Wednesday, May 24, 2017
TRẦN NGỌC BÌNH * TÙ VƯỢT NGỤC
-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!
Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng
anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền
Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người”
trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông
sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá
“tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn
nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim
đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn
tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát
ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc
chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải
công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong
câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng
cả ngàn năm ở ngoài).
Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này,
có bàn ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao
động triền miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai, hay
sắn hoặc cái “chuông xe đạp mỏng teng” (đây là chữ anh em dùng để chỉ
chiếc bánh mì luộc) rồi lên “chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để
rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao động khổ sai không án nên chẳng
biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để gặp lại những người thân
trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.
Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên
lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã
“tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù
đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi,
đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ
cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu
quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ,
dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ
mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt
thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm
cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng
tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật
sự tung cánh về miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng
đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt
nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về
Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một
tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không
biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao
đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc
không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi
chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là
do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với
dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ
trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng
tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy
mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để
nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen
làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc
tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt”
của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn
dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường,
khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị
dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua
đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các
anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay
đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng
tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết
là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này,
chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng
nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiều.
Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979
là năm tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức
là 6 năm sau, khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi
qua bao lần chuyển trại và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp
nên đã được nằm cạnh anh C. và mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về
câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.
Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch
do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường
hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý,
sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần
thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật
dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như
không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in
North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng
người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con
người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình
sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi
không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên.
Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân
trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía
xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se
sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy
rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi
trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong
thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự !
Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở
Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét
mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói
đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê
với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều
hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng
tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng
thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm
ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi
tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:
“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”
Tôi hỏi lại B:
“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố
quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về
Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục
với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm
nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người
đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy,
cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính
còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao
tặng cho B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B.
về nước để nhận, dĩ nhiên Ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành
một nhân viên xuất sắc dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong
tục của người Việt ta.
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn
thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay
lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra
là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ
không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không
cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của
Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế
nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là
Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền
thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù
rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì
người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào
mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả
ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của
mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền
Nam để chết thay cho “tớ”!
“Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà
Nội, thế nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như
tiêu tán đường rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn
và cứ coi như mình hay vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định.
Đây là dịp để mình thử thời vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn
cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi kể như bỏ rồi!”
Kế đến anh nói một câu gở miệng:
“Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà”.
Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. , tằng hắng lấy giọng rồi ngâm khe khẽ:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tới
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn
thân của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi
từ hồi nào đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời
nói do đó mới có thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã
chẳng có câu: “Sự bí mật của hai người là sự bí mật của tất cả mọi
người” đó sao và đúng như sự đánh giá của tôi, N. quả thật đã không phụ
sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.
Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi
kiếm cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì
tù đông nên mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi
thùng để nấu nước uống phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động,
còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc ẩm thực mà thôi.
Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao
lâu thì đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong
Quang chỉ cách Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi.
Tới được nơi đây thì cả ba đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả
đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn
chuối làm bè qua sông, tự do đã ở trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là
bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia chúng tôi đã thấy một vài
người Hoa đang làm ruộng đầu đội nón rộng vành ờ phía xa xa, và đó là sơ
sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân hận mãi. Thật
là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để vuột
mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong
câu: “Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.
Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây
rồi chui và ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả ba đều ngủ quên đến khi nghe
tiếng chó sủa thì lúc đó trời đã tối đen, B. vội lao mình xuống sông
nhưng không kịp nữa rồi, một tràng AK vang lên trong đêm trường tịch
mịch và tiếp theo đó là một tràng AK nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo
cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới
mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa gì được, một tên Công An
chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:
“Động đậy ông bắn chết bây giờ.”
Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là
thê thảm đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại
chỗ, còn N. thì đạn trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm
Công An biên phòng lại một trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ
khám phá ra là chúng tôi là tù trốn trại chứ không phải là những người
buôn lậu.
Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những
người cùng tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được
đám cai tù chỉ có một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có
được thông báo cho gia đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ
cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị chết, vì đó là bản chất của họ.
Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà trong Kiều có câu:
“Thác là thể phách, còn là tinh anh.”
Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không
còn điều gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã
chết và chết như một con người tự do.
Sao Nam Trần Ngọc Bình.
PHẠM TIẾN NAM * HÀNH TRÌNH GIAN NAN
Phạm Tiến Nam
Tôi tên Phạm Hùng, bút hiệu Phạm Tiến
Nam (trở về nước Nam, hoài bão lớn nhất trong đời tôi ). Sinh quán Bắc
Ninh, vào Nam khi đất nước bị chia cắt, bỏ nước ra đi đến bến bờ tự do
năm 1080, sau nhiều lần bị tù tội. Đến năm 12 tuổi tôi vẫn còn bị mù chữ
( sinh năm 1941, đến tuổi đi học thì quê huogn chinh chiến! Theo gia
đình chạy giặc đến gần biên giới Hoa Việt. Trước năm 1975 tôi là giám
đốc ngân hàng, giảng sư đại học. Định cư tại quận Cam từ năm 1981 đến
nay, làm nghề tự do, tự học lấy bằng Master Of Business Administration,
và sau đó hoàn tất học vị tiến sĩ Quản Trị Hành Chánh ( Doctor Of
Business Administration ) Suốt tuổi trẻ, mò cua bắt ốc, mù chữ, những
kinh nghiệm tránh pháo rất già dặn, hai lần bỏ xứ ra đi, tôi nhấn mạnh
trong vài dòng tiểu sử này như một thông điệp đến những người trẻ sau
tôi.
Đến hải phận rồi, anh “nái” đi. Người tài công, cũng là chủ tàu – một
thuyền đánh cá chưa đầy 12m chiều dài, chòng chành, ọp ẹp – niềm hãnh
diện của hắn: Ghe ba “đầu bạc” (máy mạnh, có khả năng đi xa ). Hắn lui
ra sau, tôi ra hiệu bảo hắn tiếp tục lái, “lấy 23 độ tây nam”, tôi nói.
Tôi rùng mình nghe rờn rợn luồn vào sau gáy, chạy dọc sống lưng! Lần đầu
tiên trong đời điều khiển Con thuyền, gần trăm sinh mạng nương tựa vào
tôi. Từ Phước Tỉnh, hắn vào Sài Gòn cưới vợ thành thị. Do người bạn tù
vượt biên môi giới, tôi quen được hắn, tôi loè hắn nói không ngượng mồm,
rằng tôi học giỏi, nói tiếng Anh giỏi, giỏi nghề đi biển, hắn chỉ lái
tới hải phận, sau đó mình tôi “bao dàn”, tới Mã ngay chóc.
Tôi cố thuyết phục hắn cho chuyến đi này, vì đã nhiều lần tanh bành tù
tội, hắn tin tôi lắm, còn cho bớt nửa cây vàng nữa, mỗi đầu người hắn
lấy 3 cây. Hắn mười mấy năm “đi chã” (đánh cá ngoài khơi ), kinh nghiệm
dầy dạn, còn tôi vừa mới học lóm được vài điều sơ đẳng từ đứa cháu học
trường Hàng Hải Thương Thuyền, cháu dặn: “ Cậu lấy 23 độ tây nam khi tới
hải phận quốc tế để đến Mã nếu đi từ Vũng Tầu, biển mình sâu chừng 60
fathom, tháng tư tây có gió Monsoon (gió nồm), trời tháng ba bà già đi
biển mà cậu!” Hành trang mang theo của tôi còn cuộn dây dài gần 60 sải,
có một cục sắt nhỏ ở đầu dây để dò nông sâu đáy biển, một ít lương khô,
sắm cái ống nhòm và hai viên hỏa pháo. Đi hơn một ngày đường, người tài
công reo lên: “Đến rồi, đến rồi”. Sao mà mau thế, tôi không tin hỏi hắn:
“ tàu em chạy mấy hải lý một giờ?”.
Hắn nhăn nhó lắc đầu cười hềnh hệch. Tôi móc trong túi ra cuộn dây, thả
xuống biển, hết cả cuộn dây mà có cột cục sắt vẫn chưa đụng đáy. Tôi la
lên thuyền quay lại hướng cũ. Vài tiếng đồng hồ sau, cũng chính hắn hớt
ha hớt hải la to, bảo rằng thuyền đang đi ngang qua Côn Đảo, mọi người
nằm rạp xuống. Mấy thanh niên vội giăng lưới lên, giả làm thuyền đi đánh
cá. Phải vài tiếng sau, núi đồi Côn Đảo mới mờ dần trong tầm mắt. Giã
từ quê hương yêu dấu! Lúc ở nhà tôi vò đầu suy tính, đi Thái Lan thì
gần, nhưng sợ hải tặc, bọn chúng tàn ác, qua Phi hay Nam Dương, phải
vượt đại dương, đi Mã, chọn lựa sau cùng. Bốn ngày đêm đã qua, mịt mờ bờ
bến, chỉ toàn nước trời mênh mông. Dầu đã cạn cùng với lương khô và
nước uống. Đàn bà, trẻ con, người già yếu, rũ rượi la liệt ngổn ngang
nằm trên mạn thuyền, vài ngày nữa mà không đến là chết cả thuyền.
Vì công an theo dõi ngặt ngèo, sơ hở một tí là bị tóm ngay, nhiều người
phải mang dầu đi chôn. Riêng tôi dặn hắn lấy ruột tượng đựng lương khô,
bỏ dầu vào bao nylon, quấn ngang người, tải từ từ lên ghe, ròng rã nhiều
thàng trời mới mang được chừng năm ngày dầu. Biển lặng, có gió nồm thổi
xuôi Nam. Xa xa có một con tàu, lấy ống nhòm ra chỉ thấy được một
khoảng cách vài thước, bèn bắn pháo báo nguy, pháo xịt cả hai viên! Tàu
lại gần hơn, mọi người vẫy tay khẩn nài. Những cánh tay rã rời buông
xuống, tiếng kêu tuyệt vọng dâng lên, tàu hải tặc đụng vào mạn thuyền
chúng tôi, mấy tên đen ngòm, tóc xoăn, mắt trắng dã, mặt như quỷ dữ man
rợ rợn người, quấn loại sà rông sắp tụt, lâm râm van vái, có tên còn lần
tràng hạt! Sau màn cầu nguyện, chúng la hét, sấn sổ nhẩy qua ghe chúng
tôi, mã tấu, súng dài bắn loạn xạ.
Chúng lùa trai tráng vào góc thuyền, phụ nữ người già lùa vào một nơi.
Chung nắn, bóp, xé quần xé áo, lột cả nịt ngực quần lót ra xem! Tháo
nhẫn dựt giây chuyền, bứt bông tai, miệng hét, tay nắn, chân đạp, đồng
bọn đứng gác lăm le nổ đạn. Chúng dùng dao rạch các túi hành lý, lục lọi
tung toé, chọn những thứ gì có giá bỏ vào những túi lớn chúng mang
theo. Sau đó quay sang đánh đập, khảo tra đám trai tráng. Không ai dám
chống, trẻ nhỏ cũng im thin thít, ai nấy im lặng chờ những nhát chém
lạnh như thép phậm vào sau gáy. Bỗng có chiếc thương thuyền đang tiến
lại gần, bọn hải tặc lơ láo vội rút đi. Thương thuyền lướt qua, nhiều
người quỳ xuống van lậy, xì xụp kêu gào, tế như tế sao!
Chiếc thương thuyền vẫn lặng lẽ rẽ sóng, để lại sau lưng nhiều lọn sóng
cao, thuyền con chúng tôi như muốn lật nhào, tiếng khóc òa lên, vật vã
kêu gào, thần chết chập chờn lởn vởn! Gần năm ngày đêm ròng rã, chỉ toàn
mênh mông biển rộng, biển xanh liền với chân trời. Mây vàng đỏ ối nơi
cuối chân trời, có bầy hải âu bay lượn, người tài công reo lên, nói rằng
thuyền đã gần đến bờ, hắn bỏ tay lái để chỉ cho mọi người nhìn rác rến
trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Tôi lấy cuộn dây trong túi thả xuống nước,
một nắm dây vẫn nằm trong lòng bàn tay, mà đầu dây đã chạm đến đáy
biển.
Tôi lẩm bẩm “ba mươi fathom, đến thật rồi!” Tôi cho thuyền chạy hướng
chính tây để đâm vào bờ, gần nửa đêm nhìn bằng mắt thường cũng thấy đất
liền, ánh đèn lập loè, tử thần đã đi qua! Khôgn cặp thẳng bờ, tôi cho
thuyền xuôi nam song song bờ biển, lánh xa vùng Bắc Mã có du kích Mã
Cộng. Dự định vào đến bờ phải gặp ngay các cơ quan thiện nguyện và giới
truyền thông, lọt vào tay bọn lính biên phòng, trước khi truyền thông
biết là đại họa: Thuyền bị đục thủng, hút cạn hết dầu, cho tàu chiến kéo
thuyền tị nạn ra khơi, chặt đứt dây. Nhiều thuyền đầy ắp người, bị kéo
ra giữa khơi mùa biển động, rồi sau đó chẳng ai nghe gì về những con
thuyền bạc mệnh ấy!
Trời đã sáng nhìn rõ mặt người, dầu cũng hết, tôi cho thuyền vào bờ,
thuyền cặp bãi cát của thành phố nghỉ mát Kuantan một buổi sáng đầu
tháng 6 năm 1980, bãi vắng hoe, thành phố còn thiu thiu ngủ. Mọi người
chạy ùa lên bãi cát, gặp ngay anh Mỹ đen, tôi khẩn nài nhờ anh giúp. Một
lát sau anh quay trở lại cười báo tin vui rằng anh đã gọi được nhiều
nhà báo, báo với cả Liên Hiệp Quốc, anh còn cho một cây thuốc lá Mã
Stuf, ân cần dặn dò và chúc may mắn.
Tôi ngậm ngùi xiết chặt tay anh. Chiếc thuyền cưu mang chúng tôi đã chìm
hẳn, nếu không thì tôi cũng phải đục thủng nó, mọi người yên
lòng: thuyền đã chìm, đã gặp được nhiều nhà báo, bọn Mã
không dám đẩy chúng ta ra lại ngoài khơi. Mãi quá trưa quân đội
mới tới, bốn tên lính Mã quân phục xộc xệch, đi dép nhựa, đeo
súng săn, tay cầm gậy dài, hỏi chúng tôi ai là người trưởng
đoàn, đập vào đầu tôi mấy hèo dằn mặt! Không đau đòn, nhưng đau
lòng, tủi phận. Sau này trên đường đi định cư Hoa Kỳ, tôi được ghé Hồng
Kông để đổi máy bay, bọn chúng tôi rách rưới. Mấy tên cảnh sát phi
trường dùng dùi cui xua đuổi, hăm dọa đánh đập những ai đi ra khỏi chỗ
ngồi qui định. Ai đã đưa dân tộc Việt nam đến tình cảnh khổ nhục này?
Pulau Bidong là một hoang đảo ở giữa đại dương, rộng vài cây số vương,
lởm chởm núi đá, mấy chục ngàn người chen chúc, dựng lều ven vách núi
chui rúc, lúc cao điểm gần 60 ngàn người. Trước ngày tôi đến đảo vài
tháng, thế giới đã phải kêu lên rằng “ có phép mầu, bệnh dịch mới không
xảy ra”. Ban ngày người ta chen nhau đi như buổi chợ phiên, bụi mù mắt,
nắng cháy da, tiếng ồn ào như vỡ chợ. Có những vùng đất trống, phân
người và nước tiểu lầy lội lên đến mắt cá, ruồi nhặng vù vù bay kín
trời, mùi hôi thối nồng nặc, nắng trưa khắc nghiệt tăng độ nồng, cơn gió
nóng thổi qua, đẩy dội ngược lại đằng sau, những ai hít phải sặc sụa
cúi gập người xuống ôm ngực. Chuột từng bầy, to bằng bắp chân trẻ con,
trụi lông, thân mình đỏ lòm lở lói, hai cục hạch to bằng hai viên sỏi,
khệnh khạng di chuyển chậm chạp lền khên, nhìn thấy lần đầu nhiều người
nôn mửa! Dọc theo con suối cạn, xác chuột nằm rải rác kín hai bên bờ, đi
hứng nước tắm phải khéo lắm mới không dẫm phải xác chuột đã sưng vù.
Hằng ngày nhiều thanh niên đi nhặt xác chuột bốn năm cần xế bự đầy vun
tới bốn năm thanh niên lực lưỡng khiêng mới nổi. Trong trại, những băng
đảng nổi lên cướp bóc, hãm hiếp, mãi sau nhờ lính Mã tăng viện mới dẹp
được. Những tranh giành lều chiếu, nơi ở tiện nghi, rồi nào tham ô,
những lạm với những đổi chác để mong sớm được rời đảo. Có chợ mọc lên
buôn bán, hàng hóa lính Mỹ đem qua từ đất liền, tiệm ăn, quán cà phê mọc
lên ven bãi cát. Những máy tàu cải chế thành máy phát điện, gạo tẻ và
khí đá chế thành rượu để uống say mèm quên đời lưu vong. Thời gian tạm
trú trên đảo thường thì trên dưới một năm, một năm cũng là dài đăng
đẳng! Những cuộc tình vội vàng, chắp nối nở rộ. Lộng ngôn mới gọi đó là
những cuộc tình, thật ra chỉ là những chung đụng thân xác, được vài ba
tháng thì lại chia tay nhau, mỗi người đều có phận riêng.
Thuốc ngừa thai được Liên Hiệp Quốc phát không rộng rãi. Thế nhưng vẫn
có tiêng khóc chào đời, tiếng khóc dư thừa ngoài mong đợi. Chưa kể những
thai nhi bị xóa đi dấu vết sau “những cuộc tình trên đảo”... Ở Bidong
tôi làm việc trong phòng điều tra tội ác hải tặc, tôi thường phỏng vấn
đồng bào tị nạn khắp nơi dạt vào đảo, xin kể ra đây những cảnh Kinh
hoàng, tất cả là sự thật, vì trí tưởng tượng của loài người không thể
nào có thể dựng lên, dù chỉ bằng phần nhỏ, những chuyện tôi sắp kể... Có
thuyền trôi dạt, đáp vào bờ cát Bidong, thuyền gần trăm người, chết còn
mươi mạng, chết vì đói, chết vì khát, bị hải tặc chém đầu ném xác xuống
biển cho cá dữ rỉa thây.
Có thuyền bị cháy nám, lờ đờ trôi gần đảo, con thuyền ma không còn ai
cầm lái, thanh niên Bidong chèo ghe ra kéo thuyền vào bờ cát, thuyền còn
lại mươi người thoi thóp, nằm la liệt trên mạn thuyền, xác người ngổn
ngang bốc mùi, có những bé thơ chết hồn nhiên nằm ôm vú mẹ. Có bà mẹ
được dìu xuống bến, vẫn ôm chặt đứa bé trong tay, bỗng òa lên khóc, đứa
bé đã chết từ lâu, bà vật vã gào thét không ra tiếng khóc, bà
vẫn mớm con bằng chính nước dãi của mình, bà vẫn lấy nước
tiểu của con, vàng khè quánh đặc, để rửa kinh trong những ngày
có tháng! Có mấy em gái khệnh khạng, áo quần tả tơi, bê bết
vết máu đã khô đen, lờ đờ lảo đảo lên bờ trên cát, em chợt
ngồi xuống ôm mặt thều thào gọi mẹ cah, em khóc không ra nước
mắt. Lúc sau tỉnh lại, em gặp được mẹ được cha, được cả anh
và cả thằng em trong đống xác người vừa mới được chuyển từ
thuyền lên bãi cát, những cái xác tô hô nằm trên cát nắng thiêu
người, không manh chiếc rách để liệm!
Có mấy bé trai, vùng dậy sau khi được mớm sữa, bé chạy tung
tăng đi tìm cha mẹ, những người từ tâm ôm em vào lòng dỗ dành
bảo rằng em sẽ được gặp lại cha mẹ! Vài người sống xót chẳng
hiểu vì sao mình hãy còn sống, nghẹn ngào kể lại chuyện đau
buồn, hải tặc bắn xối xả vào thuyền, nhiều người đã bị chết
ngay lúc đó, nhiếu người hốt hoảng nhảy xuống biển, mùa biển
động cá dữ đói ăn, nghe mùi máu tanh kéo đến từng bầy, vẫy
vùng giành nhau phanh thây xé xác, thịt xương, áo quần, ruôt gan
lóng thòng, nổi lềnh bềnh trong vũng nước đỏ ngầu, chỉ trong
khoảng khắc bầy cá dữ tha đi hết thịt xương, để lại đại dương
một vùng nước đỏ ngòm. Bắn xong chúng nhẩy qua thuyền, chém
loạn cuồng, mã tấu bửa xuống đầu, chẻ lên vai, phạm ngang lưng,
đâm vào bụng, ruột lòi ra lóng thòng trắng hếu! Máu đỏ từng
vòi phun tung toé.
Tay chém, miệng gầm, áp đảo xong chúng bắt đầu cướp, lùa đàn
bà con gái xuống khoang thuyền, những thân gái bị quăng quật,
xé nát áo quần. Bọn chúng dành nhau những thân gái yếu đuối!
Những xác thân trần truồng quì xuống van lậy, chúng vẫn cười
đùa chẳng tha, nhiều cô nằm thoi thóp, chúng lấy dao chích máu,
rạch đùi, cắt đầu nhũ hoa, đam vào hạ bộ cười hô hố. Trước
khi bỏ đi còn mang theo vài người nhan sắc, đem bán cho những
thanh lâu, hay đem đến một cái hải đảo hoang vu nơi có sào huyệt
của bọn chúng, nhốt ở đó để thỉnh thoảng ghé vào hành hạ,
chán chường thì đem đi bán, hoặc bỏ trôi trên biển, khi chúng
cướp thêm được gái mới.
Báo chí có loan tin, vài cô trốn được kể lại những chuyện
thương tâm. Hải tặc thường đâm thủng thuyền, đốt phá, tạo kinh
hoàng rồi cướp bóc, cướp tất cả giết nhiều người dù không
chống cự, hiếp cả người già...Sau đó cho đánh đắm thuyền để phi
tang, nhiều người may mắn dạt được vào bờ thác loạn thần
kinh, ngập ngừng không trả lời câu hỏi rằng đã có ăn thịt người
chết để sống không? Không chắc...vì trong cơn thoi thóp có
người mớm cho ăn, cũng chả hiểu tại sao còn sống được! Có
những thiếu phụ mất tất cả chồng con, ôm trong lòng cái thai
oan nghiệt. Có những ông chồng còn lại một mình lầm lủi.
Những em nhỏ côi cút nước mắt chưa khô không còn ược sống hồn
nhiên, có những bé trai khôi ngô mắt sáng sống đời ám ảnh cảnh
mẹ, cảnh chi bị dày vò, có những em gái đẹp hiền dễ thương,
sớm bị đọa đày sống đời buông thả. Ít có gia đình còn được
đầy đủ, dọc đường mất mát. Hay lúc ra đi không thể đi chung phải
phân tán nhỏ để lỡ có bề nào còn chỗ nương tựa. Bên cạnh
những buông thả cuồng loạn, cũng còn những thủy chung,mực
thước, đời sống đơn sơ đạm bạc, nhìn về tương lai. Bidong được
chia ra làm nhiều nơi cư trú. Khu C có bãi cát vàng, nổi
lên những quán cà phê, cuối bãi có ngọn núi trọc, nơi an nghỉ
sau cùng của những người chưa tìm được tự do đã vội đi vào
lòng đất, nơi đây cũng là nơi an nghỉ của những cái chết đau
thương. Bidong trước ngày đóng cửa vĩnh viễn đã là nơi xẩy ra
những cuộc biểu tình đẫm máu của những người bị cướp đi
quyền tị nạn, có nhiều người đã tự mổ bụng mình hoặc tẩm
dầu thiêu rụi xác thân cháy như ngọn đuốc tự do, quyết không trở
lại quê hương ngục tù.
Có nhiều trăm ngàn người đã bỏ xác trên biển đông, cũng có
hàng trăm ngàn người đã chịu nhục nhằn, nhưng cả triệu người
không chùn bước lũ lượt ra đi, triệu người muôn đời không phủ
nhận quê hương, muôn đời hãnh diện tổ quốc, tự hào dân tộc.
Chúng tôi chỉ phủ định chế độ nên chúng tôi ra đi, coi nhẹ nguy
hiểm, khinh thường cái chết, lánh xa bạo quyền. Mảnh đất tạm
dung sẽ đến nếu là hoang vu cằn cỗi, nếu là sa mạc buồn tênh,
liệu có triệu người bất kể sinh mạng liều chết ra đi? Tự do
chất chứa cái quyền được sống là người, nhân quyền ấp ủ cuộc
sống no lành. Đường đi tới tự do gian nan, phủ đầy máu lệ,
thịt xương vương vãi dọc đường. Những gì thuyền nhân Việt nam
đã trải qua chưa một lần xảy ra trong nhiều nghìn năm lịch sử
loài người. ::: Phạm Tiến Nam:::
|
NGUYỄN VĂN SÂM * TRƯỜNG PETRUS KY
Nguyễn Văn Sâm
Vì theo gia đình di chuyển nhiều lần trong chiến cuộc, tôi học lớp Nhứt 4
(lớp 5) tại trường Tiểu học Trương Minh Ký niên khóa 1953-54 khi đã 13
tuổi. Trường tọa lạc ở góc đường Kitchener và Galliéni, nay là trường
Nguyễn Thái Học cũng ở góc đó nhưng tên đường đã thay đổi: Nguyễn Thái
Học và Trần Hưng Đạo, Saigon.
Những ngày cuối năm, thầy Đại nói trong lớp vài ba lần: ‘Cả lớp nầy tao
thấy không có đứa nào đậu vô trường Petrus Ký được hết, đứa nào đậu về
đây tao thưởng, muốn gì được nấy!’ Là một trong ba đứa giỏi nhứt lớp lúc
đó, nghe thầy nói thì nghe, không biết bạn bè cùng lớp thì sao, chứ tôi
không có ý kiến gì. Ừ thi thì thi chứ biết làm gì khác hơn? Anh Thơm
tôi đã đậu năm trước. Con đường đi đã sẵn thì phải đi thôi, cũng không
biết là có trường nào khác dễ đậu hơn hay không vì nhà tôi chẳng có đàn
ông để biết chuyện ngoài xã hội, bỏ thí hai anh em tôi cho trời đất,
nghe ai xúi biểu gì thấy phải phải thì làm, may nhờ rủi chịu.
Khi có giấy báo danh tôi phải tự mình đi trước nhiều lần cho quen đường
đề phòng trễ giờ ngày thi. Sáng sớm đi bộ từ nơi đương ở là cái quán nho
nhỏ bán đồ bazaar của cô tôi ở góc đường Quai de Belgique (nay là Bến
Chương Dương) và Yersin, theo đường Yersin ra tới đường Galliéni. Năm
đó có sự kiện đất nước bị chia hai và có sự người Bắc di cư vào Nam. Một
số được cho tạm trú tại trường Trương Minh Ký. Mặc dầu đi đâu, khi
ngang trường cũ, ngó vô cảnh tượng nhộn nhịp, thế nào tôi cũng bước vô
cửa nhìn ngó vì thấy những người mới tới lạ trong cách nói và giọng nói.
Ngó chán thì thằng nhỏ băng qua lộ đón xe autobus đi tới trạm Nancy
xuống để quẹo mặt vô đường Nancy (nay là đường Nguyễn Văn Cừ) lội bộ tới
trường.
Khoảng đường nầy, độ chừng hai cây số, với con trai tuổi 14 thì không xa
lắm, đường rộng, hai bên đường có hàng cây dầu mát mẻ. Thỉnh thoảng có
vài cái ao nho nhỏ. Có lần đi về trễ, mặt trời xuống thấp mau, tiếng ếch
nhái hòa nhạc đã bắt đầu, khiến thằng bé bước dồn lẹ chưn hơn.
Nhớ là thi ba buổi: Luận văn, Câu hỏi thường thức và Toán. Mỗi môn có hệ số của nó, nhưng môn Toán có hệ số lớn nhứt.
Luận văn thì làm dễ dàng vì từ lúc biết chữ cho tới lúc đi thi
tôi ngốn hết cả trăm quyển tiểu thuyết tiền chiến, Tự Lực Văn Đoàn và
gần như thuộc lòng hầu hết các câu chuyện trong mấy bộ truyện Tàu của
nhà xuất bản Tín Đức Thư Xã ở đường Sabourin (sau nầy là Tạ Thu Thâu) vì
cái sạp của cô tôi có bán thơ truyện. Thêm nữa, trong khi học lớp Nhứt,
tôi thuờng tới nhà thằng Trang mượn nhiều tiểu thuyết ở ngoài tiệm
không có bán vì gia đình ba nó giàu, trước chiến tranh đã mua sách thẳng
từ Hà Nội.
Câu hỏi thường thức và Sử ký Địa lý thì tôi trả lời theo cách của
mình, viết câu văn của mình, theo lời thầy Đại dạy: ‘Tụi bây ráng học
cho hiểu rồi theo đó mà viết, đừng học thuộc lòng mà trả lời theo sách.
Giám khảo cả ngày đã chấm cả mấy trăm bài, chán tới bản họng nên cho
điểm sàng sàng không lớn dầu mầy làm trúng một trăm phần trăm, gặp bài
thằng nào viết đúng mà giọng văn riêng của nó thì hứng chí cho lớn
điểm.’ Tôi cứ theo cái chỉ nam đó mà thực hiện, lại còn vẽ hình như đã
làm trong các kỳ thi Lục Cá Nguyệt ở lớp mỗi khi bài cần hình vẽ con nầy
con kia hoặc là hình dễ hơn nhưng có tính cách minh họa cho bài như hai
cái thùng trong bình thông nhau, hay kiểu cất rượu để hơi rượu chạy qua
lò so xoắn nhúng trong bồn nước lạnh…. Nhớ là hôm đó tôi có vẽ hình với
sự hồi hộp giám khảo không coi đó là dấu hiệu để gian lận.
Bài Toán làm rồi kiểm tra ba bốn lần vẫn còn dư giờ, tôi ngồi ngó bâng quơ, liếc thấy thí sinh kế bên trả lời ,
nay kêu làđáp số, khác mình thì dò lại lần nữa, thấy mình đúng thì
quyết định đưa bài cho giám thị với câu an ủi trong lòng. Nó trúng thì
nó đậu, mình trúng thì mình đậu. Tuy nói vậy nhưng tôi tin tưởng là mình
trúng vì đã dò đi dò lại nhiều lần, trước khi trao cho giám khảo còn
đứng xớ rớ dò tới dò lui lần chót. Thường thì loại Toán miếng đất hình
chữ nhựt bề dài… bề ngang… bốn góc có cắt ra bốn hình chữ nhựt nhỏ cho
người khác. Còn lại thì rào, tiền rào mỗi thước là… Hỏi tốn bao nhiêu
tiền hàng rào… Nếu cần thì thêm câu hỏi giá mua mỗi mét vuông là... thì
tất cả phải mất bao nhiêu tiền. Kiểu nầy tôi vẽ hình ra cho lớn thì thấy
rõ ràng. Một trong cái khó là phải làm toán nhơn với số lẻ, làm xong
sau khi thử bằng số 9, còn phải làm lại lần nữa coi có giống không mới
chắc ăn vì thử bằng số chín mau mà có thể sai.
Hơn sáu chục năm qua, không còn nhớ mấy bài thi tuyển năm đó thế nào,
dầu sao cũng tương tợ như trong chương trình lớp Nhứt đã học.
Trường báo tin sẽ có kết quả ngày đó tháng đó, nhưng một tuần trước tôi
nóng lòng đã đi tới trường cầu may coi có công bố kết quả chưa. Vậy mà
đã có sớm. Thấy tên mình đậu thứ 119 trong số 400 học sinh được chọn,
với sỉ số hơn bốn ngàn. Tôi mừng quá, khi xuống xe autobus thì chạy u
liền về báo tin lung tung cho mọi người. Rồi cả tuần nầy mỗi ngày tôi
đều lên trường coi cái bảng phong thần kia còn hay mất, sợ rằng người ta
làm lộn gì đó, lấy vô sửa lại không có tên mình thì ‘chết cha’, hút gió
không kêu. Thêm nữa, cũng sợ cái bảng đó không phải bảng kết quả.
May quá đâu vẫn còn đó. Chỉ có điều là nhiều tên có viết nguyên tử quẹt
tới quẹt lui do ai đó thò viết vô lỗ lưới gạch dưới tên con em của mình.
Vậy mà tới ngày chánh thức có kết quả, tôi cũng tới, chen lấn coi bảng
như mọi người khác, cũng bị người lớn ép gần ngộp thở để vô cho được
hàng trong cùng trình diện cái bảng. Nó nằm đó, giống y chang bao lần
mình dò trước đây. Vậy là chắc ăn không còn lo sợ gì nữa.
Rồi cô tôi sắm cho quần Tây dài, giày sandale da do người thợ giày quen
ngồi ở góc đường trước tiệm chụp hình Phong Lai gần cầu Ông Lãnh đóng
theo ni chưn, dưới đế còn được tăng cường thêm miếng sắt, người thợ nói
để cho gót da khỏi bị mòn. Giày mới đi nghe lộp bộp oai vệ như người lớn
khi đi làm với nón nỉ, cặp da. Cô tôi nhắc đi hớt tóc. Cho tiền mua
cái đồng hồi cũ o lại của ông thợ sửa đồng hồ trước tiệm nước của chú ba
tàu mập chuyên môn bận áo thun ba lỗ và quần xà lỏn lòi rún. Chưa tới
ngày đi học nhưng được đeo đồng hồ lần đầu tiên tôi lâu lâu ngó xuống
cườm tay mình ra điều hãnh diện.
Đi học trường nhỏ, học trò ăn bận lôi thôi… vô trường lớn, phải bận quần
xanh áo trắng bỏ vô quần, chúng tôi thấy mình đã lớn. Lại còn có phù
hiệu bằng sắt, lúc đó kêu là ensigne, đeo lên túi áo, tưởng chừng như
con gái cùng lứa thế nào cũng ngó trầm trồ.
Tôi được xếp vô lớp Đệ Thất G, trong đó có trò Nguyễn Tuấn Anh đậu vô
hạng nhứt. Nghe nói anh ta đậu hạng nhứt tôi nể quá, chắc là mình không
theo kịp, phải cố gắng tối đa. Học chung với nhiều bạn rất dễ mến như
Châu Thành Tích, anh nầy học có một năm thôi, vậy mà sau nầy lớn lên gặp
nhau ở CA, qua phôn, hai đứa nói chuyện xưa mệt nghỉ. Thằng Khâm rất dễ
mến vì nói năng nhỏ nhẹ trong khi nó lớn con đen bóng vì tập tạ và chơi
đá banh cả năm trước. Sau nầy Khâm làm thầy giáo, bị động viên sau Tết
Mậu Thân rồi mất không lâu sau đó. Thằng Quách Văn Thành ngồi kế bên 2
năm liền, đã có vẻ người lớn trong khi đa phần chúng tôi còn tánh tình
con nít.
Tiếc là ra đời chỉ gặp lại có một lần ở tỉnh lẻ miền Tây rồi không bao giờ gặp lại nữa. Còn nhiều đứa nữa: Trí bớt, hiện ở CA, Trí Đinh làm luật sư ở Sàigòn, Lễ cây xăng sau nầy phát nguyện tu hành, Nam cao, Mẫn chị Hai,
Hàn Minh Đức, Lê Cảnh Tuệ tất cả sau nầy cũng đều thành đạt, ra đời có
chức vị nhưng không bị tai tiếng gì…… Sang năm thứ hai, lớp Đệ Lục G thì
có đứa bạn, thằng Mai T. Tr., cái tên lạ lùng mà dễ nhớ, đã cùng học
chung lớp ở trường Trương Minh Ký được tuyển vô lớp Đệ Lục. Bạn bè trước
ở trường nhỏ, gặp nhau ở trường mới thiệt là hạnh ngộ. Chúng tôi gắn bó
từ đó. Ra đời cùng làm nghề giáo ở Sàigòn, liên hệ với nhau thường, qua
Mỹ gặp nhau lại, giao tình như ngày cũ.
Năm học bắt đầu với những vị thầy mà chức vụ kêu là Giáo Sư, mỗi Giáo Sư
phụ trách một hay hai môn, tới giờ thì đi tới lớp mình phụ trách. Học
trò thì ở nguyên trong lớp đợi sẵn. Điều nầy rất lạ đối với học trò
Tiểu học mới lên như tôi. Còn nhớ Anh Văn thầy Nguyễn Văn Thái cao, ốm
đen, răng hô, nói nhiều, bắt học trò phiên âm quốc tế mệt nghỉ, nhờ vậy
mà sau nầy tôi phiên âm quốc tế rất chì. Một lần tôi gặp ái nữ của thầy
đang sanh sống ở Orange County, cũng mừng!
Sử Địa Bà Dung mặt thiệt nghiêm, không thấy cười bao giờ, học trò sợ
xanh mặt khi bà đưa cây viết trên cuốn sổ điểm danh rà rà kêu tên, đứa
nào chỉ con sông từ cửa biển vô là lãnh trứng vịt lộn, nghe đâu sau nầy
bà định cư ở Canada và qua đời bên đấy. Cô Sâm trẻ trung, vui tánh, dạy
Việt Văn, học trò đứa nào cũng thích. Sau nầy khi ở Mỹ về, tôi thường
ghé thăm cô, rất đau lòng khi thấy người cô thần tượng của mình, cuối
đời bệnh hoạn. Toán Giáo Sư Nguyễn Thạch dạy năm đó rồi năm sau ra làm
huấn luyện viên Thể Dục, Vạn Vật Giáo Sư Trần Huệ, người thầy hiền mà
sau nầy trên đường đời tôi có duyên được gặp trong nhiều giai đoạn. Nhận
xét là các Giáo Sư đều dạy tận tâm, nếu có khắt khe là vì tương lai và
lợi ích của học sinh chớ không vì gì khác.
Năm đó, tôi bày đặt mua báo Ciné Monde và Ciné Revue để coi hình tài tử
thì ít mà dò coi có cô đầm trẻ nào thì viết thơ chơi correspondent. Cuối
cùng cũng liên lạc được 2 cô trong 2, 3 năm gì đó, tới giờ già đầu rồi
mà vẫn còn nhớ tên các nàng tuy rằng quên tuột tỉnh thành của họ. Lần
nào thầy giám thị Phấn đi xuống, tay chấp sau đít có cầm cái bao thơ thì
tôi run run vì mừng biết rằng mình sẽ có thơ từ tuốt bên trời Tây xa
lắc lơ. Thầy Phấn lần nào đưa thơ cũng nói: ‘Học không lo học, thơ với
từ.’ Mười hai năm sau, khi về dạy lại ở trường cũ, tôi chào kính các
thầy cô xưa của mình, khi nhắc với thầy Phấn về chuyện thơ từ của mình
thì thầy cười: ‘Nhớ chứ sao không nhớ, lúc đó Giáo Sư là một trong hai
ba học sinh có thơ từ bên Pháp qua thường xuyên.’ Ôi thời trẻ sao mà
ngông nghênh, dám đưa tay lên tính ngắt sao trời! Nói theo bây giờ: Yếu
mà đòi ra gió!
Năm đó 1955, tháng ba, có trận đụng độ giữa quân đội của chánh phủ và
quân đội Bình Xuyên. Một đơn vị Bình Xuyên có tên là Công An Xung Phong
đóng trong trường từ lâu. Một đơn vị Nùng tấn công để đuổi họđi. Chúng
tôi học trò các lớp nhỏđương giờ học thì súng nổ lốp bốp điếc tai. Đứa
nào đứa nầy sợ xanh mặt nhưng vẫn ngồi yên chờ sự chỉ dẫn của Giáo
sưđương dạy. Chúng tôi đương học giờ Pháp Văn với thầy Phạm Văn Thới.
Thầy từ tốn ra lịnh cho tất cả nằm xuống đất. Tất cả lẹ làng làm y theo
nhưng đứa nào cũng lén liếc lên coi thầy làm gì. Thầy Thới ung dung đi
qua đi lại trong phòng, hút thuốc, thỉnh thoảng bước ra ngoài hành lang
nghe ngóng khi súng đã êm êm trước khi dứt hẳn.
Chúng tôi chưa từng nghe tiếng súng quá gần, đứa nào cũng phục thầy.
Thầy bình tĩnh, giữ lớp thiệt kỷ luật, không có đứa nào chạy lộn xộn,
không đứa nào khóc la. Thầy luôn miệng trấn an: ‘Mấy toi nằm xuống là đạn không trúng đâu, có lính vô đây moi
sẽ đuổi họ ra.’ Mà hình như lớp nào cũng vậy, êm re, không nhốn nháo
dầu chưa thực tập để biết phải làm sao trong tình huống nầy.
Vậy mà ban Giám Đốc trường đã làm nhiệm vụ mình tuyệt vời. Ông Hiệu
Trưởng Phạm Văn Còn yêu cầu viên Đại Úy có trách nhiệm tấn công lúc đó
ngừng bắn để cho tất cả học sinh ra về. Chúng tôi lục đục ra lấy xe đạp
về, vẫn là theo kỷ luật như mọi ngày chớ không chạy giành trước giành
sau chen lấn gì hết.
Hôm sau đi học lại, tôi còn nhớ một xác chết đầy máu nằm trên hành lang
bên tay trái, học trò đứa nào đi ngang cũng né. Và tượng ông Petrus Ký
bị một viên đạn bắn vô má bên tay mặt, chúng tôi sau nầy thường nhắc lại
với nhau với vẻ buồn buồn: ‘Chiến tranh cho ông học giả của chúng mình
một đồng tiền trên má!’
Năm đầu tiên Trung Học, tôi có nhiều ấn tượng tốt với sự ngưỡng mộ các
Giáo sư của mình, hỏi các bạn trong các lớp khác cũng có cảm tưởng y
chang như vậy. Quí thầy chăm lo việc học của chúng tôi và tạo được tình
thương cũng như sự kính nể của học trò. Hơn sáu mươi năm qua, bạn bè
thất lạc, mất còn, quí thầy cũng đi về miền miên viễn hầu hết, nhưng
hình ảnh trong tâm trí tôi, và chắc chắn các bạn khác, cũng vậy, không
phai.
Tại sao vậy? Tôi nghĩ đó là truyền thống lâu đời của ngôi trường danh
tiếng, ngôi trường đến nay đã ngót nghét một thế kỷ, đào tạo được nhiều
người tài nặng lòng giúp nước thương dân. Mà cũng nhờ truyền thống
tương quan thầy trò ngày xưa. Một tương quan bên nầy thương, bên kia
kính mà ngày nay hình như đương bị xói mòn.
TỪ THỊ CẢNH * NHỮNG MÙA XUÂN ĐÃ QUA
Những mùa xuân đã qua
Từ thị Cảnh
Những cơn gió lạnh bắt đầu thổi về miền Nam Cali báo hiệu những ngày đông đang về trên xứ người. Mùa đông ở đây không lạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho người viễn xứ cảm dâng một nỗi buồn man mác. Có đi xa mới nhớ nhiều về xứ sở, có xa quê mới da diết mong một ngày về. Chắc họ cũng như tôi đang chạnh nhớ về những ngày đầu xuân ở quê nhà. Chiều nay, khi ánh nắng vàng dần tắt, lòng tôi chợt nhớ lắm những mùa xuân đã qua trong cuộc đời mình…
…Cuối thập niên 1950, Miền Nam đã được 5 năm sống trong thanh bình. Nhà nhà bình yên, cuộc sống sung túc, nông dân được mùa, người thương gia có nhiều lợi tức. Mùa xuân đến với chúng tôi trong hạnh phúc ấm no. Tôi nhớ biết bao về những ngày xuân trên quê hương Bình Dương. Ngày Tết cũng là ngày mà tất cả mọi người đều hân hoan đón mừng mùa xuân mới. Từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời thì mọi nhà dù sang hay hèn, từ thôn quê đến thành thị ai nấy đều chuẩn bị sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc trong nhà. Bàn thờ phải được dọn dẹp sạch sẽ với bộ lư đồng chùi bóng loáng và được chưng trên bàn thờ bên cạnh những bông hoa và mâm ngũ quả để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết với gia đình. Đối với những người có người thân đã qua đời, các mồ mả phải được dẫy cỏ, sơn lại cho sạch sẽ trước ngày 30 Tết. Chợ hoa Bình Dương được mở ra ở bờ sông Bạch Đằng với hằng trăm chậu hoa mai, cúc, thược dược cùng khoe sắc với rất nhiều loại hoa khác, đẹp không làm sao kể xiết. Ngoài ra còn có rất nhiều loại trái cây được bày bán khắp nơi. Đó là những trái dưa hấu rất ngon, những trái bưởi, trái cam, trái thơm từ miền Tây mang lên. Chợ Tết lúc nào cũng đông đúc người đi, xe cộ qua lại.
Ở nhà tôi và nhà ông ngoại ở kế bên, nhà cửa được sơn mới. Những cây mai đã được lặt lá từ hôm rằm, tới ngày 30 đã tròn nụ xanh biếc và chắc chắn sẽ nở bung vào đúng sáng ngày mùng một. Mọi nhà đều cúng giao thừa để mừng năm mới. Lúc đó những tràng pháo Tết được đốt lên dòn dã để xua đuổi tà ma, đón mừng xuân mới. Trên bàn thờ có đầy đủ bông hoa, trái cây, bánh mứt để cúng ông bà. Sau đó người ta rủ nhau đến chùa, nhà thờ để hái lộc đầu năm, đem về đặt lên bàn thờ với lòng mong ước một năm mới bình an trong gia đình. Sáng mùng một, con cháu mặc áo mới, chúc Tết ông bà cha mẹ và nhận được những phong bao lì xì màu đỏ thắm...
Lúc tôi còn nhỏ, cũng như những đứa trẻ trong xóm, chúng tôi đều mong Tết mau đến để được mặc quần áo mới, được nhận tiền lì xì từ ông bà, cha mẹ, và bà con họ hàng gần xa. Ngoài ra, Tết còn là lúc bọn trẻ chúng tôi được vui chơi, đánh bài... Vui nhất là chơi lắc bầu cua, cá, cọp. Vào buổi tối, cả nhà quây quần chơi đánh bài coi ai hên xui. Người lớn và con nít đều được tham gia. Tôi thích nhất là được đánh bài cào với ông bà, cha mẹ và các anh, chị, em. Đây là lúc chúng tôi cùng cười đùa vui vẻ và thắt chặt thêm tình thân trong gia đình. Dịp Tết còn là thời gian để thăm viếng và ăn những bữa cơm thân mật cùng họ hàng và bạn bè thân thuộc.
Năm ấy, tôi đang ở lứa tuổi 17, 18 là thời điểm thơ mộng nhứt của cuộc đời. Tôi có rất nhiều bạn trai lẫn gái. Các bạn rất quý mến tôi. Ngày mồng 3 Tết, bạn bè tụ họp. Chúng tôi cùng đến nhà thầy cô để chúc Tết. Sau đó, chúng tôi thăm viếng nhà của nhau và chúc những câu tốt lành trong năm mới.
Những năm sau, tôi lớn khôn thêm và càng có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ trong việc dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong nhà như chuẩn bị lá chuối để gói bánh tét, bánh ít. Sau đó lại phải mua thịt, cá để chuẩn bị thết đãi bà con và bạn bè trong ba ngày Tết. Từ ngày 23 âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời, tôi phải phụ má của tôi bán quần áo ở chợ Thủ vì những ngày giáp Tết, bà con ở vùng quê mới có thời gian ra chợ mua sắm quần áo cho con của họ. Những ngày nầy, chợ Bình Dương thật đông đúc và mọi người tất bật mua sắm, chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Không khí những ngày cận Tết ở Bình Dương thật là nhộn nhịp, hân hoan.
Ngày xưa, những ngày cận Tết ở chợ Thủ sự buôn bán thật rộn rịp. Hoa trái từ thôn quê đem ra chợ rất nhiều. Củ cải, củ kiệu là những món truyền thống mà nhà nào cũng mua về để làm dưa. Hoa kiểng ở địa phương như vạn thọ, cúc, mồng gà được những phụ nữ gánh ra chợ bán. Nhiều người còn gánh vào các thôn xóm để bán tận tay người mua. Nhờ đó, chúng tôi mua được hàng giá rẻ mà họ cũng mau chóng bán được hàng.
Chợ đêm được mở ra để bán các loại thiệp chúc Tết, pháo, phong bao lì xì, các loại bánh mứt như mứt gừng, mứt bí, mứt mãng cầu, thèo lèo cứt chuột... Dưới bờ sông, những ghe thuyền cũng chở bông hoa, trái cây từ miền Tây lên bán nữa. Có ghe chở đầy những trái dưa hấu thật hấp dẫn. Tuy nhiên cuộc sống của những thương buôn nầy rất cực nhọc. Họ phải ăn ngủ ở dưới ghe cả tháng, tới chiều ba mươi, họ mới lui ghe về quê ăn Tết…
Năm 1993, chúng tôi đi định cư ở nước ngoài. Những năm đầu tiên ở xứ người, phải lo bươn chải để kiếm sống. Trong khi đó, ngày Tết đến không có gì để chuẩn bị như ở quê nhà vì nếu không trùng ngày thứ bảy hoặc chủ nhật thì vợ chồng, con cái đều phải đi học, đi làm. Đối với chúng tôi lúc đó, Tết ở nước ngoài không có gì vui cả!. Chúng tôi tưởng rằng ngày Tết cổ truyền Việt Nam đã không còn đến trong cuộc sống của mình nữa!
Sau nầy, nhờ số đông người Việt Nam về sống ở vùng Little Saigon, cho nên ngày Tết ở đây đã khởi sắc hơn lên. Những ngày gần Tết chợ búa cũng trang hoàng rực rỡ với bánh chưng, bánh tét, các loại mứt bánh truyền thống. Chợ hoa được mở ra ở trước cửa Phước Lộc Thọ bán đầy đủ mọi loại hoa mai, hoa đào, hoa cúc. Còn bánh mứt thì đủ thứ không thiếu một món nào. Thêm vào đó, con cái chúng tôi đã có việc làm ổn định, có đứa đã mua được nhà. Đứa con út đã tốt nghiệp đại học, sau đó lại có bằng Cao Học (Master) về công chánh. Từ đó, chúng tôi cũng cảm thấy bớt buồn, tuy rằng đối với tôi, Tết ở nước ngoài cũng không bao giờ bằng Tết ở quê hương ngày xưa .
Năm 2007, sau hơn 14 năm xa xứ, tôi có dịp về quê thăm mẹ già và đón một cái Tết ở quê hương. Má tôi, mắt đã loà vì mong chờ con cái và giờ đây đã không còn thấy rõ nữa, nhưng tôi thấy trong lòng của bà một niềm hân hoan khi đón người con thân yêu trở về đoàn tụ. Năm đó, tôi có dịp đón xuân ở quê nhà. Tết ở Việt Nam những năm sau nầy tuy khá giả hơn và cũng có mai vàng, dưa hấu đỏ nhưng không làm cho tôi có cảm giác vui thích như thuở ấu thơ vì giờ đây anh em lưu lạc mỗi người mỗi nơi. Biết làm sao tìm được cảnh sum họp vui vẻ ngày xưa?.
Ngày Tết là ngày họp mặt bà con, cô bác đến thăm viếng và chúc sức khoẻ lẫn nhau. Tết cũng là thời điểm để chúng ta có thêm một tuổi thọ. Tuy nhiên, chắc chỉ có các em nhỏ là thích Tết nhất vì đây là thời gian các em được vui chơi thoả thích, được mặc quần áo mới và nhận được tiền lì xì từ người lớn .
Là những người xa quê hương, ngày Tết là ngày tôi vừa vui, vừa buồn. Tôi vui vì đã được thêm một tuổi thọ. Tôi buồn vì bây giờ phải ở xa quê hương, không có cơ hội được hưởng không khí vui vẻ của những ngày đầu năm với họ hàng thân thiết và bạn bè. Dù ở đâu đi nữa, ngày Tết cũng là ngày bắt đầu một năm mới. Thôi chúng ta hãy cùng nhau chào đón mùa xuân mới với những gì có được. Mong rằng một ngày nào đó, chúng ta lại được cùng nhau về lại quê hương để tận hưởng mùa xuân vui vầy, hạnh phúc. Trước khi kết thúc, kính chúc quý thầy cô và các bạn một năm mới nhiều sức khoẻ, vạn sự như ý ./.
Từ thị Cảnh
Những cơn gió lạnh bắt đầu thổi về miền Nam Cali báo hiệu những ngày đông đang về trên xứ người. Mùa đông ở đây không lạnh lắm nhưng cũng đủ làm cho người viễn xứ cảm dâng một nỗi buồn man mác. Có đi xa mới nhớ nhiều về xứ sở, có xa quê mới da diết mong một ngày về. Chắc họ cũng như tôi đang chạnh nhớ về những ngày đầu xuân ở quê nhà. Chiều nay, khi ánh nắng vàng dần tắt, lòng tôi chợt nhớ lắm những mùa xuân đã qua trong cuộc đời mình…
…Cuối thập niên 1950, Miền Nam đã được 5 năm sống trong thanh bình. Nhà nhà bình yên, cuộc sống sung túc, nông dân được mùa, người thương gia có nhiều lợi tức. Mùa xuân đến với chúng tôi trong hạnh phúc ấm no. Tôi nhớ biết bao về những ngày xuân trên quê hương Bình Dương. Ngày Tết cũng là ngày mà tất cả mọi người đều hân hoan đón mừng mùa xuân mới. Từ sau ngày 23 tháng chạp âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời thì mọi nhà dù sang hay hèn, từ thôn quê đến thành thị ai nấy đều chuẩn bị sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc trong nhà. Bàn thờ phải được dọn dẹp sạch sẽ với bộ lư đồng chùi bóng loáng và được chưng trên bàn thờ bên cạnh những bông hoa và mâm ngũ quả để chuẩn bị đón rước ông bà về ăn Tết với gia đình. Đối với những người có người thân đã qua đời, các mồ mả phải được dẫy cỏ, sơn lại cho sạch sẽ trước ngày 30 Tết. Chợ hoa Bình Dương được mở ra ở bờ sông Bạch Đằng với hằng trăm chậu hoa mai, cúc, thược dược cùng khoe sắc với rất nhiều loại hoa khác, đẹp không làm sao kể xiết. Ngoài ra còn có rất nhiều loại trái cây được bày bán khắp nơi. Đó là những trái dưa hấu rất ngon, những trái bưởi, trái cam, trái thơm từ miền Tây mang lên. Chợ Tết lúc nào cũng đông đúc người đi, xe cộ qua lại.
Ở nhà tôi và nhà ông ngoại ở kế bên, nhà cửa được sơn mới. Những cây mai đã được lặt lá từ hôm rằm, tới ngày 30 đã tròn nụ xanh biếc và chắc chắn sẽ nở bung vào đúng sáng ngày mùng một. Mọi nhà đều cúng giao thừa để mừng năm mới. Lúc đó những tràng pháo Tết được đốt lên dòn dã để xua đuổi tà ma, đón mừng xuân mới. Trên bàn thờ có đầy đủ bông hoa, trái cây, bánh mứt để cúng ông bà. Sau đó người ta rủ nhau đến chùa, nhà thờ để hái lộc đầu năm, đem về đặt lên bàn thờ với lòng mong ước một năm mới bình an trong gia đình. Sáng mùng một, con cháu mặc áo mới, chúc Tết ông bà cha mẹ và nhận được những phong bao lì xì màu đỏ thắm...
Lúc tôi còn nhỏ, cũng như những đứa trẻ trong xóm, chúng tôi đều mong Tết mau đến để được mặc quần áo mới, được nhận tiền lì xì từ ông bà, cha mẹ, và bà con họ hàng gần xa. Ngoài ra, Tết còn là lúc bọn trẻ chúng tôi được vui chơi, đánh bài... Vui nhất là chơi lắc bầu cua, cá, cọp. Vào buổi tối, cả nhà quây quần chơi đánh bài coi ai hên xui. Người lớn và con nít đều được tham gia. Tôi thích nhất là được đánh bài cào với ông bà, cha mẹ và các anh, chị, em. Đây là lúc chúng tôi cùng cười đùa vui vẻ và thắt chặt thêm tình thân trong gia đình. Dịp Tết còn là thời gian để thăm viếng và ăn những bữa cơm thân mật cùng họ hàng và bạn bè thân thuộc.
Năm ấy, tôi đang ở lứa tuổi 17, 18 là thời điểm thơ mộng nhứt của cuộc đời. Tôi có rất nhiều bạn trai lẫn gái. Các bạn rất quý mến tôi. Ngày mồng 3 Tết, bạn bè tụ họp. Chúng tôi cùng đến nhà thầy cô để chúc Tết. Sau đó, chúng tôi thăm viếng nhà của nhau và chúc những câu tốt lành trong năm mới.
Những năm sau, tôi lớn khôn thêm và càng có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ trong việc dọn dẹp nhà cửa, sắm sửa đồ đạc trong nhà như chuẩn bị lá chuối để gói bánh tét, bánh ít. Sau đó lại phải mua thịt, cá để chuẩn bị thết đãi bà con và bạn bè trong ba ngày Tết. Từ ngày 23 âm lịch là ngày đưa ông Táo về trời, tôi phải phụ má của tôi bán quần áo ở chợ Thủ vì những ngày giáp Tết, bà con ở vùng quê mới có thời gian ra chợ mua sắm quần áo cho con của họ. Những ngày nầy, chợ Bình Dương thật đông đúc và mọi người tất bật mua sắm, chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền. Không khí những ngày cận Tết ở Bình Dương thật là nhộn nhịp, hân hoan.
Ngày xưa, những ngày cận Tết ở chợ Thủ sự buôn bán thật rộn rịp. Hoa trái từ thôn quê đem ra chợ rất nhiều. Củ cải, củ kiệu là những món truyền thống mà nhà nào cũng mua về để làm dưa. Hoa kiểng ở địa phương như vạn thọ, cúc, mồng gà được những phụ nữ gánh ra chợ bán. Nhiều người còn gánh vào các thôn xóm để bán tận tay người mua. Nhờ đó, chúng tôi mua được hàng giá rẻ mà họ cũng mau chóng bán được hàng.
Chợ đêm được mở ra để bán các loại thiệp chúc Tết, pháo, phong bao lì xì, các loại bánh mứt như mứt gừng, mứt bí, mứt mãng cầu, thèo lèo cứt chuột... Dưới bờ sông, những ghe thuyền cũng chở bông hoa, trái cây từ miền Tây lên bán nữa. Có ghe chở đầy những trái dưa hấu thật hấp dẫn. Tuy nhiên cuộc sống của những thương buôn nầy rất cực nhọc. Họ phải ăn ngủ ở dưới ghe cả tháng, tới chiều ba mươi, họ mới lui ghe về quê ăn Tết…
Năm 1993, chúng tôi đi định cư ở nước ngoài. Những năm đầu tiên ở xứ người, phải lo bươn chải để kiếm sống. Trong khi đó, ngày Tết đến không có gì để chuẩn bị như ở quê nhà vì nếu không trùng ngày thứ bảy hoặc chủ nhật thì vợ chồng, con cái đều phải đi học, đi làm. Đối với chúng tôi lúc đó, Tết ở nước ngoài không có gì vui cả!. Chúng tôi tưởng rằng ngày Tết cổ truyền Việt Nam đã không còn đến trong cuộc sống của mình nữa!
Sau nầy, nhờ số đông người Việt Nam về sống ở vùng Little Saigon, cho nên ngày Tết ở đây đã khởi sắc hơn lên. Những ngày gần Tết chợ búa cũng trang hoàng rực rỡ với bánh chưng, bánh tét, các loại mứt bánh truyền thống. Chợ hoa được mở ra ở trước cửa Phước Lộc Thọ bán đầy đủ mọi loại hoa mai, hoa đào, hoa cúc. Còn bánh mứt thì đủ thứ không thiếu một món nào. Thêm vào đó, con cái chúng tôi đã có việc làm ổn định, có đứa đã mua được nhà. Đứa con út đã tốt nghiệp đại học, sau đó lại có bằng Cao Học (Master) về công chánh. Từ đó, chúng tôi cũng cảm thấy bớt buồn, tuy rằng đối với tôi, Tết ở nước ngoài cũng không bao giờ bằng Tết ở quê hương ngày xưa .
Năm 2007, sau hơn 14 năm xa xứ, tôi có dịp về quê thăm mẹ già và đón một cái Tết ở quê hương. Má tôi, mắt đã loà vì mong chờ con cái và giờ đây đã không còn thấy rõ nữa, nhưng tôi thấy trong lòng của bà một niềm hân hoan khi đón người con thân yêu trở về đoàn tụ. Năm đó, tôi có dịp đón xuân ở quê nhà. Tết ở Việt Nam những năm sau nầy tuy khá giả hơn và cũng có mai vàng, dưa hấu đỏ nhưng không làm cho tôi có cảm giác vui thích như thuở ấu thơ vì giờ đây anh em lưu lạc mỗi người mỗi nơi. Biết làm sao tìm được cảnh sum họp vui vẻ ngày xưa?.
Ngày Tết là ngày họp mặt bà con, cô bác đến thăm viếng và chúc sức khoẻ lẫn nhau. Tết cũng là thời điểm để chúng ta có thêm một tuổi thọ. Tuy nhiên, chắc chỉ có các em nhỏ là thích Tết nhất vì đây là thời gian các em được vui chơi thoả thích, được mặc quần áo mới và nhận được tiền lì xì từ người lớn .
Là những người xa quê hương, ngày Tết là ngày tôi vừa vui, vừa buồn. Tôi vui vì đã được thêm một tuổi thọ. Tôi buồn vì bây giờ phải ở xa quê hương, không có cơ hội được hưởng không khí vui vẻ của những ngày đầu năm với họ hàng thân thiết và bạn bè. Dù ở đâu đi nữa, ngày Tết cũng là ngày bắt đầu một năm mới. Thôi chúng ta hãy cùng nhau chào đón mùa xuân mới với những gì có được. Mong rằng một ngày nào đó, chúng ta lại được cùng nhau về lại quê hương để tận hưởng mùa xuân vui vầy, hạnh phúc. Trước khi kết thúc, kính chúc quý thầy cô và các bạn một năm mới nhiều sức khoẻ, vạn sự như ý ./.
LÂM QUANG KHẢI * SƠN ĐÔNG MÃI VÕ
Bình Dương xưa và coi hát thuật Sơn Đông
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
ĐỖ TRƯỜNG * TRẦN HOÀI THƯ
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh hồn
Đỗ Trường (Danlambao) - Cuối
tuần, có bác nhà thơ già đến thăm, ghé mắt vào bài đang viết
về nhà văn Trần Hoài Thư của tôi, rồi gật gật, lắc lắc, bảo:
Cái tựa, Người ngồi vá lại những linh hồn, thấy rờn rợn thế
nào ấy. Vâng! Khi chưa đọc, chưa nghiên cứu Trần Hoài Thư, bác
có cảm giác vậy thôi. Đọc rồi, bác sẽ thấy, một Trần Hoài
Thư không chỉ đang ngồi vá lại linh hồn mình, đồng đội mình,
mà còn đang nhặt nhạnh những linh hồn văn hóa Việt rách nát,
vương vãi đâu đó, rồi cặm cụi khâu lại nữa kìa.
Nghe tôi trả lời, bác nhà thơ già gật gù, gật gù lẩm bẩm: Được, tôi sẽ tìm đọc, xem có thật vậy không?
Phải nói thẳng, Trần Hoài Thư không phải là một nhà văn, nhà
thơ lớn, lừng lững tên tuổi trên văn đàn của Văn học miền Nam
trước 1975, cũng như ở hải ngoại hiện nay. Nhưng ông là một
trong những nhà văn tôi yêu mến nhất của nền văn học Việt Nam
từ trước đến nay. Bởi, ngoài tài năng, thì nhân cách lòng quả
cảm, dám hy sinh, đi đến tận cùng của sự đam mê, cũng đầy
trách nhiệm với văn hóa, văn chương nước nhà như ông, không phải
ai cũng làm được. Và có lẽ, nhiều người đọc, nghiên cứu ông
đồng cảm với tôi về điều này (?).
Nhà văn Trần Hoài Thư tên thật là Trần Qúi Sách, sinh năm 1942
tại Đà Lạt. Dường như, cái tên Qúi Sách này, đã vận thẳng
vào cái nghiệp viết, và nâng niu gìn giữ từng trang sách, hồn
thơ Việt của ông chăng? Truyện ngắn "Nước Mắt Tuổi Thơ" in
trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn vào năm 1964 là chiếc thẻ thông
hành đã đưa Trần Hoài Thư đến với làng văn. Sau khi tốt nghiệp
ngành toán học, trường Đại học Sài Gòn, ông về giảng dạy
trung học tại Tam Kỳ. Năm 1966 Trần Hoài Thư nhập ngũ khóa 24
Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Và gần mười năm trong quân ngũ,
lúc là lính thám kích, khi là phóng viên chiến trường, dường
như không lúc nào ông ngừng viết. Nhật ký chiến trường, hoặc
những truyện ngắn, tản văn thời kỳ ấy, không chỉ có khói
súng, mùi đạn bom quyện với máu thịt ông, đồng đội ông, mà
còn thấm đẫm nước mắt của tình yêu, tình người. Sau 30-4-1975,
Trần Hoài Thư bị tù cải tạo. Ra tù, năm 1980 ông vượt biển,
hiện đang viết và làm chủ cơ sở xuất bản Thư Ấn Quán, cũng như
Thư Quán Bản Thảo, một tạp chí văn học tại New Jersey Hoa Kỳ.
Có thể nói, thơ văn cũng như thân phận người lính Trần Hoài Thư
gắn chặt với những biến cố thăng trầm của đất nước. Do vậy,
cũng như những nhà văn cùng thời, cái sự nghiệt ngã ấy, đã
ngắt thơ văn ông thành từng giai đoạn thật rõ ràng.
Tuy bước chân vào làng văn bằng văn xuôi, nhưng thơ đã đóng góp
không nhỏ tạo nên một chân dung vạm vỡ Trần Hoài Thư. Với 14
tập truyện, cùng 8 tập thơ (?) đã xuất bản, minh chứng Trần
Hoài Thư có sức viết dẻo dai, và khá cân đối. Với tôi Truyện
Từ Văn và Truyện Trần Hoài Thư (rút từ các tập san) viết
trước 1975, được in lại trong mấy năm gần đây, cùng với thơ, và
tập truyện Ra Biển Gọi Thầm, Hành Trình Của Một Cổ Trắng là
những tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp trong từng giai đoạn sáng
tác của ông.
Khi đi sâu vào nghiên cứu, tôi nhận ra, ngoài tính chân thực, thì
nghệ thuật miêu tả (diễn biến) nội tâm nhân vật là đặc điểm
nổi bật nhất trong truyện của Trần Hoài Thư. Nghệ thuật này
là một tài năng, tìm tòi liên tưởng chứ dứt khoát không phải
do ông xuất thân từ nhà giáo, đã kinh qua những giáo trình tâm
lý học. Bởi, cũng có nhiều nhà văn xuất thân từ nhà giáo,
nhưng không có đặc điểm này.
Chiến tranh, dưới cái nhìn và ngòi bút nhân bản của nhà văn.
Nếu phải đưa ra một câu trả lời, với tôi Trần Hoài Thư, Phan
Nhật Nam, Thế Uyên là những nhà văn hàng đầu viết về người
lính của văn chương miền Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất của
cuộc chiến. Và cùng với Cao Xuân Huy và Phạm Tín An Ninh ở giai
đoạn sau 1975 cho đến nay, nơi hải ngoại.
Có một điều đặc biệt, Trần Hoài Thư là một người lính chiến
thực thụ và viết ngay nơi chiến trường. Hơn thế nữa, nhiều nhà
phê bình đánh giá, nhận định ông là nhà văn quân đội. Nhưng
đọc ông, cho tôi cảm giác, dường như có những lúc linh hồn ông
đã tách ra khỏi cuộc chiến, rời bỏ chiếc áo nhà binh. Bởi,
ngoài những người lính, còn có không ít truyện viết về tình
yêu, về cái thuở học trò với những cuộc sống thường nhật, hay
về cả những khi phản kháng đào ngũ, bỏ đơn vị nó hằn đậm
trên trang viết của ông ở cái thời binh đao khói lửa ấy.
Có lẽ, ngay từ buổi ban đầu, Trần Hoài Thư chưa có ý thức rõ
ràng về chiến tranh, với những lý tưởng cao đẹp nào đó. Cho
nên, bước chân vào quân trường là nghĩa vụ bắt buộc đối với
ông. Sự chán chường ấy, ta đã bắt gặp rất nhiều trên những
trang viết của Trần Hoài Thư. Giai đoạn đó với ông, dù có đứng
ở bên nào, góc độ nào thì cuộc chiến này cũng đều vô nghĩa.
Do vậy, không chỉ ở truyện ngắn văn xuôi, mà ngay trong thơ ta
thấy tương lai mịt mù với những lời thán ca đau đến nhức nhối
lòng người:
"Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu" (Thế hệ chiến tranh)
Với cái nhãn quan như vậy, cho nên người lính Trần Hoài Thư luôn
ước nguyện, hy vọng trở về quê hương, nơi có cuộc sống bình
dị, và cũng thật yên bình: “…Anh nghĩ rồi đây chiến tranh sẽ
chấm dứt. Miền Nam và miền Bắc sẽ sum họp. Mọi người sẽ ngồi lại và tha
thứ lẫn nhau. Rồi em về Nha Trang. Anh cũng trở lại cùng Nha Trang. Anh
sẽ xin dạy trở lại. Rồi anh sẽ xin cưới em…” (Nha Trang).
Và cái suy nghĩ đơn giản, vô tư ấy, ông đã trả giá bằng chính
những năm tháng ngục tù, rồi buộc phải cùng với con thuyền lá
tre kia lao ra biển cả.
Có thể nói, tính nhân đạo là đặc trưng nổi bật nhất, xuyên
suốt sự nghiệp sáng tạo của Trần Hoài Thư. Cái tình người,
và sự cảm thông ấy không chỉ nằm trong tình đồng đội, tình
đồng bào, mà nó còn là hơi ấm cho cả những người lính ở bên
kia của chiến tuyến. Cái đặc tính này, gần đây dường như nó
được tiếp nối một cách rất sâu sắc trong trang văn, truyện ngắn
của đồng đội ông, nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Ngày Thanh Xuân, một truyện ngắn điển hình như vậy, được Trần
Hoài Thư viết vào mùa xuân 1972. Chúng ta hãy đọc lại lời
thoại của hai đoạn trích dưới đây giữa một tù binh bị thương
miền Bắc với người lính miền Nam, khi ở ngoài chiến trường,
cũng như lúc ở quân y viện. Để thấy rõ tài năng miêu tả diễn
biến nội tâm nhân vật, cũng như sự nhân đạo và sự cảm thông
ngút trời ấy của Trần Hoài Thư:
“Mong anh hiểu trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi, những người
lính khác trận tuyến với các anh. Anh hãy để chúng tôi săn sóc. Hy vọng
một ngày hòa bình, anh sẽ trở về quê hương và tôi được dịp đáp tàu ra
Bắc, như niềm mơ ước của tôi. Mời anh một điếu thuốc thơm, anh vui lòng
chứ? Anh uống cà phê nhé. Cà phê tôi mang theo trong bi-đông…
Nếu tôi còn ở miền Bắc, có lẽ bây giờ tôi là đồng chí của anh. Chúng
ta đều bị bắt buộc cầm súng. Chúng ta bị chủ nghĩa, ngoại bang, các thế
lực quốc tế xô đẩy chúng ta vào hố thẳm của hận thù. Anh đồng ý với ý
kiến của tôi không? - Phải, tôi đồng ý – Y thầm thì – Tôi đã hiểu rằng
những người tuổi trẻ của Việt Nam là những đứa con tội nghiệp. Chúng ta
lỡ sinh vào một thế kỷ bất hạnh nhất. Chúng ta được giao truyền lại một
gia tài bi đát nhất…”
Không chỉ đối với những người còn sống, hay người tù binh tàn
tật, mà lòng nhân đạo, và tình thương ấy đến với cả người
lính đối phương vừa chết trận của Trần Hoài Thư. Và nếu văn
là những lời sẻ chia, cảm thông, thì thơ ông như một tiếng ru
cho linh hồn của đồng loại đã nằm xuống trong trận chiến này.
Tôi đã đọc khá nhiều thơ của những người lính, thuộc cả hai
chiến tuyến viết cho đồng đội nằm xuống. Từ đó có thể nói,
Khi Chưa Có Mùa Thu là một trong những bài thơ hay nhất của
người lính phía Bắc Trần Mạnh Hảo. Và vắt cơm nhòa nước
suối, hay nhòa nước mắt để viếng (cúng) đồng đội của Trần
Mạnh Hảo làm cho người đọc phải rưng rưng, xúc động: ”Vắt cơm
nhòa nước suối/ Viếng bạn mình không ăn”. Nhưng đặc biệt, cao cả hơn
thế nữa, người lính phương Nam Trần Hoài Thư đã tiễn đưa hồn
người lính Bắc bằng những ly rượu nồng với những câu thơ đẹp
và vô cùng lãng mạn, đọc lên ai cũng bùi ngùi, xót xa. Và tôi
tin lúc đó, Trần Hoài Thư đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực
xung quanh, mà chỉ còn trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của
người nghệ sĩ, để viết nên bài thơ này. Tôi không dám nghĩ,
đây là bài thơ độc nhất vô nhị, dù được viết trong lúc chiến
tranh đang diễn ra ác liệt. Nhưng có lẽ, nó là bài thơ lạ lùng
nhất đến nay tôi được đọc. Vâng! Và chính nó, bài thơ Một Ngày
Không Hành Quân của Trần Hoài Thư đã làm cho những giọt nước
mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này:
“…Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Hoàn toàn không có ý so sánh, nhưng như có một sợi dây liên
cảm, bởi khi đọc truyện ngắn Chiến Tranh của Trần Hoài Thư,
làm cho tôi nghĩ đến những người lính gian khổ chống phát xít
trong tiểu thuyết, tập truyện: Họ Đã Chiến Đấu Vì Tổ Quốc,
hay Số Phận Con Người… của nhà văn Nga Mikhail Sholokhov. Trong
cái không khí mịt mù khói lửa ấy, sự nguy hiểm, gian nan càng
tăng lên, thì tình chiến hữu đồng đội của họ càng hòa quyện
chặt vào nhau hơn. Và đứng trước thất bại cũng như cái chết,
dường như đã cho Trần Hoài Thư nghị lực vượt qua tất cả để
sống, để viết trả nợ đồng đội. Lời văn tự sự nhanh và mãnh
liệt, với ngôn ngữ, câu thoại mang đậm tính điện ảnh, gần tâm
lý độc giả Âu- Mỹ, Trần Hoài Thư đã cho ta thấy rõ điều đó:
“- Mày hãy nghe tao nói. Mày là nhà văn. Tao là độc giả của mày. Mày
phải sống. Mày nghe rõ chưa. Mày phải sống để mà viết lại...
Rồi hắn gào lớn:
- Phải viết lại cảnh này. Thằng Trí, thằng Luông đang nằm cạnh tao
đây cũng cần mày. Thằng Trí cõng tao, rồi chết vì tao... Mày hãy nói cho
mọi người biết về những cái chết chó má như thế này. Chết mà không được
bắn một viên đạn như thế này...
- Tư. Tao xin nghe mày. Tôi đau đớn nói.
- Tao dẫu sống cũng vô ích. Hai chân tao, ngực tao, ruột tao... Chỉ
còn cái đầu tao là không trúng đạn... Rồi hắn la. Không, hắn mắng tôi.
- Sao lại không chịu chạy. Mày hèn à. Diều hâu mà hèn à…”
Chập chờn ký ức hiện về, cùng những tình tiết hiện thực đan
xen, tạo nên hình ảnh so sánh ẩn dụ làm cho người đọc phải ám
ảnh rờn rợn, xuyên suốt những tác phẩm của Trần Hoài Thư.
Với thủ pháp nghệ thuật này, đã góp phần không nhỏ tạo nên
thành công, cũng như tên tuổi tác phẩm, tác giả Trần Hoài Thư.
Nhiều thế hệ các nhà văn trẻ sau ông sử dụng khá thành công
thủ pháp nghệ thuật này, đặc biệt cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh
của Bảo Ninh. Và Mắt Đêm là một truyện ngắn điển hình như vậy
của Trần Hoài Thư. Tuy khoác áo lính, bước vào cuộc chiến là
nghĩa vụ bắt buộc, nhưng Trần Hoài Thư luôn giữ vững quân kỷ
của người trung đội trưởng, và trách nhiệm bảo vệ dân chúng,
đồng bào được ông đặt lên hàng đầu. Đọc nó, không chỉ thấy
được cái tình của người lính Việt Nam Cộng Hòa đối với người
dân nơi chiến trường (dù biết họ có thể là nằm vùng, hay có
quan hệ, che chở cho những người lính Bắc) mà Trần Hoài Thư
còn đưa ta ngược về ký ức với hình ảnh tuổi thơ xa vời vợi
của ông. Có thể nói, đây là một trong những truyện ngắn hay
nhất của Trần Hoài Thư được viết trong thời kỳ này:
“Thằng Trung cầm trái M.26, sắp bỏ vào miệng rút chốt. Tôi gọi giựt:
Khoan đã. Muốn chết hả? Trung nói: Thiếu úy, em nghe tiếng động trong
hầm, bọn nó núp trong hầm, thiếu úy. Tôi nạt: Mà tưởng bắt bọn nó dễ
dàng như vậy sao? Trung cầm trái lựu đạn, phân bua: Thì ở đây là bọn nó
rồi còn gì. Tôi nói: Lỡ dưới hầm toàn dân không thì? Tôi chỉ tay vào
trái lựu đạn cay, sao mày không dùng thứ này?...
Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ
ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra
cánh đồng chói nắng… Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc
thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo
ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở
đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra
hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang
từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu.”
Vẫn những đêm ngủ rừng, hay trên gò mả giữa cánh đồng trắng
trơn, hoặc xông vào những trận đánh kinh hồn, nhưng dường như
giấc mơ, nỗi nhớ vẫn không thể thiếu trên mỗi chặng đường hành
quân của Trần Hoài Thư. Tình yêu và cái thuở ban đầu ấy, như
những cơn mưa đầu mùa tưới mát cho tâm hồn chai sạn của người
lính chiến. Với tôi, trong các nhà văn quân đội VNCH (trực tiếp
cầm súng) nơi chiến trường ác liệt, viết nhiều và hay nhất về
tình yêu, và cái thuở học trò, chắc chắn phải là Trần Hoài
Thư. Thật vậy, đọc truyện Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của
ông, cho tôi cảm giác như đang đọc một bài thơ. Một bài thơ tự
sự đầy hình tượng về sự tiếc nuối một mối tình đầu của
thuở hoa niên. Tuy nhiên ông bạn nhà thơ già của tôi, ghé mắt
đọc, không cho là như vậy. Vì thế, khi ngồi viết những dòng
chữ này, tôi chưa biết để Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình ở mục
truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư…Nếu đây là một lá thư,
thì có lẽ, đây lá thư tình hay nhất mà tôi đã được đọc. Và
đọc nó, khẳng định thêm một lần nữa tài năng miêu tả tâm lý,
nội tâm nhân vật của nhà văn Trần Hoài Thư:
“…Trên mái ngói đỏ của ngôi trường nữ trung học, có đôi chim bồ câu
âu yếm tỉa lông cho nhau. Nhưng, riêng anh, cả lòng như một bến ga
quạnh quẽ. Đứng bơ vơ, mà nghe trong gió có một cung đàn kỷ niệm. Cung
đàn ấy, vọng từ một cõi nào xa xôi lắm, có vỉa hè Đồng Khánh, có cả rừng
bướm trắng dập dìu, và có một kẻ tình si đang trồng chân như cây phượng
vĩ già nua, nhìn theo một cánh bướm, qua sông vĩnh biệt…”
Trong văn học sử miền Nam có hai ông nhà văn vừa cầm súng vừa
viết Phan Nhật Nam và Trần Hoài Thư, cùng chung cảnh cải tạo
tù tội sau 1975, nhưng lại có văn phong khác hẳn nhau. Nếu văn
Phan Nhật Nam sinh động, sắc sảo, thì văn Trần Hoài Thư trầm
lắng, hình tượng. Phan Nhật Nam động thì Trần Hoài Thư tĩnh. Âu
đó cũng là sự may mắn làm phong phú thêm cho nền văn học Việt
Nam.
Và Viễn Thám là một truyên ngắn hay, có lời văn đẹp, tĩnh
lặng như vậy của Trần Hoài Thư. Đây là truyện ngắn làm cho
người đọc ngạc nhiên, bất ngờ và gây ra nhiều tranh cãi. Nó mở
ra tư tưởng cũng như nhân sinh quan của ông. Có lẽ, không riêng
tôi, mà còn nhiều người đánh giá cao giá trị nội dung cũng như
quan niệm, thay đối tượng thẩm mỹ trong chiến tranh của tác
giả trong truyện ngắn này. Hơn thế nữa, nó không chỉ đẹp trong
từ ngữ lời văn, mà trong cả tâm hồn và trong cái tình của
người lính thám báo, nhà văn Trần Hoài Thư. Và nó khác hẳn
hình ảnh người thám kích dã man, tàn bạo trong truyện của Bảo
Ninh và Dương Thu Hương. Tôi nghĩ, Bảo Ninh, Dương Thu Hương viết
Nỗi Buồn Chiến Tranh và Vô Đề vào những năm cuối thập kỷ tám
mươi của thế kỷ trước, khi chưa bốc (hết) được ngôi mộ với con
ma xó tuyên truyền bấy lâu ra khỏi linh hồn mình. Nếu những
cuốn sách ấy được ra đời vào thời điểm ngày nay, có lẽ sẽ
khác đi chăng? Đọc truyện này, có lẽ nhiều người phản bác, cho
rằng Trần Hoài Thư hành động bằng cảm tính. Và bằng chứng
dường như có những đoạn văn của ông bị xét duyệt cắt bỏ khi in
ấn vào thời điểm ấy chăng? Ơ hay! Trần Hoài Thư mang trái tim
nghệ sỹ vào chiến tranh cơ mà. Và trong chiến tranh dường như,
những người nghệ sỹ cầm súng luôn có tâm hồn, suy nghĩ như
vậy. Nhưng dám hành động, và viết thành lời như ông không phải
ai cũng đủ dũng khí. Chúng ta đọc lại một đoạn trích trong
Viễn Thám (tuy nhiên, có đoạn khi duyệt đã cắt bỏ?) để thấy
rõ điều đó:
“Trung đội thám kích đang săn tin về một đơn vị Bắc quân mới xâm nhập
vùng Trường sơn, đã không ngờ gặp một cặp bộ đội đang hát bên bờ suối.
Quân thù đó nhưng người lính đã không bắn. "Tôi không thể chơi cái trò
dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút
vĩnh cửu (…) Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim
của tuổi trẻ Việt Nam…. Tiếng hát như dậy khỏi mồ, bạt cả gió, khiến
rừng như thể im phăng phắc lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra,
tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc
nào cũng sống vĩnh cửu"
Có thể nói, chất liệu trong văn thơ Trần Hoài Thư có được từ
thực tế bản thân và đồng đội. Ông đã trải nó lên trang văn
dưới nhãn quan của riêng mình. Tuy có cái nhìn bi quan về cuộc
chiến, nhưng nó lại bật lên tính nhân đạo ngút trời trong từng
trang viết của ông.
Tính bi hài và những nỗi đau.
Có lẽ không ai nghĩ, một thư sinh với sức trói gà Trần Hoài
Thư có sức phản kháng mãnh liệt đến vậy. Sự phản kháng ấy,
không chỉ có trên trang văn, mà còn mãnh liệt hơn trước những
bất công ở ngoài đời. Trần Hoài Thư tự động rời bỏ quân ngũ
trước phi lý của số phận đã chứng minh cho điều đó. Và từ
đó, cho ta thấy được tính khí khái trong con người ông. Chứ
thành thật mà nói, một nhà văn dù có sống ở chế độ nào
cũng vậy, cứ cúi mặt xuống viết dưới cái bóng của các đấng
ngồi trên, thì không bao giờ có được những tác phẩm ra tấm ra
miếng.
Ngay ngày đầu, Trần Hoài Thư đã nhận ra cái bất công và số
phận hẩm hưu của những người lính nơi tiền đồn. Do vậy, những
cay đắng, khắc khoải đó như nén chặt trong lòng văn nhân. Và
rồi, một lúc nào đó, nó sẽ chảy ộc ra bằng văn, bằng thơ,
trải dài trên trang giấy, đọc lên ai cũng phải xót xa:
“Khi ra trận ta là thằng chết trước
Tổ quốc ghi ơn, lãnh tụ đẹp lòng
Khi tìm vợ, ta là thằng chạy chót
Nên khó lòng ấp vợ đẹp trong chăn…” (Lính tiền phương)
Vâng! Và người lính ấy chưa chết hẳn, nhưng trở về với đôi
nạng gỗ trên tay. Đọc truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, ta không chỉ
thấy được sự lên án, mỉa mai, mà còn thấy được sự tàn nhẫn
của chiến tranh. Và hình ảnh người lính cụt chân ấy, cứ tưởng
mình còn nguyên vẹn, nhảy phắt xuống giường, bị ngã úp mặt
xuống đất, dường như đẩy tính bi hài, và nỗi đau lên gấp bội.
Phải nói thẳng, miền Nam có nhiều nhà văn lớn và tài hoa,
nhưng tài năng đưa hình ảnh, hình tượng vào trong văn nhiều và
hay như Trần Hoài Thư quả thực không nhiều:
“Nửa đêm, cả lòng đêm bỗng dưng bị dội lên bởi những quả đạn rơi rất
gần khu bệnh xá. Những tiếng la thất thanh. Pháo kích! Pháo kích! Tiếp
sau là những bóng người vụt chạy ra hầm núp ngoài sân. Tên thương binh
cụt chân, trong cơn bấn loạn tột độ ngỡ mình vẫn còn lành lặn như xưa,
đã ào nhảy xuống giường. Sau đó, hắn mới biết được sự thật. Hắn ôm khúc
đùi rên rỉ và nằm ngay dưới nền. Hắn không còn nhận ra cặp nạng nữa…”
Đọc và nghiên cứu tôi thấy rất có lý, khi nhà phê bình Nguyễn
Vy Khanh nhắc đến cái chất giản dị trong văn của Trần Hoài Thư.
Thật vậy, ngoài cái giản dị trong sáng, văn thơ Trần Hoài Thư
không hề đao to búa lớn. Chính những đặc điểm ấy, đã giúp tôi
đọc hết tất cả những gì ông viết, khi bắt gặp, hoặc tìm
thấy, dù bất kể đề tài, thể loại nào. Qủa thật, tôi rất sợ
đọc những bài viết lên gân quá mức cần thiết khi viết về
người lính Việt Nam Cộng Hòa của một số tác giả gần đây.
Thường những bài này, tôi bỏ nửa chừng. Là người, kể cả
người lính dù có lý tưởng gì gì đi chăng nữa, trước cái chết
ai mà chẳng sợ. “Cái chết nhẹ tựa lông hồng” không phải
ai, và hoàn cảnh nào cũng có thể dùng được. Ta đọc lại
những câu thoại giữa hai người lính (là thày, trò cũ của nhau)
cùng bị thương dưới đây,trong truyện Bệnh Xá Mùa Xuân, để thấy
cái day dứt, bi hài đi thẳng vào lòng người, tuy từ ngữ rất
mộc mạc:
“- Trời ơi, một người mang cặp kính nặng như thế mà họ vẫn không chịu buông tha sao thầy?
Minh cười:
- Họ nói là điếc thì không sợ súng, còn mang hai cặp mắt mới dễ bắn VC hơn.
- May mà em cụt một chân, nếu mù một con mắt họ vẫn bắt em đi ra đánh giặc trở lại.
- Thầy không buồn đâu. Bởi vì dù sao thầy là sĩ quan, là thiếu úy,
thầy vẫn còn sướng hơn những người lính khác. Trung đội thầy có thằng
mang đại liên, tên là Nga, Võ hồng Nga, to đen như Mỹ đen, nhưng bị cận
thị nặng. Đi hành quân, nó không thấy đường, cứ nhằm chỗ VC mà tiến.
Cuối cùng nó chết.
- Thầy biết không, bởi vì nó không cổ cánh….”
Chết hoặc trở thành tàn phế chưa phải là điều đáng sợ của
người lính, mà cái đáng sợ nhất nhận lệnh, buộc phải thi
hành của những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Đọc
truyện Thế Hệ Chiến Tranh dường như cho ta một cảm giác, đây là
một bản cáo trạng của nhà văn thì đúng hơn:
“Suốt cả một buổi trưa hai thằng chúng tôi mắc nạn không thể bò xuống
đồi. Tư bị đạn trúng bã vai và chân. Còn tôi thì bị lựu đạn làm bể cả
bắp đùi. Lúc này mạnh ai nấy thoát. Bởi ai cũng biết rằng nếu ở lại thì
chết bởi những họng súng đang săn mồi từ cao điểm. Rõ ràng đây là một
cuộc thí quân. Họ ra lệnh chúng tôi phải chiếm đồi với M16, và lựu đạn,
trong khi địch ẩn núp trong những hang kiên cố, với lợi thế là thấy rõ
chúng tôi, còn chúng tôi thì như những kẻ đui mù…”
Không dừng lại nơi chiến sự, Trần Hoài Thư tiếp tục chọc thẳng
vào cái ung nhọt thượng tầng của xã hội. Khi ông đã nhận ra,
sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo
không lương thiện, thiếu tài năng này. Nếu gần đây, ta đã đọc
bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn Song Vũ, thì thấy
được, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng này, góp
phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Có thể nói, tuy miền Nam được tự do viết lách, nhưng ở vào
thời điểm đó, Trần Hoài Thư viết thẳng tưng như thế này, quả
thật cần lắm một sự dũng cảm. Và đoạn trích dưới đây, chứng
minh cho ta thấy sự thối nát cũng như sự can trường của nhà
văn:
“Trong khi bạn bè thầy, bạn bè em cứ tiếp tục bị chết, thì ở Sài Gòn
người ta vẫn ăn chơi phè phỡn, đô la thuốc phiện và tran giành quyền
lực bằng những thủ đoạn chính trị bẩn thỉu. Ngay tại nơi này, những đồn
điền mênh mông, những khu rừng cấm mà bọn mình đem xương máu bảo vệ là
tài sản của các tướng tá hay các lãnh tụ ở Sài Gòn. Chúng ta cứ chết,
mặc nước mắt của người mẹ, người em, để những mệnh phụ phu nhân, những
bà lớn nắm quyền mua quan bán chức. Họ đục khoét tiền viện trợ Mỹ, con
cái họ được chạy đi du học để trốn tránh trách nhiệm.”
Nỗi đau, sự trớ trêu trên những trang viết Trần Hoài Thư không
dừng lại một gia đình, một tỉnh thành, mà cho toàn dân tộc
Việt. Có thể nói, từ ngày lập quốc đến nay chưa có trận
chiến nào tang thương, thù hận bằng cuộc nội chiến huynh đệ
tương tàn vừa qua. Trần Hoài Thư chứng kiến những hiện thực bi
hài trớ trêu ấy, và tái hiện vào những trang sách, nên đôi lúc
tôi cứ nghĩ, ông không dừng lại ở nhà văn, mà còn như một nhà
sử học vậy. Nếu truyện Người Anh Hàng Xóm, cuộc đối đầu nhau
trên chiến trường giữa hai cha con đều là trung đoàn trưởng ở
hai phía, thì truyện Về Làng là nỗi đau của một người lính
Việt Nam Cộng Hòa trước người chú và chị ruột theo CS, bị
chính đồng đội của mình bắn chết… Đây là hai câu chuyện điển
hình nhất trong nỗi bất hạnh của dân tộc trên trang viết của
ông. Và nó cứ ám ảnh đeo vào lòng người một sự day dứt, không
thể dứt bỏ.
Có một điều đặc biệt nữa, truyện nào của ông cũng mang một
nỗi u hoài của sự chia ly, chết chóc với những cái kết bất
ngờ bỏ ngỏ, buộc người đọc phải suy nghĩ. Nói Trần Hoài Thư
là nhà văn của những nỗi đau, thì quả thật không ngoa tẹo nào.
Khi các nhà văn cùng thời thường khai thác đề tài ít va chạm
với quyền lực, xã hội, hoặc viết về những trận đánh, chiến
công oai hùng của người lính, thì Trần Hoài Thư đi vào bới móc
cái bóng đen của chiến tranh, cũng như xã hội con người. Một
đề tài khó nhằn, khó nuốt.
Nói cho cùng, xã hội, quân đội nào cũng vậy, đằng sau cái hào
nhoáng đó, nó còn ẩn nấp bao thứ tồi tệ và bệnh hoạn khác.
Và rất cần những nhà văn như Trần Hoài Thư bóc trần, rồi cắt
bỏ.
Ba mươi tháng tư, và linh hồn rách nát.
Vậy là chiến tranh đã kết thúc, người lính thám kích Trần
Hoài Thư không thể về Nha Trang cưới em, và trở về nghề dạy
học của mình, như ước nguyện. Nam- Bắc thống nhất, nhưng không
thể tha thứ cho nhau, và người lính thua trận ấy bước vào vòng
lao lý. Bốn năm lưu đày ấy như bốn ngọn roi quất vào tâm hồn
văn nhân. Cặp bộ đội đứng hát bên bờ suối năm xưa, nay đã thành
người quản giáo. Tiếng hát ngày nào đổi thành lời rao giảng,
để hành hạ nhau. Đói và rét làm cho người người lính, văn
nhân mất đi cả lý trí. Mình là ai? Sinh vật hay con người? Có
lẽ chỉ có trời mới biết. Sự phản ứng vô ý thức ấy của văn
nhân buộc tôi tự hỏi: Nếu bây giờ trở lại hoàn cảnh năm xưa,
người thám kích Trần Hoài Thư có bắn cặp bộ đội đang hát bên
suối hay vẫn tha? Và trái tim văn nhân có còn sống vĩnh cửu?
(như ở truyện Viễn Thám). Ta đọc lại đoạn trích trong truyện
ngắn Ra Biển Gọi Thầm, để so sánh tư tưởng, ý thức, hành động
trước và sau 30-4-1974 của nhà văn Trần Hoài Thư:
"Nó cũng thâm độc hơn bất cứ một sinh vật nào. Nó đái lên những con
cá lóc cá trê nó câu được trước khi nạp phần cho cán bộ quản giáo. Nó
thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi hắn ngồi
nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên.
Bởi nước thì quá sâu, và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch,
cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫỵ Hai chân vừa đạp, hai tay vừa kéo.
Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm
cập. Nó lại đóị Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó khiến nó cứ
thở dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó
đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần
biết nữa…"
Với tôi, Ra Biển Gọi Thầm là truyện ngắn hay và cảm động nhất
trong tập truyện cùng tên. Truyện này, Trần Hoài Thư viết khi
ông đã vượt thoát sang Hoa Kỳ. Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi
tưởng, chập chờn của ký ức, ông đã đưa người đọc trở về với
những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, nhưng
cũng tuyệt vọng của mình. Tôi đã đọc khá nhiều truyện, ký
của các tù nhân, cải tạo, nhưng đây là lần thứ hai đọc truyện
viết về tình yêu trong thời gian tù của họ. Và trước đó, là
truyện Nghỉ Hè Ở Mallorca của nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Dường như càng lớn tuổi, nhất là từ sau 1975 càng gian nan Trần
Hoài Thư kiệm lời hơn, nên đi vào sự cô đọng, sâu lắng của thơ.
Hơn bốn năm tù, với một linh hồn rách nát, đủ để cho ông nhìn
lại. Dù nhận được lời mời vào hội văn thơ, nhưng ra đi là con
đường duy nhất của ông. Và con thuyền lá tre chòng chành giữa
biển khơi mênh mông bão tố ấy, chở ông đi tìm tự do, hay tìm về
cõi chết? Đọc bài thơ Đêm Ra Biển của Trần Hoài Thư làm cho
tôi phải rợn tóc gáy:
"…Đêm nước mặn mà ngọt ngào nỗi chết
Đêm quá dài mà ngắn chớp tử sinh
Đêm ơi đêm, một cõi u minh
Đêm bật khóc nhìn chúng tôi tự sát…"
Vậy là Trần Hoài Thư đã vượt qua được những chớp tử sinh. Đến
được bến bờ tự do, nhưng ông cảm thấy mình bất hạnh hơn. Mâu
thuẫn trong tư tưởng, tình cảm luôn giằng xé văn nhân. Và từ
đây, ông như con thuyền không lái, chòng chành hơn, bởi đã mất
quê hương:
"Là lúc biết mình như thoát nạn
Sáng chân trời, hồng rực vầng dương
Là lúc, thấy mình như bất hạnh
Sắp làm người không có quê hương" (Đêm tiễn biệt Việt Nam)
Có thể nói, sau 1975 và từ khi định cư ở Hoa Kỳ, Trần Hoài Thư
viết nhiều hơn. Ông viết cho mình, viết cho đồng đội, cho quê
hương. Mỗi trang sách, bài thơ của ông như những đường kim sợi
chỉ, vá lại linh hồn cho bao người đã bị rách nát trong chiến
tranh, và trong những ngày trốn chạy lưu vong.
Tuy chưa phải là nhà văn lớn, nhưng Trần Hoài Thư là một trong
những nhà văn điển hình nhất trong hai mươi năm nội chiến của
nền Văn học Việt Nam.
Viết bài này, khi tài liệu thơ văn của Trần Hoài Thư, tôi có
không nhiều, chủ yếu tìm đọc trên Internet, (và cũng chưa một
lần gặp gỡ ông). Do vậy, không có hệ thống, có thể còn sai
sót và chưa lột tả, đi hết cái tận cùng con người, cũng như
thế giới mênh mông văn thơ Trần Hoài Thư. Nhưng đây như một lời
tạ ơn của kẻ hậu bối, đến một nhà văn suốt đời hy sinh, tận
tụy cho văn chương nước nhà.
Và hình ảnh Trần Hoài Thư, ngồi vá lại những linh hồn in đậm trong lòng, đã thôi thúc cho tôi viết bài này.
Leipzig ngày 22- 5-2017
Wednesday, May 24, 2017
VIỆT NAM HÔM NAY
Tệ nạn mua bán bằng cấp ở VN
Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất ... nhức nhối.
Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.
Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp (3).
Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."
====
(1) http://www.amazon.fr/Vivre-avec-vietnamiens-Laurent-Passicousset/dp/2809803358
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng Việt và đăng nhiều kì trên trang Ba Sàm:
(2) https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/09/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%9Bi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-1/
(3) https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/10/3371-bao-nguoi-cao-tuoi-ban-ve-thi-truong-sao-va-vach/
Trích từ https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/26/377-song-voi-nguoi-viet-5/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
[...]
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passicousset có viết một cuốn sách (1) có tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất ... nhức nhối.
Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.
Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicousset viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là 15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp (3).
Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."
====
(1) http://www.amazon.fr/Vivre-avec-vietnamiens-Laurent-Passicousset/dp/2809803358
Một số chương của cuốn sách được dịch sang tiếng Việt và đăng nhiều kì trên trang Ba Sàm:
(2) https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/09/340-s%E1%BB%91ng-v%E1%BB%9Bi-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-1/
(3) https://anhbasam.wordpress.com/2015/02/10/3371-bao-nguoi-cao-tuoi-ban-ve-thi-truong-sao-va-vach/
Trích từ https://anhbasam.wordpress.com/2011/09/26/377-song-voi-nguoi-viet-5/
Các yếu tố làm tình hình thêm trầm trọng : phân quyền và mua quan bán chức
[...]
Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.
Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công Thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.
Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới. Nó tồn tại từ giữa thập
niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm
đã phải đợi 6 tháng để có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi
được ngồi vào đó. Gần đây hơn, năm 2007, một nữ chủ doanh nghiệp một
thành phố lớn phía Bắc đã đề xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại
biểu quốc hội : ít quá, nếu so với những đề xuất khác, nên bà này đã bị
loại từ vòng sơ tuyển do Mặt trận tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này
thì coi như được bầu. Trái lại, năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để
mua chức phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi
tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương
Đảng cũng không thoát khỏi hiện tượng này…
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Comments:
Bạch Kim said...
Cũng hệt như tệ nạn cảnh sát giao thông đứng đường vòi vĩnh đút lót, chính quyền này rất sợ, và ghét, phải thừa nhận rằng chuyện mua bán bằng cấp, chức tước từ lâu đã thành nhan nhãn đến mức bình thường trong xã hội. Phản ứng hay thấy của họ mỗi lần lộ diện tiêu cực, là cho rằng nó chỉ xuất phát từ "một bộ phận nhỏ", rằng đa số còn lại đều rất tốt vv..., cứ thế cái xấu mặc sức tung hoành và ngày càng lây lan vì không được (thực ra là không dám) nhận diện lẫn trừng trị đích đáng. Thỉnh thoảng về quê ở một tỉnh lỵ đã được nâng cấp lên thành phố loại 1, ngồi uống cà phê đàn đúm cùng đám bạn học cũ giờ đã ổn định cuộc sống, nghe tụi nó khoe khoang huyên thuyên về quá khứ lẫn hiện tại mua quan bán chức mà tá hỏa: Mọi thứ được trình bày theo kiểu tự sướng một cách rất đàng hoàng, công khai, đầy hãnh diện, cứ như phải có tài lắm mới làm được những chuyện như vậy ! Ngoái sang bàn gần đó loáng thoáng cũng đang tán nhau những chuyện tương tự, cũng với những bộ mặt hả hê, đắc thắng, thản nhiên. Cả một thế hệ không chỉ biết dùng thủ đoạn để sống "tốt" mà cón đắc ý tán dương thủ đoạn ấy để rồi hệ lụy chắc chắn là hniều thế hệ kế tiếp sẽ noi theo, noi theo...
February 20, 2016 at 7:29 PM
Anonymous said...
Cảm ơn Bác Tuấn vì những dòng tâm sự đầy bức xúc Bác nói hộ thành văn giúp giới trẻ như chúng cháu. Không thể bịt tai, không thể nhắm mắt nên cảm thấy bất lực. Người nước ngoài cũng đã thấy rõ thực trạng của Việt Nam nhưng cũng có cái sự thực họ chưa biết là nếu anh không có chứng chỉ COCC: con ông cháu cha đấy ạ, thì anh cũng đừng mong dùng tiền để mua chức bán quyền. Đường dây đó nó tinh vi lắm ạ. Thật tiếc cho các bạn trẻ có tài nhưng không được trọng dụng chỉ vì lí lịch không đủ "tầm"
February 21, 2016 at 3:13 AM
Anonymous said...
Công nhận 1 điều là anh Tuấn này viết khỏe thật. Không hiểu viết thế này thì thời gian làm việc và suy nghĩ lúc nào?
Tất nhiên nhiều chuyện anh ta viết rất định kiến, thông tin sai. Tôi đã thử comment và anh không cho hiện, dù viết lịch sự. Thế nên cũng không hẳn là người trung thực.
Tôi viết đây cũng chỉ để cho anh Tuấn đọc thôu. Lời khuyên là:
Đừng lo dạy khôn thiên hạ mà quên dậy khôn chính bản thân mình.
TB: tôi đang ống ở nước ngoài nên không có chuyện vì tự ái mà phản biện anh.
Cũng biết là anh sẽ không cho hiện còm này. Hehe.
February 21, 2016 at 8:23 AM
Thanh truong said...
Chủ nghĩa Mác Lê nin khùng điên đã cho ra lò một thế hệ lùa dối ai được thì nghĩ đó là Thông minh,đó là xuất chúng,đến nỗi mua bằng cấp là lừa dối chinh bản thân mình ma khong biết,nghĩ mình giỏi hon người đi học thật sự!
Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12 000 EUR : 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào : 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100 000 EUR miễn thuế…
Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15 000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3 000 EUR.
Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể : cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6/2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ : “có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1/2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16 000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đô la Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.
Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được ? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không ?
Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…
Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được ? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao ? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất ? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người : vòng tròn đã khép kín.
Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền ; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ : “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.
Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày : thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.
Comments:
Bạch Kim said...
Cũng hệt như tệ nạn cảnh sát giao thông đứng đường vòi vĩnh đút lót, chính quyền này rất sợ, và ghét, phải thừa nhận rằng chuyện mua bán bằng cấp, chức tước từ lâu đã thành nhan nhãn đến mức bình thường trong xã hội. Phản ứng hay thấy của họ mỗi lần lộ diện tiêu cực, là cho rằng nó chỉ xuất phát từ "một bộ phận nhỏ", rằng đa số còn lại đều rất tốt vv..., cứ thế cái xấu mặc sức tung hoành và ngày càng lây lan vì không được (thực ra là không dám) nhận diện lẫn trừng trị đích đáng. Thỉnh thoảng về quê ở một tỉnh lỵ đã được nâng cấp lên thành phố loại 1, ngồi uống cà phê đàn đúm cùng đám bạn học cũ giờ đã ổn định cuộc sống, nghe tụi nó khoe khoang huyên thuyên về quá khứ lẫn hiện tại mua quan bán chức mà tá hỏa: Mọi thứ được trình bày theo kiểu tự sướng một cách rất đàng hoàng, công khai, đầy hãnh diện, cứ như phải có tài lắm mới làm được những chuyện như vậy ! Ngoái sang bàn gần đó loáng thoáng cũng đang tán nhau những chuyện tương tự, cũng với những bộ mặt hả hê, đắc thắng, thản nhiên. Cả một thế hệ không chỉ biết dùng thủ đoạn để sống "tốt" mà cón đắc ý tán dương thủ đoạn ấy để rồi hệ lụy chắc chắn là hniều thế hệ kế tiếp sẽ noi theo, noi theo...
February 20, 2016 at 7:29 PM
Anonymous said...
Cảm ơn Bác Tuấn vì những dòng tâm sự đầy bức xúc Bác nói hộ thành văn giúp giới trẻ như chúng cháu. Không thể bịt tai, không thể nhắm mắt nên cảm thấy bất lực. Người nước ngoài cũng đã thấy rõ thực trạng của Việt Nam nhưng cũng có cái sự thực họ chưa biết là nếu anh không có chứng chỉ COCC: con ông cháu cha đấy ạ, thì anh cũng đừng mong dùng tiền để mua chức bán quyền. Đường dây đó nó tinh vi lắm ạ. Thật tiếc cho các bạn trẻ có tài nhưng không được trọng dụng chỉ vì lí lịch không đủ "tầm"
February 21, 2016 at 3:13 AM
Anonymous said...
Công nhận 1 điều là anh Tuấn này viết khỏe thật. Không hiểu viết thế này thì thời gian làm việc và suy nghĩ lúc nào?
Tất nhiên nhiều chuyện anh ta viết rất định kiến, thông tin sai. Tôi đã thử comment và anh không cho hiện, dù viết lịch sự. Thế nên cũng không hẳn là người trung thực.
Tôi viết đây cũng chỉ để cho anh Tuấn đọc thôu. Lời khuyên là:
Đừng lo dạy khôn thiên hạ mà quên dậy khôn chính bản thân mình.
TB: tôi đang ống ở nước ngoài nên không có chuyện vì tự ái mà phản biện anh.
Cũng biết là anh sẽ không cho hiện còm này. Hehe.
February 21, 2016 at 8:23 AM
Thanh truong said...
Chủ nghĩa Mác Lê nin khùng điên đã cho ra lò một thế hệ lùa dối ai được thì nghĩ đó là Thông minh,đó là xuất chúng,đến nỗi mua bằng cấp là lừa dối chinh bản thân mình ma khong biết,nghĩ mình giỏi hon người đi học thật sự!
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ CHỐNG VĂN HÓA ĐỒI TRỤY!NGHỆ THUẬT VIỆT CỘNG BÂY GIỜ
Đồn rằng Hồ ly chín đuôi,Các em chỉ đến góp vui thôi mà ...Mấy anh Kiến trúc mơ màng,Thiết kế vào đúng "điểm vàng" mới ngon ….Mùa xuân là mùa sinh sôi,Để đám đực rựa bồi hồi con trym (quên, tim …. he …he..)Hội khóa toàn bạn với Thầy,Ngoáy mông khoe rốn bầy hầy lắm nha ….Giao ban là để "triển khai"Không phải là để khoe tài ngoáy mông ….Chúc mừng bảo dưỡng thành côngBổ sung "điện nước" để không hao mòn ….Đi tu thì cũng là người,Cải thiện đôi mắt để đời bớt khô ….Ông zời zở chứng làm mưa,Mất công em tỉa lông (nách) thừa sáng nay ….Khổ thân mấy anh máu dêDán mắt vào cái "đê mê" … ngã rồiVăn hóa là phải bảo tồn,Chớ quên giữ cái "tâm hồn" chị em ...
Nguồn hình ảnh: Sưu tầm trên internet.
Thành Hồ của Việt Nam bị lún chìm ở mức báo động
Đỗ Hồng (Danlambao) lược dịch - Tin Hà Nội. – Một bản nghiên cứu hôm thứ ba 18/4 cho biết nạn đất lún tại thành Hồ đang diễn ra ở mức báo động.
Tân Hoa Xã trích dẫn kết quả nghiên cứu được loan báo bởi Bộ Tài Nguyên
và Môi Trường của VN cùng Viện Đại Học Kỹ Thuật HCM, cho thấy nhiều khu
vực trong 8 quận của thành phố đã bị lún chìm từ 5 tới 10 ly một năm.
Phụ Tá Giáo Sư Lê Văn Trung của Viện Đại học này nói rằng sau khi so
sánh thống kê trong 25 năm, thành phố cho tới nay đã bị lún chìm khoảng
0,4 thước.
Ông cảnh cáo nếu vấn đề lún đất không được lưu ý tới, những khu vực bị
lún chìm sẽ đối đầu với nạn lún đất trầm trọng, và một số khu vực thậm
chí có thể bị chìm xuống nước biển.
Những lý do chính của nạn lún đất tại thành Hồ bao gồm việc khai thác
quá mức về nước ngầm, việc thành thị hóa nhanh chóng và các hoạt động
chuyên chở sôi nổi.
Tại những vùng đất thấp, nạn lún đất cùng mực nước biển dâng lên (trung
bình khoảng 3 ly một năm do sự thay đổi khí hậu) sẽ lan rộng tới những
khu vực bị ngập nước hiện tại và tạo ra những khu vực mới.
Tại những khu vực duyên hải, việc khai thác nước ngầm quá mức gây ra sự
thâm nhập của nước muối một cách tổng quát sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới
việc tăng trưởng của cây cối trong việc phát triển nông nghiệp đặc biệt
và có thể chống đỡ được.
Theo Bộ Môi Trường, những vùng của Đồng Bằng Sông Cửu Long tại miền Nam VN cũng đã bị lún chìm.
24/5/2017
CUỘC ĐỐI ĐÁP GIỮA CÔ CAVE VÀ CÔNG AN
HoangsaParacels: Một cuộc đối thoại dí dỏm và sâu sắc. Câu chuyện cười ra nước mắt này được phổ biến rộng rãi cho dân chúng trong nước sẽ gây được một chuyển biến rất tốt về tư tưởng cho mọi người dân nhận rõ bộ mặt tay sai, bán nước của cộng sản Hà Nội.
Một gái gọi bị bắt quả tang đang mây mưa với một người ngoại quốc trong một khách sạn ở Vũng Áng. Cô bị đưa về đồn công an và bị tra xét.
Sau đây là đoạn đối thoại giữa cô với công an....Công an: Cô còn trẻ khỏe, xinh đẹp, sao không kiếm nghề gì mà làm lại đi bán dâm?
Cô gái: Đây cũng là một nghề mà anh.
Công an: Luật pháp nước ta không thừa nhận đây là một nghề.
Cô gái: Luật pháp do con người làm ra cả thôi. Thích cho nó là một nghề thì nó là một nghề. Ở nước khác đây là nghề hợp pháp, có bảng hiệu, có đóng thuế môn bài hẳn hoi.
Công an: Nhưng nước ta không thừa nhận đây là một nghề. Thôi, không nói chuyện đó nữa. Cô bán dâm bao lâu rồi?
Cô gái: Tôi không bán dâm, tôi chỉ làm tình với ông bạn Đài Loan của tôi thôi.
Công an: Cô có lấy tiền của ông khách Đài Loan đó không?
Cô gái: Sau khi làm tình ông ấy cho tôi tiền. Cho thì tôi nhận. Thế thôi.
Công an: Như vậy là cô đã bán dâm lấy tiền. Cô sẽ bị phạt hành chính và đưa vào trại phục hồi nhân phẩm.
Cô gái: Anh hỏi xong chưa?
Công an: Rồi.
Cô gái: Bây giờ tôi hỏi anh mấy câu. Ok?
Công an: Cô cứ hỏi.
Cô gái: Tại sao tôi cho ông bạn Đài Loan sử dụng cái mà tôi có thì mấy anh cho rằng tôi bán dâm và bắt tôi, trong khi chính quyền mấy anh cho Formosa sử dụng cái mà chính quyền mấy anh không có thì lại được?
Công an: Chính quyền cho Formosa sử dụng cái gì?
Cô gái: Đất đai, biển trời... Những thứ đó đâu phải của chính quyền mấy anh. Luật pháp ghi rõ “đất đai thuộc sở hữu của toàn dân”, đâu thuộc sở hữu của chính quyền mà chính quyền đem cho Formosa sử dụng.
Công an: Chính quyền cho Formosa thuê đất sử dụng có thời hạn.
Cô gái: Vậy tôi cũng cho ông khách Đài Loan đó thuê bướm sử dụng có thời hạn. Hai việc này đâu có khác chi nhau. Có khác là tôi cho thuê cái thuộc về sở hữu của tôi, còn chính quyền cho thuê cái không thuộc sở hữu của chính quyền. Khác nữa là thời hạn tôi cho thuê có vài tiếng đồng hồ, còn thời hạn chính quyền cho thuê kéo dài tới 70 năm. Đó là chưa kể tôi cho ông khách Đài Loan thuê bướm, lỡ có bề gì tôi chịu trận một mình. Còn chính quyền cho Formosa thuê đất, thuê biển, bây giờ Formosa gây ra ô nhiễm môi trường, cá chết, biển chết... thì dân tình lãnh đủ. Việc cho Formosa thuê đất, thuê biển... của chính quyền đã gây ra tác hại đủ đường, trong khi việc cho thuê bướm của tôi không làm hại đến ai, sao không đi bắt chính quyền mà lại bắt tôi và đòi tống tôi vô trại phục hồi nhân phẩm?
Đến đây thì công an đập bàn quát lớn: Im đi! Nhốt hết chính quyền vô trại thì trại mô mà chứa cho đủ hả?
Nguyễn Hiếu Sưu tầm
VIỆT NAM NHÀ SIÊU MỎNG
Wednesday, May 24, 2017
KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN
Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài
năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ,
rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi
được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên
san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt
ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ
vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao
phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như
vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi
đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn
rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm,
ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó.
Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực
khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng
cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú
quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món
ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp
tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo,
không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào
ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất
của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể
cả khách khó tính”.
Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc
tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt
chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh
bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng
mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho
khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng
trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước
Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa
hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.
Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.
Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn
thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học
hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất
thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng
phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn
nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển
học mừng rú.
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN?
Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be
nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái
chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T.,
người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành
nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử
khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người
thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng
xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến
hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay
như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ
rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến
năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy
chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc
trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại
được.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt,
cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu
chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở
phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng
một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước,
sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu
đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Phố thịt chó xưa.
Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.
Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử.
Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.
Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết.
Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.
Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở.
Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News
(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.
Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)
Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.
Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.
Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.
Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.
Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.
Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…
Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.
Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.
Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.
Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.
Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.
Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.
Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.
Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.
12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.
Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.
Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.
Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.
Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.
Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.
Sư trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.
Thầy Thủy bảo: “Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.
Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.
Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.
Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.
Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.
Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.
Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.
Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.
Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.
Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.
Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.
Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.
Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…
Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm
Tuesday, May 23, 2017
TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
THỬ
TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”
Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html
Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/
Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html
và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Vũ Hoàng Chương
(1976)
Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.
Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
隴西行
LŨNG TÂY HÀNH
誓掃匈奴不顧身 Thệ tảo Hung nô bất cố thân
五千貂錦喪胡塵 Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨 Khả liên Vô Định hà biên cốt
猶是深閨夢裡人 Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê
phòng.
Bài “Đọc
lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của
bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.
Mười câu
đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn
trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng
năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng
ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với
nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét
sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?
Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.
ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?
Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên
lý long câu, vạn lý thuyền
Hốt
ngộ tiền thân: nhất yển thử
Ẩm
hà mãn phúc, túy xuân thiên.
(Sau
giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt
nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột
Uống
nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng
Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là
công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo
quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ
khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên,
lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả
là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi
khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền
thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng)
trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản
tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh
ra, ngựa đấy với thuyền đây
nhìn
nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
vừa
uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ
này sau được in lại trong tập Chúng ta mất
hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại,
sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc
chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt súng xa đưa
Niềm
quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của
Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
Nguyên
đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại,
đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của
Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy
thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng
ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi”
chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc.
Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương
cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm
quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy
thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con
đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách
khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước
năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc
kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau
khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám
để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị
khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang
đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ.
Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà
thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới
cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã
không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân
trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai
Wednesday, May 24, 2017
KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN
Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài
năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ,
rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi
được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên
san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt
ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ
vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao
phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như
vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi
đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn
rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm,
ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó.
Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực
khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng
cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú
quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món
ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp
tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo,
không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào
ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất
của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể
cả khách khó tính”.
Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc
tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt
chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh
bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng
mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho
khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng
trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước
Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa
hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.
Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.
Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn
thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học
hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất
thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng
phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn
nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển
học mừng rú.
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN?
Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be
nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái
chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T.,
người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành
nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử
khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người
thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng
xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến
hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay
như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ
rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến
năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy
chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc
trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại
được.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt,
cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu
chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở
phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng
một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước,
sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu
đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Phố thịt chó xưa.
Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.
Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử.
Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.
Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết.
Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.
Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở.
Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News
(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.
Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)
Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.
Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.
Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.
Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.
Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.
Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…
Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.
Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.
Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.
Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.
Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.
Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.
Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.
Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.
12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.
Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.
Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.
Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.
Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.
Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.
Sư trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.
Thầy Thủy bảo: “Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.
Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.
Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.
Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.
Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.
Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.
Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.
Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.
Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.
Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.
Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.
Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.
Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…
Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm
Tuesday, May 23, 2017
TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
THỬ
TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”
Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html
Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/
Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html
và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Vũ Hoàng Chương
(1976)
Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.
Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
隴西行
LŨNG TÂY HÀNH
誓掃匈奴不顧身 Thệ tảo Hung nô bất cố thân
五千貂錦喪胡塵 Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨 Khả liên Vô Định hà biên cốt
猶是深閨夢裡人 Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê
phòng.
Bài “Đọc
lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của
bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.
Mười câu
đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn
trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng
năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng
ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với
nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét
sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?
Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.
ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?
Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên
lý long câu, vạn lý thuyền
Hốt
ngộ tiền thân: nhất yển thử
Ẩm
hà mãn phúc, túy xuân thiên.
(Sau
giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt
nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột
Uống
nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng
Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là
công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo
quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ
khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên,
lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả
là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi
khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền
thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng)
trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản
tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh
ra, ngựa đấy với thuyền đây
nhìn
nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
vừa
uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ
này sau được in lại trong tập Chúng ta mất
hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại,
sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc
chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt súng xa đưa
Niềm
quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của
Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
Nguyên
đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại,
đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của
Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy
thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng
ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi”
chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc.
Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương
cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm
quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy
thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con
đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách
khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước
năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc
kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau
khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám
để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị
khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang
đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ.
Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà
thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới
cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã
không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân
trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai
Wednesday, May 24, 2017
KINH ĐÔ THỊT CHÓ NHẬT TÂN
Nguyên nhân mất tích đầy bí ẩn của “Kinh đô thịt chó Nhật Tân”
Vài
năm trước đây, hễ nhắc tới món thịt chó “quốc hồn quốc túy” ngon, bổ,
rẻ là người dân Thủ đô lại nhớ ngay tới khu phố nổi tiếng Nhật Tân, nơi
được mệnh danh là “kinh đô thịt chó” huy hoàng với 50 nhà hàng mọc lên
san sát và hàng vạn thực khách từ khắp nơi đổ về tấp nập ăn nhậu suốt
ngày đêm. Nhưng giờ đây, thương hiệu “thịt chó Nhật Tân” đã lùi vào dĩ
vãng. Và cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không thể hiểu được vì sao
phố thịt chó nổi tiếng ấy bỗng dưng lại biến mất một cách đầy bí ẩn như
vậy? Trong hành trình đi tìm nguyên nhân mất tích bí ẩn này, chúng tôi
đã khám phá ra những sự thật kinh hoàng.
“KINH ĐÔ THỊT CHÓ” VANG BÓNG MỘT THỜI
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Có thể nói, “ông tổ” khai sinh ra phố chó Nhật Tân nức tiếng là Anh Tú, chủ quán thịt chó đầu tiên mang tên chính anh. Anh Tú vốn làm nghề bốc vác cho cửa hàng lương thực. Đời phu khuân vác cực nhọc trong khi đồng lương ít ỏi, chưa dáo mồ hôi đã cạn tiền nên làm được vài năm, anh quyết định bỏ nghề, về nhà mở quán thịt chó gia truyền. Đó là năm 1991, vùng đất ngoài đê sông Hồng còn hoang vu, dân cư thưa thớt, cỏ lau ngút ngàn. Dựng một mái lều tranh ven đê, viết nguệch ngoạc tên mình lên trên cái mẹt cắm triền đê, ông chủ quán thịt chó Anh Tú chỉ dám mơ ngày bán được vài ký, kiếm đủ tiền nuôi vợ con.
Ai dè, chừng nửa năm, khách đến nhà hàng đông nườm nượp. Người ta đồn
rằng: dồi chó và mắm tôm Anh Tú là số 1. Dồi của Anh Tú thơm, vị đậm,
ngon, chắc và giòn. Nhai đến đâu, vị ngọt ngọt, bùi bùi lan tỏa tới đó.
Dồi nóng chấm mắm tôm ngon càng thêm phần đậm đà, ấn tượng. Nhiều thực
khách sành ăn thì bảo: “Cày tơ bảy món Anh Tú, món nào chẳng ngon. Chứng
cớ là vài chục con chó thịt ra, ngày nào chẳng hết veo. Tay nghề anh Tú
quá siêu, nhất là quy trình gia giảm, tẩm ướp khiến món nào nổi vị món
ấy. Món chả chín nục, giòn thơm. Món dựa mận ngọt, mềm, khi dùng đũa gắp
tiết đọng thành tơ như níu miếng thịt nằm lại dưới bát. Thịt luộc ráo,
không dai, mát. Món hấp thì nục mà không nhừ. Món xào lăn thơm ngào
ngạt, nhai miếng thịt nghe sừn sựt. Và trên hết, nghệ thuật đỉnh nhất
của quán chó Anh Tú là nghệ thuật “vừa miệng, vừa lòng” thực khách, kể
cả khách khó tính”.
Vài năm sau, từ mái lều gianh chật hẹp, quán thịt chó Anh Tú nâng cấp thành khu nhà sàn 2 tầng rộng vài trăm mét vuông. Mỗi ngày, quán đón hàng ngàn thực khách. Anh Tú phải thuê tới 30 nhân viên, làm việc quần quật từ tờ mờ sáng đến tận khuya. Ai cũng nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ chảy vào túi Anh Tú mỗi ngày. Và thế là, như nấm mọc sau mưa, hàng loạt quán thịt chó khác mọc lên san sát dọc triền đê: Trần Mục, Hồ Kiếm, A Trang, Anh Vinh, Anh Kiên... Một số ông chủ ranh mãnh đã nhái thương hiệu Anh Tú như Anh Tú Xịn,
Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá... Trên đoạn đường dài chừng 1km mà mọc
tới ngót 50 quán thịt chó biến phố Nhật Tân trở thành “kinh đô thịt
chó”, “liên hiệp các xí nghiệp thịt chó Hà Nội”. Quán thì lợp mái gianh
bốn bề trống hoác. Quán thì lợp lá cọ, sàn gỗ, vách tre, treo rèm thoáng
mát. Quán lợp ngói khang trang. Có quán trên mặt đê là lán nứa cho
khách để xe, thụt xuống chân đê là ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh chứa hàng
trăm thực khách. Quán nào cũng dành lấy cảnh quan bên trái là mặt nước
Hồ Tây mênh mang, bên phải là bãi sông Hồng lồng lộng gió. Cảnh sắc vừa
hữu tình, vừa đắc địa cho khách ẩm tửu nhậu với thịt cầy.
Chen chúc thế mà quán nào cũng nghìn nghịt khách. Ngày nào cũng tấp nập ồn ã từ 10h sáng đến nửa đêm. Vào những ngày cuối tháng hay mùa đông giá rét, nhiều nhà hàng không đủ chỗ ngồi. Xe máy, ô tô, xe lớn, xe bé biển số mang đủ ký hiệu các tỉnh xếp hàng dài dằng dặc dọc triền đê. Nhưng đông nhất có lẽ là quán Trần Mục. Ông chủ Trần Mục vốn là lái xe cho ngoại giao đoàn, bặt thiệp, quan biết rộng, được đi đây đó nhiều nên tinh thông thương trường.
Mỗi ngày, quán phục vụ chừng 600-1.000 khách nên giết mổ cả trăm con chó. 50 nhân viên lao động cật lực từ 4h sáng đến 11h đêm. Những ngày cuối tháng, quán chỉ nhận phục vụ khách quen, đặt trước. Nhiều hôm, chuông điện thoại đặt hàng reo inh ỏi đau đầu nhức óc, bà chủ nhà hàng phải rút điện thoại ra để khỏi phải nghe. Đã từng có nhà kinh tế học nhẩm tính rằng: “Kinh đô thịt chó Nhật Tân” có chừng 50 quán. Trung bình mỗi quán giết thịt 30 con chó mỗi ngày. Trung bình mỗi con nặng 10kg. Như vậy, tính sơ sơ, mỗi ngày, 1.500 con chó được hóa kiếp tại đây.
Nghĩa là hàng ngày, cánh RTC (rượu thịt chó) đã xơi hết chừng 15 tấn
thịt chó. Quá khủng khiếp. Phép tính ấy đã khiến nhiều nhà khuyển học
hốt hoảng: cứ đà này, một ngày nào đó, giống khuyển sẽ tuyệt tự mất
thôi. Nỗi lo sợ ấy quả là có lý. Nhưng những người yêu khuyển cũng chẳng
phải lo lâu. Năm 2006, kinh đô thịt chó Nhật Tân đang sầm uất, nhộn
nhịp, ăn nên làm ra là vậy, bỗng dưng, đóng cửa một loạt. Các nhà khuyển
học mừng rú.
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
Cánh mê thịt cầy thì tiếc hùi hụi vì mất chỗ xơi. Song tất cả đều giật mình băn khoăn tự hỏi: tại sao kinh đô thịt chó đột nhiên lại mất tích một cách bí ẩn như vậy? Vì mất khách ư? Không! Quán nào cũng đông nườm nượp cơ mà. Vì kinh doanh thua lỗ ư? Càng không. Vì kinh doanh thịt chó rất lãi, một vốn bốn lời. Bằng chứng là chủ quán nào cũng rất giàu. Vậy thì tại sao?
CÓ PHẢI BỎ NGHỀ SÁT SINH VÌ SỢ BÁO OÁN?
Theo sự giới thiệu của ông Lê Tiến Đ., cán bộ quận Hoàn Kiếm, chúng tôi tìm đến nhà ông H., thượng tá công an đã nghỉ hưu, người đã sống trên 40 năm ở làng Nhật Tân. Tôi hỏi: “Chú có biết vì sao các quán thịt chó Nhật Tân lại đồng loạt đóng cửa hết không?”. Ông H. bảo: “Trời ạ! Làm cái nghề giết chóc ghê rợn ấy thì làm sao mà có hậu được hả cháu? Mấy gia đình kinh doanh thịt chó không gặp chuyện nọ thì cũng vướng chuyện kia. Dù họ có nhiều tiền như nước thì cuối cùng cũng hết sạch thôi. Của thiên trả địa mà.
Cũng có nhiều gia đình giàu lên nhanh chóng nhưng lục đục lắm, nát be
nát bét, vợ chồng đánh lộn, con cái hư hỏng. Đó là chưa kể có những cái
chết rùng rợn lắm”. Nói đoạn, ông H. giơ ngón tay nhẩm tính. Nhà anh T.,
người mở quán thịt chó đầu tiên ở Nhật Tân. Bốn anh em trai đều hành
nghề giết mổ chó, đều vâm váp khỏe mạnh, vậy mà đều chết bất đắc kỳ tử
khi tuổi đời mới trên dưới 50. Người thì chết gục trong phòng tắm. Người
thì đi dự tiệc đám cưới hàng xóm, vừa bước ra đến cổng ngã lăn đùng
xuống đất, chết tươi. Người thì đang ngồi nhậu thịt chó với mấy chiến
hữu, vừa xúc miệng được vài ly rượu thì vục mặt xuống mâm bất tỉnh. Hay
như gia đình ông M., chủ quán T.M nức tiếng nhất phố chó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Khi quán hoạt động được vài năm, khách đông kìn kìn, đúng lúc thịnh vượng nhất thì ông đòi đóng cửa quán. Ông bảo: “Không ai làm giàu nhờ sát sinh được, nhất là làm giàu trên sự chết chóc của loài chó”. Tuy nhiên, bà X., vợ ông vẫn kiên quyết mở cửa. Bà bảo: Ngày ngày, tiền lợi nhuận chảy vào nhà bà như nước, có họa điên mới đóng cửa. Không thuyết phục được vợ, ông M. bỏ mặc quán cho bà X. quản lý, ở nhà trông cháu, chăm sóc cây cối vui tuổi già. Một thời gian sau, chứng kiến nhiều bi kịch đau lòng xảy ra với những người giết mổ, bà X. cũng hoang mang. Bà không dám tự tay giết chó nữa mà sai nhân viên làm việc đó.
Để giải bớt nghiệp cho mình và gia đình, bà đi lễ rất nhiều nơi. Cúng lễ
rất chu đáo, đốt vô số vàng mã, cầu siêu cho linh hồn loài chó. Cho đến
năm 2005, sau một loạt hiểm họa dồn dập ập đến với bà: hai lần ngã gãy
chân, gãy tay. Viêm xương khớp, đầu gối sưng to như chân trâu. Mỗi lúc
trái gió trở giời là nhức buốt tận óc, bò lê bò càng, không thể đi lại
được.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Rồi cao huyết áp, tháng nào cũng phải vào viện cấp cứu vài lần, bà X. mới giật mình tỉnh ngộ. Nghiệp oán sát sinh mà nhiều lần chồng bà đay đi đay lại khiến bà hoảng sợ thực sự. Bà quyết định đóng cửa quán thịt chó T.M mà không một chút tiếc nuối, mở văn phòng kinh doanh bất động sản. Song vận đen vẫn không chịu buông tha bà. Con cái bà, đứa lô đề cờ bạc, đứa nghiện hút chích choác, đứa đâm thuê chém mướn. Bà nhiều lần bật khóc với hàng xóm: “Tôi chẳng thể ngờ hậu vận đời tôi lại bi thảm như thế. Âu cũng là ông giời bắt tôi đền tội đây”.
Số phận của gia đình ông S., chủ quán thịt chó A.X cũng chẳng hơn gì. Ông S. vốn là người làng Trung Hòa, trước kinh doanh cá sông, gà đồi. Thấy mấy nhà hàng thịt chó ở Nhật Tân làm ăn phát đạt, ông bèn đóng cửa nhà hàng ở Trung Hòa, lên Nhật Tân, thuê địa điểm, mở quán thịt chó A.X. Do có nhiều kinh nghiệm kinh doanh nhà hàng, lại cầu kỳ trong vấn đề chọn chó ngon (Ông chỉ mua chó dé, lông vàng, nặng trên dưới 10kg. Thịt loại chó này nạc, ngọt, mềm, thơm), vị thế quán lại đẹp nên quán thịt chó A.X. nhanh chóng thu hút thực khách. Quán quá đông, không đủ chỗ, ông S. bèn mở quán thứ hai cũng với thương hiệu đó. Đúng lúc công việc kinh doanh thịt chó phất lên như diều gặp gió thì bão tố bắt đầu giáng xuống gia đình ông.
Năm 2000, khi thò tay vào lồng tóm con chó lôi ra để đập chết làm thịt,
cậu con trai độc nhất vô tình bị cắn vào tay. Vết cắn xước nhẹ nên cậu
chẳng thèm để tâm. Bởi xưa nay, chuyện nhân viên giết mổ bị chó cắn ở
phố chó Nhật Tân này thường như cơm bữa, có ai đi tiêm phòng đâu. Chừng
một tháng sau, đang ngồi thui chó, cậu bỗng rùng mình kêu rét. Sợ nước,
sợ lửa. Người lên cơn co giật, bọt sùi trắng hai mép. Gia đình đưa cậu
đến Bệnh viện Sant Paul cấp cứu.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Bác sĩ lắc đầu, thở dài. “Em nó bị lên cơn chó dại rồi”. Chứng kiến cảnh con mình mỗi khi lên cơn dại, toàn thân co quắp, la hét cầu xin bác sĩ hãy cứu mình, ông X. ôm mặt, khóc òa lên: “Sao ông giời nỡ lòng nào bắt con tôi phải đền tội sớm thế hả giời? Sao ông không bắt tôi đi?”. Quá đau khổ trước cái chết bất ngờ, đau đớn của con, bà vợ ông bị đột quỵ, nằm liệt giường liệt chiếu. Biết là bị quả báo do nghiệp sát sinh, ông S. đã đóng cửa vĩnh viễn cả hai quán thịt chó. Từ bấy, ông lặng lẽ như một bóng ma, hỏi chẳng nói, gọi chẳng thưa.
Phố thịt chó xưa.
Thượng tá công an H. bảo: “Những chuyện báo oán như thế, ở làng chó Nhật Tân nhiều lắm. Kể cả ngày chẳng hết. Nhưng có hai chuyện rùng rợn nhất, ám ảnh nhất. Và có lẽ vì chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng này, các chủ quán thịt chó giật mình tỉnh ngộ sợ hãi mà không ai bảo ai, đồng loạt đóng cửa”. Ngừng lời, nhấp một ngụm trà, ông H. chậm rãi kể, giọng rờn rợn. Một đêm khuya nọ. Con phố yên tĩnh bảng lảng sương đêm, rả rích tiếng côn trùng bỗng dội lên tiếng kêu thét kinh hoàng của chị Kh. “Ối làng nước ơi. Chồng cháu giết người. Chồng cháu giết con rồi”. Mọi người hốt hoảng chạy đến căn nhà trọ của chị.
Một cảnh tượng kinh hoàng đập vào mắt. Trong ánh đèn điện vàng vọt mờ tỏ, trên chiếc giường cũ kỹ, hai đứa con gái chị Kh. nằm chồng lên nhau. Đầu vỡ toác. Máu lênh láng. Óc bắn tứ tung. Mắt mở thao láo. Anh chồng chị Kh., một tay giết chó siêu đẳng quê ở Nghệ An, chuyên giết mổ thuê cho các nhà hàng, đứng trân trân giữa nhà, mắt đỏ vằn, tay lăm lăm cầm cái vồ vẫn đập giết chó hàng ngày, máu vẫn còn nhơ nhớp. Cho đến lúc bị công an tra hỏi, anh vẫn khăng khăng quả quyết là mình vừa đập chết hai con chó để giết thịt chứ không giết hai cô con gái. 49 ngày sau, anh treo cổ tự tử.
Chuyện nữa, ám ảnh hơn. Anh Ch. hành nghề giết mổ chó được gần 10 năm. Một ngày, ông bố của anh bị mắc bệnh lạ. Toàn thân da mẩn đỏ, sần sùi, đóng vẩy ốc, vẩy cá. Ông cụ kêu ngứa, gãi sồn sột suốt ngày đêm. Nhiều lúc ngứa quá, không chịu được, ông dùng lưỡi dao mà anh Ch. chuyên mổ chó, cào cho toạc da, bong vẩy, máu chảy đầm đìa. Đi khám bệnh viện da liễu, bác sĩ nói ông bị bệnh vảy nến rồi cấp thuốc. Thuốc uống, thuốc bôi đủ kiểu mà bệnh càng nặng hơn. Chuyển sang uống thuốc Nam bệnh cũng chẳng thuyên giảm.
Da bong ra từng mảng. Trời nóng là nứt toác ra, máu mủ ri rỉ chảy. Tắm không được, mặc quần áo cũng không xong, suốt ngày phải quấn xô màn chống ruồi nhặng. Ông cụ đau đớn vô cùng. Thâu đêm suốt sáng kêu rên. Thịt da lở loét từng ngày. Cho đến khi chân tay trơ cả gân, xương, trông chẳng khác gì cái chân chó bị ninh nhừ. Ai trông cũng kinh khiếp. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy, không kịp chạy ra sân, nôn thốc nôn tháo tại phòng. Lúc đầu, ông còn đủ sức kêu. Sau, người kiệt quệ, chỉ rên. Tiếng rên yếu ớt nghe như tiếng chó bị chọc tiết lúc sắp chết.
Một nhóm Phật tử phát tâm đến nhà Ch. lập đàn sám hối, giải nghiệp, cầu cho ông cụ ra đi thanh thản. Vợ Ch. cũng thành kính chắp tay tụng kinh cầu nguyện sám hối, hồi hướng công đức cho ông. Bỗng dưng chị lăn đùng ra ra đất. Mắt trợn ngược. Dớt dãi trào ra. Miệng tru lên những tiếng kêu ai oán, xót xa như tiếng chó sắp bị giết hại.
Bà trưởng nhóm Phật tử hộ niệm biết là cô con dâu bị vong hồn chó báo oán nhập vào, đã làm lễ khai khẩu cho chị. Con chó kể (nói qua vợ anh Ch.): Nó là con chó vện, bị anh Ch. giết hại lúc đang mang thai. Mặc dầu trước lúc bị làm thịt, bị nhốt trong lồng, nó đã cố đứng bằng hai chân sau, hai chân trước chắp tay lạy anh Ch. nhưng anh vẫn tàn nhẫn túm cổ nó, lôi khỏi lồng, phang một vồ vào thẳng đầu nó khiến đàn con nó chết theo. Nó hận oán nên đã báo thù. Bố của anh Ch. phải chết trong đau đớn, khổ sở.
Câu chuyện con chó báo oán ly kỳ, rùng rợn đã được một Phật tử quay phim lại, in thành đĩa, phát tán rộng rãi. Cuối phim, có đoạn một Phật tử nói: “Theo Phật giáo nguyên thủy, thế gian có 2 loại nhân. Một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi mình trồng nhân thiện thì sẽ gặt quả thiện. Khi trồng nhân ác sẽ gặt quả ác. Nếu mình tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm thì tương lai sẽ thọ quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong các loại tội, tội nặng nhất là sát sinh. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được”. Ai xem cũng thấy sởn da gà. “Có thể, vì tin, vì nỗi sợ hãi vô hình liên quan đến nghiệp báo, sát sinh trong thuyết giáo nhà Phật mà mấy chục quán thịt chó Nhật Tân bỗng dưng biến mất chăng?”. Ông H. bảo.
KHÔNG AI DÁM GIẾT CHÓ
Nguyệt My (Phóng sự điều tra của Đài Truyền Hình Cáp VTC News
(VTC News) - Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa.
Ông thủ từ Hồ Xuân Đức, người trông coi, hương khói đền Giang Xá ở đầu làng Cao Hạ (xã Đức Giang, Hoài Đức, Hà Nội) bảo rằng: “Nói chuyện này cậu không tin, nhưng có một thực tế là ở làng Cao Hạ không có ai dám cầm chày đập chết con chó, cầm dao chọc tiết nó đâu. Cùng lắm họ chỉ dám thui chó, mổ bụng, làm lòng, khi thợ đã giết chó rồi. (Ảnh: Làng Cao Hạ)
Ngày xưa, việc giết chó tự tay người Cao Hạ làm, nhưng nhiều chuyện xảy ra lắm, nên không ai dám làm cái việc sát sinh ấy nữa. Nhưng đất chật, người đông, không mổ chó thì lấy gì mà sống, nên họ vẫn phải duy trì lò mổ. Có điều, họ không trực tiếp giết chó, mà thuê thợ giết mổ từ nơi khác về.
Người dân làng Cao Hạ trả công vài trăm ngàn mỗi ngày nên thuê được rất nhiều thợ. Mà với số tiền hậu hĩnh như vậy, thì nhiều người dám cầm chày đập con chó, cầm dao chọc cổ nó”.
Nghe ông Đức nói vậy, tôi không tin lắm, nhưng quả thực, đến các lò mổ ở Cao Hạ, từ lò mổ lớn, đến bé, song không có bất cứ thợ giết mổ nào là người Cao Hạ.
Thợ mổ đều được thuê từ các tỉnh khác như Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc... Đông nhất vẫn là người Thanh Hóa. Ở Đông Sơn (Thanh Hóa), có một ngôi làng, mà cả làng đi buôn chó xuyên quốc gia và đi giết mổ chó mướn ở khắp nơi. Người nọ rủ người kia, nên có đến mấy chục thợ ở Đông Sơn hành nghề giết chó thuê ở Cao Hạ.
Lang thang tìm hiểu ở làng mổ chó Cao Hạ, tôi được nghe người dân kể rằng, người Cao Hạ đi đến đâu cũng bị chó sủa, chó cắn. Mặc dù ngôi làng đang yên tĩnh ban trưa, nhưng người Cao Hạ đi qua, là chó sủa dậy làng. Người ta đồn rằng, người Cao Hạ là khắc tinh của loài chó, mà chó là loài rất thính nhạy, nên cảm nhận được.
Trong thời gian tìm hiểu về nghề giết mổ chó ở làng Cao Hạ, tạt vào chùa Cao Hạ, tôi thấy người vào ra nườm nượp, khói hương nghi ngút, vàng mã khắp nơi. Vàng mã đủ hình 12 con giáp, gồm trâu, chó, ngựa, dê, rồng, chuột…
Tôi nhận ra bà D., một chủ lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Bà D. tuy đã 56 tuổi, nhưng ăn mặc khá thời thượng, ra dáng một bà chủ lớn. Bà có một tòa biệt thự ở trong làng, cùng một nhà nghỉ Hà Nội. Tất cả gia sản đó đều từ con chó mà ra.
Cũng như những gia đình khác ở Cao Hạ, bà D. rất sợ gặp vận rủi với nghề sát sinh. Mỗi năm, vào những ngày rằm, mùng 1, ngày lễ, bà đều chuẩn bị lễ lạt chu đáo rồi cúng tế hàng giờ ở chùa Cao Hạ.
Người cúng giải hạn cho bà D. chính là thầy Thích Thanh Thủy, trụ trì chùa Cao Hạ. Tôi tiếp chuyện, nhưng bà từ chối cung cấp thông tin. Hầu hết người dân ở làng Cao Hạ đều không muốn nói về công việc sát sinh của mình.
Bản thân bà, dù đã giàu có lắm rồi, nhưng nỗi mất mát còn lớn hơn. Người chồng đầu ấp tay gối đã chết vì nghiệp giết chó. Con cái phương trưởng, làm các nghề khác, không theo nghề mổ chó.
Bao năm nay, bà sống cô đơn một mình trong tòa biệt thự, nhưng buồn vô hạn. Bà đang sống trong khổ đau, dằn vặt, vì bà tin rằng, trăm ngàn kiếp nữa, bà phải chịu quả đau đớn, vì đã sát hại hàng vạn con chó.
Dù bà D. không tiết lộ chuyện gia đình mình, song cái chết của ông K., chồng bà, thì cả làng Cao Hạ đều biết.
Theo đó, nghề mổ chó đã có từ đời ông nội của bà. Ông nội của bà cũng chính là một trong số ông tổ của nghề giết mổ chó làng Cao Hạ.
Khi đó, gia đình nghèo, ông nội bà phải lang thang khắp nơi, học nhiều nghề. Cuối cùng, ông học được nghề giết mổ chó từ một chủ lò mổ ở Bắc Ninh. Ông cụ đã mang nghề này về làng.
12 tuổi, cô bé D. đã biết đạp xe chở thịt chó đi bán. 15 tuổi nghễu nghện đạp xe chở chó về tận Hà Nội giao hàng. Vậy là, ở tuổi 56, bà D. đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề thịt chó.
Bà D. lấy chồng, là ông K., người làng khác. Mặc dù là cán bộ Nhà nước, nhưng đồng lương công chức đói kém, nên ông đã bỏ cơ quan về giết mổ chó giúp vợ.
Công việc mổ chó suôn sẻ, kinh tế gia đình ngày một khấm khá. Thế nhưng, cách đây 15 năm, một vụ tai nạn giao thông khi ông đi giao thịt chó, đã cướp đi mạng sống của chồng bà.
Sau cái chết của chồng, người ta đồn là gặp vận rủi do làm nghề sát sinh, nên người thân trong gia đình đều khuyên bà nên bỏ nghề. Bà D. cũng tính bỏ nghề, nhưng ruộng đất không có, bà lại chỉ thạo mỗi nghề mổ chó, đàn con đang tuổi ăn, tuổi học, không mổ chó thì lấy gì nuôi con, nên bà vẫn phải nhắm mắt theo nghề.
Kể từ đó, bà năng đi chùa hơn. Cứ đến ngày rằm, mùng một, các ngày lễ lớn, bà đều lên chùa, làm lễ, mong linh hồn những con chó do bà sát hại được đầu thai vào loài khác, được siêu sinh, không phải làm kiếp chó nữa.
Mặc dù, công việc giết mổ chó mỗi ngày một phát đạt, kinh tế mỗi ngày thêm khá giả, song bà D. không thấy hạnh phúc hơn. Bao năm trời bà khốn khổ với một cậu con trai. Anh này không ham học, không ham làm, mà chỉ phá phách tiền bạc của bà. Hết lô đề, cờ bạc, anh ta quay sang hút chích. Cuối cùng, người con trai này cũng chết vì sốc thuốc.
Sư trụ trì Thích Thanh Thủy bảo rằng, ở làng Cao Hạ, bà D. là người rất tín tâm. Mỗi lần đi chùa, bà cúng tới vài chục triệu, đốt vô số vàng mã.
Thầy Thủy bảo: “Tôi cũng thuyết giảng, tuyên truyền nhiều lắm, nhưng nghề mổ chó là miếng cơm manh áo của họ, nên họ không bỏ được. Họ vừa làm vừa vào chùa sám hối. Họ tưởng làm thế là thoát, nhưng họ đã lầm. Nhân – Quả rất công bằng. Dù có cúng cả tiền tỉ, thì họ vẫn phải nhận cái Quả, do đã gieo Nhân ác sát sinh.
Trong Tam tự kinh có câu “Khuyển mã tứ tình”, tức là con chó, con ngựa có tình cảm với con người, nó cũng là một sinh linh như con người. Lại có câu “Khuyển thủ dạ, kê tư thần”, nghĩa là con chó thức đêm canh cho con người, con gà gáy sáng báo thức, thì con người mới sớm khuya an giấc. Con chó thân thiết với con người là vậy, mà sát hại nó, ăn thịt nó thì quá tàn nhẫn”.
Theo thầy Thủy, không chỉ bà D., mà còn có một số chuyện chết chóc nữa trong làng Cao Hạ cũng liên quan đến con chó. Chính vì thế, người dân trong làng rất hoang mang, sợ hãi với công việc giết chó, dù họ là những chủ lò mổ.
Có một cái chết được dân làng kể nhiều, là cái chết của ông H. Một đồn mười, mười đồn trăm, khiến cái chết của ông trở nên kỳ quái.
Ngày đó ông H. gây dựng được lò mổ chó lớn nhất nhì làng Cao Hạ. Đêm nào vợ chồng ông với sự phụ giúp của con cái, cũng hóa kiếp vài chục chú chó.
Thế nhưng, một đêm, sau khi đập chết chó, thui rơm vàng ươm, chuẩn bị mổ bụng moi lòng, thì mọi người không thấy ông H. đâu cả. Lát sau mới thấy ông chết bỏng trong nồi nước nhúng chó để vặt lông.
Ngay sau cái chết của ông H. một thời gian thì đến cái chết của anh V., chồng chị C. Khi đó, anh V. tròn 40 tuổi. Anh là thợ mổ chó lành nghề nhất làng Cao Hạ. Chỉ 3 tiếng nửa đêm về sáng, mình anh mổ xong 10 đến 15 chú chó.
Vì có tay nghề cao, nên kinh tế gia đình mỗi ngày thêm khấm khá. Thế nhưng, tai họa ập đến đúng lúc gia đình đang ăn nên làm ra. Khi anh cắm quạt điện để thui chó, anh bị điện giật chết, mặt mũi méo xẹo, nằm vật bên đống chó chưa kịp thui.
Rồi cái chết cũng hết sức lãng xẹt của ông Nguyễn Văn L. Ông L. cũng là chủ lò mổ chó chuyên nghiệp ở Cao Hạ. Người Cao Hạ bị chó cắn như cơm bữa, nên nhà nào cũng thủ sẵn thuốc tiêm phòng.
Mấy lần bị chó cắn, ông L. đều tiêm phòng cẩn thận. Thế nhưng, lần này, con chó cắn nhẹ, chỉ hơi xước ở cổ tay, nên ông chủ quan, không tiêm tiếc gì cả. Thời gian sau, ông lên cơn dại, rồi qua đời.
Cái chết của 4 chủ lò mổ liên quan đến chó dù chỉ là sự trùng hợp bình thường, là tai nạn nghề nghiệp, song khiến người dân Cao Hạ hoang mang, đồn đại suốt nhiều năm trời.
Họ sợ hãi cái thuyết nhân quả, gánh nghiệp sát sinh, nên không ai dám mổ chó nữa. Để duy trì sự hoạt động của lò mổ họ đồng loạt thuê thợ nơi khác đến giết mổ chó, còn dân trong làng chỉ làm những công đoạn tiếp theo. Họ muốn đổ cái nghiệp sát sinh đó cho những người làm thuê.
Quả thực, lang thang ở làng Cao Hạ, tôi nhận thấy rằng, rất ít gia đình có được hạnh phúc đầy đủ, toàn vẹn vì nghề giết mổ chó. Chỉ có 3 gia đình giàu có, nhưng nhà thì có người chết chóc, nhà có con cái nghiện ngập. Còn lại, tất cả các hộ gia đình chỉ có mức sống bình thường từ nghề giết mổ chó. Nhiều người có được chút tiền từ lò mổ thì sa đà vào cờ bạc, ăn chơi, nghiện ngập…
Nguyệt My
http://vtc.vn/394-371652/phong-su-kham-pha/giai-ma-lang-thit-cho-khong-ai-dam-giet-cho.htm
Tuesday, May 23, 2017
TRẦN TỪ MAI *THỬ TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
THỬ
TÌM HIỂU Ý TƯỞNG CỦA THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
TRONG BÀI “ĐỌC LẠI NGƯỜI XƯA: TRẦN ĐÀO”
Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
http://www.diendantheky.net/2016/10/giao-tinh-vong-nien-giua-vu-hoang.html
Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/quanvan-gioi-thieu-12-bai-tho-doc-lai-nguoi-xua-cua-thi-si-vu-hoang-chuong/
Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy ra ở trong nước, nữ sĩ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
http://www.diendantheky.net/2013/01/tran-huy-bich-mot-bai-tho-ngu-y-that.html
và trình bày lại một cách chi tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more
Hôm nay xin được viết tiếp để thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Đọc lại người xưa: Trần Đào
Khả liên Vô Định hà biên cốt
Do thị xuân khuê mộng lý nhân
Trần Đào
Chàng về trong mộng đêm đêm
Trẻ như măng, thịt da mềm như tơ
Ngày qua nàng vẫn trông chờ
Tháng, rồi năm, vẫn giấc mơ liền cành
Biết đâu chàng đã trở thành
Xương tàn một nắm vô danh bên trời
Bờ sông bãi cát bồi hồi
Đã khô rồi, đã trắng rồi, biết đâu
Chữ đồng tạc lấy cho sâu
Ai hay lẻ một nét sầu đến xương
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Vũ Hoàng Chương
(1976)
Ý nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.
Đó là hai câu cuối trong bài “Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như sau:
隴西行
LŨNG TÂY HÀNH
誓掃匈奴不顧身 Thệ tảo Hung nô bất cố thân
五千貂錦喪胡塵 Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần
可憐無定河邊骨 Khả liên Vô Định hà biên cốt
猶是深閨夢裡人 Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê
phòng.
Bài “Đọc
lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của
bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.
Mười câu
đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm chàng vẫn
trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng, rồi hàng
năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương khô trắng
ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối với
nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một nét
sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,” nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan (vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?
Trong trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về, ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới buông thề
Vần thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.
ì kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được. Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi, hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Vậy cô gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào. Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Khi chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài (thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?
Bài thơ này được in trong tập Tân Thi (Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu năm Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuâ
n bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên
lý long câu, vạn lý thuyền
Hốt
ngộ tiền thân: nhất yển thử
Ẩm
hà mãn phúc, túy xuân thiên.
(Sau
giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt
nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột
Uống
nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ Hoàng
Chương muốn nói: Dù “thiên lý long câu” hay “vạn lý thuyền” thì cũng chỉ là
công cụ cho người ta ngồi lên và sử dụng. Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo
quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền đồn của thế giới tự do” ...) chỉ
khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên,
lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả
là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm Tý (năm chuột), ông ước mong khi
khói lửa đã tắt, cả “thiên lý long câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra tiền
thân của mình, vốn chỉ là một con chuột (chắc ông muốn nói tới chuột đồng)
trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui say với trời xuân. Bản
tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh
ra, ngựa đấy với thuyền đây
nhìn
nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
vừa
uống sông xuân một bụng đầy.
Bài thơ
này sau được in lại trong tập Chúng ta mất
hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại,
sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc
chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt súng xa đưa
Niềm
quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của
Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
Nguyên
đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại,
đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của
Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy
thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng
ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi”
chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc.
Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương
cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm
quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy
thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con
đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách
khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước
năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc
kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau
khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám
để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị
khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang
đến thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ.
Tuy những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà
thơ Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới
cho in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã
không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân
trong một giai đoạn lịch sử quan trọng khiến chúng không bị mai một.
Trần Từ Mai
No comments:
Post a Comment