ào, thế là
xong", Tăng nhủ thầm.
"Nhưng biết đâu tới khi tàu sắp chạy qua thì mình lại hốt hoảng nhãy ra
khỏi đường rầy". Ý nghĩ đó làm Tăng buồn cười mà y cũng không thể cười
được
Worcester, cuối thu Đinh Sửu.
tuệ chương
(Sự kiện là có thật, chi tiết do tác giả hư cấu).
Ghi chú:
(1) Đội ngũ dân biểu: Tiếng gọi đùa những người đạp xe xích lô, người "dân biểu" đạp đi đâu thì đi đó.
(2) "Gô": hộp đựng sữa Guigoz bằng nhôm, không sét, xài bền, "cải tạo" thường dùng để nấu, đựng thức ăn.
(3) Câu "cải tạo" mỉa mai mỗi khi nghe CS nói "khoan hồng"
LÊ THỊ HOÀNG ANH * XẾP VÀO KỶ NIỆM
XẾP VÀO KỶ NIỆM
LÊ THỊ HOÀNG ANH
Thúy đang loay hoay xếp lại chồng sách báo ngổn ngang trên giường thì nàng nghe tiếng con trai gọi:
- Mẹ ơi! Con làm bài toán đố này không được, Mẹ chỉ cho con đi Mẹ! - Ừ,
chờ Mẹ một chút. Cầm quyển vở của con lên tay, chỉ đọc thoáng qua, Thúy
không khỏi cau mày khó chịu khi thấy lối tuyên truyền rẻ tiền của các
cấp lãnh đạo ngay cả trong việc giáo dục trẻ con: " Trong một trận đánh,
ngày đầu quân ta anh hùng giết được 4 tên lính Ngụy. Ngày thứ hai, giết
thêm được 8 tên. Ngày thứ ba, giết được 2 tên. Vậy ba ngày đánh giặc,
chiến sĩ ta diệt được bao nhiêu tên lính Ngụy cả thảy?". Thúy thừ người
suy nghĩ. Bé Kiệt thấy Mẹ im lặng quá lâu, nó tựa đầu vào bắp vế Mẹ, hỏi
khẽ: - Bộ khó quá, Mẹ cũng không làm được hả mẹ?
Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng biết chắc con mình khi nộp bài lên cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt được điểm cao. Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!
Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng: - Ai đó? - Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"! - Nhưng bà là ai? - Tui là A Múi! - A Múi là ai, tui đâu có quen! - Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui! Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi: - Cô có phải là Lê Thị Thúy không? - Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà? - Có phải cô có hai thằng "con chai"? Thúy nghi ngờ: - Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá! - Mà có đúng hông đã? - Thì đúng! - Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!
Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt: - Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi. - Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ! Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm. - Không! Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi? - Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà? Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem.
Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình. - Đó! Hai thằng con của tôi! Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy: - Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả! Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng: - Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó! Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy: - Ký "dận" vô đây đi! - Viết gì bây giờ hả Dì? - Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!
Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt: - Mời Dì uống miếng nước rồi đi! Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!" Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức.
Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà. Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn:" Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được.
Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ! Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài.
Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà... Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta bà la bài bài: - Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả? Một tay bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói: - Cháu không phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi.
Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi! Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên: - Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày! Tiếng cười xen lẫn tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao? Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước " phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay.
Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung! Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn.
Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy... Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát...Những cơn sóng dữ...đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.
Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và...tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp...kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá. Trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!
Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy! Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ: - Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba? Thúy im lặng vì nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào?
Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải trả lời bừa đi cho xong: - Thì phải vài ba bữa nữa người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con! Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu và càu nhàu: - Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không muốn ở đây, nắng quá hà! Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo: - Các con mặc áo vào để che nắng thì bớt nóng! Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực.
Thúy vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau: - Bữa nay mẹ nói mình được ăn no! Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng.
Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát bài quốc ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..." Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn.
Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra từng mảnh! Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế.
Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát. Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: " Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong.
Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là "Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến! ). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ".
Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì? ". Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không... Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.
Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ". Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ... Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con! "
Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán....bán máu để nuôi con!" Những cuộc hành trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn....và vĩnh viễn nàng xếp vào kỷ niệm. :::
Lê Thị Hoàng Anh:::
Thúy cười buồn vì nàng cũng không biết phải giải thích thế nào với con. Từ biến động Bẩy Lăm, chồng đã theo gia đình di tản,Thúy và hai con còn kẹt lại, lòng Thúy đã nhen nhúm ý nghĩ táo bạo là sẽ tìm đường để dẫn hai con vượt biên; giờ đây thêm một vấn đề con của mình với một trí óc non nớt đang bị đầu độc bởi những tư tưởng hèn hạ thế này thì chuyện lìa bỏ nơi đây chỉ là sớm muộn mà thôi! Nàng chỉ giúp con bằng cách bảo nó viết ngắn gọn:4 + 8 +2 = 14 và cố tình né đi chữ "Lính Ngụy" mà nàng biết chắc con mình khi nộp bài lên cho "giáo viên" chấm sẽ không đạt được điểm cao. Những đêm thức trắng, ngồi suy nghĩ đủ phương cách hầu kiếm ra tiền để thực hiện một cuộc vượt biên, cứ mỗi ngày nghe tên một người quen ra đi, có người thoát, có người bị bắt lại, có người thì chưa nghe tin gì cả, tức là coi như mất tích, Thúy như ngồi trên lửa. Phương cách nào để tìm cho ra tiền làm lộ phí, ngày càng đi vào ngõ cụt!
Vào một đêm thanh vắng, Thúy đang vặn nho nhỏ chiếc radio cassette để lén nghe những lời ca ngọt ngào của những ca sĩ đã thoát ra nước ngoài mà chế độ mới có lệnh cấm. Tiếng gõ cửa nhè nhẹ khiến Thúy vội vàng tắt máy, nhét vội cái "đài" xuống gầm giường. Tiếng gõ cửa lớn hơn. Nàng lên tiếng: - Ai đó? - Tui đây! Mở cửa cho tui "dô" rồi nói "chiện"! - Nhưng bà là ai? - Tui là A Múi! - A Múi là ai, tui đâu có quen! - Chời ơi! Mở cửa đi mà! Có tin dui! Thúy yên tâm, mở hé cửa ra nhìn. Một bà xẩm không xấu, không đẹp, mặc chiếc áo hoa nhỏ li ti với quần tây mầu nâu, bà nhìn Thúy một lúc lâu rồi hỏi: - Cô có phải là Lê Thị Thúy không? - Dạ, đúng! Mời bà vào nhà. Có gì không bà? - Có phải cô có hai thằng "con chai"? Thúy nghi ngờ: - Có gì nói lẹ lên, hỏi như điều tra, nghe ghê quá! - Mà có đúng hông đã? - Thì đúng! - Ờ, cô có người "dà" đưa "dàng" cho cô đây nè! À, mà cô cho tôi coi thẻ chứng minh nhân dân đi!
Thúy lặng người, bán tín, bán nghi, chỉ sợ đây là một cái bẫy. Nàng dè dặt: - Thẻ chứng minh của tôi làm rồi mà công an phường chưa phát, chỉ có giấy tạm đây thôi. - Ờ thì giấy đó cũng được. Đưa cho tui coi có đúng tên thì tui mới giao "dàng" chớ! Thúy vẫn cố gắng kiên nhẫn, mặc dù lòng đã tin tưởng không bị lừa gạt đến bảy tám chục phần trăm. - Không! Tôi không nhận đâu! vì tôi đâu có biết ai gửi cho tôi? - Chời ơi! "dàng" mà chê! Nè, ông Đỗ ở Mỹ, chịu chưa hả bà? Giọng của bà ta thay đổi tiếng Bà thay cho tiếng Cô, Thúy nghe và biết bà ta đang giận. Thúy hồi hộp vào trong tủ lấy tờ giấy hộ thân đưa cho bà ta xem.
Nàng không quên đưa ta chỉ hai đứa con đang nằm ngủ say trên giường như ngầm cho biết về gia đình của mình. - Đó! Hai thằng con của tôi! Bà xẩm rút trong cái bao vải lớn ra một bao vải nhỏ, cầm săm soi kỹ rồi mới giao cho Thúy: - Nè, đếm cho đủ đi, mười tám cây tất cả! Thúy run run đón nhận, đặt xuống bàn, đổ ra, hất từng lượng vàng để đếm. Bà xẩm lên tiếng: - Mở "da" coi cho kỹ đi, tui đưa toàn "dàng" tốt không đó! Thúy lặng người một lúc mới đếm hết, nàng không dám tin đây là sự thật. Bà đưa cho Thúy quyển sổ và bảo Thúy: - Ký "dận" vô đây đi! - Viết gì bây giờ hả Dì? - Thì ký tên nói mình "dận" đủ mười tám cây!
Thúy răm rắp làm theo. Bà ta thấy xong công việc bèn cáo từ, lúc đó Thúy mới hoảng hốt: - Mời Dì uống miếng nước rồi đi! Bà ta lắc đầu từ giã, vội vàng bước đi khiến Thúy áy náy vì sự nghi ngờ lúc ban đầu của mình. Áp bao vàng vào lòng. Thúy nghe mắt cay cay, nàng muốn đánh thức hai con dậy để nói cho chúng nghe là ba còn thương nghĩ đến ba mẹ con mình. Nàng thì thầm với chồng ở nơi xa xôi mịt mùng nào đó:" Bất chấp sống hay chết giữa biển khơi, em nhất định sẽ tìm anh! Đợi em! Chờ em, nghe anh!" Cuối tháng ba 1979, Thúy theo lời chỉ điểm của một người bạn thân nàng móc mối được với một chuyến đi và tin chắc sẽ tới bến một cách an toàn - Đó là con đường Ra Đi Bán Chính Thức do nhà nước tổ chức.
Ngày hẹn giao nộp vàng, người anh trai của Thúy đã đi thế, anh ngụy trang trong lon nhôm Guigoz đựng cơm và để vài miếng cá kho nằm trên mặt cơm. Trong lòng Thúy lúc nào cũng run sợ, có thể nàng chỉ cần một người nào đó thét lên một câu "Có gì khai thật đi" là nàng sẽ phun ra tất cả không thiếu một chi tiết nào, nhưng lúc nào nàng cũng im lặng, không nói không cười với ai và cũng không dám bước ra khỏi nhà. Đêm cuối, nàng và hai con tá túc trong nhà người anh để sáng hôm sau ra đi cho được an toàn. Lòng Thúy buồn rười rượi, nàng cứ cầm tay cha già áp lên má mình mà nước mắt tuôn ra, không nói được một lời từ giã vì anh nàng đã dặn:" Ba già rồi, cho ba biết rủi ba lẩm cẩm nói lại với chòm xóm là chết cả lũ đó!" Ba mẹ con ôm nhau ngủ đêm cuối cùng trên đất Sài Gòn, nhưng Thúy không tài nào chợp mắt được.
Hai mắt nàng cứ mở thao láo. Thấp thoáng bóng ông anh đứng lấp ló nhìn vào, Thúy nhoẻn miệng cười để anh không ngượng vì Thúy thấy mắt anh long lanh. Thúy tự dặn lòng: "Đến mỹ, bất cứ giá nào em cũng tìm cách cho anh thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng này ". Ba năm anh đi "cải tạo" về, anh đã đi mòn không biết bao nhiêu đôi dép vẫn không tìm được việc làm bởi lý lịch Sĩ Quan Chế Độ Cũ! Tập trung tại một ngoi chùa Tàu tại Bạc Liêu, đêm đầu tiên Thúy vô cùng vui sướng và tưởng chừng mình chỉ còn gang tấc thôi là đến Mỹ vì đây cũng là nơi tập trung của đám người Hoa cùng cảnh ngộ: Muốn ra khỏi Việt Nam để có một cuộc sống khác ở nước ngoài.
Thúy nghĩ chỉ tới khuya là sẽ được gọi lên xe, ra tầu vì tiền vàng đã đóng cho "chính phủ", ba mẹ con nàng mười sáu lượng. Có sự bao che của nhà nước thì cầm chắc cái thắng trong tay! Thế mà... Đã bốn tuần trôi qua, tiền cầm theo đi đường của ba mẹ con đã gần cạn. Hai hôm nay, hai con còn được ăn cơm để cầm hơi, còn Thúy thì ăn bánh mì không xịt xì dầu, ăn để cốt cầm hơi. Đêm ấy, vừa thiu thiu ngủ thì tiếng la hét ầm ầm cách mùng của ba mẹ con chừng một chiếc chiếu. Đèn bật lên. Một bà xẩm tay túm một thanh niên, tay còn lại đập lia lịa thật mạnh vào mặt cậu ta bà la bài bài: - Ngộ lang ngủ mà mày dám mò ngộ hả? Một tay bị nắm quá chặt, tay kia xá lia lịa, chàng thanh niên nói: - Cháu không phải mò bác đâu! Cháu hết tiền rồi định ăn cắp của bác để ăn chờ ngày đi thôi.
Chờ tầu lâu quá cháu hết tiền rồi! Nghe câu giải thích rõ ràng của cậu ta, bà xẩm dịu bớt, xô hắn ngã sấp xuống nền gạch và bà la lên: - Cái lồ chó lẻ! Lụng tới tao lần nữa, tao quýnh bỏ mẹ mày! Tiếng cười xen lẫn tiếng thở dài của mọi người khi vở kịch kết thúc; nhìn mặt mũi chàng thanh niên sưng vù lên, Thúy bặm môi quay đi hướng khác không bật cười nổi. Nàng chạnh nghĩ đến mình mai mốt đây, trong tình trạng này, sẽ biết xoay sở làm sao? Căn phòng này, mỗi ngày bao nhiêu tấn kịch vui buồn diễn ra một cách bất đắc dĩ. Đã có lần chủ tầu cho biết là được công an báo tin rằng vì quốc tế lên án chế độ " nhà nước " phải tạm ngưng, chờ lệnh mới sẽ cho đi ngay.
Ai cũng hy vọng có tin ra đi đến một cách bất ngờ, nên không người nào dám rời khỏi ngôi chùa, chỉ ra tiệm mua vài món đồ dùng lặt vặt rồi lại về ngay điểm tập chung! Hôm sau, mặt cậu thanh niên sưng mọng lên, cậu vừa mượn được ít tiền của bà sư cô người Hoa để làm lộ phí về lại Sài Gòn xin thêm tiền mẹ già ăn chờ ngày đi. Có lẽ ni cô cũng biết chắc chắn tiền tầu chàng ta đóng đủ rồi thì thế nào cũng phải quay trở lại nên mới yên chí mà cho mượn.
Nhưng định mệnh thật trớ trêu! Ngay đêm ấy đoàn người đi cùng chuyến với mẹ con Thúy có lệnh rời chỗ đến chỗ mới sẵn sàng lên "con cá lớn ". Tất cả đều vui mừng nhưng không khỏi xót xa cho cậu thanh niên bất hạnh ấy... Ba ngày vật lộn với tử thần vì biển động bất ngờ, mọi người chen chúc ngồi trong tầu, vừa đói, vừa khát...Những cơn sóng dữ...đập vào hông tầu khiến tầu bị nứt một đường nhỏ, nước từ từ chảy vào khiến cả tàu náo loạn. Nhiều người thay phiên nhau múc nước chuyền lên boong tàu đổ nước ra ngoài trong lúc tiếng cầu kinh vang lên rì rầm trong hầm tầu nhỏ bé, chật chội. Cuối cùng thì tầu của Thúy cũng may mắn gặp được tầu của Mã Lai vớt và cho vào bờ, một hòn đảo nhỏ vô danh.
Đêm đầu tiên kinh hoàng với những lính Mã Lai về việc chúng lục lọi tìm vàng và...tìm gái. Đêm thứ hai, cả hoang đảo chìm đắm trong im lặng nặng nề đến nghẹt cả thở khi những tiếng bước chân của lính Mã nghe xào xạo trong đêm. Bỗng một tiếng thét vang dội cả khu vực. Thì ra một cậu bé bị bò cạp...kẹp! Những ngày đói khát, những đêm hãi hùng khiến ai cũng lơ láo như là bị đói khát lâu năm. Ngày nóng như thiêu đốt, đêm thì lạnh buốt xương. Cuối cùng...một dịp tình cờ vì có người đói người đói quá. Trèo lêm trộm dừa, gặp lúc máy bay Hồng Thập Tự bay ngang qua, ông ta đánh liều vẫy tay cầu cứu. Thế là người trên máy bay phát giác ra được tầu vượt biển của Thúy bị đám lính Mã Lai giam lỏng để làm tình làm tội. Chiều đó, một chiếc tầu của Hồng Thập Tự đến đảo, thương lượng với đám lính Mã chúng mới chịu cho đoàn người khốn khổ rời đảo để vào đảo khác: đảo Pulau Bidong!
Đến đây rồi, mọt người lại trực diện với những kinh hoàng mới: Không có tiền để dựng lều thì không thể nào có chỗ trú mưa, tránh nắng. Ba mẹ con núp tạm dưới mái hiên của Trạm Y Tế, nhìn vào những căn lều có giường, ghế đóng bằng gỗ thô sơ mà thèm thuồng một chỗ đặt lưng! Ngày cũng như đêm, đi đâu, Thúy cũng đều ôm kè kè cái bao đựng quần áo của ba mẹ con, đó là gia tài duy nhất của mẹ con Thúy! Đứa con trai lớn đột ngột hỏi mẹ: - Mẹ nói tới đây gặp ba mà sao con chẳng thấy ba? Thúy im lặng vì nàng cũng đang lo âu không biết phải tìm chồng bằng cách nào?
Vì lúc Thúy còn ở Việt Nam thì chồng nàng còn có địa chỉ nàng để nhờ người đem "quà" đến, Thúy chỉ biết mù mờ rằng chồng "ở Mỹ", không rõ ở đâu trên nước Mỹ. Nhìn con thơ cứ ngước mặt lên chờ câu trả lời, Thúy đành phải trả lời bừa đi cho xong: - Thì phải vài ba bữa nữa người ta mới cho mẹ con mình gặp ba chứ con! Đứa con của Thúy đưa tay lên gãi đầu và càu nhàu: - Sao ai cũng có nhà mà mình không có nhà hả mẹ? Con không muốn ở đây, nắng quá hà! Nhìn tấm lưng trần đen đủi của hai đứa con ốm tong ốm teo, Thúy cố nén xúc động, bảo: - Các con mặc áo vào để che nắng thì bớt nóng! Danh sách tầu của Thúy đã được Cao Ủy Tị Nạn chấp thuận. Lần đầu tiên cả tầu được phát lương thực.
Thúy vui thật sự khi nghe hai đứa con nói với nhau: - Bữa nay mẹ nói mình được ăn no! Đứng dưới cái nắng gay gắt của Mã Lai, hơi nước biển tỏa lên không đủ cho mọi người một chút mát mẻ nào, thêm chứng kiến chứng kiến chuyện một thanh niên lớn tuổi cứ trần truồng ngớ ngẩn đi lang thang, nhiều lần cảnh sát Mã Lai túm lại lôi vô lều mặc quần áo cho, vài giờ sau người vẫn y như cũ! Hỏi thăm mới biết anh ta vượt biển cùng gia đình, khi tàu ra khơi bị ngu phủ Thái Lan giở trò hải tặc xáp vào tàu anh và đàn bà, con gái trên tàu hầu như không thoát khỏi bàn tay hung bạo của chúng.
Trong số đó có vợ anh, có em gái anh! Anh đã chống lại và anh bị chúng ôm ném mạnh vào khoang tầu va đầu quá mạnh nên bây giờ ra nông nỗi thế! Vợ anh, em gái anh bị bọn hải tặc hành hạ xong ném xuống biển cùng với trẻ con, trong đó có đứa con nhỏ của vợ chồng anh. Không phải chỉ có hai người đàn bà xấu số, còn nhiều nữa! Người thanh niên này khi được cứu vớt (cùng với những người khác) thì trở nên...vô hồn, khi thì nhớ, nhớ mang máng, khi thì quên, lắc đầu lia lịa và nước mắt ngập mặt! Anh ta có lúc thấy thật hiền, có lúc tự dưng hung dữ, la hét om xòm! Anh điên rồi! Anh thật sự là một người điên! Cũng may cho anh, anh không biết mình cô đơn! Anh không biết mình đang ở trên đất lạ, anh vẫn tưởng mình còn ở trong trại Cải Tạo, nhiều lúc anh gào tên "Bác Hồ" và hát bài quốc ca của nhạc sĩ Văn Cao " Thề phanh thây xác quân thù..." Qua tuần lễ sau, cũng trong lúc chờ đợi để lãnh phần rau tươi, Thúy thấy hai thanh niên gầy gò đang dìu một cô bé đến trạm Y Tế với nét mặt đau đớn.
Nàng tò mò hỏi han thì biết cô bé ấy mười ba tuổi, trên đường vượt biển bị đám hải tặc Thái Lan gồm năm tên thay phiên nhau hãm hiếp. Vì cô còn quá nhỏ, từ tuổi tác đến vóc dáng nên chúng đã dùng dao xẻ ra cho rộng hỏng thỏa mãn thú tính. Thúy chỉ biết im lặng dõi mắt nhìn theo từng bước chân của những người đồng bào mình mà lòng còn hơn bị ai xé rời ra từng mảnh! Một buổi sáng, Thúy đang dùng sức để kéo hai đứa con lên con dốc để đến nhà một người quen hứa cho Thúy một ít sữa bột bồi dưỡng cho hai con. Bỗng một trong hai thằng bé hét toáng lên. Thúy hoảng hốt bế thốc nó đến trạm Y Tế.
Thằng nhỏ út thì không biết chuyện gì, thấy mẹ bế thằng anh thì cứ cắm đầu chạy theo mẹ, vừa vấp vừa khóc, rồi lại lật bật ngồi dậy, đứng lên lảo đảo chạy theo như cái bóng...đến trạm Y Tế. Bác sĩ khám, mới biết: bệnh thòng ruột của nó bị tái phát. Đợi tin chồng từ hy vọng đến tuyệt vọng, Thúy mệt mỏi với bao nhiêu áp lực đè nặng. Thúy đã gửi đi ba mươi lá thư nhờ người mang đi khi họ rời đảo với địa chỉ ghi ở Pháp trên họ của người em chồng (cô ta có chồng là người Ấn Độ). Bức thư thứ ba mươi ba, câu cuối cùng, Thúy nhớ hoài nàng đã viết trong đau đớn: " Nếu anh đã có gia đình cũng xin cho em biết để em định liệu đời em và hai con - Thúy." Bức thư này Thúy nhờ hội Hồng Thập Tự chuyển hộ với địa chỉ KBC 3750 dưới họ tên cấp bậc của chồng chớ không với cái địa chỉ tại Pháp. Lá thư viết trên giấy bạc của một gói thuốc lá Thúy nhặt được trên bờ biển Bidong.
Thư đi, gặp lúc phái đoàn Úc dến nhận thêm một số người di dân gọi là "Hốt Rác" ( tiếng lóng có nghĩa là ai -không -có - thân - nhân, hai chữ hốt rác từng lọt vào tai phái đoàn Mỹ, họ đã giải thích nghe rất cảm động:" Chúng tôi làm việc nhân đạo và các anh chị không phải là rác rến! ). Các phái đoàn không biết có cảm thông trước tình trạng số người vượt biển phải ở trại ngày càng đông, ngày càng lâu, tự họ đã cảm thấy mình chẳng khác nào đồ bỏ rồi! Thúy nản lòng lắm, nàng xin đi Úc và được phái đoàn Úc gọi lên phỏng vấn. Chỉ hôm sau là có người tới đón số người nhập cư Úc. Thúy không còn tin tưởng ở số may của mình nữa (nàng có đi coi bói ở Việt Nam, bà thầy bói nói Thúy có số may, chao ôi!). Điều duy nhất lúc này nằm trong đầu Thúy là làm sao cho hai con lên được một lục địa văn minh, vào một bệnh viện xin chữa bệnh thòng ruột cho thằng con lớn. Hai đứa con của nàng ngày một héo hắt, tiều tụy, trông thương quá là thương.
Nhưng cái thư viết trên tờ giấy thuốc lá thế mà may mắn! Hội Hồng Thập Tự đã làm phóng ảnh nó và gửi đi các hội thiện nguyện nhờ tìm hỏi giùm người sĩ quan có họ tên đó, từng ở KBC đó và trời ơi...chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thì ba mẹ con Thúy lên tàu đi Úc, loa phóng thanh vang dội tên nàng gọi lên văn phòng trại nhận một điện tín khẩn! Thúy đâm đầu chạy lên phòng thông tin! Nàng run rẩy đón nhận tờ điện tín, mở ra đọc liền: " Em vẫn là dâu nhà họ Đỗ. Anh luôn yêu và chờ em cùng hai con. Anh sẽ làm thủ tục bảo lãnh gấp ".
Nàng lao đầu chạy thẳng vào chỗ phái đoàn Mỹ và Úc, may mắn gặp một người Mỹ biết nói tiếng Việt, người đó chận Thúy lại, hỏi: "Bà cần gì? ". Thúy chìa tờ điện tín và nàng nói, nói thật nhiều, bao nhiêu uẩn khúc trong lòng nàng tuôn ra hết, không cần biết người trong phái đoàn Mỹ có hiểu hay không... Không lâu sau đó, ba mẹ con Thúy đoàn tụ với chồng, với gia đình chồng thì đúng hơn. Tới Mỹ, Thúy vỡ lẽ ra là người em bà con bên chồng nàng không ở Pháp nữa, lâu rồi, cả gia đình dọn qua Mỹ trước khi thư nàng từ đảo tị nạn gửi đi. Ba mươi hai bức thư không được phát hoàn, cũng đúng thôi vì phương tiện ở đảo thủa ấy thật khó khăn.
Đi về phía mặt trời mọc, nhiều khi Thúy bồi hồi nhớ lại câu của người tài công chiếc tàu vượt biển đã nói: " Cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi tới, tới đâu cũng được, càng xa Việt Nam Xã Hội Chủ NGhĩa càng tốt ". Chiếc tầu của Thúy tắp vào Mã Lai có lẽ vì xuôi dòng nước và con sóng. Từ năm 1979 đến nay, 2002, Thúy nhớ lại, giật mình, tưởng mình vừa tỉnh một cơn mơ... Chuyến đi của Thúy có gian nan thật đó, nhưng cũng nhiều may mắm là đã tới bến bờ, trong khi bao chuyến khác, cái may thật ít, cái rủi thì nhiều. Mấy câu thơ của ai làm ra trong thời dân mình bỏ nước, đơn sơ, mộc mạc mà thâm thúy lạ lùng:" Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con! "
Ai cũng hiểu rằng nếu đến vùng đất tự do an lành thì con sẽ giử tiền về để đền ơn công lao sinh thành dưỡng dục của mẹ, nếu chẳng may gặp phong ba bão táp giữa biển khơi thì xác con làm mồi cho cá. Là nếu bất hạnh hơn cả cái chết là bị công an biên phòng bắt được thì..."Má ơi! Con đang bị tù tội đây, má hãy bán....bán máu để nuôi con!" Những cuộc hành trình trên biển Đông là một niềm đau của dân tộc Việt. Hầu như ai cũng muốn quên đi để sống, hôm nay có người khơi lại, Thúy nghe nhức nhối như muôn vàn mũi kim châm vào tim, và Thúy viết - một lần sau cuối rồi vĩnh viễn....và vĩnh viễn nàng xếp vào kỷ niệm. :::
Lê Thị Hoàng Anh:::
GS. ĐÀM TRUNG PHÁP: NỖI NIỀM NGHIỆT NGÃ TRONG THƠ ĐINH HÙNG
ĐÀM TRUNG PHÁP: NỖI NIỀM NGHIỆT NGÃ TRONG THƠ ĐINH HÙNG
Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2017
Đinh Hùng qua đời vì bạo bệnh vào
mùa thu 1967 tại Saigon trong một ngày gió mưa tầm tã, lúc mới 47 tuổi.
Vài tuần sau đó, Vũ Hoàng Chương (người anh rể cũng là thi hữu thân nhất
của Đinh Hùng) đã nói chuyện rất cảm động về cuộc đời của nhà thơ yểu
tử tại Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Qua bài nói chuyện “Nhớ Đinh Hùng” của ông, ta được biết vì đâu mà Đinh Hùng có cái “nguồn thi hứng ảm đạm bi thương đến rùng rợn tê điếng cả tâm hồn.” Năm
Đinh Hùng 11 tuổi, chị Tuyết Hồng, một hoa khôi 18 tuổi đời, vì buồn
chuyện tình duyên đã tự trầm tại Hồ Trúc Bạch. Vài tháng sau, thân phụ
thất lộc khi chưa đầy 50 tuổi. Và 3 năm sau nữa, chị lớn nhất mang tên
Loan cũng qua đời trong tuổi thanh xuân! Trại Trung Phụng, sản nghiệp to
lớn nhà họ Đinh, vẫn theo lời Vũ Hoàng Chương, “quả là một gia tài đẫm lệ; bộ xương khô và lưỡi hái dài nanh ác lúc nào cũng như lẩn quất trong hang cây khế, cây cam.” (Trung Tâm Văn Bút Việt Nam 1969).
Đang học chương trình tú tài thì Đinh Hùng bỏ học để bắt đầu đi tìm những say mê của đời phóng khoáng:
Ta ném bút, dẫm lên Sầu một buổi,
Xa vở bài, mở rộng Sách Ham Mê,
Đã từng phen trèo cổng bỏ trường về,
Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn.
Đời đổi mới từ ngày ta dấy loạn,
Sớm như chiều hư thực bóng hoa hương.
Ta ra đi tìm lớp học thiên đường,
Và khi đó thì mẹ yêu ngồi khóc.
(Khi Mới Nhớn)
Cái
“bóng hoa hương” quan trọng nhất đời Đinh Hùng là một người bà con có
họ xa, mang tên Liên, mà nhà thơ đã yêu từ “độ em còn trèo cây khế, vin
hai quả xanh bên tường.” Nàng lớn lên thành một thiếu nữ xinh đẹp và
tươi tắn:
Nắng vàng năm xưa đã tắt,
Cô bé ngày xưa lớn rồi.
Hoa hồng vừa nở trên môi
Và một trời thu trong mắt.
. . . . .
Em là Tiên Nữ diễm kiều,
Vin hái hoa trong vườn quý.
Dò theo những bước hương yêu,
Còn tôi đi làm thi sĩ.
(Tiếc Bướm)
Tiên Nữ diễm kiều đã có với nhà thơ nhiều kỷ niệm khó
phai:
Người đẹp ngày xưa tên giống hoa,
Mùa xuân cây cỏ biếc quanh nhà.
Thùy hương phảng phất sen đầu hạ,
Lén bước trang đài tới gặp ta.
. . . . .
Yểu điệu phương đông lướt dưới đèn,
Ta nằm mộng đẹp đêm thần tiên.
Dáng xuân nghiêng mặt cười không tiếng,
Lửa hạ lên rồi … Ôi Ý Liên!
(Liên Tưởng)
Bài
thơ phảng phất chất thơ Charles Baudelaire, một nhà thơ Pháp thuộc thi
phái Tượng Trưng mà Đinh Hùng ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng không ít (Đinh
Hùng 1971). Thi phái Tượng Trưng yêu chuộng những biểu tượng riêng tư,
giữa cả rừng biểu tượng trong thiên nhiên (Michel Quesnel 1987). Nhiều
từ ngữ trong hai đoạn thơ ở trên chứa đựng ý nghĩ về “hoa sen” (tên
giống hoa /sen đầu hạ / lửa hạ / Ý liên) đều là những biểu tượng riêng
tư giữa nhà thơ và người yêu trong thơ. Những “mạch nguồn giao cảm”
(ngôn từ của Đinh Hùng) thấy trong “Liên Tưởng” rất có thể là do ảnh hưởng trực tiếp của bài “Correspondances” của Baudelaire – trong đó những mùi hương, những màu sắc và những âm thanh tương ứng.
Đinh
Hùng và Ý Liên yêu nhau tha thiết trong tuyệt vọng. Nàng qua đời vì
bệnh lao khi Đinh Hùng 20 tuổi (có lẽ lúc ấy Ý Liên tuổi chưa đến 20).
Mất nàng, nhà thơ đau khổ đến điên dại. Cái ác nghiệt của Thần Chết lần
này thực quá sức! Đã đến lúc nhà thơ chấp nhận cái chết, như thấy trong
hai câu bi thảm trong thi tập “Mê Hồn Ca”:
Đi đi cho hết dương trần
Ngày mai tìm bóng Tử Thần mà yêu.
Từ
cái định mệnh nghiệt ngã ấy, thi nhân đã viết lên những lời thơ âu yếm –
nhưng cũng ma quái vô cùng – để nhắn vọng về thế giới bên kia, nơi có
người yêu chàng hiện hữu:
Ta gửi bài thơ anh linh,
Trời cuối thu rồi … Em ở đâu!
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu.
. . . . .
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?
(Gửi Người Dưới Mộ)
Con đường ngắn nhất để đi vào thế
giới siêu tưởng của Đinh Hùng cũng là con đường Charles Baudelaire đã
chọn, đó là kết bạn với nha phiến. Trong bài “La Vie Antérieure” (Tiền Kiếp) của thi tập “Les Fleurs du Mal”
(Ác Hoa), Baudelaire đã cho hồn phách phi lạc về kiếp trước để thấy
mình như vua chúa sống trong cung điện nguy nga, an nhàn hưởng lạc thú
đầy hương sắc. Nếu cái nhựa đắng thoát trần đã giúp Baudelaire quên đi
nỗi buồn thế sự và trở về với cái quá khứ uy nghi giả tưởng của mình,
thì nàng tiên nâu đã giúp Đinh Hùng chuyển cái tê mê nha phiến sang
khoái cảm ái tình:
Trong im lặng, tôi rùng mình nín thở,
Cầm tay em, nâng từng ngón tay hoa.
Tình yêu tràn trong thớ thịt, làn da,
Tình yêu rợn tự đầu mày chân tóc.
(Giáp Mặt Phù Dung)
Trong
thế giới siêu tưởng, Đinh Hùng đóng hai vai trò mâu thuẫn, khi thì hiền
lành lúc thì dữ tợn. Chàng đã gặp nhiều người đẹp mang tên nên thơ như
Nữ Chúa Sầu, Em Huyền Diệu, vân vân, thường là những nhan sắc liêu trai
trong thi tập “Đường Vào Tình Sử.”
Ta thường có những buổi sầu ghê gớm
Ở bên Em … Ôi, biển sắc rừng hương!
Em lộng lẫy như một ngàn hoa sớm,
Em đến đây như đến tự thiên đường.
(Kỳ Nữ)
Đối với những giai nhân giả tưởng ấy, thi nhân lãng mạn và tình tứ lắm:
Em chẳng tìm đâu cũng sẵn thơ,
Nắng trong hoa, với gió bên hồ
Dành riêng em đấy khi tình tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa
(Tự Tình Dưới Hoa)
Ngược
lại, trong một bài thơ khác, chàng đóng một vai rất dữ tợn. Đó là một
con người nguyên thủy vóc dáng cổ quái, từ thiên nhiên huyền bí trở về
đô thị tìm người yêu:
Ta về đây, lạ hết các người rồi,
Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống.
Trong bỡ ngỡ duy lòng còn chút mộng,
Ta đi tìm người thiếu nữ ngày xưa.
Nàng không mong, ta đi đến không ngờ,
Giây phút ấy thực mắt nhìn tận mắt,
Ta mỉm cười bỗng thấy nàng che mặt
Ta giơ tay, nàng khiếp sợ lùi xa.
(Bài Ca Man Rợ)
Bị
nàng ruồng rẫy, thi nhân điên lên như một con thú dữ, giết nàng tàn
bạo, phá tan thành quách, rồi bình tĩnh trở về cõi nguyên thủy:
Ta thản nhiên, trở lại núi rừng,
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.
Phải
chăng nỗi cô đơn bi thương trong cuộc sống trần thế đã xâm nhập cõi thơ
siêu thực của Đinh Hùng, nơi mà nhà thơ chạy trốn cuộc đời? Ta thương
cảm cho định mệnh thảm thê của Đinh Hùng, nhưng cũng chính nhờ vào cái
kiếp sống tuyệt cùng vô vọng đó mà ta được đọc những vần thơ trác tuyệt
nhất của ông – một nhà thơ lớn đã dùng thơ để bất tử hóa cái định mệnh
quá bi thương của mình.
THƯ TỊCH
Đinh Hùng (1971) Đốt Lò Hương Cũ. Saigon: Lửa Thiêng.
Đinh Hùng (1972) Mê Hồn Ca. Saigon: Khai Trí.
Đinh Hùng (1961) Đường Vào Tình Sử. (Đại Nam in lại tại Mỹ, không đề năm nào).
Michel Quesnel (1987) Baudelaire, Solaire et Clandestin. Paris: Presses Universitaires de France.
Thi Vũ (1993) Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam. Paris: Quê Mẹ.
Trung Tâm VBVN (1969) Câu Chuyện Văn Chương. (Xuân Thu in lại tại Mỹ, không đề năm nào).
VÕ PHƯỚC HIẾU * NỖI BUỒN HOÀI NIỆM
NỖI BUỒN HOÀI NIỆM
VÕ PHƯỚC HIẾU
Tôi vào năm thứ nhất trường Trung học Trương Vĩnh Ký thường gọi là
trường Pétrus Ký, niên khóa đầu tiên khi trường được quân đội viễn chinh
Pháp sang tái chiếm Đông Dương sau thế chiến thứ hai, giao hoàn lại
chánh quyền Việt Nam. Đó là năm 1947 sau một thời gian trường ăn nhờ ở
đậu nơi nhiều cơ sở giáo dục khác như trường Sư Phạm ở cạnh Sở Thú,
trường Nữ Trung học Gia Long, chủng viện Mossard, trường Marie Curie…
Chính nơi trường Marie Curie nguy nga đồ sộ nầy, thấp thoáng đó đây
nhiều khuôn mặt tây đầm oai vệ với quần áo thẳng thớm phẳng phiu, thằng
nhỏ nhà quê là tôi chưa hoàn hồn khi đang ngơ ngác, chới với giữa đô
thành tráng lệ, lại ngỡ ngàng âu lo lúc dự thi tuyển vào trường Pétrus
Ký. Và cũng trong năm 1947 đó, trường mở lại chế độ nội trú sau nhiều
năm gián đoạn vì thời cuộc và chiến tranh.
Một may mắn khác là tôi thuộc thành phần học sinh nội trú này. Chẳng qua
nhờ ăn "dưa leo chấm nước cá kèo" nên theo chân "mấy anh học trò nghèo
học buộc xi ê". Nhờ ông trời thương vì với lớp nghèo như tôi thi tuyển
vào trường Pétrus Ký lúc bấy giờ mà trợt một keo thì cuộc đời kể như đi
đứt. Nói theo ngôn ngữ dân gian chân quê của bà con tôi là kể như tôi
sụm bà chè luôn. Lý do là tôi đâu còn cơ hội nào nữa để được dự thi lần
thứ hai.
Chế độ tuyển chọn thời thực dân thịnh trị vô cùng khắc khe nghiệt ngã.
Bao nhiêu nam nữ hiếu học cầu tiến thời đó đã mất hết tuổi thanh xuân
mộng mơ của mình và đành chấp nhận định mệnh phải bỏ dở dang việc học
hành để tiến thân khi dứt cấp sơ học.
Thực tình cũng nhờ tôi tốt số do nhờ ơn trên và hồng phúc dòng tộc hay
sao mà tôi lại đậu có hạng trong kỳ thi tuyển khó khăn đó. Và tôi đương
nhiên được ban giám đốc nhà trường chọn vào chế độ nội trú. Một thành
quả tôi không hề dám ước mơ nhưng đã là sự thật. Một nỗi mừng không bút
mực nào tả được đối với tôi lúc bấy giờ. Không như ở mẫu quốc này hiện
nay, gia đình nào không có thu nhập cao, con cái đều được cấp học bổng
do chánh sách nâng đỡ và khuyến khích học hành của chánh quyền. Cho dù
kết quả của chúng nơi trường ốc có đạt như ý muốn hay không.
Mấy năm ở nội trú, tôi giữ rất nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đầu đời này
khó quên, không sao kể xiết. Chính nơi đây, tôi đã gặp "anh hùng tứ xứ",
từ cuối mũi quê hương Bạc Liêu, Cà Mau quanh năm rì rào sóng vỗ đến Tây
Ninh ngất nghểu Núi Bà huyền thoại, Biên Hòa bắp ngon bưởi ngọt... từ
vùng biển mặn Gò Công, Mỹ Tho đến Hà Tiên với Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch
Động thôn vân v.v... trong Hà Tiên thập cảnh, Châu Đốc những ngày Vía Bà
"ngựa xe như nước, áo quần như nêm"... Toàn là những tay hiếu học say
mê cầu tiến.
Trường bãi bỏ hẳn chế độ nội trú khoảng năm 1951 sau đám tang Trần Văn
Ơn được tổ chức trong khuôn viên nhà trường với thành phần nồng cốt là
học sinh nội trú. Đây là một trong những đám tang lịch sử trọng thể hiếm
có sau đám tang vĩ đại của chí sĩ Phan Châu Trinh thuở trước. Từ năm đó
trở về sau, trường chỉ nhận duy nhứt học sinh ngoại trú mà thôi.
Gần năm mươi năm tuần tự tiếp nối, kẻ mất người còn, trải qua lắm biến
cố biển dâu, đất nước đổi đời. Bao nhiêu bè bạn bằng hữu ngày xưa, nay
dở sống dở chết nơi "xứ tù chung thân" Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bao
nhiêu tri âm tri kỷ lưu đày nơi xứ lạ, ngậm đắng nuốt cay khắp năm châu,
canh cánh trong lòng nỗi hờn ly hương mãi mãi quặn xoáy không nguôi.
Tuy nhiên dù hoàn cảnh có oái oăm nghiệt ngã đến thế nào nhưng trong tâm
tư tình cảm của chúng tôi vẫn in sâu, đậm nét câu đối chữ Hán do giáo
sư Ưng Thiều viết và được khắc trên hai cột trụ đứng hoành tráng ở cổng
chánh của trường:
«Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt
Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm».
Lật bật chúng tôi đã trang bị đầy đủ rương hòm để vào nhập học năm thứ
nhứt, khởi sự cuộc sống tập đoàn với những sinh hoạt râm rấp theo một
nội qui chặt chẽ. Chương trình học giao tiếp giữa hai bậc tiểu học và
trung học nhằm giúp đám học sinh "ra ràng" còn non chèo chúng tôi làm
quen với nề nếp, phương pháp và nhịp độ sinh hoạt mới của trường ốc. Do
vậy, chưa có những gò bó, bức bách khắc khe như mấy năm sau này khi phải
chuẩn bị trần thân khổ ải, thi cử trầy vi tróc vảy do chính sách giáo
dục của thực dân Pháp.
Họ chủ trương hạn chế nhân tài bản địa vì sợ nguy cơ tiếp xúc nền tảng
văn chương văn hóa phóng khoán cùng những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng,
bác ái và tự do, dân chủ Tây Phương. Nhưng trong thực tế, họ đành chấp
nhận thất bại chua cay. Dù họ có trăm mưu ngàn kế dùng những thủ đoạn và
biện pháp độc tài độc đoán thất nhân tâm cách nào đi nữa vẫn không sao
thoát khỏi nấm mồ ô nhục, nấm mồ phũ phàng chôn chính chế độ của họ sau
thế chiến thứ hai.
Chúng tôi học tà tà. Hằng ngày, đa số chúng tôi mặc bộ đồ bà ba trắng phao được ủi xếp nếp. Giống như dáng vóc các anh công tử bột miệt vườn, chúng tôi đều mang guốc dông nhẹ hêu, lũ năm lũ ba kéo lẹp xẹp đến lớp học, qua dãy hành lang vừa dài hun húc, vừa khoản khoát, lúc nào cũng sạch sẽ lộng gió. Vài đứa thuộc hàng giàu có, con cái các địa chủ lục tỉnh khét tiếng, mang guốc lồng mức rắng chắc, nặng ì, mỗi bước đi nện mạnh xuống sàn gạch nghe lốp cốp lốp cốp như tiếng ngựa phi nơi đại đạo.
Bài vỡ đã ít. Tuy vậy, sáng nào chúng tôi cũng có lệ "ngồi ê tuýt" ôn
lại bài học trong ngày hay chuẩn bị chu đáo sách vỡ hoặc dụng cụ cần
thiết... trước khi đến lớp. Ngán nhứt là lúc "ngồi ê tuýt" bắt buộc vào
buổi tối. Thì giờ quá dư giả, thừa mứa. Không biết phải làm gì. Chập
chập chúng tôi cứ nhìn đồng hồ tay, thấy kim đồng hồ dường như ngừng
chạy hẳn.
Thật chán phèo! Những lúc ấy, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng
dài mài đủng quần ở ghế nhà trường tiểu học tại quận nhà. Nơi đây có quá
nhiều thoải mái, tự do nên trong lòng tôi thoáng dậy vu vơ bao nhiêu
tiếc nuối ngậm ngùi, phảng phất rất nhiều khuôn mặt bạn bè nối khố
nay đã chia tay tản lạc, thằng góc biển, đứa chơn trời mù tăm.
Giờ đây, có đứa học hành xuôi chèo mát mái, đổ đạt thành danh thành tài.
Chúng ăn nên làm ra, cuộc đời lên hương như diều gặp những ngày lộng
gió, lúc nào cũng ăn trên ngồi trước. Thật tâm mừng cho chúng nó. Và
chúng tôi cũng tự hào và hãnh diện chung cho tăm tiếng của nhà trường mẹ
nữa.
Nhưng đại đa số còn lại, ngày ngày tất bật bon chen kiếm sống, chắt chiu
từng đồng xu cắt bạc mà vẫn chưa yên thân yên phận. Nơi đây, tôi xin
được chia xẻ nỗi niềm với những đồng môn bất hạnh này. Từng đứa từng tên
cứ mãi ẩn hiện vấn vương trong tôi những lúc bâng quơ ngoái nhìn về dĩ
vãng. Mới hay những hình ảnh mất đi bao giờ cũng dễ nhớ và đòng đọng dài
lâu trong mỗi con người chúng ta.
Nghĩ đến ngày may mắn gặp lại đám trời đánh, tinh nghịch khuấy phá thuở
thiếu thời này thật vô cùng mong manh mà nghe xao xuyến, buồn vô hạn.
Đôi khi bên tai tôi lại văng vẳng lời của thầy tôi nơi trường tiểu học,
dong dài về huyền sử của dân tộc, về định mệnh của người Việt nam qua
truyện kể Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Hai ông bà đã chia tay nhau, mỗi người dẫn dắt năm mươi con theo hai ngả
khác nhau. Hai ngả cách ngăn diệu vợi: rừng núi chập chùng và biển cả
thẳm sâu. Những lúc đó, tôi trầm ngâm lặng thinh như cúi đầu chấp nhận
định mệnh của chính mình!?
Ngồi không khơi khơi nơi phòng «ê tuýt», chúng tôi đâm ra buồn ngủ. Lại
không được quyền ngủ. Chỉ còn nước tự cứu rổi lấy mình là ngủ gà ngủ gật
một vài thoáng ngắn ngũi chờ tiếng chuông reo giải thoát cuối giờ. Vì
đây là giờ học bắt buộc mà!
Các thầy giám thị rất dễ thương. Thầy Nguyễn Văn Tình, thầy Thân, thầy
Xáng, thầy Trương Minh Ứng, thầy Hồ Văn Trị, thầy Nguyễn Gia Tốn, "papa"
Lê Văn Khiêm v.v... thỉnh thoảng hò hét cầm chừng để áp đặt trật tự
phòng ốc. Hoặc phân xử những vụ kiện cáo lặt vặt không đâu đâu giữa
chúng tôi.
Những lúc này được nghe hai bên nguyên cáo và bị cáo cãi qua cãi lại
theo kiểu móc họng, giành phần thắng về mình. Thêm mấy đứa nhân chứng
lứng khứng, làm nhưn làm nhụy, nhập nhầy lải nhải trước sau bất nhứt,
không ra hồn. Rồi những lời phán quyết hàng hai, huề cả làng, làm đẹp
lòng tất cả của các thầy là dịp cứu tinh qua giờ giấc.
Có đêm, ông Motais de Narbonne, Tổng Giám thị người Pháp cuối cùng của
trường, bách bộ hóng mát xa xa bên ngoài phòng học để nhắc nhở sự hiện
diện dù chiếu lệ của ông. Lúc ấy, ông đã lụm khụm, đi đứng chậm chạp khó
khăn, thêm móm xọm, sắp về hưu.
Càng về khuya càng buồn ngủ hơn. Hai mí mắt mỏng tanh, nhẹ bong cứ kéo
xụp xuống nặng nề, dù chúng tôi cố nhướng cách mấy cũng không sao hé mắt
được. Thỉnh thoảng, các thầy gõ thước cốp cốp rồi gọi từng tên cảnh
cáo, nhắc nhở phải học bài làm bài hoặc khuyên đọc sách trao dồi kiến
thức.
Lớp học lại trở nên im thin thít. Từng chập từng chập, chúng tôi nghe
mấy con tắc kè sống lâu năm, to thân lớn xác, thường thập thò ở cửa
chánh hướng vào "đọt toa", kêu lên những tiếng nặng nề ngắt khoảng, trầm
buồn khôn tả. Những lúc ấy, tôi cảm thấy trong lòng mình dấy lên nỗi
nhớ nhà nhớ quê, nhớ mái chùa xưa cong cong rong rêu, nhớ vòm me cổ thụ
xum xuê, nhớ đình nhớ miễu um tùm rập rạp… Những nơi tôi từng nghe phát
ra lạnh lùng tiếng những con tắc kè thân quen hằng đêm.
Ngồi học nhưng chúng tôi canh giờ. Tai lắng nghe bác lao công giè thân
quen xách thùng nước trà Huế nóng đổ vào hũ da bò lớn kê bên ngoài, phía
sau lớp. Thế là chúng tôi nối đuôi nhau, hết đứa này đến đứa khác, xin
thầy giám thị trực đêm cho phép đi lấy nước uống. Nước trà nóng giúp
tỉnh táo trở lại không mấy hồi như có phép tiên vậy.
Hơn nữa, ra được ngoài sân là một cơ hội ngàn vàng, trông chờ đỏ con
mắt. Có gió mát trong lành thoang thoảng mơn trớn. Có sao trời lấp lánh
nên thơ quyến rủ. Có trăng non lơ lửng đồng tình...
Tha hồ cho chúng tôi ở nán lại đấu chuyện tào lao, vội vàng hấp tấp.
Khốn nỗi đôi lúc chúng tôi bị níu kéo nán lại. Vì có thằng dốt đặc cán
mai cũng tập tành con cà con kê, dong dài vẽ viên những câu chuyện Chị
Hằng Chú Cuội, dặm mắm thêm muối cho lâm ly lôi cuốn rồi cao hứng chúng
nó lang bang vào cõi mơ hồ, nào chòm sao Đại Hùng Tiểu Hùng, nào sao vua
Xử Nữ v.v... Làm như chúng nó sành sõi, thông hiểu rành rọt về khoa
thiên văn địa lý vậy. Nhưng thực tình bây giờ nhớ lại lúc đó chúng nó
xạo hết chỗ nói, nhưng xạo có căn cơ, gốc ngọn, nghe cũng bùi tai. Nhờ
vậy chúng tôi vốn mù tịt nhưng được một cái là tỉnh táo trở lại.
Một số bạn khác lén trốn ở các dãy bàn chót để đánh cờ tướng, cờ chó, cờ
ăn ừ chờ giờ. Việc này không thoát được đôi mắt rất tinh của các thầy.
Nhưng các thầy cũng thương tình thông cảm, giả điếc giả mù làm ngơ. Miễn
sao chúng tôi giữ yên lặng để đứa nào muốn học hành có đầy đủ điều kiện
tối thiểu, sẽ không phàn nàn hay khiếu nại gởi thưa.
Nay các thầy chắc đã nằm xuống thảnh thơi toại nguyện nơi lòng đất mẹ ấm
tình ruột thịt, tâm thần thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm một kiếp
người. Vì lúc ấy các thầy cũng đã trọng tuổi, trừ thầy Nguyễn Gia Tốn
hãy còn trẻ măng, chỉ lớn hơn chúng tôi chắc chưa tròn một kỷ.
Sau này, đến 30/04/1975, chúng tôi vẫn thường gặp thầy trên "chiếc xe
mẫu" bốn bánh, do chính thầy vẽ kiểu và thực hiện, có lấp máy nổ. Thầy
làm phương tiện di chuyển trong thành phố, trông không giống ai nhưng
lúc nào cũng lôi kéo người tò mò, quến kẻ hiếu kỳ. Kể ra thầy rất có
khiếu sáng chế, tiếc thay "sanh lầm thế kỷ" nên không gặp thời để cải
tiến thêm và thương mãi hóa sáng kiến của mình. Các thầy không còn nữa
nhưng hình ảnh các thầy vẫn đậm nét và sống mãi trong lòng tôi.
Nhưng kỷ niệm có ảnh hưởng lớn đối với tôi có lẽ là phong trào đọc tiểu
thuyết ở nội trú. Gia đình tôi ở xa thành phố, không phải cuối tuần nào
hay ngày lễ nào cũng về thăm nhà được. Tài chánh có giới hạn, chỉ dành
cho những chi tiêu tối cần cho việc học hành thi cử. Phương tiện di
chuyển thời ấy hãy còn nhiêu khê, phôi thai và quá đắt.
Vẫn những chiếc xe điện cũ kỹ nối liền Sài Gòn Chợ Lớn theo đại lộ
Galliéni sau này là Trần Hưng Đạo và đường Marins tức Thủy Binh hay Đồng
Khánh ở Chợ Lớn... Chúng vẫn giữ một nhịp độ bất di bất dịch từ năm này
sang tháng nọ, cứ cà rịt cà tang với những tiếng chuông báo động leng
keng leng keng, đêm đêm nẹt điện xèn xẹt sáng ngời, chớp tắt không
nguôi.
Vẫn những chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn đen ngòm, nặng nề, chạy bằng củi
thay vì than đá do thời buổi nhiễu nhương khan hiếm nguyên liệu. Lắm khi
lên dốc cầu Phú Lâm, chúng phải phải thụt tới thụt lui đôi lần ba lượt
để lấy trớn từ xa. Có khi mãi tận Mũi Tàu, An Dưỡng Địa An Lạc, tức
khoảng xa cảng Miền Tây bây giờ. Những lúc đó, lũ nhỏ chúng tôi tha hồ
đánh đeo theo các toa xe, mặc tình đùa giỡn nói cười thỏa thích.
Thêm vào đó, còn cảnh tượng khách đi xe đông như kiến, bám đeo đầy các
cửa lên xuống, cả trên mui xe rất nguy hiểm. Bỗng nhiên tôi lại nhớ hình
ảnh bác gác cổng già nơi ga xe lửa Phú Lâm hấp tấp thổi mấy hơi còi dài
để báo động trước khi bác cẩn thận kéo hai cổng tre sơn trắng đỏ đều
khoản, xuống nhằm chận xe cộ và bộ hành qua lại.
Vẫn những chiếc xe thổ mộ lụp cụp leng keng, leng keng lụp cụp với mấy
con ngựa có tuổi ốm nhôm, chạy đi chạy về không biết bao nhiêu lượt
trong ngày. Chung qui các chuyến xe đã làm nên một thời đó đều bắt đầu
và được đợi chờ ở hai bến ga xe lửa Sài Gòn và Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ.
Mấy chú ngựa uể oải lúc cuối đời này, phóng uế bừa bãi, rải rác ngay
giữa lòng đường. Dù vậy, bà con vẫn quen mắt từ bao đời rồi nên chẳng có
một phản ứng nào cả.
Vả lại, mỗi lần về thăm nhà do phương tiện di chuyển vốn trắc trở đã
đành mà còn tốn kém lắm đối với hạng học sinh có tiêu chuẩn "dưa leo, cá
kèo". Tiền cha mẹ cho bỏ túi mang theo không đáng giá là bao nhưng là
cả một hy sinh lớn lao của một đời người.
Chồng làm quần quật trên đồng không mông quạnh, quanh năm thách thức gió
mưa sương nắng. Vợ thì lam lũ ngày nắng ngày mưa, đội trên đầu hay gánh
gồng oằn vai băng qua những cây cầu khỉ khập khểnh hay đường làng quanh
co trơn ướt, nào là rau khoai, cây trái vườn nhà đem bán ở chợ xa.
Chúng tôi thường ở lại trường vào mỗi cuối tuần. Cả một vài tháng hay
gặp lễ lớn mới có hy vọng về thăm nhà. Số học sinh nội trú bất hạnh này
tương đối không đông mấy vì có những bạn may mắn tốt số hơn, nhờ kiếp
trước khéo tu, lánh dữ làm lành sao đó nên bây giờ được bà con quen biết
ở thành phố hay những vùng phụ cận bảo lãnh đi phép ngày thứ bảy hay
chủ nhật. Sáng chúng đi trọn ngày, tối về trường trước giờ đóng cửa "đọt
toa".
Thời gian rổi rảnh của chúng tôi trong hai ngày cuối tuần dài thăm thẳm,
buồn thúi ruột thúi gan. Bạn bè ở lại trường thường quá ít nên quang
cảnh thêm trống vắng hắt hiu. Tuy trời nắng tốt với màu xanh rộn rả thắm
tươi mà sao cảnh vật đối với chúng tôi trông quá nhạt nhòa thểu não.
Mới hay "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!" (Nguyễn Du).
Chép bài hộ các anh lớn, vốn tiện tặn từng giờ từng phút mài miệt chuẩn
bị ngày đêm để thi "bắc on", "bắc đơ" riết cũng chán. Chúng tôi cứ lần
lữa hứa cuội, cười trừ, khất tiều khất quảng kéo dài mãi khiến các anh
tới lui thúc hối như đi đòi nợ ngày nợ tháng không bằng. Đôi khi các anh
buông những lời chê trách cho rằng chúng tôi làm ăn chậm lụt như lục
bình trôi, còn hơn ba ba lội biển.
Chúng tôi chỉ có cách đọc sách để tiêu khiển. Thường là tiểu thuyết Pháp
hoặc Việt mới giết hết thì giờ. Dọc sách ở nội trú là một cái thú tuyệt
vời. Nhứt là vào khoảng mười giờ ruỡi mười một giờ, chúng tôi vừa đọc
sách vừa run đùi nhâm nhi loại cơm cháy chảo đụn. Các chú các bác phụ
trách ẩm thực sâm soi vàng hườm, dòn rụm, còn tráng lên một lớp mỡ thịt
heo kho tàu óng ánh, thêm lởm chởm hành hương xắt nhỏ, thơm ngon lạ
lùng.
Sau này, rời trường lưu lạc khắp nẻo đường quê hương, lăn lóc bập bũm
trong những hoàn cảnh trái ngược nhau, rồi đến hôm nay ly hương bất đắc
dĩ, lặn hụp nơi xứ lạ quê người từ mấy mươi năm qua, tôi vẫn còn tiêng
tiếc cái thuở “vàng son” của một đời người này. Vì chẳng cách nào tôi
tìm lại được hương vị qua ư đặc thù xa xưa ấy nữa.
Sách Pháp không ngoài những tác giả chúng tôi mua ở nhà sách Khai Trí
hoặc Văn Đàn ở Chợ Cũ Sài Gòn những khi đi phép hiếm hoi cuối tuần. Đại
khái như các tác giả Alphonse Daudet, George Sand, René Chateaubriand,
Alexandre Dumas, Victor Hugo, Hector Malot, Pierre Loti và... giáo sư
Phạm Duy Khiêm với tác phẩm "Les Contes en Terre Sereine" mà các thầy
dạy Pháp văn như thầy Phan Quốc Quân, thầy Lê Văn Phước, thầy Hồ Văn Kỳ
Trân, thầy Nguyễn Văn Thơ, thầy Huỳnh Văn Hai, thầy Lê Chí Thiệp v.v...
thường khuyến khích khuyên bảo chúng tôi cố tìm đọc.
Riêng tiểu thuyết Việt thì nhiều, nhiều lắm. Thị trường chữ nghĩa tiếng
Mẹ đang phát triển mạnh mẽ và tràn ngập lúc bây giờ. Hầu như hằng tuần
nào cũng đều có những tựa sách mới với kỹ thuật in ấn trình bày ngày
càng cải tiến hấp dẫn. Dù sao, sách Việt cũng dễ đọc, dễ hiểu, không
phải lôi thôi tra cứu tự điển, mất thì giờ và mất cả hứng thú.
Chúng tôi dành dụm, chầm khíu đồng lặn đồng mọc, hạn chế tối đa chi xài
lặt vặt không cần thiết để có tiền mua sách. Mua được cuốn nào là
chúng tôi trao đổi, chuyền tay nhau đọc. Đôi khi còn tranh giành đọc
trước đọc sau như tôm tươi không bằng.
Lúc này, “toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến” nên phong trào yêu nước
bừng lên mãnh liệt, sục sôi khắp mọi nơi. Các tầng lớp công dân trẻ già
trai gái hạ quyết tâm hy sinh, chung một lòng kháng chiến chống Pháp xâm
lăng sau thế chiến thứ hai. Từ thành phố chí đến thôn làng hẻo lánh đều
vang dội những bước quân hành. Những bản hùng ca đánh động lương tâm
của Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ thời cách mạng tháng Tám
vẫn còn âm hưởng quẩn quanh đâu đây.
Chiều chiều, ở những giờ giải trí, các anh lớn tụ tập hòa đàn những bản
Thanh Niên Hành Khúc, Việt Nam Mến Yêu, Lên Đường, An Phú Đông... lôi
cuốn, quến lũ chúng tôi bu quanh rất đông đảo. Rồi động lòng sanh hứng,
chúng tôi cùng nhảy vào tham gia nhưng chỉ biết vỗ ghế đập bàn ầm ầm
theo nhịp hát hồn nhiên muốn vỡ cả lồng ngực.
Thời đó, ở Sài Gòn, hầu hết báo chí thống nhứt hằng ngày đồng thanh lên
tiếng tỏ rõ lập trường dứt khoát chống lại nhựt báo phân ly Phục Hưng
của nhà báo Hiền Sĩ, người chủ trương đòi Nam Kỳ tự trị theo đúng sách
lược của thực dân. Và cây bút móc lò nổi tiếng lúc bấy giờ ký dưới bút
hiệu Nam Quốc Cang, tức ký giả Nguyễn Văn Sinh, trong mục "Trớ Trêu", ví
von đã kích không nương tay những tên thực dân giàu sụ. Bọn này cố bám
níu quyền lợi mong manh còn sót lại. Đặc biệt là nhóm "Tam B" chọc trời
khuấy nước: Béziat, Bazé và Bonvicini.
Trong khi đó, các văn nghệ sĩ ở thành hầu hết đều hướng nhìn về phía
chiến khu hoặc có thiện cảm với kháng chiến. Những đề tài sáng tác của
họ xoáy quanh giai đoạn lịch sử ấy nhằm khích động bấu nhiệt huyết tuổi
trẻ và lương tri độc giả, thúc giục họ đứng lên "chống xâm lăng", đấu
tranh giành độc lập, tự do, dân chủ cho nước nhà. Về sau nhà phê bình
văn học Nguyễn Văn Sâm gọi giai đoạn này là "Phong trào Văn chương Kháng
chiến Nam Bộ".
Nhiều tựa tiểu thuyết đến nay vẫn in dấu sâu đậm trong trí nhớ tôi như
Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Nửa Bồ Xương Khô của Vũ Anh Khanh, Trên
Đường Nhiệm Vụ, Những Tia Nắng Mới của Đặng Thị Thanh Phương, Kòn Trô,
Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Manh Áo Ngự Hàn, Người Chiến Binh
Bạt Mệnh của Nguyễn Đạt Thịnh, Tình và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập của
Nhất Tâm, Bên Mồ, Hận Người Tử Sĩ của Hoàng Kim...
Ngao Châu dịch Đường Lên Cõi Bắc trong khi ký giả nhà văn Việt Quang đi
xa hơn với Xin Đắp Mặt Tôi Mảnh Lụa Hồng. Lụa hồng ở đây có ý nghĩa gì?
Chẳng qua là lá cờ đỏ của Cộng sản được tác giả tô vẽ phai nhạt bớt để
qua mặt kiểm duyệt lúc bấy giờ.
Chưa kể những tác giả khác như Trần Thanh Mại (Ngô Vương Quyền), Dương
Tử Giang (Duyên hay Nợ), Sơn Khanh (tức cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc
trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ), Liên Chớp, Bùi Nam Tử, Võ Hòa Khanh, Tô
Nguyệt Đình... Tôi nghĩ rằng một số anh em chúng tôi đã thực sự chịu ảnh
hưởng của những tiểu thuyết đấu tranh này, hầu hết do nhà xuất bản Tân
Việt in ấn và phát hành rộng rãi ở thành phố.
Vì chịu một phần ảnh hưởng ấy nên một số không nhỏ thanh niên nặng lòng
yêu nước đã từ bỏ thành phố hoa lệ đi vào chiến khu với ước mơ trong
sáng đem đến chiến thắng vinh quang nhanh chóng cho dân tộc, cho tổ
quốc. Nhưng thảm thương thay, đa phần đều vỡ mộng, không tìm được lối
thoát.
Một số nhắm mắt buông xuôi theo định mệnh để bảo toàn mạng sống rồi từng
bước bị lôi cuốn vào guồng máy hận thù chém giết, đấu tranh giai cấp
của cộng sản để thân bại danh liệt về sau. Một số khác kiên cường bất
khuất với tâm niệm hướng thượng, vì quê hương dân tộc, vì tổ quốc trên
hết nên bị Việt minh Cộng sản thanh toán, bức tử giữa lúc tuổi thanh
xuân tràn đầy nhựa sống yêu đời.
Trường hợp nhà văn tên tuổi Vũ Anh Khanh là một điển hình đến nay vẫn
chưa phai nhòa trong ký ức tập thể của toàn dân Miền Nam. Anh đã vượt
tuyến và bị bộ đội biên phòng bắn chết nơi sông Bến Hải, xác bị bọn
chúng dập vùi đâu đó bên bờ sông?
Duy chỉ một số may mắn hơn, vượt thoát được gọng kềm quá ư khắc nghiệt
và tàn nhẫn của cộng sản. Họ bất chấp hiểm nguy, quyết tâm trở về vùng
đất tự do và bị chúng với ác tâm cố hữu gán cho hai chữ Việt gian nhục
nhã chỉ vì không chấp nhận chủ trương và đường lối độc tài đảng trị của
chúng.
Khoảng năm 1958/59, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong guồng máy chánh
quyền Đệ Nhứt Cộng Hòa và có cơ hội hướng dẫn một phái đoàn nhân viên
đi khảo sát Côn Đảo. Tôi lưu lại đây tròn một tháng vì thời bấy giờ mỗi
tháng chỉ có một chuyến tàu duy nhứt xuất phát từ Bến Bạch Đằng để tiếp
tế cho đảo. Lúc này Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm tỉnh trưởng Côn Sơn.
Tôi được dịp thăm viếng hầu như tất cả các trại giam, cả khám biệt lập
mà một thời báo chí thiên tả trong nước cũng như giới truyền thông quốc
tế ác ý đồng thanh gọi là “chuồng cọp” với những mô tả thiếu khách quan.
Tôi cũng có thăm khám tử hình và nơi đây tôi có gặp nhà văn nhà chánh
trị Hồ Hữu Tường, ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhân sáng lập báo Đời
Mới nổi tiếng một thời, rồi những đàn em của tướng lưu vong Bình Xuyên
Lê Văn Viễn như Tư Cốc, Tiểu Lý Quảng, Chín F.M v.v...
Một nỗi buồn dấy lên trong tôi lúc đó khi trông thấy một số khuôn mặt
bạn bè chung lớp hoặc biết mặt biết tên trong những năm chung sống vui
vẻ dưới mái trường Pétrus Ký đang trong vòng lao lý nơi các trại giam
khổ sai, ngày ngày đi đốn củi hoặc lao động nặng. Tôi suy nghĩ có thể
một số nào đó vẫn còn trung thành với giấc mơ không tưởng của chủ nghĩa
Mác Lê-nin. Nhưng tuyệt đại đa số khó mà chọn lựa một lối thoát thân do
sự kềm kẹp rúng ép của các chi bộ đảng nhà tù.
Thuở đó, chánh sách của chánh quyền Miền Nam là mở rộng vòng tay đón
nhận những người phía bên kia thành tâm trở về với chính nghĩa quốc gia.
Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn có tổ chức một khu riêng biệt cho những người
hồi tâm hối cải này. Họ được tự do thoải mái, sống chung đụng nhau và
nơi khu này tôi còn nhớ có cả quán xá bán đầy đủ cà phê, hủ tiếu, thuốc
lá cùng những dụng cụ cần thiết v.v...
Có nhiều người ngày ngày được cho ra sinh hoạt ngoài phạm vi của khu và
chỉ trở lại đây để ngủ đêm. Cho nên anh em tù nhân gọi khu này là “thiên
đường” để đối lại với các trại khổ sai hay cấm cố là “địa ngục”. Chính
nơi “địa ngục” này, biết bao thanh niên trong đó có không ít bè bạn đồng
song của tôi đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, mang xuống tuyền đài giấc mơ
dang dở.
Trong giai đoạn đó, tôi có cơ may và cũng chắc do định mệnh sắp sẵng là
rất say mê đọc các tác phẩm bất hủ về nông thôn đồng ruộng quê mùa của
nhà văn đặc sệt Miền Nam, Phi Vân. Có lẽ do gốc gác tôi chân quê, sinh
trưởng và lớn lên trên thửa ruộng vồng khoai, sông nước bát ngát, quanh
năm bà con tôi cày sâu cuốc bẩm, gắn bó với lũy tre xóm làng nên dễ cảm
thông và cảm nhận chăng?
Tác phẩm của Phi Vân không lớn lao đồ sộ, không như đối với các tiểu
thuyết gia dấn thân đương thời. Ông chỉ trình làng suốt cuộc đời khá dài
cầm bút của ông, dăm ba cuốn nhưng với ngần đó cũng đủ để tên tuổi ông
sáng chói trên văn đàn bấy giờ.
Những cuốn Đồng Quê (Phóng sự), Tình Quê (Truyện dài), Cô Gái Quê
(Truyện ngắn), Dân Quê (Truyện dài), trước đây tôi đọc đi đọc lại không
biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng đầy hứng khởi say mê. Và càng say mê
hứng khởi hơn từ những ngày sống ly hương, xa quê hương cội nguồn.
Tôi say mê thích thú đọc Phi Vân ở những giờ "ê tuýt" ban đêm đã đành mà
ngay ở giờ giấc được tự do giải trí nữa. Đôi khi tôi quên lững tiếng
chuông reo báo hiệu chuẩn bị đi ăn cơm chiều. Hoặc lúc lên "đọt toa",
khi bốn bề đã yên lặng, tôi vẫn liên tục lén đọc nốt chương sách lở dở
dưới ánh đèn xanh xao, mờ mờ ảo ảo, vừa đủ để phân biệt từng chữ một.
Phi Vân đã gợi trong lòng tôi cảnh đồng quê tươi đẹp rất đặc thù của
Miền Nam thuở thanh bình xa xưa, thời "tiền cách mạng", qua những tập
hợp phóng sự sống động trong Đồng Quê. Có thể nói trong các tác phẩm của
ông, tôi tâm đắc nhất quyển này.
Tác giả đã dùng ngòi bút tài tình linh hoạt, quyến rủ lôi cuốn tôi qua
những sinh hoạt quen thuộc của đời sống hằng ngày nơi thôn dã, chất chứa
tình tự và tình yêu. Bao nhiêu phong tục tập quán, lề lối hành xử tình
nghĩa cân phân giữa nhau, bao nhiêu tín ngưỡng hun hút một thời đã được
ông mô tả nổi bậc qua hình ảnh chân quê rất dễ thương của những thầy
pháp, thầy bùa, của các đám hỏi, lễ cưới...
Rồi nào là câu hát huê tình trên sông rạch rẻ nhánh chia dòng, điệu hò
đối đáp bắt trả quyện nhau tuyệt vời qua khúc quanh thời đại mang đầy
tính chất thơ mộng lãng mạn như ca tài tử với giọng ngân nga não nuột
theo tiếng đờn ai oán réo rắc... Đến những hiện tượng đặc biệt của thời
đại ông nay không còn nghe nhắc nhở nữa để nhạt nhòa trong dĩ vãng như
trộm cướp trên sông rạch, như bối có tổ chức v.v...
Bàng bạc qua những dòng chữ, những trang giấy vừa mới rọc cạnh lướt dưới
mắt hằng đêm trước khi ngủ, tôi hân hoan bắt gặp những bong hình ngày
xưa, những sinh hoạt năm cũ. Tôi nghe tâm hồn lâng lâng xao xuyến, rộn
rả ngập tràn một tình cảm luyến lưu trên nền xanh tinh anh dịu dàng,
mênh mong bất tận của quê hương mình. Một quê hương ngàn đời tươi đẹp.
Một quê hương muôn thuở diễm tuyệt mà tôi vừa đành lòng rời bỏ trong
tiếc nuối nhớ thương, khi phải dặt chân đến ngôi trường Pétrus Ký, tiếng
tăm vào bậc nhứt Miền Nam.
Đối với tôi, qua tác phẩm Đồng Quê, Phi Vân quả đã thành công vẽ lên một
cách truyền thần bức tranh xã hội đất Nam Kỳ Lục Tỉnh trước biến cố
lịch sử 1945: mùa thu sơn hà nguy biến. Một bức họa đầy màu sắc thắm
tươi với những đường nét điêu luyện độc đáo ấy từ lâu đã tan biến trong
hun húc của dĩ vãng.
Nhưng điều quan trọng hơn hết đối với cá nhân tôi là Phi Vân đã gieo
trong tôi những khúc chiết thắm thiết, những kỳ bí thôi thúc, những âm
vang ngân nga của tình yêu quê hương chơn chất, đậm đà bất diệt. Vì lẽ
đó, tôi xin đặc biệt có đôi dòng hoài niệm mà cũng để tạ ơn người cho
trọn tình và phải đạo của một độc giả trung thành và của một bạn vong
niên sau này.
Vốn là người rặc nòi Miền Nam, sanh quán ở cuối mũi quê hương, vùng Bặc
Liêu/Cà Mau, thừa hưởng một truyền thống xuề xòa dễ dãi, cởi mở thứ tha,
sống dung dị giản đơn, quý khách, chuộng bạn bè, quấn quít cột chặt vào
đồng ruộng đất nước Miền Nam nên khi phải chỉ trích đả phá một số hủ
tục nào đó, Phi Vân đắn đo nâng niu ngòi bút. Ông cân phân từng chữ từng
câu, bài xích rất nhẹ nhàng, vừa chọn lựa đủ lời đủ ý, không dư không
thiếu, vừa cợt đùa dí dỏm dễ thương.
Chính cái tính xây dựng, chung sống hài hòa giữa con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên vạn vật, chính cái ý hướng trong
sáng gieo rắt niềm vui thanh thản nơi những người chung quanh, khiến ông
tin tưởng ở việc tốt điều lành trong tình yêu, trong việc xử thế có ta
có người, biết mình biết người, có trước có sau. Do vậy, ông chọn dứt
khoát một thái độ đứng đắn xuất phát từ tình yêu thương chân thật, mộc
mạc tinh tuyền của người dân tiêu biểu vùng quê nghèo Miền Nam.
Ông có một vốn sống quá phong phú vì trong thời thanh xuân bay nhảy,
tiếu ngạo giang hồ, đã từng lăn lóc nhiều ngõ ngách xóm thôn nơi vùng
sông nước bạt ngàn của đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, nhứt là ở vùng cuối mũi quê
hương, nơi chôn nhau cắt rún của ông. Từ đó, những kỷ niệm sống động
được lắng đọng, chắt chiu trong sâu thẳm của trí nhớ để được ông sàng
lọc, chọn lựa kỹ lưỡng, đúc kết thành những cốt truyện quyến rủ lôi
cuốn.
Ngay trong các tác phẩm kế tiếp như Tình Quê, Dân Quê sáng tác trong
thời kỳ kháng chiến với nhu cầu tâm lý bức bách đánh động lương tâm và
lương tri con người, vực dậy lòng yêu nước của mọi công dân có trách
nhiệm, ông đắn đo đề cập những tình tiết, trạng huống mới cho phù hợp
với trào lưu sôi động lúc bấy giờ nhưng vẫn trung thành với những réo
gọi, câu thúc nội tâm của thuở ban đầu. Ông vẫn lấy bối cảnh thôn quê
hữu tình của Miền Nam làm khung để những trạng huống tình tiết ấy được
triển khai và diễn tiến chan chứa tình người.
Tôi có cảm tưởng như ông có sẵn trong huyết quản mình duyên tình thắm
thiết với đất đai làng xóm, với bản quán xã thôn, với hương đồng vị đất
thoang thoảng không ngưng trên quê hương ông. Tôi cũng có cảm tưởng như
ông có nợ nần níu kéo trói buột, keo sơn gắn bó với thôn xa xóm gần, với
ruộng rẫy kinh mương, với những người khuất mày khuất mặt mà vong linh
lãng đãng quanh quẩn đó đây. Cái duyên tình và nợ nần đó đã được ông
thăng hoa trong các tác phẩm bất hủ của ông vậy.
Khác với một số lớn cây viết đồng thời với ông trong thời kỳ dầu sôi lửa
bỏng sau bao nhiêu thập niên dài bị đô hộ vừa tiếp cận cao trào quật
khởi đấu tranh, đường lối sáng tác của ông không vượt ngoài những nét
sâu đậm của cá tính Miền Nam. Những cá tính truyền thống nơi thôn quê
căn đày kiếp đọa nhưng chân chất thật thà, thực tế như củ khoai hòn đất,
như con cá con cua, không vọng tưởng mơ mơ hồ hồ xa vời, không mù quáng
quá khích nông nổi.
Tôi vẫn tin rằng trong ý hướng, ông đả kích để xây dựng. Ông chỉ trích
để hợp tác. Ông đề xuất góp ý để cuộc sống chung thêm hài hòa dễ chịu
hơn.
Nếu như ông có đặt thành vấn đề về "sự chuyển mình" của nông dân trong
thời kỳ bị điền chủ phú hào và giới chức quyền địa phương toa rập cậy
thế, đàn áp bóc lột, bức bách những người thế cô ngắn cổ, ông cũng cố
gắng bóp méo thành tròn, giảm thiểu những gốc cạnh dị biệt. Ông nuôi
dưỡng ý hướng xóa lấp bớt lằn ranh ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo,
giảm thiểu cái hố phân chia giữa chức dịch hội tề và người dân bình
thường.
Tôi không biết mình có chủ quan trong nhận xét hay không? Nhưng công
bằng mà nói, ông lấy sự rộng lượng bao dung, hỉ xả thứ tha làm khuôn
vàng thước ngọc nhằm tạo cảm thông hiểu biết giữa nhau. Ông đề xướng cổ
võ sự đoàn kết cần thiết trong tinh thần trong sáng có trách nhiệm, có
tình thương, rốt ráo trong hai chữ "tình người".
Cái hay và cái nét đặc thù của Phi Vân theo tôi là ở chỗ đó.
Ở chỗ tiếp nối truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam, lấy
tình nghĩa thủy chung, lấy cảm thông nhân hậu xóa bỏ tranh chấp hận thù
giai cấp.
Ở chỗ ông không chủ trương cuồng tính loại trừ hoặc tận diệt một ai hay
một giai từng nào trong xã hội trên cái chéo quê hương thơ mộng mỹ miều
của ông. Nơi này tình nghĩa bà con, lâng bang lối xóm cột chặt vào nhau
như cá với nước, không thể tách rời được. Cũng tại nơi này, ông ao ước
mỗi người trên mảnh đất chung đụng hiền hòa ấy đều có một chỗ đứng trang
trọng, xứng đáng. Mỗi người có bổn phận đồng hành, vui vẻ góp bàn tay
cần cù lam lũ để tích cực đem mồ hôi công sức xây dựng hạnh phúc của tập
thể, của cộng đồng.
Ở chỗ ông không thiển cận, không câu nệ, không hề hẹp hòi đào sâu thêm
hố chia rẻ giữa nhau, làm suy yếu tiềm năng sản xuất, phục vụ cộng đồng,
phục vụ nhân sinh. Ông tránh làm vấy bẩn màu xanh tươi thắm và dịu dàng
của quê hương ông.
Nếu ông có đề cập đến "sự trổi dậy" tất nhiên của từng lớp người kham
khổ bất hạnh, suốt đời bám đất bám làng, sống dung dị với chéo mạ vuông
vườn để lập nghiệp tiến thân, nếu ông có đề cập đến những xung đột giữa
chủ và tá điền nhưng vẫn không đến nổi quyết liệt phải loại trừ, khống
chế, tận diệt nhau. Vì lẽ đó, sau ngày cộng sản hiếu chiến miền Bắc đã
cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam bằng súng đạn hận thù, chúng đã không
nương tay, từng phát biểu rất nghiêm khắc khi phê bình những tác phẩm
một thời vang danh của Phi Vân.
Bọn “đỉnh cao trí tuệ” có “ba tăng” của đảng cho rằng tác giả Phi Vân đề
cập "sự trổi dậy" đó của nông dân trong Liên Minh Công Nông, từng bị
bốc lột tận xương tủy một cách đột phá, bọc phát. Việc mà cộng sản, vốn
có manh tâm và ý đồ cướp công cướp của của người khác, không thể nào và
không bao giờ chấp nhận và tha thứ được.
Vì tác giả không hề nói đến hoặc cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo "thần
thánh", “bách chiến bách thắng” của Đảng Lao Động, thối thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Lý do biện giải của chúng là trước đó, Đảng cộng sản
đã được thành lập từ lâu (1930) và đã thực sự lãnh đạo mọi cuộc đấu
tranh trên toàn quốc (sic).
Theo họ, nơi Phi Vân có sự nhân nhượng trầm trọng. Ngòi bút của Phi Vân
cố tình ngừng lại ở quan điểm “tạch tạch xè” cố hữu của tuổi thanh xuân
chập choạng thiếu lãnh đạo. Tác giả thiếu hẳn lập trường giai cấp dứt
khoát cùng chiến đấu tính cương trì.
Và sự đấu tranh trổi dậy của nông dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo tầm nhìn
của Phi Vân thiếu hẳn tính chất hận thù thâm căn cố đế, thiếu hẳn thái
độ sắt máu quyết liệt như của những năm đấu tố dã man cường hào ác bá,
địa chủ phú nông trong chiến dịch cải cách ruộng đất dã man, đẫm máu và
nước mắt ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tức thời kỳ chuẩn bị phát động
chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ điều này, tác giả không bao giờ và chẳng bao giờ nghĩ đến trong
quá trình xây dựng và sáng tác. Lý do nó đi ngược lại cảm thức và
nguyện vọng trong sáng của dân tộc. Nó đi ngược với lương tâm và sứ mạng
cao cả của người cầm bút chân chính.
Phi Vân đã nhắc nhớ tình yêu thôn làng bất diệt để bám rễ ăn sâu vào
tình cảm và tâm khảm tôi trải dài từ bao nhiêu thập niên qua. Quê hương
ngàn đời dấu yêu. Quê hương bao dung chan chứa tình người. Quê hương
trường tồn. Quê hương trên hết.
Một tình cờ đến với tôi. Vì tôi không hề ước mơ mà đã thành sự thật. Từ
sự kính trọng và ngưỡng mộ thuở thiếu thời đối với tác giả, hai mươi mấy
năm sau, tôi có dịp chủ trương một nhà
xuất bản nho nhỏ thuộc loại cò con, có tính cách thủ công gia đình, đẩy
đưa tôi gặp tác giả tại tòa soạn nhật báo Cấp Tiến. Tờ báo của hai cố
giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy, cơ quan ngôn luận
chánh thức của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Nơi này, ông làm việc phụ
trách trang nhứt.
Trong giới truyền thông báo chí chuyên nghiệp ở Miền Nam tự do, ông được
đồng nghiệp đánh giá là một trong hàng ký giả cao thủ thuộc lớp đàn anh
già giặn kinh nghiệm. Ông có tài chọn tin và "đi tít" đập mạnh ngay vào
nhãn quan của độc giả. Họ so sánh ông ngang hàng với những bậc làm báo
vang danh đã làm nên một thời như: Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Nguyễn
Duy Hinh, Việt Quang, Nguyễn Kiên Giang... nếu chỉ kể những người cầm
bút gốc gác Miền Nam như ông.
Nhật báo Cấp Tiến vốn thối thân của nhật báo Bình Minh của ông bầu vui
tánh Võ Văn Ứng, bút hiệu Võ Bình Sơn, chủ nhân nhà hàng Nam Đô ở gốc
đường Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Thái Học. Các bạn ghiền bóng tròn trước năm
1975 không thể nào quên được hình ảnh bệ vệ của vị Chủ Tịch Tổng Cuộc
Bóng Tròn Nam Việt quý mến và hào sãng ấy trên khán đài danh dự, mỗi khi
có những cuộc tranh tài quan trọng hay quốc tế ở sân cỏ Vườn Ông Thượng
hay Vận động trường Cộng Hòa sau này.
Không dè lần gặp gỡ tình cờ đó lại là khởi điểm cho một đoạn đường dài
hợp tác giữa hai anh em chúng tôi. Chính tôi đã mấy lần trang trọng in
lại quyển Đồng Quê, một tác phẩm đạt nhiều cảm tình và thương mến của
độc giả trong nước trước ngày Miền Nam bị bức tử. Vì sách được liên tiếp
tái bản trước sau hơn mười lần nếu tôi không lầm.
Mấy năm trước đây, tôi có thấy tái bản ở Hoa Kỳ, bày bán khắp nơi ở hải
ngoại. Và gần đây, do sự đòi hỏi và khát khao chánh đáng của độc giả
trong nước luôn luôn hướng về căn cơ cội nguồn, cộng sản phải cho tái
bản qua khuôn khổ bỏ túi.
Từ dạo đó, giữa tôi và Phi Vân có mối giao tình đậm đà kéo dài đến khi
tôi vượt biên ngày 5 tháng 6 năm 1979. Và anh cũng đã từ trần vào những
năm sôi động đó trong hoàn cảnh cực kỳ bi ai trầm thống.
Thuở ấy, cái thuở “ngăn sông cách chợ”, “thắt lưng buột bụng” đến xác xơ
rã rời thể xác lẫn tinh thần, người dân bị khống chế trong những biện
pháp hận thù giai cấp, nào là chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo
công thương nghiệp, văn hóa đồi trụy, truy quét đưa đi kinh tế mới
v.v... mọi di chuyển xê dịch đêm ngày bị kiểm soát, phép tắc khắc nghiệt
đến nghẹt thở. Tôi được bạn bè cho biết khá muộn màng anh đi thăm người
con vốn là sĩ quan chế độ cũ bị Việt cộng tập trung cải tạo. Vì chứng
kiến tận mắt, thấy con mình tiều tụy đói trơ xương nơi trại tù man rợ
chưa từng thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước, anh quá đỗi xúc động
chán chường và qua đời không lâu sau đó.
Tôi đoán biết có lẽ do hậu quả nguy hại của chứng áp huyết cao mà anh đã
mắc phải từ lâu lắm rồi. Vì trong đôi lần gặp gỡ nhau, anh có tâm tình
với tôi: nhiều khi áp huyết lên quá cao, gia đình phải buột tay buột
chân anh vào thành giường để anh nằm yên bất động. Tôi không dám tìm
hiểu thêm lý do gì hay nguyên nhân nào đưa đến sự ra đi vĩnh viễn của
anh để thêm ngậm ngùi đau đớn trong lòng. Dẫu sao, sự mất mát đáng tiếc
này đã là sự thực rồi.
Hơn nữa, cũng vì lúc ấy tôi không còn tinh thần nào để tiếp thu và phán
đoán những lời đồn đãi ấy. Tôi chỉ tha thiết mong muốn sau này bạn bè
thân cận đã từng chứng kiến hay thân nhân anh sẽ làm sáng tỏ thêm. Nhưng
tôi thiết nghĩ cho dù có làm sáng tỏ hay không, sự ra đi của anh trong
thời điểm thương đau tột cùng ấy vẫn là một mất mát lớn lao không xóa
lấp được của nền văn chương học thuật và của báo chí truyền thông Miền
Nam. Do ở tuổi anh, anh vẫn còn thừa công sức và nhứt là tâm trí minh
mẩn để dùng ngòi viết trân quý của mình tiếp tục phục vụ đồng bào, phục
vụ nhân sinh.
Làm sao tôi quên được hình ảnh người anh lớn dễ thương dễ mến ấy. Làm
sao những kỷ niệm giữa anh và tôi lại có thể nhạt nhòa nhanh chóng trong
tâm khảm tôi được?
Sau ngày quốc nạn tháng Tư Đen, anh vẫn trung thành khắn khít với chiếc
vespa ọp ẹp màu xanh dương nhạt để làm phương tiện di chuyển đó đây
trong thành phố thay tên đổi đời, đã bắt đầu có những triệu chứng nghiệt
ngã, trả thù tập thể. Anh thường hay đến thăm chúng tôi tâm tình về
những đổi thay của trò đời đen bạc.
Mỗi lần đến nhà tôi, anh có thói quen hỏi vợ chồng tôi:
- Sao chị?
- Sao anh?
Chỉ đôi lời ngắn gọn rồi anh giữ im lặng một hồi lâu. Nhưng tôi nhìn nụ
cười chua chát nơi gương mặt uể oải bơ phờ, không còn sức sống thuở nào,
đoán biết không sai niềm thất vọng chua cay nơi anh, qua cuộc đổi đời
tai hại quá trầm trọng này và nhứt là qua sự lo âu sâu lắng của cuộc
sống tương lai.
Trong câu chuyện giữa nhau, thỉnh thoảng anh buông ra những tiếng thở
dài cay đắng, những nức nở hoàn toàn bế tắc. Trái với những lần gặp gỡ
trước thảm họa tháng Tư, những câu chuyện về văn chương chữ nghĩa, về
thông tin báo chí, những toan tính về in ấn xuất bản, rồi những quan hệ
giữa bạn bè kẻ mất người còn, không bao giờ được anh có can đảm đề cập
đến nữa. Trong âm thầm mãi mãi gậm nhấm đay nghiếm và trong niềm đau uất
hận riêng rẻ của mỗi người, chúng tôi mặc nhiên ý thức rằng cái quyền
tự do sinh sống cho đáng mặt người, cái quyền tự do hội họp, tự do ngôn
luận, tự do phát biểu, tự do báo chí... những thứ tự do trân quý ấy đã
bị bọn độc tài độc đoán tước đoạt trong thể chế lãnh đạo xích hóa tư
tưởng phục vụ chế độ.
Vô hình trung, chúng tôi xem như bị bắt buộc tự mình làm lễ an táng
không kèn không trống nhằm tiễn đưa để chôn vùi từ đây tất cả các thứ tự
do mà mình đã được thừa hưởng trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Chúng
tôi xem như đã vĩnh viễn tiễn đưa nó dưới nấm mồ của độc quyền độc tôn
xã hội chủ nghĩa.
Lúc này quán cơm bình dân thường được đồng bào gọi là quán cơm xã hội
của vợ chồng anh ở đường Triệu Đà trong Chợ Lớn đã bị "dẹp tiệm" từ lâu.
Quán cơm này do anh lập ra và giao cho chị hoàn toàn trông nom từ những
năm tháng trước 1975. Mục đích duy nhất nhằm giúp giới nghèo khó ở Đô
Thành, đa số là những phu xe xích lô, xe ba bánh cùng nhân công các hảng
xưởng lân cận và ngay cả sinh viên lận đận có bữa cơm trưa và chiều với
giá phải chăng, vừa với túi tiền của họ. Bây giờ tìm đâu mỗi ngày
mấy bao chỉ xanh gạo khi chánh sách “ngăn sông cách chợ” của cộng sản
được ban hành và được kiểm tra chặt chẽ ngặc nghèo.
Anh quá đổi thất vọng. Nhưng sự thất vọng của anh được nhân lên gấp bội
khi anh cộng thêm cái quyền cầm bút chuyên nghiệp bị tước đoạt, bị cấm
đoán trong khi anh hoài công xuôi ngược giữa lòng thành phố đổi họ thay
tên, mong tìm một phương kế sinh nhai trong tiếng thở dài. Lúc này quả
thật đời sống của anh vất vả lắm. Chứng bệnh áp huyết cao không được
theo dỏi thuốc men thường xuyên và đầy đủ do phần tài chánh eo hẹp đã
đành mà còn vì loại thuốc này đắc giá lại khan hiếm dần.
Một nỗi buồn nằng nặng ám ảnh tôi luôn. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 làm
tiêu tan bao Nhiêu chương trình dự định mà chúng tôi ấp ủ cưu mang từ
nhiều tháng trước và đang trên đà hoàn tất. Đó là bộ "Phi Vân Toàn Tập"
gồm những tác phẩm chính vừa kể trên như Đồng Quê, Dân Quê, Tình Quê, Cô
Gái Quê cùng một số bài viết chọn lọc như truyện ngắn, tùy bút, tạp ký,
chuyện vừa v.v... mà ít người biết đến do tác giả ký dưới nhiều bút
hiệu khác nhau.
Tôi đã chuẩn bị chu đáo xong một bản tiểu sử của anh Phi Vân khá đầy đủ
và chính xác. Bản tiểu sử này đã được chính anh thận trọng duyệt kỹ
lưỡng, thêm thắt bổ sung với những chi tiết về thân thế cũng như về sự
nghiệp mà đến nay xem như chưa hề được công bố. Thêm vào đó còn có hình
ảnh cá nhân qua nhiều thời kỳ và những ảnh lưu niệm gia đình phong phú.
Nhưng tất cả đều bị thiêu hủy cùng chung số phận với nhiều bản thảo giá
trị của các tác giả khác trong những chiến dịch đánh tư sản mại bản,
kiểm kê tài sản và "chống văn hóa đồi trụy" dồn dập của cộng sản nơi
thành Hồ.
Những bản thảo văn thơ và nghiên cứu giá trị của cụ Thuần Phong, của
giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc Huy, của nhà biên khảo sử học Nguyễn Văn
Xuân, của các cụ Vương Hồng Sển, thi sĩ Quách Tấn xứ Trầm Hương, sử gia
kiêm giáo sư thỉnh giảng ban Sử thuộc Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cụ Lê
Thọ Xuân qua tác phẩm đồ sộ về địa danh Miền Nam, nhà văn Nguyễn Hiến
Lê, học giả Bùi Đức Tịnh, giáo sư Nguyễn Văn Hầu của Viện Đại Học Hòa
Hảo... đều chung số phận bị thiêu hủy phũ phàng trong cơn lốc của ngọn
lửa bạo tàn hận thù giai cấp.
Tôi quên ghi chú thêm là anh Phi Vân còn là tác giả quyển "Nhà Quê Trong
Khói Lửa" viết trong khi anh tham gia kháng chiến những năm đầu thời
Nam Bộ chống xâm lăng. Theo anh kể thì quyển này đã được giải thưởng văn
học ở chiến khu do ông Hoàng Xuân Nhị làm Chủ tịch Ban Chấm giải. Tuy
nhiên từ dạo ấy đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi chưa từng thấy phổ biến
tập sách này, ngay cả tựa sách, cho dù sau ngày Miền Nam bị cưỡng
chiếm.
Anh còn cho biết thêm anh cũng là tác giả hai tiểu thuyết dài đã được
đăng hằng ngày trên các nhật báo ở Sài Gòn thuở anh vừa bước chân chập
chững vào chốn văn chương báo chí. Nhưng anh cố công tìm kiếm mãi,
chẳng bao giờ được mãn nguyện. Hoặc giả anh không toại nguyện lắm về
những tiểu thuyết này so với các tập truyện đã được trình làng chăng?
Anh tên thật là Lâm Thế Nhơn, sanh năm 1917 tại Cà Mau thuộc tỉnh An
Xuyên trong một gia đình trung lưu. Là nhà văn nhà báo chuyên nghiệp,
anh cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nhứt là nhựt báo quan trọng
như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Thủ Đô Thời Báo, Bình Minh, Cấp
Tiến... Anh mất tại Sài Gòn vào ngày 11 tháng 1 năm 1977 theo tài liệu
của nhà biên khảo Nguyễn Thiên Thụ trong Văn Học Sử Việt Nam - Văn Học
Hiện Đại, tập IV do Gia Hội xuất bản ở Canada năm 2006.
Có một sự trùng hợp lý thú về danh tánh giữa anh với một nhà văn nổi
tiếng khác là Đoàn Thế Nhơn. Nhà văn này hiện định cư ở Mỹ. Anh Đoàn Thế
Nhơn chẳng ai khác hơn là nhà văn lớn Võ Phiến, một cây đại thụ trong
chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước đây và ở hải ngoại sau này.
Một sự ngẩu nhiên là hai nhà văn tên tuổi cùng tên thật là Thế Nhơn. Một
người là Lâm Thế Nhơn lấy bút hiệu là Phi Vân tức "Mây Bay", đã ra đi
về cõi vĩnh hằng. Một người là Đoàn Thế Nhơn với bút hiệu Võ Phiến, đảo
ngược lại là "Viễn Phố" báo trước một giai đoạn lưu đày xa xôi cuối đời!
Giống như trường hợp của lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn, vì mang tên
Viễn nên bỏ thây nơi đất lạ quê người.
Nhớ Phi Vân, nếu tôi thiếu sót không nói thêm Phi Vân không phải là lý
thuyết gia chỉ lối dẫn đường hay một nhà văn dấn thân xu thời thế. Anh
không phải là một cây viết bị ràng buộc trong khuôn khổ gò bó theo một
mẫu mực qui định. Anh không sáng tác theo đơn đặt hàng dưới sự chỉ đạo
như những tác giả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đồng Quê, Dân Quê... không có tham vọng dẫn dắt dư luận thế hệ
mình phải làm gì và xã hội thời mình hướng về đâu theo một chủ thuyết cố
đỉnh nào đó. Nếu anh có xu hướng cổ vũ một tập thể nhỏ bé nơi thôn làng
quê mùa hẻo lánh trổi dậy chống lại những bất công áp bức đương nhiên
phải có, dù ở bất cứ xã hội nào hay thời đại nào, tôi nghĩ đó chỉ là một
phản ứng của lương tâm, một khắc khoải trong thời điểm nhất định mà
thôi.
Vì anh không thể dửng dưng trước nghịch cảnh bất công. Vì anh không thể
dưng dửng trước những thay đổi trong nước, đặc biệt là ở nông thôn xa
xôi mà sức mạnh đồng tiền và quyền thế lấn át tất cả.
Anh chỉ là một họa sĩ phác vẽ bức tranh quê để qua màu sắc thắm tươi độc
đáo, đường nét đậm đà quyến rủ, người xem có một ý niệm khá chính xác
về xã hội thời đó. Anh cố gắng ghi lại một cách trung thực để lưu hậu
thế khung cảnh quê hương nay không còn nữa, những tình tiết trạng huống
về phong tục tập quán, về mê tín dị đoan, về hội hè đình đám, những cái
đó qua ngôn ngữ đặc thù địa phương đất Nam Kỳ Lục Tỉnh đã mất húc trong
dĩ vãng.
Đúng như anh viết trong lời tác giả tập sách Đồng Quê:
“Hình ảnh những nhân vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống
chung – ngày nay đã mờ trong ký ức “Kể lại một quãng đời phải chăng là
sống lại với ngày qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức
tranh phong tục và tập quán.
“Thật là quá cao vọng !»
Nhưng tất cả những cái không còn đó, những cái mất mát đó phối hợp nhuần
nhuyễn với nhau tạo nên kho tàng văn chương Nam Kỳ Lục Tình vô giá. Nó
giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu về nhân chủng học và xã hội học
Việt Nam về sau.
Nhắc nhớ, thăng hoa hồn đất, hồn người lãng đãng trong hồn thiêng sông
núi, khơi dậy thời quá khứ xa xôi với ước mơ tìm về cảnh địa, thổ địa,
tìm về sinh hoạt truyền thống dằng dặt ẩn hiện bao nhiêu phong tục tập
quán xưa, tôi nghĩ Phi Vân không hề thụ động. Anh không ngừng lại ở hiện
tại.
Trái lại, tác giả tích cực hướng ngòi bút mình thực sự trở về với căn
cơ, gốc tích, cội nguồn. Tôi có thể nói một cách trang trọng là Phi Vân
quả đã đóng góp và đã thành công làm sáng danh vùng đất chôn nhau cắt
rún của anh. Anh đã tích cực giúp khám phá trở lại nhân diện và giá trị
đích thực của nó, bàng bạc trong tinh anh tú chất của dòng giống Rồng
Tiên muôn đời muôn thuở vậy.
Nền văn hóa nông thôn đồng ruộng bề ngoài tưởng như thô sơ tầm thường,
không tinh không nhả. Nhưng những nhà quan sát nghiêm túc trên thế giới
chú tâm nghiên cứu và phát hiện nhiều khía cạnh đa dạng, vừa sắc sảo
tinh tuyền, vừa uyển khúc thâm sâu.
Những thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang đường, truyền kỳ,
chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện châm biếm, những chuyện kể dân
gian nói chung, gói ghém, hàm chứa những phong tục tập quán, những suy
nghĩ, những ước vọng thiết tha của một nhóm người vào một thời điểm nhứt
định nào đó v.v... Tất cả kết hợp nhau nhằm bảo tồn và phát huy ngày
thêm phong phú ký ức và kỷ niệm tập thể của một vùng đất.
Trong chiều hướng đó, Phi Vân đến rất gần với nhận xét của thi sĩ
Patrice de la Tour du Pin của Pháp. Ông sinh ở thủ đô Paris năm 1911,
được giới văn gia thi sĩ biết tới qua bài thơ "Les Enfants de Septembre"
ấn hành năm 1931 lúc vừa mới hai mươi mốt tuổi. Hai năm sau, ông in thi
tập "La Quête de Joie" và sau thế chiến thứ hai, ông lại in tiếp tác
phẩm "Une Somme De Poésie" (1946).
Chính trong bài "Dẫn Nhập" thi tập sau cùng này, ông có viết:
"Tous les pays qui n'ont pas de légende
"Seront condamnés à mourrir...".
Do ám ảnh này, nhiều nhà văn trên khắp thế giới đã suy tư gắn bó, cột
chặt sự nghiệp văn chương của mình vào ký ức tập thể đó. Những trường
hợp điển hình không sao kể xiết và được giới hậu sanh nhắc nhớ luôn.
Miền Nam, sau lớp các nhà văn một thời chói sáng trên văn đàn như cụ Hồ
Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), nhà văn nhà báo Phi Vân Lâm Thế Nhơn, nhà
chơi đồ cổ Vương Hồng Sển, nhà biên khảo đất Nam Kỳ Nguyễn Văn Hầu
v.v... phải kể đến Sơn Nam Nguyễn Minh Tây, người đã có công đưa sông
nước đồng quê Miền Nam lên đỉnh cao của nghệ thuật qua các tác phẩm nổi
danh như Hương Rừng Cà Mau, Vọc Nước Giỡn Trăng, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang,
Văn Minh Miệt Vườn... và gần đây Một Mảnh Tình Riêng, đầy màu sắc địa
phương, đặc thù về cảnh thổ và tình người.
Ngay ở Âu Mỹ và ngay ở thời đại tân tiến hiện tại, không thiếu gì tác
giả đã giành cả một đời để ghi lại những gì đã mất nơi quê hương họ. Và
đây chính là những công trình thầm lặng đóng góp vào bước tiến vững vàng
trong sáng của mỗi quốc gia và của cả nhân loại.
**
Những giòng hoài niệm nào đều cũng như nhau, phảng phất chất chứa một nỗi buồn riêng. Đôi khi chỉ mình ta cảm nhận.
Nỗi buồn tưởng tiếc những người đã để lại nơi lòng mình bao nhiêu nghĩa
tình, trong từng nỗi buồn vui do cuộc sống vô tình đẩy đưa tới tấp đến
chóng mặt.
Nỗi buồn hồi nhớ để cố gắng vẽ lại trung thực chân dung những người đã
trực tiếp tham gia đóng góp, chia xẻ với mình những thôi thúc cô đơn
chán chường, những thăng trầm vinh nhục đã qua, hòa lẫn với nỗi trầm
thống tận cùng và niềm hãnh diện tự hào chung của dân tộc.
Nỗi buồn bùi ngùi đứng trước thực tế phũ phàng của ngày hôm qua và của
hiện tại, những khuôn mặt thân thương hay quen biết ít nhiều đã đi qua
đời mình, kẻ trước người sau đều từ giã cuộc đời, từ giã cuộc chơi nhân
thế để miên viễn đi vào vùng thiên thu siêu thoát. Như những tuyến sông
lạch nước rải rác khắp đó đây đến những khúc quanh rẽ nhánh chia dòng
bớt đi lưu lượng nguồn nước.
Tuổi trẻ của tôi mới đó với khung cảnh đầm ấm của ngôi trường Pétrus Ký
nguy nga tráng lệ bậc nhứt Miền Nam, nơi có những dãy lầu nội trú hai
tầng kiên cố thách thức gió sương, với những thầy cô hy sinh tận tụy,
một lòng một dạ chăm lo dìu dắt thế hệ mới tấn lên của chúng tôi… những
khung cảnh đầm ấm đó không mấy chốc bay vèo theo năm tháng.
Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, chân mỏi gối dùng, trong thầm lặng
ngoái nhìn lại những chặn đường đã qua mà nghe lòng thêm xao xuyến nghẹn
ngào. Lòng càng dằng dặt bao đắng cay tủi nhục liên tiếp bủa vây từng
bước trong kiếp sống lưu vong.
Nếu trong đời, nhiều lúc đối diện với chính mình, tôi từng cám ơn Cha
tôi đã ban cho tôi mảnh hình hài không thô không lịch nhưng tràn đầy sức
sống và âm thầm mặc nhiên đã mớm thêm cho tôi ý nghĩa cuộc sống để hăm
hở hy vọng chào đón tương lai.
Nếu tôi đã từng hoen tròng lặng lẽ cám ơn Mẹ tôi đã khổ cực cưu mang ban
cho tôi hơi thở đầu đời và tiếp tục hy sinh, chắt chiu săn sóc, dưỡng
nuôi tôi qua dòng sữa thương yêu trắng ngần, tinh tuyền thanh khiết.
Thì hôm nay, một mình lặng lẽ ngồi đối diện với chính mình dưới ngọn đèn
bàn giấy không được sáng tỏ, tâm thần lắng đọng trong vắng vẻ quạnh
hiu, tôi cũng xin cám ơn Trường xưa Thầy cũ, cám ơn bạn bè trang lức
thuở tuổi hồn nhiên mộng mơ. Những tâm hồn trong trắng, cửa lòng luôn
rộng mở này, đã tuần tự mang đến tôi bao nguồn vui tuổi trẻ, rộn rả
tiếng cười yêu đời, từ ấy mãi đến bây giờ.
Tôi cũng xin cám ơn các văn nhân thi sĩ đã có dịp góp mặt trong cuộc
sống và cuộc đời tôi để qua lời văn tim óc, qua ngôn ngữ của thi ca, qua
lời hay ý đẹp đã vĩnh viễn cột chặt tâm hồn tôi vào dải đất Quê Hương
mến yêu và duy nhứt này của tôi.
Tôi cũng xin đặc biệt cám ơn anh Phi Vân, người trước tiên giúp tôi thấm
thía nét đẹp tuyệt vời của bản quán xóm làng, của nông thôn đồng ruộng,
thơm nồng mùi rơm hương rạ. Anh cũng giúp tôi được dịp thấm đẫm tình
cảm tinh ròng đối với nơi chôn nhau cắt rún cố thổ. Nơi mà mỗi con người
tôi gặp gỡ lan man đâu đó trên bờ ao kinh rạch, bên liếp mía vồng khoai
luống mì, ven đường mòn quanh co uốn éo tận chân trời xa thẳm... cứ
vừa là lạ nhưng lại vừa quen quen. Tựa hồ như tôi đã năm lần bảy lượt
đối diện chuyện trò, tựa hồ như tôi đã bao phen tâm tình thân mật trước
đây lâu rồi.
Tôi lại trở về lặng lẽ, nhớ quê hương, lòng ray rứt trong cái khoảng
trống không hiện tại của cuộc đời lưu lạc. Nhưng cũng may, niềm đau ray
rứt ấy đôi khi mang đến tôi một chút an ủi vỗ về, thoáng ẩn thoáng hiện,
đã có ma lực xoa dịu phần nào tâm tư tình cảm tôi.
Mới hay sự gắn bó với làng quê thôn xóm, bà con láng giềng, tha thiết
với mỗi bến sông vàm nước, eo vịnh kinh mương, mỗi ánh nắng sớm chói
chang lung linh huyền diệu, mỗi ngọn gió chiều hiu hiu se lạnh, từ chiếc
lá khô úa vàng nằm im thin thít trên mặt nước ao bèo đến con cá lìm kìm
thon thon nhỏ nhắn se sẽ ve vẫy đuôi làm chao động ngọn cỏ non, từ cây
xoài cà lăm tróc gốc oằn nhánh say trái chua lè đến ngôi nhà từ đường
xưa với nhiều thế hệ tiếp nối dóc tâm xây dựng, bất chợt tôi mang máng
nhớ, tôi mang máng thấy đâu đây... phảng phất hồn đất, hồn người hòa
cùng nhịp điệu của muôn tiếng reo vui của thiên nhiên, của lịch sử. Thật
là linh diệu biết dường nào!
Nơi đây tôi xin ghi lại những vần thơ tôi viết cách đây hơn mười lăm năm
nhưng nay trong hoàn cảnh hoài niệm nhớ nhung vẫn thấy thích hợp để tạm
nói lên phần nào một chút ngậm ngùi thổn thức, một chút sắt son gắn bó
đối với đất nước quê hương nơi xứ lạ quê người.
Lòng Vẫn Vương Mang
Không Xuân trang điểm xác pháo hồng,
Không mai vàng thắm trải non sông,
Không câu đối đỏ rồng phượng múa
Lòng vẫn vương mang nỗi nhớ nhung.
Không cau thiu ngủ cạnh sân đình
Không ngọn mưa rào đất nước xinh,
Không tiếng bịp kêu bờ bến vắng,
Lòng vẫn vương mang một khối tình.
Không cánh cò xa điểm trắng cành,
Không hàng dừa lửa ngắm sông xanh,
Không bóng thuyền câu soi trăng bạc
Lòng vẫn vương mang giấc mộng lành.
Không ga hoang vắng rít tàu chiều,
Không khói hoàng hôn mái tranh xiêu,
Không người viễn khách ôm trăng hận,
Lòng vẫn vương mang kiếp hẩm hiu.
Không áo thướt tha ngọn gió đùa,Không cầu lắt lẻo bắt mương xưa,
Không bến quạnh hiu đò lỡ chuyến,
Lòng vẫn vương mang giọt lệ thừa.
Bềnh bồng biển Thái chiếc thuyền con,
Ly hương phiêu bạt mấy xuân tròn,
Kinh hoàng đeo đẳng đau trang sử,
Lòng vẫn vương mang chút sắt son.
Võ Phước Hiếu
Trich
VÕ PHƯƠC HIẾU-HIẾU ĐỆ * NGÀN SAO LẤP LÁNH
CHUYẾN ĐI MỸ
Chuyến đi thăm Mỹ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc không có tính
đột phá, nhưng lại mở ra triển vọng hợp tác quốc phòng, giúp giảm bớt sự
lo lắng về xung đột Biển Đông, một chuyên gia hàng đầu của Việt Nam cho
biết.
Giáo sư Tương Lai nhận định về chuyến thăm Mỹ ba ngày của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc kết thúc ngày 31/5 như sau:
“Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.”
Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.
Giáo sư Tương Lai
Theo ông Tương Lai, các triển vọng đó là tăng cường hợp tác quốc phòng
song phương, như Mỹ quyết định chuyển giao tàu tuần tra cho Việt Nam,
nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển, và đặc biệt “Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ quan tâm tới việc tiếp nhận thêm trang
thiết bị quốc phòng, bao gồm các tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát
biển Việt Nam.”
“Trong tuyên bố chung nêu nhiều yếu tố cho thấy rõ mong muốn thúc đẩy
mạnh mẽ hơn mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, đặc biệt quan hệ quốc
phòng, quân sự theo chiều hướng Mỹ giúp Việt Nam nâng cao năng lực kiểm
soát vùng biển của mình, còn Việt Nam thì sẵn sàng mua tàu tuần tra biển
của Mỹ.”
Giáo sư Tương Lai cũng lưu ý một chi tiết quan trọng trong tuyên bố
chung Việt – Mỹ: “Hai nhà lãnh đạo trao đổi về khả năng tàu sân bay Hoa
Kỳ thăm cảng Việt Nam và các biện pháp tăng cường hơn nữa hợp tác giữa
các lực lượng hải quân hai nước.”
Tuyên bố “hợp tác hơn nữa giữa hải quân hai nước”, theo nhận định của
ông Tương Lai, phần nào làm giảm đi nỗi lo lắng việc Hoa Kỳ có khả năng
“đi đêm” với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, nơi cả Việt
Nam và Trung Quốc đều có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.
“Ông Trump không chủ trương xoay trục sang châu Á như ông Obama, nhưng
qua thông cáo chung giữa hai nước và qua thái độ đón tiếp ông Nguyễn
Xuân Phúc một cách trọng thị, thân tình, thì tôi đánh giá rằng mối lo
đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối với việc
Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.”
Mối lo đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối
với việc Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.
Giáo sư Tương Lai
Một chi tiết nữa trong tuyên bố chung, mà theo ông Tương Lai, là rất
đáng chú ý: “Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo
tự do hàng hải, hàng không, và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác;
bày tỏ lo ngại về tác động bất ổn mà những hạn chế bất hợp pháp đối với
tự do trên biển gây ra đối với hòa bình và thịnh vượng của khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương.”
Ông Tương Lai nói rằng mặc dù bản tuyên bố chung “không điểm mặt chỉ tên
Trung Quốc” trong tranh chấp Biển Đông, nhưng thể hiện rõ quan điểm của
Mỹ:
“Tuyên bố chung của hai bên không nói nhiều đến Biển Đông,
nhưng nói nhiều đến vấn đề hợp tác quân sự. Quân đội Mỹ lưu trữ những
thiết bị vật tư y tế trên lãnh thổ Việt Nam để có thể sử dụng ngay khi
cần thiết. Nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do hàng hải, hàng không, và
các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác. Tôi đặc biệt lưu ý việc hai
nhà lãnh đạo nhấn mạnh các bên cần kìm chế, không có các hành động có
thể gây gia tăng căng thẳng, như việc quân sự hóa các cấu trúc có tranh
chấp. Tuy không điểm mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết, đó là hành động ăn
cướp của Trung Quốc, đang gây căng thẳng ở Biển Đông và xâm phạm quyền
chủ quyền của Việt Nam và vi phạm luật pháp quốc tế.”
Ngoài ra, vị giáo sư 81 tuổi này còn cho rằng Mỹ thể hiện rõ quan điểm có trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông:
“Khi mà bản tuyên bố nói rằng Tổng thống Trump nhấn mạnh việc Hoa Kỳ
tiếp tục cho các tàu và máy bay di chuyển, hoạt động tại bất kỳ nơi nào
luật pháp quốc tế cho phép – điều đó thể hiện rằng Mỹ có thái độ trách
nhiệm đối với vấn đề Biển Đông, Mỹ không làm lơ trước những hành động
ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.”
Ông Nguyễn Xuân Phúc là nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên thăm Tòa Bạch
Ốc kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức vào tháng Giêng. Đài truyền hình
CNBC nói rằng Hà Nội có thể nổi lên như một nhân tố chủ chốt trong nỗ
lực dài hạn của chính quyền Mỹ về Đông Nam Á, nhắm mục đích hóa giải ảnh
hưởng của Bắc Kinh trong Biển Đông.
Trong một diễn biến liên quan, tại diễn đàn Đối thoại Shangri - La hàng
năm ở Singapore vào ngày 3/6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis nói
việc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông làm suy yếu sự
ổn định của khu vực và cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các
quốc gia khác và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trang Zing.vn cho biết Việt Nam không tham dự cấp bộ trưởng nên không
phát biểu tại phiên toàn thể tại Đối thoại Shangri-La 2017.
Tuy nhiên, thứ trưởng Bộ Công an, Thượng tướng Bùi Văn Nam, đại diện
Đoàn Việt Nam nêu quan điểm để giải quyết xung đột trên Biển Đông như
sau: “Tại Đối thoại Shangri-La lần này, Việt Nam tiếp tục trao đổi với
mọi đối tác có liên quan để thống nhất mọi vấn đề trên biển được giải
quyết bằng luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích chủ quyền của nhau, giải
quyết bằng biện pháp hòa bình. Đồng thời, chúng ta cũng tạo sự tin cậy
và tăng cường hợp tác, tránh hiểu lầm và cố gắng để các nước gần nhau
hơn”.
Chuyến đi thăm Mỹ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc không có tính
đột phá, nhưng lại mở ra triển vọng hợp tác quốc phòng, giúp giảm bớt sự
lo lắng về xung đột Biển Đông, một chuyên gia hàng đầu của Việt Nam cho
biết.
Giáo sư Tương Lai nhận định về chuyến thăm Mỹ ba ngày của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc kết thúc ngày 31/5 như sau:
“Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.”
Chuyến đi không có những thành công manh tính đột phá nhưng mở ra những triển vọng tương đối tốt đẹp.Giáo sư Tương Lai
Theo ông Tương Lai, các triển vọng đó là tăng cường hợp tác quốc phòng
song phương, như Mỹ quyết định chuyển giao tàu tuần tra cho Việt Nam,
nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển, và đặc biệt “Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ quan tâm tới việc tiếp nhận thêm trang
thiết bị quốc phòng, bao gồm các tàu tuần tra cho lực lượng cảnh sát
biển Việt Nam.”
“Trong tuyên bố chung nêu nhiều yếu tố cho thấy rõ mong muốn thúc đẩy
mạnh mẽ hơn mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, đặc biệt quan hệ quốc
phòng, quân sự theo chiều hướng Mỹ giúp Việt Nam nâng cao năng lực kiểm
soát vùng biển của mình, còn Việt Nam thì sẵn sàng mua tàu tuần tra biển
của Mỹ.”
Giáo sư Tương Lai cũng lưu ý một chi tiết quan trọng trong tuyên bố
chung Việt – Mỹ: “Hai nhà lãnh đạo trao đổi về khả năng tàu sân bay Hoa
Kỳ thăm cảng Việt Nam và các biện pháp tăng cường hơn nữa hợp tác giữa
các lực lượng hải quân hai nước.”
Tuyên bố “hợp tác hơn nữa giữa hải quân hai nước”, theo nhận định của
ông Tương Lai, phần nào làm giảm đi nỗi lo lắng việc Hoa Kỳ có khả năng
“đi đêm” với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, nơi cả Việt
Nam và Trung Quốc đều có tuyên bố chủ quyền chồng lấn.
“Ông Trump không chủ trương xoay trục sang châu Á như ông Obama, nhưng
qua thông cáo chung giữa hai nước và qua thái độ đón tiếp ông Nguyễn
Xuân Phúc một cách trọng thị, thân tình, thì tôi đánh giá rằng mối lo
đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối với việc
Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.”
Mối lo đối với tình hình Biển Đông, đối với âm mưu của Trung Quốc, đối với việc Mỹ có khả năng đi đêm với Trung Quốc phần nào giảm bớt.Giáo sư Tương Lai
Một chi tiết nữa trong tuyên bố chung, mà theo ông Tương Lai, là rất
đáng chú ý: “Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo
tự do hàng hải, hàng không, và các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác;
bày tỏ lo ngại về tác động bất ổn mà những hạn chế bất hợp pháp đối với
tự do trên biển gây ra đối với hòa bình và thịnh vượng của khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương.”
Ông Tương Lai nói rằng mặc dù bản tuyên bố chung “không điểm mặt chỉ tên
Trung Quốc” trong tranh chấp Biển Đông, nhưng thể hiện rõ quan điểm của
Mỹ:
“Tuyên bố chung của hai bên không nói nhiều đến Biển Đông,
nhưng nói nhiều đến vấn đề hợp tác quân sự. Quân đội Mỹ lưu trữ những
thiết bị vật tư y tế trên lãnh thổ Việt Nam để có thể sử dụng ngay khi
cần thiết. Nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do hàng hải, hàng không, và
các hình thức sử dụng biển hợp pháp khác. Tôi đặc biệt lưu ý việc hai
nhà lãnh đạo nhấn mạnh các bên cần kìm chế, không có các hành động có
thể gây gia tăng căng thẳng, như việc quân sự hóa các cấu trúc có tranh
chấp. Tuy không điểm mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết, đó là hành động ăn
cướp của Trung Quốc, đang gây căng thẳng ở Biển Đông và xâm phạm quyền
chủ quyền của Việt Nam và vi phạm luật pháp quốc tế.”
Ngoài ra, vị giáo sư 81 tuổi này còn cho rằng Mỹ thể hiện rõ quan điểm có trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông:
“Khi mà bản tuyên bố nói rằng Tổng thống Trump nhấn mạnh việc Hoa Kỳ
tiếp tục cho các tàu và máy bay di chuyển, hoạt động tại bất kỳ nơi nào
luật pháp quốc tế cho phép – điều đó thể hiện rằng Mỹ có thái độ trách
nhiệm đối với vấn đề Biển Đông, Mỹ không làm lơ trước những hành động
ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông.”
Ông Nguyễn Xuân Phúc là nhà lãnh đạo Đông Nam Á đầu tiên thăm Tòa Bạch
Ốc kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức vào tháng Giêng. Đài truyền hình
CNBC nói rằng Hà Nội có thể nổi lên như một nhân tố chủ chốt trong nỗ
lực dài hạn của chính quyền Mỹ về Đông Nam Á, nhắm mục đích hóa giải ảnh
hưởng của Bắc Kinh trong Biển Đông.
Trong một diễn biến liên quan, tại diễn đàn Đối thoại Shangri - La hàng
năm ở Singapore vào ngày 3/6, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis nói
việc xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông làm suy yếu sự
ổn định của khu vực và cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các
quốc gia khác và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trang Zing.vn cho biết Việt Nam không tham dự cấp bộ trưởng nên không
phát biểu tại phiên toàn thể tại Đối thoại Shangri-La 2017.
Tuy nhiên, thứ trưởng Bộ Công an, Thượng tướng Bùi Văn Nam, đại diện
Đoàn Việt Nam nêu quan điểm để giải quyết xung đột trên Biển Đông như
sau: “Tại Đối thoại Shangri-La lần này, Việt Nam tiếp tục trao đổi với
mọi đối tác có liên quan để thống nhất mọi vấn đề trên biển được giải
quyết bằng luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích chủ quyền của nhau, giải
quyết bằng biện pháp hòa bình. Đồng thời, chúng ta cũng tạo sự tin cậy
và tăng cường hợp tác, tránh hiểu lầm và cố gắng để các nước gần nhau
hơn”.
No comments:
Post a Comment