Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Tuesday 6 June 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 470

VŨ THƯ HIÊN * THÂN PHẬN TRÍ THỨC



Vũ Thư Hiên: Thân phận trí thức trong xã hội cộng sản

Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2017


(Đọc “Tuỳ Tưởng Lục” của Ba Kim)

Thường khi gặp được một cuốn sách hay là tôi phải đọc một lèo. Có khi thức trắng đêm đọc cho bằng xong. Chưa xong thì trong người cứ anh ách, ngủ không yên. Lâu ngày thành cái tật, sửa không được.


Cuốn Tuỳ Tưởng Lục tôi đang có trong tay là của một bạn văn trong nước gửi cho. Thỉnh thoảng anh vẫn gửi cho tôi một thứ gì đó, đại loại như trà Tân Cương, cốm Vòng, hoặc tinh dầu cà cuống thứ thiệt, kèm theo một lời nhắn. Thư thì không, tuyệt nhiên. Anh không giấu giếm rằng anh nhát. Lần này có người tin cẩn anh lại gửi quà — một cuốn sách. Chúng tôi chơi với nhau đã nửa thế kỷ, người nọ thuộc tính người kia, tôi không giận anh. Anh cho quà là quý rồi. Anh biết chắc tôi sẽ thích món quà của anh.
Mà thích thật. Trước hết, đó là cảm giác gần gụi của thân phận tác giả với thân phận người đọc, của sự đồng cảm. Cứ đọc xong một bài, có khi chỉ một đoạn, lại phải đặt sách xuống, thừ người ra mà ngẫm nghĩ. Có chỗ, ứa nước mắt.

Thích thì thích, nhưng tôi đã không đọc nổi Tuỳ Tưởng Lục của Ba Kim một mạch. Chắc nó cũng có sức lôi cuốn tương tự với những ai từng sống trong xã hội cộng sản và có một chút trăn trở về xã hội ấy: nó thật sự là cái gì vậy? nó có xứng với ta, với con người, không? liệu nó còn tương lai không? 
Tuỳ Tưởng Lục là lời tâm sự thật thà của một trí thức háo hức đi tìm chân trời mới rồi lớ ngớ thế nào lại thấy mình rơi tõm xuống địa ngục. Trong Tuỳ Tưởng Lục có đủ nỗi nhục nhằn tinh thần và những mất mát làm trái tim suốt đời rỉ máu, không kể đến những đớn đau thân xác. 
Tuỳ Tưởng Lục, bản tiếng Việt (nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) là một tập những bài viết của Ba Kim trong tuổi trên 80, nghĩ gì viết nấy, không câu nệ thể loại, đề tài. Hai dịch giả danh tiếng - Trương Chính và Ông Văn Tùng — tự chọn các bài để dịch. Sự chọn lựa của hai ông rất khéo: vừa đủ để người đọc được biết về một thảm họa xảy ra ở nước láng giềng đã nhiều năm, nhưng vì bị bưng bít nên không ai biết vân mòng nó ra làm sao, đồng thời cũng tránh được cơn giận dữ ở các bậc quyền cao chức trọng dễ chạnh lòng.
Tuỳ Tưởng Lục nguyên bản tiếng Hoa là một tác phẩm đồ sộ, gồm 5 tập, không rõ bao nhiêu trang, tập đầu in năm 1978, tập cuối in năm 1986. Những bài được chọn để dịch đều ít nhiều dính dáng tới cuộc “Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản” kéo dài mười năm - từ 1966 đến 1975 (1) . Người Việt nào từng chịu đựng cuộc Tiểu cách mạng văn hoá vô sản ở Việt Nam (nó không có tên gọi, kéo dài và âm thầm) sẽ tìm thấy trong Tuỳ Tưởng Lục (bản dịch) những lý giải cho câu hỏi: vì sao nên nỗi?
Những nghiên cứu khoa học cho ta biết trong trí nhớ của con người có một bộ lọc kỳ diệu. Nó thường xuyên xóa đi giúp ta những hình ảnh xấu, những kỷ niệm buồn. Không có cái bộ lọc ấy thì cuộc sống con người khốn nạn lắm. Thật vậy, tôi cũng thường quên những điều tồi tệ, chỉ những kỷ niệm đẹp mới được ghi lại. Tác giả Tuỳ Tưởng Lục chắc cũng không khác. Không thế, không sống nổi.
Vậy mà, với Tuỳ Tưởng Lục Ba Kim lại chống cái trí nhớ có lợi cho con người ấy. Trải qua những năm tháng bị dập vùi, ngẫm lại thân phận mình và thân phận đồng bào trong cái xã hội “không thể tưởng tượng nổi,” ông kêu gọi mọi người không được quên cái Ác và tội của nó. Quên là chết. Nhớ thì đau đấy, khổ đấy, nhưng phải khắc cốt ghi xương, rằng nó đã có, cái Ác ấy, nó hằng có, lúc tiềm tàng, lúc hiện diện, cho nên phải luôn cảnh giác với nó, để mặc nó lộng hành thì con người không thể nào có được cuộc sống yên lành. Phải chặn đứng cái Ác khi còn chưa muộn, phải trói nó lại, cách ly nó khỏi đời sống, tìm mọi cách tiêu diệt nó. Không thể để lũ ác nhân cứ tự do hoành hành, tác yêu tác quái, rồi bất kể hậu quả là thế nào, chúng cứ nhơn nhơn lớn lối với bàn dân thiên hạ, coi như không có chuyện gì xảy ra, chỉ có mình chúng là duy nhất đúng đắn, là vô cùng sáng suốt: “Thành tích là căn bản, sai lầm là nhất thời.” Đối với lũ ác nhân đội lốt thiên thần dường như cứ đạt được một thành tích nào đó, dù chỉ trong tưởng tượng, thì cái gì cũng được phép. Đánh người tuỳ thích. Giết người tha hồ.
Gần ba chục năm đã trôi qua kể từ hạo kiếp của Ba Kim kết thúc. Nhưng ông lúc nào cũng bị dằn vặt bởi câu hỏi: lấy gì bảo đảm rằng vào một lúc nào đó, lại không có một tên nào đó, hoặc vài ba tên nào đó, hoặc cả một lũ một lĩ nào đó, sẽ lặp lại lần nữa, hoặc hơn một lần nữa, cái cuộc thiên hạ đại loạn từng đẩy ông, các bạn ông, và không biết bao nhiêu người Trung Quốc hiền lành vô tội khác, xuống địa ngục?
Trong một bài nói chuyện với giới văn hoá ở Nhật (trong bài không ghi rõ ngày tháng, nhưng chắc chắn là phải sau 1975), Ba Kim cảnh báo: “Mười năm đại hoạ đó là sự việc lớn trong lịch sử loài người, chẳng những dính líu đến chúng tôi, mà còn dính líu đến tất cả loài người”. Nếu Đại cách mạng văn hoá vô sản không xảy ra ở Trung Quốc ắt phải xảy ra ở một nước nào khác, ông nói thế.
Ba Kim đúng. Đúng ở chỗ ông đã nói ra. Nhưng ông cũng sai. Sai ở chỗ ông biết mà không nói hết.
Đúng là cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản không phải chỉ là bài học cho một nước. Nó là bài học chung cho cả loài người. Chưa kể những nơi mà nó khơi dậy những tiểu cách mạng văn hoá vô sản như ở Việt Nam và Cambodia. Ở đó những di hoạ khủng khiếp của nó không biết đến bao giờ mới tiệt nọc. Cái họa này lớn hơn ta tưởng nhiều. Nó lớn ở chỗ người trong cuộc không nhận ra nó khủng khiếp tới mức nào, đừng nói gì người ngoài. Mà không phải chỉ ở những nơi nào nó diễn ra mới chịu hậu quả tai hại. Cứ xem châu Âu của truyền thống dân chủ và tự do trong thập niên 60 thế kỷ trước thì thấy. Hồi ấy đã có bao nhiêu trí thức châu Âu hoan hỉ chào mừng những cuộc “vận động” của những “mao-nhiều” Trung Quốc, cứ như thể dưới bóng lá cờ năm sao đang diễn ra một cuộc đổi đời thật sự, biến mọi sự xấu thành tốt. Đã có bao nhiêu người ở khắp thế giới này hướng về Thiên An Môn với hi vọng được thấy một thế giới mới sẽ từ đó toả ra khắp năm châu bốn biển? Và cho tới hôm nay rải rác đâu đó vẫn còn những “mao ít” mang huy hiệu Mao Trạch Đông trên ngực, miệng hô: “Cái thế giới này phải cải tạo bằng khẩu súng trường,” (2) tay trói du khách đem đi giấu để đòi tiền chuộc.
Ba Kim sai, ở chỗ nơi “Đông phương hồng, mặt trời lên, Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông” không phải chỉ có một cuộc Đại cách mạng văn hoá vô sản. Trước nó đã có hết cuộc “vận động” này đến cuộc “vận động” khác, và như một quy luật, cuộc “vận động” nào cũng kết thúc bằng một địa ngục, không phải cho người này thì người kia. Ai theo dõi tình hình Trung Quốc cận đại cũng biết rằng trước cái đận Ba Kim và các trí thức đi theo đảng cộng sản bị hạ ngục, bị trấn áp, đã có biết bao nhiêu nạn nhân thuộc các thành phần khác: đảng viên Quốc dân đảng, viên chức chính quyền cũ, tư sản, địa chủ... và những người được gọi bằng cái tên chung “phản động.” Số người bất hạnh ấy là bao nhiêu không ai biết. Đảng cộng sản không thống kê. Chẳng ai được quyền thống kê hết. Nhưng không phải vì thế mà Ba Kim được quyền quên những người ấy. Hoặc tảng lờ như họ chưa từng sống trên đời. Họ cũng là người chứ. Chẳng lẽ ông, với tư cách nhà văn, chứng nhân của những gì xảy ra quanh mình, lại có thể phớt lờ một sự thật rành rành rằng ở Trung Quốc mọi cuộc “vận động” “xây” cái này, “chống” cái kia, bao giờ cũng đi kèm với trống rong cờ mở ban đầu và kết thúc thắng lợi với máu chảy, người chết. Lệ là thế. Không thế không phải là cách mạng. Theo đúng lý thuyết của họ Mao.
Ba Kim được các nhà phê bình văn học bản địa coi là một trong bốn cây đại thụ của nền văn học Trung Quốc (ba người kia là Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược). Cách đánh giá của họ không có sự đồng thuận ở bên ngoài Trung Quốc. Nhưng đánh giá theo cách nào thì Ba Kim cũng là một nhà văn lớn. Ông tên thật là Lý Nghiêu Đường, tự Phế Cam, người tỉnh Tứ Xuyên, con nhà giàu có, từng du học Pháp. Năm 23 tuổi, khi còn là học sinh trường trung học La Fontaine ở thị trấn Chateau-Thierry, ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay Diệt Vong, được độc giả rất hoan nghênh. Từ năm 1930-1949 ông viết nhiều (Ái Tình Tam Bộ Khúc, Kịch Lưu Tam Bộ Khúc), dịch cũng nhiều.
Sau năm 1949, sau khi lục địa Trung Hoa hoàn toàn bị nhuộm đỏ, Ba Kim cũng như rất nhiều văn nghệ sĩ khác, đã đi theo đảng cộng sản. Tự nguyện hoàn toàn. Một lòng một dạ. Với tất cả tâm hồn hướng thiện nồng cháy. Tuy nhiên, Ba Kim viết ít hơn hẳn so với trước. Nhà trí thức Ba Kim không theo kịp (hay đã cố gắng mà không sực nổi) những khẩu hiệu “Quán triệt phương hướng phục vụ công nông binh, phục vụ chủ nghĩa xã hội,” “thực hiện phương châm “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng,” “Tiến hành phương pháp chủ nghĩa hiện thực cách mạng kết hợp với chủ nghĩa lãng mạn cách mạng”... Nào có phải chỉ có những khẩu hiệu rổn rảng mà thôi. Theo sau chúng là những cuộc đấu tranh có máu. Nào “Phê phán phim Vũ Huấn” (1951), “Phê phán cuốn ‘Nghiên cứu Hồng Lâu Mộngcủa Du Bình Bá”, “Phê phán quan điểm duy tâm của Hồ Thích” (1954), “Chống tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong” (1955), “Chống phái hữu trên mặt trận văn nghệ” (1957), “Chống “chủ nghĩa xét lại” (1959). Đây là chỉ nói về các cuộc “vận động” nhằm nện cho trí thức nhừ tử. Chứ còn tư sản, địa chủ thì Mao chủ tịch và các đồng chí của ông ta đã quét sạch sành sanh.
Tất cả sự tàn nhẫn của đảng cộng sản đối với trí thức, xét cho cùng, chỉ có mục đích bắt họ phải khuất phục đảng vô điều kiện. Nhưng chưa phải thế đã đủ, những cuộc “vận động” kia hoá ra mới chỉ là khúc nhạc dạo cho một cuộc “cách mạng” còn tàn bạo và gớm ghiếc gấp bội.
Tên của nó là “Đại cách mạng văn hoá vô sản.”
Tháng 8 năm 1966, đùng một cái, Ba Kim rơi xuống địa ngục.
Ông tả lại: “... Tôi thật giống như một du hồn bị đưa đến ‘Thập điện Diêm Vương.’ Mỗi chuyện tôi làm trong quá khứ đều bị nêu ra, từng cái một, để bỏ tôi vào vạc dầu mà tra tấn, mà thay xương đổi thịt! Mười bức vẽ đưa vong linh đi qua thập điện Diêm Vương, âm khí thê thảm, máu chảy đầm đìa, không biết mình là người hay là quỷ, là thú vật hay hồn ma, xuống âm ty hay đã xuống địa ngục rồi. Bấy giờ Tiêu San (3) còn sống, sáng dậy tôi mở mắt, nghe tiếng nàng, tôi gọi thì nàng nói: ‘Không sống nổi nữa!’” (Tuỳ Tưởng Lục).
Nói đùng một cái, là vì Ba Kim đang sống yên lành, hơn nữa, còn hữu hảo lắm lắm với chính quyền cộng sản, vào thời điểm ấy ông còn là cán bộ cấp cao về văn nghệ nữa kia; ấy thế mà một hôm vừa mới đi tiễn các nhà văn Á-Phi ở sân bay về đến nhà thì gặp người của cách mạng ập tới, túm lấy, trói tay giải đi. Úm ba la, Ba Kim — nhà văn cộng sản chính tông - trở thành “đối tượng của chuyên chính vô sản.” “Đối tượng,” chữ ấy thoạt nghe có vẻ vô thưởng vô phạt, một khái niệm vô cảm, nhưng nghĩa của nó trong thực tiễn xã hội chủ nghĩa kinh khủng lắm, chỉ người trong cuộc mới hiểu. Nó có nghĩa nôm na là “kẻ thù.” Không phải chỉ đơn giản là kẻ thù giai cấp được định nghĩa trong các tác phẩm kinh điển mác-xít, nhiều nhất là trong các trước tác của Stalin, Mao Trạch Đông, không phải thế. Thứ kẻ thù này luôn được đặt trước câu hỏi thách thức “ai thắng ai?”, để mà tiêu diệt không thương sót. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa (viết hoa) ai cũng có thể trở thành “kẻ thù” hết. Mà đã là kẻ thù thì còn cái gì tốt đẹp, vui vẻ, chờ đợi họ trên con đường khổ ải đã trở thành quen thuộc đối với dân đen. Nhất là dân đen ở nước Trung Hoa đỏ. Ở nước này cũng biết mỗi khi có một cuộc “vận động cách mạng” (lần thứ n trong lịch sử) là y như rằng các “đối tượng” của cách mạng (hay của chuyên chính vô sản thì cũng rứa) sẽ được “xử lý” như thế nào.
Nhà văn Ba Kim hiền lành không dám chống lại đảng cộng sản thậm chí cả trong ý nghĩ, bất thình lình bị đảng ném vào cái đống lúc nhúc đủ mọi thứ “kẻ thù của cách mạng.” Ông bị mang đi đấu khắp nơi, từ thấp đến cao, lúc “bồi đấu”, lúc “dạo đấu,” (4) lúc “chính đấu”, đủ kiểu. Nhà ở của ông bị lục lọi khám xét lanh tanh bành, đồ đạc bị cướp thả cửa..., bản thân bị đưa đi học tập (Ba Kim gọi là làm “bò”, lao động cải tạo ở “trường 7.5” (5) ). Bởi vì Ba Kim có tội, theo quan niệm của cách mạng, của đảng cộng sản, hay nói cho đúng hơn, của một số “ông bà” cách mạng (than ôi, chẳng bao lâu sau những ông bà cách mạng này lại bị các ông bà cách mạng khác vạch mặt chỉ tên rằng đó là một “bè lũ” những kẻ xấu). Tội của Ba Kim không hề được tòa án nào tuyên. Mấy ông bà cách mạng nắm Đảng cộng sản lúc ấy bảo: Ba Kim là “tên đại phản cách mạng.” Thế là đủ. Bói ra ma, quét nhà ra rác, trường hợp của ông cũng không khác gì của các nhà văn khác, những gì Ba Kim viết hôm trước được khen, hôm sau bị chửi, bị lên án “tiếp tay cho kẻ thù của cách mạng.”
Trong các văn kiện nói về cuộc trấn áp rùng rợn này, đảng cộng sản Trung Quốc ra một khẩu hiệu sắt máu: “Đánh gục tại chỗ, lấy chân đạp xuống, suốt đời không cho ngóc đầu dậy!
Ở miền Bắc Việt Nam hồi ấy chẳng ai biết “Đại cách mạng văn hoá vô sản” là cái chi chi hết, trừ những bài ca ngợi nó, tít chữ to, in màu đỏ đậm, trên trang nhất tờ Nhân Dân. Trong những cuộc nói chuyện “nội bộ,” các lãnh tụ lớn lãnh tụ bé ra sức ca ngợi cuộc “Đại cách mạng văn hoá vô sản” do chính Mao chủ tịch vĩ đại đích thân chỉ đạo. Trong thời gian bắt đầu cuộc “Đại cách mạng văn hoá vô sản,” Mao chủ tịch phu nhân là Giang Thanh có lần bay sang Hà Nội với tư cách khách riêng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà khách hách dịch này nằng nặc đòi xem trước những bài xã luận báo Nhân Dân, tự mình sửa từng chữ từng câu, rồi mới gửi trả lại cho toà soạn đưa đi in. Cầm trong tay những số báo ca tụng “Đại cách mạng văn hoá vô sản,” người đọc giật mình thon thót, toát mồ hôi hột: liệu ở bên ta rồi có sẽ có cái “cách mạng” kiểu đó không? Mấy ông kễnh bên ta dám động cỡn lên làm một cái gì đó theo chân các Con Trời lắm. Nước Tàu ở gần ta quá, mà các ông kễnh của ta lại xính bắt chước. Cứ nghe các ông ấy nói thì cuộc “Đại cách mạng văn hoá vô sản” ở bên Tàu hay lắm, rằng cuộc sống sẽ ngày một tốt đẹp hơn là nhờ vào nó đấy. Cứ như thể không có cách mạng thì người ta ăn cám cả.
Ờ, người ta nói, tốt hơn thì... tốt thôi. Miễn đừng có khởi lên một cuộc “đấu tranh” long trời lở đất như cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm sống trong quốc gia xã hội chủ nghĩa cho người ta biết phàm đã “đấu tranh” là y như rằng xã hội lộn tùng phèo, đầu chẳng phải phải tai, lành ít dữ nhiều, loạn xị bát nháo, kinh lắm. Các lãnh tụ quyền sinh quyền sát mà khởi lên cái sự “đấu tranh” thì họ có lợi, chứ dân đen chỉ có nước chết, biết “tránh đâu”?
Nhưng những tin vỉa hè, bây giờ được dân gian gọi bằng một cái tên hiện đại, mà rất trúng, là Thông tấn xã nhân dân, cho biết ở bên Tàu chẳng có cách mạng cách miếc gì hết, mà đang có một cuộc “thiên hạ đại loạn” với những tiểu tướng Hồng vệ binh hung hăng đập phá, bắt bớ, và cả giết chóc nữa.
Bắc Kinh mà đã báo mưa thì vua quan ở Hà Nội đi ô, bà con hãy cẩn thận!
Nhưng than ôi, đã ở trong vòng kiềm toả của đảng cộng sản rồi thì có cẩn thận cũng bằng thừa.
Thật vậy, chẳng bao lâu sau sự khởi đầu “Đại cách mạng văn hoá vô sản,” Lê Duẩn - hoàng đế tân triều ở nước ta, ngồi trên ngai vàng vẫn chưa quên việc bẻ ghi đường sắt, ra lệnh phát động ngay tắp lự một cuộc trấn áp bọn phản cách mạng, theo hình mẫu Trung Quốc, gọi là “bọn xét lại chống Đảng.”
Thế là tôi vào tù. Cùng với vô số người khác.
Trong cuộc sống trong xà lim kín như bưng kéo dài hơn bốn năm, tôi không biết việc gì đang xảy ra bên ngoài bốn bức tường, nói gì đến những việc xảy ra ở tận bên Tàu. Đến lúc được đưa ra trại chung mới được nghe sơ sơ về cái cuộc cách mạng long trời lở đất ấy. Những người Trung Hoa từ đại lục chạy qua, bị bỏ tù bởi nước chư hầu của Thiên triều, tránh không kể kỹ. Không phải vì họ sợ, đã ở trong nhà tù Việt Nam rồi còn quái gì mà sợ, nhưng họ ngán nhắc tới những kỷ niệm hãi hùng. Còn tôi thì nghe cái sự kể sơ sơ ấy đã dựng tóc gáy. Còn khiếp hơn những chuyện kinh dị đọc trong sách nhiều. Mạng người như mạng ngoé, có khi còn rẻ hơn. Dân thường còn thế, chắc trí thức Trung Quốc khốn khổ lắm.
Đến những năm 1979-1980 khi cái răng Trung Quốc đùng đùng cắn môi Việt Nam một cái rõ đau, các nhà lãnh đạo Việt Nam coi Trung Quốc là kẻ thù số một số hai rồi, tôi mới được đọc lác đác vài cuốn sách bôi xấu những nhà lãnh đạo một thời của Thiên triều, đại loại như Hồng Đô Nữ Hoàng (Giang Thanh), những chuyện thâm cung bí sử có liên quan tới Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Diệp Kiếm Anh, Hạ Long, Bành Đức Hoài, Chu Ân Lai...
Nhưng mãi đến bây giờ, ba chục năm sau đó, qua Tuỳ Tưởng Lục tôi mới được biết cái ngày “hội cách mạng” ở Trung Quốc đã diễn ra với giới trí thức như thế nào?
Tôi tin Ba Kim nói thật trong những gì ông viết về “Đại cách mạng văn hoá vô sản.” Tôi tin rằng ông không bịa thêm, như thường thấy trong những hồi ký tố khổ. Nhưng tôi cũng tin rằng ông đã nói ít hơn những điều ông biết và có thể kể lại. Có thể cảm thông với ông, ông không thể nói đủ, nói hết. Một phần là do sợ hãi (sợ hãi là một thành tố của tính người xã hội chủ nghĩa, không có nó không có con người xã hội chủ nghĩa). Phần khác do mặc cảm tội lỗi: xét cho cùng, Ba Kim đâu có hoàn toàn vô can trong những điều tồi tệ đã diễn ra?
“Đại cách mạng văn hoá vô sản,” theo lời tả của Ba Kim, bắt đầu một cách ào ạt, rầm rộ, với trống rong cờ mở, thanh la não bạt; hào hùng lắm, khí thế lắm. Trong không khí sôi động ấy, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, hoạ sĩ... , nói tóm lại, tất tần tật các văn nghệ sĩ, các nhà trí thức, lần lượt bị phái “tạo phản” (một tên gọi phái cực tả hồi ấy) điểm mặt, lôi ra. Họ bị buộc đủ các thứ tội đối với cách mạng, từ khinh thị công nông, nói xấu Đảng, nói xấu lãnh tụ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác, bôi nhọ chế độ, đến phản cách mạng, bán nước... Họ là đều là “hoa dại,” là “cỏ độc” hết, tuốt tuột. Phái “tạo phản” la hét đầu đường cuối phố: “Phải quét sạch, phải nhổ tận rễ mọi thứ hoa dại cỏ độc.” Quần chúng, như đàn cừu Panurge, ào ào theo sau, xông vào nhà những người bị đấu, lôi họ ra đường, bắt họ đội “mũ cao” (một hình thức nhục mạ), nhổ bọt vào mặt họ, ném đá vào người họ, hô to những khẩu hiệu đòi tiêu diệt họ. Và xông vào nhà bọn hoa dại cỏ độc mà ăn cướp, ăn cướp thực sự, theo nghĩa đen.
Ba Kim tả: “Tôi bỗng trở thành ‘ác bá văn chương,’ (6) thành ‘yêu ma quỷ quái,’ thường xuyên bị lôi ra phê đấu. Về sau do ‘lũ bốn tên,’ qua quyết định của sáu người có trách nhiệm ở Thượng Hải là Vương Hồng Văn, Mã Thiên Thuỷ, Từ Cảnh Hiền... đánh tôi thành ‘tên phản cách mạng không đội mũ cao’ đuổi tôi ra khỏi giới văn nghệ. Phái ‘tạo phản’ và tay chân của ‘lũ bốn tên’ dán lên mấy nghìn tờ báo chữ to (đại tự báo) về tôi, thậm chí còn dán biểu ngữ ngay trên đường cái nói tôi là ‘quân bán nước,’ ‘phản cách mạng,’ cho tôi là thối tha. Trương Xuân Kiều tuyên bố công khai không cho tôi sáng tác nữa.” (Tôi Và Văn Học). “Nghĩ lại những ngày ấy... tôi vẫn rùng mình rởn gáy. Tôi cảm thấy rành rành rằng tấm lưới xung quanh tôi ngày càng thít lại, mỗi tuần lễ một ghê gớm hơn”...”Nực cười là tôi cũng cho nhân quyền là thứ của giai cấp tư sản, còn hạng ‘yêu ma quỷ quái’ như chúng tôi không có tư cách hưởng những thứ ấy. Lúc đó sống một ngày dài bằng cả năm, còn bụng dạ nào mà cười? (Về Nói Thật. Bài Thứ Ba). “Tôi không giấu là nhiều lần tôi bị phái ‘tạo phản’ lôi lên bục bắt ‘ngồi máy bay phản lực’; tôi cúi đầu nhận tội, diễn đủ các trò hề! Có lần, tôi và một ông bạn nhà văn già phải quỳ trên sàn hội trường phân hội Liên hiệp các nhà văn để tiếp thu những lời phê phán ‘phần tử cuồng loạn’ của bọn học sinh “cách mạng.” (Vô Đề)
Không phải chỉ có Ba Kim bị hạ nhục. Vào thời kỳ đen tối ấy những công thần của cách mạng như Lưu Thiếu Kỳ, Trần Nghị, Đặng Tiểu Bình, Chu Đức, Bành Đức Hoài, Trần Vân... cũng phải gục đầu quỳ gối trước các tiểu tướng Hồng vệ binh.
Nhưng đó là những nhà chính trị. Họ có thể chịu nhục nhiều, và nhiều lần, hết ra lại vào Trung Nam Hải, miễn thực hiện được mục đích. Trí thức không giống họ. Trí thức là những người không có da dầy, rất mẫn cảm với mọi tác động từ bên ngoài. Cách mạng vô sản chưa kịp tiêu diệt họ thì nhiều người trong bọn họ đã tự diệt mình rồi. Ba Kim kể: “Dĩ Quần (7) là người thứ nhất. Nghe nói, anh nhảy lầu ngày mồng hai tháng tám, nhưng cho đến hôm nay (8) tôi vẫn chưa biết rõ anh bị bức phải nhảy lầu như thế nào. Tôi chỉ biết anh bị người ta bức tử với tội ‘không cần có chứng cứ’... “Dĩ Quần chết một tuần rồi tôi mới hay tin, còn như Lão Xá ‘vỡ ngọc’ (9) thì một thời gian lâu sau khi ông tự sát.” Những người tự sát chưa chắc đã là những người hèn nhát. Phó Lôi, một người bạn mà Ba Kim mến phục, giải thích cái chết của bạn bè, và của chính mình, bằng câu: “Kẻ sĩ, có thể giết, không thể làm nhục.” Sau Dĩ Quần, Lão Xá, Ba Kim được tin Trần Đồng Sinh, Kim Trọng Hoa... “họ ở rất gần nhà tôi, thế mà tôi không biết họ chết vào lúc nào. Kim Trọng Hoa lặng lẽ treo cổ trong phòng, bà mẹ tám mươi chỉ nghe tiếng ghế đổ... Trần Đồng Sinh, thì nghe nói chết nằm vắt trên bếp ga, do đó người ta đoán anh tự tử. Nhưng anh đang ở trong thời kỳ ‘cách ly kiểm tra’ mà, làm sao có thể mở bếp ga được?” (10) (Hai Mươi Năm Trước). Cù Bạch Âm chỉ vì một bài “Tự bạch về đi tìm cái mới” mà “chịu đủ mọi nỗi giày vò như ở địa ngục,” kết thúc bằng cái chết bi thảm (Tìm Tòi).
Ba Kim viết: “Trong Văn Cách (11) , những trí thức bị chết oan đâu chỉ có hàng ngàn, hàng vạn. Họ nêu cao tấm gương phê phán cái triết lý ‘hãy cứu lấy mạng sống.’ Tôi nhớ thời chống phái hữu (12), tôi có viết một bài báo bác lại luận điệu ‘không thể làm nhục’ để đập tan bộ mặt kiểu cách của các nhà trí thức. Viết bài đó kỳ thực là tôi ‘cứu lấy mạng sống của tôi’ ” (13)  (Hai Mươi Năm Trước).
Những trí thức tìm đến cái chết nhiều phần vì không chịu bị làm nhục, bị dày vò quá sức chịu đựng về thể xác. Trong gia đình Ba Kim, chính ông bị bắt quỳ hằng giờ trên sàn đấu, bắt “đi máy bay phản lực,” (14) Tiêu San, vợ ông, bị bọn “tạo phản” quất dây da bịt đồng vào mặt, hành hạ bà đủ trò trước khi bà nhắm mắt vì bệnh ung thư (tháng 7.1972). Con cái Ba Kim bị đẩy đi công tác nông thôn, ở tít tắp những nơi gọi là vùng sâu vùng xa. Gia đình nào vướng vào vòng Đại cách mạng văn hoá vô sản thì số phận cũng tương tự như vậy. “Tôi nghe người con dâu đồng chí Chu Tín Phương kể lại: bà Chu trước khi mất thường bị bọn đầu gấu lôi ra làm quả bóng xô đi đẩy lại, đến nỗi mình mẩy mềm nhũn. Có người khuyên bà trốn đi, bà nói: “Tôi mà trốn đi thì chúng nó lại hành hạ ông nhà tôi như thế thôi mà” (Thương Nhớ Tiêu San). Nhà văn nổi tiếng Lão Xá cũng bị đánh cho tơi tả, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, không hề nương nhẹ với kẻ chân yếu tay mềm. Vợ Lão Xá kể: “Tôi không thể nào quên được trong đêm khuya đã tự mình lấy bông thấm nước, lau từng chút một những vết máu trên đầu, trên mình người thân của tôi như thế nào, mà không rõ chuyện này ở đâu, tại sao lại ra nông nỗi ấy... ” (Lão Xá).
Đến như thân sinh nhà văn Giả Bình Ao (mới nổi tiếng sau này), chỉ là một thầy giáo làng (một trí thức cấp thôn xã) thôi, không biết cứng đầu thế nào mà cũng bị trấn áp, gia đình tan nát. Giả Bình Ao cho một nhân vật của ông kể về những ngày ấy: “Ba năm trước, nổi lên một cơn gió, phải học tập Tiểu Cận Trang, kéo hết người ở ngoài đồng về, suốt ngày môi đỏ răng trắng nói a, hát a. Anh nhà tôi cáu kỉnh nói trước hội nghị xã viên: ‘Nông dân mình bới đất kiếm cơm, khua môi múa mép làm gì? Ăn ngũ cốc không tiêu được hay sao mà bày ra cái trò vớ vẩn ấy,’ hôm sau liền bị bắt. Trong trại giam họ đánh đập anh ấy, đánh gãy cả chân, vết thương bị nhiễm trùng, rồi anh ấy chết.” Trong chuyện, người vợ kiên trì minh oan cho chồng, rốt cuộc bị các quan cấp xã cấp huyện trù dập, bị xã trưởng hiếp, tự tử mà chết.
Đấy là cái mà cách mạng vô sản mang đến cho trí thức, lớn cũng như bé. Sau này, mọi tội do Đảng cộng sản gây ra trong Đại cách mạng văn hoá vô sản đều được vẫn cái đảng cộng sản ấy đổ tuốt tuột vào cái thùng rác tiện lợi là phái “tạo phản.”
Nhưng không phải mọi trí thức đều tuẫn tiết. Phần lớn trí thức không làm thế. Không phải họ không có dũng khí. Cũng không phải họ không biết chán chường. Một trong những lý do khiến họ phải cố gắng sống sót là họ đã ăn phải “cháo lú” (từ của Ba Kim).
Ba Kim tâm sự: “Những ngày
ấy, cuộc sống ấy, quan hệ ấy giữa con người và con người, thật là đen tối quá chừng, giống như đang chịu tội giữa địa ngục vậy. Tôi lấy làm lạ, bấy giờ tôi đã ăn cháo lú gì mà có thể giơ hai tay lên, hô to đả đảo mình, cam lòng nhận tội, để cho kẻ khác tước đoạt quyền làm người của mình”. “Không phải là tôi đang nói mê. Năm 1966 quả thực tôi đã làm thế. Cháo lú đã làm tôi mê suốt mười năm. Năm 1983, nó lại định đưa tôi vào cảnh mộng một lần nữa, nhưng cái phép quỷ quái quen thuộc đã mất tác dụng làm cho tôi lú lẫn lần nữa” (Hai Mươi Năm Trước).
Sao mà giống những gì xảy ra ở Bắc Việt Nam đến thế! Hãy nhớ lại thời kỳ cải cách ruộng đất mà xem. Có phải là như thế không?
Nói cho đúng, sao mà Bắc Việt Nam giống Trung Quốc đến thế!
Ở Việt Nam, trong những cuộc chỉnh huấn bắt đầu từ năm 1950 (sau khi biên giới Việt Trung được khai thông) và kéo dài nhiều thập niên sau, cứ thỉnh thoảng lại nổi lên một đợt, hiện tượng ăn phải “cháo lú” cũng y hệt ở Trung Quốc. Người ta tự hành hạ mình bằng cách tự kiểm thảo, không phải là nhìn lại quá khứ để rút kinh nghiệm, mà là tự nói ra những khuyết điểm trước Đảng, có nghĩa là trước cấp trên, theo cách biểu diễn, bằng một sự thành khẩn không thể tin được, tức là thổi phồng những khuyết điểm ấy càng lớn càng tốt, rồi tự xỉ vả bằng những lời lẽ xúc phạm nặng nề nhất, thậm chí bịa đặt ra những tội lỗi mình không hề có, tự mình đả đảo mình (cũng giống như Ba Kim ở Trung Quốc). Đi xem phim Bạch Mao Nữ (Cô Gái Tóc Trắng), người ta bắn lên màn ảnh khi thấy hình tên địa chủ xuất hiện. Đi xem kịch người ta ném đá vào diễn viên đóng vai cường hào. Tất cả những cái đó được nhập cảng ồ ạt từ Trung Quốc đỏ. Thứ “cháo lú” này tôi đã được thấy tác dụng của nó như thế nào. Khi một đám đông đã ăn phải “cháo lú” tức thì xuất hiện sự “lên đồng tập thể.” Con người bỗng chốc mất hết tính người, tính thú nổi lên. Cuộc tổng đàn áp, tổng giết chóc, không cần tới tay những người cộng sản nữa, dân chúng tự giết lẫn nhau là đủ.
Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, về đại thể, mức độ tàn bạo của những cuộc “vận động” cách mạng do đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quả có thấp hơn ở Trung Quốc nhiều, quy mô quả có hẹp hơn nhiều. Đơn giản vì Bắc Việt Nam là nước nhỏ, cái gì ở đó cũng chỉ “tiểu” thôi, chứ không thể “đại” (ở Trung Quốc đã Nhảy Vọt rồi người ta cũng phải thêm Đại vào cơ, cho nó oách).
Khốn thay, số phận con người thì ai cũng như ai, cách mạng đại hay cách mạng tiểu thì cũng thế, mỗi con người chỉ có vỏn vẹn một cuộc đời để mà sống, người Trung Quốc cũng y như người Việt Nam, chẳng có gì khác nhau. Bi kịch cho một con người lớn chẳng kém bi kịch của số đông chút nào, có khi còn lớn hơn. Bởi một con người là cái cụ thể, cái thấy được, cái biết được, rõ ràng hơn bất kỳ con số thống kê nào. Có người sẽ bảo: dân Trung Quốc hơn một tỉ, Đại cách mạng văn hoá vô sản có làm chết đến mươi triệu không mà rộn? Mà có chết mươi triệu hay hơn nữa thì cũng chưa tới một phần trăm cơ mà. Xin thưa: một con người ở trong con số một triệu, hay mười triệu, vẫn là một người như tôi với ông đây này, có vợ có con, có mẹ có cha, có bằng hữu, có thân thuộc, có niềm vui nỗi buồn, có đau thương, có hạnh phúc..., có tất cả những gì thuộc về con người “không xa lạ với tôi,” nói theo cách của Mác. 
*
Hồi trước, khi còn ở trong nước, cứ mỗi khi sơ kết hoặc tổng kết một đợt học tập do đảng chủ trương, thì cán bộ phải viết thu hoạch, tức là viết ra giấy những gì mình đã học được. Tôi bỗng nảy ra ý muốn viết ra cái thu hoạch của tôi sau khi đọc Tuỳ Tưởng Lục.
Vậy, tôi đã thu hoạch được gì? 
Một là, xã hội cộng sản vốn thù nghịch đối với trí tuệ. (15)  Mọi thứ trí tuệ khác, ngoài chính trị, chỉ có thể tồn tại với điều kiện làm tay sai trọn vẹn cho chính trị. Tay sai mà không trọn vẹn cũng không được, phải loại trừ. Các đảng cộng sản (16) đều chủ trương như thế, nhất quán là thế. Từ đây mà ra khẩu hiệu “chính trị là thống soái.” Tức là chính trị đứng trên tất cả, chỉ huy tất cả. Bất cứ cái gì cũng phải ở dưới chính trị, làm tay sai cho chính trị, gọi thì dạ, bảo thì vâng. Đàng sau cái khẩu hiệu về địa vị ấy là quyền lực thực sự của đảng cộng sản nói chung, hoặc của một lãnh tụ hay một nhóm lãnh tụ nói riêng. Không một kẻ nào khác được phép len chân vào đấy. Trí tuệ không là cái gì hết. Đảng là ánh sáng soi đường, là lương tâm, là trí tuệ của dân tộc, của nhân loại. Đảng độc tôn mặc sức muốn làm gì thì làm. Không kẻ nào được cãi lại. Thậm chí không được rón rén phát biểu ý kiến khác với những điều đảng đang nói (bởi vì lúc này đảng nói A lúc khác đảng nói B, không biết đàng nào mà lần). Cứ nghển cổ lên mà đánh hơi, rồi tha hồ tự do phát biểu ý kiến theo kiểu gió chiều nào theo chiều ấy. Trong một xã hội khép kín như thế, đảng cộng sản có làm điều gì sai đến mấy thì cả xã hội cũng phải chịu. Không ai được cãi lại. Người dân không còn quyền gì khác ngoài quyền được cúi đầu vâng lệnh và xưng tụng công đức kẻ cai trị. Cũng từ đây mà ra cái sự tung hô chủ nghĩa Mác-Lenin là vô địch, là bách chiến bách thắng, là chân lý vĩnh cửu, tồn tại muôn đời. Nền chuyên chế được thiết lập thì cũng là lúc lưỡi gỗ lên ngôi. Khi toàn bộ phương tiện truyền thông lưỡi gỗ được vận dụng hết công suất để phục vụ kẻ cai trị thì người dân ắt bị đẩy vào tình trạng mụ mẫm.
Về tình hình này, Ba Kim tả: “Nhưng tôi năm 1970 và tôi năm 1967-1968 không còn là một người nữa. Từ tháng 9 năm 1966 trở về sau, dưới sự uy hiếp và lãnh đạo bằng roi da của phái ‘tạo phản,’ tôi hoàn toàn suy nghĩ bằng đầu óc người khác; người khác gào ‘Đả đảo Ba Kim!’, tôi cũng giơ tay hưởng ứng.” “Càng nghĩ càng thấy phái ‘tạo phản’ nói phải, càng nghĩ càng thấy mình có tội. Nói tôi là ‘hứa tử hiển tôn’ của giai cấp địa chủ, tôi thừa nhận. Nói tôi viết Dòng Nước Xiết là ‘dựng bia, lập truyện’ cho giai cấp địa chủ, tôi cũng thừa nhận. Năm 1970, chúng tôi xuống lao động ở nông thôn ba năm, bị lôi ra ruộng để cùng bị đấu với địa chủ ở đó, tôi cũng cúi đầu nhận tội.””Năm 1967 trở đi, tinh thần và diện mạo tôi khác hẳn. Trong tâm linh tôi có cái gì tích lũy được từ trước tôi bỏ sạch. Tôi ưỡn ngực tiếp thu vô điều kiện mọi chỉ thị của phái ‘tạo phản.’ Về sau tôi tự phân tích nói là ăn phải bùa mê thuốc lú, tôi bị thôi miên, nên không hay biết gì nữa. Kỳ thực tôi chưa đào sâu đấy thôi. Trong khoảng hai năm ấy, những
những khi tôi thành khẩn bái mộ thần linh, bên tai tôi lúc nào cũng văng vẳng một tiếng nói nhân từ :’Tin thần linh thì cả nhà sẽ được cứu.’ Nguyên thuỷ chung tôi vẫn giữ trong đầu cái triết lý ‘bảo toàn tính mạng.’ Lúc ấy, tôi cho rằng mình có tội thì cách chuộc tội là thật sự cải tạo, cách cải tạo là cứ thực hiện đúng từng câu mọi huấn thị, mệnh lệnh, quyết nghị của phái ‘tạo phản’.” (Mười Năm, Một Giấc Mộng). Món “cháo lú” được nấu theo đúng tinh thần “chính trị là thống soái” đem đến kết quả là thế. Một tình hình tương tự người Việt Nam đã được thấy trong cải cách ruộng đất, ở cuộc vận động trí thức và các thứ đám đông khác đánh “hội đồng” nhóm “Nhân văn - Giai phẩm.” Cái khác là nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” còn dám nho nhoe đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ,” chứ Ba Kim và nhiều người bạn ông chưa kịp đòi gì. Trường hợp của Ba Kim chắc cũng giống như trường hợp Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo... và một số trí thức khác. Tuy không thuộc nhóm “Nhân văn - Giai phẩm,” nhưng đảng cầm quyền cũng tiện thể đánh luôn.
Cái sự trấn áp bằng bất cứ phương tiện gì, bằng bất cứ giá nào đối với những trí tuệ không giống mình, được gọi một cách miệt thị là ngoại lai, tạo ra bùa mê thuốc lú cho cả xã hội. Xét đến cội nguồn của nó ta thấy đó chính là sự sợ hãi của nền chuyên chế đối với trí tuệ. Nếu trí tuệ sống thì quyền lực độc tôn không thể tồn tại. “Kẻ nào suy nghĩ khác ta, kẻ đó chống lại ta,” đó là lời Lê Duẩn. Nhưng đó cũng là chủ trương của mọi chế độ độc tài chuyên chế, phát xít hay cộng sản thì cũng vậy. Mặc dầu bị ăn “cháo lú”, nhà văn Ba Kim có lúc cũng tỉnh ra. Ông viết: “Những người cho chúng tôi là nô lệ, cầm roi da huơ huơ trước mặt chúng tôi, thật ra chúng chẳng có cái quái gì hết! Chúng không biết ngày mai chúng sẽ ra sao nữa. Có lẽ có người thấy tôi nghĩ như thế cho là kỳ quặc. Thật ra cũng dễ lý giải thôi. Mấy mươi năm tôi viết sách làm văn, cuối cùng còn có được một chút ‘trí thức’; bây giờ thì tôi biết rõ vì sao ‘lũ bốn tên’ hận thù ‘trí thức’ làm vậy! Dù chỉ với một chút ‘trí thức,’ ‘mày’ cũng còn thấy được khe hở của ‘tao,’ huống chi là ‘phần tử trí thức,’ huống chi là kẻ có văn hoá!” (Mười Năm, Một Giấc Mộng). Có coi mọi người dưới quyền cai trị của mình là nô lệ thì mới có tình trạng “Trương Xuân Kiều tuyên bố công khai không cho tôi sáng tác nữa,” là Ba Kim hết được viết. Trương Xuân Kiều không cần phải là trí thức giỏi hơn, sáng suốt hơn Ba Kim. Trương Xuân Kiều chỉ cần là Đảng.
Trong Tuỳ Tưởng Lục, như nhận xét ở trên, Ba Kim còn chưa dám nói thẳng điều ông nghĩ. Ông ngần ngại, ông do dự. Bởi vì ông vẫn còn nằm trong vòng kiềm toả của chế độ. Ông còn sợ, nói thẳng ra là như thế. Nhưng ta chỉ cần thay “lũ bốn tên” bằng “chế độ hiện hành” là bức tranh xã hội mà ông vẽ ra trong Tuỳ Tưởng Lục lập tức có đủ màu sắc chân thực, sinh động. Gần đây có tin nhà cầm quyền Trung Quốc định đúc tượng đồng của ông trong lúc ông còn sống. Phải chăng đó cũng là cách để cho Ba Kim ngậm miệng?
Nhà cầm quyền một xã hội như thế, bất kể ở nước nào, không chỉ sợ những “tư tưởng thù địch” hiện đại, mà cả những nhà tư tưởng cổ xưa. Hãy xem báo Tiền Phong, số ra ngày 16.8.1973 tại Hà Nội (tức là trong lúc Đại cách mạng văn hoá vô sản còn đang hoành hành ở Trung Quốc) với bài: “Quét sạch những tàn dư tệ hại của Khổng giáo” thì thấy. Bài báo viết: “... cần phải khẳng định dứt khoát rằng: lễ giáo phong kiến, đặc biệt là lễ giáo Khổng tử, không có một chút nhân tố tích cực nào nữa... Chúng chỉ là những xiềng xích những độc hại... Là thế hệ thanh niên của thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta đang sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải bảo vệ sự sáng tạo của chủ nghĩa Mác — Lênin. Chính vì thế mà chúng ta không thể dung hoà được với Khổng giáo cùng với hệ tư tưởng phản động và tư tưởng bảo thủ của nó. Vì sự nghiệp cách mạng, chúng ta phải kiên trì đấu tranh để quét sạch nó ra khỏi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như quét sạch những đống rác vậy.” Tác giả Nguyễn Thanh Dương, tổng biên tập báo, dưới tên ký là Thanh Bình, đã viết đúng như thế. Khi có người hỏi tại sao ông ta lại đánh cả Khổng giáo, thì Nguyễn Thanh Dương trả lời: “Tôi viết theo chủ trương của trên. Tôi chỉ làm nhiệm vụ mở đầu, các báo và tạp chí khác đang được lệnh viết tiếp. Đây là một chiến dịch do trên chỉ đạo đấy...” (17)
“Trên” ở đây là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ. “Trên” của “trên” là Quang Minh Nhật báo ở bên Tàu. Tờ này đăng một bài với nội dung y hệt, nhưng sớm hơn tờ Tiền Phong ở Việt Nam ít ngày.
Với những người cầm quyền như thế, chỉ có một tư tưởng được phép sống, được toàn quyền thống trị, là tư tưởng Mác-Lê, hay, lại nói cho đúng hơn, tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Lê Duẩn, hoặc, lạy Chúa tôi, tư tưởng Nông Đức Mạnh... 
Hai là, xã hội cộng sản là một xã hội trái tự nhiên. Bây giờ thì ai cũng biết rằng cái gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa là một sản phẩm thuần tuý tư biện, từ Mác. Nó không phải là một xã hội tự nhiên thành. Nói nôm, là một xã hội bịa đặt. Kể ra nghe cái luận điểm rằng loài người ngu tối trước kia chỉ biết cúi đầu chép sử, nay đã đến lúc nó đứng dậy tự làm ra lịch sử cho mình, thì khoái cái con ráy lắm. Khốn nỗi, tự nhiên có quy luật của nó, không phải muốn thế nào cũng được. Nước thì phải chảy xuôi. Thứ sản phẩm bịa đặt muốn tồn tại được phải nhờ vào dối trá. Thành thử trong cái xã hội đó kẻ cầm quyền phải thay đổi mọi khái niệm thông thường vốn có của loài người, tạo ra một hệ khái niệm khác hẳn để biện minh cho việc làm của nó. Không thể lấy sự hiểu thông thường vốn dĩ có ở các xã hội thông thường để hiểu hắn ta nói cái gì. Chẳng hạn, về tự do báo chí, theo cách hiểu của tổng bí thư Nông Đức Mạnh là: “Báo chí viết gì, nói gì, thông tin gì, bao giờ cũng phải vì lợi ích của cách mạng, của đất nước, của Đảng” (Nói tại Thông tấn xã Việt Nam, tháng 6.2003). Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam Vũ Văn Hiển trước đó cũng đã nhấn mạnh với các hội viên của ông ta: “Nếu nói đến tự do báo chí ở Việt Nam thì cần hiểu đó là việc tự do hoạt động để phục vụ Đảng” (báo Nhân Dân, 20.6.2002). Những lời nói như thế ở các xã hội thông thường chỉ có thể là những lời nói mê nói sảng. Trong một xã hội chuyên chế, mà xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội như thế, những định chế của nó chỉ còn cái tên là giống với những định chế của các xã hội khác, chứ chúng, hoặc rỗng ruột, hoặc được thay thế bằng nội dung khác hẳn, thậm chí trái ngược.
Trải qua Đại cách mạng văn hoá vô sản, Ba Kim than thở: “Nước chúng ta có Hiến pháp 1954, quyền công dân của tôi đáng ra phải được Hiến pháp bảo vệ. Hiến pháp ấy đã được toàn thể đại biểu bỏ phiếu thông qua, trong đó có lá phiếu của tôi... Nhưng đến khi đáng ra phải phát huy tác dụng của nó thì chúng ta chẳng ai tìm thấy nó ở đâu cả, phảng phất như nó chẳng hề tồn tại, hoặc giả là vô ích, không bằng báo chữ to. Hai mươi năm trước, tôi đã bị nhốt ‘chuồng bò’ như thế đấy. Hiến pháp đã mất tăm mất tích, nhân quyền bị dày xéo. Tôi giơ cao quyển ‘sách đỏ,’ (18)  đọc to ‘chỉ thị tối cao,’ đang là người biến thành súc vật, mặc cho người ta phanh thây, xé xác.”
Tội nghiệp cho Ba Kim quá! 
Ba là, xã hội cộng sản là một xã hội bất trắc. Nhìn bề ngoài, đôi khi người ta nhầm: cái xã hội ấy có vẻ ổn định đáo để. Lấy Bắc Hàn làm thí dụ. Ở đó không có lộn xộn — không đảo chính, không đình công, không biểu tình. Dân chúng im re, lúc nào cũng sẵn sàng rầm rập đồng ca những bài ca ngợi Kim tướng quân (tức là ông Kim Nhật Thành, Kim Bố), hoặc ca ngợi lãnh tụ vĩ đại (Kim Chính Nhật, Kim Con). Dân sống trong sự sáng tạo không ngừng, khi gần chết đói, họ phát hiện cỏ cho trâu bò ăn cũng muối dưa được, chẳng kém gì món Kim Chi. Cho đến khi hàng triệu người chết đói thực sự, xã hội Bắc Hàn vẫn “ổn định.” Khi thấy dân chúng Bắc Hàn không còn cái gì mà ăn nữa, có cơ nổi loạn vì đói quá hoá liều, thì lãnh tụ Kim Con bèn mang vũ khí nguyên tử ra doạ cả thế giới: “Chúng mày không viện trợ cái ăn cho nước ông thì ông cho nổ bom nguyên tử đây này.” Bom nguyên tử ở Bắc Hàn chưa chắc đã ném được ở đâu xa, điều chắc chắn là nó sẽ nổ được, ngay tại bệ phóng, ở trên đất Bắc Hàn. Nhưng như thế thì Nhật và Nam Hàn cũng đã lĩnh đủ phóng xạ. Trước lời đe doạ ấy chỉ có Trung Quốc là bình chân như vại, chắc còn tin ở lời dạy của Mao Xếnh Xáng: “Chiến tranh có thể làm chết vài chục triệu người Trung Quốc, nhưng bọn đế quốc rồi sẽ bại, Trung Quốc sẽ tất thắng.”
Xin đừng nghĩ rằng ở Bắc Hàn không có Hiến pháp, không có pháp luật. Nó có cả đấy, có hết. Chỉ có thừa chứ không thiếu.
Cái gọi là ổn định xã hội ở các nước gọi là xã hội chủ nghĩa, được thực hiện bằng dùi cui, về cơ bản là nhà tù, trước hết, và trong nội dung của nó, là ổn định quyền lực. Để ổn định một thứ quyền lực không hình thành bởi sự lựa chọn của các thành viên cùa xã hội, tức là dân chúng, thì không thể nào đặt ra được những định chế ổn định, mà phải thay đổi chúng xoành xoạch, đặng đối phó với mọi biến chuyển. Cái gọi là Hiến pháp mà Ba Kim tin rằng “đã được toàn thể đại biểu bỏ phiếu thông qua, trong đó có lá phiếu của tôi” thế tất chỉ có thể là bánh vẽ. Câu nói cửa miệng “chính quyền của dân, do dân, vì dân” (19) của các quan cách mạng không bao giờ được nhân dân coi là lời nói đứng đắn. Khi nhà cầm quyền — lúc này là đảng cộng sản, lúc khác là một nhúm người cơ hội nhân danh đảng cộng sản — thấy cần phải thay đổi, hoặc giải thích xuyên tạc điều này điều nọ trong Hiến pháp, thì nó chỉ cần ra một nghị quyết là mọi cái lại lộn tùng phèo. Cho nên mới có hiện tượng hôm nay Lâm Bưu - người học trò của Mao chủ tịch, người kế vị xứng đáng của Mao chủ tịch — ra mọi chỉ thị bắt cả xã hội tuân theo, được ca ngợi rầm trời, mai đã trở thành kẻ cầm đầu “lũ bốn tên” bị nguyền rủa hết nước hết cái. Chuyện Lưu Thiếu Kỳ, trong khi còn nguyên chức danh chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, “yên tâm” nằm dài dài trong ngục cho đến khi chết thối, là chuyện bình thường ở cái xã hội đó, nói gì đến Ba Kim.
Tôi có kinh nghiệm cá nhân trong chuyện này. Một năm sau khi Mao Trạch Đông khởi lên Đại cách mạng văn hoá vô sản ở Trung Quốc, Lê Duẩn chưa tuyên bố Tiểu cách mạng văn hoá vô sản, tôi lúc ấy chưa kịp chống đảng cộng sản, chỉ mới tỏ ra khó chịu với nó mà thôi, thì đã bị nó bỏ tù rồi. Chắc hẳn nó bỏ tù tôi là vì trong khi không bằng lòng nó, tôi đã trót dại nói ra ở đâu đó, với ai đó, mà nó biết. Thế rồi chẳng cần đối chiếu việc làm (ở đây là lời nói) có vi phạm Hiến pháp và pháp luật hay không, nó cho tôi ở chín năm liền tù tì hết nhà tù này đến trại tập trung khác, không cần xét xử. 
Bây giờ, trong nước Việt Nam ổn định, những công dân dám nghĩ tới tình trạng tụt hậu hiện tại và tiền đồ đen tối của đất nước, dám phát biểu đôi điều, đúng sai không cần biết, lập tức bị tống giam, rồi giải toà, xử án kín, hoặc không cần xử án. Tên của họ là: Nguyễn Đình Huy, Phạm Thái, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Viết Hoạt, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thích Tuệ Sĩ, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Giải, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Phạm Quế Dương, Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Vũ Cao Quận, Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang..., và rất nhiều người khác nữa.
Mà chẳng cứ những người có ý muốn hoặc đã có hành động đấu tranh cho dân chủ hoá cái xã hội trong đó mình đang sống mới phải nơm nớp lo sợ sự trấn áp có thể giáng xuống đầu mình bất cứ lúc nào. Ai cũng sợ. Không sợ là điếc không sợ súng. Hoặc ăn quá nhiều “cháo lú” nên tưởng tai vạ nào rồi cũng chừa mình ra. Bởi vì mình là người được đảng tin tưởng chẳng hạn. Ba Kim thú nhận ông đã từng có ý nghĩ như thế.
Đảng cộng sản sợ dân chủ hơn sợ ma nhiều. Đảng thừa thông minh để biết rằng dân chủ hoá xã hội có nhiều cách, nhưng cách nào rồi cũng dẫn tới kết cục bi thảm cho những kẻ quen ăn trên ngồi trốc nơi “đỉnh cao trí tuệ”. Kể cả cách móc nối hoặc tạo ra những chính khách nguỵ dân chủ để đánh lừa dân chúng trong bước đường cùng. Vì thế đảng cầm quyền phải tìm cách chống lại mọi biểu hiện dân chủ từ trong trứng. Cách chống tốt nhất là phải làm cho các công dân biết họ chỉ là những tù nhân dự khuyết.
Nhiều người chỉ nhìn thấy sức mạnh bạo lực của Đảng cộng sản mà không nhìn thấy nỗi sợ hãi được giấu kín sau bức bình phong dữ tợn của nó. Nó nói cứng đấy thôi, chứ trong lòng nó run rẩy. Nó sợ ảnh hưởng của những tư tưởng dân chủ đến nỗi trong tang lễ tướng Trần Độ, một công thần khai quốc của Đảng, nó trắng trợn cấm những người đi đưa không cho dùng hai chữ “vô cùng,” trong dòng chữ “vô cùng thương tiếc” gắn trên vòng hoa phúng điếu. “Thương tiếc” thì nó còn chịu được, chứ “vô cùng” thì không.
Dựa trên sức mạnh của bạo lực được trả lương để bảo vệ chế độ, nhà nước xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản sẽ còn tiếp tục đàn áp những công dân đòi dân chủ chừng nào nhà nước đó còn chưa trút hơi cuối cùng. 
Một xã hội phi nhân bản không vì con người như thế không thể có tương lai.
Bây giờ nói đến xã hội xã hội chủ nghĩa có thể phát triển tốt là người ta dẫn Trung Quốc ra. Trung Quốc quả đang có những bước tiến rất dài trong phát triển kinh tế, chủ yếu dựa vào biện pháp khuyến khích phát triển tư doanh, là cái mà trước kia họ chống đến cùng. Điều đó chẳng hề có nghĩa là nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi trên con đường xây dựng cái chủ nghĩa xã hội nọ (20). Vì chẳng ai nhìn thấy bóng dáng nó đâu ở chân trời tít tắp. Các ông Con Trời bèn khẳng định rằng đúng thế, ta chưa thấy được xã hội cộng sản bằng mắt thường, nhưng dưới sự lãnh đạo duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt của ban lãnh đạo đảng hiện tại, cái xã hội mơ ước ấy sẽ trở thành hiện thực sau... một thế kỷ. Tức là vào lúc chẳng có ai trong những người nói và những người nghe hôm nay còn sống. Bất cứ ông thầy bói tay mơ nào cũng có quyền phán một lời tiên đoán tương tự. Ấy là chưa kể ban lãnh đạo đảng hiện tại có bền vững lâu dài không, hay sẽ trở thành một “bè lũ ba tên” hoặc “bè lũ năm tên rưỡi” vào một lúc nào đó. Ai dám nói chắc? Chỉ biết rằng cái xã hội Trung Quốc bây giờ đang tiến nhanh được về kinh tế là nhờ cấu trúc lại cái xã hội chủ nghĩa què quặt theo mẫu cái xã hội tư bản mà các đảng cộng sản vẫn thường phỉ báng. Trong dạng thô sơ của nó, có tên gọi là tư bản rừng rú.
Điều mà chúng ta biết chắc là ở Liên Xô, chủ nghĩa xã hội đã tồn tại và phát triển đến mức cao nhất nó mà có thể đạt tới trong hơn hai phần ba thế kỷ, đã đưa Liên Xô trở thành một trong hai cường quốc lớn nhất thế giới, thế mà rồi sụm đổ như một “người khổng lồ chân đất sét” (từ của Lênin dùng để chỉ xã hội tư bản). Cái xã hội bị các nhà mác-xít coi là bất toàn hoá ra không phải là cái chứng minh cho sự tồn tại cái xã hội mà họ cho rằng hữu lý.
Con người là một sinh vật có tư duy. Cho dù có phỉnh nịnh, cưỡng bức nó ăn thứ “cháo lú” trộn lẫn với bạo lực, trước sau gì nó cũng sẽ suy nghĩ đến điều phải nghĩ ra.
Như Ba Kim đi đến kết luận cho cái xã hội mà ông đang phải sống:
“Chúng ta mở miệng ra là nói “xã hội mới,” nhưng cái xã hội mới ấy, chúng ta càng ngày càng không hiểu nó ra làm sao cả, càng ngày càng thấy nó dễ sợ. Bạn bè, người này tiếp người kia, bị quăng xuống vực thẳm trước tôi.”
“Và cả sau tôi nữa!”
Ông có nói thêm lời tiên đoán như vậy cũng không sai.
Chú thích 
(1) Hình như sau năm 1975 hậu quả của Đại cách mạng văn hóa vô sản cũng còn kéo dài đối với những trí thức bị trấn áp.
(2) Trích Mao tuyển
(3) Ba Kim phu nhân
(4) Hai thứ đấu này chưa được nhập khẩu vào Việt Nam, «bồi đấu» là bị đấu nhưng là đấu phụ, không phải là nhân vật chính của cuộc đấu ; «dạo đấu» là không phải bị đấu ở đơn vị sở tại, địa phương sở tại, mà đơn vị khác, hoặc địa phương khác mượn về đấu để «nâng cao lập trường.»
(5) Trường 7.5 là một thứ trại tập trung.
(6) Cụm từ này chắc chắn không có trong từ vựng của bất cứ ngôn ngữ nào.
(7) Có quá nhiều tên văn nghệ sĩ được Ba Kim nhắc tới. Họ đều là những người có tên tuổi trong nền văn nghệ Trung Quốc, nhưng ít được người đọc Việt Nam biết đến. Xin miễn chú thích.
(8) Tứ 20 năm sau.
(9) Ý nói chết.
(10) Ba Kim ngờ có cả nhiều trường hợp bị giết chết rồi đổ cho là tự sát.
(11) Đại cách mạng văn hóa vô sản.
(12) Một cuộc «đấu tranh» trước Đại cách mạng văn hóa vô sản.
(13) Ba Kim viết rất thực tâm trạng của ông, cũng là tâm trạng nhiều trí thức xã hội chủ nghĩa khác.
(14) Ba Kim không miêu tả kiểu nhục hình này. Có thể đoán là bị treo lơ lửng.
(15) Nói cho chính xác hơn : xã hội theo chủ nghĩa cộng sản, chứ nó chưa phải/không phải là xã hội cộng sản, theo định nghĩa của chính Mác; ở đây ta tạm gọi thế cho tiện, đỡ tốn chữ.
(16) Đây là nói về các đảng cộng sản đã nắm được chính
nắm được chính quyền.
(17) Tạp chí Xưa và Nay, số 149, tr. 14
(18) Chỉ cuốn «Mao tuyển» (trích những lời của Mao Trạch Đông), một thời là Kinh thánh của các công dân Trung Quốc, đi đâu cũng phải mang trong túi ngực bên trái (không được để ở túi quần). Ba Kim cũng vậy.
(19) Câu nói nổi tiếng này là của tổng thống Mỹ Lincln sau trận đánh lớn ở Gettysburg (1863), chứ không phải của cán bộ cộng sản nào.
(20) Ngày 28.12 Trung Quốc loan tin họ sẽ kỷ niệm long trọng 110 năm ngày sinh của Mao Trạch Đông, với rất nhiều album nhạc, sách báo nói về công trạng của «Người,» tác giả chính của Đại cách mạng văn hóa vô sản. Cái con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa sau một trăm năm còn đầy những hiểm họa, biết rồi mà không tránh, hoặc không thể tránh.
(Trích từ tạp chí THẾ KỶ 21 số 183, July 2004)

aturday, May 27, 2017


NGUYỄN THỊ THANH BÌNH * EM CÓ BAO GIỜ ĐƯỢC SỐNG

Em Có Bao Giờ Được Sống?



Nguyễn Thị Thanh Bình (Danlambao) - Đó là câu hỏi thống thiết dường như đang được đặt ra cho những phận đời cam chịu mong manh của từng con dân Việt. Đặc biệt là thứ bèo bọt hoa trôi của những người phụ nữ Việt Nam trong một đất nước vốn bị rao bán từng ngày.
Thật ra đối với một nhà cầm quyền chỉ giỏi bán miệng nuôi trôn và chuyên sống nhờ vào tuyên truyền xảo trá thì nghĩa lý gì tệ nạn buôn hương bán phấn, hay bán trôn nuôi miệng trong một xã hội đã đầy rẫy những tệ nạn như tham nhũng buôn chức bán phận, cùng những rình rập bất trắc khác.
Nhắc đến tệ nạn thì nhiều người lại nghĩ ngay đến vấn nạn mà chúng ta đang đối diện hiện nay trên đất nước này là gì, nếu không là làm thế nào để tìm đâu ra thứ ánh sáng cuối đường hầm mỏi mòn dài ngoằng như rặng Trường Sơn, để thổi dân khí và văn minh nhân loại cho dân tộc Việt. Chính thứ ánh sáng dân chủ, trong đó có cả nữ quyền nhân quyền đáng được tôn vinh đã bị thời đại… đồ đểu của C.S.V.N tha hóa con người đến tận mạng, khiến xứ sở không tài nào cất đầu lên nổi, và ngập chìm trong bóng tối.
Nhìn mà xem, chưa bao giờ phụ nữ Việt Nam bị lâm vào tình trạng bị bọt bèo rẻ rúng như bây giờ. Cái đớn đau đắng lòng ở đây là những người phụ nữ Việt đã phải “bôn ba” làm đĩ khắp bốn phương trời, hệt như thanh niên trai tráng Việt Nam chưa kịp làm rường cột nước nhà thì vì bao tử đói quá cũng phải chịu đẩy đi làm cu li xứ người với giá rẻ mạt và trăm cay ngàn đắng.
“Ơn chính phủ” đúng là đã hiếp dâm dân tình mình đến tận xương tủy của từng giọt xăng sưu cao thuế nặng, hay từng giọt lệ lưng tròng của không thiếu những số phận đàn bà Việt Nam bị môi giới hôn nhân mồi chài bán dọc theo đường biên giới. Dĩ nhiên chỉ để làm “cô dâu” theo nghĩa làm con sen và phục dịch tình dục mà thôi. Đó là chưa kể phụ nữ cũng như trẻ em Việt còn bị bán đi làm nô lệ tình dục, gái mãi dâm với con số gia tăng mỗi năm.
Ở đây chúng ta sẽ không bàn về tệ nạn buôn người, dù rằng theo thống kê của những đường dây buôn người thì cứ mỗi phụ nữ được bán đi thì mỗi con buôn có thể bỏ túi khoảng 100 triệu đồng.
Điều nhục nhã và đau xót cần được ghi nhận ở đây, là đã có khá nhiều trường hợp những người phụ nữ Việt Nam của chúng ta đã bị đưa bán sang Tàu rồi, mà lắm lúc còn bị cho trục xuất về nước, chỉ vì có cả khối lý do nằm trong lý do, nhưng chỉ cần viện lý do giấy tờ bất hợp pháp là bị đuổi về. Nghĩ không tủi nhục sao được, khi những “đấng” công dân Tàu khựa thì tha hồ nghênh ngang đi vào nước Việt như chốn không người và không cần “visa”, chưa kể có dạo còn hống hách đóng hình lưỡi bò trên tấm giấy thông hành, và bây giờ ở Nha Trang còn mọc lên những quán ăn “dám” cấm dân Việt Nam bén mảng đến và họ còn cho xài nhân dân tệ thì không thể hiểu nổi nhanh nhất là chỉ bao lâu Nha Trang sẽ thành một phố Tàu (?)
Ca khúc “Em Có Bao Giờ Được Sống?” ra đời bất ngờ từ mối đồng cảm sâu xa cho thân phận của những người phụ nữ Việt Nam, nên đã khiến nhạc sĩ Vĩnh Điện nhất định lồng ngay vào những nốt nhạc trầm buồn, kêu thương, tức tưởi. Tiếng hát của ca sĩ Bảo Yến vẫn rất truyền cảm, và chất giọng có khi nghẹn ngào nhưng vẫn tròn đầy âm sắc, đặc biệt luyến láy ở câu nhạc: “Thương thân mình tan nát, quê mẹ rao bán đủ điều.” Phần hòa âm theo nhịp chậm, của nhạc sĩ Quang Đạt vẫn không thiếu những réo rắt bồi hồi.
Không phải cũng khá lâu chúng ta mới được thả hồn cho một bài nhạc có vẻ như nhạc tình, nhưng vẫn thấm đẫm những xót thương cho quê hương. Khi ở đó, ở một nơi ai cũng gặp nhau và ai cũng phải ra đi chạy trốn quê hương.

25/5/2017

VIETTUSAIGON * GIẢI CỨU

Lại nói về “giải cứu”

Ở Việt Nam, giải cứu là một khái niệm nghe ra rất quen thuộc, nghe riết thành chán cả tai, từ giải cứu heo, giải cứu sầu riêng. Giải cứu vú sữa, giải cứu chuối ba hương, giải cứu dưa hấu, giải cứu bưởi, giải cứu lúa… rồi đến giải cứu muối, giải cứu chanh dây… Dường như sự giải cứu là một chuẩn mực anh hùng, chuẩn mực quân tử xã hội chủ nghĩa trong lúc này. Và nghe ra chính phủ, đảng và nhà nước rất chi là anh hùng trong chuyện giải cứu heo, giải cứu gà, giải cứu dưa hấu, giải cứu chanh dây, giải cứu bưởi, giải cứu sầu riêng… Có lẽ sống với anh hùng quá lâu, người dân trở nên yếu đuối và luôn mong được anh hùng giải cứu chăng?
Nhưng có rất nhiều dân oan mất đất, cũng là chuối nhưng chuối ở Hải Phòng bị chặt hạ hàng ngàn cây trong đêm, ngay vào vụ thu hoạch, sau đó giang hồ tiếp tục đe dọa người trồng chuối nhưng chẳng thấy ai giải cứu cả! Rồi hàng ngàn dân oan bị mất đất, kêu gào khản cổ giữa thủ đô Hà Nội, bị giang hồ (lại giang hồ, không hiểu giang hồ ở đâu ra mà lộng hành ngay giữa thủ đô, chẳng ma nào dám đụng vậy chứ?!) chèn ép, đánh đuổi, cũng chẳng có ma nào giúp họ một tay chứ đừng nói đến giải cứu! Đó là chưa nói đến hàng ngàn người dân bị bắt bớ, đánh đập trên biển bởi Trung Quốc, họ bị bắn giết, đánh đập, bắt bớ, cướp hết tài sản, cũng chẳng có ai giải cứu cho họ!
Sao lại có chuyện tréo ngoe, ngược ngạo như vậy? Vì đơn giản, giải cứu cho dân oan không nhưng không mang lại lợi lộc cho mối quan hệ Việt – Trung mà còn có khi làm ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Còn giải cứu chuối, giải cứu heo, giải cứu chanh dây hay kính thưa các loại giải cứu khác không liên quan đến con người đều là chuyện cứu mối quan hệ Việt Trung. Nói là giải cứu cho nông dân nhưng thực ra là giải cứu cho đảng thông qua giải cứu mối quan hệ bốn tốt mười sáu vàng này!
Vì sao? Vì nếu giải cứu cho ngư dân trên biển thì chắc chắn phải đụng độ với Trung Quốc, mà đụng độ với Trung Quốc thì chẳng khác nào đảng, nhà nước tự treo mồm, tự giết mình. Rồi chuyện dân oan mất đất, thử nhìn lại các dân oan đã mất đất vì đâu, vì ai? Hầu hết đất của người dân bị nhà nước hoặc cán bộ nhà nước tịch thu một cách bất minh hoặc giải tỏa, đền bù không thỏa đáng để biến thành món hàng của họ để rồi hoặc là xây dựng dinh thự của họ hoặc bán cho người ta xây dựng hoặc cho thuê, mà đối tượng thuê thường là người nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc. Cuối cùng, nếu giải cứu các dân oan thì khác nào tự phơi cái lưng ghẻ của mình, tự hại các đồng chí của mình. Và sâu xa hơn là hại cả những mối quan hệ mờ ám Việt – Trung trong chuyện làm ăn, khai thác, tận thu tài nguyên và vắt kiệt sức lao động của người Việt?
Chính vì lẽ này mà hầu hết tiếng kêu cứu của dân oan, của ngư dân, của những người thấp cổ bé miệng trong xã hội Việt Nam lọt thỏm giữa thinh không tuyệt vọng và tiếng ồn tiệc tùng của kẻ nắm quyền bính trong tay. Có thể nói rằng chưa bao giờ sinh mạng và danh dự cũng như vị trí/thế giá của người dân Việt Nam lại thấp như bây giờ. Ngược lại, bất kỳ loại nông sản nào có liên quan đến Trung Quốc đều được giải cứu, tiếng hô hào “giải cứu, giải cứu” nghe cứ rầm rầm như thể trời đang long, đất đang lở trên các trang báo nhà nước. Vì sao?

Lại phải hỏi vì sao để rồi trả lời vì ông anh Trung Quốc to con lớn xác, đụng điến là không chừng mất chế độ. Nên chi mọi thứ có liên quan đến ông Trung Quốc, cho dù là một thằng nhãi nhép buôn gian bán lận, lừa dối, bịp bợm với cái mác doanh nhân hay tư thương Trung Quốc dám qua Việt Nam để lừa bịp, thám thính, theo dõi, rình mò an ninh và thao túng, phá hoại, làm rối loạn thị trường Việt Nam để rồi nông dân Việt Nam phải than van, kêu rêu vì bị nó lừa. Nhưng nhà nước, chính phủ, thay vì trục xuất hắn ra khỏi biên giới hoặc nếu trầm trọng thì bắt nhốt thì lại không nói, không nhắc gì đến hắn, để rồi lại kêu gọi, năn nỉ hắn qua mua hàng trở lại.
Thực ra, nói là giải cứu nhưng nghe ra thì có vẻ như chịu đấm ăn xôi, chịu nhục hơn là giải cứu. Bởi chẳng có gì khác ngoài việc lãnh đạo Cộng sản Việt Nam phải thân chinh sang Trung Quốc, năn nỉ họ xài nông sản Việt Nam trở lại để “giải cứu” nông dân Việt Nam. Cuối cùng thằng nhãi nhép đội lốt doanh nhân hay nhà buôn kia lại trở thành ân nhân sau quá trình đầu cơ, gài bẫy và cho nông dân Việt sập bẫy. Cái thiên tài, cái anh hùng của nhà lãnh đạo Việt Nam là đây, là chỗ năn nỉ ỉ ôi kẻ đã sập bẫy mình sang cứu mình bằng cái bẫy khác nhỏ hơn tí chút!
Và vô hình trung, suốt mấy chục năm nay, khi mà nhà cầm quyền Việt Nam quyết định chọn Trung Quốc làm đối tác, làm đàn anh che chở chế độ, mọi thứ đều phụ thuộc vào Trung Quốc thì về phía người nông dân, dường như nông dân phải thụ động trong mọi vấn đề, càng ngày, người nông dân càng trở nên mù mờ, mụ mị, cứ nhắm mắt đưa chân mà sản xuất nông sản theo thời vụ, theo yêu cầu của nhà buôn Trung Quốc, không cần suy nghĩ gì về tương lai ngành nghề, về dân tộc tính hay về an toàn thực phẩm. Cứ nhắm mắt làm bừa cho đến khi thất bại vì bị Trung Quốc lật kèo thì lại kêu than, chờ nhà nước “gải cứu”. Và nhà nước lại năn nỉ Trung Quốc để giải cứu cho nông dân Việt Nam. Thực sự là không có lối thoát.
Và khái niệm giải cứu càng xuất hiện nhiều bao nhiêu càng cho thấy mức độ trầm trọng trong vấn đề vong nô của người Việt trước đồng tiền và kẻ lừa bịp đội lốt nhà buôn đến từ phương Bắc. Và càng kêu gọi giải cứu nông dân bao nhiêu, nhà cầm quyền càng chứng minh rõ hơn về sự bất lực và yếu kém của họ! Giải cứu, thật sự là Việt nam bây giờ cần một cuộc giải cứu rốt ráo!

SƠN TRUNG * NHỮNG MÂU THUẪN VÀ PHI LÝ CỦA CUỘC ĐỜI

NHỮNG  MÂU THUẪN VÀ PHI LÝ CỦA CUỘC ĐỜI
SƠN TRUNG




Pascal nói :" Je pense donc je suis." (Tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại).Thật vậy , con người hơn loài vật, người này hơn người kia là do suy nghĩ. Ai cũng biết suy nghĩ chỉ cao thấp khác nhau.

Cuộc đời phức tạp muôn nỗi.Mỗi không gian thời gian đều có quan điểm luân lý, thẩm mỹ, tôn giáo, chính trị... khác nhau. Blaise Pascal nói: “Chân lý ở bên này dãy núi Pyrénées, qua bên kia là sai lầm” (Vérité en deça des Pyrénées, erreur au delà). Bởi vậy mà những cái mà tư bản, quân chủ tôn trọng thì cộng sản đá phá hết, và những cái mà cộng sản tuyên truyền, cổ vũ thì phe tự do coi là tai họa cho nhân loại!

Lại nữa, sự vật phức tạp, to lớn mà con người chúng ta, con mắt chúng ta quá nhỏ. Chúng ta không có cái nhìn tổng thể, chúng ta chỉ có cái nhìn phiến diện đầy chủ quan, thiên lệch tùy theo vị trí của chúng ta. Đừng cười chuyện năm anh mù sờ voi. Năm anh mù đó là chính là chúng ta. Chúng ta nhìn sai, chúng ta nhìn đúng cũng không thành vấn đề vì chính sự vật thay đổi làm cho cái nhìn của chúng ta hôm qua khác với cái nhìn của ta hôm nay. Một số sự kiện phi lý và mâu thuẫn đã tồn tại trong thế giới chúng ta. Chúng tôi xin đưa ra vài sự kiện:


I. DÂN DA ĐEN BỊ BẮT LÀM NÔ LỆ
 Ngày 12 tháng 10 năm 1492, đoàn thám hiểm do Cristoforo Colombo làm trưởng đoàn đã đặt chân đến châu Mỹ. Theo lệnh của vua Fernando và hoàng hậu Isabel xứ Castilla và Aragón, đoàn thám hiểm đã xuất phát từ cảng Palos xứ Andalucía. Trong 2 tháng và 9 ngày sau đó, đoàn đã vượt qua biển Đại Tây Dương và đến một số đảo thuộc lục địa châu Mỹ, cụ thể là các đảo thuộc quần đảo Bahamas hiện nay. Khi trở về, Colombo đã thông báo cho châu Âu biết về sự tồn tại của một Thế giới mới. Trong những thế kỷ tiếp sau đó, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và cả Vương Quốc Anh cũng như Pháp, bên cạnh các cường quốc châu Âu khác, đã ra sức cạnh tranh để khám phá, chinh phục và thực dân hóa châu Mỹ, từ đó dẫn đến sự hình thành của nhiều dân tộc, nhiều nền văn hóa và quốc gia mới.
Sau đó, bọn thực dân xâm chiếm châu Phi.Tốc độ xâm chiếm làm thuộc địa của bọn thực dân phương Tây diễn ra rất mạnh: vào giữa những năm 70 của thế kỉ XIX mới có 10,8% đất đai bị chiếm, nhưng đến đầu thế ki XX con số tăng lên 90,4%. Hầu như toàn bộ châu Phi trở thành thuộc địa, chịu sự thống trị của thực dân phương Tây. Bọn thưc dân bắt dân châu Phi làm nô lệ đem sang châu Mỹ khai thác nông nghiệp.Khu vực săn bắt và buôn bán nô lệ da đen diễn ra chủ yếu từ bờ biển Sénégal đến duyên hải Angola ở Tây Phi.

Việc mua bán lô lệ trong giai đoạn đầu do người Bồ Đào Nha nắm giữ, sau khi thế lực Bồ Đào Nha ở châu Phi suy yếu, việc buôn bán nô lệ chuyển dần sang tay Hà Lan, Anh, Pháp… rồi Anh chiếm ưu thế. Đến năm 1770, một nửa số nô lệ từ châu Phi sang châu Mĩ do tàu thuyền Anh vận chuyển: hàng năm gần 50.000 người (Pháp hàng năm chở được 30.000 và Bồ Đào Nha – khoảng 10.000).

Số nô lệ từ châu Phi sang đến châu Mĩ chỉ còn sống được 1/2 sau khi tới nơi và bắt đầu một cuộc sống vô vàn khổ cực ở các đồn điền, hầm mỏ.Nạn buôn bán nô lệ da đen khiến Nam Phi mất đi khoảng 150 triệu dân.

Tuy vậy  từ thế kỷ XIX,  từ thời thực dân, người châu Phi vẫn tìm cách chạy sang Pháp. Sau đệ nhị thế chiến,  các nước thuộc địa dần dần giành được quy chế độc lập hình thức.Căm thù thực dân châu Âu, dân Phi Châu đã đi theo cộng sản. Cũng như Việt Nam,  họ đã theo Mao Trạch Đông và được Mao nuôi dưỡng.
Châu Phi cũng như châu Á là cái nôi của chiến tranh ý thức hệ, của nội chiến.  Một số dân Phi theo Nga, Trung Cộng nhưng không thấy họ đi du học hay di dân sang Nga và Trung Cộng, trái lại họ tìm cách trốn chạy sang châu Âu  tự do. Nhiều nhất là nươc Pháp.Trong khoảng năm 2000 cho đến nay, hàng trăm nghìn người chạy trốn xung đột, khủng bố ở Trung Đông và châu Phi đang mạo hiểm mạng sống để đến châu Âu, gây ra cuộc khủng hoảng di cư tồi tệ nhất kể từ Thế chiến II.
Theo số liệu của Liên Hợp Quốc, từ đầu năm tới nay, 300.000 người rời Bắc Phi và Trung Đông để vượt biển Địa Trung Hải trên hành trình tới "miền đất hứa" châu Âu. Con số này tăng 40% so với năm ngoái. Mỗi ngày, hàng trăm và có thể hàng nghìn người chọn cách tranh nhau lên tàu hoặc bám vào các thuyền nhỏ để vượt biên. Họ có thể trèo qua hàng rào ở Morocco để tới lãnh thổ Tây Ban Nha hay chen chân trong xe tải từ Thổ Nhĩ Kỳ hoặc lên tàu di chuyển khắp châu Âu.
Phần lớn di dân đến biển Địa Trung Hải bằng những chiếc thuyền cũ kỹ hoặc xuồng cao su. Đầu tiên, họ đến Hy Lạp, vì nước này gần một số nước có nhiều người di cư như Thổ Nhĩ Kỳ và Libya. Italy và đảo Lampedusa cũng là một điểm đến phổ biến.
Khi đến các điểm này, nhiều người di cư cố gắng đi qua tuyến đường bộ Balkan - một cuộc hành trình vượt qua nhiều biên giới. Nhiều người muốn di chuyển về phía Bắc, đến các nước như Đức và Thụy Điển, nơi đơn xin tị nạn có nhiều khả năng được chấp thuận.
Dù thế nào đi nữa, người Phi châu đã bị thực dân châu Âu bắt làm nô lệ đáng lẽ sau khi được tự do, họ phải quay về quê hương xứ sở, nhưng họ vẫn ở lại Âu Mỹ. Còn những người châu Phi tại bản địa, họ phải thù ghét Âu Mỹ, tại sao họ lại từ bỏ quê hương mà chạy đến Âu Mỹ? Một số thich Cộng sản, tại sao không chạy qua Nga hay Trung quốc?

II. DÂN CỘNG SẢN CHẠY SANG TƯ BẢN

1.DÂN LAO ĐỘNG XHCH

Nợ cha con phải trả. Cộng sản cha vay nợ thì cộng sản con và thường dân Việt Nam phải è lưng trả nợ. Sau 1975, Việt Cộng phải trả nợ Liên Xô. Họ đã trả nợ bằng nhiều cách nhưng rõ rệt nhất là xuất cảng hàng hóa sang Liên Xô và xuất khẩu lao động. Không phải ai cũng được vinh dự đi làm nô lệ. Chỉ có con ông cháu cha mới được tuyển làm nô lệ. Đừng bảo nô lệ là khổ. Nô lệ sướng lắm chứ. Cái thứ nhất là được đi ra nước ngoài mở rộng tầm mắt, đặc biệt là được đến nước Nga, kinh đô của thế giới cộng sản. Cái thứ hai là được mua hàng hóa nào quạt điện, xe đạp, xe gắn máy, nồi áp suất gửi về Việt Nam bán lời khẳm! Người động phải nộp khoảng 20% tiền công cho đảng bóc lột và nhiều tiền khác nữa nhưngvẫn còn dư chút đỉnh còn hơn ở trong nước tiền lương mỗi tháng ăn được mười ngày!
Ấy thế mà đùng một cái bức tường Bá Linh sụp đổ, Đông Âu và Liên Xô tan tành, các lao động Việt Nam đua nhau bỏ thiên đường Cộng sản mà chạy sang tư bản. Tại sao con ông cháu cha mà không trở về Việt Nam xây dựng XHCN mà lại chạy theo bọn tư bản? Bọn "ngụy quân ngụy quyền" đã bị Cộng đảng kết tội bán nước chạy theo đế quốc Mỹ đã đành nhưng con em đảng viên cao cấp, tay sai Liên Xô, Trung Quốc sao không chạy sang Liên Xô Trung Quốc mà cũng chạy theo đế quốc?

RFA nhận định:"Làn sóng di dân khác nữa của người Việt trong 4 thập niên mà ngày càng có chiều hướng gia tăng mạnh đó là cuộc trốn chạy xin tị nạn của du học sinh và công nhân xuất khẩu lao động khi khối Cộng sản Đông Âu sụp đổ. Số liệu không chính thức Đài ACTD thu thập được vào thời điểm đầu thập niên 1990 có khoảng 300 ngàn người sống rải rác ở Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Đông và Tây Đức… Số liệu mới nhất cho thấy nhiều gia đình ở các quốc gia này gồm đủ cả 3 thế hệ, trong đó có gia đình lên đến 80 thành viên".
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/dream-of-residing-abroad-after-vn-war-ended-04072016111841.html

Chạy theo đế quốc và tư bản nhưng cà cuống chết đến đít vẫn còn cay. Bỏ đảng, bỏ bố mẹ, chạy sang tư bản mà vẫn máu lắm,vẫn hoan hô Hồ Chí Minh, vẫn tự hào đảng bách chiến bách thắng, và chửi mắng bọn "ngụy quân ngụy quyền" ở Tây Đức là bọn phản quốc! Tại Đức, đến một lúc chính phủ Đức đòi trả lao động Việt về Việt Nam. Các ông đảng lại được dịp vòi tiền. Họ đòi Đức phải trả tiền thật nhiều thì họ mới đem con họ về! Việt Cộng giống Trung Cộng, trong vụ "nạn kiều", Trung Cộng không chịu đưa dân họ về nước.

Trong khi bố đòi tiền thì con không cam tâm về làm giai cấp công nông lãnh đạo, đã tìm cách ở lại. Họ bày trò chống cộng,tự xưng là nạn nhân cộng sản, không thể về nước, vì về nước là bị bố nó làm thịt... Một số ra báo chống cộng bằng lý luận nửa nạc nửa mỡ "thông tin đa chiều", nghĩa là đi nước đôi, ca tụng cộng sản đã đành mà chửi cộng sản nghe cũng hay! Khi thấy tạm yên, họ đóng cửa báo, ra cái điều bị Việt Cộng phá bĩnh!Cái đám luật sư được chúng cúng tiền, cũng đứng ra xin xỏ. Dân Đức nhìn thấy rõ tim đen bọn này cho nên Trong mắt người Đức, người Việt chỉ là lau nhà, quét dọn, làm quán và tìm mọi thủ đoạn để ở lại
  http://forum.sividuc.org/threads/167/

Tại sao họ không về nước theo  cha anh họ lãnh đạo đảng quang vinh ? Họ về nước cũng ăn trên ngồi trốc chứ đâu nỗi phải làm cu li cu leo đâu mà sợ, thế mà sao họ không về?
2. DÂN TRUNG CỘNG

Theo báo New York Times số ra ngày 18 tháng 12 năm 2011 thì con số các nhà đầu tư với vốn trên 500.000 đô la đã tăng gần gấp bốn lần trong hai năm qua, với trên 3.800 người trong năm tài chính 2011. Con số các nhà đầu tư nạp đơn xin đầu tư tại Mỹ tăng nhanh chóng đến nỗi chính quyền Obama đang tìm cách cải thiện thủ tục cứu xét các đơn đầu tư loại này. Trước đó vào cuối tháng 9 năm 2012, Tổng thống Obama đã ký ban hành luật S.3245 gia hạn chương trình cấp Visa EB-5 cho các Trung tâm Vùng Thí điểm thêm 3 năm nữa sau khi Luật này được hai viện Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào trung tuần tháng 9
http://www.voatiengviet.com/content/cap-the-xanh-cho-nhung-nha-dau-tu-tu-500000-do-la-vao-hoa-ky/1580602.html

Đài BBC cũng loan tin tương tự:
Chiếu khán lao động
Các doanh nhân, dù là nhờ có các mối quan hệ hay chỉ đơn thuần là do tham nhũng, bất kể họ làm giàu bằng cách nào thì cũng đang có những bằng chứng ngày càng nhiều cho thấy giới siêu giàu Trung Quốc nay đang tìm cách thoát đi.

Tại một cuộc hội thảo tổ chức tại một văn phòng sang trọng với tầm bao quát ra thành phố Thượng Hải rất đẹp, các doanh nhân Trung Quốc với mức dự tính chi ra ít nhất là nửa triệu đô la được khuyến khích đầu tư vào kinh tế Hoa Kỳ.
Lượng người Trung Quốc muốn đến Mỹ theo con đường đầu tư ngày càng tăng.
Chương trình chiếu khán EB-5 là chương trình đầu tư-để-định cư, cấp thẻ định cư cho các trường hợp đầu tư tạo việc làm cho ít nhất 10 lao động.

Trong năm 2006, chỉ có 63 visa loại này được cấp cho các công dân Trung Quốc. Năm ngoái, con số này nhảy vọt lên 2.408 và trong năm nay con số này đã vượt quá 3.700.
Điều đó có nghĩa là làn sóng tiền từ Trung Quốc đang đổ vào các dự án cơ sở hạ tầng tại Hoa Kỳ.
Chương trình này cho phép mọi đối tượng đệ đơn, nhưng các nhà đầu tư Trung Quốc nay chiếm tới 75% tổng số hồ sơ được nộp.
Dân Trung Quốc sẵn sàng tốn tiền để bỏ nước ra đi
16/05/2017 14:56 GMT+
TTO - Hơn 100.000 người Trung Quốc đã chi tổng cộng 24 tỉ USD trong 10 năm qua cho các dịch vụ lấy thị thực định cư ở nhiều nước.
 Người có học, có chuyên nghiệp; thân nhân gia đình, con cháu cán bộ đảng viên có quyền, có tiền; những nhà giàu nhờ ‘ăn theo CS’; doanh nhân mang hàng triệu Đô la đi nhập cư đầu tư; phụ nữ gần sanh chạy chọt qua Mỹ sanh; thường dân được gia đình bảo lãnh hay có dịp nhập cư lậu; học sinh du học để mẹ được theo làm bão mẫu, v.v. và v.v. — đang hàng hàng lớp chào Trung Cộng bằng chân, tạo thành phong trào bỏ nước ra đi.[...].Năm năm 2011, đã có 150,000 người đa số là giàu và có trình độ cao rời Trung Quốc. Hoa Kỳ, Canada, Úc hay New Zealand là miền đất hứa họ cố đến.
 http://www.swsdevsite.com/vietthucnew/trung-cong-bo-nuoc-ra-di/

Những người Hoa này là tư sản đỏ, là giai cấp mới ở Trung Quốc, là con cháu các lãnh tụ cộng sản gộc thế sao lại bỏ nước ra đi? Trung Quốc đã lớn mạnh và bản thân họ là triệu phú, tỷ phú USD, sao không ở lại tọa hưởng kỳ thành mà lại bỏ nước, chạy theo bọn đế quốc tư bản, nhất là tư bản Mỹ mà Mao căm thù và toàn khối Cộng sản đã theo Marx mà quyết tâm tiêu diệt?

3.VIỆT CỘNG RA ĐI

Sau 1975, các con em cán bộ cao cấp được vinh hạnh đi xuất khẩu lao dộng.  Và nay một số lớn ra đi hiên ngang dưới sự bảo trợ của đảng quang vinh. Đó là khoảng 15 ngàn-20 ngàn du sinh mỗi năm qua Mỹ, một số con ông cháu cha du học Pháp, Úc, Canada. 
 Đây là một hiện tượng đặc biệt ở phe đại thắng mùa xuân 75. Riêng tại Mỹ, mỗi du sinh mang nửa triệu đô hay một triệu đô thì 20 ngàn du sinh mỗi năm mang bao nhiêu tỉ?Từ 1990 cho đến 2013 là bao nhiêu tỉ?
Tiết mục nộp tiền để nhập cư nhập tịch thì đã có từ lâu. Ở Mỹ hay Canada, cứ có khoảng 200 ngàn là được nhập cư. Số tiền này là tiền mang vào có giấy tờ đàng hoàng, nó vẫn là của chủ nhân nó,  chủ nhân số tiền này làm chủ các công ty đầu tư, nhà nước không tơ hào một xu, người Mỹ không hiên ngang bỏ túi như các đồng chí Việt Cộng. Nhà nước Mỹ, Canada cho nhập cư có điều kiện chứ không phải  bán đất, cướp đất nhân dân như Việt cộng..  


Trong năm 2013, Mỹ cho ra một điều kiện mới, đó là số tiền 500 ngàn và thẻ xanh. Trước kia với 200 hay 300 ngàn là nhập cư được, nhưng phải khoảng mười năm sau mới được thẻ xanh. Nay thì chưng tiền là có liền thẻ xanh cho cả nhà! Mỹ hơn các nước khác là ở chỗ thẻ xanh lập tức. Cái đòn chiêu dụ này rất hay.

Cấp thẻ xanh cho những nhà đầu tư từ 500.000 đôla
Để có thẻ xanh, các nhà đầu tư nước ngoài phải đầu tư ít nhất 500.000 đô la vào một khu vực được nhắm vào, thường là những khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao hay những khu vực nông thôn.
Sau khi Chính phủ Hà Nội áp dụng chính sách “Đổi mới” vào năm 1986 theo cơ chế “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, xã hội Việt Nam thay đổi thông thoáng hơn trong nhiều lãnh vực, đời sống người dân được thoải mái hơn; thế nhưng vẫn còn có nhiều người Việt muốn định cư ở nước ngoài và họ tìm mọi phương cách ra đi hợp pháp.
Một làn sóng di dân đặc biệt gây chú ý trong dư luận hơn 2 thập niên qua phải kể đến trường hợp hàng trăm ngàn phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc để ra đi có sự đổi đời, nôm na gọi là “Cô dâu Việt”. Và còn một làn sóng di dân âm thầm mà Nhà nước Việt Nam gọi là “hiện tượng chảy máu chất xám” trong các thập niên vẫn là vấn đề nan giải cấp quốc gia như Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa phát biểu trong buổi họp Quốc hội mới đây, vào sáng hôm mùng 1 tháng 4, rằng:
“Hiện nay nhiều trí thức giỏi không về nước làm việc, doanh nhân thành đạt muốn ra đi, một bộ phận cán bộ, công chức về hưu hay đương chức cũng tìm cách cho mình hay con cháu mình định cư ở nước ngoài.”
Tính đến năm 2012, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cho biết có hơn 100 ngàn du học sinh Việt Nam học tập và làm việc ở 49 quốc gia, trong đó có đến 90% du học tự túc và nhiều người trong số họ đã không về nước. Đối với tầng lớp người dân có hoàn cảnh nghèo khó thì được ra nước ngoài dù trong thân phận xuất khẩu lao động, làm ô sin hay cô dâu bất đắc dĩ… vẫn là một giấc mơ đổi đời và họ sẵn sàng chớp lấy một khi có cơ hội dù phải đánh đổi bất chấp thứ gì như những đồng bào của họ từng dám liều chết hơn 40 năm trước đây khi đặt chân lên thuyền hướng ra biển cả.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/dream-of-residing-abroad-after-vn-war-ended-04072016111841.html

Mỗi năm, gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài

Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2015 có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài.
Hầu hết người Việt Nam di cư đến các nước phát triển, trong đó tập trung đông nhất là ở Mỹ (hơn 1,3 triệu người), Pháp (125,7 nghìn người), Đức (gần 113 nghìn người), Canada (182,8 nghìn người), Úc (227,3 nghìn người), Hàn Quốc (114 nghìn người),...
http://vietnamfinance.vn/tai-chinh-quoc-te/moi-nam-gan-100-nghin-nguoi-viet-di-cu-ra-nuoc-ngoai-20160722095009241.htm

Trung Cộng và Việt Cộng là hai anh em song sinh, cùng tính chất và cùng chung những bệnh trầm kha. Giai cấp tư sản đỏ ở Việt Nam cũng như giai cấp tư sản đỏ Trung Cộng đã bỏ nước ra đi. Tại sao?Tại sao? Họ là giai cấp thống trị, có quyền hành, tài sản lớn chứ phải hạng vô sản đâu, thế sao bỏ nước ra đi?


III. CỘNG SẢN ÁC HƠN THỰC DÂN

Trần Đĩnh kể chuyện anh bạn Ba Lan ra vào Sài Gòn xoành xoạch khi làm việc cho Ủy ban quốc tế giám sát ngừng bắn. Tôi hỏi bọn Mỹ thế nào? Anh bạn nhìn quanh rồi giơ ngón tay cái lên. Tôi đùa: “Mais c’est l’ennemi? Kìa, kẻ thù đấy!.” Anh ta nhún vai: “Chúng tớ thấy họ là người làm từ thiện
(ĐC, 387)

So với cộng sản, quân chủ và thực dân dễ sống hơn.Thi sĩ Hữu Loan viết :
Một loạt các quyền tự do đã tồn tại ngay cả dưới chế độ thuộc địa. Hãy để tôi liệt kê một số điểm đáng nhớ trong Pháp chiếm Việt Nam vẫn còn trong bộ nhớ của nô lệ này: Đầu tiên, tự do bầu cử. Hầu hết các cơ quan hành chính là đối tượng phổ thông đầu phiếu. Các quan chức Pháp tỉnh chỉ đơn giản là đóng vai trọng tài. Khác thấp hơn [Việt Nam] các quan chức không dám nhận hối lộ.Mọi người có thể kiện và thậm chí còn buộc tội các quan chức từ các vị trí của họ. Quan chức tham nhũng đã khinh miệt bởi tất cả mọi người. Tham nhũng dẫn đến thiệt hại cho đời sống, thậm chí còn tồi tệ hơn. Một viên quan ở một huyện ở Huế tham nhũng thì cả nước đều biết.


Điều thứ hai là có tự do báo chí, và quyền phát biểu tư tưởng.
Các cá nhân được phép thành lập báo chí riêng của họ. Họ từ chối chấp nhận trợ cấp của chính phủ. Trong số các tạp chí nổi tiếng nổi tiếng là tờ Nam Phong ( Gió Nam) Tạp chí, Phụ Nữ) Tạp chí, Phụ Nữ Thời Đàm, Tạp chí, Tiếng Dân , Phong Hóa Ngày Nay vv. Trong số những nhà văn có uy tín và các phóng viên là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Thụy An, Huỳnh Thúc Kháng, etc.
Các thí sinh bất kỳ vị trí nào phải tham gia kỳ thi vòng loại. Những người có tài năng sẽ vượt qua. Lương của người lao động đã đủ để trả tiền cho sinh sống và một số tiền tiết kiệm của họ. Một giáo viên của hai lớp sơ đẳng và dự bị, thu được 12 piasters một tháng, tương đương với 2 "chỉ " của vàng ngày hôm nay.

Sinh viên không phải nộp học phí. Chỉ có giáo dục đại học phải nộp một đồng một tháng. Học sinh giỏi đã được trao học bổng, thậm chí học bổng du học ở bên Pháp. Bệnh nhân được cho thuốc tại trạm xá huyện. Bệnh viện tỉnh đã dành khu vực cho bệnh nhân nghèo đã được điều trị và ăn uống miễn phí. Những bệnh viện này đã được biết đến như bệnh viện từ thiện.
Ngày nay, y đức từ lâu đã biến mất. Các bệnh viện ở khắp mọi nơi lấy tiền của bệnh nhân nhưng chắc không có hiệu quả điều trị. Chế độ thực dân Pháp thực sự là khủng khiếp, nhưng nó vẫn là một giấc mơ xa cho người dân dưới các chế độ vỗ ngực khoe khoang của họ về độc lập và quay lại đàn áp người dân của họ. ( TÁC PHẨM HỮU LOAN).

Nguyễn Chí Thiện viết:
Ôi thằng Tây mà trước khi người dân không tiếc máu xương đánh đuổi.
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng.
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng.
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả [1]

Đúng là thực dân tử tế hơn cộng sản bởi vì tư bản, quân chủ còn chút nhân ái, từ bi còn cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp và vô sản chuyên chính cho nên vô cùng tàn độc!
Các nhân vật trong Đèn Cù đã cho ta thấy rõ tính " ưu việt" của chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, dã man hơn thực dân. Khi công an bắt Vũ Đình Huỳnh, ông nói: " - Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.
- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Sau ông Huỳnh nói với Trần Đĩnh: - Mật thám Tây đến bắt không vô văn hóa như vậy (ĐC, 338).

Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên ghi lại lời mẹ ông, bà Vũ Đình Huỳnh, người đã có kinh nghiệm với mật thám Pháp đã đưa ra một nhận định để đời: Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia! ....Thời Pháp thuộc, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bít kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó .[2]
 Vũ Thư Hiên cũng so sánh cộng sản với các triều đại trước: Bây giờ tôi đang sống trong một xã hội được gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng nhà cầm quyền của nó xử sự với dân chúng chẳng khác gì những xã hội trước nó, nếu không tồi tệ hơn.(Ch.II)
Nguyễn Đức Thuận cho biết rằng cơm ăn nước uống của tù rất khá. Mỹ cho mỗi tù mỗi ngày một đô - la ăn uống cơ mà. Thuận đã so sánh cụ thể:- Ra đây tôi thấy cơm vụ trưởng không bằng cơm tù chúng tôi những ngày không bị đánh đạp (Đèn Cù, 298 ).
Trần Độ so sánh lực lượng an ninh xã thôn ngày xưa và bộ máy công an cộng sản ngày nay:
Ngày xưa còn bé, ở nhà quê, tôi chỉ thấy làng xã tôi có một trương tuần và 4 anh tuần phiên. Ngày nay tôi thấy ở phường có công an phường có trụ sở, có mấy chục người và chỉ huy là một cấp tá; bây giờ mình nhiều sĩ quan thật!.....Lực lượng Công an nhân dân hiện nay được giới thiệu như một lực lượng của nhân dân, trong nhân dân và vì nhân dân. Nhưng sao mà trong thực tế nó lại hay giống nhưng cái ngày xưa ở ta, và giống các nước tư bản quá. Nhiều người nhìn vào nó, thấy rõ nó tiêu biểu cho một lực lượng đàn áp và khủng bố. Dân sợ nó nhiều hơn và cho đó là một nghề "thất đức" và quả nhiên nó làm cho nhiều người sợ thật:
Nó có một lực lượng cảnh sát chiến đấu trang bị rất sắc bén và hùng hậu. Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v...Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm.

Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm
MỘT CÁI NHÍN TRỞ LẠI 2
 
Trần Độ kể lại lời chị họ của ông:" Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc (BÚT kÝ * MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI I, 4)

Trần Độ viết ":Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN II, 3)
 
Kể từ năm 1989, nghĩa vụ đặc biệt của Hội đồng Châu Âu là làm tiền vệ cho nhân quyền tại các quốc gia dân chủ hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu, giúp đỡ các quốc gia này cải cách chính trị song song với cải cách kinh tế, và trao truyền kiến thức trên các lĩnh vực nhân quyền, dân chủ cơ sở, giáo dục, văn hóa, môi trường.

Nghị quyết số 1481 lên án những tội ác chống nhân loại của các chế độ Cộng sản trên toàn thế giới được thông qua ngày 25.1.2006, với đa số áp đảo 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống.
Đặc biệt điều 9 của Nghị quyết xác định rằng : "Các chế độ toàn trị cộng sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quyền lợi quốc gia không thể là cái cớ nhằm phản bác những phê phán thích đáng các chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay. Hội đồng Châu Âu cực lực lên án tất cả những vi phạm nhân quyền". 

 
Các tội ác này đến từ đâu ? Điều 3 của Nghị quyết ghi nhận: "Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh. Sự giải thích hai nguyên tắc này đã hợp thức hóa việc "thủ tiêu" những người bị cho là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới, và do đó, bị xem là kẻ thù của các chế độ độc tài toàn trị cộng sản".
Điều 5 còn xác định : "Sự sụp đổ của những chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Trung và Đông Âu không được quốc tế điều tra theo dõi các tội ác gây ra. Hơn nữa, tác giả những tội ác nầy chưa hề bị đưa ra xét xử trước cộng đồng quốc tế, như trường hợp những tội ác khủng khiếp do Đức Quốc xã gây ra trước đây". 
 
Trong thời gian hoạt động tại Strasbourg, Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam và Cơ sở Quê Mẹ đã gặp gỡ các vị Dân biểu và ghi nhận những phát biểu sau đây của các Dân biểu Châu Âu ủng hộ Nghị quyết 1481, mà đa số là các Dân biểu thuộc Trung và Đông Âu, là các quốc gia kinh qua một thời gian dài dưới chế độ độc tài toàn trị Cộng sản.
Cũng như Việt Nam, Trung Cộng từ trước 1945 đã nuôi dưỡng dân Phi châu và huấn luyện họ thành Cộng sản. Trung Cộng viện trợ cho họ rồi từ đó biến họ thành thuộc địa cho chủ nghĩa thực dân mới Trung Cộng.  Một số người Phi châu mê Mao Trạch Đông và đồng nhân dân tệ, cam tâm làm nô lệ Trung Cộng, nhưng một số yêu nước, chống lại Trung Cộng.

Dân Phi châu theo Trung cộng thì cũng là một bản sao Việt Nam nô lệ Trung Cộng.Theo Quyển Sách Đen, chủ nghĩa Marx đã giết  1,7 triệu dân Phi Châu. Sống dướí ách cộng sản, dân Phi châu, mới thấy thực dân tốt hơn
Việc tư sản đỏ Trung quốc và Việt Nam bỏ nước ra đi cũng là một minh chứng tư bản tốt hơn cộng sản  đồng thời cũng là một minh chứng chủ nghĩa Marx là địa ngục chứ không phải thiên đường như Marx cổ võ.Ấy thế mà cũng lắm kẻ ca tụng Marx. Vũ Thư Hiên bị tù rồi đi tìm hiểu Marx.


Ông vẫn còn có ảo tưởng hoặc cố tình tuyên truyền  về một chủ nghĩa Mác nhân bản, chủ nghĩa cộng sản bác áí như Thiên Chúa giáo ( 99) ,Ông cho rằng những người ngu thì không hiểu cộng sản, Những người cộng sản thiếu học không hiểu rằng mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản, theo Mác, không phải chỉ nhằm giải phóng thân phận nô lệ của người vô sản, mục đích của Mác  là Đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do ... mục đích của ông đầy tính nhân đạo. .(Ch.XIV, tr.676). Lạ quá! Cộng sản có tự do sao ông vào tù và bỏ chạy?
Cộng sản  bỏ tù bố ông và ông mà ông còn ca tụng Marx nhân bản ư?Ông có ấm đầu không hay ông là một kẻ hai mang?

Ngoại trừ bọn cộng sản và thân cộng, nhân dân thế giới, nhất là nhân dân Việt Nam, Phi châu đều trải nghiệm các chế độ và nhận định Cộng sản ác hơn quân chủ, thực dân, và tư bản.Tại sao cùng giống nòi mà giết nhau dã man hơn thực dân? Tại sao cộng sản hô hào dân chủ, hòa bình và đoàn kết mà lại tàn sát đồng bào? Tại sao cộng sản ác hơn thực dân?
IV. NGƯỜI CHẠY TRỐN CỘNG SẢN GIÚP CỘNG SẢN TỒN TẠI

Trước 1975, Mỹ viện trợ hàng năm 700 triệu Mỹ Kim nhưng trong đó 300 triệu để trả lương cho nhân viên cơ quân tuỳ viên quân sự DAO của Mỹ. (Nguyễn Trọng Đạt.
https://dongsongcu.wordpress.com/2016/03/14/nguyen-nhan-xup-do-viet-nam-cong-hoa-1975/)

Sau đó thì viện trợ bị cắt.Trong :Khi Đồng Minh Tháo Chạy", Nguyễn Tiến Hưng cho biết:
  Nếu là 750 triệu đô-la thì chỉ có thể phòng thủ vài khu vực chọn lọc và khó điều đình được với Bắc Việt; Nếu quân viện dưới 600 triệu đô-la thì chính phủ VNCH chỉ còn giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long” (Sđd, tr.235)!
Trong khi đó khối Cộng sản viện trợ cho Bắc Việt trong 1974 là 1.tỷ 150 -1tỷ,190USD (Wikipedia)

Ấy thế mà sau 1975, chính đám người tù nhân, thuyền nhân nạn nhân cộng sản lại gửi tiền về nuôi Việt Cộng. Nguyễn Văn Thiệu muốn có 600 triệu viện trợ mà không có, còn Việt Cộng ăn không ngồi rồi, không cần xin xỏ, mỗi năm cũng có vài tỷ đô la kiều hối!

Vào khoảng giữa những năm 1980 của thế kỷ 20, với những thay đổi căn bản trong chính sách về kiều hối, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng lớn dòng ngoại tệ từ các kiều bào ở nước ngoài. ... Từ đó cho tới nay, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam luôn luôn tăng với tốc độ ngày càng cao. Năm 2000, lượng kiều hối gửi về là 1,75 tỷ USD, đến năm 2005, con số này đã tăng lên là 3,8 tỷ USD (tăng 117% so với năm 2000).

Đến năm 2008, mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu xẩy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam không những không bị suy giảm mà còn tăng vọt lên ở mức 7,2 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận được dòng kiều hối với giá trị 8 tỷ USD, tăng 1,7 tỷ so với năm 2009. Cũng trong năm này,Việt Nam được Ngân hàng Thế giới xếp vào vị trí 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới, đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, sau Philippines.    (KIều hối ở Việt Nam.   http://vietstock.vn/PrintView.aspx?ArticleID=185265      
   Vẫn biết đồng bào hải ngoại gửi tiền về cho cha mẹ, anh em không phải gửi cho Việt Công nhưng thực tế Việt Cộng nắm nguồn kiều hối này, làm cho họ có sức mạnh để  đàn áp, cướp bóc nhân dân .Oái oăm thay
Tại sao có những chuyện phi lý và mâu thuẫn như thế?  Ai bày trò bãi bể nương dâu?

TẠP CHÍ VĂN HÓA VIỆT NAM 470

    SƠN TRUNG  
Chủ biên
  
Ngày 27  tháng 5 năm 2017




No comments:

Post a Comment