TRẦN NGỌC BÌNH * NGƯỜI TÙ VƯỢT NGỤC
Đã hai ngày rồi, người mang rau cho nhà bếp của trại tù Phong Quang là
anh đội phó chứ không phải là anh đội trưởng Rau Xanh như mọi ngày (anh
em tù chúng tôi phải tự cải thiện đời sống bằng cách tự trồng rau.)...
Không kềm nổi sự tò mò, tôi dọ dẫm khi anh đội phó đến giao rau lần thứ
ba:
-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!
Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người” trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá “tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng cả ngàn năm ở ngoài).
-Bộ anh C. đau hay sao mà anh đi thay thế vậy kìa!
Tuy mới chỉ sống với chế độ “người dò xét người” có 3 năm thôi, nhưng anh đội phó quả là nhạy bén vì đã tạo được thói quen như người dân miền Bắc khi phải sống trong cái xã hội “đỉnh cao của sự người dò xét người” trong đó mỗi người dân trước khi nói điều gì đều phải trông trước trông sau xem có người thứ ba nào đó ở gần hay không vì sợ người thứ ba quá “tiến bộ” sẽ đi báo cáo mình thì phiền, nên khi thấy không ai ở gần bèn nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe:
- C. trốn trại rồi.
Nghe đến đây, tự nhiên tôi mường tượng đến đôi cách chim tung trời tim đường đến tự do mà lòng thầm mơ ước mình cũng có dịp may như người bạn tù của mình nay đã vỗ cánh bay cao, bay xa tít về cuối chân trời, thoát ly được gông cùm xiềng xích nơi ngục tù tăm tối. Vì tự ngàn xưa và chắc chắn là cho đến ngàn sau thì cái chân lý rất đơn giản mà ai ai cũng phải công nhận là đúng, là không sai chạy dù một ly, đã được diễn tả trong câu “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày trong tù thì bằng cả ngàn năm ở ngoài).
Kể từ hôm đó, những anh em tù chúng tôi sau khi bị xúc động về việc này,
có bàn ra tán vào thì cũng chỉ rỉ tai nhau rồi đâu lại vào đấy, lại lao
động triền miên cho đến mệt lử, chiều về ăn chén cơm tù độn khoai, hay
sắn hoặc cái “chuông xe đạp mỏng teng” (đây là chữ anh em dùng để chỉ
chiếc bánh mì luộc) rồi lên “chuồng” cố dỗ giấc ngủ cho qua cơn đói để
rồi sáng mai lại trở lại kiếp tù lao động khổ sai không án nên chẳng
biết ngày nào “tung cách chim tìm về tổ ấm” để gặp lại những người thân
trong gia đình để “cho bõ lúc sầu xa cách nhớ”.
Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã “tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi, đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ, dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật sự tung cánh về miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt” của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường, khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này, chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiếp tù đầy cứ lặng lẽ trôi qua và lời của bản nhạc ngày xưa tự nhiên lại trở về trong ký ức trong đêm trường nỉ non tiếng côn trùng:
Ngày nào gặp nhau, yêu nhau rồi sống bên nhau
Những tưởng dài lâu như trăng như sao cho đến bạc đầu
Nào ngờ giờ đây ta ly tan giữa cơn lạc loài
Giữa chốn u mê đêm đêm một người nhớ thương một người
Phải chăng “giữa chốn u mê” mà tác giả muốn nói tới ở đây hay là đã “tiên tri” được đó là chốn lao tù, mà quả thật thế, chốn lao tù cho dù đã được ngụy trang là “Trại Cải Tạo” thì bản chất vẫn không thay đổi, đâu có đánh lừa được ai, ngay cả đến con nít cũng thắc mắc khi được mẹ cho biết là: “Ba đi học tập” thì bé đã hỏi lại mẹ: “Ủa, sao đi học lâu quá vậy, sao không về nhà?”. Vào thời kỳ đó và ngay cả cho đến bây giờ, dù cho ở “trong” hay “ngoài” thì chỉ khác nhau ở chỗ tù lớn hay tù nhỏ mà thôi. Chả thế mà ca sĩ kiêm nhạc sĩ TVT đã chẳng phát biểu khi vượt thoát đến được bến bờ tự do: “Ở trong nước cái cột đèn, nếu nó đi được, nó cũng đi.” để nói về tâm trạng của người dân Miền Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 75 đó sao.
Một thời gian sau đó, một cán bộ trong trại răn đe:
-Các anh đừng tưởng trốn trại mà không bị bắt lại là lầm to.
Thế nhưng sau lời răn đe đó, chúng tôi thấy anh C. vẫn là “bóng chim tăm cá” và ai ai trong đám anh em tù cũng cho là Trại chỉ hăm he để chúng tôi khỏi noi theo tấm gương vĩ đại của anh C. mà thôi chứ anh C. đã thật sự tung cánh về miền tự do rồi.
Nhưng, lại chữ “nhưng” quái ác vẫn thường trở lại làm tiêu tan giấc mộng đẹp trong đời sống bình thường của chúng tôi, riêng tôi cứ mở to mắt nhìn mà cứ tưởng như mình ngủ mê vì trong đám tù chúng tôi di chuyển về Trại Nam Hà vào cuối năm 78, hôm đó có anh C. bị “mợ Tám” khóa chặt một tay còn tay kia thì bị còng dính vào tay của một anh nữa, mà tôi không biết tên, anh này thì một cánh tay còn bị băng bột có lẽ bị gẫy hay sao đó, nghĩa là cứ hai người chung nhau một còng để mà hưởng cái hạnh phúc không độc lập mà cũng chẳng có tự do của người tù khốn khổ mỗi khi chuyển trại. Mãi về sau này, chúng tôi mới biết lý do sự chuyển trại là do Tàu sắp tấn công và xâm lăng Việt Nam như cha ông họ đã làm đối với dân tộc ta từ ngàn xưa vì đó là giấc mộng Đại Hán mà dân tộc họ luôn ấp ủ trong tâm khảm.
Trại tù nào cũng giống trại tù nào, khi đến trại mới lại “học tập” đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước, lại khai lý lịch và anh em chúng tôi không ai bảo ai, người nào cũng có một mẫu khai dự phòng nên lại lấy mẫu khai này rồi điền vào “ chỗ trống cho hợp nghĩa” thế là xong.
Một hôm, tại khu A ở trại tù Nam Hà, chúng tôi bị tập trung ra sân để nghe nói chuyện, người nói không xưng tên, chức vụ, đây vẫn là thói quen làm việc “ban đêm”, thói quen giấu diếm của những người làm những việc tự thấy là không chính trực mà thói quen này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, mà điển hình là khi họ ký hiệp ước dâng một phần “máu thịt” của mẹ Việt Nam cho kẻ thù truyền kiếp mà không dám công khai cho toàn dân biết và các thói quen này cũng đã nói lên cái bản chất coi thường, khinh rẻ người “chủ” của chế độ như Cộng Sản vẫn luôn luôn rêu rao để mị dân. Hắn ta chỉ nói là: Tàu xâm lăng Việt Nam và chúng ta đã bị thua đậm, thế thôi và nhấn mạnh, nếu cần, sẽ sử dụng khả năng sẵn có của “các anh” tức là của đám tù khốn khổ chúng tôi để “bảo vệ quê hương”. Cay đắng cho tụi tôi chưa, bị kết án đủ thứ tội nhưng không dám đưa chúng tôi ra xử công khai và giờ đây sau 4 năm tù thì được “người ta” cho biết là chúng tôi vẫn còn có một quê hương để mà bảo vệ.
Đọc đến đây chắc quý bạn đọc thân mến sẽ tự hỏi: “Ô hay cái ông này, chẳng thấy đâu là câu chuyện tù vượt trại gì hết, cứ thấy ông nói lòng nói vòng hoài à!”
Vâng, thưa quý vị, hình như càng lớn tuổi thì người ta càng tin vào thuyết định mệnh an bài mà ông Trời đã dành cho mỗi người:
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Kiều.
Tôi, như trong câu Kiều nói trên, đã phải chịu “phong trần” từ năm 1979
là năm tôi biết được phần đầu của câu chuyện và mãi cho tới năm 1985 tức
là 6 năm sau, khi có cái may mắn thoát chết vì bệnh phù thũng để rồi
qua bao lần chuyển trại và có lẽ do định mệnh hay do ông Trời sắp xếp
nên đã được nằm cạnh anh C. và mừng hết lớn, tôi không quên hỏi anh về
câu chuyện trốn khỏi trại tù hồi đó.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.
Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý, sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên. Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự ! Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:
“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”
Tôi hỏi lại B:
“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy, cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Khi được hỏi, anh ra hiệu cho tôi ra khỏi buồng tù và sau đây là lời kể chuyện của anh.
Lúc ở trại Phong Quang, nơi đội Rau Xanh trồng rau thì lại gần lò gạch do tù hình sự đảm trách. Trong những lúc giải lao, thì tụi này thường hay ngồi cùng với mấy anh em tù hình sự, mới đầu thì hai bên còn giữ ý, sau một thời gian thì điếu thuốc qua, bi thuốc lào lại nên đã dần dần thu hẹp lại khoảng cách biệt và từ đó trong câu chuyện đã có sự thân mật dẫn đến sự trao đổi tâm tình.
Tù hình sự phần đông là những người nghèo khổ, giáo dục gia đình hầu như không nên đa số ăn nói lỗ mãng, mở miệng là các loại “ hỏa tiễn made in North Viet Nam” như đ...m..., đ....b... bay ra ầm ầm, làm choáng váng người nghe, phải nói như vậy là để thấy sự sa đọa về giáo dục, về con người của “xã hội chủ nghĩa Miền Bắc”; vì khi bị giam chung với tù hình sự Miền Nam ở Long Giao những anh em tù này tuy là hình sự nhưng tôi không bao giờ thấy các anh em này sử dụng các loại “hỏa tiễn” nói trên. Câu nói của họ khi tiếp xúc với chúng tôi luôn luôn tỏ ra có sự trân trọng và tỏ ra rất lễ độ, và mỗi lần trông thấy anh em chúng tôi ở phía xa xa là không ai bảo, họ đều chào to bằng câu là “Đại bàng gẫy cánh se sẻ cụt đuôi” và trong cung cách vẫn tỏ ra có sự thương mến tụi tôi tuy rằng chúng tôi là những người thất thế.
Các cán bộ Cộng Sản, khi thuyết giảng vẫn thường rêu rao là Miền Nam đồi trụy có tới 300,000 đĩ điếm và trộm cắp đầy rẫy, cứ làm như là trong thiên đường của Cộng Sản là thiên đường thật sự nên không có tù hình sự ! Thế thì các trại tù như Phong Quang, Nam Hà và còn biết bao nhiêu nữa ở Miền Bắc chắc là để nhốt muỗi hay sao đây!
Trong số các anh em tù hình sự đó, tôi để ý thấy một anh rất ít nói, nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu, tư lự, lân la tôi làm quen, ngay từ lời nói đầu tiên, tôi giật mình vì nhận ra anh ấy là người Quãng Ngãi, cùng quê với tôi, và cứ mỗi ngày một chút dần dần hai chúng tôi hiểu nhau nhiều hơn và một khám phá nữa càng làm tôi giật mình hơn nữa, không những cùng tỉnh mà còn cùng làng nữa, vì khi nhắc đến những bậc vai vế trong làng thì cả anh ấy và tôi đều cùng biết rõ như là bàn tay có 5 ngón!
Cho đến một hôm, khi tình bạn đã đậm nét thì chúng tôi lại khám phá thêm ra là chúng tôi còn có họ hàng xa nữa. Đến đây thì, anh TTB, ta cứ gọi tắt là B. cho tiện, mới tiết lộ:
“Trung Quốc và Việt Nam không thuận, có muốn vượt trại không?”
Tôi hỏi lại B:
“Vượt trại thì được rồi nhưng còn gia đình B thì sao?”
Đến đây B. mới cho biết, trước khi bị tù, anh ta làm ở Đại Sứ Quán Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Đông Đức, mỗi khi có cuộc họp báo hay biến cố quan trọng nào ở Tây Bá Linh thì đều phải tham dự và viết báo cáo gởi về Việt Na. Đi cùng có 2 người nữa, và mỗi người đều có một khẩu súng lục với chỉ thị nếu ai định đào tị sang Thế Giới Tự Do thì khẩu súng sẽ làm nhiệm vụ của nó, nói nôm na là phải thanh toán, phải giết người vì người đó đã bị “nọc độc của chế độ tư bản” làm hư hỏng và lần nào cũng vậy, cả ba phải canh chừng lẫn nhau, dĩ nhiên trong 3 người thì B là chính còn 2 người kia là “cai tù” tuy rằng điều này không ai nói cho biết.
Cho đến một hôm, Tòa Đại Sứ nhận được công điện của Bộ Ngoại Giao trao
tặng cho B. một huân chương vì những thành quả đạt được và triệu hồi B.
về nước để nhận, dĩ nhiên Ông Đại Sứ rất mừng và cho làm tiệc tiễn hành
một nhân viên xuất sắc dưới quyền khiến ông được thơm lây theo như phong
tục của người Việt ta.
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền Nam để chết thay cho “tớ”!
Khi về tới nơi, anh ta mới bật ngửa vì chỉ thấy Công An “dàn chào” cẩn thận không cho gặp mặt vợ con dù chỉ là 1 phút và đưa vào trại tù ngay lập tức với lý do trong những bài viết gởi về, “người ta” đã khám phá ra là B. đã manh nha những tư tưởng phản động, chỉ “manh nha” thôi, chứ không có bằng chứng gì là phạm tội đâu nhé mà đã bị kết án rồi, không cần tòa án xét xử dù cho chỉ có hình thức thôi, vì tòa án cũng là của Đảng mà.
Tới đây thì mình mới hiểu thật rõ câu “độc tài Đảng trị” ghê gớm như thế nào, vì nếu có cách gì mà Đảng “nắm” được không khí thì chắc chắn là Đảng sẽ chẳng ngại ngần gì mà không phân phối để nắm chặt thêm quyền thống trị hơn nữa như là Đảng đã từng làm với chế độ tem phiếu. Bị tù rồi, thì mới thấy ở nước ta trong chế độ Cộng Sản, dù đêm hay ngày thì người “chủ” chỉ thấy có ban đêm mà thôi mà là đêm không cùng, chừng nào mà cái chế độ tàn ác này còn tồn tại, trong khi đó thì “tớ” mới có cả ngày lẫn đêm để tìm tòi, suy nghĩ tùy nghi sử dụng bàn tay sinh sát của mình để làm tình làm tội và bóc lột “chủ”, xua “chủ” đi giải phóng miền Nam để chết thay cho “tớ”!
“Còn vợ của tôi ư, hiện nay bà ấy đang dạy học ở Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, thế nhưng bị kết tội như tôi, nhất là tội về “tư tưởng”, thì kể như tiêu tán đường rồi và mình nên kiếm chước “tẩu vi thượng sách” là hơn và cứ coi như mình hay vợ mình đã chết thì mình mới dễ dàng quyết định. Đây là dịp để mình thử thời vận như các cụ ta vẫn thường nói: “Được ăn cả, ngã về không”, vả lại, đời tôi kể như bỏ rồi!”
Kế đến anh nói một câu gở miệng:
“Đằng nào cũng chết, không chết trước thì cũng chết sau mà”.
Rồi như một thi sĩ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, B. , tằng hắng lấy giọng rồi ngâm khe khẽ:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tới
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”
Như vậy, đối với B. thì đã xong, ngoài ra tôi còn rủ thêm được người bạn thân của tôi là Th. T/N. cùng tôi trốn trại nữa, N. là bạn thân của tôi từ hồi nào đến giờ. Là người trầm tĩnh, kín đáo, N. rất dè dặt từng lời nói do đó mới có thể bảo mật được kế hoạch trốn trại vì người Pháp đã chẳng có câu: “Sự bí mật của hai người là sự bí mật của tất cả mọi người” đó sao và đúng như sự đánh giá của tôi, N. quả thật đã không phụ sự kỳ vọng mà tôi tin tưởng nơi anh.
Việc nhín chút cơm, chút muối thì B. lo, cho đến ngày đã định, chúng tôi kiếm cớ vào rừng lấy củi về nấu nước cho anh em rồi dông một mạch. Vì tù đông nên mỗi đội khoảng từ 35 đến 40 người được cấp phát một đôi thùng để nấu nước uống phát cho anh em ngay tại hiện trường lao động, còn nhà bếp của Trại chỉ lo việc ẩm thực mà thôi.
Cứ ngày nghỉ đêm đi, vì nếu đi ban ngày dân thấy thì bị lộ, chẳng bao lâu thì đã đến con sông phân chia ranh giới hai nước vì trại tù Phong Quang chỉ cách Trung Quốc có 16 cây số đường chim bay mà thôi.
Tới được nơi đây thì cả ba đã quá mệt mỏi, nên sau khi thảo luận tất cả đều đồng ý là hãy nghỉ cho khỏe rồi lúc mát trời vào lúc xế chiều sẽ đốn chuối làm bè qua sông, tự do đã ở trong tầm tay chỉ với ra là nắm, là bắt được liền vì nhìn qua phía bờ bên kia chúng tôi đã thấy một vài người Hoa đang làm ruộng đầu đội nón rộng vành ờ phía xa xa, và đó là sơ sót thật là đáng trách khiến về sau này chúng tôi cứ ân hận mãi. Thật là không có cái dại nào giống cái dại nào, cơ hội đã đến lại để vuột mất, y chang cái túi khôn của người Tây Phương đã được diễn tả trong câu: “Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai cả”.
Sau khi đã quyết định như vậy rồi, chúng tôi mỗi người tìm một bụi cây rồi chui và ngủ, và vì quá mệt mỏi nên cả ba đều ngủ quên đến khi nghe tiếng chó sủa thì lúc đó trời đã tối đen, B. vội lao mình xuống sông nhưng không kịp nữa rồi, một tràng AK vang lên trong đêm trường tịch mịch và tiếp theo đó là một tràng AK nữa khi Th.TN. lao mình tiếp theo cùng với B. Riêng phần tôi, một con chó berger Đức ở đâu gầm gừ lao tới mõm đớp chặt ống quần khiến tôi không cục cựa gì được, một tên Công An chĩa súng AK vào ngay mặt tôi, miệng quát lên:
“Động đậy ông bắn chết bây giờ.”
Sau đó là màn đòn thù liên tiếp giáng xuống, khỏi cần nói cũng biết là thê thảm đến như thế nào rồi, riêng B. vì đạn trúng tim nên chết tại chỗ, còn N. thì đạn trúng cánh tay phải nên bị gẫy tay. Khi về đến trạm Công An biên phòng lại một trận đòn thù còn thê thảm hơn thế nữa khi họ khám phá ra là chúng tôi là tù trốn trại chứ không phải là những người buôn lậu.
Cuộc trốn trại không thành công nhưng tôi vẫn tự hào là tôi và những người cùng tham gia đã giữ được bí mật đến phút chót, đã qua mặt được đám cai tù chỉ có một điều ân hận là không biết cái chết của anh B. có được thông báo cho gia đình anh ấy không, chắc chắn là nếu có, thì họ cũng giấu nhẹm lý do anh ấy bị chết, vì đó là bản chất của họ.
Tôi tự an ủi là phần tinh anh của con người không bao giờ chết, chả thế mà trong Kiều có câu:
“Thác là thể phách, còn là tinh anh.”
Và chắc chắn là anh B. khi qua bên kia thế giới vĩnh hằng anh đã không còn điều gì ân hận vì phần tinh anh của anh giúp anh biết được là anh đã chết và chết như một con người tự do.
Sao Nam Trần Ngọc Bình.
VĂN TRƯỜNG * TỘI ÁC CỘNG SẢN
Đã bốn mươi năm trôi qua, kể từ ngày đảng Cộng Sản Việt Nam, với sự tiếp
tay của lũ quan thầy Liên Xô và Trung Cộng, xua quân tiến chiếm miền
Nam thân yêu của chúng ta, xin mời quý độc giả cùng chúng tôi mở lại
trang lịch sử vô cùng thương tâm của một trong những hàng mấy trăm ngàn
thuyền nhân vào giai đoạn trốn chạy ách cai trị tàn ác vô nhân đạo và
ngu muội của bè lũ Cộng Sản Việt Nam.
Nguyễn Thị Hoa Mai là một nữ sinh dịu hiền trong trắng của một trường
trung học Công Giáo tại Sài Gòn trước 30 Tháng Tư năm 1975. Khi Cộng Sản
miền Bắc tung hàng trăm ngàn chiếc nón cối, và vài ba trăm ngàn đôi dép
râu vào dẫm nát mảnh đất miền Nam tự do của chúng ta, thì lúc đó Mai
mới chỉ là cô bé 16 tuổi, lứa tuổi của ô mai ngọc ngà, đầy mộng mơ. Mai
là một cô bé mình hạc xương mai, nước da trắng như bông bưởi, duyên dáng
mặn mà, một chút nhí nhảnh, dễ thương, và rất thông minh. Mỗi ngày cắp
sách tới trường Mai thường diện một bộ đồ trắng tươi, một chiếc nón cũng
nền trắng nhưng được trang trí hoa văn rất điệu đà. Mới 16 tuổi nhưng
đã có không ít những chàng sĩ quan QLVNCH vẫn thường hay bám sát những
bước chân của Mai từ trường về nhà. Nhưng lần nào cũng vậy khi sắp tới
cửa để chuẩn bị vào nhà, Mai cũng chỉ tặng các chàng một nụ cười duyên
dáng, rồi biến mất sau khung cửa.
Ông thân sinh của Mai là một quân nhân trong quân lực VNCH, một người
lính chiến can trường, không bao giờ chịu đội trời chung với Cộng Sản
(CS). Ông là một trong những người theo gia đình di cư vào Nam đầu tiên
sau khi Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước ta có hiệu lực. Ông lập gia
đình với mẹ Mai sau khi công cuộc di cư đã ổn định vào khoảng năm 1955.
Cô bé dễ thương có một cụm tên đầy đủ là: Maria Têrêsa Nguyễn Thị Hoa
Mai được sinh ra vào năm 1959 với sự yêu thương đùm bọc của cha mẹ và họ
hàng. Vì là gia đình Công Giáo, cha mẹ của Mai lại là những tín hữu
ngoan đạo nên cho dù chỉ sống với nhau có 9 năm ngắn ngủi, mẹ Mai cũng
cho ra đời được 8 người con, đa số là con gái, cũng vì đạo Công Giáo
không cho phép ngừa thai, ngoài ra trước khi từ giã cõi đời, ông thân
của Mai lại đã ưu ái tặng cho mẹ Mai một cặp song sinh, chính là hai cô
em út xinh đẹp của cô. Ông thân sinh của Mai đã anh dũng hy sinh trong
một cuộc hành quân tiễu trừ CS và đã phơi thây ngoài sa trường, biệt vô
âm tín. Sau khi bố Mai đã hy sinh vì tổ quốc, gia đình Mai, một dạo,
cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn, nhưng cũng may, một vị sĩ quan cao cấp
của quân đội, thấy tình cảnh mẹ góa con côi, đã cho mẹ Mai được vào làm
việc hành chánh trong một cơ sở của quân đội. Ngoài ra bà ngoại của Mai
cũng đã bao bọc cho mẹ con Mai rất nhiều trong giai đoạn đó.
Mai là người con thứ hai trong gia đình nên cũng vất vả; ngoài giờ đi
học, Mai còn phải thay mẹ lo lắng cho các em về mọi phương diện. Cuộc
sống không sung túc, nhưng cũng tương đối thoải mái. Mặc dù còn đi học,
Mai chưa dám nhận lời tỏ tình của ai cả, nhưng Mai cũng thấy có cảm tình
đặc biệt với một chàng sĩ quan bộ binh, nghe đâu đang làm nhiệm vụ tại
Vùng 2. Tuy chàng không hào hoa, bảnh chọe như những anh chàng Không
Quân mà Mai thường thấy theo đám nữ sinh của trường Mai, nhưng chàng Bộ
Binh này có một vẻ phong sương, đúng là một người lính thứ thiệt. Với bộ
râu mép và bộ đồ lính vương bụi đỏ của vùng đồi núi cao nguyên, chàng
đúng là mẫu người được sinh ra để bảo vệ quê hương, và dĩ nhiên, cũng để
bảo vệ cho phái yếu như Mai. Trong một lần về phép, đón Mai ở cổng
trường chàng đã dúi vào tay Mai một lá thư, ngoài lời tỏ tình rất chân
thành, chàng còn tặng Mai một bài thơ, mà sau bao nhiêu biến cố, Mai vẫn
còn nhớ nguyên văn:
Gửi Người Em Gái
Em biết không người chiến sĩ sa trường,
Chưa vào đời phải từ giã văn chương,
Mang trên vai nợ non sông, tổ quốc,
Ra chiến trường để bảo vệ quê hương.
Chưa vào đời phải từ giã văn chương,
Mang trên vai nợ non sông, tổ quốc,
Ra chiến trường để bảo vệ quê hương.
Hôm gặp em giữa trưa nắng cổng trường,
Bóng dáng nhỏ, ôi đẹp, lại dễ thương,
Anh như thấy cả trời Xuân rực sáng,
Hồn chiến sĩ trong giây lát, vấn vương!
Bóng dáng nhỏ, ôi đẹp, lại dễ thương,
Anh như thấy cả trời Xuân rực sáng,
Hồn chiến sĩ trong giây lát, vấn vương!
Anh ngày đêm, vùng đất đỏ miệt mài,
Trả nợ nước, làm sao có ngày Mai,
Nhớ thương em nàng nữ sinh diễm tuyệt,
Xin tặng em cả bốn đóa (hoa mai) trên vai!
Trả nợ nước, làm sao có ngày Mai,
Nhớ thương em nàng nữ sinh diễm tuyệt,
Xin tặng em cả bốn đóa (hoa mai) trên vai!
Mong một ngày, quê mẹ, sẽ thanh bình,
Em càng lớn, trổ mã, lại càng xinh,
Anh xin phép cùng em bên Thánh giá,
Để khấn cầu Ngôi Hai cho phép mình!…
Em càng lớn, trổ mã, lại càng xinh,
Anh xin phép cùng em bên Thánh giá,
Để khấn cầu Ngôi Hai cho phép mình!…
Nụ hoa tình yêu vừa chớm nở trong lòng, Mai còn đang say sưa với chút
men tình vừa dậy, thì ngày 30 Tháng Tư 1975 ập tới, chàng trai phong
sương, kiêu hùng, mà Mai tưởng rằng sẽ có thể trao trọn tình yêu cho
chàng, đã bị bắt, bị lưu đầy trên rừng thiêng nước độc, không hẹn ngày
về!
Sau 30 Tháng Tư 1975, Mai phải nghỉ học ở trường một thời gian, sau đó
vì hoàn cảnh đất nước còn nằm trong giai đoạn giao thời, và vì còn cần
nhiều người làm việc, nên Mai cũng xin được đi học lớp cán sự điều
dưỡng, rồi đi làm việc ở một bệnh viện. Tuy nhiên cuộc sống của dân miền
Nam chúng ta vào giai đoạn đó rất khó khăn về mọi phương diện. Phong
trào vượt biên, vượt biển càng lúc càng nở rộ. Thân mẫu của Mai là một
người phụ nữ rất kiên cường, gan dạ, bà đã từng tuyên bố với các con:
“Mẹ đã trốn chạy CS từ ngoài Bắc vào đây, mẹ muốn đưa tất cả các con đi
trốn tụi nó một lần nữa, nhưng rất tiếc nước mình không còn chỗ nào để
đi, vậy các con, đứa nào có phương tiện, cứ việc lên đường, không thể
sống với bọn nó được đâu!”
Thời gian thấm thoát trôi qua, từ một người con gái mơn mởn đào tơ, có
bao nhiêu chàng thi nhau săn đón, cuộc sống của Mai lúc đó thật chán
nản, người xưa, cũng biệt vô âm tín; Mai muốn kiếm phương tiện ra đi,
mặc dù cũng biết phía trước là hiểm nguy gian khổ, nhưng hàng ngày phải
nhìn thấy những khuôn mặt khó ưa, cuộc sống lại khó khăn trăm bề, tuổi
xuân mỗi lúc mỗi tàn phai. Nhiều tên nón cối cứ gạ gẫm, nhưng làm sao
Mai có thể mê nổi loại người mà chính mẹ Mai đã muốn cao chạy, xa bay!
Đầu Tháng Tư 1984, dịp may tới, nếu chịu chi, Mai chỉ phải trả một cây
vàng, thay vì hai cây như những người trước đã đòi. Là một người con gái
siêng năng, cần kiệm Mai đã dành dụm được một ít, cộng với số vàng mẹ
cho, vay mượn thêm Mai cũng tạm đủ chi cho người tổ chức chuyến ra đi
“định mệnh” này.
Lợi dụng vào thời điểm bọn cầm quyền lo tổ chức ngày mừng “đại thắng mùa
xuân” của chúng, chúng sẽ lơ là trong việc kiểm tra sinh hoạt của người
dân, người tổ chức chuyến vượt biển hẹn Mai ở một địa điểm tại ngã tư
Bẩy Hiền. Đến điểm hẹn họ giao cho Mai một bé trai khoảng 5 hoặc 6 tuổi,
để Mai dẫn theo. Người đàn ông hướng dẫn viên khoảng 30 tuổi nói nhỏ
vào tai Mai: “Cứ dẫn chú nhóc theo ông ta, và đừng nói gì hết.”
Kể từ thời điểm đó, lúc thì đi bộ, lúc thì đi xe, Mai cứ theo ông ta như
một cái bóng, cho tới khi tới vùng có tên là Rạch Sỏi, thuộc tỉnh Rạch
Giá. Sau đó Mai được đưa vào một căn nhà bỏ trống, ở đó đã có sẵn mấy
chục người đang chờ, nằm ngồi ngổn ngang, người nào cũng ngơ ngác, hoang
mang! Từng toán, rồi từng toán, được từ từ đưa đi ra tầu, tới gần sáng
mới đến phiên Mai, nhóm của Mai gồm có 5 người, là những người cuối cùng
ra bến đợi. Sắp ra tới nơi, thì có tin, những người đi trong đêm, đã bị
bắt khá nhiều, chuyến đi dự tính bị hủy bỏ. Ai nấy cũng sững sờ, buồn
khổ và thất vọng.
Một người trong nhóm khá lớn tuổi, có lẽ là sĩ quan QLVNCH cũ, đến gần
người hướng dẫn viên nói: “Tất cả anh chị em còn lại đây đều xa lạ với
vùng đất này, nếu các anh bỏ họ bơ vơ ở đây, thì họ sẽ xoay sở ra sao!”
Cuối cùng nhóm của Mai cũng được cho ra tới bến bãi để lên tầu!! Con tầu
thay vì chứa được khoảng 50 người, thì giờ này chỉ còn 22 người, kể cả
ông bà chủ tầu và một sĩ quan Hải Quân QLVNCH cũ, làm tài công. Khi đã
yên vị, có chỗ ngồi tương đối thoải mái, Mai đưa mắt đảo qua một lượt để
quan sát những người có mặt trên tầu: ông bà chủ tầu, khoảng trên 50
tuổi, chàng sĩ quan hải quân, làm tài công, đang điều khiển con tầu, có
vẻ khá thành thạo, nghe nói mới “ra trại” được một năm, tuy không còn
phong độ, hào hoa như thời còn trong trang phục của một chàng sĩ quan
Hải Quân QLVNCH, nhưng tạng người cao lớn, vẻ mặt cương nghị của chàng
cũng đã gieo vào lòng Mai một mối cảm tình như nàng đã có với “người
xưa.” Ba người đàn bà khác, cũng trạc tuổi Mai, một bé gái khoảng 8, 9
tuổi, còn lại toàn là đàn ông, con trai.
Mai là người thiếu nữ đẹp nhất bọn, mặc dù trước lúc ra đi nàng đã bỏ
lại những trang phục mà nàng ưa thích hàng ngày. Nàng vươn vai cho giãn
gân cốt, hít một hơi dài không khí trong lành của biển khơi. Nàng mường
tượng, giá chuyến hải hành này, là một chuyến du ngoạn trên một chiếc
tầu hải quân của “phe ta,” bên cạnh có chàng sĩ quan hải quân đang điều
khiển con tầu, thì hay biết mấy, mặc dù nàng cũng có nghe phong phanh là
đàn bà không được phép xuống tầu hải quân. Còn đang thả hồn vào những
mơ mộng phi thực tế, thì từ đàng xa, một con tầu xuất hiện, từ từ tiến
lại mỗi lúc một gần, vừa mừng, vừa sợ. Tưởng có tầu đến cho quá giang
vào trại tỵ nạn, không dè trên bong tầu đang bay phần phật một lá cờ đỏ
chói, với ngôi sao vàng, mỗi lúc một hiện rõ. Cả con tầu tội nghiệp xôn
xao, ai nấy sợ hãi, nhiều người đã rươm rướm nước mắt. Không tới mươi
phút, chiếc tầu của “phe thắng trận” đã cập sát mé tầu của Mai.
Bọn hải giám nhẩy sang lục vấn: “Ai là chủ tầu”? – “Chủ tầu đã bị bắt”!
Một người trả lời. “Ai là tài công?” “Tài công cũng bị bắt!”… Sau một
hồi chất vấn lục soát, tên trưởng tầu hải giám hất hàm hỏi: “Muốn giải
về hay muốn đi tiếp?”… Ông chủ tầu của Mai, sau khi giả vờ bàn bạc với
mấy người gần đó, rồi xuống hầm tầu lên, ông ta đưa cho hắn một gói
giấy, hắn mở ra liếc coi, đút vào túi, ngoắc đồng bọn trở về tầu, bẻ lái
đi thẳng. Mai được một phen đứng tim, thở phào nhẹ nhõm. Trước khi nổ
máy cho tầu tiếp tục cuộc hành trình tìm tự do, chàng tài công, cũng
quay nhìn Mai, như ngầm nói: Có anh đây, em đừng sợ nghe! Một giây bối
rối, một chút xốn xang như chợt hiện ra trong tâm trí người con gái đã
25 cái xuân thì, nhưng chưa hề thực sự nếm mùi vị tình ái ra sao.
Người tài công nổ máy tiếp tục cho con tầu rẽ sóng tiến về phía vịnh
Thái Lan, vì đó là con đường gần nhất cho những người vượt biển đi tìm
tự do để đến Thái Lan hoặc Mã Lai. Chiếc tầu được trang bị hải bàn, máy
móc và lương thực tương đối đầy đủ, người tài công cũng tỏ ra có tay
nghề rất vững làm cho Mai vừa tin tưởng, vừa an tâm. Mai còn vẽ ra trong
trí tưởng tượng là nếu được ghép với chàng thành một cặp, thì có lẽ con
đường tỵ nạn của nàng sẽ suôn sẻ hơn. Hình bóng của chàng sĩ quan Hải
Quân QLVNCH với trang phục trắng tươi, mà một đôi lần nàng bắt gặp trên
hè phố Sài Gòn, vừa thoáng hiện trong tâm tư nàng, thì cũng là lúc mọi
người trên tầu chộn rộn, xôn xao, vì phía trước vừa xuất hiện một con
tầu đang rẽ sóng tiến về phía nàng.“Bọn hải tặc” mọi người cùng thốt lên một lượt. Khuôn mặt trắng tươi hồng hào của Mai bỗng nhiên đổi mầu, xanh như một tầu lá chuối. Ôi, một kiếp hồng nhan! Không biết đã có bao nhiêu những người con gái thân yêu của mẹ Việt Nam đã gặp hoàn cảnh như Mai bây giờ? Lỗi này do ai gây nên?
Bọn hải tặc cho tầu áp sát vào thân tầu của Mai, năm tay súng AK, bốn tên cầm mã tấu, nhẩy sang tầu của Mai, bắt mọi người dồn vào một góc, ra lệnh tháo hết nữ trang, đồng hồ, tiền, vàng bạc đưa cho chúng. Bọn cướp biển này chắc là người Thái Lan, vì nước da của chúng không đen như người Mã Lai. Mai còn đang bán tín, bán nghi, thì đã bị chúng đẩy, đưa qua tầu của chúng, cùng với những người phụ nữ khác.
Một màn hiếp dâm tập thể giữa thanh thiên bạch nhật một cách dã man, tàn
bạo, vô nhân đạo của bọn người man rợ, vào những năm cuối cùng của thế
kỷ hai mươi. Bất chấp sự van xin, đau đớn, kêu khóc, của những nạn nhân
khốn khổ, bọn chúng cứ thay nhau giở trò dã thú một cách bình thản,
không một mảy may xót thương. Cuối cùng thì năm người con gái tội nghiệp
của mẹ Việt Nam cũng được đẩy trả lại con tầu của họ, với nỗi niềm cay
đắng, đau khổ, và đầy tủi nhục. Trời cao có thấu được nỗi niềm oan khiên
này không?! Sự kiện tày trời này do ai gây nên?!
Con tầu, và những thuyền viên trắng tay, vẫn phải tiếp tục cuộc hành
trình trong âm thầm, lặng lẽ, mọi người, không ai bảo ai, đưa cặp mắt
thất thần, nhìn sóng nước biển khơi, đôi dòng châu lã chã.
Cuộc đời đúng là bể khổ cho dân tộc Việt Nam, nói chung, và cho những
sinh linh tội nghiệp trên con tầu vượt biển của Mai, nói riêng. “Phúc
bất trùng lai, họa vô đơn chí”! Hết bọn hải tặc này, tới quân cướp biển
khác, thay nhau cướp bóc và hãm hiếp những người trên con tầu nhỏ bé,
mong manh của những người đi tìm tự do; tất cả là bẩy lần. Những người
con gái tội nghiệp của chúng ta xơ ra như những trái mướp già, hầu như
không một ai còn đủ vài giọt nước mắt để tuôn ra trên những gò má nhăn
nhúm, khô ráp vì đau khổ, và vì gió biển! Lần thứ bẩy hai tầu của bọn
hải tặc áp sát con tầu của Mai, chúng ào qua, lột trần quần áo của phụ
nữ và “hành xử” tại chỗ, không một chút e dè, giống như chúng đang làm
những công việc rất bình thường khác. Sau khi thỏa mãn thú tính, Mai
được “chấm,”, để được làm “vợ”một tên trong bọn chúng, và được chuyển
sang tầu của chúng.
Nhưng tội ác không được dừng lại ở đó, bọn mình người, dạ thú đó, cho
hai con tầu của chúng làm thành thế gọng kìm rồi húc cho tới khi con tầu
xấu số với hai mươi mốt sinh linh chìm hết dưới biển, thành mồi cho lũ
thủy quái, mới chịu bỏ đi. Chỉ còn mình Mai, được quấn trong một tấm
vải, không quần, không áo, co ro như con tôm vừa bị lột vỏ, thất thần
nhìn bạn đồng hành chới với vật lộn với sóng biển, rồi thay nhau, từ từ
chìm vào lòng đại dương, trong uất hận, căm hờn. Tội ác này do ai mà
ra?! Mai nhắm mắt không dám nhìn thêm nữa, đầu óc quay cuồng, tưởng như
muốn điên dại, vì sự dã man, tàn bạo, mà chưa bao giờ, Mai có thể hình
dung nổi.
Chúng cho Mai ở trong một góc nhỏ của con tầu, rồi đi tìm những vị trí
có nguồn cá để thả lưới. Thì ra bọn chúng không phải là hải tặc chuyên
nghiệp, mà là ngư phủ Thái lan, chúng vừa đánh cá, vừa cướp bóc những
con người cùng khổ chẳng may lọt vào tầm ngắm của chúng. Sở dĩ chúng
phải sát hại những thuyền nhân của chúng ta, vì chúng sợ lộ hành tung
cướp bóc của chúng. Nhưng cho dù vì bất cứ lý do nào chăng nữa, tội ác
của chúng cũng thật đáng kinh tởm, và không thể dung tha!
Sau khoảng ba tuần làm “vợ” hờ cho một tên có vẻ có máu mặt trong bọn,
và khi tới thời kỳ vào đất liền để lấy thực phẩm, gã “chồng hờ” của Mai
cho nàng vào một chiếc thùng đựng nước, bỏ theo một ít thực phẩm, rồi
thả xuống biển, mặc cho con Tạo xoay vần ra sao thì ra! Chúng không dám
đem nàng vào đất liền, sợ bị lộ tẩy.
Thì ra Trời cũng còn “một” mắt, nên suốt một tuần lênh đênh trên biển
trong chiếc “vỏ sò” đó, biển không nổi phong ba, và rồi những con sóng
nhỏ hiền lành cứ từ từ đẩy nàng gần tới bờ. Mặc dù có một khúc cây,
nhưng Mai không biết chèo chống chi cả, nên chiếc thùng cứ loay quay như
gà mắc thóc, và cứ luẩn quẩn lúc vào, lúc ra. Từ nhỏ tới lớn, Mai chỉ
biết ăn học, và làm những việc nhẹ, cơ thể mảnh khảnh, chân tay yếu
đuối, thì làm sao có thể chống chọi với đại dương bao la, đầy bất trắc.
Đang lúc phân vân, lo lắng, để kiếm cách tiếp cận với bờ, thì một chiếc
ca nô chạy tới gần, Mai vội cởi chiếc áo ngoài vẫy lia lịa, nhưng than
ôi, khi tới gần, nó đảo qua vài vòng, rồi chạy đi mất. Mai ngồi thụp
xuống, nước mắt trào ra, vừa thương thân, vừa giận mình sao mãi gặp
những nghịch tang thương thế này.
Nhưng ơ kìa, chiếc ca nô do ông già ban nãy cầm lái, đang lướt sóng trở
lại. Khi gần tới nơi, ông ta quăng cho Mai một đầu giây, Mai chộp vội
lấy cuốn chặt vào tay, gật đầu ra dấu. Ông già cho ca nô kéo Mai vào gần
tới bờ, thì chạy thật nhanh, rồi buông sợi giây, để chiếc thùng của Mai
tự lao vào một mình, vì chính quyền Thái đã ra lệnh cấm không cho công
dân của họ vớt người vượt biển.
Cảnh sát Thái trên bờ đã trông thấy cảnh tượng hãn hữu đó, cho xe ra tận
nơi, đưa Mai vào đồn cảnh sát. Ngày hôm đó, Mai vẫn còn nhớ, chính là
ngày mùng 1 Tháng Năm 1984, sau đúng một tháng “bẩy nổi ba chìm” trên
sóng nước bao la. Một người đàn bà Thái, hay làm từ thiện, nghe được tin
tức trên đài phát thanh, đến đồn cảnh sát, xin lãnh Mai đưa vào bệnh
viện, để khám sức khỏe và điều trị.
Một tuần sau, Mai được thông báo nàng đã có thai, nàng để tay lên bụng,
nước mắt tuôn trào, thương cho phận mình, thương cho đứa con vừa được
tượng hình trong hoàn cảnh vô cùng éo le này. Nơi Mai điều trị là một
bệnh Công Giáo, nên không có chuyện phá thai. Ít lâu sau Cao Ủy Quốc Tế
về người tỵ nạn CS đến phỏng vấn, rồi đưa Mai đến trại tỵ nạn Song Khla,
đã có rất nhiều người Việt ra đi vào những năm trước đó hiện đang ở
đây. Chỉ mấy ngày sau đó Mai cảm thấy khó ở, thì ra cái thai đã tự nhiên
bị đào thải ra ngoài. Cũng còn may, vì một vấn nạn đã được ơn trên sắp
đặt, an bài!
Trong vòng nửa năm ở Thái lan Mai đã lần lượt được chuyển đi các trại:
từ Song khla đến Sikiew, rồi qua Panat Nikhom. Trong thời gian ở qua các
trại tỵ nạn, Mai được nghe nhiều truyện cũng rất thương tâm cho số phận
những thuyền nhân Việt Nam:
Có những con tầu với 40-50 người lúc ra đi, nhưng chỉ vào tới bờ được 4-5 người mà thôi!
Một chiếc thùng phi đã cứu mạng được 5 phụ nữ và một em bé, của một
chiếc tầu bị bọn man di, mọi rợ phá hủy cho chìm, để phi tang.
Trước cảnh em gái bị hãm hiếp, một thanh niên nhảy vô sống mái với hải
tặc, đã bị chúng dùng cây sắt đánh rơi hàm dưới ra, chỉ còn dính miếng
da.
Một người chồng thấy vợ bị làm nhục ngay trước mắt, cũng liều chết xông
vào ăn thua đủ với bọn côn đồ, hải khấu; bị chúng đổ xăng đốt cháy,
nhưng đã nhanh chân nhảy xuống biển, bám vào cánh chân vịt của con tầu,
vì là ngư dân, nên anh ta có thể cầm hơi dưới nước khá lâu, cho tới khi
chúng bỏ đi, mới dám trồi lên. Sau khi bọn hải khấu bỏ đi, chiếc tầu của
đám thuyền nhân này cũng bị hỏng máy, nhưng ý chí phấn đấu với nghịch
cảnh của họ vẫn mạnh mẽ; họ đã cùng nhau làm một chiếc bè, và cuối cùng,
mọi người trên bè cũng được kéo vào bờ, kể cả người bị đánh rụng hàm,
và người bị đốt phỏng lưng!
Trường hợp của Mai là một “case” quá đặc biệt, nên Mai đã được đặc cách
giải quyết sớm, nên chỉ sau nửa năm, Mai đã có mặt tại tiểu bang New
York, Hoa Kỳ. Một người con gái yếu đuối như Mai, mà phải vượt qua một
giai đoạn kinh khủng như kể trên, mà giờ này vẫn còn tồn tại bình yên,
thì quả là một sự kiện đặc biệt, hiếm có trong số mấy triệu người Việt
tỵ nạn CS trên khắp thế giới.
Kính thưa quý độc giả thân thương, không phải chỉ một mình Mai chịu số
phận oan khiên nghiệt ngã như trên, mà còn hàng trăm ngàn người con gái
khác của mẹ Việt Nam cũng cùng chung số phận như Mai, và còn hơn Mai, là
vì họ đã mãi mãi nằm sâu trong lòng đại dương bao la, và mãi mãi không
thể ngậm cười nơi chín suối. Chế độ nào, tập đoàn nào đã tạo ra thảm
cảnh này? Chẳng cần ai phải trả lời câu hỏi ngớ ngẩn này! Vậy mà, chúng
ta có biết không, đã có biết bao nhiêu người, mới đó, giờ này đã không
còn nhớ gì tới những “thành tích” đáng nguyền rủa của CS. Mẩu truyện nhỏ
rất trung thực trên đây được thâu âm, rồi viết lại cho trôi chảy, để
phần nào nhắc nhở cho những ai mau quên quá khứ, mà lại cả tin vào những
ngọt bùi, gian trá của bọn lưu manh, được phần nào thức tỉnh. Xin chân
thành cảm ơn sự theo dõi câu truyện của quý độc giả.
TQC Van Truong
TQC Van Truong
SƠN TRUNG * CƠN ĐẠI HỒNG THỦY
CƠN ĐẠI HỒNG THỦY
SƠN TRUNG
Buổi chiều, trên bờ sông, hoa xoan đã nở. Những đám mây hiện rõ và trôi
lững lờ trên dòng sông. Đã mấy hôm nay, hình bóng của Mai hiện rõ trong
tâm trí Long. Mai đã về quê ngoại mấy hôm rồi, khiến Long nhớ nhung mãi
hoài. Cúc, cô hàng xóm , và cũng là cô bạn cùng trường của Long, bỗng
đến ngồi cạnh Long:
-Sao trông anh buồn quá vậy? Anh nhớ Mai à? Anh có muốn đi chơi với em không?
Long bèn theo Cúc lên đồi sim vắng, rồi cả hai cùng ngồi xuống đám cỏ xanh. Cúc cần tay Long rồi ôm Long. Cả hai cùng nằm bên nhau suốt buổi chiều. Đến tối cả hai mới trở về. Nhưng từ ngày hôm đó trở đi, Long it khi gặp Cúc. Long mang tâm trạng chán chường vì người Cúc không thơm., không êm ái, và hai thân thể không có sự hòa hợp chặt chẽ như những lần bên Mai..
Mãy hôm sau, Long bỗng nhiên gặp lại Cúc tại chợ phiên. Cúc vui vẻ đi bên Long, và Cúc rủ Long đi chơi Suối Tiên. Khi cả hai đi ngang cửa hàng của một ông thầy bói, Cúc rủ Long vào xem bói. Long để cho Cúc vào xem một mình, còn chàng thì ngồi ở bên ngoài cửa. Xem xong, Cúc không trả tiền, nàng bảo thầy bói nói sai. Thái độ của Cúc làm Long vô cùng chán nản vì nàng quá bủn xỉn và cay nghiệt. Một cảm giác buồn nôn xâm chiếm Long khiến Long không còn muốn tiếp tục đi chơi với Cúc nữa. Chàng bảo nàng chàng cảm thấy đau đầu, muốn trở về, không đi chơi Suối Tíên nữa. Cúc có vẻ giận. Và từ đó, Long chấm dứt liên hệ tình cảm với Cúc. It lâu sau, Long kết hôn với Mai, và hai vợ chồng sinh được một trai, một gái. Tất cả sống trong một gia đình hạnh phúc cùng với cha mẹ ruột của Long.
Năm nay, nhân dịp năm ngưởi già thế giới, triều đình có chương trình y tế săn sóc người già. Tại thủ đô và vài nơi trong nước, bộ Y Dược đã xây dựng những cơ sở to lớn cho người già vốn là quan lại trong triều cho đến quan lại các quận huyện cùng thân nhân của họ. Triều đình cũng hứa hẹn sẽ xây dựng các cơ sở y tế cho người già thuộc diện nhân dân toàn quốc. Chương trình tiếp theo là khám bệnh tổng quát cho người già từ 60 tuổi trở lên. Việc khám tổng quát này chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là các cựu quan lại trung ương cho đến quận huyện cùng gia đình của họ. Các lão nhân này đã tập trung tại các bệnh viện đặc biệt, và chỉ một vài ngày hoặc một tuần thì họ trở về với giấy chứng nhận sức khoẻ tối hảo. Giai đoạn thứ hai là cựu cán bộ xã thôn và dân chúng. Họ nhận được giấy gọi tập trung tại một số trường học và nhà thương. Các cụ ông tập trung một nơi, các cụ bà tập trung một nơi khác.
Tại trường tiểu học tỉnh lỵ, các ông già tập trung đông đảo. Có khoảng hai ba trăm người. Ai cũng tay xách, nách mang. Nào y phục, nào thực phẩm, thuốc men. Lệnh trên ban xuống mỗi người phải chuẩn bị lượng thực trong một tuần. Ông Năm gặp lại các bạn gìà nên ông rất vui vẻ. Gặp ông Bảo, cựu giáo viên, ông tiến đến chào hỏi thân mật:
-Bác gái đâu mà tôi không thấy?
-Bà nhà tôi được lệnh tập trung tại bệnh viện Đa khoa.
-Còn bà nhà ông thị tập trung ở đâu?
-Bà nhà tôi tập trung tại trường trung học gần nhà.
Ông Bảo cười nói vui vẻ:
-Tụi mình già cả hết rồi, không bệnh kia thì bệnh nọ. Triều đình ta nay chú trọng việc chăn sóc sức khoẻ cho người già, thật là đáng hoan nghênh hết sức. Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, chưa có chính phủ nào lo mặt y tế cho người già chu đáo như triều đình ta nay.
Hai ông đang nói chuyện thì ông Lưu, bạn hàng xóm ông Bảo tiến đến, ba ông vui vẻ chào hỏi nhau.
Ông Lưu hỏi:
-Các ông có biết tụi mình phải tập trung bao lâu không?
-Khám sức khỏe thì chỉ vài ngày là cùng.
- Triều đình ra lệnh những người già từ 60 tuổi trở lên phải tập trung để kiểm tra sức khoẻ, và chỉ mang lương thực một tuần. Như vậy là chúng mình chỉ xa nhà một tuần thôi.
Ba ông chào hỏi nhau xong thì phân tán mỗi ông mỗi nơi vì ai cũng muốn tìm kiếm ngườI quen để chào hỏi và hỏi tin tức. Các ông gặp khá nhiều người quen nhưng cũng không hỏi được tin tức gì mới lạ. Nhìn ra cổng trường thì họ thấy nhiều người trẻ dáng chừng là con cái những thân nhân đã đến tập trung tại trường. Họ không nỡ rời xa cha mẹ nên còn lẩn quẩn không bỏ về nhà. Họ tập trung khá đông đảo nên quan trên sai lính lệ đuổi họ về kẻo họ làm trở ngại lưu thông. Sau khi các bô lão đến đầy đủ , cửa trường đóng lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Trước cổng trườ ng, lính canh phòng nghiêm nhặt.
Khi các ông già đến địa điểm tập trung thì họ liền trình giấy gọi tập trung để các thư lại ghi tên vào sổ. Sau đó họ liền được gọi điểm danh, rồi nghe quan trên giảng dạy. Các quan cho biết triều đình chăm lo sức khỏe của người già nên từ nay những người già từ 60 trở lên được tập trung để khám sức khỏe. Những ai không có bệnh thì được chích ngừa, rồi về với gia đình. Còn ai có bệnh thì sẽ được ở lại chữa bệnh cho đến khi lành sẽ về . Ai không có gia đình thì ở lại trung tâm người già, và được triều đình chăm lo mọi mặt. Nghe quan lại giải thích, các bô lão đều tỏ ra hân hoan. Có người cảm động khóc sụt sịt như trẻ con.
Buổi trưa và chiều, ai nấy đều đem lương thực ra ăn. Đến tám, chín giờ tối, một số các cụ đã lăn ra nền gạch nằm ngủ. Bỗng mười một giờ đêm, mọi người được lệnh ra sân tập họp để đến địa điểm mới. Có khoảng mười xe, xe nào cũng kín mít như xe chở hàng hóa xuyên liên bang, hay như xe chở tù nhân. Mỗi xe ba chục người, ai lên sau phải đứng. Xe chạy ra ngoài thành phố. Càng đi xa, con đường càng trắc trở khó đi. Đi được gần một ngày thì biến cố xảy đến. Mọi người muốn đi tiêu, đi tiểu nhưng cảnh vệ không cho phép, tài xế phải chạy suốt, không được ngưng lại giữa đường. Vì vậy mà đa số ông già đã tiêu tiểu ngay trong xe. Xe đóng kín mít, không làn gió mát, không ánh sáng. Mùi mồ hôi, nay lại thêm mùu xú uế của tiểu và phân người. Đâu đó có tiếng kêu:
-Có người té xỉu!
-Cấp cứu! Cấp cứu! Có người chết ngạt.
-Tài xế! Dừng xe! Có người đau tim!
Nhưng tài xế và lính lệ im lặng vì họ đã được chỉ thị trước là phải im lặng trong mọi tình huống. Cho đến sáng hôm sau, cả đoàn xe, và một số đoàn xe khác được phép tiến vào một thung lũng có khu trại rộng lớn, ở ngoài cổng có bảng đề năm chữ lớn “ Trại An Dưỡng Bồng Lai” . Đó là trại tù “Đại Gian ” nay đổi tên. Các tù nhân cũ đã được lệnh dờI đến một địa điểm khác nhường chỗ này cho các bô lão.
Khi bước xuống xe, một số lão nhân đã té xuống mà không đứng dậy được vì mấy ngày phải dứng trong xe, không có chỗ nhúc nhích. Họ không được ăn uống lại phải chịu cảnh hôi thối tồi tệ hơn trong một chuồng bò, chuồng ngựa. Một số bại liệt, các lính lệ phải khiêng xuống và đưa vào phòng y tế. Một số đã chết. Trong khoảng năm trăm trại viên mới đến đã có một trăm bại liệt và lâm bệnh trầm trọng, còn 50 trại viên chết trong xe khi di chuyển. Người chết thì trại lập biên bản riêng rồi đem chôn trên đồi. Người bệnh nặng thì cho vào bệnh xá, còn những ai khoẻ thì vào trại. Trại có 8 dãy nhà, trước đây do tù nhân lợp để cho tù nhân ở. Mái lợp tranh. Mỗi dãy nhà cách nhau khoảng 10 thước, ở giữa có hàng rào tre che kín. Tám dãy nhà này là khu tù nhân. Trong mỗi nhà có giường gỗ hoặc giường tre, làm bằng các cây tre để nguyên ống. Các chân giường là những cây gỗ to bằng bắp chân. Ngoài ra cũng có những khu khác như khu nhà ban quản đốc, khi cảnh vệ, khu bệnh xá, khu lao động, khu ẩm thực, khu vật liệu và khu văn hóa gồm thư viện và hội trường.. Giữa khu này qua khu kia có cổng đóng kín và có lính lệ mang súng canh gác.
Sau khi vào trại, các lão nhân được tập trung ở hội trường để nghe chúa trại giảng giải chính sách của triều đình và nội quy của trại. Nội quy của trại gồm những điều sau:
1. Tất cả tiền bạc, đồng hồ, đồ kim khí, đồ vật quý phải trình nạp cho trung tâm cất giữ.
2. Sau khi ăn chiều xong, mọi người có quyền tắm rửa giải trí, hoặc tập thể thao..
3. Chín giờ tối, lên giường ngủ. Không được nói chuyện, hay đi lang thang..
4. Sáu giờ sáng các trại viên phải thức dậy, đánh răng, rửa mặt và ra sân tập thể dục tập thể.
5. Trong đêm muốn đi tiêu, đi tiểu phải xin phép tổ trưởng.
6. Cấm ngặt ăn cắp của trại, của quan lại và các người khác.
7.Nghiêm cấm mọi sự tranh cãi, ấu đả .
8. Cấm dâm dục
9.. Cấm hối lộ.
10. Mỗi phòng, mỗi khu đều có lính trông coi. Trại viên phải tuân lệnh tuyệt đối, không được cãi cọ hay hành hung người triều đình.
11. Ai làm trái nội quy, nhẹ thì bị nhốt từ một ngày đến một tháng, nặng hơn nữa thì bị biệt giam từ vài ngày đến vài tháng.. Nếu ai phao tin đồn nhảm hoậc có ý chống triều đình sẽ bị đưa lên tòa án xử phạt theo luật định, hoặc chúa trại cũng có thể chấp hành pháp luật trừng trị thẳng tay.
Viên chúa trại cho biết triều đình rất quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, mà chú ý đặc biệt về sức khoẻ của ngườI già. Người già thì suy yếu, nhiều bệnh tật nên triều đình phải tập trung để kiểm tra toàn diện. Ai không bệnh sẽ trở về, ai bệnh nhẹ thì ở lại một thời gian ngắn, ai bệnh nặng thì cần thời gian dài hơn. Sau khi lành bệnh, những ai không có gia đình hoặc muốn ở lại thì triều đình sẽ chấp thuận, vì triều đình luôn chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là những nhân dân già cả. Viên chúa trại thuyết trình xong, hỏi ai có thắc mắc thì cứ hỏi.
Vì đường xa, quá mệt mỏi, it ai đưa ra thắc mắc hoặc tham dự cuộc tranh luận. Cuối cùng, các cụ chia thành tổ , rồi bầu tổ trưởng, tổ phó và được lính lệ dẫn vào các phòng. Lính lệ vào hướng dẫn cách sắp xếp đồ vật cá nhân, chỗ xếp quần áo, chân màn và chỗ nằm từng tổ. Sau khi các cụ vào trại, lính lệ kiểm soát lần nữa, rồi ra ngoài khóa cửa lại. Trong đêm, những ai muốn đi tiêu, đi tiểu thì phải kêu to, xưng tên, và nói rõ là xin đi tiêu hay đi tiểu. Khi tổ trưởng chấp thuận thì các trại viên mới được ngồi dậy đi vào một cái thùng đặt ở góc phòng.
Sáng ra, mọi người thức dậy từ sáu giờ sáng, đi tiêu, đi tiểu, đánh răng, súc miệng, rửa mặt và tập thể dục trong phòng. Tổ trưởng cử ngưởi đổ thùng phân và nước tiểu và quét dọn phòng. Khoảng 7 giờ, mọi ngưới ăn sáng rồi đi lao động. Nhóm mộc thì cưa đẽo, đục, lo đóng bàn ghế. Nhóm canh nông thì xúc phân, đổ nước tiểu và trồng lúa, khoai, sắn. Nhóm lâm sản đi săn bắn và hái củi. Mỗi trại viên ngày ăn ba bữa, mỗi bữa không đầy một bát cơm. Bữa ăn thường là cơm độn khoai sắn hay bắp. Thức ăn là một món canh và một món kho hay xào. Canh thường là rau muống. Mỗi nồi canh nấu cho trăm người, gồm rau muống để nguyên, không cắt, không chẻ, không loại bỏ rau già, chỉ rửa sơ sài, nấu với một con gà hay hai ba ký xương bò, xương heo. Món xào thường là rau muống xào thịt bò hay thịt heo, món mặn thường là cá hay thịt kho với bầu bí, cà chua, cà dái dê. Rau muống, bầu bí hoặc cà chua đều là trại viên trồng trong trại. Mỗi trại viên nói chung là được vài muỗng canh, một lát thịt hay một miếng cá kho nhỏ. Phần lớn các cụ không ăn nổi, Mỗi tuần, các trại viên mỗi phòng thực hiện việc kiểm điểm hàng tuần. Cụ Lâm là một thương gia ở kinh đô thắc mắc:
-Tại sao triều đình lại đối xử với chúng tôi như tù nhân?
Viên phó chúa trại tuổi khoảng ba mươi giải thích:
-Đây không phải là trại tù mà là trường học. Các anh xưa nay sống cá thể, nay các anh phải làm cuộc cách mạng, phải sống một đời mới của tập thể nghĩa là mọi người cùng làm, cùng ăn và cùng ngủ. Có sống cuộc sống tập thể thì mới tiến lên đại đồng, không còn phân chia giai cấp, không còn biên cương quốc gia, mọi người trên toàn cầu là anh em một nhà.
Viên trưởng ban chính trị, tuổi khoảng bốn mươi, lên tiếng giảng dạy:
- Các anh đã già không nên ăn nhiều mà phải ăn theo quy định y tế để đảm bảo sức khỏe. Các anh lại phải lao động vì lao động là vinh quang, lao động là luyện tập cơ thể. Tất cả các anh hiện nay đang được triều định giáo dục và bồi dưỡng. Các anh phải cố gắng học tập tốt, cố gắng lao động tốt để khỏi phụ tấm lòng đại nhân, đại nghĩa của hoàng thượng và triều đình!
Cụ Nhân, một cai đội hưu lên tiếng:
-Tại sao không kiểm tra trong thành phố mà phải vào nơi rừng núi hoang vu?
Viên chúa trại trả lời:
-Ngày nay, quả địa cẩu nóng lên và sinh ra nhiều bệnh dịch. Triều đình ta biết trước việc này nên phải đưa các anh lên chốn núi rừng để tâm hồn các anh được thanh tĩnh, đồng thời tránh sự lây lan trong dân chúng.
Y sĩ Nho hỏi:
-Tại sao chuyên chở chúng tôi như chuyên chở súc vật, không cho chúng tôi ăn uống, nghỉ ngơi, và đi tiêu, đi tiểu?
Viên phó chúa trại trả lời:
- Triều đình ta có nhiệt tình săn sóc sức khoẻ cho nhân dân nhưng vì thiếu phương tiện nên bọn các anh phải ngồi chật. Việc xe chạy liên tục là để tránh chậm trễ, triều đình săn sóc các anh nên muốn đưa các anh mau đến nơi an dưỡng.Tất cả là do lòng yêu nước và yêu nhân dân của hoàng thượng và triều đình..
Cụ Văn là một giáo viên xin hỏi:
-Triều đình ra lệnh tập trung một tuần sao đã mấy tháng qua, chúng tôi chưa được về mà còn phải lao động như tù nhân, như nô lệ? Triều đình nói kiểm tra sức khoẻ mà đến nay chúng tôi vẫn không thấy bóng y sĩ hay y tá đâu cả. Xin các quan lớn giải thích rõ ràng, đừng lừa dối nhân dân.
Viên chúa trại trả lời:
-Triều đình ra lệnh các anh mang lương thực một tuần chứ không nói các anh chỉ đi một tuần. Hiện nay, trung tâm chưa thực hiện được việc khám tổng quát là vì thiếu y sĩ. Các anh phải chờ đợi một thời gian nữa!
Tuy các quan đã bào chữa và cố gắng thuyết phục nhưng một số các cụ vẫn phản đối. Cụ Vân là một đại thương gia, luôn sống trong cảnh phú túc, không chịu nỗi cư cực. Và cụ Minh, một luật sư không chấp nhận hành động phi pháp của triều đình, quyết tâm tuyệt thực. Hai cụ còn vận động một số bạn già tuyệt thực tập thể. Chúa trại cho gọi mấy ngườI này lên văn phòng, và khuyến dụ họ, song họ không chịu. Cụ Vân nói:
-Chúng tôi không phạm tộI, tại sao đối xử như tù nhân? Dù chúng tôi phạm tộI gì, chúng tôi phải được pháp luật triều đình xét xử công minh.
Cụ Minh phát biểu:
Không thể đưa chúng tôi vào rừng sâu bỏ cho chết đói như thế này. Yêu cầu triều đình phải đối xử công bằng và nhân đạo với nhân dân.
Viên chúa trại tức giận, đập bàn quát lớn:
-Chúng bay là những thằng già vô ích, không sản xuất, không làm gì có ich lợi cho nhân dân, cho đất nước. Giết sạch chúng bay hàng triệu đứa thì triều đình thu lợI hàng triệu, hàng ức lạng vàng hàng năm. Chúng bay cũng gần kề miệng lỗ, chết sớm vài năm thì cũng tốt thôi. Nuôi chúng bay chỉ tổn hại cơm gạo. Đáng lẽ chúng tao cho chúng bay chết đói từ ngày đầu tiên vào đây, nhưng chúng tao còn chờ lệnh trên. Chúng bây là những tử tộI sắp lên đoạn đầu đài mà không biết thân còn biểu tình, tranh đấu vớI tuyệt thực!
Sau khi la mắng xong, viên chúa trại ra lệnh đem các cụ giam tại khu biệt giam (khu này còn gọi là khu kiên giam). Khu biệt giam là một hòn đảo giữa một cái hồ rộng nuôi cá sấu. Có một cái cầu bắc từ trong bờ ra khu kiên giam. Khu kiên giam là một gò đất, là một cái nhà hay cái chuồng làm bằng gỗ, trên lợp tôn, xung quanh có lứới sắt bao bọc. Có hai tầng, cách biệt nhau bằng những thân cây đóng khít nhau.Mỗi tầng co hai hay ba phòng, mỗi phòng có thể nhốt một hai người. Các trại viên bị kỷ luật thì bị xiềng xích chân tay, mỗi ngày chỉ được ăn một bữa.. Những ai đã vào đây khoảng hai tuần cho đến một tháng đều chết hết. Nhưng ở tầng trên thì thoải mái hơn.
Đến tháng bảy âm lịch, tại miền Bắc là mùa mua lũ. Cơn mưa càng ngày càng dâng nước lên cao khiến các trại viên phải ở nhà không đi lao động được. Đêm đến như thường lệ, các thầy đội ra lệnh nhốt các trại viên vào phòng và khóa trái cửa bên ngoài. Khoảng nửa đêm, chúa trại ra lệnh tập họp các thầy cai, thầy đội và lính lệ mang hành lý ra bên ngoài trại. Tại đây có xe lớn, xe con đợi sẵn. Họ lặng lẽ lên xe đến một nơi khác, bỏ mặc sau lưng đám người già sắp bị chết đuối.
Nước dâng mỗi lúc một cao, nước đã vào phòng ngủ của trại. Các cụ hoảng hốt kêu gọi nhau:
-Nước lụt các bác ơi! Nước lụt ngập trại!
-Dậy mau! Dậy mau!
- Các thầy cai, thầy đội ơi ! Mở cửa! Mở cửa! Cứu chúng tôi!
-Người ta giết chúng tôi! Xin TrờI Phật phù hộ chúng tôi!
-Lạy Quan Thế âm bồ tát! Xin bồ tát cứu khổ, cứu nạn chúng con!.
-Lạy chúa! Xin cứu vớt chúng con!
Trong trại toàn là tiếng kêu than, nguyền rủa. Một vài cụ khoẻ mạnh đã leo được lên mái nhà hoặc chạy ra ngoài. Những ai chạy ra ngoài liền bị nước cuốn trôi đi ra sông, ra biển.
Trận lụt năm này đã làm cho núi rừng ngập lụt. Nước từ núi cao chảy về. Nước từ biển cả dâng lên. Hàng vạn dân chúng miền núi và miền xuôi bị trôi ra biển. Triều đình thông báo trận lụt đã cuốn trôi một số đông quan lại bộ Y, quan quân, và giết hàng vạn các lão nhân tại các trung tâm an dưỡng toàn quốc. Việc này đã gây ra một phản ứng dữ dội trong toàn quốc. Những ai có cha mẹ thiệt mạng trong trận bão lụt đã lên tiếng chỉ trích chính sách vô trách nhiệm của triều đình. Có kẻ gửi thư lên vua, có kẻ viết thư cho Đô ngự sử hoặc phủ huyện kêu oan, có người viết cáo thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng lên tiếng phản kháng.. Vua quan tức giận, cho họ là phản động nên ra lệnh bắt giam họ hoặc sa thải họ.
Thân phụ của Long nhờ bám vào một thân cây cho nên trôi vào một bờ sông. Cụ được một ngườI chài lướI vớt được đưa vào nhà cấp cứu và nuôi dưỡng. Sau vài bữa, cụ tỉnh lại, cụ thuật mọI việc cho ngườI thuyền chài nghe. Sau vài ngày, ngườI chài này dùng thuyền âm thầm đưa cụ về làng cũ. Chờ nửa đêm khuya vắng, ông dắt cụ về nhà. Nửa đêm, nghe tiếng gõ cửa, mọi người trong nhà Long lo lắng vì sợ lính lệ hay tuần phu đến xét nhà. Khi thấy một ngườI lạ dẫn bố mình về, Long vô cùng ngạc nhiên và vui sướng. Long mờI khách vào nhà ngỏ lờI cảm tạ. Long đem tiền bạc biếu người thuyền chài nhưng ông ta từ chối. Ông xin phép về ngay vì ở lại lâu bất tiện.
Sau khi khách ra về, Long hỏi bố mọi việc, Long mới biết bố mình đã thoát hai đại nạn. Long dặn mọi người trong nhà không được tiết lộ bí mật. Mẹ Long cũng đã đi trình diện thế là đã chết trong cơn đại hồng thủy. Long thương xót mẹ già. Long giấu bố trong chuồng heo. Chuồng heo nhà Long khá lớn, có hai phần. Một phần nuôi heo, còn phần bên cạnh để chứa dụng cụ và đồ cũ. Long đào một hầm bí mật tại đây, xây gạch đá vững chắc. Một tấm gỗ làm cửa, trên phủ rơm. Khi làm xong hầm, Long đưa bố vào ẩn lánh trong này. Hàng đêm, đích thân Long đưa cơm nước cho bố.
Mỗi buổi chiều, các cô gái thường ra sông giặt quần áo. Cúc thường gặp Lan, Hạnh, Hường và Hoa. Giặt quần áo xong, Cúc thường ngồi trên tảng đá trên bến chuyện trò với các bạn gái.
Hạnh nói:
-Con Mai xấu thế mà được anh Long yêu và cưới làm vợ! Số phận chúng mình thật thua kém!
Hoa nói:
- Vợ chồng là do duyên phận, so sánh làm chi cho mệt!
Cúc mang những thư trong túi ra khoe cùng bè bạn:
-Nhiều chàng trai làng và ngoài tỉnh gửi thư cho tao mà tao không chưa yêu ai cả! Trước khi cưới Mai, Long đã cầu hôn tao mà tao không chịu. Nay Long đã cưới Mai mà Long vẫn chạy theo van nài ban phát chút tình yêu! Anh chàng thật trơ trẽn!
Ban đêm, Cúc thường nhìn sang nhà Long, thấy cảnh Long âu yếm Mai mà lòng nàng tức giận vô cùng. Nhà Long và nhà Cúc cách nhau một hàng rào dâm bụt. Nhiều đêm, Cúc bò qua hàng rào sang nhà Long nhìn vào phòng vợ chồng Long. Trong khi vợ chồng Long ngủ say, Cúc đứng thẩn thờ lòng đầy uất hận. Bỗng một đêm, Cúc thấy Long mở cửa ra sau vườn, tay mang một thúng nặng. Cúc đi theo và thấy Long vào chuồng heo. Cúc tính liều xông ra ôm đại Long. Nhưng Cúc thấy Long nâng tấm ván và chui vào một hầm bí mật. Cúc biết Long có sự bí mật. Long giấu một kho tàng ư? Hay Long giấu một tên cướp? Hay Long nấu rượu lậu?
Theo dõi một thờI gian, Cúc thấy đêm nào Long cũng vào chuồng heo và bưng theo một cái thúng vào. Cúc bèn bỏ thư rơi cho viên lý trưởng, báo cho biết có tên cướp ẩn náu trong chuồng heo nhà Long. Đêm đến, viên lý trưởng bèn đem tuần phu vây nhà Long và bắt được thân phụ Long và giải lên huyện. Quan huyện kết tội bố Long trốn trại, và Long chấp chứa phản động. Bố Long bị đày ra đảo, ít lâu sau rồi chết. Còn gia đình Long bị đuổI ra khỏi làng, phải lên tập trung sản xuất tại rừng núi xa xăm, mà sau cũng không ai biết tông tích.
Trong thời gian nước Đại Lạc bị cơn hồng thủy, mấy chiếc tàu quốc tế nghiên cứu môi trường đại dương có mặt ngoài biển. Họ đã vớt được một số nạn nhân của cơn hồng thủy. Những người trẻ thì sau vài ngày chữa trị , họ đưa vào bờ . Còn những lão nhân thuộc các trung tâm An Dưỡng, thì được đưa về trung tâm y tế thế giới. Sau một thời gian trị bệnh, các cụ tỉnh lại và tường thuật lại những sự thực tại các trung tâm an dưỡng. Sau đó, hội Bảo vệ nhân quyền, hội bảo vệ người già cùng nhau nghiên cứu và đi đến những khám phá mới về các chính sách của triều đình Đại Lạc quốc. Họ kết luận:
Trung tâm an dưỡng sự thực là những lò sát sanh. Họ theo đường lối cách mạng đỏ là đường lối duy vật vô nhân đạo nhằm đối phó nạn nghèo đói. Chính sách này có những điểm sau:
-Không nuôi nấng, không chữa bệnh cho người già từ 60 tuổi trở lên, mà phải giết họ đem bón cây để khỏi hao tốn tài nguyên quốc gia.
-Không cho thanh niên nam nữ kém sức khỏe được kết hôn và sinh đẻ. Nếu không giết thì phải thiến hoặc hoạn những người này.
-Trẻ con đẻ non, yếu đuối bệnh tật thì giết đi đem bón phân hay làm thực phẩm gia súc
-Mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh được một đứa con.
-Những người tự tử thì không được cứu chữa, để cho họ chết theo ý nguyện. .
-Tất cả thuốc men và phương tiện ưu tiên phục vụ quan lại triều đình vì triều đình là người tổ chức mọi thắng lợi cho tổ quốc..
-Không cứu chữa những người không có tiền trả viện phí.
-Những người chết không được chôn xuống đất, đất để sản xuất chứ không dùng để chôn ngườI chết. Những người chết phải đem thiêu, lấy tro bón cây.
-Những nhà dưỡng lão, viện tế bần, nhà thương của chế độ cũ là tàn tích phong kiến và thực dân, phải triệt tiêu hoàn toàn bằng cách giao cho các nước bạn xử lý thích đáng..
Sau khi nghe tin tức của hội Nhân quyền, dân chúng khắp nơi phẫn nộ, kết tội vua quan vô nhân đạo, là một lũ quỷ sống, phạm tội diệt chủng. Triều đình ra thông báo phủ nhận tin tức trên, cho rằng tin trên là hoàn toàn thất thiệt, do bọn địch có dụng tâm đánh phá triều đình ta.
-Sao trông anh buồn quá vậy? Anh nhớ Mai à? Anh có muốn đi chơi với em không?
Long bèn theo Cúc lên đồi sim vắng, rồi cả hai cùng ngồi xuống đám cỏ xanh. Cúc cần tay Long rồi ôm Long. Cả hai cùng nằm bên nhau suốt buổi chiều. Đến tối cả hai mới trở về. Nhưng từ ngày hôm đó trở đi, Long it khi gặp Cúc. Long mang tâm trạng chán chường vì người Cúc không thơm., không êm ái, và hai thân thể không có sự hòa hợp chặt chẽ như những lần bên Mai..
Mãy hôm sau, Long bỗng nhiên gặp lại Cúc tại chợ phiên. Cúc vui vẻ đi bên Long, và Cúc rủ Long đi chơi Suối Tiên. Khi cả hai đi ngang cửa hàng của một ông thầy bói, Cúc rủ Long vào xem bói. Long để cho Cúc vào xem một mình, còn chàng thì ngồi ở bên ngoài cửa. Xem xong, Cúc không trả tiền, nàng bảo thầy bói nói sai. Thái độ của Cúc làm Long vô cùng chán nản vì nàng quá bủn xỉn và cay nghiệt. Một cảm giác buồn nôn xâm chiếm Long khiến Long không còn muốn tiếp tục đi chơi với Cúc nữa. Chàng bảo nàng chàng cảm thấy đau đầu, muốn trở về, không đi chơi Suối Tíên nữa. Cúc có vẻ giận. Và từ đó, Long chấm dứt liên hệ tình cảm với Cúc. It lâu sau, Long kết hôn với Mai, và hai vợ chồng sinh được một trai, một gái. Tất cả sống trong một gia đình hạnh phúc cùng với cha mẹ ruột của Long.
Năm nay, nhân dịp năm ngưởi già thế giới, triều đình có chương trình y tế săn sóc người già. Tại thủ đô và vài nơi trong nước, bộ Y Dược đã xây dựng những cơ sở to lớn cho người già vốn là quan lại trong triều cho đến quan lại các quận huyện cùng thân nhân của họ. Triều đình cũng hứa hẹn sẽ xây dựng các cơ sở y tế cho người già thuộc diện nhân dân toàn quốc. Chương trình tiếp theo là khám bệnh tổng quát cho người già từ 60 tuổi trở lên. Việc khám tổng quát này chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là các cựu quan lại trung ương cho đến quận huyện cùng gia đình của họ. Các lão nhân này đã tập trung tại các bệnh viện đặc biệt, và chỉ một vài ngày hoặc một tuần thì họ trở về với giấy chứng nhận sức khoẻ tối hảo. Giai đoạn thứ hai là cựu cán bộ xã thôn và dân chúng. Họ nhận được giấy gọi tập trung tại một số trường học và nhà thương. Các cụ ông tập trung một nơi, các cụ bà tập trung một nơi khác.
Tại trường tiểu học tỉnh lỵ, các ông già tập trung đông đảo. Có khoảng hai ba trăm người. Ai cũng tay xách, nách mang. Nào y phục, nào thực phẩm, thuốc men. Lệnh trên ban xuống mỗi người phải chuẩn bị lượng thực trong một tuần. Ông Năm gặp lại các bạn gìà nên ông rất vui vẻ. Gặp ông Bảo, cựu giáo viên, ông tiến đến chào hỏi thân mật:
-Bác gái đâu mà tôi không thấy?
-Bà nhà tôi được lệnh tập trung tại bệnh viện Đa khoa.
-Còn bà nhà ông thị tập trung ở đâu?
-Bà nhà tôi tập trung tại trường trung học gần nhà.
Ông Bảo cười nói vui vẻ:
-Tụi mình già cả hết rồi, không bệnh kia thì bệnh nọ. Triều đình ta nay chú trọng việc chăn sóc sức khoẻ cho người già, thật là đáng hoan nghênh hết sức. Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, chưa có chính phủ nào lo mặt y tế cho người già chu đáo như triều đình ta nay.
Hai ông đang nói chuyện thì ông Lưu, bạn hàng xóm ông Bảo tiến đến, ba ông vui vẻ chào hỏi nhau.
Ông Lưu hỏi:
-Các ông có biết tụi mình phải tập trung bao lâu không?
-Khám sức khỏe thì chỉ vài ngày là cùng.
- Triều đình ra lệnh những người già từ 60 tuổi trở lên phải tập trung để kiểm tra sức khoẻ, và chỉ mang lương thực một tuần. Như vậy là chúng mình chỉ xa nhà một tuần thôi.
Ba ông chào hỏi nhau xong thì phân tán mỗi ông mỗi nơi vì ai cũng muốn tìm kiếm ngườI quen để chào hỏi và hỏi tin tức. Các ông gặp khá nhiều người quen nhưng cũng không hỏi được tin tức gì mới lạ. Nhìn ra cổng trường thì họ thấy nhiều người trẻ dáng chừng là con cái những thân nhân đã đến tập trung tại trường. Họ không nỡ rời xa cha mẹ nên còn lẩn quẩn không bỏ về nhà. Họ tập trung khá đông đảo nên quan trên sai lính lệ đuổi họ về kẻo họ làm trở ngại lưu thông. Sau khi các bô lão đến đầy đủ , cửa trường đóng lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Trước cổng trườ ng, lính canh phòng nghiêm nhặt.
Khi các ông già đến địa điểm tập trung thì họ liền trình giấy gọi tập trung để các thư lại ghi tên vào sổ. Sau đó họ liền được gọi điểm danh, rồi nghe quan trên giảng dạy. Các quan cho biết triều đình chăm lo sức khỏe của người già nên từ nay những người già từ 60 trở lên được tập trung để khám sức khỏe. Những ai không có bệnh thì được chích ngừa, rồi về với gia đình. Còn ai có bệnh thì sẽ được ở lại chữa bệnh cho đến khi lành sẽ về . Ai không có gia đình thì ở lại trung tâm người già, và được triều đình chăm lo mọi mặt. Nghe quan lại giải thích, các bô lão đều tỏ ra hân hoan. Có người cảm động khóc sụt sịt như trẻ con.
Buổi trưa và chiều, ai nấy đều đem lương thực ra ăn. Đến tám, chín giờ tối, một số các cụ đã lăn ra nền gạch nằm ngủ. Bỗng mười một giờ đêm, mọi người được lệnh ra sân tập họp để đến địa điểm mới. Có khoảng mười xe, xe nào cũng kín mít như xe chở hàng hóa xuyên liên bang, hay như xe chở tù nhân. Mỗi xe ba chục người, ai lên sau phải đứng. Xe chạy ra ngoài thành phố. Càng đi xa, con đường càng trắc trở khó đi. Đi được gần một ngày thì biến cố xảy đến. Mọi người muốn đi tiêu, đi tiểu nhưng cảnh vệ không cho phép, tài xế phải chạy suốt, không được ngưng lại giữa đường. Vì vậy mà đa số ông già đã tiêu tiểu ngay trong xe. Xe đóng kín mít, không làn gió mát, không ánh sáng. Mùi mồ hôi, nay lại thêm mùu xú uế của tiểu và phân người. Đâu đó có tiếng kêu:
-Có người té xỉu!
-Cấp cứu! Cấp cứu! Có người chết ngạt.
-Tài xế! Dừng xe! Có người đau tim!
Nhưng tài xế và lính lệ im lặng vì họ đã được chỉ thị trước là phải im lặng trong mọi tình huống. Cho đến sáng hôm sau, cả đoàn xe, và một số đoàn xe khác được phép tiến vào một thung lũng có khu trại rộng lớn, ở ngoài cổng có bảng đề năm chữ lớn “ Trại An Dưỡng Bồng Lai” . Đó là trại tù “Đại Gian ” nay đổi tên. Các tù nhân cũ đã được lệnh dờI đến một địa điểm khác nhường chỗ này cho các bô lão.
Khi bước xuống xe, một số lão nhân đã té xuống mà không đứng dậy được vì mấy ngày phải dứng trong xe, không có chỗ nhúc nhích. Họ không được ăn uống lại phải chịu cảnh hôi thối tồi tệ hơn trong một chuồng bò, chuồng ngựa. Một số bại liệt, các lính lệ phải khiêng xuống và đưa vào phòng y tế. Một số đã chết. Trong khoảng năm trăm trại viên mới đến đã có một trăm bại liệt và lâm bệnh trầm trọng, còn 50 trại viên chết trong xe khi di chuyển. Người chết thì trại lập biên bản riêng rồi đem chôn trên đồi. Người bệnh nặng thì cho vào bệnh xá, còn những ai khoẻ thì vào trại. Trại có 8 dãy nhà, trước đây do tù nhân lợp để cho tù nhân ở. Mái lợp tranh. Mỗi dãy nhà cách nhau khoảng 10 thước, ở giữa có hàng rào tre che kín. Tám dãy nhà này là khu tù nhân. Trong mỗi nhà có giường gỗ hoặc giường tre, làm bằng các cây tre để nguyên ống. Các chân giường là những cây gỗ to bằng bắp chân. Ngoài ra cũng có những khu khác như khu nhà ban quản đốc, khi cảnh vệ, khu bệnh xá, khu lao động, khu ẩm thực, khu vật liệu và khu văn hóa gồm thư viện và hội trường.. Giữa khu này qua khu kia có cổng đóng kín và có lính lệ mang súng canh gác.
Sau khi vào trại, các lão nhân được tập trung ở hội trường để nghe chúa trại giảng giải chính sách của triều đình và nội quy của trại. Nội quy của trại gồm những điều sau:
1. Tất cả tiền bạc, đồng hồ, đồ kim khí, đồ vật quý phải trình nạp cho trung tâm cất giữ.
2. Sau khi ăn chiều xong, mọi người có quyền tắm rửa giải trí, hoặc tập thể thao..
3. Chín giờ tối, lên giường ngủ. Không được nói chuyện, hay đi lang thang..
4. Sáu giờ sáng các trại viên phải thức dậy, đánh răng, rửa mặt và ra sân tập thể dục tập thể.
5. Trong đêm muốn đi tiêu, đi tiểu phải xin phép tổ trưởng.
6. Cấm ngặt ăn cắp của trại, của quan lại và các người khác.
7.Nghiêm cấm mọi sự tranh cãi, ấu đả .
8. Cấm dâm dục
9.. Cấm hối lộ.
10. Mỗi phòng, mỗi khu đều có lính trông coi. Trại viên phải tuân lệnh tuyệt đối, không được cãi cọ hay hành hung người triều đình.
11. Ai làm trái nội quy, nhẹ thì bị nhốt từ một ngày đến một tháng, nặng hơn nữa thì bị biệt giam từ vài ngày đến vài tháng.. Nếu ai phao tin đồn nhảm hoậc có ý chống triều đình sẽ bị đưa lên tòa án xử phạt theo luật định, hoặc chúa trại cũng có thể chấp hành pháp luật trừng trị thẳng tay.
Viên chúa trại cho biết triều đình rất quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, mà chú ý đặc biệt về sức khoẻ của ngườI già. Người già thì suy yếu, nhiều bệnh tật nên triều đình phải tập trung để kiểm tra toàn diện. Ai không bệnh sẽ trở về, ai bệnh nhẹ thì ở lại một thời gian ngắn, ai bệnh nặng thì cần thời gian dài hơn. Sau khi lành bệnh, những ai không có gia đình hoặc muốn ở lại thì triều đình sẽ chấp thuận, vì triều đình luôn chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là những nhân dân già cả. Viên chúa trại thuyết trình xong, hỏi ai có thắc mắc thì cứ hỏi.
Vì đường xa, quá mệt mỏi, it ai đưa ra thắc mắc hoặc tham dự cuộc tranh luận. Cuối cùng, các cụ chia thành tổ , rồi bầu tổ trưởng, tổ phó và được lính lệ dẫn vào các phòng. Lính lệ vào hướng dẫn cách sắp xếp đồ vật cá nhân, chỗ xếp quần áo, chân màn và chỗ nằm từng tổ. Sau khi các cụ vào trại, lính lệ kiểm soát lần nữa, rồi ra ngoài khóa cửa lại. Trong đêm, những ai muốn đi tiêu, đi tiểu thì phải kêu to, xưng tên, và nói rõ là xin đi tiêu hay đi tiểu. Khi tổ trưởng chấp thuận thì các trại viên mới được ngồi dậy đi vào một cái thùng đặt ở góc phòng.
Sáng ra, mọi người thức dậy từ sáu giờ sáng, đi tiêu, đi tiểu, đánh răng, súc miệng, rửa mặt và tập thể dục trong phòng. Tổ trưởng cử ngưởi đổ thùng phân và nước tiểu và quét dọn phòng. Khoảng 7 giờ, mọi ngưới ăn sáng rồi đi lao động. Nhóm mộc thì cưa đẽo, đục, lo đóng bàn ghế. Nhóm canh nông thì xúc phân, đổ nước tiểu và trồng lúa, khoai, sắn. Nhóm lâm sản đi săn bắn và hái củi. Mỗi trại viên ngày ăn ba bữa, mỗi bữa không đầy một bát cơm. Bữa ăn thường là cơm độn khoai sắn hay bắp. Thức ăn là một món canh và một món kho hay xào. Canh thường là rau muống. Mỗi nồi canh nấu cho trăm người, gồm rau muống để nguyên, không cắt, không chẻ, không loại bỏ rau già, chỉ rửa sơ sài, nấu với một con gà hay hai ba ký xương bò, xương heo. Món xào thường là rau muống xào thịt bò hay thịt heo, món mặn thường là cá hay thịt kho với bầu bí, cà chua, cà dái dê. Rau muống, bầu bí hoặc cà chua đều là trại viên trồng trong trại. Mỗi trại viên nói chung là được vài muỗng canh, một lát thịt hay một miếng cá kho nhỏ. Phần lớn các cụ không ăn nổi, Mỗi tuần, các trại viên mỗi phòng thực hiện việc kiểm điểm hàng tuần. Cụ Lâm là một thương gia ở kinh đô thắc mắc:
-Tại sao triều đình lại đối xử với chúng tôi như tù nhân?
Viên phó chúa trại tuổi khoảng ba mươi giải thích:
-Đây không phải là trại tù mà là trường học. Các anh xưa nay sống cá thể, nay các anh phải làm cuộc cách mạng, phải sống một đời mới của tập thể nghĩa là mọi người cùng làm, cùng ăn và cùng ngủ. Có sống cuộc sống tập thể thì mới tiến lên đại đồng, không còn phân chia giai cấp, không còn biên cương quốc gia, mọi người trên toàn cầu là anh em một nhà.
Viên trưởng ban chính trị, tuổi khoảng bốn mươi, lên tiếng giảng dạy:
- Các anh đã già không nên ăn nhiều mà phải ăn theo quy định y tế để đảm bảo sức khỏe. Các anh lại phải lao động vì lao động là vinh quang, lao động là luyện tập cơ thể. Tất cả các anh hiện nay đang được triều định giáo dục và bồi dưỡng. Các anh phải cố gắng học tập tốt, cố gắng lao động tốt để khỏi phụ tấm lòng đại nhân, đại nghĩa của hoàng thượng và triều đình!
Cụ Nhân, một cai đội hưu lên tiếng:
-Tại sao không kiểm tra trong thành phố mà phải vào nơi rừng núi hoang vu?
Viên chúa trại trả lời:
-Ngày nay, quả địa cẩu nóng lên và sinh ra nhiều bệnh dịch. Triều đình ta biết trước việc này nên phải đưa các anh lên chốn núi rừng để tâm hồn các anh được thanh tĩnh, đồng thời tránh sự lây lan trong dân chúng.
Y sĩ Nho hỏi:
-Tại sao chuyên chở chúng tôi như chuyên chở súc vật, không cho chúng tôi ăn uống, nghỉ ngơi, và đi tiêu, đi tiểu?
Viên phó chúa trại trả lời:
- Triều đình ta có nhiệt tình săn sóc sức khoẻ cho nhân dân nhưng vì thiếu phương tiện nên bọn các anh phải ngồi chật. Việc xe chạy liên tục là để tránh chậm trễ, triều đình săn sóc các anh nên muốn đưa các anh mau đến nơi an dưỡng.Tất cả là do lòng yêu nước và yêu nhân dân của hoàng thượng và triều đình..
Cụ Văn là một giáo viên xin hỏi:
-Triều đình ra lệnh tập trung một tuần sao đã mấy tháng qua, chúng tôi chưa được về mà còn phải lao động như tù nhân, như nô lệ? Triều đình nói kiểm tra sức khoẻ mà đến nay chúng tôi vẫn không thấy bóng y sĩ hay y tá đâu cả. Xin các quan lớn giải thích rõ ràng, đừng lừa dối nhân dân.
Viên chúa trại trả lời:
-Triều đình ra lệnh các anh mang lương thực một tuần chứ không nói các anh chỉ đi một tuần. Hiện nay, trung tâm chưa thực hiện được việc khám tổng quát là vì thiếu y sĩ. Các anh phải chờ đợi một thời gian nữa!
Tuy các quan đã bào chữa và cố gắng thuyết phục nhưng một số các cụ vẫn phản đối. Cụ Vân là một đại thương gia, luôn sống trong cảnh phú túc, không chịu nỗi cư cực. Và cụ Minh, một luật sư không chấp nhận hành động phi pháp của triều đình, quyết tâm tuyệt thực. Hai cụ còn vận động một số bạn già tuyệt thực tập thể. Chúa trại cho gọi mấy ngườI này lên văn phòng, và khuyến dụ họ, song họ không chịu. Cụ Vân nói:
-Chúng tôi không phạm tộI, tại sao đối xử như tù nhân? Dù chúng tôi phạm tộI gì, chúng tôi phải được pháp luật triều đình xét xử công minh.
Cụ Minh phát biểu:
Không thể đưa chúng tôi vào rừng sâu bỏ cho chết đói như thế này. Yêu cầu triều đình phải đối xử công bằng và nhân đạo với nhân dân.
Viên chúa trại tức giận, đập bàn quát lớn:
-Chúng bay là những thằng già vô ích, không sản xuất, không làm gì có ich lợi cho nhân dân, cho đất nước. Giết sạch chúng bay hàng triệu đứa thì triều đình thu lợI hàng triệu, hàng ức lạng vàng hàng năm. Chúng bay cũng gần kề miệng lỗ, chết sớm vài năm thì cũng tốt thôi. Nuôi chúng bay chỉ tổn hại cơm gạo. Đáng lẽ chúng tao cho chúng bay chết đói từ ngày đầu tiên vào đây, nhưng chúng tao còn chờ lệnh trên. Chúng bây là những tử tộI sắp lên đoạn đầu đài mà không biết thân còn biểu tình, tranh đấu vớI tuyệt thực!
Sau khi la mắng xong, viên chúa trại ra lệnh đem các cụ giam tại khu biệt giam (khu này còn gọi là khu kiên giam). Khu biệt giam là một hòn đảo giữa một cái hồ rộng nuôi cá sấu. Có một cái cầu bắc từ trong bờ ra khu kiên giam. Khu kiên giam là một gò đất, là một cái nhà hay cái chuồng làm bằng gỗ, trên lợp tôn, xung quanh có lứới sắt bao bọc. Có hai tầng, cách biệt nhau bằng những thân cây đóng khít nhau.Mỗi tầng co hai hay ba phòng, mỗi phòng có thể nhốt một hai người. Các trại viên bị kỷ luật thì bị xiềng xích chân tay, mỗi ngày chỉ được ăn một bữa.. Những ai đã vào đây khoảng hai tuần cho đến một tháng đều chết hết. Nhưng ở tầng trên thì thoải mái hơn.
Đến tháng bảy âm lịch, tại miền Bắc là mùa mua lũ. Cơn mưa càng ngày càng dâng nước lên cao khiến các trại viên phải ở nhà không đi lao động được. Đêm đến như thường lệ, các thầy đội ra lệnh nhốt các trại viên vào phòng và khóa trái cửa bên ngoài. Khoảng nửa đêm, chúa trại ra lệnh tập họp các thầy cai, thầy đội và lính lệ mang hành lý ra bên ngoài trại. Tại đây có xe lớn, xe con đợi sẵn. Họ lặng lẽ lên xe đến một nơi khác, bỏ mặc sau lưng đám người già sắp bị chết đuối.
Nước dâng mỗi lúc một cao, nước đã vào phòng ngủ của trại. Các cụ hoảng hốt kêu gọi nhau:
-Nước lụt các bác ơi! Nước lụt ngập trại!
-Dậy mau! Dậy mau!
- Các thầy cai, thầy đội ơi ! Mở cửa! Mở cửa! Cứu chúng tôi!
-Người ta giết chúng tôi! Xin TrờI Phật phù hộ chúng tôi!
-Lạy Quan Thế âm bồ tát! Xin bồ tát cứu khổ, cứu nạn chúng con!.
-Lạy chúa! Xin cứu vớt chúng con!
Trong trại toàn là tiếng kêu than, nguyền rủa. Một vài cụ khoẻ mạnh đã leo được lên mái nhà hoặc chạy ra ngoài. Những ai chạy ra ngoài liền bị nước cuốn trôi đi ra sông, ra biển.
Trận lụt năm này đã làm cho núi rừng ngập lụt. Nước từ núi cao chảy về. Nước từ biển cả dâng lên. Hàng vạn dân chúng miền núi và miền xuôi bị trôi ra biển. Triều đình thông báo trận lụt đã cuốn trôi một số đông quan lại bộ Y, quan quân, và giết hàng vạn các lão nhân tại các trung tâm an dưỡng toàn quốc. Việc này đã gây ra một phản ứng dữ dội trong toàn quốc. Những ai có cha mẹ thiệt mạng trong trận bão lụt đã lên tiếng chỉ trích chính sách vô trách nhiệm của triều đình. Có kẻ gửi thư lên vua, có kẻ viết thư cho Đô ngự sử hoặc phủ huyện kêu oan, có người viết cáo thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng lên tiếng phản kháng.. Vua quan tức giận, cho họ là phản động nên ra lệnh bắt giam họ hoặc sa thải họ.
Thân phụ của Long nhờ bám vào một thân cây cho nên trôi vào một bờ sông. Cụ được một ngườI chài lướI vớt được đưa vào nhà cấp cứu và nuôi dưỡng. Sau vài bữa, cụ tỉnh lại, cụ thuật mọI việc cho ngườI thuyền chài nghe. Sau vài ngày, ngườI chài này dùng thuyền âm thầm đưa cụ về làng cũ. Chờ nửa đêm khuya vắng, ông dắt cụ về nhà. Nửa đêm, nghe tiếng gõ cửa, mọi người trong nhà Long lo lắng vì sợ lính lệ hay tuần phu đến xét nhà. Khi thấy một ngườI lạ dẫn bố mình về, Long vô cùng ngạc nhiên và vui sướng. Long mờI khách vào nhà ngỏ lờI cảm tạ. Long đem tiền bạc biếu người thuyền chài nhưng ông ta từ chối. Ông xin phép về ngay vì ở lại lâu bất tiện.
Sau khi khách ra về, Long hỏi bố mọi việc, Long mới biết bố mình đã thoát hai đại nạn. Long dặn mọi người trong nhà không được tiết lộ bí mật. Mẹ Long cũng đã đi trình diện thế là đã chết trong cơn đại hồng thủy. Long thương xót mẹ già. Long giấu bố trong chuồng heo. Chuồng heo nhà Long khá lớn, có hai phần. Một phần nuôi heo, còn phần bên cạnh để chứa dụng cụ và đồ cũ. Long đào một hầm bí mật tại đây, xây gạch đá vững chắc. Một tấm gỗ làm cửa, trên phủ rơm. Khi làm xong hầm, Long đưa bố vào ẩn lánh trong này. Hàng đêm, đích thân Long đưa cơm nước cho bố.
Mỗi buổi chiều, các cô gái thường ra sông giặt quần áo. Cúc thường gặp Lan, Hạnh, Hường và Hoa. Giặt quần áo xong, Cúc thường ngồi trên tảng đá trên bến chuyện trò với các bạn gái.
Hạnh nói:
-Con Mai xấu thế mà được anh Long yêu và cưới làm vợ! Số phận chúng mình thật thua kém!
Hoa nói:
- Vợ chồng là do duyên phận, so sánh làm chi cho mệt!
Cúc mang những thư trong túi ra khoe cùng bè bạn:
-Nhiều chàng trai làng và ngoài tỉnh gửi thư cho tao mà tao không chưa yêu ai cả! Trước khi cưới Mai, Long đã cầu hôn tao mà tao không chịu. Nay Long đã cưới Mai mà Long vẫn chạy theo van nài ban phát chút tình yêu! Anh chàng thật trơ trẽn!
Ban đêm, Cúc thường nhìn sang nhà Long, thấy cảnh Long âu yếm Mai mà lòng nàng tức giận vô cùng. Nhà Long và nhà Cúc cách nhau một hàng rào dâm bụt. Nhiều đêm, Cúc bò qua hàng rào sang nhà Long nhìn vào phòng vợ chồng Long. Trong khi vợ chồng Long ngủ say, Cúc đứng thẩn thờ lòng đầy uất hận. Bỗng một đêm, Cúc thấy Long mở cửa ra sau vườn, tay mang một thúng nặng. Cúc đi theo và thấy Long vào chuồng heo. Cúc tính liều xông ra ôm đại Long. Nhưng Cúc thấy Long nâng tấm ván và chui vào một hầm bí mật. Cúc biết Long có sự bí mật. Long giấu một kho tàng ư? Hay Long giấu một tên cướp? Hay Long nấu rượu lậu?
Theo dõi một thờI gian, Cúc thấy đêm nào Long cũng vào chuồng heo và bưng theo một cái thúng vào. Cúc bèn bỏ thư rơi cho viên lý trưởng, báo cho biết có tên cướp ẩn náu trong chuồng heo nhà Long. Đêm đến, viên lý trưởng bèn đem tuần phu vây nhà Long và bắt được thân phụ Long và giải lên huyện. Quan huyện kết tội bố Long trốn trại, và Long chấp chứa phản động. Bố Long bị đày ra đảo, ít lâu sau rồi chết. Còn gia đình Long bị đuổI ra khỏi làng, phải lên tập trung sản xuất tại rừng núi xa xăm, mà sau cũng không ai biết tông tích.
Trong thời gian nước Đại Lạc bị cơn hồng thủy, mấy chiếc tàu quốc tế nghiên cứu môi trường đại dương có mặt ngoài biển. Họ đã vớt được một số nạn nhân của cơn hồng thủy. Những người trẻ thì sau vài ngày chữa trị , họ đưa vào bờ . Còn những lão nhân thuộc các trung tâm An Dưỡng, thì được đưa về trung tâm y tế thế giới. Sau một thời gian trị bệnh, các cụ tỉnh lại và tường thuật lại những sự thực tại các trung tâm an dưỡng. Sau đó, hội Bảo vệ nhân quyền, hội bảo vệ người già cùng nhau nghiên cứu và đi đến những khám phá mới về các chính sách của triều đình Đại Lạc quốc. Họ kết luận:
Trung tâm an dưỡng sự thực là những lò sát sanh. Họ theo đường lối cách mạng đỏ là đường lối duy vật vô nhân đạo nhằm đối phó nạn nghèo đói. Chính sách này có những điểm sau:
-Không nuôi nấng, không chữa bệnh cho người già từ 60 tuổi trở lên, mà phải giết họ đem bón cây để khỏi hao tốn tài nguyên quốc gia.
-Không cho thanh niên nam nữ kém sức khỏe được kết hôn và sinh đẻ. Nếu không giết thì phải thiến hoặc hoạn những người này.
-Trẻ con đẻ non, yếu đuối bệnh tật thì giết đi đem bón phân hay làm thực phẩm gia súc
-Mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh được một đứa con.
-Những người tự tử thì không được cứu chữa, để cho họ chết theo ý nguyện. .
-Tất cả thuốc men và phương tiện ưu tiên phục vụ quan lại triều đình vì triều đình là người tổ chức mọi thắng lợi cho tổ quốc..
-Không cứu chữa những người không có tiền trả viện phí.
-Những người chết không được chôn xuống đất, đất để sản xuất chứ không dùng để chôn ngườI chết. Những người chết phải đem thiêu, lấy tro bón cây.
-Những nhà dưỡng lão, viện tế bần, nhà thương của chế độ cũ là tàn tích phong kiến và thực dân, phải triệt tiêu hoàn toàn bằng cách giao cho các nước bạn xử lý thích đáng..
Sau khi nghe tin tức của hội Nhân quyền, dân chúng khắp nơi phẫn nộ, kết tội vua quan vô nhân đạo, là một lũ quỷ sống, phạm tội diệt chủng. Triều đình ra thông báo phủ nhận tin tức trên, cho rằng tin trên là hoàn toàn thất thiệt, do bọn địch có dụng tâm đánh phá triều đình ta.
Wednesday, April 12, 2017
LINH BẢO * ÁO MỚI
Áo Mới
Linh Bảo (1953)
-May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Sau này, lúc
đã bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình ,tôi vẫn giữ
tính nết không ăn diện đã tập được như thuở còn sống với mẹ, mặc dầu lý
do nhiều phước hay giảm phuớc tôi không hề quan tâm. Thời kỳ làm việc
tại Hương Cảng tôi cố dành dụm tiền để mỗi cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi
mười cái áo gấm Thượng Hải. Tôi nghĩ rằng trong mười áo ấy, bà sẽ tha hồ
cho, tặng, bán hay gì đi nữa, nhiều lắm là chín cái thôi. Ít nhất cũng
phải để lại một cái cho mình. Và được như thế là tôi thỏa mãn rồi.
Linh Bảo (1953)
Chiếc
áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “Áo vua ban" .
Hồi ấy, ba tôi làm việc tại Tòa Khâm Sứ Huế, mẹ tôi là một cô Tôn nữ
nghèo, Tôn nữ là một người thuộc Hoàng tộc , địa vị xa lắc xa lơ. Nhưng
cũng nhờ thế bà có đường giây bà con quen biết để tiện việc mách mối mua
bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn chụp ảnh cho các Bà Hoàng, Bà Chúa, Bà Phi,
Bà Tân trong Hoàng cung.
Mách mối là một công việc buôn bán rất
nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng
loáng và thơm nức lên, chiếc quần lụa cũng được là ủi thẳng và xếp thành
nếp hai bên, gọi là " xếp con " , năm con, bảy con gì đấy, càng nhiều "
con" càng sang trọng quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế xong, bà chỉ
việc đến nhà các Mệnh phụ, Công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi.
Thế là " Mệ" nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ
cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe kéo nhà, đi thăm viếng xã
giao vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ.
Nghề chụp ảnh mấy chục
năm về trước còn là một nghệ thuật rất mới mẻ, nhất là đối với các Mệ,
các bà Phi, bà Tân không thể ra phố mua bán tự do như người thường. Mẹ
tôi được các bà hoan nghênh vô cùng. Phải, còn gì sung sướng hơn một bà
Phi, suốt mấy năm trời chẳng hề trông thấy " mặt rồng " của ông chồng
vua, bỗng dưng có được một tấm ảnh mình ngồi chễm chệ trên chiếc ghế
bành chạm trỗ tinh vi, còn “Hoàng Đế " thì đứng bên cạnh, quàng tay qua
lưng ghế, như ôm một cách âu yếm. Mẹ tôi ghép ảnh rất giỏi và tính giá
cũng rất “phải chăng”. Nhưng, tiền có nghĩa lý gì đối với những Cung Phi
suốt đời, từ lúc tiến cung cho đến già, đến chết vẫn còn là trinh nữ!
Tấm ảnh an ủi họ làm thỏa mãn một phần nào lòng hâm mộ hư vinh đã được
nuôi dưỡng từ lúc bé thơ.
Trong số khách hàng của mẹ tôi có một bà
mẹ Vua. Vua còn bé đang đi học xa. Bà ở nhà, sống một cuộc đời vương
giả. Suốt ngày bà chỉ biết đánh bạc với những người đến " bẩm chảu"
tiếng riêng có nghĩa là nịnh bợ. Bà đoạt kỷ lục về nợ nần, chỉ vay mà
không cần phải trả. Bà cho là mọi người ai cũng có bổn phận phải cung
phụng bà, đưa tiền cho bà tiêu xài như “đưa con vô Nội” một thành ngữ có
ý nghĩa sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an
ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày " Hoàng Đế hồi loan " , bà
sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không, mà nếu có
thì chúng tôi, những ranh con, cũng không được quyền can thiệp.
Tôi
còn nhớ bốn chị em tôi có bốn chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa
dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn , và nếu cần tiền
có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy
có một con đường đi bất di bất dịch. Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà
nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi " lữ hành" như thế, ít nhất
mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền, chuộc về nằm trong
tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh " Ngài ban vay" . Và như thế,
bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại lên đường đến nhà bà Bộ tạm
trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất, còn số tiền cầm đồ
nhận được thì đi con đường độc đáo một chiều, và là một con đường cụt.
Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi “Ngài " để rồi bị thủ
tiêu mất tang mất tích trong chiếu bạc, không còn một chút dấu vết gì
để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng " Ngài " lại " ngự " đến " tệ
xá" của chúng tôi ở Nam Giao, mặc dầu " tệ xá" quả thực là quá tệ. Nó
chỉ là một gian nhà bé nhỏ nằm lọt vào một vùng đất trống, xưa kia là
một bãi tha ma to lớn, cách xa thành phố đúng ba câysố.
Cha mẹ tôi
sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây " biệt thự" , vì theo lời bác sĩ
khuyên, ba tôi yếu phổi nên phải thở không khí có gió thông trong lành
rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong " tệ xá" có rất nhiều đồ cổ quý
giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi, nhờ cầm hay
bán hộ. “ Giấy rách phải giữ lấy lề “ nên dù ngày mai không còn gạo để
nấu cháo loãng, họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm
bán đồ vật. Họ vẫn còn làm bộ điệu rất kênh kiệu quí phái cao sang, cả
đến những khi cần đến hai xu để ăn quà sáng .
-Đưa đây cho Mệ hai xu, Mệ " chém" một củ khoai chơi nà!
Tuy
cảnh túng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh " khẩu khí" vẫn không
hề thuyên giảm , và các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn thú
vị tí nào. “ Mệ” là tiếng xưng hô một bà cụ rất già, hay những người
trong Hoàng tộc, không phân biệt già trẻ nam hay nữ.
Đường đến nhà
tôi, hai bên trồng toàn thông xanh và phải lên hai cái dốc rất cao.
Thỉnh thoảng, người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa có một chiếc xe kéo
sơn son thếp vàng, một chú lính mặc áo đỏ, chân quần xà cạp vàng, đầu
đội nón chóp, ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe có hai cô bé con độ mười bốn,
mười lăm tuổi, mặc áo màu hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xõa
ngang vai. Một cô tay cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhổ bằng bạc, một cô
tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé
cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe, giơ chiếc quạt lông lên,
phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại trụt dần xuống đằng sau. Ấy thế
mà bọn họ từ Cung cấm trong Thành Nội ra tận Nam Giao, ngót bốn năm cây
số để đến " tệ xá " đấy.
Sau khi đến nơi, " Ngài " chễm chệ leo lên
chiếc sập cẩn xa cừ đặt ngay chính giữa nhà, hai thể nữ đứng hầu hai
bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. Ngài lần lượt ngắm nghía, thưởng thức
các đồ vật trong " tệ xá" , và cố nhiên khi " Ngài " rời gót ngọc, những
món đồ cổ không ít cũng được theo " Ngài " ngự, lên chiếc xe nhà sơn
son thếp vàng có hai thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào " Ngài " cũng " ban truyền" :
-Chị
Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung
Cây vàng Lá ngọc kia nữa, rồi ta sẽ trả tiền lại cho. Còn cái sập cẩn
này, chị cho ta mượn, mai ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết "
Dạ" mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người, khi đã được "
tiến cung" thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận của đồ
vật còn đen tối hơn Cung phi Mỹ nữ không được sũng ái. Các cung nhân,
khi về già còn được thải hồi nguyên quán, trái lại những món đồ cổ, càng
già càng quí thêm, càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm:
-" Thấy Vua" rõ thật là " thua vấy" !
Cuộc
đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi làm . Mẹ tôi giới thiệu việc
mua bán đồ cổ và ghép ảnh cho Qúy Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để
nuôi chúng tôi một số rất nhỏ, còn phần lớn để nuôi " Ngài " .
Một
hôm, chắc lương tâm " Ngài " thức dậy, hay là " Ngài " sợ nợ mẹ tôi
nhiều quá, nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra " nợ
thiên khối" vốn cộng thêm lời lãi chồng chất lên nhau thì nguy to, Ngài
bèn long trọng " tuyên dương công trạng" một hồi, rồi “thân tặng" cho mẹ
tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là một chiếc áo the đen,
bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ
hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo ấy về, vênh vang như
một kẻ " áo gấm về làng" . Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái “ Áo Vua
Ban” ấy, cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh
ghép ngồi chung với Đức Vua. Cả hai cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền
ra để thỏa mãn lòng tự ái, lừa mình, lừa người cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc
áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ
Tết, cái “Áo Vua Ban" ấy được trân trọng " trình bày" trên thân hình bé
nhỏ của chị tôi một vài giờ, rồi lại được trân trọng xếp vào rương chờ
dịp khác.
Năm tháng qua, chị tôi mới đầu mặc chiếc áo còn rộng thùng
thình, rồi chật dần, ngắn dần cho đến khi mặc không vừa nữa, phải cho
chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm,
rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy, mỗi năm lại có
dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày
đến lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá
ấy ra để mặc cho tôi và bảo:" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con”,
thì nó đã mục nát và chỉ động đến là rã tan ra từng mãnh!
Thời gian
chờ đợi dù lâu bao nhiêu rồi cũng phải đến, Đông Cung Hoàng Thái Tử ở
Pháp học thành tài trở về nước để được tấn phong chính thức làm Vua. Và
cũng từ lúc ấy, " Ngài Mẫu Hậu " ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ.
Bây giờ, " Ngài " đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ
nợ, và lại càng không muốn gặp người nào đã từng quen biết " Ngài" những
năm tháng hàn vi. Thật là chí lý, chí tình vậy! Còn gì khó chịu hơn một
kẻ ở địa vị cao sang, mà ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày
xưa, đám người mình từng nhờ vả năn nỉ kêu than túng thiếu, những kẻ đã
phải cầm bán vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ
nhục tinh thần, có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy,
tôi không được mặc chiếc áo đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi,
nên tôi khóc mùi khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc vì khi chiếc
áo quí đến phần mình thì hóa ra một mớ dẻ vụn tả tơi rách nát; nhưng
thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh " ân trả nghĩa đền" của mẹ tôi bị tan
vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo, đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi
dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng
lẽ được dùng của cải ấy để bồi đắp cho thể chất và tinh thần.
Những
năm sau đó, gia đình tôi ngày một khá hơn. Có lẽ vì không phải cung
phụng cho ai khác ngoài gia đình, nên lần lần trong mâm cơm đã bắt đầu
có nhiều món cá thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giải cho chúng
tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng cần thiết cho sức khỏe, một đề tài
trước kia õng cố tránh.
Một hôm,không hiểu tại sao, mẹ tôi bỗng
nhiên " phát từ bi tâm" may cho chị Sáu, tôi, em Tám và em Chín, mỗi đứa
một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này, có người tặng cho mẹ
tôi trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ mười một. Chúng tôi mừng rỡ trông
đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng
loáng, mát rời rợi và rộng thùng thình như áo tế ấy, thì bỗng dưng ông
nội tôi chết. Tôi thấy cha me tôi khóc, anh chị tôi khóc, tôi cũng khóc.
Nhưng thực ra, tôi không nhớ đã được thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi
khóc là khóc cho bốn chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ, chưa từng được
diện qua một lần, vì phải để tang, đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc
nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ, không vàng, không lục,
không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mĩa mai một cách văn chương là màu" dưa
cải úa mùa thu" . Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại, thì tôi sẽ gọi là một
bức tranh lập thể may thành áo. Từng vệt, từng đám, ngang dọc chồng
chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy, mà
chúng tôi vẫn phải khen cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì, đã có định luật
rằng một khi " đấng sinh thành" đã quyết định thì con cái phải vui vẻ
“Dạ,Vâng”, mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng thấy các con vui cũng
tưởng thiệt mà vui theo một cách dễ dàng.
Chúng tôi phải chịu đựng
cái xấu xí của áo, và áo cũng phải cố chịu đựng sư tàn nhẫn vùi dập của
bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất, mặc suốt
ngày đêm, vò nát nó, ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn
nát chéo áo để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm
chua như mùi dưa cải úa, hay còn lẫn mùi gì khác nữa không.
Thật ra,
số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn
chúng tôi sớm đã bị nhuộm thành một màu " dưa cải úa mùa thu " , hay
cũng chỉ là một bức tranh lập thể chồng chất những niềm đau khổ bé thơ,
đã ai hơn gì ai đâu! Thế mà chúng tôi nỡ dằn vặt chúng nó cho đến khi
rách nát, và cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở
Saigon gởi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu
sắc quá sặc sỡ lộng lẫy không hợp với người lớn tuổi, nên may cho bốn
chúng tôi. Bốn chiếc " áo tế" vừa dài vừa rộng, may xong được cất kỹ,
đợi " ngày lành tháng tốt " mới đem ra diện. Thỉnh thoảng, tôi lén mở
rương vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rời
rợi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp
trừ sâu mọt và mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng
cái " ngày lành tháng tốt" ấy không bao giờ đến, vì bỗng nhiên chú tôi
mất. Kể ra thì đó chỉ là một cái tang nhỏ thôi, nhưng mẹ cũng bắt chúng
tôi để tang. Và một lần nữa chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp lại phải
nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo
bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức
với Chánh Phủ Bảo Hộ sang ngạch Nam Triều, nôm na gọi là làm quan. Mẹ
tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ và cũng không cần chụp
ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất để
dành tiền. Nhưng, những con heo ấy, hàng năm đều phải bị đập ra, vì mẹ
tôi mở cuộc " lạc quyên" để may áo quần cho bọn con trai trước ngày tựu
trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh khi cần thiết, chúng
tôi lúc nào cũng vui lòng " quyên" . Mẹ tôi bảo đấy cũng là làm việc
nghĩa, chẳng mất đi đâu mà thiệt, vì mai đây,khi các anh mặc ngắn, những
chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi.
Khi những chiếc áo xa-tanh
nhuộm mực lem luốc thứ hai " quá cố " rồi, bọn con gái đã thành những cô
gái dậy thì. Chúng tôi đã biết thẹn, nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc
những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu và rộng mênh mông
như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố năn nỉ xin mẹ may một cái áo mới
cho ra hồn. Mẹ tôi bảo:
Áo các anh mặc ngắn, thiếu gì! Còn tốt và
bền lắm, may một lần cho cả bầy nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao! Ngày
xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu
cái áo đẹp rồi, nhớ không? " Aó vua ban" này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa
cải này ...
Tôi nhắc:
-Dưa cải úa mùa Thu chứ!
-Ừ thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
-Màu lem luốc chứ.
-Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
-Dạ, mới may bốn năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
-Chúng
mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn, sau hết phước đi! Phải nhớ,
hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
-Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi, còn chúng con là con ông Tổng Đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ quát lên:
-Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế ?
-Mẹ
không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn
mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền là mẹ đập con Heo của chúng con
Mẹ tôi vội vã:
-Thôi thôi, để tôi may, các cô không cần phải kể con cà con kê ...
Mẹ
sợ chúng tôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy đến thăm
mẹ tôi một lần, và mỗi lần như thế là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một
việc hầu hạ phục dịch chị cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi,
thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng . Đối với chúng tôi, chị cũng"
thết đãi" linh đình. Nghĩa là gọi cả một gánh bánh bèo hay bún bò vào
nhà, thết mỗi người một tô. Chỉ có một cái " di hận" là[chị chuyên môn
đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt,
tiền thưởng nhiều ít tùy theo học giỏi, trả bài thuộc , những bài học
ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con Heo bằng đất
nung mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác
ra câu chuyện ấy thì chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may của chị.
Mỗi tháng, chị đến đập Heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị
bán cửa tiệm đi lấy chồng, chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền
nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị ở nhằm hướng "
tán tài" nên suốt bao nhiêu năm trời chỉ chuyên môn thua lỗ. Và cái bản
tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy, chị vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ
tôi quả nhiên giữ lời hứa, lấy một xấp hàng " xa xị" màu vàng nhạt để
tận đáy rương ra, may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh
biết may cắt dặn: -May cho thật dài rộng mát mẻ nghe không!
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông, mặc vào như bơi đứng trong áo, nên nghe thế, phải dặn với:
-Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ, lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong, mặc thử, thật là dở cười dở khóc. Nó dài phết gót và chật như bó chả. Chật đến nổi tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ không cử động trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay và tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu, tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ bạc mầu của bọn con trai chuyền lại.
Tiếp theo chiếc áo đấu tranh
mà có này là một chiếc áo " vải cạt" . Gặp thời buổi chiến tranh Pháp
Đức, mọi vật dụng đều khan hiếm nên phải được phối cấp, hàng vải cũng
thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ “ vải cạt" phối cấp hoa lá
cành chằng chịt, màu xanh đỏ tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ lòe loẹt, nhà
quê một cách không thể tả được. Mặc vào trông như một tấm vải màn, hay
cái ghế nằm sofa biết đi. Thế nhưng tôi vẫn phớt tỉnh. Coi như trên đời
này không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau, mẹ tôi
chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa, vì chị Hồng thỉnh thoảng
lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số y phục loạn xà ngầu ấy, có hai
cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ, tôi mặc vừa áo màu xanh.
Hai chị em, mỗi khi đi phố, đi chợ, đều diện hai cái áo đẹp nhất của
mình, mặc cho thiên hạ bạn bè “ khen ngợi”. Nào là màu sắc chửi nhau,
nào là " người trong tranh " , nào là bất chấp thời tiết v.v... Chúng
tôi giữ vững lập trường " mục trung vô nhân" không cần ai và cũng không
cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho
chị Sáu giữ để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc
về vấn đề ăn diện làm dáng nữa. Chị tự sắm rất nhiều áo quần đẹp, nhưng
cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho, thành ra mẹ không la
rầy được, mà chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong chị cao
lớn thêm lên, hay béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng
rủi quá, người chị bé nhỏ, lùn thấp hơn tôi nhiều, và lòng dạ chị lại
khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ
tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác, dù người ấy tiêu dùng một
cách phí phạm, còn mình và con cái thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn
luôn nhắc câu:” Người ăn thì còn, con ăn thì hết”. Thành ra khi trong
nhà món gì ngon lành là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi bạn bè bà con
quen biết . Có lẽ mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn nên gặp ai áo
rách quần vá là bà lục tủ áo tìm cái nào người ấy mặc vừa là bà cho một
cách sung sướng. Tôi tin là mẹ tôi trong cuộc sống sau khi ba tôi hưu
trí, bà không cần phải dự lễ tiếp tân, hay thết đãi quan khách với ba
tôi thì bà chẳng cần giữ lại một chiếc áo nào ra hồn.
Ngày
mẹ tôi bị bệnh trầm trọng, tôi phải xin nghỉ phép về săn sóc cũng không
quên mang theo mười áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng lúc mẹ mất, tôi
lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo, thì không thấy một chiếc áo nào may
bằng thứ gấm Thượng Hải tôi đã gởi về biếu mẹ hàng chục năm. Một người
bạn trẻ nói với tôi:
-Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi! Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!
Hừ,
láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân, tôi về nước vì
Mẹ, mà về đến nơi chẳng bao lâu thì mẹ mất, đúng là một thất vọng lớn
lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mơ!
Sau khi chôn mẹ bên
cạnh mộ cha xong, tôi trở lại Hương Cảng làm việc. Và từ bấy giờ, dù có
thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp, tôi cũng không còn thấy hứng thú gì
nữa,không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa, khi len
lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở mười hai. Tôi
còn nhớ, sau ngày ông nội tôi mất, ba tôi thường nhắc đi nhắc lại mãi :
-Khi con cái còn nhỏ dại, chúng nó chưa đủ hiểu biết nên hay oán
trách cha mẹ cấm đoán điều này điều nọ. Lúc lớn lên, có gia đình, Sinh
con rồi mới hiểu lòng cha mẹ”, lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng
mình, thì cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế, bao giờ
cũng không nén được hai giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi
lúc đi phố, nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng hay chữ
Phúc, chữ Thọ rất đẹp, tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng
được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra, chợt nhớ mẹ mất rồi còn
đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!
Monday, April 10, 2017
VŨ NGỌC BÍCH * NỖI BUỒN DI TẢN
VŨ NGỌC BÍCH
30-4 , NỖI BUỒN DI TẢN
Sáng
thứ sáu 25 tháng 4 năm 1975, khoảng 10 giờ, tôi đang ngồi làm việc
thì chị giúp việc thân tín và con gái tôi lúc đó 11 tuổi, bước vào văn
phòng tôi. Chị tới sát chỗ tôi ngồi, ghé tai tôi nói nhỏ :
- Thầy về nhà gấp, cô có chuyện muốn nói với thầy.
Tôi chỉ gật
đầu và không muốn cho chị giúp việc nói thêm nữa, vì tôi đã biết vợ
tôi muốn nói gì rồi. Trước đây, vợ tôi có làm việc ở phòng Điện toán
của Hoa Kỳ tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Để tránh việc Việt cộng sẽ trả
thù những người đã cộng tác với Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã cho lập danh
sách ưu tiên cho nhân viên làm sở Mỹ di tản bằng cầu không vận.
Hàng ngày, những
tin tức chiến sự không mấy khả quan từ miền chiến tuyến gửi về làm nản
lòng người lính ở hậu phương. Tại đơn vị tôi, lúc đó Đại tá Nguyễn
Hữu Đ. tới nhậm chức Cục Trưởng Cục Mãi Dịch Quân Đội đúng vào lúc xế
chiều của miền Nam. Tôi cũng nhận được nghị định thăng cấp thiếu tá,
sau 5 năm mang cấp bậc đại úy vào giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến.
Tới văn phòng, từ sĩ
quan cho tới anh em binh sĩ, ai cũng cầm tờ báo coi những tin tức nóng
bỏng nơi trang nhất, bàn tán xì xào. Trong lòng mọi người, hầu như ai
ai cũng bị giao động, không nhiều thì ít. Tôi vẫn làm công tác đi thanh
tra và thâu nhận hàng tại các nhà kho của quân đội. Tôi đã thấy có
một vài nhà thầu và giám đốc các công ty lớn lặng lẽ ôm tiền trốn ra
ngoại quốc. Họ bỏ đi, và không thi hành khế ước. Mặc dầu đơn vị tôi đã
gửi văn thư cảnh cáo sẽ áp dụng biện pháp chế tài, họ vẫn bất chấp và
cứ tiếp tục bỏ nước ra đi.
Việc ra đi hay ở lại
cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi sôi nổi giữa vợ chồng tôi trong suốt
mấy tuần qua. Vợ tôi đã ghi tên gia đình vào danh sách di tản, và chúng
tôi đã nhận được “manifest” xác nhận chờ ngày đi.
Là một quân nhân, tôi
cảm thấy hổ thẹn khi chưa chiến đấu gì mà đã bỏ đồng đội, bỏ bạn bè, lén
lút ra đi. Tôi đã gay gắt nói với vợ tôi :
- Mình cứ dẫn con đi trước. Tôi ở lại, một thân một mình, lúc nào đi chẳng được!
Vợ tôi vừa năn nỉ, vừa giận dỗi, dùng đủ mọi cách để thuyết phục tôi cùng với nàng và bốn đứa con đi một lượt :
- Anh nói dở hơi lắm !
Bao nhiêu người chạy chọt đủ mọi cách, để xin cho được một chỗ trong
“manifest”. Họ sẵn sàng bỏ ra cả ngàn đô la để đổi lấy một chỗ di tản
bằng máy bay ! Anh không biết anh may mắn hơn hàng trăm ngàn người sao
?
Tôi tần ngần :
- Nhưng em không thấy
vợ chồng mình vất vả dành dụm mười mấy năm nay, mới mua được căn nhà nhỏ
nầy. Sang đến Mỹ, anh không có nghề nghiệp gì chuyên môn, rồi mình lấy
gì mà sống. Vợ tôi đau khổ ngắt lời tôi :
- Một cái nhà này, chứ
cả chục cái nhà nữa cũng bỏ hết ! Sang đến đó, còn cả ngàn người như
mình nữa chứ. Cớ chi phải lo không có việc làm ? Không làm việc này,
thì làm việc nọ !
Tôi cố vớt vát :
- Em không thấy hôm
rồi, tổng thống Thiệu vừa lên TV nói gì sao ? Chính ông ấy cũng ở lại,
sát cánh với quân đội, cùng chiến đấu bảo vệ miền Nam mà !
Vợ tôi cười nhạt :
- Anh nói vậy, là anh
không biết gì hết rồi. Con bạn đồng nghiệp của em lấy một sĩ quan Mỹ ở
cơ quan DAO. Nó vừa ghé nhà mình thăm em. Nó nói chồng nó bảo sau bài
diễn văn ấy, tổng thống Thiệu và gia đình được Mỹ đưa đi Đài Loan rồi !
Tôi cứ bán tín bán nghi. Tân thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn vừa ra nghị
đinh dọa trừng phạt bất cứ công chức quân nhân nào rời nhiệm sở. Đồng
thời. Thủ tướng Cẩn ra lệnh đặt các nút chặn gồm quân cảnh lẫn cảnh sát
được dàn ra trên cửa ngõ vào phi trường Tân Sơn Nhất, biên giới và dọc
bờ duyên hải.
Suốt mười mấy năm chung
sống, chưa lần nào chúng tôi bất đồng ý kiến trầm trọng như lần nầy. Vợ
tôi bực mình phát khóc. Nàng tha thiết nói với tôi qua hàng nước mắt :
- Anh ở lại, lỡ tụi nó
vào, tụi nó sẽ không tha anh đâu. Anh vừa có tội di cư năm 54, vừa là
sĩ quan đã từng chống lại chúng ! Anh đi với em và các con nhé. Một
mình em ra đi, với một bầy con như thế, làm sao em xoay sở cho được !
Cứ như thế, mấy đêm rồi, tôi không ngủ được tròn giấc bao giờ, vì những
lời nói, tiếng khóc của vợ tôi cứ lẩn quẩn trong đầu óc tôi.
Trong khi đó, mấy nhân
viên trong phòng tôi xúm lại chỗ con gái tôi. Họ đang thì thầm hỏi
chuyện con bé. Thấy tôi đưa mắt nhìn, họ lảng đi chỗ khác. Tôi bảo chị
giúp việc và con gái tôi đón xe xích lô máy về trước, và nói với vợ tôi
cứ chờ ở nhà.
Tôi lặng người đi phía
sau bàn giấy. Trong lòng đầy bâng khuâng, bối rối, tôi nhìn những
nhân viên đã từng cộng tác với tôi trong vòng tám năm qua tại đơn vị
nầy.
Phóng tầm mắt xa hơn, tôi nhìn về phía cây tùng bách tán. Không
hiểu sao, tôi thấy cây tùng bỗng trở nên thân thiết như một người bạn !
Tôi lẩm bẩm một cách vô thức ;
- Tùng Bách Tán ơi ! Ta sắp xa mi rồi !
Một nhân viên dân chính,
bác T., được biệt phái tới làm việc ở phòng tôi từ ngày thành lập đơn
vị. Bác với tôi thân thiết như người nhà. Bác T. thường tâm sự với
tôi những chuyện riêng tư, và tôi cũng, đôi khi, chia sẻ với bác những
ưu tư thời cuộc.
Đến sát bàn tôi, bác T. ngồi xuống, nhìn tôi. Chưa bao giờ tôi thấy khuôn mặt bác buồn rầu như vậy.
Bác T. chớp chớp mắt :
- Chắc bà xã của Thiếu tá cho người làm đến kêu Thiếu tá về đi Mỹ, có phải không ?
Hôm nay, ngay cả với bác T., người bạn già thân thiết nhất của
tôi trong sở, tôi cũng không dám nói thật. Tôi trả lời vắn tắt, trong
bụng tôi biết là bác cũng biết tôi nói dối :
- Tôi có chút việc nhà phải về gấp, xong việc có thể tôi trở lại sớm.
Rất may, trong giờ đó đa số nhân viên trong phòng tôi đã rủ nhau
xuống Câu Lạc Bộ để giải khát. Chỉ còn tôi và người công chức già ngồi
tâm sự. Một niềm xúc động mãnh liệt dâng tràn trong lòng tôi.
Trước khi ra về, tôi lấy chiếc chìa khóa ngăn kéo nơi bàn giấy, trong có để các hồ sơ và một số vật dụng cá nhân, đưa cho bác T.
Tôi nói :
- Bác cứ tự nhiên, dùng được cái gì thì dùng .
Tôi cũng móc ví, lấy hết các giấy bạc loại lớn trong đó, dúi vào tay người công chức già một nắm tiền.
Tôi vỗ nhẹ vai bác :
- Bác giữ lấy để tiêu đi .
Người nhân viên của tôi ngạc nhiên, đưa cả số tiền trả lại :
- Thiếu tá đừng làm vậy !
Tôi nói, thật khẽ :
- Xin bác cứ yên tâm.
Lúc nầy, tôi không cần tiền nữa. Nghe lời nói quả quyết của tôi, bác
cám ơn rối rít, nhét tiền vào túi quần phía sau và tiễn tôi ra tận xe.
Tới lúc đó, tôi mới cho bác biết là rất có thể tôi sẽ rời Sài Gòn vào
chiều nay, nếu có chuyến bay đi Mỹ. Vừa nghe tới đó, bác cảm động ôm
mặt khóc. Tôi nắm lấy hai vai bác T., an ủi bác; rồi mở máy , chiếc xe
từ từ lăn bánh ra khỏi cổng. Người lính gác đưa tay chào tôi, và tôi
giơ tay chào lại. Tôi quay nhìn lại cổng doanh trại một lần chót. Tôi
thầm nghĩ, chắc hẳn bữa nay là ngày tôi giã từ đời binh nghiệp! Trước
mắt tôi, bầu trời như sụp tối, thời gian như ngừng trôi. Chiến tranh
“Ý Thức Hệ” đã gây tang tóc và đổ vỡ cho biết bao gia đình. Một sự mất
mát quá lớn lao. Cuộc đời tôi, từ nay, đã rẽ vào một khúc quanh mới,
không biết sẽ dẫn đến đâu, mà tôi phải chấp nhận, một chấp nhận quá phũ
phàng !
Tôi đã biết rõ chính
sách tàn bạo, thâm độc của người Cộng Sản khi họ chiếm làng tôi. Họ đấu
tố, đầy ải hàng chục gia đình trung nông đã từng đóng góp tiền của,
xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Suốt hơn hai mươi năm
thống trị miền Bắc, họ đã bần cùng hóa nhân dân, áp đặt lối cai trị hà
khắc làm cho hàng triệu người khốn khổ !
Tôi sẽ phải bỏ nước ra
đi, tìm TỰ DO bằng bất cứ giá nào, vì tôi biết tôi không thể nào sống
nổi dưới chế độ Cộng Sản được, dù chỉ là một ngày, một giờ.
Vừa về đến nhà, tôi thấy
vợ tôi đang chuẩn bị một số áo quần, và vài thứ vật dụng, thuốc men lặt
vặt. Ngoài ra, những thứ gì nặng và cồng kềnh, tôi bảo nhà tôi bỏ lại
hết. Đến chiều tối, tôi chất hai cái valise và vài túi xách nhỏ lên
chiếc xe Austin Minivan. Vợ chồng tôi và các cháu sang chào cha mẹ tôi ở
sát bên nhà tôi. Cha mẹ tôi rưng rưng nước mắt, nắm tay tôi cầu nguyện
Chúa che chở chúng tôi đi được bình an. Tôi yên tâm ra đi, vì biết
anh chị cả tôi có ba người con lập nghiệp tại Hoa Kỳ. Các cháu, và
người em ruột của chị dâu tôi đã vui lòng bảo lãnh cho anh chị và cả
ông bà nội nữa.
Vợ tôi ngồi bên cạnh, và bốn đứa con tôi ngồi băng dưới. Tôi lái xe ra đi đến chỗ hẹn.
Tối hôm đó, gia đình tôi, gồm vợ chồng tôi và bốn đứa con, nghỉ
tạm tại nhà ông anh vợ. Chúng tôi thấp thỏm chờ đợi xe bus tới đón ra
phi trường.
Các con tôi mệt, nên ngủ
say sau khi tới. Chúng tôi chờ đợi suốt cả đêm, mà chẳng thấy xe bus
nào tới đón. Đối với tôi, đêm hôm ấy dài vô cùng. Chúng tôi đứng bật
dậy, rộn ràng , hồi hộp khi nghe thấy tiếng còi xe hơi ngoài ngõ, và
thở dài não nuột khi bước ra cổng, thấy đó chỉ là một chiếc taxi nào đó.
Cứ xôn xao hy vọng, rồi
lại ngỡ ngàng chán nản suốt từ chập tối hôm trước đến sáng sớm hôm
sau. Thế mới biết cổ nhân nói câu “ Có thức đêm mới biết đêm dài “ cũng
không phải là sáo ngữ! Sáng hôm sau, vẫn chưa có xe tới đón. Ông anh
vợ tôi là Đại úy Nguyễn Văn An tòng sự tại Bộ Quốc Phòng bảo chúng tôi
cứ về nhà, chờ ở đó, và ông sẽ đích thân dùng xe Jeep đưa chúng tôi tới
thẳng cơ quan DAO, tức là văn phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ. Vừa về
đến nhà, tôi dẹp quần áo và vật dụng linh tinh ở phòng khách sang một
bên, rồi dựa vào chiếc ghế bành, ngủ ngon lành cho đến lúc nghe tiếng
nói oang oang của bầy con nít con hàng xóm làm tôi chợt thức giấc :
- Nhà nầy họ đi Mỹ, bà con ơi !
- Lại đây tụi bay, coi mấy người sắp đi Mỹ !
Tiếng ồn ào của bon trẻ
con tinh nghịch làm tôi hơi bực mình. Một đứa khác nói chen vào, đầy vẻ
khoái trá trước sự đi hụt của chúng tôi :
- Nhà nầy không đi Mỹ đâu, tụi bay ơi ! Họ đi Mỹ Tho đó.
Và cả bọn cùng cất tiếng
cười ranh mãnh . Nếu là những ngày thường, có lẽ tôi cũng ra phía
trước, yêu cầu bọn chúng đi ra chỗ khác chơi. Nhưng lần này, với mặc
cảm của một người toan tính trốn chạy, tôi chỉ dịu giọng nói với mấy đứa
trẻ trạc tuổi con mình :
- Các em đi chơi chỗ khác, cho chú nghỉ ngơi một chút nhé !
Nói đoạn, tôi đưa chúng một túi kẹo chanh :
- Các cháu chia nhau ăn đi !
Tụi trẻ đi rồi, tôi đảo
mắt nhìn các vật dụng trong nhà, từ bộ bàn ghế tiếp khách mầu gụ chúng
tôi mới sắm, chiếc đàn piano hiệu YAMAHA chúng tôi mới mua cho đứa con
gái lớn cách đó sáu tháng, khi cháu bắt đầu học tại tư gia của nhạc sĩ
Nghiêm Phú Phi ở khu Tân Định. Căn nhà vợ chồng tôi dành dụm bao nhiêu
năm mới mua được này, tôi vừa thuê thợ sửa sang cho rộng. Chiếc xe
Austin sáu chỗ, tháng trước, tôi đưa làm máy và sơn một lớp sơn mới,
chạy thật tốt.
Tôi nghĩ tới sự khó nhọc của hai vợ chồng tôi trong mười hai năm
trường mới tạo dựng được chút sản nghiệp khiêm tốn như ngày hôm nay.
Bỗng dưng một sớm một chiều, chúng tôi sắp mất hết.
Nghĩ tới đó, tôi bỗng đổi ý, và nói với vợ tôi :
- Em nầy, mới hôm qua, ở
tạm nhà anh của em một đêm, không phải nhà mình, mà anh thấm thía câu
nói “ Sẩy nhà ra thất nghiệp “ rồi ! Thôi, anh không muốn đi đâu hết.
Nhà mình, mình ở. Ra đi, với tương lai vô định, không nhà không cửa.
Anh không muốn đi một chút nào nữa !
Vợ tôi ngạc nhiên :
- Anh ơi, anh nghĩ quẩn
rồi ! Chiều hôm qua, anh nói với em là anh nhất quyết ra đi vì không
sống nổi với Việt Cộng. Bây giờ, chỉ vì xe bus chưa tới đón, anh đã nản
lòng , không chịu đi nữa !
Tôi nói :
- Nhưng mà còn nhà cửa, bao nhiêu thứ mà anh và em vất vả xây dựng bấy lâu nay ?
Vợ tôi gào lên :
- Những thứ đó, bỏ lại hết ! Mai mốt mình sẽ xây dựng lại. Còn người, còn của, mà anh?
Tôi cù nhầy :
- Anh Nghiêm, anh
Chỉnh, anh An, chú Cảnh, chú Hiền, cũng đều là quân nhân, có ai đi đâu
? Anh ở lại với các anh em của anh. Em có đi, thì dẫn các con đi đi !
Đến lúc nầy, vợ tôi đã mất hết bình tĩnh. Nàng khóc nấc lên, vừa khóc vừa kể lể :
- Anh đã có thời sống
gần tụi nó ở ngoài Bắc. Các bác của anh ở lại đã bị tụi nó cắt cổ, đấu
tố, đầy đi tù rồi, anh không nhớ sao ? Rồi vụ tết Mậu Thân, chỉ là
trung sĩ, cũng bị chúng nó bắt đi, đập đầu hoặc sỏ giây kẽm gai chôn
sống tập thể, anh không biết sao ? Huống chi anh là thiếu tá. Tụi nó
gặp anh là bắn liền ! Thử hỏi lúc đó, nhà cửa này, của cải dành dụm
này, anh có chắc hưởng được không ?
Rồi nàng tiếp, dùng tình cảm thuyết phục tôi :
- Anh cũng phải nghĩ
đến tương lai bốn đứa con anh nữa chứ ? Đi ra khỏi nước, dù anh và em
không làm nên trò trống gì, con cái mình sẽ có cơ hội tiến thân . Em
cũng chẳng biết chúng nó sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội
hơn là ở nhà rồi !
Trong lúc tôi ngồi thừ
người ra, đầu óc hoang mang, không biết phải nói gì, nghĩ gì, vợ tôi
vừa khóc vừa chạy sang nhà cha mẹ tôi ở kế sát bên. Nàng tin rằng chỉ
có mẹ tôi khuyên giải tôi mới nghe ra. Đúng như nàng nghĩ, mẹ tôi qua
ngay tức khắc. Bà nắm tay tôi, nhẹ nhàng khuyên bảo :
- Con ơi, con nên nghĩ
lại. Sáng nay, anh chi Chang sẽ đến đón cha mẹ ra đi. Cha mẹ đã từng ở
với bọn chúng rồi. Cha con đã từng bị chúng nó bắt đi, chỉ vì cha con
là công chức. Suýt nữa chúng nó đã thủ tiêu cha rồi đó. Giữa năm 54,
ông bà ngoại con đã hơn 70 tuổi, mà còn liều chết trốn đi. Vì ở lại là
chúng nó sẽ đấu tố, làm nhục cho đến chết !
Bà nhìn vợ tôi, rồi tiếp :
- Con may mắn lắm mới
có vợ con đảm đang, xông xáo, lo cho con và các cháu ra đi. Hai anh
Nghiêm và anh Chỉnh của con muốn đi lắm, mà không có cơ hội như con.
Hai anh đang lo, mà không biết cách nào đi được. Con có cơ hội tốt.
Đừng bỏ lỡ cơ hội hiếm có nầy !
Tôi nghe lời mẹ, hứa sẽ
đưa gia đình đi. Quyết định của tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của
chúng tôi và tương lai các con tôi !
Sáng Chúa Nhật 27 tháng
Tư năm 1975, gia đình tôi sửa soạn để đi nhà thờ. Tôi cũng đang ăn dở
dang tô phở do chị giúp việc vừa mua về thì anh cả của vợ tôi, Đại úy
Nguyễn văn An, cũng vừa lái xe Jeep tới đậu ngay trước cửa nhà tôi. Anh
cho biết chúng tôi chỉ có đúng 10 phút chuẩn bị hành lý. Tôi bỏ đũa,
giúp vợ tôi sắp xếp hành lý lần chót. Anh An giúp tôi chất hai chiếc
valise lên xe Jeep. Vợ tôi đưa trả tiền công cho chị giúp việc, và tặng
thêm cho chị một tháng lương nữa. Tôi đã gọn gàng trong bộ đồ dân
sự, vợ tôi và bốn cháu ăn mặc thật giản dị. Cả gia đình tôi ngồi gọn
trên chiếc xe Jeep, trực chỉ hướng Tân Sơn Nhất. Anh An nói, anh sẽ đưa
chúng tôi tới thẳng cơ quan DAO.
Gần đến nơi, tôi chứng
kiến cảnh người di tản chen chúc, giành giật nhau một chỗ đứng sát cổng
vào bên trong. Những chiếc xe Mercedes, Peugeot, Ford, Toyota còn mới
toanh, không người lái, nằm ngổn ngang dọc theo bờ rào sát phi trường.
Anh vợ tôi dừng xe trước một trạm gác. Một trung sĩ quân cảnh Việt Nam
và một quân cảnh Mỹ đang làm công việc xét giấy . Người quân cảnh Việt
Nam xem sự vụ lệnh công tác và tờ “manifest” do tòa Đại sứ Mỹ cấp, rồi
trao cho người quân cảnh Mỹ soát lại lần chót. Sau khi xem xét giấy tờ
và nhìn vào trong xe kiểm soát, hai quân cảnh Mỹ Việt giơ tay chào, và
ra hiệu cho xe đi.
Thế là chúng tôi đã vào
trong cơ quan DAO và trình giấy tờ trong khi các chuyến xe bus của tòa
Đại Sứ Hoa Kỳ lần lượt chở các nhân viên và thân nhân tới. Khung cảnh
thật là náo nhiệt, tiếng người nói chuyện, bàn tán thật ồn ào. Trên
bầu trời, từng đoàn trực thăng bay tới bay lui như những con chuồn chuồn
khổng lồ, hết chiếc nầy vừa đáp xuống thì chiếc kia lại bốc lên, có lẽ
để đi đón người di tản ở một địa điểm khác. Chúng tôi được chia ra
làm từng toán, mỗi toán hai mươi người. Bây giờ chỉ còn việc đợi xe bus
tới chở ra máy bay. Trong lúc chờ đợi, tôi đảo mắt nhìn xung quanh,
qua hai lớp hàng rào giây kẽm gai bao bọc cơ sở này. Những người di
tản tới cơ quan DAO bằng xe taxi đều bị chặn lại ngay tại cổng để kiểm
soát giấy tờ.
Một chiếc taxi vừa dừng
lại phía ngoài cổng. Trên xe một thanh niên trạc hăm ba tuổi, một phụ
nữ trẻ bế đứa bé khoảng hai tuổi, và một cặp vợ chồng lớn tuổi lần lượt
bước xuống. Tôi đoán chừng ông bà nầy là cha mẹ của người phụ nữ, và
chàng thanh niên là con rể. Chàng thanh niên đưa xấp giấy tờ cho người
cảnh sát gác cổng; người này xem qua rồi đưa cho viên trung sĩ quân
cảnh đứng cạnh. Người quân cảnh nói gì với chàng thanh niên, và ra hiệu
cho anh đứng sang một bên. Người phụ nữ bế con tiến lại phân trần với
người quân cảnh, rồi người đàn ông lớn tuổi cũng đến, dường như vừa
thuyết phục vừa năn nỉ, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu từ chối. Một
lát sau, xe quân cảnh đi ngang . Chàng thanh niên bị mời lên xe. Người
phụ nữ gào khóc, nắm chặt cánh tay người thanh niên, không cho lên xe.
Đứa bé cũng khóc thất thanh, ôm lấy chân anh ta. Thế là một cảnh
giằng co xẩy ra, làm huyên náo một góc cổng gác. Người phụ nữ trẻ cố
năn nỉ hai quân cảnh Việt Nam tha cho chàng thanh niên. Tiếng gào khóc
của chị nghe thật thương tâm !
Tôi để ý nhìn hai quân
cảnh Mỹ đứng gần đó. Họ không can thiệp gì cả. Hai trung sĩ quân cảnh
trên xe nói gì với người thanh niên. Anh ta thì thầm điều gì đó với
người phụ nữ. Chị và đứa bé không gào khóc, níu kéo nữa. Người thanh
niên lên xe. Chiếc xe Jeep quân cảnh đi đâu, không ai biết. Tôi chỉ
thấy cặp vợ chồng lớn tuổi và người phụ nữ trẻ, cùng đứa bé leo lên một
chiếc taxi khác vừa đổ người xuống. Chiếc xe đi ngược về phía cửa ngõ
vào thành phố. Tôi chắc gia đình họ trở về nhà.
Tổng thống Trần Văn
Hương nhậm chức chỉ có mấy ngày, nhưng ông đã phải đương đầu với cảnh
“dầu sôi lửa bỏng “ của đất nước. Trên mặt báo, tôi đọc thấy tân thủ
tướng Nguyễn Bá Cẩn đã ra lệnh cho các viên chức có trách nhiệm phải
ngăn chặn mọi thành phần quân cán chính trong hạn tuổi của quân đội,
không cho những người nầy xuất ngoại bằng bất cứ phương tiện gì, đường
hàng không, đường bộ và kể cả đường biển nữa. Lệnh này được áp dụng
triệt để. Báo chí thời đó tường thuật rõ ràng những trường hợp cơ quan
công lực bắt giữ một số viên chức trong chính quyền, kể cả quân đội,
đang trên đường vượt biên.
Riêng trường hợp người
thanh niên bị bắt giữ lại, tôi nghĩ cả người vợ và gia đình bên vợ cũng
kẹt ở lại luôn. Tôi không thể quên được tiếng khóc nức nở của người
phụ nữ trẻ, khi người chồng bị bắt lại, và xe quân cảnh đưa đi. Tôi
nghĩ, các viên chức Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, khi chứng kiến cảnh bắt giữ
thương tâm đó, có lẽ cũng bị “mất mặt” phần nào, vì chính phủ Hoa Kỳ đã
đồng ý cấp giấy tờ cho cả gia đình người ta đi Mỹ, mà quân cảnh Việt Nam
lại có quyền bắt giữ lại ? Tôi thấy hai viên chức Hoa Kỳ ở bãi đậu xe,
đứng gần chỗ chúng tôi đang chờ đợi, dùng máy liên lạc vô tuyến, gọi
đi một chỗ nào đó; có lẽ với giới chức cao cấp Việt Nam và tòa Đại Sứ
Hoa Kỳ chăng ?
Bởi vì, khoảng 15 phút sau, tôi không còn thấy quân cảnh và cảnh sát ở ngoài cổng cơ quan DAO nữa.
Tôi nhớ lại những ngày
tới Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn, chỉ huy toán tuần tiễu hỗn hợp gồm cảnh
sát, quân cảnh, để bắt đào binh và những người trốn quân dịch. Tới giờ
cơm trưa, tôi dẫn toán tuần tiễu của tôi vào tiệm phở Tầu Bay đãi mỗi
người một tô phở xe lửa và ly cà phê sữa đá. Chúng tôi ngồi ăn uống và
nói chuyện vui vẻ trong tình đồng ngũ, coi nhau như những người thân
thiết trong đại gia đình quân đội.
Bây giờ, gặp lại mấy
người quân cảnh và cảnh sát, cũng trong sắc phục đó, nhưng ở trong hoàn
cảnh thật éo le nầy, tôi mặc y phục dân sự, vì đã từ bỏ nhiệm sở để ra
đi, còn những anh em đó vẫn còn ở lại, tiếp tục nhiệm vụ của mình, lòng
tôi đâm ra e dè, sợ sệt, đầy mặc cảm; nên không còn cái cảm giác thân
thiết với những người đã từng cùng ở trong đại gia đình với tôi nữa !
Tôi thực sự cảm thấy
không được thoải mái cho lắm khi phải đối diện với họ; mặc dù sau việc
xẩy ra hồi sáng và sự can thiệp của nhân viên tòa Đại sứ Mỹ, cảnh sát
và quân cảnh Việt Nam chỉ còn nhiệm vụ giữ an ninh trật tự thôi, chứ
không bắt giữ hay làm khó dễ những người di tản nữa. Nhìn sang toán kế
bên, tôi gặp Trung tá P. Tôi quen biết ông mỗi lần tôi đi họp ở Tổng
Cục Tiếp Vận, Bộ Tổng Tham Mưu. Thấy ông trong y phục dân sự, tôi quen
miệng chào ông theo cấp bậc quân đội. Ông ghé sát tai tôi nói nhỏ :
- Thôi “toa” miễn cho “moa” đi.
Tới lúc đó, tôi biết
mình lỡ lời, vội vàng nắm tay ông cười giả lả. Có lẽ lúc này, ông cũng
mang chung một tâm trạng xấu hổ vì đã trốn chạy khỏi nhiệm sở như tôi,
nên không muốn ai nhắc đến cấp bậc của mình.
Khoảng 3 giờ chiều chúa nhật 27 tháng 4, một toán xe bus gồm năm
chiếc tới đậu ở ngay trước lối vào văn phòng cơ quan DAO. Chúng tôi lần
lượt xếp hàng lên xe. Khoảng mười phút sau, đoàn xe hướng về khu vực
nơi máy bay C.130 đậu, gần phía cuối phi đạo.
Khi còn cách chỗ máy
bay khoảng 40 thước, các xe bus ngừng lại. Người hướng dẫn trên xe yêu
cầu chúng tôi xuống, sắp hàng một để đi về phía máy bay.
Tôi nhìn ra phía trước.
Bên chiếc máy bay phản lực C.130, đã có sẵn hai người lính quân cảnh
Việt Nam đứng chờ, ngay cửa phía sau đuôi máy bay.
Chúng tôi lần lượt bước
xuống xe bus, theo đoàn người di tản. Vợ và các con tôi đi trước. Còn
tôi, một tay bồng cháu gái út Hồng Bảo, lúc đó mới hơn hai tuổi.
Đi sát phía sau tôi là
một đôi vợ chồng trẻ và đứa con nhỏ, cùng trong toán tôi. Người chồng
là một kỹ sư điện làm việc cho một cơ quan tiếp liệu Hoa Kỳ. Có lẽ hồi
sáng, anh chị nầy đã chứng kiến cảnh người thanh niên bị bắt giữ lại,
nên người vợ tỏ ra hết sức lo lắng khi nhìn thấy hai viên quân cảnh Việt
Nam to lớn đứng nơi chân máy bay.
Chị quay về phía tôi hỏi nhỏ :
- Anh có biết tại sao
quân cảnh Việt Nam vẫn còn ở đó không ? Liệu chồng tôi đang trong lứa
tuổi quân dịch có bị bắt lại không, thưa anh ?
Tôi đưa mắt nhìn chị đang bồng đứa con gái trạc tuổi đứa con gái
út tôi, còn anh thì xách một valise, và trên vai đeo một cái cặp nữa.
Làm ra vẻ thông thạo, tôi trấn an cặp vợ chồng trẻ :
- Theo tôi, nhiệm vụ
của hai người quân cảnh này chỉ là canh gác máy bay, đề phòng phá hoại
thôi. Giờ phút nầy, họ không còn bắt giữ ai như hồi sáng nữa đâu.
Tôi nói tiếp :
- Chị nên trao cháu nhỏ cho anh bế ! Mình cứ tự nhiên mà đi, đừng để ý gì đến họ. Không sao đâu !
Người vợ trao đứa bé cho
chồng, và đỡ hộ anh ta chiếc cặp trên vai. Chúng tôi đi trong toán di
tản cuối cùng, và chẳng bao lâu đã tới cửa phía sau của chiếc máy bay
C.130. Tôi cố giữ nét mặt bình thản, nhìn về phía trước. Nhưng lúc đi
ngang qua hai người quân cảnh, tôi biết chắc chắn họ đang chăm chú nhìn
tôi. Chúng tôi vừa bước vào thân tàu, thì anh chồng đi phía sau tôi
đặt đứa bé xuống sàn máy bay cho người vợ giữ. Anh lách mình, vượt qua
tôi; vội vàng đi thẳng vào phòng vệ sinh, đóng sập cửa lại.
Khi người di tản cuối
cùng đã vào hẳn trong máy bay, nhân viên phi hành kiểm soát một lần
chót; rồi bấm nút; chiếc cánh cửa vĩ đại phía sau đuôi máy bay từ từ
đóng lại.
Chúng tôi ngồi vào chỗ,
được hướng dẫn cài dây an toàn, và những gì phải làm khi gặp trường hợp
khẩn cấp. Mùi nhiên liệu phi cơ, mùi mồ hôi, mùi kim loại tỏa ra dưới
nắng chiều gay gắt làm không khí chờ đợi thật ngột ngạt và căng thẳng.
Động cơ chạy mạnh hơn, và chiếc máy bay lăn bánh, tiến dần ra phi đạo.
Rồi tiếng máy rú lên, vận tốc tăng nhanh; chiếc C. 130 nhẹ nhàng cất
cánh. Vừa lúc đó, người kỹ sư trẻ tuổi cũng từ phòng vệ sinh vội vàng
bước ra; mặt anh xanh mét, như không còn hồn vía gì.
Tôi đã đoán biết vì sao anh vào trong đó, nhưng cũng giả vờ hỏi :
- Bộ anh đau bụng lắm hay sao mà ngồi trong nhà vệ sinh lâu quá vậy ?
Anh thật thà trả lời :
- Dạ, em có đau bụng gì
đâu ! Sáng nay chứng kiến cảnh bắt giữ người thanh niên, đến giờ này
em còn sợ; nên phải trốn vào phòng vệ sinh, chờ máy bay cất cánh mới dám
đi ra.
Tôi cười nhẹ, thông cảm với nỗi lo sợ của cặp vợ chồng này.
Trạm đầu tiên cho người
tỵ nạn xuống là đảo Guam. Chúng tôi được phân phối tạm trú trong những
căn lều thật lớn do công binh Mỹ vừa dựng lên, mỗi căn lều có sức chứa
cả ngàn người. Buổi sáng hôm sau, tôi lên văn phòng trại ghi danh và
điền vài mẫu giấy tờ hành chánh cho việc chuyển trại. Khi đang ngồi chờ
ở trước văn phòng, cha mẹ tôi và cháu trai con ông anh cả tôi bước
vào. Gặp lại tôi, mẹ mừng lắm, hỏi han ríu rít. Thế là gia đình anh
chị cả đã mang được cha mẹ tôi đi cùng, và chỉ đi sau tôi khoảng 4 tiếng
đồng hồ, trên một chuyến máy bay khác.
Những ngày sống nơi trại
tạm cư ở Guam, ngoài những bữa ăn, gồm toàn món Mỹ, chúng tôi thường đi
bộ ra bờ biển Guam hóng mát, nhất là lúc xế trưa.
Buổi tối, ban
chỉ huy trại cho chiếu phim giải trí. Một số nghệ sĩ Việt Nam cũng họp
nhau lại mỗi buổi chiều, trình diễn giúp vui cho đồng bào tị nạn.
Điều đau buồn
nhất đối với chúng tôi, là chiều 30 tháng 4 năm 1975, khi hai đài phát
thanh BBC và VOA loan tin Sài Gòn bị thất thủ, và cả miền Nam đã rơi vào
tay giặc Cộng. Chúng tôi ai nấy đều ngậm ngùi, xót xa chia sẻ niềm đau
đớn của đồng bào ruột thịt, từ nay sẽ sống dưới ách cai trị của bọn
Cộng Sản độc tài và bạo tàn.
Tất cả mọi người
chúng tôi đều mang chung một tâm trạng đau buồn. Tôi đã chứng kiến
những người thiếu phụ trẻ bên nách một đàn con thơ nheo nhóc, họ ngồi
bên góc lều trại, hộc lên khóc, tiếng khóc đau đớn, não nề, ai oán kéo
dài từng hồi. Những lúc như thế, vợ tôi lại chạy tới, dỗ dành, an ủi
họ. Rồi tiếp đến căn lều bên cạnh, như bị xúc động giây chuyền, có
người đã bật ra tiếng khóc, nhất là các bà các cô, vốn rất nhạy cảm.
Chung quanh căn lều tạm
trú, tôi nghe những tiếng khóc nức nở đầy vẻ căm phẫn. Những người đàn
ông biểu lộ nỗi đau thương một cách lặng lẽ hơn. Tôi thấy những khuôn
mặt trầm lắng, đanh lai, những đôi mắt đỏ hoe, những giọt nước mắt tủi
hờn vừa mới lau khô. Ai ai đều ngậm ngùi trước cảnh gia đình tan tác,
vợ xa chồng; cha mẹ xa con; anh chị em lưu lạc khắp bốn phương trời…
Tuy không nói ra, nhưng trong thâm tâm, tôi biết chắc chắn kể từ giờ phút nầy, tôi sẽ phải chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai.
VŨ NGỌC BÍCH
PHAN LẠC TIẾP * CÂY NA
Cây Na
Phan Lạc Tiếp
Đoàn chiến đỉnh, trên 50 chiếc đuœ loại, thuộc nhiều Giang đoàn tăng phái, tham dự cuộc hành quân vào vùng “cấm địa” Tam Giác Sắt, thuộc tỉnh Bình Dương. Cuộc hành quân đã khai diễn ngay sau mấy ngày Tết, đầu tháng hai, năm 1966. Tuy đây là cuộc hành quân quy mô, tiêu biểu, và rất to lớn, có tới trên 40 ngàn quân bộ chiến Việt Mỹ tham dự. Đây cũng là cuộc hành quân mơœ đầu cho vai trò Lùng và Diệt cuœa Quân đội Mỹ; và Bình Định do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phụ trách. Đặc biệt trong cuộc hành quân này, tuyệt đối không có một thông tín viên nào được phép tham dự, dù là Mỹ, hoặc Việt, dân hoặc quân sự. Tôi với tư cách Trươœng Đoàn Tâm Lý Chiến lưu động thuộc Bộ Tư Lệnh Haœi Quân, tham dự với nhiệm vụ hỗ trợ dân chúng rời khu vực hành quân bằng các chiến đỉnh Haœi quân, và trao họ lại cho anh em Bộ Binh khi đoàn tàu về đến Bình Dương.
Cuộc hành quân quy mô và to lớn khai diễn đã mấy ngày, đoàn chiến đỉnh mới được phép tiến vào vùng trách nhiệm. Khơœi hành từ bến tàu Bình Dương, vào lúc 4 giờ sáng, di chuyển ngược lên thượng dòng cưœa sông Sàigòn. Từ phòng Hành Quân cuœa chiếc Monitor Command (Soái đỉnh), trên haœi đồ, tôi thấy hình aœnh con sông Sàigòn uốn khúc lòng vòng rất nhiều. Càng lên thượng giòng sông càng hẹp và bên mặt là rừng và núi. Cầm ly cà phê nóng trên tay, tôi đi ra phía mũi tàu, bước những bước thật chậm, vì sợ trượt sương. Tới gần mũi tàu, tôi tụt xuống ngồi tựa lưng vào thành sắt cuœa khẩu đại bác 20 ly đôi. Gió lạnh. Trời đầy sương. Tiếng máy tàu ầm ầm rền rĩ. Những tia đèn pin màu đoœ loang loáng vẫy vẫy, lập lòe. Tôi nhớ lại mới mấy tháng trước đây thôi, cũng những chiếc tàu như thế này, cũng không khí nặng nề, câm nín và kinh khiếp như không khí này cuœa Giang đoàn 21 và 27 Xung Phong Mỹ Tho. ƠŒ đó, tôi đã tham dự đã chứng kiến rất nhiều điều thật là xúc động. Bà mẹ cuœa Hoàng Hiền, hôm ấy đến đơn vị nhận lại các di vật cuœa con, lúc ra về, tay bà xách cái kiếm, đầu bà chít một giaœi khăn tang dài. Bà đi thong thaœ suốt chiều dài cuœa maœnh sân đơn vị, trời nắng chói chang. Veœ mặt bà khô như tượng… Trần Ngọc Baœo, chìm theo tàu, trên rạch Ba Rài, mãi gần một tuần sau mới nổi lên. Khi xác bung lên, kéo theo một quầng bọt. Cánh tay nhô lên trước, bàn tay vẫn còn cầm cái bút nguyên tưœ màu vàng…
Tiếng kêu tuyệt vọng cuœa Nguyễn Ngọc Giang trong đêm 29 tháng 9, 1965, lúc trận chiến đã tàn. Giang bị thương nằm quằn quại trên tàu, xung quanh toàn xác chết. Trên hệ thống liên lạc, chỉ được nhân viên trực traœ lời rồi im. Đặng Diệm nghe hết, trình lên thượng cấp. Thượng cấp baœo “nó bị bắt, vào cứu nó mắc kế cuœa địch…”. Nhưng tiếng kêu kia vẫn cứ tiếp tục. Diệm yêu cầu mô taœ tình hình. Giang nói: “Vắng ngắt. Tụi nó đi hết rồi. Trời tối, quanh tôi chỉ toàn xác chết”. Được kiểm chứng lại mật mã, bằng các con số cộng, trừ, thật nhanh. Giang đều đáp được. Diệm, Đặng Diệm đã gồng mình, bất chấp lệnh thượng cấp, đem mấy chiếc tàu nhoœ lần trơœ lại rạch Ba Rài, tiến đến con tàu cuœa Giang. Con tàu chìm một nưœa, mũi ghếch lên bờ. Giang lấy đèn pin bấm lập lòe làm hiệu cho tàu cập lại. Ôm được Giang qua, người Diệm đầy máu. Ánh đèn phi lướt lên các khuôn mặt bất động kinh khiếp. tất caœ đã lặng lẽ. Đã chết từ lâu. Giang nằm xoaœi tay trên tấm nệm cũ, thơœ dốc. Đoàn tàu cuœa Diệm lại lặng lẽ trơœ ra ngoài cưœa sông và xaœ tốc lực đem Giang về bến Quận lÿ Cai Lậy…(*)
Đang miên man nhớ lại thì Bác sĩ N.T.L. bước tới. Tay ông cũng cầm một ly cà phê. Ông nói:
– Tìm ông mãi.
Tôi ngước nhìn lên. Trời đã sáng. Khuôn mặt bác sĩ L. sáng ngời, đôi mắt long lanh qua làn kính trắng.
Tôi nói:
– Xuống đây.
Bác sĩ L. từ từ bước xuống và nói:
– Sao không ơœ trong phòng chỉ huy cho vui và an toàn.
Tôi cười nói:
– Xuống đây. Trong đó chật. Để họ làm việc. Hơn nữa ơœ đây an toàn hơn.
– Sao”
– Đã đi hành quân, sống chết có số. Nhưng ơœ đây có nhiều cái hay lắm.
– Sao” Ông nói tôi nghe.
– Ngồi đây mát, thoáng, dễ chịu. Và chẳng may “Bà Thuœy cười” một búa, tàu tung lên, ơœ đây mình có hy vọng được văng lên bờ. Còn trong đó, thì hoặc chìm theo tàu, hoặc đập đầu vào trần sắt.
– Hay. Ông nói có lý. Còn gì nữa”
– Nếu tụi nó dùng B40, thì bao giờ chúng cũng nhắm vô đài chỉ huy, nơi có các cần câu lêu nghêu…
– Hay.
– Và quan trọng hơn hết. Mình không có nhiệm vụ điều khiển tàu thì “đi ra chỗ khác chơi” cho rộng chỗ làm việc. Và chẳng may họ có bị, thì mình còn sống để thay thế chứ.
– Hay.
– Thôi. Khen vừa chứ ông. Ông mà nghe tụi em ơœ Giang Đoàn nó nói còn nhiều cái hay hơn nhiều. Kinh nghiệm máu mà ông.
Lúc này trời đã sáng hẳn. Độ baœy giờ sáng. Cách bờ sông độ vài mặt ruộng, cứ độ một cây số, lại có một trailer dài, do trực thăng Chinook câu tới: Một nhà hàng lưu động, từ Hạm đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu, đem đồ ăn sáng cho lính Mỹ. Tôi lấy ống nhòm quan sát. Lính Mỹ, đa số nằm ơœ vị trí tác chiến, nhưng một số nhoœ, lần lượt xếp hàng vào lấy đồ ăn sáng. Các chú cooks áo khoác trắng, mũ trắng cao nghệu, như các tay đầu bếp hạng sang tại các nhà hàng lớn, phân phát thực phẩm nóng cho lính Mỹ. Tôi đưa ống nhòm cho Bác sĩ L. coi. Nhìn xong ông nói:
– Mẹ! Đánh nhau cái kiểu này lạ nhỉ.
Nhìn sâu vào phía xa, là rừng. Rừng cây trắng xóa. Cây trơ cành và vướng đọng những sương. Đẹp quá. Bác sĩ L. lại nói:
– Như tranh Tàu.
– Mà ông có biết tại sao sương lại đẹp như thế không”
– Vì cây rừng không có lá.
– Đúng. Mà tại sao”
– Tại thuốc khai quang.
– Bộ họ raœi thuốc caœ cánh rừng mênh mông thế kia à”
– Vâng. Họ raœi thuốc cho cây rừng chết, Việt Cộng hết chỗ ẩn thân.
Giữa lúc ấy, những đoàn trực thăng bay vần vũ trên đầu, bao quanh khung trời có đoàn tàu chạy ơœ dưới. Tôi nói với Bác sĩ L.:
– Mình vào vùng cấm địa rồi đấy. Ông thấy không, lúc này mà nó bắn, mình chỉ có quyền dùng súng nhoœ mà thôi. Các loại súng có tầm bắn xa và đạn có đầu nổ như 12 ly 7, 20 ly, 40 ly không xài được.
– Sao vậy”
– Ông không nhìn thấy sông Sàigòn đang quằn quại uốn khúc đó sao”
– Thì nó quằn quại càng đẹp chứ.
– Nhưng các khúc sông vòng gần nhau quá, có chỗ chưa quá năm trăm mét. Vì thế, mình yœ súng lớn, đạn nhiều, nhắm mắt mà bắn cho đỡ sợ, thì mình bắn vào mình, vào các tàu khác.
– Hay.
– Hay mẹ gì ông. Tôi đang nhớ lại khúc sông vòng vèo ơœ Rạch Ba Rài, Cai Lậy, hôm 29 tháng 9 vừa qua, nó phục kích mình tại đó. Nó chết bộn, mà mình cũng ê càng.
– À, trận đánh có đăng trên báo Tiền Tuyến, ông viết lại mà.
– Đúng. Đó là nhiều nét đẹp, nhiều điều cần nói ra. Còn các điều không nên nói ra…
– Ông…
– Do đó, đi sông, tôi sợ nhất là sông uốn khúc. Lại sợ hơn nữa, là sông có bờ núi cao. Nó ơœ trên, mình ơœ dưới. Hạ sách nó lấy đá lăn xuống mình cũng tiêu, huống hồ nó đặt mình phục kích.
Nghe tới đó, Bác sĩ L. nhìn ra xung quanh. Quaœ nhiên đoàn tàu mấy chục chiếc cứ uốn khúc như múa rối. Và bên hữu ngạn núi đã bắt đầu xây thành sát mé sông. Bác sĩ L. nói:
– Thế ra, mình đang đi vào đất địch, với tất caœ cái hiểm nghèo, hạ sách nhất phaœi không ông”
– Đúng. Nhưng ông đừng có lo. Sống chết có số. Hơn nữa, nếu có bị tấn công, các máy bay trực thăng sẽ làm nhiệm vụ không yểm.
* * *
Càng đi vào sâu, lòng sông càng hẹp. Vách núi sát bờ nước. Và những xác người bị dồn sát vào bên núi, có xác đàn ông, phần lớn, và cũng có đàn bà và treœ nhoœ. Nhìn những tưœ thi, Bác sĩ L. như có ý chùn lại. Mặt ông lạnh tanh. Lúc ấy từ trên đỉnh trời, mấy chiếc L.19 đang thaœ caœ rừng truyền đơn xuống. Các truyền đơn bay lao xao như lá rừng. Một số rơi vào lòng tàu. Tôi nhặt lên đọc: “Thưa đồng bào. Để loại trừ Việt Cộng ra khoœi dân chúng, đem lại an ninh cho đồng bào. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Đồng Minh đang bao vây vùng Tam Giác Sắt. Đồng bào sẽ được di chuyển tạm thời về vùng an ninh. Sau khi thanh lọc Việt Cộng ra khoœi dân chúng, đồng bào sẽ được tái định cư.(**)
Độ mười giờ trưa, đoàn tàu đã tới Bến Súc. Nơi đây, các chiến đỉnh uœi bãi, mơœ cưœa đổ bộ để nhận dân xuống tàu. Ngoài tất caœ anh em trong Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động thuộc Bộ Tư Lệnh Haœi Quân ra, chúng tôi còn được anh em thuœy thuœ đoàn cơ hữu tăng phái hỗ trợ. Đồng bào được đưa xuống tàu, ngồi xếp hàng trong lòng tàu. Ai có đồ nặng, hoặc con nhoœ, anh em Haœi Quân đều vác, bế hộ. Các cụ già được anh em dìu đi. Khi lòng tàu đã chặt, tàu tạm rút ra, và cũng là lúc anh em Tâm Lý Chiến phát cho họ mền giấy và thực phẩm khô (Cration). Sau khi phân phát các phẩm vật này, các cán bộ Tâm Lý Chiến nói rõ cho đồng bào biết mục đích cuộc hành quân tại vùng Tam Giác Sắt là loại địch ra khoœi dân… ị Tr.62
Khi lòng tàu đã đầy, các cưœa đổ bộ được kéo lên, tàu lần lượt vào vị trí để ra về. Dưới trời nắng mông mênh, lòng sông như rộng hơn, và tất nhiên caœnh vật rõ hơn nhiều. Vẫn những đoàn trực thăng không yểm bay quần trên đầu. Tại các khúc quanh nguy hiểm, khaœ nghi, máy bay bắn rocket xuống, nổ bùng. Khói bay mù mịt. Trên đỉnh núi, vẫn có mấy chiếc máy bay L.19 thaœ rừng truyền đơn xuống. ƠŒ miệt rừng nào đó không xa lắm, tiếng bom dội xuống rền rĩ. Hai bên bờ, lác đác vẫn có những nhà ăn di động, do mấy anh chinook câu tới, để cung cấp bữa ăn trưa cho lính Mỹ. Hai bên mé sông, xác người nổi lình bình. Có nhiều xác bám vào mé coœ. Theo lượn sóng cuœa tàu, các xác cũng nổi trôi, lên xuống, vừa ứa ra những làn máu tím ngắt. Trong lòng tàu dân chúng, đa số là đàn bà, người già và treœ con. Có ông già ngồi giữ bát hương, đôi mắt thất thần. Có những em nhoœ ôm chặt con gà trong lòng.
Đoàn tàu tới Bình Dương vào khoaœng bốn giờ chiều. Dân chúng được thaœ lên bờ, có Đoàn Dân Sự Vụ cuœa Quân Đoàn đón đợi và hướng dẫn họ về khu trại tạm trú. Họ được cung cấp thực phẩm. Tại đây họ lại được thanh lọc một lần nữa. Trong khi đó các thanh niên trai tráng đã được chơœ đi riêng bằng máy bay, và ơœ một nơi riêng. Theo tin tức từ các cuộc họp hành quân thì trong cuộc hành quân này, có rất nhiều cán bộ cao cấp Việt Cộng bị bắt, trong đó có các giáo sư Nga ngữ.
Cứ như thế, sáng đi sớm, chiều về. Lộ trình vẫn là con sông Sàigòn nhiều đoạn uốn khúc rất đẹp, nhưng cũng rất hiểm nguy. Vào ngày chót cuœa công tác, dân đã hết. Tôi lang thang trong khu vực Bến Súc, thuộc phần trách nhiệm cuœa một đơn vị Nhaœy Dù. Tại đây, các vườn tược, đa số đã được xe uœi đất loại lớn, bằng lưỡi sắt nằm ngang, xe đi đến đâu, vườn tược phẳng đến đó, kể caœ các chướng ngại như nhà, cây cối đuœ loại. Mấy maœnh vườn chuối lại mọc lên những cuốn lá non xanh óng aœ, thẳng đứng như những cuộn nhung xanh. Tôi muốn đi xa hơn, nhưng anh em Nhaœy Dù caœn lại. Họ nói: “Đã cày như thế mà đêm đêm tụi nó từ dưới hầm còn mò lên bắn tỉa tụi này. Tối nào cũng thế”. Tôi có hoœi: “Sao không ném lựu đạn xuống các cưœa hầm”. Anh em Nhaœy Dù cho tôi một trái lựu đạn khói baœo: “Thaœ xuống cái hố này đi”. Tôi đưa trái lựu đạn cho một người khác. Anh ta mơœ chốt, ném xuống một miệng hầm ơœ gần gốc cây đã cụt. Tiếng nổ “ục” trong đó, rồi khói bay bốc lên, từ miệng hầm, từ gốc tre, từ giữa đám tiêu giữa sân… Anh bạn Nhaœy Dù nhìn tôi cười: “Đấy, như thế đấy. Đất thì rỗng, ăn sâu vào lòng núi, tụi nó nằm trong đó có lẽ còn lâu mới chết đói được…”
Trong khi chờ đợi bốc toán Dân Sự Vụ cuœa Quân Đoàn về, tôi tạt vào một căn nhà, nơi được dùng làm Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương cuœa đơn vị Nhaœy Dù. Trung Tá H. cho tôi hay: “Còn mấy tiếng nữa là dọt, Haœi Quân có muốn lấy gì thì lấy”. Tôi cười: “Cám ơn Trung Tá”, và ngồi ngắm toàn thể căn nhà. Một căn nhà gỗ, ba gian. Có cột bằng loại gỗ quý, có lẽ là gỗ mít, thật đều, bào rất thon. Các vân gỗ đối nhau rất chỉnh. Dưới mỗi chân cột có kê một miếng đá xanh tròn. Các xà nhà cũng đều tăm tắp. Đặc biệt là cái xà ngang trên cao nhất, có một hàng chữ nho. Ngang giữa nhà, có treo một cuốn lịch Tàu, buộc bằng một sợi chỉ bện ngũ sắc. Quanh nhà là các cưœa bức bàn, đa số nay đã được dán kín bằng các tấm không aœnh. Những mặt ruộng vuông nhoœ, giòng sông Sàigòn uốn khúc. Nhưng khu rừng chằng chịt đầy hố bom.
Qua không aœnh caœ khu Tam Giác Sắt hiện ra, và tôi thấy vòng đai lưœa đạn từ từ thu nhoœ lại, đúng như kế hoạch bao vây để lùng diệt mà tôi đã được học tập trước khi đi công tác. Tôi ra ngoài sân, nhìn xuống một triền dốc, dưới đó là khúc sông Sàigòn. Bờ bên kia, qua mấy đám cây khô, mấy con trâu sổng đàn từ mấy hôm trước đang nhẩn nha gặm coœ, lâu lâu chúng lại ngưœng đầu lên nhìn trời. Phía trái căn nhà chính là vườn chuối đã bị cày, đứt tận gốc. Sau nhà là một vườn tiêu. Những cây tiêu dựng cao, hình tháp, quaœ chằng chịt. Giữa các hàng tiêu là những lối đi mòn. Cuối vườn tiêu là căn nhà ngang, gồm chuồng gà và nơi để các nông cụ. ƠŒ đấy, cái cày, cái bừa, cuốc, xeœng bừa bãi. Bên phaœi căn nhà là một cái chái khá rộng. Tại đó, dọc theo sườn nhà là cái cối giã gạo. Cần cối dài. Cối đá gắn xuống đất, bao quanh bằng bệ xi măng. Nơi cuối cần, ngay chỗ người đứng giã gạo, đã mòn, nhẵn. Và trên tường, ngay chỗ người đứng giã gạo là hình các tài tưœ caœi lương. AŒnh Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng dán bên cạnh bìa báo Tết, hình các cô gái miền Nam vẽ thật đẹp, thật hấp dẫn. Tôi nhìn thật kỹ, trên tường, quanh các bức aœnh, còn có các câu thơ vụng về, viết bằng bút chì hoặc bút nguyên tưœ. Một sợi dây thừng, buộc thõng từ mái nhà xuống, ngang tầm tay làm cái vịn cho người giã gạo. Cuối đoạn thừng, cái đầu mối được tết lại như một quaœ găng. Tôi cầm thưœ. Trái găng vừa khuôn trong lòng bàn tay. Tôi đứng thưœ lên cần cối, hơi nặng, nhưng cần cối cũng đưa lên theo nhịp chân đạp. Tôi boœ nhẹ cần cối xuống và nhìn ra ngoài sân. Một maœnh sân coœ không rộng lắm.
Ngay từ giọt tranh, có mấy miếng gạch Tàu cẩn vào sân coœ dẫn tới một miệng giếng. Tôi đứng lên, bước theo các viên gạch này. Giếng nước nhoœ, trong vắt. Tôi nhìn xuống giếng và thấy hình mình ơœ dưới xa thẳm ấy. Bỗng nhiên hơi sợ. Tôi không dám nhìn lâu. Tôi ngẩng lên. Toàn thân tôi đã đứng trong bóng mát cuœa một cây na. Cây na nhoœ, cành thấp, xòe che caœ miệng giếng. Tôi nắm vào một cành non, lắc nhẹ, lá na rung rinh. Một chiếc lá rơi xuống chao chát. Một miếng vaœi đoœ, có lẽ là quai nón cuœa một cô gái, giặt phơi vào cành na. Qua lớp lá na, tôi nhìn thấy bầu trời xanh thẳm ơœ trên cao. Trên cành cao nhất cuœa cây na, còn có một cái chuồng chim tre treo trên đó. Chuồng chim làm bằng các nan tre, cưœa lồng, cạnh cái coóng nước. Tôi bỗng bồi hồi nhớ quá những ngày còn bé ơœ quê nhà. Nhớ những con chim khuyên xanh như màu lá, theo nắng hạ từ đâu đó bay về…
Tôi nhìn lại xuống giếng sâu. Một cái giây dài thòng xuống. Tôi kéo lên, một gàu nước mát trong vắt. Tôi rưœa tay rồi đổ nước vào gốc na. Chỉ một thoáng, nước thấm hết vào lòng đất. Một làn gió thổi tới. Cành na đong đưa như vui, như cười. Nắng đã cao. Đoàn Dân Sự Vụ đã về tới, đang rộn rã xuống tàu. Tôi và Trung Tá H. đứng trước căn nhà nhìn một lượt quanh vùng. Nơi đây, mật khu bất khaœ xâm phạm cuœa Việt Cộng, nhưng chỉ cách Sàigòn có mấy giờ xe. Ban đêm, từ đây nhìn về Sàigòn rực sáng. Trung Tá H. nói lớn:
– Xong hết chưa”
Đoàn tham mưu cuœa ông đáp:
– Thưa rồi, Trung Tá.
Chúng tôi lững thững đi theo con lộ dọc mé sông. Lối đi dưới lá, mát. Ngay khi chúng tôi dời gót, một xe uœi đất hạng nặng từ phía sau đi tới. Một quân nhân Mỹ cơœi trần, mặc áo giáp cầm lái. Tiếng máy xe rú lên, chiếc xe từ từ tiến tới, gầm gừ. Vườn tiêu đổ rạp xuống. Tiếng mấy cái sào dựng làm nọc tiêu kêu lốp đốp. Căn nhà đổ ụp. Cày bừa gãy vụn. Sau đó, chiếc xe quay lại, đưa cái lưỡi sắt sáng loáng tiến tới căn nhà. Tiếng máy xe gầm lên và chỉ một khắc, căn nhà xinh đẹp kia đổ xuống, gẫy sập. Mái ngói đổ xuống ào ào, bụi bay mù mịt. Từ sân nhà, mấy cái cột bung ra, rồi lăn, lăn ùa xuống triền dốc. Có cái vướng lại ơœ một bụi cây. Có cái rơi toœm xuống mặt sông. Con sông Sàigòn oằn oại ơœ dưới ấy. Tôi nhìn lại vị trí căn nhà, giờ đã phẳng lặng, trống không. Caœ cái nền đất cũng được uœi cho bằng. Chiếc xe uœi chạy qua, quay lại, một chốc caœ khu vực chỉ còn là một maœnh đất loang lơœ, hoang tàn. Tôi dụi mắt cho khoœi cay, vì bụi. Cây na còn đó, cây na bé quá, đơn sơ quá, hiền lành quá, nên được boœ sót. Cây na vẫn xòa những cành lá xinh che lấy miệng cái giếng nhoœ.
Tôi xuống tàu trơœ về. Cây na cuœa Bến Súc, Bình Dương, hay cây na nào đó cuœa tuổi nhoœ, đều đã hòa lẫn trong trí nhớ tôi. Tôi dằn lòng lắm để tránh những tiếng thơœ dài. Và trong tôi gợi lên một câu thơ nhoœ:
Gơœi rừng một gốc cây na
Cố xanh tươi nhé, can qua sẽ tàn…
* * *
Trên đường về, mấy chiếc tàu nhoœ đi đầu bị bắn, caœ đoàn tàu dừng lại. Trực thăng vần vũ, xaœ hoœa tiễn xuống hai bên sông. Hoœa tiễn nổ, thật gần, đất, lá, khói mù mịt. Trên hệ thống âm thoại chỉ huy cuœa caœ đoàn hoạt động điều hòa, bình tĩnh. Từ chiếc tiểu giáp bị bắn bằng B40, gọi về:
– Báo cáo thẩm quyền. Tụi tôi bị bắn. Một bị thương nhẹ. Voœ tàu bị thuœng trên mặt nước.
– Có trơœ ngại gì không”
– Không. Vẫn di chuyển an toàn.
– Báo cáo tiếp.
– Tụi em phaœn pháo tức thì, và uœi bãi truy kích…
– Tiếp.
– Toán bộ binh đang đổ bộ lục soát. Bắt được một tên Vi xi với khẩu B40…
Báo cáo tới đó, thì tiếng máy bỗng ngưng, và có những tiếng nổ vọng lại từ máy PRC25. Mọi người biểu lộ lo âu. Nhưng chỉ độ mấy phút sau, tiếng máy lại gọi về:
– Báo cáo thẩm quyền:
– Tiếp.
– Toán bộ binh lục dọc theo hai bên bụi rậm ven sông, bắt thêm được một số Việt cộng.
– Tiếp.
– Đang tiếp tục truy kích.
– Đem tên Việt Cộng bị bắt trình diện tôi.
– Nhận 5.
Độ nưœa giờ sau, chiếc tiểu giáp ghé lại, cặp vào chiếc soái đỉnh. Tên Việt Cộng bị còng, mặt non choẹt. Hắn bị thương ơœ tay, đã được băng bó tạm. Tang vật đem theo là khẩu B40, và còn một trái đạn chưa bắn. Hắn mặc quần đùi đen, áo bà ba. Bên hông đeo một túi ni lông nhoœ, bọc kín một gói cơm khô. Tên này được dẫn lên tàu, cho ngồi một góc trong phòng Hành Quân. Một sỹ quan Ban 2 được chỉ thị lấy cung và khai thác tức khắc. Hoœi gì, tên này cũng khai “Dạ em không biết”.
Lục quanh lưng hắn, còn có một khúc ống ni lông nhoœ, dài độ một mét. Dù không cần hoœi, ai cũng biết là ống thơœ, để khi khai hoœa xong lặn xuống nước, “nằm mà” ngậm ống ni lông thò lên mặt nước, thơœ. Nước đục nằm sát bờ, nhờ lá cây che lấp mà qua mắt được toán lục soát cuœa ta.
Lúc này trời đã chiều, dọc theo bờ sông, các toán quân nhân Mỹ lại lần lượt xếp hàng đi lãnh đồ ăn từ các căn nhà ăn lưu động, do máy bay chinook câu thẳng từ hạm đội 7 vào. Tôi lấy cái bi đông nước, uống một ngụm rồi đi xuống lòng tàu. Nơi đấy, những người dân cuối cùng cuœa cuộc hành quân được dồn lại chơœ về Bình Dương. Mọi người ngồi uœ rũ. Tôi chú ý tới một ông già, tóc đã bạc, ngồi ôm khư khư một bài vị, mắt ngơ ngác thất thần. Ông nhìn tôi, như sợ tôi ra lệnh vứt “baœo vật” cuœa ông đi. Tôi lại gần, vỗ lên vai ông già nói nhoœ: “Bác đừng sợ”.
Trong bữa ăn tối tại nhà hàng Bạch Đằng ơœ mé sông, ngay trước dinh Tỉnh Trươœng có đầy đuœ các đơn vị trươœng cuœa các đơn vị đã tham dự cuộc hành quân này, Trung Tá Lý Tòng Bá, Tỉnh Trươœng Bình Dương đã nói mấy lời bày toœ sự cám ơn “các đơn vị bạn đã đến đây, để phá tan sào huyệt cuœa địch, mơœ đầu cho công cuộc bình định cuœa tỉnh này…” Ông cũng đại diện cho Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Quân Đoàn III, bày toœ sự hài lòng về sự hợp tác hăng say và khéo léo cuœa tất caœ quân nhân các cấp tham dự cuộc hành quân và hứa sẽ tươœng thươœng cho các quân nhân xuất sắc theo đề nghị cuœa các đơn vị trươœng…
Trời hãy còn sáng, toán Tâm Lý Chiến Dân Sự Vụ Haœi Quân cuœa chúng tôi lên xe về lại Sàigòn. Chỉ sau độ một giờ, chúng tôi về đến nơi. Con sông Sàigòn trước mặt. Các chiến hạm xám ngắt đậu kín một bên sông. Bên kia bờ là Thuœ Thiêm, những rặng bần đen thẳm. Dòng sông Sàigòn chaœy hiền hòa, đục ngàu, tôi liên tươœng tới những xác chết dật dờ mới đây theo đợt sóng tràn lên hai bên mé nước. Chính con sông này mà có chi xa lắm đâu… Tất caœ đã hoang tàn. Chỉ còn một gốc cây na.
Phan Lạc Tiếp – Hoa Kỳ
(*) Diệm ơœ Los Angeles, Giang ơœ Houston, Hoa Kỳ – (**) Đại ý – không còn nhớ được nguyên văn.
Phan Lạc Tiếp
Đoàn chiến đỉnh, trên 50 chiếc đuœ loại, thuộc nhiều Giang đoàn tăng phái, tham dự cuộc hành quân vào vùng “cấm địa” Tam Giác Sắt, thuộc tỉnh Bình Dương. Cuộc hành quân đã khai diễn ngay sau mấy ngày Tết, đầu tháng hai, năm 1966. Tuy đây là cuộc hành quân quy mô, tiêu biểu, và rất to lớn, có tới trên 40 ngàn quân bộ chiến Việt Mỹ tham dự. Đây cũng là cuộc hành quân mơœ đầu cho vai trò Lùng và Diệt cuœa Quân đội Mỹ; và Bình Định do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phụ trách. Đặc biệt trong cuộc hành quân này, tuyệt đối không có một thông tín viên nào được phép tham dự, dù là Mỹ, hoặc Việt, dân hoặc quân sự. Tôi với tư cách Trươœng Đoàn Tâm Lý Chiến lưu động thuộc Bộ Tư Lệnh Haœi Quân, tham dự với nhiệm vụ hỗ trợ dân chúng rời khu vực hành quân bằng các chiến đỉnh Haœi quân, và trao họ lại cho anh em Bộ Binh khi đoàn tàu về đến Bình Dương.
Cuộc hành quân quy mô và to lớn khai diễn đã mấy ngày, đoàn chiến đỉnh mới được phép tiến vào vùng trách nhiệm. Khơœi hành từ bến tàu Bình Dương, vào lúc 4 giờ sáng, di chuyển ngược lên thượng dòng cưœa sông Sàigòn. Từ phòng Hành Quân cuœa chiếc Monitor Command (Soái đỉnh), trên haœi đồ, tôi thấy hình aœnh con sông Sàigòn uốn khúc lòng vòng rất nhiều. Càng lên thượng giòng sông càng hẹp và bên mặt là rừng và núi. Cầm ly cà phê nóng trên tay, tôi đi ra phía mũi tàu, bước những bước thật chậm, vì sợ trượt sương. Tới gần mũi tàu, tôi tụt xuống ngồi tựa lưng vào thành sắt cuœa khẩu đại bác 20 ly đôi. Gió lạnh. Trời đầy sương. Tiếng máy tàu ầm ầm rền rĩ. Những tia đèn pin màu đoœ loang loáng vẫy vẫy, lập lòe. Tôi nhớ lại mới mấy tháng trước đây thôi, cũng những chiếc tàu như thế này, cũng không khí nặng nề, câm nín và kinh khiếp như không khí này cuœa Giang đoàn 21 và 27 Xung Phong Mỹ Tho. ƠŒ đó, tôi đã tham dự đã chứng kiến rất nhiều điều thật là xúc động. Bà mẹ cuœa Hoàng Hiền, hôm ấy đến đơn vị nhận lại các di vật cuœa con, lúc ra về, tay bà xách cái kiếm, đầu bà chít một giaœi khăn tang dài. Bà đi thong thaœ suốt chiều dài cuœa maœnh sân đơn vị, trời nắng chói chang. Veœ mặt bà khô như tượng… Trần Ngọc Baœo, chìm theo tàu, trên rạch Ba Rài, mãi gần một tuần sau mới nổi lên. Khi xác bung lên, kéo theo một quầng bọt. Cánh tay nhô lên trước, bàn tay vẫn còn cầm cái bút nguyên tưœ màu vàng…
Tiếng kêu tuyệt vọng cuœa Nguyễn Ngọc Giang trong đêm 29 tháng 9, 1965, lúc trận chiến đã tàn. Giang bị thương nằm quằn quại trên tàu, xung quanh toàn xác chết. Trên hệ thống liên lạc, chỉ được nhân viên trực traœ lời rồi im. Đặng Diệm nghe hết, trình lên thượng cấp. Thượng cấp baœo “nó bị bắt, vào cứu nó mắc kế cuœa địch…”. Nhưng tiếng kêu kia vẫn cứ tiếp tục. Diệm yêu cầu mô taœ tình hình. Giang nói: “Vắng ngắt. Tụi nó đi hết rồi. Trời tối, quanh tôi chỉ toàn xác chết”. Được kiểm chứng lại mật mã, bằng các con số cộng, trừ, thật nhanh. Giang đều đáp được. Diệm, Đặng Diệm đã gồng mình, bất chấp lệnh thượng cấp, đem mấy chiếc tàu nhoœ lần trơœ lại rạch Ba Rài, tiến đến con tàu cuœa Giang. Con tàu chìm một nưœa, mũi ghếch lên bờ. Giang lấy đèn pin bấm lập lòe làm hiệu cho tàu cập lại. Ôm được Giang qua, người Diệm đầy máu. Ánh đèn phi lướt lên các khuôn mặt bất động kinh khiếp. tất caœ đã lặng lẽ. Đã chết từ lâu. Giang nằm xoaœi tay trên tấm nệm cũ, thơœ dốc. Đoàn tàu cuœa Diệm lại lặng lẽ trơœ ra ngoài cưœa sông và xaœ tốc lực đem Giang về bến Quận lÿ Cai Lậy…(*)
Đang miên man nhớ lại thì Bác sĩ N.T.L. bước tới. Tay ông cũng cầm một ly cà phê. Ông nói:
– Tìm ông mãi.
Tôi ngước nhìn lên. Trời đã sáng. Khuôn mặt bác sĩ L. sáng ngời, đôi mắt long lanh qua làn kính trắng.
Tôi nói:
– Xuống đây.
Bác sĩ L. từ từ bước xuống và nói:
– Sao không ơœ trong phòng chỉ huy cho vui và an toàn.
Tôi cười nói:
– Xuống đây. Trong đó chật. Để họ làm việc. Hơn nữa ơœ đây an toàn hơn.
– Sao”
– Đã đi hành quân, sống chết có số. Nhưng ơœ đây có nhiều cái hay lắm.
– Sao” Ông nói tôi nghe.
– Ngồi đây mát, thoáng, dễ chịu. Và chẳng may “Bà Thuœy cười” một búa, tàu tung lên, ơœ đây mình có hy vọng được văng lên bờ. Còn trong đó, thì hoặc chìm theo tàu, hoặc đập đầu vào trần sắt.
– Hay. Ông nói có lý. Còn gì nữa”
– Nếu tụi nó dùng B40, thì bao giờ chúng cũng nhắm vô đài chỉ huy, nơi có các cần câu lêu nghêu…
– Hay.
– Và quan trọng hơn hết. Mình không có nhiệm vụ điều khiển tàu thì “đi ra chỗ khác chơi” cho rộng chỗ làm việc. Và chẳng may họ có bị, thì mình còn sống để thay thế chứ.
– Hay.
– Thôi. Khen vừa chứ ông. Ông mà nghe tụi em ơœ Giang Đoàn nó nói còn nhiều cái hay hơn nhiều. Kinh nghiệm máu mà ông.
Lúc này trời đã sáng hẳn. Độ baœy giờ sáng. Cách bờ sông độ vài mặt ruộng, cứ độ một cây số, lại có một trailer dài, do trực thăng Chinook câu tới: Một nhà hàng lưu động, từ Hạm đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu, đem đồ ăn sáng cho lính Mỹ. Tôi lấy ống nhòm quan sát. Lính Mỹ, đa số nằm ơœ vị trí tác chiến, nhưng một số nhoœ, lần lượt xếp hàng vào lấy đồ ăn sáng. Các chú cooks áo khoác trắng, mũ trắng cao nghệu, như các tay đầu bếp hạng sang tại các nhà hàng lớn, phân phát thực phẩm nóng cho lính Mỹ. Tôi đưa ống nhòm cho Bác sĩ L. coi. Nhìn xong ông nói:
– Mẹ! Đánh nhau cái kiểu này lạ nhỉ.
Nhìn sâu vào phía xa, là rừng. Rừng cây trắng xóa. Cây trơ cành và vướng đọng những sương. Đẹp quá. Bác sĩ L. lại nói:
– Như tranh Tàu.
– Mà ông có biết tại sao sương lại đẹp như thế không”
– Vì cây rừng không có lá.
– Đúng. Mà tại sao”
– Tại thuốc khai quang.
– Bộ họ raœi thuốc caœ cánh rừng mênh mông thế kia à”
– Vâng. Họ raœi thuốc cho cây rừng chết, Việt Cộng hết chỗ ẩn thân.
Giữa lúc ấy, những đoàn trực thăng bay vần vũ trên đầu, bao quanh khung trời có đoàn tàu chạy ơœ dưới. Tôi nói với Bác sĩ L.:
– Mình vào vùng cấm địa rồi đấy. Ông thấy không, lúc này mà nó bắn, mình chỉ có quyền dùng súng nhoœ mà thôi. Các loại súng có tầm bắn xa và đạn có đầu nổ như 12 ly 7, 20 ly, 40 ly không xài được.
– Sao vậy”
– Ông không nhìn thấy sông Sàigòn đang quằn quại uốn khúc đó sao”
– Thì nó quằn quại càng đẹp chứ.
– Nhưng các khúc sông vòng gần nhau quá, có chỗ chưa quá năm trăm mét. Vì thế, mình yœ súng lớn, đạn nhiều, nhắm mắt mà bắn cho đỡ sợ, thì mình bắn vào mình, vào các tàu khác.
– Hay.
– Hay mẹ gì ông. Tôi đang nhớ lại khúc sông vòng vèo ơœ Rạch Ba Rài, Cai Lậy, hôm 29 tháng 9 vừa qua, nó phục kích mình tại đó. Nó chết bộn, mà mình cũng ê càng.
– À, trận đánh có đăng trên báo Tiền Tuyến, ông viết lại mà.
– Đúng. Đó là nhiều nét đẹp, nhiều điều cần nói ra. Còn các điều không nên nói ra…
– Ông…
– Do đó, đi sông, tôi sợ nhất là sông uốn khúc. Lại sợ hơn nữa, là sông có bờ núi cao. Nó ơœ trên, mình ơœ dưới. Hạ sách nó lấy đá lăn xuống mình cũng tiêu, huống hồ nó đặt mình phục kích.
Nghe tới đó, Bác sĩ L. nhìn ra xung quanh. Quaœ nhiên đoàn tàu mấy chục chiếc cứ uốn khúc như múa rối. Và bên hữu ngạn núi đã bắt đầu xây thành sát mé sông. Bác sĩ L. nói:
– Thế ra, mình đang đi vào đất địch, với tất caœ cái hiểm nghèo, hạ sách nhất phaœi không ông”
– Đúng. Nhưng ông đừng có lo. Sống chết có số. Hơn nữa, nếu có bị tấn công, các máy bay trực thăng sẽ làm nhiệm vụ không yểm.
* * *
Càng đi vào sâu, lòng sông càng hẹp. Vách núi sát bờ nước. Và những xác người bị dồn sát vào bên núi, có xác đàn ông, phần lớn, và cũng có đàn bà và treœ nhoœ. Nhìn những tưœ thi, Bác sĩ L. như có ý chùn lại. Mặt ông lạnh tanh. Lúc ấy từ trên đỉnh trời, mấy chiếc L.19 đang thaœ caœ rừng truyền đơn xuống. Các truyền đơn bay lao xao như lá rừng. Một số rơi vào lòng tàu. Tôi nhặt lên đọc: “Thưa đồng bào. Để loại trừ Việt Cộng ra khoœi dân chúng, đem lại an ninh cho đồng bào. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Đồng Minh đang bao vây vùng Tam Giác Sắt. Đồng bào sẽ được di chuyển tạm thời về vùng an ninh. Sau khi thanh lọc Việt Cộng ra khoœi dân chúng, đồng bào sẽ được tái định cư.(**)
Độ mười giờ trưa, đoàn tàu đã tới Bến Súc. Nơi đây, các chiến đỉnh uœi bãi, mơœ cưœa đổ bộ để nhận dân xuống tàu. Ngoài tất caœ anh em trong Đoàn Tâm Lý Chiến Lưu Động thuộc Bộ Tư Lệnh Haœi Quân ra, chúng tôi còn được anh em thuœy thuœ đoàn cơ hữu tăng phái hỗ trợ. Đồng bào được đưa xuống tàu, ngồi xếp hàng trong lòng tàu. Ai có đồ nặng, hoặc con nhoœ, anh em Haœi Quân đều vác, bế hộ. Các cụ già được anh em dìu đi. Khi lòng tàu đã chặt, tàu tạm rút ra, và cũng là lúc anh em Tâm Lý Chiến phát cho họ mền giấy và thực phẩm khô (Cration). Sau khi phân phát các phẩm vật này, các cán bộ Tâm Lý Chiến nói rõ cho đồng bào biết mục đích cuộc hành quân tại vùng Tam Giác Sắt là loại địch ra khoœi dân… ị Tr.62
Khi lòng tàu đã đầy, các cưœa đổ bộ được kéo lên, tàu lần lượt vào vị trí để ra về. Dưới trời nắng mông mênh, lòng sông như rộng hơn, và tất nhiên caœnh vật rõ hơn nhiều. Vẫn những đoàn trực thăng không yểm bay quần trên đầu. Tại các khúc quanh nguy hiểm, khaœ nghi, máy bay bắn rocket xuống, nổ bùng. Khói bay mù mịt. Trên đỉnh núi, vẫn có mấy chiếc máy bay L.19 thaœ rừng truyền đơn xuống. ƠŒ miệt rừng nào đó không xa lắm, tiếng bom dội xuống rền rĩ. Hai bên bờ, lác đác vẫn có những nhà ăn di động, do mấy anh chinook câu tới, để cung cấp bữa ăn trưa cho lính Mỹ. Hai bên mé sông, xác người nổi lình bình. Có nhiều xác bám vào mé coœ. Theo lượn sóng cuœa tàu, các xác cũng nổi trôi, lên xuống, vừa ứa ra những làn máu tím ngắt. Trong lòng tàu dân chúng, đa số là đàn bà, người già và treœ con. Có ông già ngồi giữ bát hương, đôi mắt thất thần. Có những em nhoœ ôm chặt con gà trong lòng.
Đoàn tàu tới Bình Dương vào khoaœng bốn giờ chiều. Dân chúng được thaœ lên bờ, có Đoàn Dân Sự Vụ cuœa Quân Đoàn đón đợi và hướng dẫn họ về khu trại tạm trú. Họ được cung cấp thực phẩm. Tại đây họ lại được thanh lọc một lần nữa. Trong khi đó các thanh niên trai tráng đã được chơœ đi riêng bằng máy bay, và ơœ một nơi riêng. Theo tin tức từ các cuộc họp hành quân thì trong cuộc hành quân này, có rất nhiều cán bộ cao cấp Việt Cộng bị bắt, trong đó có các giáo sư Nga ngữ.
Cứ như thế, sáng đi sớm, chiều về. Lộ trình vẫn là con sông Sàigòn nhiều đoạn uốn khúc rất đẹp, nhưng cũng rất hiểm nguy. Vào ngày chót cuœa công tác, dân đã hết. Tôi lang thang trong khu vực Bến Súc, thuộc phần trách nhiệm cuœa một đơn vị Nhaœy Dù. Tại đây, các vườn tược, đa số đã được xe uœi đất loại lớn, bằng lưỡi sắt nằm ngang, xe đi đến đâu, vườn tược phẳng đến đó, kể caœ các chướng ngại như nhà, cây cối đuœ loại. Mấy maœnh vườn chuối lại mọc lên những cuốn lá non xanh óng aœ, thẳng đứng như những cuộn nhung xanh. Tôi muốn đi xa hơn, nhưng anh em Nhaœy Dù caœn lại. Họ nói: “Đã cày như thế mà đêm đêm tụi nó từ dưới hầm còn mò lên bắn tỉa tụi này. Tối nào cũng thế”. Tôi có hoœi: “Sao không ném lựu đạn xuống các cưœa hầm”. Anh em Nhaœy Dù cho tôi một trái lựu đạn khói baœo: “Thaœ xuống cái hố này đi”. Tôi đưa trái lựu đạn cho một người khác. Anh ta mơœ chốt, ném xuống một miệng hầm ơœ gần gốc cây đã cụt. Tiếng nổ “ục” trong đó, rồi khói bay bốc lên, từ miệng hầm, từ gốc tre, từ giữa đám tiêu giữa sân… Anh bạn Nhaœy Dù nhìn tôi cười: “Đấy, như thế đấy. Đất thì rỗng, ăn sâu vào lòng núi, tụi nó nằm trong đó có lẽ còn lâu mới chết đói được…”
Trong khi chờ đợi bốc toán Dân Sự Vụ cuœa Quân Đoàn về, tôi tạt vào một căn nhà, nơi được dùng làm Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương cuœa đơn vị Nhaœy Dù. Trung Tá H. cho tôi hay: “Còn mấy tiếng nữa là dọt, Haœi Quân có muốn lấy gì thì lấy”. Tôi cười: “Cám ơn Trung Tá”, và ngồi ngắm toàn thể căn nhà. Một căn nhà gỗ, ba gian. Có cột bằng loại gỗ quý, có lẽ là gỗ mít, thật đều, bào rất thon. Các vân gỗ đối nhau rất chỉnh. Dưới mỗi chân cột có kê một miếng đá xanh tròn. Các xà nhà cũng đều tăm tắp. Đặc biệt là cái xà ngang trên cao nhất, có một hàng chữ nho. Ngang giữa nhà, có treo một cuốn lịch Tàu, buộc bằng một sợi chỉ bện ngũ sắc. Quanh nhà là các cưœa bức bàn, đa số nay đã được dán kín bằng các tấm không aœnh. Những mặt ruộng vuông nhoœ, giòng sông Sàigòn uốn khúc. Nhưng khu rừng chằng chịt đầy hố bom.
Qua không aœnh caœ khu Tam Giác Sắt hiện ra, và tôi thấy vòng đai lưœa đạn từ từ thu nhoœ lại, đúng như kế hoạch bao vây để lùng diệt mà tôi đã được học tập trước khi đi công tác. Tôi ra ngoài sân, nhìn xuống một triền dốc, dưới đó là khúc sông Sàigòn. Bờ bên kia, qua mấy đám cây khô, mấy con trâu sổng đàn từ mấy hôm trước đang nhẩn nha gặm coœ, lâu lâu chúng lại ngưœng đầu lên nhìn trời. Phía trái căn nhà chính là vườn chuối đã bị cày, đứt tận gốc. Sau nhà là một vườn tiêu. Những cây tiêu dựng cao, hình tháp, quaœ chằng chịt. Giữa các hàng tiêu là những lối đi mòn. Cuối vườn tiêu là căn nhà ngang, gồm chuồng gà và nơi để các nông cụ. ƠŒ đấy, cái cày, cái bừa, cuốc, xeœng bừa bãi. Bên phaœi căn nhà là một cái chái khá rộng. Tại đó, dọc theo sườn nhà là cái cối giã gạo. Cần cối dài. Cối đá gắn xuống đất, bao quanh bằng bệ xi măng. Nơi cuối cần, ngay chỗ người đứng giã gạo, đã mòn, nhẵn. Và trên tường, ngay chỗ người đứng giã gạo là hình các tài tưœ caœi lương. AŒnh Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng dán bên cạnh bìa báo Tết, hình các cô gái miền Nam vẽ thật đẹp, thật hấp dẫn. Tôi nhìn thật kỹ, trên tường, quanh các bức aœnh, còn có các câu thơ vụng về, viết bằng bút chì hoặc bút nguyên tưœ. Một sợi dây thừng, buộc thõng từ mái nhà xuống, ngang tầm tay làm cái vịn cho người giã gạo. Cuối đoạn thừng, cái đầu mối được tết lại như một quaœ găng. Tôi cầm thưœ. Trái găng vừa khuôn trong lòng bàn tay. Tôi đứng thưœ lên cần cối, hơi nặng, nhưng cần cối cũng đưa lên theo nhịp chân đạp. Tôi boœ nhẹ cần cối xuống và nhìn ra ngoài sân. Một maœnh sân coœ không rộng lắm.
Ngay từ giọt tranh, có mấy miếng gạch Tàu cẩn vào sân coœ dẫn tới một miệng giếng. Tôi đứng lên, bước theo các viên gạch này. Giếng nước nhoœ, trong vắt. Tôi nhìn xuống giếng và thấy hình mình ơœ dưới xa thẳm ấy. Bỗng nhiên hơi sợ. Tôi không dám nhìn lâu. Tôi ngẩng lên. Toàn thân tôi đã đứng trong bóng mát cuœa một cây na. Cây na nhoœ, cành thấp, xòe che caœ miệng giếng. Tôi nắm vào một cành non, lắc nhẹ, lá na rung rinh. Một chiếc lá rơi xuống chao chát. Một miếng vaœi đoœ, có lẽ là quai nón cuœa một cô gái, giặt phơi vào cành na. Qua lớp lá na, tôi nhìn thấy bầu trời xanh thẳm ơœ trên cao. Trên cành cao nhất cuœa cây na, còn có một cái chuồng chim tre treo trên đó. Chuồng chim làm bằng các nan tre, cưœa lồng, cạnh cái coóng nước. Tôi bỗng bồi hồi nhớ quá những ngày còn bé ơœ quê nhà. Nhớ những con chim khuyên xanh như màu lá, theo nắng hạ từ đâu đó bay về…
Tôi nhìn lại xuống giếng sâu. Một cái giây dài thòng xuống. Tôi kéo lên, một gàu nước mát trong vắt. Tôi rưœa tay rồi đổ nước vào gốc na. Chỉ một thoáng, nước thấm hết vào lòng đất. Một làn gió thổi tới. Cành na đong đưa như vui, như cười. Nắng đã cao. Đoàn Dân Sự Vụ đã về tới, đang rộn rã xuống tàu. Tôi và Trung Tá H. đứng trước căn nhà nhìn một lượt quanh vùng. Nơi đây, mật khu bất khaœ xâm phạm cuœa Việt Cộng, nhưng chỉ cách Sàigòn có mấy giờ xe. Ban đêm, từ đây nhìn về Sàigòn rực sáng. Trung Tá H. nói lớn:
– Xong hết chưa”
Đoàn tham mưu cuœa ông đáp:
– Thưa rồi, Trung Tá.
Chúng tôi lững thững đi theo con lộ dọc mé sông. Lối đi dưới lá, mát. Ngay khi chúng tôi dời gót, một xe uœi đất hạng nặng từ phía sau đi tới. Một quân nhân Mỹ cơœi trần, mặc áo giáp cầm lái. Tiếng máy xe rú lên, chiếc xe từ từ tiến tới, gầm gừ. Vườn tiêu đổ rạp xuống. Tiếng mấy cái sào dựng làm nọc tiêu kêu lốp đốp. Căn nhà đổ ụp. Cày bừa gãy vụn. Sau đó, chiếc xe quay lại, đưa cái lưỡi sắt sáng loáng tiến tới căn nhà. Tiếng máy xe gầm lên và chỉ một khắc, căn nhà xinh đẹp kia đổ xuống, gẫy sập. Mái ngói đổ xuống ào ào, bụi bay mù mịt. Từ sân nhà, mấy cái cột bung ra, rồi lăn, lăn ùa xuống triền dốc. Có cái vướng lại ơœ một bụi cây. Có cái rơi toœm xuống mặt sông. Con sông Sàigòn oằn oại ơœ dưới ấy. Tôi nhìn lại vị trí căn nhà, giờ đã phẳng lặng, trống không. Caœ cái nền đất cũng được uœi cho bằng. Chiếc xe uœi chạy qua, quay lại, một chốc caœ khu vực chỉ còn là một maœnh đất loang lơœ, hoang tàn. Tôi dụi mắt cho khoœi cay, vì bụi. Cây na còn đó, cây na bé quá, đơn sơ quá, hiền lành quá, nên được boœ sót. Cây na vẫn xòa những cành lá xinh che lấy miệng cái giếng nhoœ.
Tôi xuống tàu trơœ về. Cây na cuœa Bến Súc, Bình Dương, hay cây na nào đó cuœa tuổi nhoœ, đều đã hòa lẫn trong trí nhớ tôi. Tôi dằn lòng lắm để tránh những tiếng thơœ dài. Và trong tôi gợi lên một câu thơ nhoœ:
Gơœi rừng một gốc cây na
Cố xanh tươi nhé, can qua sẽ tàn…
* * *
Trên đường về, mấy chiếc tàu nhoœ đi đầu bị bắn, caœ đoàn tàu dừng lại. Trực thăng vần vũ, xaœ hoœa tiễn xuống hai bên sông. Hoœa tiễn nổ, thật gần, đất, lá, khói mù mịt. Trên hệ thống âm thoại chỉ huy cuœa caœ đoàn hoạt động điều hòa, bình tĩnh. Từ chiếc tiểu giáp bị bắn bằng B40, gọi về:
– Báo cáo thẩm quyền. Tụi tôi bị bắn. Một bị thương nhẹ. Voœ tàu bị thuœng trên mặt nước.
– Có trơœ ngại gì không”
– Không. Vẫn di chuyển an toàn.
– Báo cáo tiếp.
– Tụi em phaœn pháo tức thì, và uœi bãi truy kích…
– Tiếp.
– Toán bộ binh đang đổ bộ lục soát. Bắt được một tên Vi xi với khẩu B40…
Báo cáo tới đó, thì tiếng máy bỗng ngưng, và có những tiếng nổ vọng lại từ máy PRC25. Mọi người biểu lộ lo âu. Nhưng chỉ độ mấy phút sau, tiếng máy lại gọi về:
– Báo cáo thẩm quyền:
– Tiếp.
– Toán bộ binh lục dọc theo hai bên bụi rậm ven sông, bắt thêm được một số Việt cộng.
– Tiếp.
– Đang tiếp tục truy kích.
– Đem tên Việt Cộng bị bắt trình diện tôi.
– Nhận 5.
Độ nưœa giờ sau, chiếc tiểu giáp ghé lại, cặp vào chiếc soái đỉnh. Tên Việt Cộng bị còng, mặt non choẹt. Hắn bị thương ơœ tay, đã được băng bó tạm. Tang vật đem theo là khẩu B40, và còn một trái đạn chưa bắn. Hắn mặc quần đùi đen, áo bà ba. Bên hông đeo một túi ni lông nhoœ, bọc kín một gói cơm khô. Tên này được dẫn lên tàu, cho ngồi một góc trong phòng Hành Quân. Một sỹ quan Ban 2 được chỉ thị lấy cung và khai thác tức khắc. Hoœi gì, tên này cũng khai “Dạ em không biết”.
Lục quanh lưng hắn, còn có một khúc ống ni lông nhoœ, dài độ một mét. Dù không cần hoœi, ai cũng biết là ống thơœ, để khi khai hoœa xong lặn xuống nước, “nằm mà” ngậm ống ni lông thò lên mặt nước, thơœ. Nước đục nằm sát bờ, nhờ lá cây che lấp mà qua mắt được toán lục soát cuœa ta.
Lúc này trời đã chiều, dọc theo bờ sông, các toán quân nhân Mỹ lại lần lượt xếp hàng đi lãnh đồ ăn từ các căn nhà ăn lưu động, do máy bay chinook câu thẳng từ hạm đội 7 vào. Tôi lấy cái bi đông nước, uống một ngụm rồi đi xuống lòng tàu. Nơi đấy, những người dân cuối cùng cuœa cuộc hành quân được dồn lại chơœ về Bình Dương. Mọi người ngồi uœ rũ. Tôi chú ý tới một ông già, tóc đã bạc, ngồi ôm khư khư một bài vị, mắt ngơ ngác thất thần. Ông nhìn tôi, như sợ tôi ra lệnh vứt “baœo vật” cuœa ông đi. Tôi lại gần, vỗ lên vai ông già nói nhoœ: “Bác đừng sợ”.
Trong bữa ăn tối tại nhà hàng Bạch Đằng ơœ mé sông, ngay trước dinh Tỉnh Trươœng có đầy đuœ các đơn vị trươœng cuœa các đơn vị đã tham dự cuộc hành quân này, Trung Tá Lý Tòng Bá, Tỉnh Trươœng Bình Dương đã nói mấy lời bày toœ sự cám ơn “các đơn vị bạn đã đến đây, để phá tan sào huyệt cuœa địch, mơœ đầu cho công cuộc bình định cuœa tỉnh này…” Ông cũng đại diện cho Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Quân Đoàn III, bày toœ sự hài lòng về sự hợp tác hăng say và khéo léo cuœa tất caœ quân nhân các cấp tham dự cuộc hành quân và hứa sẽ tươœng thươœng cho các quân nhân xuất sắc theo đề nghị cuœa các đơn vị trươœng…
Trời hãy còn sáng, toán Tâm Lý Chiến Dân Sự Vụ Haœi Quân cuœa chúng tôi lên xe về lại Sàigòn. Chỉ sau độ một giờ, chúng tôi về đến nơi. Con sông Sàigòn trước mặt. Các chiến hạm xám ngắt đậu kín một bên sông. Bên kia bờ là Thuœ Thiêm, những rặng bần đen thẳm. Dòng sông Sàigòn chaœy hiền hòa, đục ngàu, tôi liên tươœng tới những xác chết dật dờ mới đây theo đợt sóng tràn lên hai bên mé nước. Chính con sông này mà có chi xa lắm đâu… Tất caœ đã hoang tàn. Chỉ còn một gốc cây na.
Phan Lạc Tiếp – Hoa Kỳ
(*) Diệm ơœ Los Angeles, Giang ơœ Houston, Hoa Kỳ – (**) Đại ý – không còn nhớ được nguyên văn.
Sunday, April 9, 2017
CẢM NGHĨ CỦA PHAN LẠC TIẾP
Cảm nghĩ của Nhà văn Phan Lạc Tiếp về văn học Việt Nam sau 28 năm tại hải ngoại
2003-05-06
Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật cuối tuần này xin gửi tới quý thính giả cuộc
phỏng vấn ngắn nhà văn Phan Lạc Tiếp, tác giả của Cánh Vạc Lưng Trời.
Ông là một nhà văn khiêm tốn tự cho mình chỉ là một người kể chuyện chứ
không là một nhà văn hòan tòan đúng với cương vị hai chữ nhà văn. Tuy
nhiên, độc giả xem ông là một trong số những nhà văn tích cực họat động.
Tên ông gắn liền với nỗ lực của Phong Trào Cứu Người Vuợt Biển trước
đây với tiến sĩ Nguyễn Hữu Xương, thập niên 1980. Hiện ông đang đóng góp
vào việc hình thành tuyển tập Hải Quân dày gần 700 trang khổ lớn, có 80
người viết...
Nhà văn Phan Lạc Tiếp , 70 tuổi, sinh quán tại Sơn Tây Bắc Việt. Chức vụ
cuối cùng là Hải Quân Thiếu Tá trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tác
phẩm của ông gồm có Bờ Sông Lá Mục, Nỗi Nhớ, Cánh Vạc Lưng Trời, Vớt
Người Biển Đông. Tuy về hưu, nhiệt tình của ông trong việc viết lách ,
sáng tác lại có chiều hướng mạnh hơn trước.
Nhiều người xem ông là một nhà văn tích cực, nhiều nhiệt tình với các
công việc chung. Đánh dấu 30 tháng Tư 28 năm sau, việc xin mời quý
thính giả nghe tâm sự sau đây của nhà văn Phan Lạc Tiếp...
Trước khi chấm dứt chương trình của tạp chí hôm nay, chúngt tôi xin thông báo
Thưa quý thính giả, hôm nay 30 tháng Tư là ngày cử hành tang lễ nhạc sĩ
Vô Thường, đã tạ thế hôm 26 tháng 4 năm 2003 vì bệnh ung thư phổi. Ông
đã đóng góp cho làng nhạc Việt Nam tại hải ngọai gần 150 dĩa CD. Tiếng
đàn tây ban cầm bằng tay trái réo rắt của ông đã được nhiều người ưa
thích, tán thưởng và phổ biến mạnh khắp nơi ở hải ngọai. Quê ở Phan
Rang, nhạc sĩ Vô Thường 63 tuổi, rời Việt Nam trong tháng Tư đen 1975.
Trong thời gian đầu ở Mỹ, ông làm đủ nghề, có thời sau khi làm việc
trong các tiệm bán furniture, thạo nghề, ông ra kinh doanh và làm chủ
của 5 tiệm bán furniture, sau đó mở vũ trường Ritz và sau năm 1986, vũ
trường này được sang tay cho nhạc sĩ Ngọc Chánh. Vui vẻ, hồn hậu, có
khiếu hài hước, với tác phong nghệ sĩ ông có nhiều bạn bè yêu mến.
Việc ông vĩnh viễn ra đi, đã để lại nhiều luyến tiếc trong giới yêu nhạc
và văn nghệ sĩ hải ngọai. Tạp chí xin thành thật chia buồn cùng tang
quyến và nguyện cầu cho hương linh nhạc sĩ Vô Thường sớm siêu thóat.
©
2004 Radio Free Asia
NHÃ CA * NỤ HỒNG
Nụ hồng
Lúc bước xuống đường, để sang bên kia trạm bus, ông cụ hoảng quá. Đèn bật xanh lè, cụ lụm cụm chạy.
Tuổi già tệ thiệt, cụ chạy mà không bắt kịp mấy người cùng băng sang đường với cụ. Bước chân họ như dài gấp đôi bước chân cụ. Soạch một cái, cụ bị rơi lại đằng sau. Đèn chớp vàng cùng với cái bảng cấm chớp đỏ lên cùng lúc. Ông cụ còn quýnh quáng hơn, muốn vấp té. Đã vậy, một chiếc xe hơi vọt tới, như muốn đâm thẳng vào người ông. Ông cụ nhắm mắt, tưởng giây phút về chầu tổ tiên đã tới. Nhưng khi mở mắt, thấy khoảng cách lề có một bước chân, cụ vội nhảy đại lên. Giờ mới yên tâm thở được.
Ngồi xuống ghế, hít thở đã đời, cụ vẫn chưa hết cơn sợ hãi bàng hoàng. Cái xứ Mỹ này lạ đời, không giống ai. Xe ở đâu mà nhiều vô số, còn hơn cả châu chấu ở quê cụ mỗi lần có nạn mất mùa. Đường trong, đường ngoài, xa lộ, ôi thôi, cái dòng xe chạy miết không bao giờ đứt đoạn. Khúc đường này, ngay trung tâm phố, mà kìa… Cụ ngó. Xe chạy loạn xạ. Mấy cậu thanh niên đi đâu mà như ăn cướp. Lạng qua, lách về, vèo một cái là mất biệt. Con gái lái xe cũng dễ sợ như đàn ông con trai. Chiếc xe hàng chở gì mà to kềnh, dài ngoằng, cụ vừa thấy cái đầu tóc vàng hoe. Mắt có quáng gà không? Con gái rành rành. Vậy mà xe vòng chữ U, nhanh như con rắn cong chân, bắn về phía trước. Hoa cả mắt. Hai tay ông cụ đang để trên đùi, từ lâu rồi, vẫn không ngừng run lên.
Trên chiếc ghế đợi cụ ngồi một mình, bây giờ đã có thêm hai người. Một người đàn ông da đen và một phụ nữ Mễ. Người đàn bà tới trước, đặt mình cái bịch ngồi ngay cạnh ông cụ. Đàn bà xứ này coi cũng kỳ. Cái vẻ e dè, kéo vạt áo hay váy trước khi ngồi xuống của phụ nữ Á Châu vẫn có cái vẻ dịu dàng, dễ thương mà vô cùng quyến rũ. Còn bà ta, con mụ này, chắc ăn uống cũng bạo lắm nên người tròn vo, như cái keo đựng mỡ. Không biết cả ngày làm việc, đụng độ những gì mà mặt mũi khó đăm đăm.
Người đàn ông da đen tới sau một lát, anh ta không ngồi mà đứng, tựa vào cái cột đèn mé hông ghế. Anh này coi bộ vui vẻ, thấy phụ nữ là cười chào liền. Người đàn bà Mễ chẳng hề có cái nhếch môi đáp lại, mà còn lầu bầu. Gặp đôi mắt ông cụ nhìn, hắn ta lại cười, chào nữa. Còn nhún vai, ra cái điều người đàn bà này đáng chê quá. Ông cụ gật đầu đồng ý. Ông cụ nghĩ đáng ra mình phải chào thành tiếng, như nói đại: Hai. Nhưng rồi ông không mở miệng được.
Sang Mỹ đã năm năm, mỗi lần ông cụ hay bà cụ mở miệng xài thử vài tiếng Mỹ học lóm được thì mấy thằng cháu nội sửa lưng liền: ông (hay bà) nói sai rồi. Nhiều lúc ông bà cụ nghe con cháu nó sửa lưng, ngó nhau, tẽn tò lắm. Có lần ông cụ nói chuyện nước Mỹ với bà cụ: Chỉ có xứ Mỹ này mới dùng cái xe mút-sơ-lin được vì đường sá nó rộng mênh mông. Hai thằng cháu nội cười chảy nước mắt. Thằng con trai chen vô: “Ba không biết thì đừng có nói tiếng Mỹ. Khổ quá, xe Lin-mu-din chớ không phải mút-sơ-lin. Tệ nhất là lúc nhà có khách, ba đừng xổ tiếng Mỹ có được không?”
Hai ông bà già tủi thân và buồn dễ sợ luôn. Nếu còn ở Việt Nam, con của cụ có dám mở miệng với cụ vậy không? Tội nghiệp ngày bà cụ còn sống, vẫn canh chừng, nhắc nhở ông: “Thôi ông ơi. Mình đã bỏ quê cha đất tổ mà đi. Mình mất cái gốc rồi. Ông đừng bực mình tụi nó làm chi, cứ như câm như điếc là xong. Nhà bà cụ Lài kìa, đánh thằng cháu có cái tát, nó biết quay số điện thoại gọi cảnh sát, ông cụ vô tù, thấy chưa? Nhịn đi ông.”
Con giun xéo lắm cũng quằn. Tức quá cũng co lúc phải chửi cha thằng con lên. Thì thằng cha phải chửi cha thằng con chớ ai vô đó nữa. Thằng con thấy cha mình bị lôi ra chửi, cũng đau:
“Ba chửi vậy mà nghe được. Không thấy kỳ cục gì hết sao? Buồn cười. Ba nghĩ coi, lúc ba má còn ở Việt Nam, con cũng có thư về nói rõ đời sống bên này. Không phải ra đầu đường đút cái thẻ vô máy rồi tiền nó chạy ra cho mình tiêu như mấy thằng lưu manh về Việt Nam nói dóc để lừa gạt đâu. Đi cày còn hơn trâu nữa. Ba má cũng nghĩ cho chúng con, cả vợ cả chồng đi làm từ sáng sớm tới tối mịt. Ngày nghỉ cũng ráng đưa ba má đi chùa. Thế còn chúng con có chút nghỉ ngơi nào không? Đời sống ở đây nó sòng phẳng tàn nhẫn. Một tháng tụi con không đủ đóng tiền nhà là nhà băng nó lấy nhà ngay. Ba má hiểu cho tụi con thì mới sống được.”
Còn nói gì nữa. Đêm, hai bộ xương già ôm nhau khóc. Bà cụ: “Biết vậy ở Việt Nam cho xong”. Xong đâu được với ba thằng Cộng sản. Nhà cửa ruộng vườn của nhà nước lâu rồi. Trẻ còn sức lao động, làm thí mạng không đủ ăn, huống chi già. Con cái nó gửi thùng quà về cũng đau lòng lắm. Có chút hơi hám quà Mỹ là anh em, mẹ con, thân quyến cũng lừa đảo, trở thành kẻ thù của nhau. Thì cộng sản nó muốn cả nước như vậy, cứ để ý dòm ngó nhau, để nó tiện bề cai trị, dễ bề vơ vét. Dễ ẹc.
Tiếng thở dài trong đêm khuya của ông từ hồi đó như còn kéo dài tới bây giờ. Hồi nãy, khi ngồi bên mộ bà cụ, thắp nhang, ông có lâm râm khấn và nói chuyện với bà: “Bà đi trước mà sướng, bà có biết không? Còn tui, mới thiệt là côi cút, trơ trọi.” Ông nhìn thấy ở dãy mộ bên cạnh, một người đàn ông Mỹ đặt bó hoa lên một mộ bia. Ông cũng mủi lòng lắm. Nhiều lần, đã tính dừng chân lại ở ngoài ngã tư, có một thanh niên Mễ đứng bán hoa, muốn mua. Chỉ có ý định, rồi thôi. Hoa hòe là lối tình tự thời còn trẻ trung. Ở đây, bà đã khô héo mà chết, bỏ ông đơn độc ở xứ lạ quê người. Tình già nó kỳ cục lắm. Ông đã không giận bà bỏ ông mà đi trước khỏe re thì thôi, còn đặt một bó hoa lên để cám ơn chắc? Nghĩ vậy thôi, ông cụ cũng thấy lòng bần thần ân hận, còn một ẩn ức khác trong đời ông, ông dấu bà mãi.
“Bà cứ ngồi đại xuống đi. Còn phải chờ lâu. Bà ngó gì mà ngó hoài vậy?”
Tiếng Việt. Ông ngẩng lên nhìn. Đúng là hai bà cháu rồi. Thảo nào cô cháu phải nói tiếng Việt. Bọn con nít ở đây quên tiếng mẹ đẻ hết trơn. Vô một nhà toàn mũi tetï da vàng, ăn cơm thì phải có rau muống mà con nít chỉ rặt nói bằng tiếng Mỹ, còn cha mẹ ông bà thì ngồi như phỗng đá. Ông cụ đang có cảm tình với đứa cháu nhỏ này đây. Bà cụ, người ở đâu mà trông phương phi quá. Người như thế này, lúc trẻ đẹp phải biết. Coi cái kiểu ké né ngồi xuống, tuy không có vạt áo dài để vén sang một bên, bà cụ vẫn còn giữ nết na thời con gái. Quần đen, áo tơ màu lam sáng, có thêu những cánh hoa nhỏ đồng màu, sang mà giản dị, bà cụ có một dáng dấp thanh nhã, dễ gây cảm tình.
Chỗ bà cụ ngồi sát phía bên ngoài, một chỗ ngồi thì rộng mà hai chỗ thì chật cứng, nên cô cháu đứng. Bà cụ cũng cứ nhích trách xa, sợ đụng chạm với người ngồi chung. Mỗi lần né xích, môi bà cụ mỉm cười như muốn lời xin lỗi. Ông cụ đoán chừng bà cụ này mới từ Việt Nam qua, thấy mắt nhìn còn tò mò, còn nhiều ngạc nhiên, làm gì không biết.
“Ở đây đi đường không như bên nhà nghe ngoại. Muốn qua đường phải chờ đèn xanh, đi đúng lằn vạch, mà phải đi thật mau. Đi qua đường ngoài lằn vạch là bị phạt, mà xe đụng chết còn phải bồi thường cho người đụng xe nữa đó ngoại.”
“Xứ gì mà kỳ. Trên đường hoãn xe, để cho người ta đi băng qua, nội một chỗ qua đường cũng muốn xuội chân rồi.”
“Luật là luật. Xứ Mỹ người đông như kiến, ai muốn làm gì thì làm là loạn. Với lại đi ra đường, ngoại đừng nhìn lung tung. Đi trong parking cũng cẩn thận, xe ra vô ào ào. Ở xứ Mỹ này, phải có bốn con mắt, hai con mắt nhìn không đủ gì hết.”
“Ờ, thì cũng phải một thời gian ngoại mới quen. Ngoại có hai con mắt mà mắt già rồi cũng như đui, cháu.”
Bà cụ nói chuyện ngộ quá. Không phải ông cụ vì có cảm tình mà nói đại đâu. Anh chàng Mỹ đen nghe không hiểu ất giáp gì hết trơn mà cũng ngó ngó hai bà cháu nói chuyện. Chỉ có người đàn bà Mễ là cứ nhìn mông lung ở đâu, trong mắt đầy vẻ nôn nóng. Đàn bà mà, họ có ưa nhau bao giờ đâu. Ông cụ nghĩ vậy.
“Con không có nhiều thì giờ đưa ngoại đi đây đó đâu. Con còn đi học, đi làm. Mai mốt ngoại phải tập đi xe bus, đi đâu ngoại đi phải đi một mình. Ngoại cũng phải biết sơ tiếng Mỹ mới đi ra đường một mình được.”
“Học ba cái tiếng Mỹ, thôi con ơi, cái đầu của ngoại không còn chỗ nào để nhét vô nữa hết.”
Ông cụ muốn bật cười. Ngộ thiệt là ngộ. Cái lối nói chuyện này sao đối với ông chẳng xa lạ gì. Ông đã có nghe. Trong đời, gặp gỡ, quen biết, giao thiệp, đàn bà cũng đếm không hết, chắc giọng nói này cũng đã có trong số đó. Người giống người cũng có. Giọng giống giọng cũng có. Vậy mà lạ chưa, ông cứ bị kéo về cái giọng, cái vẻ của bà cụ.
Chờ một lúc cho bà cụ với đứa cháu gái hết chuyện nói, ông mới hỏi han:
“Chị ở Việt Nam mới qua phải không?”
“Dạ. Mới qua, bác.”
“Ở bên, người ta qua cũng đông. Mà ở đây về bển cũng đông, phải không chị?”
“Dạ. Việt Kiều người ta về đông lắm. Thôi mua nhà cửa, làm ăn hà rầm.”
“Vậy sao chị không ở bển mà qua đây làm chi? Ở đây, chị biết rồi đó, tuổi già như mình nó buồn lắm.”
“Dạ thì cũng biết vậy. Nhưng nhà tui có năm đứa con, đều ở nước ngoài hết. Hai đứa ở Mỹ, một đứa ở Úc, một Canada, còn thằng út thì được tàu Na Uy vớt, bác. Tui ở bển một mình cũng không được.”
“À, ra vậy. Xin lỗi chị, ở bển, chị ở vùng nào?”
“Sài gòn, bác.”
“Cũng xin lỗi nữa, trước quê chị ở đâu?”
“Đà Lạt, bác. Nói là Đà Lạt, nhưng chỗ chính là Tùng Nghĩa. Ông bà già có trại rẫy ở đó.”
Ông cụ hơi giật mình. Đà Lạt rồi Tùng Nghĩa. Cả hai nơi đều vừa nhắc nhở ông, và giòng máu gần khô đặc trong người ông vừa loãng ra, tỏa nhiệt. Còn bà cụ, như có người để khơi dậy thời trẻ trung, vui vẻ tiếp:
“Hồi đó tui lên Đà Lạt học. Được vài năm, có chuyện bỏ học về dưới ở. May chỉ hai ba tháng, dọn về Sàigòn, mua nhà cửa rồi ở luôn. Năm đứa con khai sanh ở Sài Gòn hết, bác. Quên hỏi bác, ở bên nhà, bác người vùng nào?”
Ông cụ mắt còn sáng lắm mà bỗng hấp hem. Hai bàn tay giật giật. Bà cụ tươi cười hỏi tiếp:
“Bác cũng người Sàigòn?”
“Hồi trẻ tui cũng ở Đà Lạt. Tui là học trò trọ học. Sau đó đi tùm lum, bôn ba lắm, chị.”
Bà cụ quay người lại nhìn ông cụ chăm chú:
“Hỏi không phải, hồi đó bác có học trọ ở căn biệt thự Hoa Hồng không?”
Không có con kiến nào cắn mà ông cụ cũng nhổm đít lên một chút. Khuôn mặt ông cụ gầy gò mà xanh quá, khó biết ông cụ có xúc động gì không. Bà cụ hỏi xong, nghiêm mặt chờ câu trả lời.
“À không. Nhưng tui biết khu nhà trọ đó. Tui cũng thường tới lui chơi với bạn hữu. Chị cũng trọ học ở đó à?”
Bà cụ chớp mắt, một thời xa xưa kéo màn mây vẩn đục.
“Tui trọ ở nhà bà con, nhưng tui biết ngôi biệt thự đó. Người ta đồn có ma.”
“Cái gì. Ở đâu ma, ngoại?”
Đứa cháu gái nãy giờ ngóng xe bus tới, giật mình, hỏi. Mắt con bé tròn vo. Bà cụ cười.
“À, ngoại nói chuyện hồi trước, khi ngoại mới lớn. Xưa rồi.”
Cô cháu gái nhíu mày, tiếp tục ngóng phía đầu đường vẻ nôn nóng sốt ruột. Ông cụ ngồi im lặng một hồi lâu, ra điều suy nghĩ lung lắm, rồi quay sang bà cụ:
“Xin lỗi, hồi đó chị có biết một người tên là Nụ Hồng không?”
Bà cụ khi không nắm hai bàn tay lại, bà cụ ngó ông cụ, trong đôi mắt bà, dĩ vãng như vừa lóe sáng.
“Dạ xin lỗi, ông anh đây là…có phải…?”
Ông cụ lại bị kiến cắn, muốn nhẩy nhổm:
“Dạ chị có tưởng nhầm tui với ai không? Bị hồi đó nội cái tên Nụ Hồng cũng đủ các cậu hâm mộ rồi, không có thi hoa hậu mà mọi người đều ngấm ngầm bầu người đẹp là hoa khôi… đó chị.”
Bà cụ cúi mặt:
“Dạ, nhưng tiếc không phải là tui. Tui là bạn chơi rất thân của Nụ Hồng. Bây giờ còn chắc cũng đầu bạc răng long hết rồi ông anh à.”
“Vâng, thời gian mà chị. Xin lỗi ông anh có sang Huê Kỳ không?”
“Dạ không. Tui còn một mình.” Bà cụ cười, hơi nghiêm mặt.
Chiếc xe buýt đồ sộ dừng lại. Đứa cháu gái kéo tay bà cụ dẫn lên xe, người đàn bà Mễ tranh bước trước. Người đàn ông da đen lễ phép nhường bà cụ. Ông cụ lên xe sau cùng. Trên xe họ ngồi cách nhau một ghế. Phía sau, ông cụ nhìn tới, thấy nguyên cái đầu tóc trắng như cước của bà cụ. Ông cụ lắc đầu, nuốt nước bọt. Không thể lầm được đâu. “Em à, cái nụ cười của em, trăm năm sau có gặp, anh vẫn nhận ra”.Tệ quá, mình đã có lỗi với bà ấy, suốt trong cuộc sống vợ chồng êm ấm, nhiều lúc mình đã lẫn lộn nụ cười của vợ là của Nụ Hồng.
Xin lỗi. Bàn tay ông vẫn đặt trên đầu gối, bỗng lại rung lên. Chiếc xe buýt đang chạy băng băng. Trời chiều muộn vì nắng, còn ngập ngừng chưa muốn tắt. Trong đôi mắt đục, lờ đờ, bỗng xa xôi đầy hình bóng kỷ niệm.
. . .
Mưa xối xả. Nước từ trời dội xuống, chia thành hai nhánh, chảy xiết như hai dòng suối nhỏ ở hai lề đường. Chiều mùa đông Đà Lạt, thường bị mưa và bóng tối nuốt rất sớm. Những tàng thông xanh đang biến dạng thành những chùm bóng bí mật, dọa dẫm. Đường phố như không còn ai, chỉ có hai người. Họ đang đi lên con dốc dẫn tới biệt thự Hoa Hồng. Cả hai cùng mặc áo mưa màu sậm nên càng lẫn trong bóng chiều xẫm màu.
“Hai chân em như đang ngâm trong nước. Nó sắp tê cóng hết rồi, anh. Thích quá.”
Họ là một cặp trai gái, người con trai cao hơn cô gái nhiều. Họ đi sát vào nhau. Cô gái trông càng thấp hơn vì đi phía bên trong. Quần xắn cao, chân đi guốc gỗ, đang lội trong dòng nước chảy ngược xuống dốc.
“Em đừng nghịch nước nữa. Thấy không, bắn ướt hết anh rồi.”
“Không sao. Ướt mát.”
“Thôi mà, bé. Anh đang rét run lên đây.”
“Bộ anh lạnh lắm hả? Tội anh quá. Anh đi sát vào em đi. Ấm. Ấm chưa.”
“Ái chà. Em lừa anh. Ác.”
Cô gái cười ròn tan. Tiếng nước bắn tóe lẹt xẹt. Chiều trốn vội vàng không báo trước. Cả hai chìm mất trong bóng tối.
“Anh. Em không thấy đường đi. Tối thui à.”
“Đi bằng mắt của anh. Níu tay anh, đừng sợ.”
“Mưa hoài. Chắc mưa suốt đêm quá.”
“Anh mong vậy. Mưa suốt đêm.”
Hai người đi lên gần hết con dốc. Họ dừng lại trước một khối đen khổng lồ. Nhìn kỹ lắm, mới thấy có vài đốm lửa lung linh, tòa biệt thự và cây cối nổi lờ nhờ. Họ đứng sát vào nhau. Cơn mưa vẫn ào ạt dữ dội.
“Em vào với anh nhé? Vào một chút, anh pha cà phê.”
“Muộn quá. Em sợ…”
“Mưa mà. Em về nhà trọ trễ đâu có sao. Nói trú mưa.”
“Chỉ uống một ly cà phê thôi nghe.”
“Không đủ thì giờ để anh hong suối tóc cho em. Tóc em ướt hết nè.”
Người thanh niên đẩy chiếc cổng gỗ. Một tiếng kêu khô khốc, chìm lỉm mất trong tiếng rào rạt của mưa. Cô gái rùng mình, đeo cứng chàng trai. Con đường đá, trơn trượt, họ dìu nhau thận trọng từng bước một. Chưa có một cơn mưa nào dữ dội, cộc cằn mà dễ thương như cơn mưa đêm nay.
Ngọn đèn nhỏ trên bàn học tỏa chiếu ánh sáng vàng đục, không đủ soi hết căn phòng trọ. Họ có hai ly cà phê nóng và họ ngồi ngó nhau… Lâu lắm, người thanh niên mới kéo được cô gái vào vòng tay ôm của mình. Lúc cả hai ngồi trên chiếc giường nhỏ, cô gái khóc.
. . .
Cô gái vùng vằng ném nụ hồng lên mặt cỏ xanh, ngồi trên phiến đá và quay lưng lại. Cô khóc. Họ giận nhau đã một tuần lễ và mới gặp lại nhau chiều nay. Chàng đã làm lành bằng cách mua một nụ hồng đem lại cho nàng. Nhưng nàng vẫn không nguôi. Hoa hoét gì nữa. Lòng dạ nàng đang mê man đây. Cái đêm mưa gió quỷ quái hơn tháng trước đã để lại một hậu quả không lường tính được. Khi nghe người yêu báo tin, chàng đã như bị sét đánh, ngất ngư.
“Phải làm sao bây giờ, anh?”
Chàng cà lăm luôn:
“Anh… anh…anh…”
“Anh không biết phải tính sao phải không?”
Nàng cắn môi muốn bật máu, cố nén tiếng nấc.
“Được, em thu xếp lấy.”
Mấy lần gặp gỡ, khóc lóc, gây gổ, dỗ dành. Lần này này, coi bộ đến hồi quyết liệt.
“Em hãy cho anh thời gian để tính. Gia đình anh ở xa, khi nghe tin chắc khó chấp nhận.”
“Mình bỏ thành phố này trốn đi… ”
“Em biết anh không có tiền. Mỗi tháng gia đình gửi tiền ăn, hoc vừa đủ. Làm thế nào mình nuôi nhau?”
“Em đi làm. Người ta sống được mình sống được. Anh biết đó, gia đình em đã nhận lời xin cưới của đằng trai, mà xin cưới gấp vì anh ấy phải đổi về Sàigòn. Anh cứ lần lữa hoài. Em biết, anh chỉ lợi dụng… ”
Cô gái chà hai chiếc dép xuống cỏ. Con suối lượn lờ chảy trước mặt cô an lành. Nước trong đến có thể soi mặt được, còn lung linh hai khuôn mặt chập chờn bên nhau những lần hẹn hò trước.
“Em hiểu cho anh. Để anh viết thư về xin nhà… ”
“Nhà anh? Thôi khỏi đi. Anh biết chắc không được mà còn xin?”
“Má anh rất khó… ”
“Má. Má. Anh lớn rồi, sao chuyện gì cũng má… Anh im đi. Biết vậy sao còn… ”
Cô gái nấc lên, đưa tay ôm lấy mặt. Gió vùng lên cùng cơn giận của cô, đẩy một quả thông rơi tỏm xuống giòng suối. Nước nhăn mặt bất bình. Chàng thanh niên ngẩng mặt nhìn bầu trời đang muốn mưa. Mưa nữa! Đứng như trời trồng. Đứng như cây cối.
Hồi lâu, cô gái đã dịu cơn khóc. Cô rút chiếc khăn tay nhỏ xíu trong chiếc ví da, lau nước mắt. Mắt cô đỏ hoe, đã hiện ra nhiều tia gân máu đỏ li ti của nhiều đêm thao thức. Cô đứng lên, từ tốn đến trước mặt chàng thanh niên, thở ra một hơi dài cho vơi bớt khí uất trong người, nói:
“Thôi, để em tự giải quyết. Anh không xứng đáng để em oán trách. Ba má ở Tùng Nghĩa mới lên hôm qua. Em tính hôm nay hẹn anh để anh gặp ba má em. Bây giờ không cần nữa. Bây giờ thì em biết, em hiểu rồi. Anh chỉ là một thằng hèn. Anh hèn lắm. Anh biết không?”
“Em. Anh rất yêu em… anh có thể vì em mà… ”
“Hừ, anh còn tính nói hươu nói vượn gì thế? Thôi, anh để tôi tự thu xếp lấy đời tôi… ”
Cô gái lại nấc lên. Hai tay lùa vào bấu mớ tóc. Bầu trời cau mặt sa sầm xuống. Vài giọt mưa bắt đầu rơi. Chàng thanh niên khổ não nhìn người yêu. Mặt nàng ướt đẫm lệ. Anh đưa tay lên, không biết để làm gì, lại buông thõng xuống. Anh đã câm.
Bầu trời biến đổi đột ngột, quằn quại tiếng ì ầm của cơn giông. Lòng cô gái cũng giông bão. Cô nghiến răng, quắc mắt. Định nhảy tới cắn xé kẻ phụ tình chăng? Không, chỉ tội nụ hoa hồng bị gót dép của cô chà nát bét. Nụ hồng, như tên cô, như cô, cùng tan nát. Mưa bắt đầu nặng hột. Chàng trai nhìn khuôn mặt người yêu. Anh đau đớn kêu: “Nụ Hồng”. Nước mưa muốn xóa những giọt lệ không ngừng trên mặt cô, sũng ướt cả quần áo. Chàng thanh niên nhào lại, muốn ôm, muốn hôn, muốn gật đầu liều lĩnh cùng sống chết. Nhưng cô gái đã xoay người, bỏ chạy và biến mất trong cơn mưa ào ào, hung dữ. Chàng thanh niên đuổi theo. Trong mưa, tiếng gọi “Nụ Hồng. Nụ Hồng” không ngớt. Tiếng gọi càng lúc càng nghẹn ngào, vô vọng, chìm lỉm.
“Tha thứ cho anh. Nụ Hồng. Thằng hèn hạ. Khốn nạn, ma cô, ma cạnh, khốn nạn. Tha thứ cho anh!”
Chàng thanh niên quỳ trên cỏ ướt. Chàng khóc. Nước mắt cùng nước mưa, bất tận.
…
Một buổi tối khác, trong khu vườn đầy đặc cây cối, bên ngoài cánh cửa sổ đóng kín, chàng thanh niên nép mình trong bóng tối, nghe tiếng người yêu la khóc. Mỗi lần tiếng roi quất vụt rít lên, chàng thanh niên lại đưa tay lên miệng cắn chặt.
“Con gái mất nết. Đánh chết mày cũng chưa hết tội. Đồ ngựa vía. Voi dầy. Mày có nghe lời không?”
“Đau quá má ơi. Con lạy má. Con nghe rồi. Xin má đừng bắt con làm điều đó. Con sẽ không sống nỗi đâu… Má nói gì con cũng nghe, bảo lấy ai con cũng lấy, nhưng đừng… con sợ lắm má ơi.”
“Biết sợ? Thôi đi cô. Cô bôi tro trát trấu lên mặt mẹ cha rồi còn gì nữa. Được. Ngày mai về dưới, làm đám cưới liền, không học hành gì nữa. Trời ơi, sao mày quá quắt, sao mày… mày chết đi. Chết đi… ”
“Ôi, đau quá má ơi. Con biết rồi. Má nói gì con cũng nghe. Đám cưới. Dạ. Ôi, đau. Dạ, con bằng lòng, bằng… lòng”
Giọng cô gái yếu dần như sắp tắt hơi:
“Má bảo gì cũng được, con chỉ xin đừng bắt con làm điều đó. Má giết con cũng được, con đáng tội chết má ơi… ”
“Được, muốn chết thì cho chết. Lì lợm. Này lì. Lì… ”
Hôm sau, chàng trai ra bến xe đợi. Thấy nàng lên xe đò cùng cha mẹ. Nàng có trông thấy mình không? Chắc có. Chàng trai ra bờ suối, nơi nàng dẫm nát nụ hồng. Không còn dấu vết gì, cơn mưa hung dữ ngày nọ đã xóa hết. Dòng suối lạnh lùng như không còn biết chàng ta là ai. Chàng ngồi trên phiến đá cho tới lúc đêm xuống.
Hai tháng, sau ngày cưới, vì phải lên Đà Lạt, thu dọn đồ đạc để theo chồng đi xa, họ có gặp nhau. Cả hai đều xơ xác, nàng mới xẩy thai, còn chàng, đêm không ngủ, ngày biếng ăn, hốc hác, tiều tụy. Người thanh niên nhanh nhẹn, đầy sức sống, mới đây, tâm tính đã thay đổi hẳn. Thâm trầm, cay chua. Họ nhìn nhau nhiều hơn là nói. Lúc chia tay, chàng hỏi nàng:
“Em còn oán anh không?”
Nàng lắc đầu. Nụ cười buồn:
“Bây giờ thì em đã bình tĩnh lại rồi, nhất là khi em mất đứa nhỏ, em cảm thấy không còn mất mát nào lớn hơn, không có chuyện nào làm em khổ hơn được nữa.”
“Anh mong em hạnh phúc. Quên anh đi.”
Nàng gật đầu. Vẫn nụ cười buồn. Chàng nói thêm:
“Em à… Nụ cười của em, trăm năm sau có gặp lại, anh vẫn nhận ra.”
Nàng lại gật đầu. Vẫn bộ dạng quay đầu để hất mái tóc đẹp bớt lòa xòa xuống trán.
Họ phải chia tay nhau vì chẳng có lời gì để nói thêm. Chàng lầm lũi bước trên đường một mình, có cảm tưởng như tất cả bước chân của chàng, của nàng, của kỷ niệm cùng thức dậy, đang nhịp bước theo.
Chàng trai hát nhỏ bài Chiều của Hồ Dzếnh:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vương trong mây…
Mây Đà Lạt mùa đông thường thấp, nên vướng chung nỗi buồn với người. Vườn hồng nhà ai xơ xác, tiêu điều qua trận mưa gió đêm qua. Không còn một nụ hồng nào nữa.
….
Chuyện xưa, hồi tưởng, nhanh như cái chớp mà người xưa tóc bạc trắng vẫn còn giữ nguyên được nụ cười. Ông cụ nao lòng quá. Bà ấy đâu còn nhận ra mình là ai? Lời thốt năm xưa, dù trăm năm sau, gặp lại ông vẫn nhận ra nụ cười của bà. Bà ấy làm sao biết được, bao năm rồi, những lần nhìn những nụ hồng, lòng ông vẫn bồi hồi. Những sinh nhật của con cháu, nến, những bó hồng tươi thắm, lúc nào cũng lẫn lộn một nụ hồng của riêng ông. Nụ hồng nhỏ bé, ngậm tăm, chỉ héo úa đi, không bao giờ nở.
Thay vì thở ra, ông cụ nuốt xuống. Ông cụ nhìn bàn tay nhăn nheo của mình rồi nhìn mái tóc bạc của cụ bà ngồi phía trước. Thời gian kinh khiếp làm sao. Mới ngày nào, tay này đây, vuốt ve mái tóc còn đen dày, xõa dài xuống lưng. Coi nào. Ông cụ lắc đầu. Tóc bà ấy chỉ còn lưa thưa, mà trên đỉnh đầu còn hói nữa. Chà, vẫn thói quen làm dáng ngày nào, còn cố kéo mớ tóc uốn loăn xoăn che khoảng da đầu muốn lộ ra. Áo quần vẫn những màu sắc thanh nhã. So với các bà cụ khác, bà cụ Nụ Hồng của ông vẫn còn gọn thon, chưa có chỗ nào trên thân thể phì nhiêu một cách quá đáng.
Bà nhà mình khi về chiều không được như vậy đâu, cụ bà cứ nung núc thịt, nhất là khi sang đến Mỹ, bà cụ cứ tròn vo, ngắn dần đi. Chỉ tới lúc sắp bỏ ông mà đi, thì lại gầy chỉ còn da với xương. Lúc nãy cụ cũng ngắm rồi, người xưa, tuy già, cách đứng, dáng đi vẫn còn thong dong lắm.
“Đến trạm này, mình xuống, bà. Bà cố nhớ nghe bà, lần sau bà đi một mình… ”
“Chẳng nhớ. Bà thấy đường nào, chỗ nào cũng giống y chang nhau. Đi một mình là lạc tới đâu kìa…”
Ông cụ lại nuốt nữa. Tội không, khi trẻ lạc đường tình rồi, nay già, thêm cái khờ khạo lạc đường phố nữa. Chưa bao giờ ông thấy xe buýt chạy nhanh quá vậy. Vèo một cái, chiếc xe đã táp vô lề đường. Hành khách vội vã xuống trạm. Khi ngang qua, bà cụ có nhìn, gật đầu chào. Ông cụ đã sửa soạn câu nói văn vẻ về một nụ cười, nhưng lýnh quýnh có mở miệng ra được đâu. Cho tới khi chỉ còn nhìn thấy cái lưng của bà cụ, ông mới thốt ra lời:
“Bà cụ ơi, một trăm năm sau… ”
Ông cụ chỉ nói tới chừng đó lại tắt ngang họng. Cô cháu gái đi sau lưng bà cụ quay lại nhìn ông cụ, ngơ ngác. Bà ấy có nhìn lui không? Không, nhưng rõ ràng ông thấy bà khựng lại, và cô cháu đẩy lưng bà, kêu:
“Đi xuống nhanh, bà ơi. Sao bà đứng giữa lối đi vậy?”
Trên xe buýt cũng có đàn kiến chắc. Ông cụ nhỏm lên. Ông nhìn phía cửa sổ xuống đường, không thấy gì hết. Cho tới khi xe chạy ông cũng không nhìn thấy gì hai bên đường. Cái xứ gì kỳ cục, chiếc xe buýt làm vừa to vừa cao. Bực mình.
Một anh chàng da đen đã ngồi vào ghế bà cụ lúc nãy. Anh ta dúi mặt vào tờ báo đọc lấy đọc để.
Xe chạy qua mấy trạm nữa, ông cụ nhắm mắt, ngủ gà ngủ gật. Tuổi già nó tệ vậy, khi nào buồn là thấy ngay cơn buồn ngủ.
_____________
Lúc bước xuống đường, để sang bên kia trạm bus, ông cụ hoảng quá. Đèn bật xanh lè, cụ lụm cụm chạy.
Tuổi già tệ thiệt, cụ chạy mà không bắt kịp mấy người cùng băng sang đường với cụ. Bước chân họ như dài gấp đôi bước chân cụ. Soạch một cái, cụ bị rơi lại đằng sau. Đèn chớp vàng cùng với cái bảng cấm chớp đỏ lên cùng lúc. Ông cụ còn quýnh quáng hơn, muốn vấp té. Đã vậy, một chiếc xe hơi vọt tới, như muốn đâm thẳng vào người ông. Ông cụ nhắm mắt, tưởng giây phút về chầu tổ tiên đã tới. Nhưng khi mở mắt, thấy khoảng cách lề có một bước chân, cụ vội nhảy đại lên. Giờ mới yên tâm thở được.
Ngồi xuống ghế, hít thở đã đời, cụ vẫn chưa hết cơn sợ hãi bàng hoàng. Cái xứ Mỹ này lạ đời, không giống ai. Xe ở đâu mà nhiều vô số, còn hơn cả châu chấu ở quê cụ mỗi lần có nạn mất mùa. Đường trong, đường ngoài, xa lộ, ôi thôi, cái dòng xe chạy miết không bao giờ đứt đoạn. Khúc đường này, ngay trung tâm phố, mà kìa… Cụ ngó. Xe chạy loạn xạ. Mấy cậu thanh niên đi đâu mà như ăn cướp. Lạng qua, lách về, vèo một cái là mất biệt. Con gái lái xe cũng dễ sợ như đàn ông con trai. Chiếc xe hàng chở gì mà to kềnh, dài ngoằng, cụ vừa thấy cái đầu tóc vàng hoe. Mắt có quáng gà không? Con gái rành rành. Vậy mà xe vòng chữ U, nhanh như con rắn cong chân, bắn về phía trước. Hoa cả mắt. Hai tay ông cụ đang để trên đùi, từ lâu rồi, vẫn không ngừng run lên.
Trên chiếc ghế đợi cụ ngồi một mình, bây giờ đã có thêm hai người. Một người đàn ông da đen và một phụ nữ Mễ. Người đàn bà tới trước, đặt mình cái bịch ngồi ngay cạnh ông cụ. Đàn bà xứ này coi cũng kỳ. Cái vẻ e dè, kéo vạt áo hay váy trước khi ngồi xuống của phụ nữ Á Châu vẫn có cái vẻ dịu dàng, dễ thương mà vô cùng quyến rũ. Còn bà ta, con mụ này, chắc ăn uống cũng bạo lắm nên người tròn vo, như cái keo đựng mỡ. Không biết cả ngày làm việc, đụng độ những gì mà mặt mũi khó đăm đăm.
Người đàn ông da đen tới sau một lát, anh ta không ngồi mà đứng, tựa vào cái cột đèn mé hông ghế. Anh này coi bộ vui vẻ, thấy phụ nữ là cười chào liền. Người đàn bà Mễ chẳng hề có cái nhếch môi đáp lại, mà còn lầu bầu. Gặp đôi mắt ông cụ nhìn, hắn ta lại cười, chào nữa. Còn nhún vai, ra cái điều người đàn bà này đáng chê quá. Ông cụ gật đầu đồng ý. Ông cụ nghĩ đáng ra mình phải chào thành tiếng, như nói đại: Hai. Nhưng rồi ông không mở miệng được.
Sang Mỹ đã năm năm, mỗi lần ông cụ hay bà cụ mở miệng xài thử vài tiếng Mỹ học lóm được thì mấy thằng cháu nội sửa lưng liền: ông (hay bà) nói sai rồi. Nhiều lúc ông bà cụ nghe con cháu nó sửa lưng, ngó nhau, tẽn tò lắm. Có lần ông cụ nói chuyện nước Mỹ với bà cụ: Chỉ có xứ Mỹ này mới dùng cái xe mút-sơ-lin được vì đường sá nó rộng mênh mông. Hai thằng cháu nội cười chảy nước mắt. Thằng con trai chen vô: “Ba không biết thì đừng có nói tiếng Mỹ. Khổ quá, xe Lin-mu-din chớ không phải mút-sơ-lin. Tệ nhất là lúc nhà có khách, ba đừng xổ tiếng Mỹ có được không?”
Hai ông bà già tủi thân và buồn dễ sợ luôn. Nếu còn ở Việt Nam, con của cụ có dám mở miệng với cụ vậy không? Tội nghiệp ngày bà cụ còn sống, vẫn canh chừng, nhắc nhở ông: “Thôi ông ơi. Mình đã bỏ quê cha đất tổ mà đi. Mình mất cái gốc rồi. Ông đừng bực mình tụi nó làm chi, cứ như câm như điếc là xong. Nhà bà cụ Lài kìa, đánh thằng cháu có cái tát, nó biết quay số điện thoại gọi cảnh sát, ông cụ vô tù, thấy chưa? Nhịn đi ông.”
Con giun xéo lắm cũng quằn. Tức quá cũng co lúc phải chửi cha thằng con lên. Thì thằng cha phải chửi cha thằng con chớ ai vô đó nữa. Thằng con thấy cha mình bị lôi ra chửi, cũng đau:
“Ba chửi vậy mà nghe được. Không thấy kỳ cục gì hết sao? Buồn cười. Ba nghĩ coi, lúc ba má còn ở Việt Nam, con cũng có thư về nói rõ đời sống bên này. Không phải ra đầu đường đút cái thẻ vô máy rồi tiền nó chạy ra cho mình tiêu như mấy thằng lưu manh về Việt Nam nói dóc để lừa gạt đâu. Đi cày còn hơn trâu nữa. Ba má cũng nghĩ cho chúng con, cả vợ cả chồng đi làm từ sáng sớm tới tối mịt. Ngày nghỉ cũng ráng đưa ba má đi chùa. Thế còn chúng con có chút nghỉ ngơi nào không? Đời sống ở đây nó sòng phẳng tàn nhẫn. Một tháng tụi con không đủ đóng tiền nhà là nhà băng nó lấy nhà ngay. Ba má hiểu cho tụi con thì mới sống được.”
Còn nói gì nữa. Đêm, hai bộ xương già ôm nhau khóc. Bà cụ: “Biết vậy ở Việt Nam cho xong”. Xong đâu được với ba thằng Cộng sản. Nhà cửa ruộng vườn của nhà nước lâu rồi. Trẻ còn sức lao động, làm thí mạng không đủ ăn, huống chi già. Con cái nó gửi thùng quà về cũng đau lòng lắm. Có chút hơi hám quà Mỹ là anh em, mẹ con, thân quyến cũng lừa đảo, trở thành kẻ thù của nhau. Thì cộng sản nó muốn cả nước như vậy, cứ để ý dòm ngó nhau, để nó tiện bề cai trị, dễ bề vơ vét. Dễ ẹc.
Tiếng thở dài trong đêm khuya của ông từ hồi đó như còn kéo dài tới bây giờ. Hồi nãy, khi ngồi bên mộ bà cụ, thắp nhang, ông có lâm râm khấn và nói chuyện với bà: “Bà đi trước mà sướng, bà có biết không? Còn tui, mới thiệt là côi cút, trơ trọi.” Ông nhìn thấy ở dãy mộ bên cạnh, một người đàn ông Mỹ đặt bó hoa lên một mộ bia. Ông cũng mủi lòng lắm. Nhiều lần, đã tính dừng chân lại ở ngoài ngã tư, có một thanh niên Mễ đứng bán hoa, muốn mua. Chỉ có ý định, rồi thôi. Hoa hòe là lối tình tự thời còn trẻ trung. Ở đây, bà đã khô héo mà chết, bỏ ông đơn độc ở xứ lạ quê người. Tình già nó kỳ cục lắm. Ông đã không giận bà bỏ ông mà đi trước khỏe re thì thôi, còn đặt một bó hoa lên để cám ơn chắc? Nghĩ vậy thôi, ông cụ cũng thấy lòng bần thần ân hận, còn một ẩn ức khác trong đời ông, ông dấu bà mãi.
“Bà cứ ngồi đại xuống đi. Còn phải chờ lâu. Bà ngó gì mà ngó hoài vậy?”
Tiếng Việt. Ông ngẩng lên nhìn. Đúng là hai bà cháu rồi. Thảo nào cô cháu phải nói tiếng Việt. Bọn con nít ở đây quên tiếng mẹ đẻ hết trơn. Vô một nhà toàn mũi tetï da vàng, ăn cơm thì phải có rau muống mà con nít chỉ rặt nói bằng tiếng Mỹ, còn cha mẹ ông bà thì ngồi như phỗng đá. Ông cụ đang có cảm tình với đứa cháu nhỏ này đây. Bà cụ, người ở đâu mà trông phương phi quá. Người như thế này, lúc trẻ đẹp phải biết. Coi cái kiểu ké né ngồi xuống, tuy không có vạt áo dài để vén sang một bên, bà cụ vẫn còn giữ nết na thời con gái. Quần đen, áo tơ màu lam sáng, có thêu những cánh hoa nhỏ đồng màu, sang mà giản dị, bà cụ có một dáng dấp thanh nhã, dễ gây cảm tình.
Chỗ bà cụ ngồi sát phía bên ngoài, một chỗ ngồi thì rộng mà hai chỗ thì chật cứng, nên cô cháu đứng. Bà cụ cũng cứ nhích trách xa, sợ đụng chạm với người ngồi chung. Mỗi lần né xích, môi bà cụ mỉm cười như muốn lời xin lỗi. Ông cụ đoán chừng bà cụ này mới từ Việt Nam qua, thấy mắt nhìn còn tò mò, còn nhiều ngạc nhiên, làm gì không biết.
“Ở đây đi đường không như bên nhà nghe ngoại. Muốn qua đường phải chờ đèn xanh, đi đúng lằn vạch, mà phải đi thật mau. Đi qua đường ngoài lằn vạch là bị phạt, mà xe đụng chết còn phải bồi thường cho người đụng xe nữa đó ngoại.”
“Xứ gì mà kỳ. Trên đường hoãn xe, để cho người ta đi băng qua, nội một chỗ qua đường cũng muốn xuội chân rồi.”
“Luật là luật. Xứ Mỹ người đông như kiến, ai muốn làm gì thì làm là loạn. Với lại đi ra đường, ngoại đừng nhìn lung tung. Đi trong parking cũng cẩn thận, xe ra vô ào ào. Ở xứ Mỹ này, phải có bốn con mắt, hai con mắt nhìn không đủ gì hết.”
“Ờ, thì cũng phải một thời gian ngoại mới quen. Ngoại có hai con mắt mà mắt già rồi cũng như đui, cháu.”
Bà cụ nói chuyện ngộ quá. Không phải ông cụ vì có cảm tình mà nói đại đâu. Anh chàng Mỹ đen nghe không hiểu ất giáp gì hết trơn mà cũng ngó ngó hai bà cháu nói chuyện. Chỉ có người đàn bà Mễ là cứ nhìn mông lung ở đâu, trong mắt đầy vẻ nôn nóng. Đàn bà mà, họ có ưa nhau bao giờ đâu. Ông cụ nghĩ vậy.
“Con không có nhiều thì giờ đưa ngoại đi đây đó đâu. Con còn đi học, đi làm. Mai mốt ngoại phải tập đi xe bus, đi đâu ngoại đi phải đi một mình. Ngoại cũng phải biết sơ tiếng Mỹ mới đi ra đường một mình được.”
“Học ba cái tiếng Mỹ, thôi con ơi, cái đầu của ngoại không còn chỗ nào để nhét vô nữa hết.”
Ông cụ muốn bật cười. Ngộ thiệt là ngộ. Cái lối nói chuyện này sao đối với ông chẳng xa lạ gì. Ông đã có nghe. Trong đời, gặp gỡ, quen biết, giao thiệp, đàn bà cũng đếm không hết, chắc giọng nói này cũng đã có trong số đó. Người giống người cũng có. Giọng giống giọng cũng có. Vậy mà lạ chưa, ông cứ bị kéo về cái giọng, cái vẻ của bà cụ.
Chờ một lúc cho bà cụ với đứa cháu gái hết chuyện nói, ông mới hỏi han:
“Chị ở Việt Nam mới qua phải không?”
“Dạ. Mới qua, bác.”
“Ở bên, người ta qua cũng đông. Mà ở đây về bển cũng đông, phải không chị?”
“Dạ. Việt Kiều người ta về đông lắm. Thôi mua nhà cửa, làm ăn hà rầm.”
“Vậy sao chị không ở bển mà qua đây làm chi? Ở đây, chị biết rồi đó, tuổi già như mình nó buồn lắm.”
“Dạ thì cũng biết vậy. Nhưng nhà tui có năm đứa con, đều ở nước ngoài hết. Hai đứa ở Mỹ, một đứa ở Úc, một Canada, còn thằng út thì được tàu Na Uy vớt, bác. Tui ở bển một mình cũng không được.”
“À, ra vậy. Xin lỗi chị, ở bển, chị ở vùng nào?”
“Sài gòn, bác.”
“Cũng xin lỗi nữa, trước quê chị ở đâu?”
“Đà Lạt, bác. Nói là Đà Lạt, nhưng chỗ chính là Tùng Nghĩa. Ông bà già có trại rẫy ở đó.”
Ông cụ hơi giật mình. Đà Lạt rồi Tùng Nghĩa. Cả hai nơi đều vừa nhắc nhở ông, và giòng máu gần khô đặc trong người ông vừa loãng ra, tỏa nhiệt. Còn bà cụ, như có người để khơi dậy thời trẻ trung, vui vẻ tiếp:
“Hồi đó tui lên Đà Lạt học. Được vài năm, có chuyện bỏ học về dưới ở. May chỉ hai ba tháng, dọn về Sàigòn, mua nhà cửa rồi ở luôn. Năm đứa con khai sanh ở Sài Gòn hết, bác. Quên hỏi bác, ở bên nhà, bác người vùng nào?”
Ông cụ mắt còn sáng lắm mà bỗng hấp hem. Hai bàn tay giật giật. Bà cụ tươi cười hỏi tiếp:
“Bác cũng người Sàigòn?”
“Hồi trẻ tui cũng ở Đà Lạt. Tui là học trò trọ học. Sau đó đi tùm lum, bôn ba lắm, chị.”
Bà cụ quay người lại nhìn ông cụ chăm chú:
“Hỏi không phải, hồi đó bác có học trọ ở căn biệt thự Hoa Hồng không?”
Không có con kiến nào cắn mà ông cụ cũng nhổm đít lên một chút. Khuôn mặt ông cụ gầy gò mà xanh quá, khó biết ông cụ có xúc động gì không. Bà cụ hỏi xong, nghiêm mặt chờ câu trả lời.
“À không. Nhưng tui biết khu nhà trọ đó. Tui cũng thường tới lui chơi với bạn hữu. Chị cũng trọ học ở đó à?”
Bà cụ chớp mắt, một thời xa xưa kéo màn mây vẩn đục.
“Tui trọ ở nhà bà con, nhưng tui biết ngôi biệt thự đó. Người ta đồn có ma.”
“Cái gì. Ở đâu ma, ngoại?”
Đứa cháu gái nãy giờ ngóng xe bus tới, giật mình, hỏi. Mắt con bé tròn vo. Bà cụ cười.
“À, ngoại nói chuyện hồi trước, khi ngoại mới lớn. Xưa rồi.”
Cô cháu gái nhíu mày, tiếp tục ngóng phía đầu đường vẻ nôn nóng sốt ruột. Ông cụ ngồi im lặng một hồi lâu, ra điều suy nghĩ lung lắm, rồi quay sang bà cụ:
“Xin lỗi, hồi đó chị có biết một người tên là Nụ Hồng không?”
Bà cụ khi không nắm hai bàn tay lại, bà cụ ngó ông cụ, trong đôi mắt bà, dĩ vãng như vừa lóe sáng.
“Dạ xin lỗi, ông anh đây là…có phải…?”
Ông cụ lại bị kiến cắn, muốn nhẩy nhổm:
“Dạ chị có tưởng nhầm tui với ai không? Bị hồi đó nội cái tên Nụ Hồng cũng đủ các cậu hâm mộ rồi, không có thi hoa hậu mà mọi người đều ngấm ngầm bầu người đẹp là hoa khôi… đó chị.”
Bà cụ cúi mặt:
“Dạ, nhưng tiếc không phải là tui. Tui là bạn chơi rất thân của Nụ Hồng. Bây giờ còn chắc cũng đầu bạc răng long hết rồi ông anh à.”
“Vâng, thời gian mà chị. Xin lỗi ông anh có sang Huê Kỳ không?”
“Dạ không. Tui còn một mình.” Bà cụ cười, hơi nghiêm mặt.
Chiếc xe buýt đồ sộ dừng lại. Đứa cháu gái kéo tay bà cụ dẫn lên xe, người đàn bà Mễ tranh bước trước. Người đàn ông da đen lễ phép nhường bà cụ. Ông cụ lên xe sau cùng. Trên xe họ ngồi cách nhau một ghế. Phía sau, ông cụ nhìn tới, thấy nguyên cái đầu tóc trắng như cước của bà cụ. Ông cụ lắc đầu, nuốt nước bọt. Không thể lầm được đâu. “Em à, cái nụ cười của em, trăm năm sau có gặp, anh vẫn nhận ra”.Tệ quá, mình đã có lỗi với bà ấy, suốt trong cuộc sống vợ chồng êm ấm, nhiều lúc mình đã lẫn lộn nụ cười của vợ là của Nụ Hồng.
Xin lỗi. Bàn tay ông vẫn đặt trên đầu gối, bỗng lại rung lên. Chiếc xe buýt đang chạy băng băng. Trời chiều muộn vì nắng, còn ngập ngừng chưa muốn tắt. Trong đôi mắt đục, lờ đờ, bỗng xa xôi đầy hình bóng kỷ niệm.
. . .
Mưa xối xả. Nước từ trời dội xuống, chia thành hai nhánh, chảy xiết như hai dòng suối nhỏ ở hai lề đường. Chiều mùa đông Đà Lạt, thường bị mưa và bóng tối nuốt rất sớm. Những tàng thông xanh đang biến dạng thành những chùm bóng bí mật, dọa dẫm. Đường phố như không còn ai, chỉ có hai người. Họ đang đi lên con dốc dẫn tới biệt thự Hoa Hồng. Cả hai cùng mặc áo mưa màu sậm nên càng lẫn trong bóng chiều xẫm màu.
“Hai chân em như đang ngâm trong nước. Nó sắp tê cóng hết rồi, anh. Thích quá.”
Họ là một cặp trai gái, người con trai cao hơn cô gái nhiều. Họ đi sát vào nhau. Cô gái trông càng thấp hơn vì đi phía bên trong. Quần xắn cao, chân đi guốc gỗ, đang lội trong dòng nước chảy ngược xuống dốc.
“Em đừng nghịch nước nữa. Thấy không, bắn ướt hết anh rồi.”
“Không sao. Ướt mát.”
“Thôi mà, bé. Anh đang rét run lên đây.”
“Bộ anh lạnh lắm hả? Tội anh quá. Anh đi sát vào em đi. Ấm. Ấm chưa.”
“Ái chà. Em lừa anh. Ác.”
Cô gái cười ròn tan. Tiếng nước bắn tóe lẹt xẹt. Chiều trốn vội vàng không báo trước. Cả hai chìm mất trong bóng tối.
“Anh. Em không thấy đường đi. Tối thui à.”
“Đi bằng mắt của anh. Níu tay anh, đừng sợ.”
“Mưa hoài. Chắc mưa suốt đêm quá.”
“Anh mong vậy. Mưa suốt đêm.”
Hai người đi lên gần hết con dốc. Họ dừng lại trước một khối đen khổng lồ. Nhìn kỹ lắm, mới thấy có vài đốm lửa lung linh, tòa biệt thự và cây cối nổi lờ nhờ. Họ đứng sát vào nhau. Cơn mưa vẫn ào ạt dữ dội.
“Em vào với anh nhé? Vào một chút, anh pha cà phê.”
“Muộn quá. Em sợ…”
“Mưa mà. Em về nhà trọ trễ đâu có sao. Nói trú mưa.”
“Chỉ uống một ly cà phê thôi nghe.”
“Không đủ thì giờ để anh hong suối tóc cho em. Tóc em ướt hết nè.”
Người thanh niên đẩy chiếc cổng gỗ. Một tiếng kêu khô khốc, chìm lỉm mất trong tiếng rào rạt của mưa. Cô gái rùng mình, đeo cứng chàng trai. Con đường đá, trơn trượt, họ dìu nhau thận trọng từng bước một. Chưa có một cơn mưa nào dữ dội, cộc cằn mà dễ thương như cơn mưa đêm nay.
Ngọn đèn nhỏ trên bàn học tỏa chiếu ánh sáng vàng đục, không đủ soi hết căn phòng trọ. Họ có hai ly cà phê nóng và họ ngồi ngó nhau… Lâu lắm, người thanh niên mới kéo được cô gái vào vòng tay ôm của mình. Lúc cả hai ngồi trên chiếc giường nhỏ, cô gái khóc.
. . .
Cô gái vùng vằng ném nụ hồng lên mặt cỏ xanh, ngồi trên phiến đá và quay lưng lại. Cô khóc. Họ giận nhau đã một tuần lễ và mới gặp lại nhau chiều nay. Chàng đã làm lành bằng cách mua một nụ hồng đem lại cho nàng. Nhưng nàng vẫn không nguôi. Hoa hoét gì nữa. Lòng dạ nàng đang mê man đây. Cái đêm mưa gió quỷ quái hơn tháng trước đã để lại một hậu quả không lường tính được. Khi nghe người yêu báo tin, chàng đã như bị sét đánh, ngất ngư.
“Phải làm sao bây giờ, anh?”
Chàng cà lăm luôn:
“Anh… anh…anh…”
“Anh không biết phải tính sao phải không?”
Nàng cắn môi muốn bật máu, cố nén tiếng nấc.
“Được, em thu xếp lấy.”
Mấy lần gặp gỡ, khóc lóc, gây gổ, dỗ dành. Lần này này, coi bộ đến hồi quyết liệt.
“Em hãy cho anh thời gian để tính. Gia đình anh ở xa, khi nghe tin chắc khó chấp nhận.”
“Mình bỏ thành phố này trốn đi… ”
“Em biết anh không có tiền. Mỗi tháng gia đình gửi tiền ăn, hoc vừa đủ. Làm thế nào mình nuôi nhau?”
“Em đi làm. Người ta sống được mình sống được. Anh biết đó, gia đình em đã nhận lời xin cưới của đằng trai, mà xin cưới gấp vì anh ấy phải đổi về Sàigòn. Anh cứ lần lữa hoài. Em biết, anh chỉ lợi dụng… ”
Cô gái chà hai chiếc dép xuống cỏ. Con suối lượn lờ chảy trước mặt cô an lành. Nước trong đến có thể soi mặt được, còn lung linh hai khuôn mặt chập chờn bên nhau những lần hẹn hò trước.
“Em hiểu cho anh. Để anh viết thư về xin nhà… ”
“Nhà anh? Thôi khỏi đi. Anh biết chắc không được mà còn xin?”
“Má anh rất khó… ”
“Má. Má. Anh lớn rồi, sao chuyện gì cũng má… Anh im đi. Biết vậy sao còn… ”
Cô gái nấc lên, đưa tay ôm lấy mặt. Gió vùng lên cùng cơn giận của cô, đẩy một quả thông rơi tỏm xuống giòng suối. Nước nhăn mặt bất bình. Chàng thanh niên ngẩng mặt nhìn bầu trời đang muốn mưa. Mưa nữa! Đứng như trời trồng. Đứng như cây cối.
Hồi lâu, cô gái đã dịu cơn khóc. Cô rút chiếc khăn tay nhỏ xíu trong chiếc ví da, lau nước mắt. Mắt cô đỏ hoe, đã hiện ra nhiều tia gân máu đỏ li ti của nhiều đêm thao thức. Cô đứng lên, từ tốn đến trước mặt chàng thanh niên, thở ra một hơi dài cho vơi bớt khí uất trong người, nói:
“Thôi, để em tự giải quyết. Anh không xứng đáng để em oán trách. Ba má ở Tùng Nghĩa mới lên hôm qua. Em tính hôm nay hẹn anh để anh gặp ba má em. Bây giờ không cần nữa. Bây giờ thì em biết, em hiểu rồi. Anh chỉ là một thằng hèn. Anh hèn lắm. Anh biết không?”
“Em. Anh rất yêu em… anh có thể vì em mà… ”
“Hừ, anh còn tính nói hươu nói vượn gì thế? Thôi, anh để tôi tự thu xếp lấy đời tôi… ”
Cô gái lại nấc lên. Hai tay lùa vào bấu mớ tóc. Bầu trời cau mặt sa sầm xuống. Vài giọt mưa bắt đầu rơi. Chàng thanh niên khổ não nhìn người yêu. Mặt nàng ướt đẫm lệ. Anh đưa tay lên, không biết để làm gì, lại buông thõng xuống. Anh đã câm.
Bầu trời biến đổi đột ngột, quằn quại tiếng ì ầm của cơn giông. Lòng cô gái cũng giông bão. Cô nghiến răng, quắc mắt. Định nhảy tới cắn xé kẻ phụ tình chăng? Không, chỉ tội nụ hoa hồng bị gót dép của cô chà nát bét. Nụ hồng, như tên cô, như cô, cùng tan nát. Mưa bắt đầu nặng hột. Chàng trai nhìn khuôn mặt người yêu. Anh đau đớn kêu: “Nụ Hồng”. Nước mưa muốn xóa những giọt lệ không ngừng trên mặt cô, sũng ướt cả quần áo. Chàng thanh niên nhào lại, muốn ôm, muốn hôn, muốn gật đầu liều lĩnh cùng sống chết. Nhưng cô gái đã xoay người, bỏ chạy và biến mất trong cơn mưa ào ào, hung dữ. Chàng thanh niên đuổi theo. Trong mưa, tiếng gọi “Nụ Hồng. Nụ Hồng” không ngớt. Tiếng gọi càng lúc càng nghẹn ngào, vô vọng, chìm lỉm.
“Tha thứ cho anh. Nụ Hồng. Thằng hèn hạ. Khốn nạn, ma cô, ma cạnh, khốn nạn. Tha thứ cho anh!”
Chàng thanh niên quỳ trên cỏ ướt. Chàng khóc. Nước mắt cùng nước mưa, bất tận.
…
Một buổi tối khác, trong khu vườn đầy đặc cây cối, bên ngoài cánh cửa sổ đóng kín, chàng thanh niên nép mình trong bóng tối, nghe tiếng người yêu la khóc. Mỗi lần tiếng roi quất vụt rít lên, chàng thanh niên lại đưa tay lên miệng cắn chặt.
“Con gái mất nết. Đánh chết mày cũng chưa hết tội. Đồ ngựa vía. Voi dầy. Mày có nghe lời không?”
“Đau quá má ơi. Con lạy má. Con nghe rồi. Xin má đừng bắt con làm điều đó. Con sẽ không sống nỗi đâu… Má nói gì con cũng nghe, bảo lấy ai con cũng lấy, nhưng đừng… con sợ lắm má ơi.”
“Biết sợ? Thôi đi cô. Cô bôi tro trát trấu lên mặt mẹ cha rồi còn gì nữa. Được. Ngày mai về dưới, làm đám cưới liền, không học hành gì nữa. Trời ơi, sao mày quá quắt, sao mày… mày chết đi. Chết đi… ”
“Ôi, đau quá má ơi. Con biết rồi. Má nói gì con cũng nghe. Đám cưới. Dạ. Ôi, đau. Dạ, con bằng lòng, bằng… lòng”
Giọng cô gái yếu dần như sắp tắt hơi:
“Má bảo gì cũng được, con chỉ xin đừng bắt con làm điều đó. Má giết con cũng được, con đáng tội chết má ơi… ”
“Được, muốn chết thì cho chết. Lì lợm. Này lì. Lì… ”
Hôm sau, chàng trai ra bến xe đợi. Thấy nàng lên xe đò cùng cha mẹ. Nàng có trông thấy mình không? Chắc có. Chàng trai ra bờ suối, nơi nàng dẫm nát nụ hồng. Không còn dấu vết gì, cơn mưa hung dữ ngày nọ đã xóa hết. Dòng suối lạnh lùng như không còn biết chàng ta là ai. Chàng ngồi trên phiến đá cho tới lúc đêm xuống.
Hai tháng, sau ngày cưới, vì phải lên Đà Lạt, thu dọn đồ đạc để theo chồng đi xa, họ có gặp nhau. Cả hai đều xơ xác, nàng mới xẩy thai, còn chàng, đêm không ngủ, ngày biếng ăn, hốc hác, tiều tụy. Người thanh niên nhanh nhẹn, đầy sức sống, mới đây, tâm tính đã thay đổi hẳn. Thâm trầm, cay chua. Họ nhìn nhau nhiều hơn là nói. Lúc chia tay, chàng hỏi nàng:
“Em còn oán anh không?”
Nàng lắc đầu. Nụ cười buồn:
“Bây giờ thì em đã bình tĩnh lại rồi, nhất là khi em mất đứa nhỏ, em cảm thấy không còn mất mát nào lớn hơn, không có chuyện nào làm em khổ hơn được nữa.”
“Anh mong em hạnh phúc. Quên anh đi.”
Nàng gật đầu. Vẫn nụ cười buồn. Chàng nói thêm:
“Em à… Nụ cười của em, trăm năm sau có gặp lại, anh vẫn nhận ra.”
Nàng lại gật đầu. Vẫn bộ dạng quay đầu để hất mái tóc đẹp bớt lòa xòa xuống trán.
Họ phải chia tay nhau vì chẳng có lời gì để nói thêm. Chàng lầm lũi bước trên đường một mình, có cảm tưởng như tất cả bước chân của chàng, của nàng, của kỷ niệm cùng thức dậy, đang nhịp bước theo.
Chàng trai hát nhỏ bài Chiều của Hồ Dzếnh:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vương trong mây…
Mây Đà Lạt mùa đông thường thấp, nên vướng chung nỗi buồn với người. Vườn hồng nhà ai xơ xác, tiêu điều qua trận mưa gió đêm qua. Không còn một nụ hồng nào nữa.
….
Chuyện xưa, hồi tưởng, nhanh như cái chớp mà người xưa tóc bạc trắng vẫn còn giữ nguyên được nụ cười. Ông cụ nao lòng quá. Bà ấy đâu còn nhận ra mình là ai? Lời thốt năm xưa, dù trăm năm sau, gặp lại ông vẫn nhận ra nụ cười của bà. Bà ấy làm sao biết được, bao năm rồi, những lần nhìn những nụ hồng, lòng ông vẫn bồi hồi. Những sinh nhật của con cháu, nến, những bó hồng tươi thắm, lúc nào cũng lẫn lộn một nụ hồng của riêng ông. Nụ hồng nhỏ bé, ngậm tăm, chỉ héo úa đi, không bao giờ nở.
Thay vì thở ra, ông cụ nuốt xuống. Ông cụ nhìn bàn tay nhăn nheo của mình rồi nhìn mái tóc bạc của cụ bà ngồi phía trước. Thời gian kinh khiếp làm sao. Mới ngày nào, tay này đây, vuốt ve mái tóc còn đen dày, xõa dài xuống lưng. Coi nào. Ông cụ lắc đầu. Tóc bà ấy chỉ còn lưa thưa, mà trên đỉnh đầu còn hói nữa. Chà, vẫn thói quen làm dáng ngày nào, còn cố kéo mớ tóc uốn loăn xoăn che khoảng da đầu muốn lộ ra. Áo quần vẫn những màu sắc thanh nhã. So với các bà cụ khác, bà cụ Nụ Hồng của ông vẫn còn gọn thon, chưa có chỗ nào trên thân thể phì nhiêu một cách quá đáng.
Bà nhà mình khi về chiều không được như vậy đâu, cụ bà cứ nung núc thịt, nhất là khi sang đến Mỹ, bà cụ cứ tròn vo, ngắn dần đi. Chỉ tới lúc sắp bỏ ông mà đi, thì lại gầy chỉ còn da với xương. Lúc nãy cụ cũng ngắm rồi, người xưa, tuy già, cách đứng, dáng đi vẫn còn thong dong lắm.
“Đến trạm này, mình xuống, bà. Bà cố nhớ nghe bà, lần sau bà đi một mình… ”
“Chẳng nhớ. Bà thấy đường nào, chỗ nào cũng giống y chang nhau. Đi một mình là lạc tới đâu kìa…”
Ông cụ lại nuốt nữa. Tội không, khi trẻ lạc đường tình rồi, nay già, thêm cái khờ khạo lạc đường phố nữa. Chưa bao giờ ông thấy xe buýt chạy nhanh quá vậy. Vèo một cái, chiếc xe đã táp vô lề đường. Hành khách vội vã xuống trạm. Khi ngang qua, bà cụ có nhìn, gật đầu chào. Ông cụ đã sửa soạn câu nói văn vẻ về một nụ cười, nhưng lýnh quýnh có mở miệng ra được đâu. Cho tới khi chỉ còn nhìn thấy cái lưng của bà cụ, ông mới thốt ra lời:
“Bà cụ ơi, một trăm năm sau… ”
Ông cụ chỉ nói tới chừng đó lại tắt ngang họng. Cô cháu gái đi sau lưng bà cụ quay lại nhìn ông cụ, ngơ ngác. Bà ấy có nhìn lui không? Không, nhưng rõ ràng ông thấy bà khựng lại, và cô cháu đẩy lưng bà, kêu:
“Đi xuống nhanh, bà ơi. Sao bà đứng giữa lối đi vậy?”
Trên xe buýt cũng có đàn kiến chắc. Ông cụ nhỏm lên. Ông nhìn phía cửa sổ xuống đường, không thấy gì hết. Cho tới khi xe chạy ông cũng không nhìn thấy gì hai bên đường. Cái xứ gì kỳ cục, chiếc xe buýt làm vừa to vừa cao. Bực mình.
Một anh chàng da đen đã ngồi vào ghế bà cụ lúc nãy. Anh ta dúi mặt vào tờ báo đọc lấy đọc để.
Xe chạy qua mấy trạm nữa, ông cụ nhắm mắt, ngủ gà ngủ gật. Tuổi già nó tệ vậy, khi nào buồn là thấy ngay cơn buồn ngủ.
_____________
HOÀNG THANH TRUC * MẬU THÂN HUẾ
Những Con Tắc Kè Ảo Vọng
Khác với thông lệ, năm nay tìm đỏ con mắt trên các giai phẩm Báo Xuân không còn thấy bóng dáng hào hùng của vị Anh Hùng dân tộc Quang Trung Hoàng Đế oai phong lẫm liệt trong chiến bào trên lưng tuấn mã, vung gươm chỉ huy ba quân trong ngày đầu Xuân, Bắc Tiến đại phá quân tàu (MãnThanh) xâm lược, giãi phóng Thăng Long thành, ngược lại người ta đọc thấy trên bốn số báo Tuổi Trẻ/tp/HCM liên tiếp (hôm nay 8/1 đăng kỳ 4) có cái tựa “Sinh viên Huế tuyên chiến” trong hồi ký nhiều kỳ mang tên Huế – Những Tháng Ngày Sục Sôi của tác giả Nguyễn Đắc Xuân kể lại việc tham gia cùng sinh viên và phật tử miền trung tổ chức chống đối chính quyền VNCH và cố TT Ngô Đình Diệm.
Thật lòng thì rất nhiều, nếu không muốn nói đa phần người trong nước hiện nay không rõ lắm về “ất giáp” của quá khứ này, vì thời gian như lớp bụi phủ mờ và một số đông nhân vật có biết và liên quan sự kiện ấy đang định cư ở nước ngoài. Nhưng qua các chi tiết thuật lại trong hồi ký, chắc hiện nay nhiều người cũng phải thầm “cảm ơn tác giả” đả phát thảo lại cho lớp người trẻ hôm nay thấy và hiểu được như thế nào là quyền “Tự Do” ngôn luận, thể hiện chính kiến của xã hội miền Nam lúc bấy giờ, để tự hỏi, không biết nó có “gấp vạn lần” Tự Do thể hiện chính kiến trong cái thể chế CSXHCN hôm nay chưa? ( nói cho gần với ẩn dụ của bà PCT/ nước Nguyễn thị Doan ) và đến bây giờ qua lời tự thuật ấy, chắc tác giả Nguyễn Đắc Xuân sẽ rất hài lòng để xoa tay tự hào “mình đã góp một phần công lao” cho một cuộc cách mạng Phật Giáo, để bất cứ Chùa Chiềng nào trong cả nước hiện nay cũng phải có một “chi bộ đảng” hay tối thiểu, ít nhất, cũng có một hai “đảng viên thượng tọa” giám sát việc tụng kinh gõ mõ cho nó thêm nồng nàn câu kinh: “yêu Phật Pháp là yêu XHCN”. Và vì vậy chúng ta cũng nên biết qua tác giả Nguyễn Đắc Xuân là ai? để nếu bất chợt có gặp nhau giữa chợ đời mà ngưỡng mộ…. “điểm mặt” với nhau.
– Đắc Xuân! thú vị thật, cái tên thể hiện sự đắc chí viên mãn, thủ đắc được trong mùa Xuân, không biết đó có phải là nhân duyên tiền định,tiền ngộ gì không ? mà ông là một trong những nhân vật nổi bật trong biến cố mùa Xuân Mậu Thân 1968 tại cố đô Huế được đề cập trong Hồi Ký “Giải Khăn Sô Cho Huế” của nữ văn sĩ Nhã Ca, một cây viết gốc Huế đầy uy tín, được nhiều người yêu mến trong văn học Miền Nam Sài gòn trước kia. Và chắc bà con gốc “Thần Kinh” Huế trong và ngoài nước những ngày này bên cạnh “Huế, những tháng ngày sục sôi” thì cũng thầm “cảm ơn” tác giả Nguyễn Đắc Xuân qua bài hồi ký ấy đã nhắc nhỡ mọi người cũng sắp đến Tết rồi cùng nhau sữa soạn cho đám giỗ hơn 8000 vong linh người thân, nhân dân bị tàn sát trong Xuân Mậu Thân để cho: “Huế…Những Ngày Không Thể Nào Quên…”
“Rất tiếc khi vào Googel gỏ tìm tư liệu, thì hầu hết các danh mục, dù có tiêu đề giới thiệu về Nguyễn Đắc Sơn nhưng xuất phát từ Hải Ngoại đều bị chận lại với “Server not found” (trang,máy chủ không tìm thấy ? còn từ trong nước viết thì thoải mái ?? ). Phải “vượt lửa leo tường” thì mới đọc được những gì cần và đáng đọc về nhân vật này… và sở dĩ dưới đây phải giới thiệu nhà văn Nhã Ca vì trong Hồi Ký: Giải Khăn Sô Cho Huế, bà đã chỉ ra nhân vật Nguyễn Đắc Xuân là ai ?
Trên trang Blogs: Viet Land (Hồi Ký Giải Khăn Sô Cho Huế) của nhà văn nữ Nhã Ca http://www. vietlandnews. net/forum/showthread. php/5523- nguyen dac xuan toi do giet nhan dan Huê.
Nhã Ca
|
Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960-1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ,bút ký và tiểu thuyết. Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền CSVN giam cải tạo hai năm vì tội “biệt kích văn hóa” ?. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ thì bị giam cải tạo 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc Tế phối hợp với hội Ân Xá Quốc Tế và thủ tướng Thụy Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News.
Phim Đất Khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, là một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng– Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Tác phẩm dịch ra ngoại ngữ: Đêm nghe tiếng đại bác đã được dịch sang tiếng Pháp với tựa Le cannon tonnent la nuit, Đoàn nữ binh mùa thu được Barry Hilton dịch sang tiếng Anh với tựa The Short Timers, Phim “Đất Khổ” được hãng Remis phát hành với tên Land of Sorrows (Wikipedia).
Trong Văn Học Miền Nam (quyển “Thơ Miền Nam”), nhà văn Võ Phiến đã nhận định về Nhã Ca như sau: “…Tự do, bà thích nói đến tiếng ấy: tự do trong thể xác, trong đời mình. Và văn chương bà, dù là văn chương viết về tuổi trẻ, vẫn trĩu nặng ưu tư. Nghệ thuật của bà là cuộc đời trước mặt. Ở bà, cá nhân là chính trị, là xã hội. Bà có chân dung đầy góc cạnh nhọn, như những bức tranh của Braque, của Picasso. Nhã Ca là một nhà văn độc lập và bất khuất, bà cũng là một tiêu biểu rõ rệt nhất cho nền văn chương nhân bản của miền Nam trong thời kỳ 1954-1975 ”. ( Wikipedia ).
Sau tết Mậu Thân 1968.. . đến năm 1969 nhà văn Nhã Ca đã cho ra đời Bút ký: “Giải Khăn Sô Cho Huế” và được trao giải thưởng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu (1970), mới đây tháng 2-2008, sách mới “Giải Khăn Sô Cho Huế” ấn bản đầu tiên tại hải ngoại do Việt Báo ấn hành, sách dày 640 trang, khổ lớn, bìa cứng và đã phát hành tại Mỹ. Cuốn sách là hình ảnh sống động miên tả lại hầu như toàn cảnh của biến cố tết Mậu Thân. Vì tác giả của nó trực tiếp sống và bị cuốn theo dòng chảy của những ngày xảy ra chiến sự gây nên nổi tang tóc kinh hoàng mà lịch sử và nhân dân Huế không thể nào quên…
“Cám ơn Thầy Từ Thái, một nhân chứng sống, một tăng thân tu học ở chùa Tây Thiên vào thời điểm xẩy ra biến cố Mậu Thân, đã khẳng định xác nhận những ghi chép của nhà văn Nhã Ca trong hồi ký “Giải Khăn Sô cho Huế” là hoàn toàn đúng với sự thật
Xin kính chuyển đến quý Anh Chị nhân mùa Đại-Tang-Tết-Mậu-Thân-Huế”
(Nguyễn Đắc Xuân, ảnh trong hồi ký Giải Khăn Sô Cho Huế )
Nguyễn Đắc Xuân (trái) Hoàng P. Ngọc Tường (phải) liên quan mật thiết đến cái chết hơn 8000 ngàn người dân Huế trong biến cố đau thương “Tết Mậu Thân 1968 (trích Giải khăn Sô Cho Huế : Nữ văn sĩ Nhã Ca ) VietLan Blogs.
Nhã Ca: Hồi Ký Giải Khăn Sô Cho Huế (trích đoạn liên quan Nguyễn Đắc Xuân):
“Nguyễn Đắc Xuân, một sinh viên Huế. Thập niên 60 trong phong trào thanh
niên sinh viên bị Việt Cộng nằm vùng giật giây, Nguyễn Đắc Xuân làm
thơ, tranh đấu, rồi bỏ vào khu theo Việt Cộng. Để rồi MÙA XUÂN 1968 theo
Việt Cộng trở lại Huế có mặt trong những phiên tòa nhân dân, kêu án tử
hình hàng loạt người dân Huế với tội “phản cách mạng”. Đích thân Xuân
đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích với Xuân từ trước, ra
đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Nguyễn Đắc Xuân, tên Tý, dơ cái băng
đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Nguyễn Đắc Xuân :
– Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm…
Nhưng mặc Tý năn nỉ, hoan hô, Nguyễn Đắc Xuân vẫn lạnh lùng nổ súng vào người bạn nhỏ của mình không chút đằng đo…”
Thư của Đặng Văn Âu, bạn thân từ Hải ngoại gửi cho Nguyễn Đắc Xuân (Trích đoạn):
“…Bây giờ mày hãy trả lời câu hỏi chót của tao, trước khi tao trả lời câu hỏi của mày viết trong email gửi cho tao. Có bao giờ mày chứng kiến những người dân chạy nạn trong các cuộc giao tranh giữa hai bên mà họ bỏ chạy về phía“vùng giải phóng” của Việt Cộng không? Hay là họ chạy về phía Ngụy bọn tao? Nếu mày bảo có thì mày giống Hoàng Phủ Ngọc Tường, nói dối như Vẹm. Nếu mày bảo không hề thấy nạn nhân chiến tranh chạy qua “vùng giải phóng Việt Cộng” mà mày cho rằng mày theo Việt Cộng là làm nghĩa vụ lịch sử thì tao không còn gì để nói với mày. Cái khác nhau giữa chế độ ở Miền Nam và ở Miền Bắc là: nếu mày bị An Ninh VNCH bắt thì tao dù chỉ là một Thiếu tá thôi, nhưng có thể ký giấy bảo lãnh cho mày ra tù. Nhưng nếu năm 1975 tao kẹt lại bị tù cải tạo thì “lão thành cách mạng” như Hùm Xám Đặng văn Việt cũng không thể bảo lãnh cho một thằng như tao. Tao sẽ bị bỏ xương nơi rừng thiêng núi thẳm vì cái tính không chịu khuất phục bẩm sinh. Mày nên hiểu, nếu Miền Nam áp dụng chế độ “công an trị” như Miền Bắc thì chẳng bao giờ những thứ như Ngô Bá Thành, Nhất Hạnh, Tôn thất Dương Tiềm, Tôn thất Dương Kỵ, Trí Quang, Nguyễn Ngọc Lan có đất sống! để sau năm 1975 múa may quay cuồng làm những con rối cho CS bắc Việt.
Về cuốn nhật ký của mày, tao được một Đại Úy VNCH cho biết quân đội Hoa Kỳ chuyển giao một số tài liệu Việt Cộng tịch thu được trong một cuộc hành quân lục soát, trong đó lại phát hiện có hồi ký mang tên Nguyễn Đắc Xuân. Nghe đến tên Nguyễn Đắc Xuân, tao liền nhớ đến thầy Lê văn Thi – nguyên giáo sư Lý Hóa trường Quốc Học – bị VC trong đoàn quân mà mày dẫn đường về Huế thảm sát trong Tết Mậu Thân là tao giận sôi gan lên rồi,tao không thèm tò mò đọc làm gì. Tao chỉ hỏi ông Đại Úy VNCH, Nguyễn Đắc Xuân viết cái gì trong hồi ký đó thì được ông ta cho biết mày tường thuật cuộc đánh bom B-52 và kêu lên hai tiếng “Mẹ ơi!” vì quá khiếp đảm.
Nguyễn Đắc Xuân ơi! Mày chọn lầm đường rồi! Chế độ dân chủ của Miền Nam hãy còn phôi thai, chưa phải là chế độ hoàn hảo vì vừa mới thoát ra khỏi bàn tay thực dân, thì bị bọn VC nằm vùng phá hoại và vì bị những hạng trí thức dở hơi toan tính theo đóm ăn tàn tiếp tay cho cộng sản Miền Bắc xâm lăng dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Giữa cái chưa tốt và cái tồi tệ, mày lại đi chọn cái tồi tệ nhất để cho tình trạng nước nhà hôm nay bị suy đồi về mọi mặt từ đạo đức đến giá trị con người. Miền Bắc xâm lăng Miền Nam để hiến toàn cõi đất nước cho Trung Cộng, chứ giải phóng, thống nhất cái quái gì?
Những gì tao viết ở trên, mày đừng nghĩ tao chửi mày. Tao thương mày vì sự mê muội của mày và tao giận mày vì sự ngoan cố của mày tới giờ này mà chưa tỉnh ngộ! Những người đi làm “cách mạng” với mày, năm xưa xúi mày biểu tình đốt tòa Lãnh sự Mỹ giờ trốn biệt đâu hết rồi ? Sao ngày nay mày không tập hợp lại để tái lập chiến đoàn quyết tử Nguyễn Đại Thức, để đốt tòa Đại sứ Trung Cộng như năm xưa hăng say chống Mỹ cứu nước? Những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng đang bán nước cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc mà sao không thấy nhà “cách mạng”sinh viên nào đăng đàn như năm xưa đọc diễn văn đả đảo quân phiệt Thiệu Kỳ ? Khí thế “cách mạng” bị “đảng ta” nghiền cho nát hết rồi sao? Trương Tấn Sang, người Việt gốc Tầu, mới viết bài cương quyết chống “diễn biến hòa bình” để Việt Nam được sáp nhập vào nước Tầu, mày đã đọc chưa?
Thư viết cho mày đến đây đã khá dài. Hẹn mày thư sau. Nhắc lại, tao không chửi mày. Tao chỉ nói sự thật. Hãy cố gắng mở mắt to ra mà nhìn cho hết sự thật trên đất nước ngày nay ra sao.
Bằng Phong Đặng văn Âu, người bạn học thân thiết năm xưa của mày. [Đàn Chim Việt]
Nhiều người am hiểu sự việc nói trên, mỗi khi có ai nhắc đến, họ tủm tỉm cười nhớ đến câu chuyện “con Tắc Kè”. Sinh ra lớn lên trong rừng cây,bốn mùa xanh tốt, thay đỗi màu da di truyền cho thích nghi với rừng lá, trên ngọn cây, con tắt kè nhìn ra biển cát một màu trắng xóa mênh mông mơ mộng, chỉ phải duy nhất một lần thay đổi màu da và trong cơn bão cát bất chợt, nó nhắm mắt tung mình cho gió cuốn đi,cuốn đi vào biển cát, nó bừng tỉnh trong hoang vắng như sa mạc, nắng nung người và giá buốt đêm thâu, không có lấy một chiếc lá che thân, nó không thể thay một màu da duy nhất để hóa trang lẫn tránh kẻ thù,và biển cát cũng không dung nạp nó vì cái màu loang lỗ trên thân, nó cô đơn trong tuyệt vọng thất thểu mơ về một rừng lá xôn xao…
– Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm… Hồ chủ tịch muôn năm…
Nhưng mặc Tý năn nỉ, hoan hô, Nguyễn Đắc Xuân vẫn lạnh lùng nổ súng vào người bạn nhỏ của mình không chút đằng đo…”
Thư của Đặng Văn Âu, bạn thân từ Hải ngoại gửi cho Nguyễn Đắc Xuân (Trích đoạn):
“…Bây giờ mày hãy trả lời câu hỏi chót của tao, trước khi tao trả lời câu hỏi của mày viết trong email gửi cho tao. Có bao giờ mày chứng kiến những người dân chạy nạn trong các cuộc giao tranh giữa hai bên mà họ bỏ chạy về phía“vùng giải phóng” của Việt Cộng không? Hay là họ chạy về phía Ngụy bọn tao? Nếu mày bảo có thì mày giống Hoàng Phủ Ngọc Tường, nói dối như Vẹm. Nếu mày bảo không hề thấy nạn nhân chiến tranh chạy qua “vùng giải phóng Việt Cộng” mà mày cho rằng mày theo Việt Cộng là làm nghĩa vụ lịch sử thì tao không còn gì để nói với mày. Cái khác nhau giữa chế độ ở Miền Nam và ở Miền Bắc là: nếu mày bị An Ninh VNCH bắt thì tao dù chỉ là một Thiếu tá thôi, nhưng có thể ký giấy bảo lãnh cho mày ra tù. Nhưng nếu năm 1975 tao kẹt lại bị tù cải tạo thì “lão thành cách mạng” như Hùm Xám Đặng văn Việt cũng không thể bảo lãnh cho một thằng như tao. Tao sẽ bị bỏ xương nơi rừng thiêng núi thẳm vì cái tính không chịu khuất phục bẩm sinh. Mày nên hiểu, nếu Miền Nam áp dụng chế độ “công an trị” như Miền Bắc thì chẳng bao giờ những thứ như Ngô Bá Thành, Nhất Hạnh, Tôn thất Dương Tiềm, Tôn thất Dương Kỵ, Trí Quang, Nguyễn Ngọc Lan có đất sống! để sau năm 1975 múa may quay cuồng làm những con rối cho CS bắc Việt.
Về cuốn nhật ký của mày, tao được một Đại Úy VNCH cho biết quân đội Hoa Kỳ chuyển giao một số tài liệu Việt Cộng tịch thu được trong một cuộc hành quân lục soát, trong đó lại phát hiện có hồi ký mang tên Nguyễn Đắc Xuân. Nghe đến tên Nguyễn Đắc Xuân, tao liền nhớ đến thầy Lê văn Thi – nguyên giáo sư Lý Hóa trường Quốc Học – bị VC trong đoàn quân mà mày dẫn đường về Huế thảm sát trong Tết Mậu Thân là tao giận sôi gan lên rồi,tao không thèm tò mò đọc làm gì. Tao chỉ hỏi ông Đại Úy VNCH, Nguyễn Đắc Xuân viết cái gì trong hồi ký đó thì được ông ta cho biết mày tường thuật cuộc đánh bom B-52 và kêu lên hai tiếng “Mẹ ơi!” vì quá khiếp đảm.
Nguyễn Đắc Xuân ơi! Mày chọn lầm đường rồi! Chế độ dân chủ của Miền Nam hãy còn phôi thai, chưa phải là chế độ hoàn hảo vì vừa mới thoát ra khỏi bàn tay thực dân, thì bị bọn VC nằm vùng phá hoại và vì bị những hạng trí thức dở hơi toan tính theo đóm ăn tàn tiếp tay cho cộng sản Miền Bắc xâm lăng dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Giữa cái chưa tốt và cái tồi tệ, mày lại đi chọn cái tồi tệ nhất để cho tình trạng nước nhà hôm nay bị suy đồi về mọi mặt từ đạo đức đến giá trị con người. Miền Bắc xâm lăng Miền Nam để hiến toàn cõi đất nước cho Trung Cộng, chứ giải phóng, thống nhất cái quái gì?
Những gì tao viết ở trên, mày đừng nghĩ tao chửi mày. Tao thương mày vì sự mê muội của mày và tao giận mày vì sự ngoan cố của mày tới giờ này mà chưa tỉnh ngộ! Những người đi làm “cách mạng” với mày, năm xưa xúi mày biểu tình đốt tòa Lãnh sự Mỹ giờ trốn biệt đâu hết rồi ? Sao ngày nay mày không tập hợp lại để tái lập chiến đoàn quyết tử Nguyễn Đại Thức, để đốt tòa Đại sứ Trung Cộng như năm xưa hăng say chống Mỹ cứu nước? Những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng đang bán nước cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc mà sao không thấy nhà “cách mạng”sinh viên nào đăng đàn như năm xưa đọc diễn văn đả đảo quân phiệt Thiệu Kỳ ? Khí thế “cách mạng” bị “đảng ta” nghiền cho nát hết rồi sao? Trương Tấn Sang, người Việt gốc Tầu, mới viết bài cương quyết chống “diễn biến hòa bình” để Việt Nam được sáp nhập vào nước Tầu, mày đã đọc chưa?
Thư viết cho mày đến đây đã khá dài. Hẹn mày thư sau. Nhắc lại, tao không chửi mày. Tao chỉ nói sự thật. Hãy cố gắng mở mắt to ra mà nhìn cho hết sự thật trên đất nước ngày nay ra sao.
Bằng Phong Đặng văn Âu, người bạn học thân thiết năm xưa của mày. [Đàn Chim Việt]
Nhiều người am hiểu sự việc nói trên, mỗi khi có ai nhắc đến, họ tủm tỉm cười nhớ đến câu chuyện “con Tắc Kè”. Sinh ra lớn lên trong rừng cây,bốn mùa xanh tốt, thay đỗi màu da di truyền cho thích nghi với rừng lá, trên ngọn cây, con tắt kè nhìn ra biển cát một màu trắng xóa mênh mông mơ mộng, chỉ phải duy nhất một lần thay đổi màu da và trong cơn bão cát bất chợt, nó nhắm mắt tung mình cho gió cuốn đi,cuốn đi vào biển cát, nó bừng tỉnh trong hoang vắng như sa mạc, nắng nung người và giá buốt đêm thâu, không có lấy một chiếc lá che thân, nó không thể thay một màu da duy nhất để hóa trang lẫn tránh kẻ thù,và biển cát cũng không dung nạp nó vì cái màu loang lỗ trên thân, nó cô đơn trong tuyệt vọng thất thểu mơ về một rừng lá xôn xao…
Hoàng Thanh Trúc
DU TỬ LÊ * NHÃ CA
Nhân
cách văn chương và, nhân cách đời thường, Nhã Ca,
Du Tử Lê
Du Tử Lê
Nói về nhân cách một nhà văn (tiếng chỉ chung: nhà văn và nhà thơ,) tôi luôn nghĩ họ có nhiều hơn một nhân cách.
Nhân cách thứ nhất: Nhân cách văn chương (chỉ tài năng nhà văn).
Và, nhân cách thứ hai: Nhân cách đời thường.
Về nhân cách văn chương của Nhã Ca thi sĩ, Nhã Ca nhà văn, thì nó đã là một nhân cách rực rỡ. Ðã định hình. Bất khả chuyển.
Riêng nhân cách đời thường, nơi Nhã Ca, với tôi, cũng là một nhân cách đáng trân trọng.
Kinh nghiệm trong đời thường cho chúng ta rất nhiều thí dụ cụ thể về những cá nhân tạo, đạt được những thành tựu đáng kể trong văn chương. Nhưng nhân cách đời thường ở họ, lại là con đường nghịch chiều. Một hướng đi, một ngã rẽ khác.
Ngay với những tài năng lớn, được thực chứng bởi những sản phẩm nghệ thuật giá trị, nhưng trong đời thường, họ lại có một nhân cách khác.
Ðó là thứ nhân cách phản ảnh cái tâm đố kỵ. Ganh ghét. Thủ đoạn... Hoặc đó là cái tâm chật hẹp với tinh thần phe phái. Cục bộ. Ðịa phương. Khoanh vùng. Một thứ nhân cách ấp, xã với tinh thần Lý trưởng hoặc Chánh tổng...
Trước thực trạng này, sinh thời, cố Thi sĩ Nguyên Sa từng chỉ danh đó là cái tinh thần “phe ta”. “Ðảng ta”. “Vùng đất ta”. Hoặc “quần thần, đàn em ta”... hiển hách. Ngoại giả là cỏ rác. Phải dẹp bỏ. Chặt đầu!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi mãi nhớ hình ảnh một “buổi họp kín.” Diễn ra trong phòng âm u trong ngôi nhà sau cùng trên đường Tự Do, Saigòn, của cặp vợ chồng nhà thơ, nhà văn Nhã Ca/Trần Dạ Từ.
Nhà văn Mai Thảo kể, đó là “buổi họp” đầu tiên và cũng là cuối cùng (?)cực kỳ nghiêm trọng giữa nhà văn Nhã Ca với 5 người con của bà.
Buổi họp nhằm đi tới “biểu quyết”:
- Có đồng ý cho bác Mai Thảo tạm trú một thời gian, giữa lúc bác đang bị săn lùng ráo riết bởi chính quyền Cộng Sản?
Mỗi lần nhớ lại hình ảnh 5 bàn tay nhỏ xíu cùng hăng hái, dứt khoát dơ lên trong tình cảnh tai họa có thể ập xuống bất cứ lúc nào, trên mái đầu những trẻ thơ này, tôi không khỏi bùi ngùi. Cảm phục.
Tôi vẫn nghĩ không thể khi không, không thể tự nhiên có được cùng lúc, 5 bàn tay bé xíu dơ lên, trong một quyết định đầy nguy nan như vậy.
Tôi nghĩ đến ảnh hưởng hay giáo dục của bà mẹ. Người sinh ra những đứa trẻ đồng lòng dơ tay “biểu quyết” cho bác Mai Thảo được trốn trong nhà mình (khi mà người cha của chúng là nhà thơ Trần Dạ Từ, còn đang dật dờ trôi từ nhà tù này tới nhà tù khác. Khi mà chính người mẹ của chúng, cũng từng chịu cảnh từ đầy hơn một năm bởi chế độ mới, hiện còn bị theo dõi ngày đêm...).
Dù một nách 5 con nhỏ, nhưng tác giả “Yêu một nhà văn” vẫn chưa bao giờ bỏ qua một kỳ phép được thăm nuôi chồng.
Về những chuyến đi thăm nuôi nhà thơ Trần Dạ Từ, cố nhà văn Mai Thảo, trong tác phẩm “Chân Dung 15 nhà văn, nhà thơ Việt Nam”, do nhà sách Văn Khoa, Calif., xuất bản năm 1985, viết lại theo lời kể của một người từng đi chung với Nhã Ca, như sau:
“...Chuyến đi cho nhìn thấy tất cả những vất vả dọc đường. Cho nhìn thấy cuộc sống điêu đứng hiện giờ của Nhã Ca ở Saigòn sau đại nạn 1975. Cho nhìn thấy sự can trường lạ lùng của bà, một mình giữa cơn hồng thủy (...)”
“Một chiếc xe nhỏ ọp ẹp, khởi hành lúc 5 giờ sáng ở bên xe Petrus Ký. Ðồ thăm nuôi chất đầy. Mọi người ngồi chen chúc, ngộp thở. Ai nấy đều mệt mỏi, ủ rũ, riêng chị Nhã là người mạnh mẽ nhất. Chị đùa cợt cho vui dọc đường, săn sóc tất cả mọi người. Xe tới rừng lá Phan Thiết đã bể bánh. Phải ngưng lại một đêm. Mọi người xuống xe nằm ngủ ngay bên vệ đường với đêm rừng lạnh buốt. Riêng Nhã Ca thức, bó gối ngồi tới sáng. Chiều hôm sau mới tới Nha Trang. Lại một màn gối đất nằm sương ở bến xe, khiến mọi người mệt lả cơ hồ không chịu đựng nổi nữa. Lượt đi tưởng độ hai ngày kéo dài tới bốn ngày ở dọc đường. Ngày hôm sau ra Qui Nhơn, từ Qui Nhơn đi Pleiku, xe lại hư máy nữa ở chân đèo Cả. Tài xế dở chứng đòi quay về Saigòn, chị Nhã năn nỉ mãi. Chị hò mọi người cùng đẩy xe lên con đèo cao ngất. Ðẩy năm bảy cây số tới ngang trại giam trên đường 19, đã xế chiều. Mọi người cùng phải khiêng vác nặng, đi lê lết qua ba cây số đường rừng mới tới trại. Thời gian cho gặp thân nhân chỉ có nửa giờ. Thấy chồng, chị Nhã xúc động ôm lấy và bị bọn cán bộ la lối chửi mắng là đã có cử chỉ sàm sỡ đồi trụy. Chị nín thinh, chịu đựng, ra khỏi trại mới chảy nước mắt (...)”
“Từ chỗ ẩn lánh của mình, nghe chuyện về Nhã Ca, Nhã Ca trong đổi đời, trong giông bão, về những ngày tù đầy của Nhã Ca ở Phan Ðăng Lưu, về những chuyến thăm nuôi Trần Dạ Từ, tấm lòng son sắt thủy chung, tôi không sao kìm giữ được xúc động...”
Chỉ trong cương vị người nghe kể lại, không thực sự trông thấy, càng không là người tham dự chuyến đi nuôi chồng của Nhã Ca, nhưng tác giả “Chuyến tàu sông Hồng” đã không thể không thú nhận rằng, ông “không sao kìm giữ được xúc động”!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi cho rằng, tôi cũng sẽ rất không phải, nếu không nhắc tới sự kiện nhà văn này, đã dùng tiền tác quyền, một tác phẩm của mình, làm giải thưởng cho những luận án tiến sĩ y khoa. Mặc dù, điều này, tôi cũng chỉ mới được biết gần đây, qua bài viết của ký giả Tường Vi:
Trên những đặc san cuối năm do Ðại Học Y Khoa Huế xuất bản, trong phần tin tức, thường có loan báo “luận án tiến sỹ y khoa đoạt ‘giải thưởng Nhã Ca’ hàng năm. Ðây là một giải thưởng được thiết lập từ năm 1969 và do chính nữ văn sỹ Nhã Ca bảo trợ. Khoản tiền dùng cho giải thưởng này chính là tác quyền cuốn ‘Giải khăn sô cho Huế’ một bút kỳ nổi tiếng của nhà văn nữ này, viết về biến cố Mật Thân tại Huế.”
Ngày 23 tháng chạp năm Mùi (1967) đang sống ở Sàigòn, Nhã Ca nhận được điện tín của gia đình từ Huế gọi về chịu tang thân phụ của bà vừa từ trần. Bảy ngày sau, cuộc tổng công kích Tết Mật Thân bùng nổ, và nhà văn nữ này, ngoài cái tang gia đình, đã phải chịu cái tang chung cho cả thành phố bị tàn phá.
“Những điều tai nghe mắt thấy trong hơn hai tháng lưu lạc trong biến cố tết Mậu Thân tại Huế được Nhã Ca viết lại thành tác phẩm ‘Giải khăn sô cho Huế’ và toàn bộ tác quyền đầu tiên của cuốn sách nổi tiếng này được dành tặng cho Huế. Một phần góp vào việc cho trường nữ trung học Ðồng Khánh. Một phần được trao tặng cho Ðại Học Y Khoa Huế, và vị khoa trưởng y khoa Huế thời đó là bác sỹ Bùi Duy Tâm đã dùng khoảng tiền này để thiết lập một giải thưởng mệnh danh là ‘giải thưởng Nhã Ca’ dành cho luận án tiến sỹ y khoa xuất sắc nhất hàng năm.”
Ðến đây, tôi không thấy cần thiết phải kể thêm, dẫn chứng thêm về nhân cách đời thường của tác giả “Ðoàn nữ binh mùa thu”.
Tự thân đời sống bà, những năm tháng nắng, mưa những thời gian huy hoàng và, bão tố... đã nói đủ, nói hơn những gì chữ nghĩa tôi, có thể vươn tới.
Cạnh đó, tôi nghĩ, dù muốn hay không, đã 35 năm trôi qua. Thời gian với bản chất cần mẫn (đôi khi đáng nguyền rủa của nó), vẫn lặng lẽ làm công việc không ai khiến, chẳng ai nhờ!
Ðó là sự khép miệng những vết chém. Chà mỏng những đường sẹo. Lấp đi những phần khuyết...
Nhưng điều nó không làm được, theo tôi, dù cho nó có thêm bao nhiêu cái 35 năm nữa, đó là:
- Nhân cách đời thường của nhà văn Nhã Ca.
Nhân cách này cũng tựa một dòng chảy khác. Một dòng chảy song song với nhân cách văn chương rực rỡ của bà. Một người làm thơ, viết văn tên là Nhã Ca/Trần Thị Thu Vân.
Du Tử Lê
(Tháng Tư 2010)
II
Nói về nhân cách một nhà văn (tiếng chỉ chung: nhà văn và nhà thơ,) tôi luôn nghĩ họ có nhiều hơn một nhân cách.
Nhân cách thứ nhất: Nhân cách văn chương (chỉ tài năng nhà văn).
Và, nhân cách thứ hai: Nhân cách đời thường.
Về nhân cách văn chương của Nhã Ca thi sĩ, Nhã Ca nhà văn, thì nó đã là một nhân cách rực rỡ. Ðã định hình. Bất khả chuyển.
Riêng nhân cách đời thường, nơi Nhã Ca, với tôi, cũng là một nhân cách đáng trân trọng.
Kinh nghiệm trong đời thường cho chúng ta rất nhiều thí dụ cụ thể về những cá nhân tạo, đạt được những thành tựu đáng kể trong văn chương. Nhưng nhân cách đời thường ở họ, lại là con đường nghịch chiều. Một hướng đi, một ngã rẽ khác.
Ngay với những tài năng lớn, được thực chứng bởi những sản phẩm nghệ thuật giá trị, nhưng trong đời thường, họ lại có một nhân cách khác.
Ðó là thứ nhân cách phản ảnh cái tâm đố kỵ. Ganh ghét. Thủ đoạn... Hoặc đó là cái tâm chật hẹp với...
... tinh thần phe phái. Cục bộ. Ðịa phương. Khoanh vùng. Một thứ nhân cách ấp, xã với tinh thần Lý trưởng hoặc Chánh tổng...
Trước thực trạng này, sinh thời, cố Thi sĩ Nguyên Sa từng chỉ danh đó là cái tinh thần “phe ta”. “Ðảng ta”. “Vùng đất ta”. Hoặc “quần thần, đàn em ta”... hiển hách. Ngoại giả là cỏ rác. Phải dẹp bỏ. Chặt đầu!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi mãi nhớ hình ảnh một “buổi họp kín.” Diễn ra trong phòng âm u trong ngôi nhà sau cùng trên đường Tự Do, Saigòn, của cặp vợ chồng nhà thơ, nhà văn Nhã Ca/Trần Dạ Từ.
Nhà văn Mai Thảo kể, đó là “buổi họp” đầu tiên và cũng là cuối cùng (?)cực kỳ nghiêm trọng giữa nhà văn Nhã Ca với 5 người con của bà.
Buổi họp nhằm đi tới “biểu quyết”:
- Có đồng ý cho bác Mai Thảo tạm trú một thời gian, giữa lúc bác đang bị săn lùng ráo riết bởi chính quyền Cộng Sản?
Mỗi lần nhớ lại hình ảnh 5 bàn tay nhỏ xíu cùng hăng hái, dứt khoát dơ lên trong tình cảnh tai họa có thể ập xuống bất cứ lúc nào, trên mái đầu những trẻ thơ này, tôi không khỏi bùi ngùi. Cảm phục.
Tôi vẫn nghĩ không thể khi không, không thể tự nhiên có được cùng lúc, 5 bàn tay bé xíu dơ lên, trong một quyết định đầy nguy nan như vậy.
Tôi nghĩ đến ảnh hưởng hay giáo dục của bà mẹ. Người sinh ra những đứa trẻ đồng lòng dơ tay “biểu quyết” cho bác Mai Thảo được trốn trong nhà mình (khi mà người cha của chúng là nhà thơ Trần Dạ Từ, còn đang dật dờ trôi từ nhà tù này tới nhà tù khác. Khi mà chính người mẹ của chúng, cũng từng chịu cảnh từ đầy hơn một năm bởi chế độ mới, hiện còn bị theo dõi ngày đêm...).
Dù một nách 5 con nhỏ, nhưng tác giả “Yêu một nhà văn” vẫn chưa bao giờ bỏ qua một kỳ phép được thăm nuôi chồng.
Về những chuyến đi thăm nuôi nhà thơ Trần Dạ Từ, cố nhà văn Mai Thảo, trong tác phẩm “Chân Dung 15 nhà văn, nhà thơ Việt Nam”, do nhà sách Văn Khoa, Calif., xuất bản năm 1985, viết lại theo lời kể của một người từng đi chung với Nhã Ca, như sau:
“...Chuyến đi cho nhìn thấy tất cả những vất vả dọc đường. Cho nhìn thấy cuộc sống điêu đứng hiện giờ của Nhã Ca ở Saigòn sau đại nạn 1975. Cho nhìn thấy sự can trường lạ lùng của bà, một mình giữa cơn hồng thủy (...)”
“Một chiếc xe nhỏ ọp ẹp, khởi hành lúc 5 giờ sáng ở bên xe Petrus Ký. Ðồ thăm nuôi chất đầy. Mọi người ngồi chen chúc, ngộp thở. Ai nấy đều mệt mỏi, ủ rũ, riêng chị Nhã là người mạnh mẽ nhất. Chị đùa cợt cho vui dọc đường, săn sóc tất cả mọi người. Xe tới rừng lá Phan Thiết đã bể bánh. Phải ngưng lại một đêm. Mọi người xuống xe nằm ngủ ngay bên vệ đường với đêm rừng lạnh buốt. Riêng Nhã Ca thức, bó gối ngồi tới sáng. Chiều hôm sau mới tới Nha Trang. Lại một màn gối đất nằm sương ở bến xe, khiến mọi người mệt lả cơ hồ không chịu đựng nổi nữa. Lượt đi tưởng độ hai ngày kéo dài tới bốn ngày ở dọc đường. Ngày hôm sau ra Qui Nhơn, từ Qui Nhơn đi Pleiku, xe lại hư máy nữa ở chân đèo Cả. Tài xế dở chứng đòi quay về Saigòn, chị Nhã năn nỉ mãi. Chị hò mọi người cùng đẩy xe lên con đèo cao ngất. Ðẩy năm bảy cây số tới ngang trại giam trên đường 19, đã xế chiều. Mọi người cùng phải khiêng vác nặng, đi lê lết qua ba cây số đường rừng mới tới trại. Thời gian cho gặp thân nhân chỉ có nửa giờ. Thấy chồng, chị Nhã xúc động ôm lấy và bị bọn cán bộ la lối chửi mắng là đã có cử chỉ sàm sỡ đồi trụy. Chị nín thinh, chịu đựng, ra khỏi trại mới chảy nước mắt (...)”
“Từ chỗ ẩn lánh của mình, nghe chuyện về Nhã Ca, Nhã Ca trong đổi đời, trong giông bão, về những ngày tù đầy của Nhã Ca ở Phan Ðăng Lưu, về những chuyến thăm nuôi Trần Dạ Từ, tấm lòng son sắt thủy chung, tôi không sao kìm giữ được xúc động...”
Chỉ trong cương vị người nghe kể lại, không thực sự trông thấy, càng không là người tham dự chuyến đi nuôi chồng của Nhã Ca, nhưng tác giả “Chuyến tàu sông Hồng” đã không thể không thú nhận rằng, ông “không sao kìm giữ được xúc động”!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi cho rằng, tôi cũng sẽ rất không phải, nếu không nhắc tới sự kiện nhà văn này, đã dùng tiền tác quyền, một tác phẩm của mình, làm giải thưởng cho những luận án tiến sĩ y khoa. Mặc dù, điều này, tôi cũng chỉ mới được biết gần đây, qua bài viết của ký giả Tường Vi:
Trên những đặc san cuối năm do Ðại Học Y Khoa Huế xuất bản, trong phần tin tức, thường có loan báo “luận án tiến sỹ y khoa đoạt ‘giải thưởng Nhã Ca’ hàng năm. Ðây là một giải thưởng được thiết lập từ năm 1969 và do chính nữ văn sỹ Nhã Ca bảo trợ. Khoản tiền dùng cho giải thưởng này chính là tác quyền cuốn ‘Giải khăn sô cho Huế’ một bút kỳ nổi tiếng của nhà văn nữ này, viết về biến cố Mật Thân tại Huế.”
Ngày 23 tháng chạp năm Mùi (1967) đang sống ở Sàigòn, Nhã Ca nhận được điện tín của gia đình từ Huế gọi về chịu tang thân phụ của bà vừa từ trần. Bảy ngày sau, cuộc tổng công kích Tết Mật Thân bùng nổ, và nhà văn nữ này, ngoài cái tang gia đình, đã phải chịu cái tang chung cho cả thành phố bị tàn phá.
“Những điều tai nghe mắt thấy trong hơn hai tháng lưu lạc trong biến cố tết Mậu Thân tại Huế được Nhã Ca viết lại thành tác phẩm ‘Giải khăn sô cho Huế’ và toàn bộ tác quyền đầu tiên của cuốn sách nổi tiếng này được dành tặng cho Huế. Một phần góp vào việc cho trường nữ trung học Ðồng Khánh. Một phần được trao tặng cho Ðại Học Y Khoa Huế, và vị khoa trưởng y khoa Huế thời đó là bác sỹ Bùi Duy Tâm đã dùng khoảng tiền này để thiết lập một giải thưởng mệnh danh là ‘giải thưởng Nhã Ca’ dành cho luận án tiến sỹ y khoa xuất sắc nhất hàng năm.”
Ðến đây, tôi không thấy cần thiết phải kể thêm, dẫn chứng thêm về nhân cách đời thường của tác giả “Ðoàn nữ binh mùa thu”.
Tự thân đời sống bà, những năm tháng nắng, mưa những thời gian huy hoàng và, bão tố... đã nói đủ, nói hơn những gì chữ nghĩa tôi, có thể vươn tới.
Cạnh đó, tôi nghĩ, dù muốn hay không, đã 35 năm trôi qua. Thời gian với bản chất cần mẫn (đôi khi đáng nguyền rủa của nó , vẫn lặng lẽ làm công việc không ai khiến, chẳng ai nhờ!
Ðó là sự khép miệng những vết chém. Chà mỏng những đường sẹo. Lấp đi những phần khuyết...
Nhưng điều nó không làm được, theo tôi, dù cho nó có thêm bao nhiêu cái 35 năm nữa, đó là:
- Nhân cách đời thường của nhà văn Nhã Ca.
Nhân cách này cũng tựa một dòng chảy khác. Một dòng chảy song song với nhân cách văn chương rực rỡ của bà. Một người làm thơ, viết văn tên là Nhã Ca/Trần Thị Thu Vân.
Nhân cách thứ nhất: Nhân cách văn chương (chỉ tài năng nhà văn).
Và, nhân cách thứ hai: Nhân cách đời thường.
Về nhân cách văn chương của Nhã Ca thi sĩ, Nhã Ca nhà văn, thì nó đã là một nhân cách rực rỡ. Ðã định hình. Bất khả chuyển.
Riêng nhân cách đời thường, nơi Nhã Ca, với tôi, cũng là một nhân cách đáng trân trọng.
Kinh nghiệm trong đời thường cho chúng ta rất nhiều thí dụ cụ thể về những cá nhân tạo, đạt được những thành tựu đáng kể trong văn chương. Nhưng nhân cách đời thường ở họ, lại là con đường nghịch chiều. Một hướng đi, một ngã rẽ khác.
Ngay với những tài năng lớn, được thực chứng bởi những sản phẩm nghệ thuật giá trị, nhưng trong đời thường, họ lại có một nhân cách khác.
Ðó là thứ nhân cách phản ảnh cái tâm đố kỵ. Ganh ghét. Thủ đoạn... Hoặc đó là cái tâm chật hẹp với...
... tinh thần phe phái. Cục bộ. Ðịa phương. Khoanh vùng. Một thứ nhân cách ấp, xã với tinh thần Lý trưởng hoặc Chánh tổng...
Trước thực trạng này, sinh thời, cố Thi sĩ Nguyên Sa từng chỉ danh đó là cái tinh thần “phe ta”. “Ðảng ta”. “Vùng đất ta”. Hoặc “quần thần, đàn em ta”... hiển hách. Ngoại giả là cỏ rác. Phải dẹp bỏ. Chặt đầu!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi mãi nhớ hình ảnh một “buổi họp kín.” Diễn ra trong phòng âm u trong ngôi nhà sau cùng trên đường Tự Do, Saigòn, của cặp vợ chồng nhà thơ, nhà văn Nhã Ca/Trần Dạ Từ.
Nhà văn Mai Thảo kể, đó là “buổi họp” đầu tiên và cũng là cuối cùng (?)cực kỳ nghiêm trọng giữa nhà văn Nhã Ca với 5 người con của bà.
Buổi họp nhằm đi tới “biểu quyết”:
- Có đồng ý cho bác Mai Thảo tạm trú một thời gian, giữa lúc bác đang bị săn lùng ráo riết bởi chính quyền Cộng Sản?
Mỗi lần nhớ lại hình ảnh 5 bàn tay nhỏ xíu cùng hăng hái, dứt khoát dơ lên trong tình cảnh tai họa có thể ập xuống bất cứ lúc nào, trên mái đầu những trẻ thơ này, tôi không khỏi bùi ngùi. Cảm phục.
Tôi vẫn nghĩ không thể khi không, không thể tự nhiên có được cùng lúc, 5 bàn tay bé xíu dơ lên, trong một quyết định đầy nguy nan như vậy.
Tôi nghĩ đến ảnh hưởng hay giáo dục của bà mẹ. Người sinh ra những đứa trẻ đồng lòng dơ tay “biểu quyết” cho bác Mai Thảo được trốn trong nhà mình (khi mà người cha của chúng là nhà thơ Trần Dạ Từ, còn đang dật dờ trôi từ nhà tù này tới nhà tù khác. Khi mà chính người mẹ của chúng, cũng từng chịu cảnh từ đầy hơn một năm bởi chế độ mới, hiện còn bị theo dõi ngày đêm...).
Dù một nách 5 con nhỏ, nhưng tác giả “Yêu một nhà văn” vẫn chưa bao giờ bỏ qua một kỳ phép được thăm nuôi chồng.
Về những chuyến đi thăm nuôi nhà thơ Trần Dạ Từ, cố nhà văn Mai Thảo, trong tác phẩm “Chân Dung 15 nhà văn, nhà thơ Việt Nam”, do nhà sách Văn Khoa, Calif., xuất bản năm 1985, viết lại theo lời kể của một người từng đi chung với Nhã Ca, như sau:
“...Chuyến đi cho nhìn thấy tất cả những vất vả dọc đường. Cho nhìn thấy cuộc sống điêu đứng hiện giờ của Nhã Ca ở Saigòn sau đại nạn 1975. Cho nhìn thấy sự can trường lạ lùng của bà, một mình giữa cơn hồng thủy (...)”
“Một chiếc xe nhỏ ọp ẹp, khởi hành lúc 5 giờ sáng ở bên xe Petrus Ký. Ðồ thăm nuôi chất đầy. Mọi người ngồi chen chúc, ngộp thở. Ai nấy đều mệt mỏi, ủ rũ, riêng chị Nhã là người mạnh mẽ nhất. Chị đùa cợt cho vui dọc đường, săn sóc tất cả mọi người. Xe tới rừng lá Phan Thiết đã bể bánh. Phải ngưng lại một đêm. Mọi người xuống xe nằm ngủ ngay bên vệ đường với đêm rừng lạnh buốt. Riêng Nhã Ca thức, bó gối ngồi tới sáng. Chiều hôm sau mới tới Nha Trang. Lại một màn gối đất nằm sương ở bến xe, khiến mọi người mệt lả cơ hồ không chịu đựng nổi nữa. Lượt đi tưởng độ hai ngày kéo dài tới bốn ngày ở dọc đường. Ngày hôm sau ra Qui Nhơn, từ Qui Nhơn đi Pleiku, xe lại hư máy nữa ở chân đèo Cả. Tài xế dở chứng đòi quay về Saigòn, chị Nhã năn nỉ mãi. Chị hò mọi người cùng đẩy xe lên con đèo cao ngất. Ðẩy năm bảy cây số tới ngang trại giam trên đường 19, đã xế chiều. Mọi người cùng phải khiêng vác nặng, đi lê lết qua ba cây số đường rừng mới tới trại. Thời gian cho gặp thân nhân chỉ có nửa giờ. Thấy chồng, chị Nhã xúc động ôm lấy và bị bọn cán bộ la lối chửi mắng là đã có cử chỉ sàm sỡ đồi trụy. Chị nín thinh, chịu đựng, ra khỏi trại mới chảy nước mắt (...)”
“Từ chỗ ẩn lánh của mình, nghe chuyện về Nhã Ca, Nhã Ca trong đổi đời, trong giông bão, về những ngày tù đầy của Nhã Ca ở Phan Ðăng Lưu, về những chuyến thăm nuôi Trần Dạ Từ, tấm lòng son sắt thủy chung, tôi không sao kìm giữ được xúc động...”
Chỉ trong cương vị người nghe kể lại, không thực sự trông thấy, càng không là người tham dự chuyến đi nuôi chồng của Nhã Ca, nhưng tác giả “Chuyến tàu sông Hồng” đã không thể không thú nhận rằng, ông “không sao kìm giữ được xúc động”!
Nói về nhân cách Nhã Ca đời thường, tôi cho rằng, tôi cũng sẽ rất không phải, nếu không nhắc tới sự kiện nhà văn này, đã dùng tiền tác quyền, một tác phẩm của mình, làm giải thưởng cho những luận án tiến sĩ y khoa. Mặc dù, điều này, tôi cũng chỉ mới được biết gần đây, qua bài viết của ký giả Tường Vi:
Trên những đặc san cuối năm do Ðại Học Y Khoa Huế xuất bản, trong phần tin tức, thường có loan báo “luận án tiến sỹ y khoa đoạt ‘giải thưởng Nhã Ca’ hàng năm. Ðây là một giải thưởng được thiết lập từ năm 1969 và do chính nữ văn sỹ Nhã Ca bảo trợ. Khoản tiền dùng cho giải thưởng này chính là tác quyền cuốn ‘Giải khăn sô cho Huế’ một bút kỳ nổi tiếng của nhà văn nữ này, viết về biến cố Mật Thân tại Huế.”
Ngày 23 tháng chạp năm Mùi (1967) đang sống ở Sàigòn, Nhã Ca nhận được điện tín của gia đình từ Huế gọi về chịu tang thân phụ của bà vừa từ trần. Bảy ngày sau, cuộc tổng công kích Tết Mật Thân bùng nổ, và nhà văn nữ này, ngoài cái tang gia đình, đã phải chịu cái tang chung cho cả thành phố bị tàn phá.
“Những điều tai nghe mắt thấy trong hơn hai tháng lưu lạc trong biến cố tết Mậu Thân tại Huế được Nhã Ca viết lại thành tác phẩm ‘Giải khăn sô cho Huế’ và toàn bộ tác quyền đầu tiên của cuốn sách nổi tiếng này được dành tặng cho Huế. Một phần góp vào việc cho trường nữ trung học Ðồng Khánh. Một phần được trao tặng cho Ðại Học Y Khoa Huế, và vị khoa trưởng y khoa Huế thời đó là bác sỹ Bùi Duy Tâm đã dùng khoảng tiền này để thiết lập một giải thưởng mệnh danh là ‘giải thưởng Nhã Ca’ dành cho luận án tiến sỹ y khoa xuất sắc nhất hàng năm.”
Ðến đây, tôi không thấy cần thiết phải kể thêm, dẫn chứng thêm về nhân cách đời thường của tác giả “Ðoàn nữ binh mùa thu”.
Tự thân đời sống bà, những năm tháng nắng, mưa những thời gian huy hoàng và, bão tố... đã nói đủ, nói hơn những gì chữ nghĩa tôi, có thể vươn tới.
Cạnh đó, tôi nghĩ, dù muốn hay không, đã 35 năm trôi qua. Thời gian với bản chất cần mẫn (đôi khi đáng nguyền rủa của nó , vẫn lặng lẽ làm công việc không ai khiến, chẳng ai nhờ!
Ðó là sự khép miệng những vết chém. Chà mỏng những đường sẹo. Lấp đi những phần khuyết...
Nhưng điều nó không làm được, theo tôi, dù cho nó có thêm bao nhiêu cái 35 năm nữa, đó là:
- Nhân cách đời thường của nhà văn Nhã Ca.
Nhân cách này cũng tựa một dòng chảy khác. Một dòng chảy song song với nhân cách văn chương rực rỡ của bà. Một người làm thơ, viết văn tên là Nhã Ca/Trần Thị Thu Vân.
TRUYỆN THANH TÂM TUYỀN * DỌC ĐƯỜNG
Dọc Đường, Truyện Ngắn Thanh Tâm Tuyền
in Tuyển Văn
Tags: short story, văn
Thanh Tâm Tuyền nhìn bởi Đinh Cường
Thanh Tâm Tuyền
Ba người đàn ông ngồi quây xung quanh cái bàn gỗ tròn trong quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở hai bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc nhà, sát cạnh con đường đất xe hơi có thể vào, ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn dân vệ rào ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá và quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo kaki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa.
“Có lẽ tụi nó về hết rồi”. Ông già nói.
“Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về”.
“Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn gì? Thằng này điếm quá”.
“Ờ… tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới sau?”
Người vận quần áo kaki đỏ mặt cãi với ông già. Người vận áo lá quần xà lỏn nói:
“Ăn chung gì. Giờ mình chơi hết các thứ xe đi”.
“Đâu có được mày. Mắt tao nhìn không rõ. Xe ben chạy cà rề cà rề tao còn ngó thấy. Chớ bọn xe đò, xe nhà chạy giờ này nó chạy trối chết làm sao tao trông kịp”.
“Ai ăn lận tía mà tía sợ”.
Ông già lắc đầu:
“Tao không chơi nữa”.
Bà chủ quán mập bự, ngồi phía trong, nửa dòm vô trong nhà, nửa dòm ra trước, hỏi giọng khan như bị cúm:
“Nãy giờ cha nào ăn?”
“Huề. Không ai ăn thua hết”. Người đàn ông đội nón phân trần. Ông già xỏ dép, đứng lên thọc hai tay vô túi áo, móc tiền:
“Nè, trả tiền ly cà phê. Tao về cho sớm. Tối nay thế nào cũng có hành quân”.
Ông đặt mấy đồng bạc cắc lên bàn, bỏ ra theo phía hông quán, bước ngay xuống con đường đất đi sang phía rừng cao su, vòng vào một gốc cây ngoài bìa đứng tiểu. Tiếng nước chảy mạnh soi vào thân cây, người đội nón nghiêng đầu ngó là to:
“Ông già gân dữ quá ta”.
Người ngồi ngoài cũng chợt vểnh tai nghe ngóng. Tiếng ầm ì ở tít xa.
“Còn tao với mày hả?”
“Đâu có ngán”.
“Bài cào hay sóc đĩa?”
“Thứ nào cũng được. Cho mày lựa”.
Người vận áo lá vừa nhíu mày suy nghĩ vừa lắng nghe tiếng động. Khuôn mặt dài ốm nhăn nhó. Người đội nón dở chiếc nón xuống nghĩ dò xét kín đáo hơn, cặp mắt mơ màng nhìn vào những lối cao su thẳng tối. Ông già từ sau gốc cây bước ra đường cũng ngửa cổ nghe.
“Đậu cái này rồi về tía”. Người đội nón gạ gẫm.
“Tụi bay tuột dù hết rồi. Máy trực thăng đó”.
Hai người đàn ông còn ngồi trong quán ngó nhau. Người đàn bà cũng nói:
“Trực thăng thiệt”.
Vài phút sau, tiếng động cơ nổi rõ, tới gần. Chiếc trực thăng, bay sà thấp ngang qua quán, sang phía rừng cao su bên kia lộ, quần vài vòng lớn rồi trở lại hướng cũ. Ông già nhìn theo, cười khoái trá biểu: “Tao biểu mà”. Rồi ông bước đi. Con đường đất chạy men bìa rừng cao su dẫn tới một xóm lá lơ thơ. Buổi chiều vàng rực ở phía sau đồn dân vệ, nhưng phía rừng cao su xanh thẫm. Xuyên qua những gốc cây thẳng tắp đến cả hai cây số là một chút chói sáng của quãng lộ quẹo như rớt xuống ngang tầm đất. Hai người dân vệ từ trong lối xóm trở ra, chân mang giày bó túm ống quần bám sình và bụi đất; một người đeo súng hai tay bưng trên miệng nút vào chiếc lá tre non kêu chít chít từng hồi như tiếng chim, một người quàng hai tay trên hai đầu súng đặt ngang cần cổ ngó phía trước, cả hai đều mặc đồ đen đội những chiếc nón vải đen có lưỡi. Họ rẽ vào quán, dựng súng vô vách, ngồi vào chiếc bàn gỗ còn dư trống. Một người kêu người đàn ông vận áo lá:
“Còn nước đá không?”
Người sau này vẫn ngồi nguyên thế co chân, chỉ xoay nửa thân trên hỏi lại người đàn bà:
“Còn nước đá không mày?”
“Để coi. Chắc còn…”
Người đàn bà vác tấm thân nặng, lê bước vô sau bếp, lục cục tìm kiếm và hỏi ra ngoài:
“Mấy chú uống gì?”
“La de”.
Người dân vệ vẫn bưng tay lên miệng hút kêu những tiếng chít chít, trong khi người bạn ngó lên tấm vách trong có cái giá bầy các chai nước hơi màu xanh, màu đỏ, màu vàng, màu trắng, màu nâu, xếp dài theo tấm vách ván ám khói đen. Chỉ còn hai chai la de trên giá. Người đàn ông vận áo lá, chủ quán, nhăn mặt ngó chỗ khác vì tiếng nút kêu của người dân vệ. Người đàn ông đội nón liệng chiếc muỗng xuống bàn kêu lên:
“Cha. Lâu thấy mẹ”.
Người đàn bà mang hai cái ly đá chặt cục bự nhô khỏi miệng ly đặt trước mặt hai dân vệ, rồi lại ì ạch quay trở vô giá lấy nước. Mụ dùng răng cắn mở nút chai xong rồi cất tiếng hít hà, đưa cánh tay áo quẹt ngang mồm. Ly của người dân vệ tràn bọt sủi tròn xuống bàn. Anh ta buông tay, chiếc lá tre xanh nõn ép dính dọc theo ngón tay bên phải. Anh thủng thẳng lột chiếc lá liệng vào vũng nước trên bàn. Người bạn hỏi:
“Uống lẹ đi mày. Bọn chúng đi qua thấy về lại cằn nhằn”.
Người đàn ông đội nón bỏ ghế ra ngoài hè đứng ngó mông hai đầu đường vắng ngắt như tờ. Đằng chân trời trước mặt, tiếng phi cơ ầm ỳ rồi tắt lặng không thấy dáng. Cách quán hai ba nhà là tiệm sửa xe máy. Một người thợ liu hịu làm việc với chiếc xe máy lật chổng bánh lên trời. Người đội nón quay vô biểu:
“Tối nay về Biên Hòa ngủ. Còn cái sáu lẻ một mà”.
“Ờ, để coi”.
Hai người dân vệ uống cạn ly đứng lên sửa lại quần áo, đội mũ đeo súng, trả tiền sửa soạn bước ra khỏi quán. Người đàn bà vừa nhét tiền vô túi vừa nói với chồng:
“Có đi Biên Hòa coi chừng giùm tôi đó”.
Hai người dân vệ đi ra khỏi quán, tiến về phía đồn, dáng đi nghiêm chỉnh hơn. Người nút lá tre đi trước cách bạn chừng hai ba thước, cả hai đều quay dòm vô các mặt phố. Có tiếng gọi trong rào kẽm gai ở đồng và họ cất bước chạy lúp xúp. Trong quán người đàn bà nói, trong khi người chồng mở hộc tủ của cái bàn trên bày mấy ve bánh kẹo, chai tôm khô củ kiệu chỉ còn thấy nước đục vàng, kê bên dưới giá xếp nước, lấy tiền. Trên đầu người đàn ông treo tòn ten vào móc sắt hai nải chuối già và chuối sứ:
“Mấy cha chỉ bày chuyện đi chơi không à?”
Người đàn ông đi tới chiếc ghế bố đặt bên vách, nơi người vợ ngồi để vừa ngó phía sau phía trước, lượm áo sơ mi khoác lên thân, nói:
“Mầy không thấy trực thăng quần nãy giờ sao. Bộ mày muốn tao chết…”
“Còn tôi dễ không chết hả. Cứ đi hoài tiền đâu chịu cho thấu”.
“Tao là đàn ông mày nghe chưa? Ở nhà để lỡ như lần trước chúng vô bắt kéo thây về rừng cho chúng. Một mình tao phải kéo bốn cái thây mày nhớ không, cả đêm cả ngày tới chừng về phát đau còn bị người ta kêu lên kêu xuống hỏi hoài… Đ.m. thứ đồ đàn bà ngu!”
Người vợ kéo quần tới bắp vế gãi, mặt mụ đờ đẫn không còn phản ứng. Người đội nón trở vô quán nói tiếp:
“Máy bay quần là có chuyện mà…”
Người đàn ông chủ quán tỏ vẻ khinh bỉ vợ, bỏ vô sau rửa mặt, rửa chân, rồi thủng thẳng trở ra xỏ quần. Hai người đàn ông ra đứng trước quán. Trong rừng cao su nghe tiếng còi xe nhấn inh ỏi, hai ba chiếc xe đò đua nhau chạy tới. Dẫn đầu là một chiếc “bờ dô” mũi khoằm theo sau là hai xe cá. Chiếc “bờ dô” thắng ngay trước quán, hai chiếc xe cá vượt đi luôn. Người đàn ông chủ quán quay vô biểu vợ:
“Tao đi nghe mày”.
Người vợ nặng nề bước ra, dặn dò:
“Mai sáng về ghé chợ mua đồ về nghe”.
Người đàn ông mới dớm đặt chân lên thang phía sau xe, đợi bạn chui vô khoang nói:
“Đ.m. Nhớ mà”.
Người lơ chạy vô quán nói: “Xin miếng nước chị Hai”. Không đợi trả lời, thót vô sau nhà. Người tài xế nhấn còi thúc hối, ló đầu ra ngoài:
“Tính ngủ trong đó sao mày?”
Người lơ xe chạy ra mặt còn nhẫy nước, nhảy bám vào đuôi xe la lên:
“Rồi, chạy đi”.
Chiếc xe từ từ ngừng trước đồn dân vệ. Người lính gác trong chòi canh bắc loa tay kêu đuổi: “Tới trong kia đậu”. Chiếc xe chuyển bánh đi qua hết đoạn đường rào kẽm gai đậu trước quán hớt tóc. Người lơ nhảy xuống đất kêu vô trong:
“Xuống lẹ lên cha nội”.
Một người đàn ông tay ôm bọc giấy dầu, lom khom bước xuống. Tới đất, người đàn ông muốn trở lên, nói:
“Không phải đây…”
Người lơ đã bước lên bực gỗ đưa tay cản ngang:
“Vậy tía quên hay tía lầm đường rồi. Tía ráng đợi đây đón xe mà về. Chớ tôi cứ ngừng hoài đợi tía kiếm nhà tới đêm tụi tôi mới về tới nhà. Cô bác kêu quá trời”.
“Cho tôi đi khúc nữa”.
“Tía hết tiền rồi. Rồi, chạy đi”.
Chiếc xe rồ ga chạy vọt thẳng vào phía rừng cao su sẫm lạnh. Người đàn ông đứng lại bên đường ngơ ngác. Hắn vận đồ bà ba đen, chân đi săng đan, tóc cắt ngắn, mặt mũi gồ ghề xanh xao. Hắn ngửa mặt nhìn lên trời trông chiếc trực thăng từ phía rừng cao su bay tới. Tiếng nổ ù tai, cánh quạt bay cuốn bụi đất mù một khoảng; cỏ cây ngả rạp. Người lớn, con nít túa ra khỏi nhà ngắm coi, bọn con nít chạy băng ngang lộ tới đứng bên bãi cỏ, tiếng người kêu gọi bị gió và tiếng động cơ quạt bay tung mất hút. Chiếc trực thăng đáp xuống nhưng không tắt máy, nó đậu vài phút rồi lại từ từ cất lên và bay về hướng đồn dân vệ tránh xa quốc lộ. Trẻ con và người lớn còn đứng lại ngắm và bàn tán. Một vài người nhìn thấy người đàn ông vận bà ba đen ôm bọc giấy dầu đứng trước quán hớt tóc. Quán hớt tóc là một bức vách gỗ thùng sữa và hai cây cột ngoài, ba mặt bỏ trống. Trong quán không có người, thợ đã nghỉ, nhưng vẫn còn một chiếc ghế ngồi trước một tấm gương đóng chặt lên vách dưới tấm gương là một cái hộc gỗ buộc treo bằng dây kẽm, không có một vật dụng nào để trên. Người đàn ông ngó thấy mặt mình trong gương, con lộ, bãi cỏ, mộ đất cao xa mờ; hắn ngoảnh mặt bước tới quay lưng lại đồn dân vệ hướng về phía rừng cao su. Kế bên quán hớt tóc là một tiệm chạp phô của người Tàu tới một căn nhà ở đóng cửa, trên các cửa đóng dán những bích chương và khẩu hiệu tuyên truyền tới một tiệm trữ Âu dược, một tấm bảng gỗ treo ngang đong đưa với dấu thập đỏ. Qua khỏi tiệm trữ Âu dược là một nền nhà đổ rồi một khoảng đất vuông cao hơn mặt đồng trồng rau muống, làm chỗ họp chợ. Trên nền đất có vết cháy đen loang, cỏ vàng úa không mọc được. Sát chợ là nhà việc, mái thủng, tường lỗ chỗ vết đạn, các cửa sổ bể gãy, tấm bảng treo rớt chỉ còn một đầu dính trên tường, nhìn vào trong gạch ngói bừa bãi chưa thu dọn. Nhà kế bên nhà việc cũng bị sập mái trước. Khỏi gian nhà gỗ, dãy phố nguyên vẹn. Người đàn ông đi qua một tiệm một người con gái Tàu ngồi đọc báo sau quầy hàng; một tiệm bán sách vở và tạp hóa; một lớp học với mươi bộ bàn ghế và tấm bảng đen; tiệm sửa xe máy với người thợ đang lui hui sửa ngoài hè. Người đàn ông ôm gói đứng lại nhìn người thợ làm việc. Anh này chợt ngửng lên toe miệng cười với người đàn ông nhưng nụ cười tắt ngay tức thời. Anh thợ ngừng hẳn tay ngắm nghía người lạ. Người đàn ông cố gắng cười, gượng gạo hỏi:
“Giờ này xe còn trở xuống không anh Hai?”
“Có lẽ hết”.
Nói xong, người thợ tiếp tục làm việc, bỏ mặc người lạ đứng ngẩn ngơ nhìn xuống. Một hồi im lặng người đàn ông nói:
“Cám ơn anh Hai”.
Người thợ không đáp, cũng không ngó lên. Và người đàn ông lại bước đi. Kế tiệm sửa xe là tiệm chạp phô của người di cư. Người đàn bà quần áo nâu răng đen, vấn khăn, mắt hấp háy đứng bên mấy bó củi và tĩn nước mắm ngó người lạ mặt chằm chằm. Người đàn ông ngó mông sang rừng cao su bên kia lộ. Hắn đi qua hai căn nhà nữa. Trước mặt căn nhà đóng cửa, đặt một cái lu nhỏ đậy nắp gỗ và một cái ca nhôm trên tường. Người đàn ông tiến lại bên cái lu, đặt gói giấy xuống hè, mở nắp lấy cái ca múc nước trong lu uống ừng ực. Uống xong hắn lại múc thêm một ca đầy đứng xích ra gần lộ để vào tay rửa mặt và cổ. Nước trà màu nâu đen. Lấy khăn trong túi áo lau khô mặt, hắn đậy nắp lu, mang ca trở lại chỗ cũ, ôm gói đồ đi tới chỗ tận cùng dãy phố là con đường đất đỏ vắng hoe ngăn cái quán và rừng cao su. Hắn đứng ở đầu đường đất ngó mông vào xóm, nhìn con lộ chảy ẩn giữa hai hàng cao su tối. Hắn bước vào quán ngồi bàn phía ngoài, đặt gói đồ lên một cái ghế. Người đàn bà mập từ sau bếp bước ra nói:
“Hết trơn nước đá rồi. Cà phê cũng hết…”
“Thím cho ngồi nghỉ đỡ đón xe”.
Người đàn bà ngó khách từ đầu tới chân. Trong rừng cao su tiếng ve bỗng kêu từ xa lan tới gần. Người đàn ông ngó quanh khắp quán hỏi:
“Thím có bán cơm không?”
“Không, không có cơm”.
Người đàn bà bỏ vô sau nhà. Người đàn ông ngồi thẳng lưng, mó máy lật cái dây thun buộc gói giấy dầu. Hắn móc trong một túi áo lấy ra một xấp giấy gói kỹ kiểm lại và đếm những tờ giấy bạc. Mấy tờ giấy năm đồng, mười đồng. Người đàn bà trở ra hỏi:
“Không có xe hả?”
“Không có. Sợ hết”.
Người đàn bà bỗng lắng nghe bảo:
“Có xe be tới đó”.
Người đàn ông vội ôm gói đồ chạy ra lề đường. Hai chiếc xe be kềnh càng rần rần từ trong rừng cao su, xe chạy chậm. Người đàn ông đưa tay lên cao vẫy kêu: “Cho quá giang…” Hai người tài xế đưa tay vẫy chào và xe vẫn chạy.
Người đàn ông thất vọng lầm lũi trở vô quán. Từ một trại binh xa lắc vọng lại tiếng kèn chào cờ buổi chiều. Ve kêu rộn hơn. Người đàn bà hỏi:
“Chú ở đâu tới?”
“Tôi kiếm thằng em của tôi làm đồn điền cao su. Có lẽ tôi đi lộn xe, mấy năm trước tôi có lên một lần nhưng không nhớ rõ. Tôi nhớ khu nó ở gần lộ”.
“Ôi, đồn điền cao su biết mấy mà kiếm? Đồn điền tên gì ở đâu mới được chớ?”
“Tôi không nhớ, tới đúng nơi thì tôi biết”.
“Chú nói chuyện trời đất không à”.
Người đàn ông đặt gói đồ lên bàn, hai tay ngồi ôm lấy nó. Người đàn bà đột ngột xẵng giọng hỏi:
“Giờ chú tính sao?”
“Tôi không biết tính sao hết. Tôi đón xe”.
Người đàn bà cao giọng hơn:
“Chú nói cà rỡn hoài. Giờ này kiếm xe… Chú tính mà mất toi. Bộ khi không chú ngồi đó không cho tôi đóng cửa tiêm đi ăn cơm hả. Chú tính chuyện gì? Tôi kêu lính trên đồn tới đây bây giờ…”
Người đàn ông sửng sốt, giật hai tay ôm gói đồ vào bụng ngó trân người đàn bà:
“Tôi nói thiệt mà thím. Tôi đón xe mà”.
“Mà tôi biểu chú không còn xe nữa. Chú tính cách sao?”
Người đàn ông ngó ra lộ, ra ngoài rừng, nói một mình:
“Ờ. Không còn xe”.
Tiếng ve kêu chỉ còn lẻ tẻ, rời rạc xa xa. Trời bắt đầu tím trên nền bóng núi xa. Người đàn bà tìm quẹt đốt cây đèn dầu hôi mắt vẫn dòm chừng khách lạ. Một chiếc xe díp vụt ngang ngoài lộ như một cơn gió. Người đàn ông dợm đứng dậy như tính rượt theo kêu, lại ngồi xuống ghế. Đèn thắp lên. Cửa bên hông mở ra phía con đường đất bên bìa rừng đã đóng. Người đàn bà đặt cây đèn lên bàn trong, tiến đến người đàn ông hỏi:
“Giờ chú tính sao?”
Người đàn ông ngập ngừng:
“Thím cho tôi ngủ đậu. Thím làm phước. Mai tôi đón xe về sớm”.
Người đàn bà kêu lên:
“Đâu có được chú. Nhà tôi đâu phải nhà cho mướn. Biết chú là người thế nào mà cho chú ngủ đậu. Lỡ đêm chú cắt cổ tôi sao? Chồng tôi đi khỏi, tôi không chứa đàn ông…”
“Thiệt tình mà thím, tôi đi kiếm thằng em tôi. Thím làm ơn làm phước… Chớ giờ này tôi biết tính sao?”
Người đàn bà suy nghĩ vài giây:
“Bộ chú lỡ đường thiệt à…”
“Thiệt mà thím. Chớ khi không tôi tới đây làm gì”.
Người đàn bà lại cao giọng:
“Không được! Chú ở đâu tới, tôi không biết. Chú xin ngủ dậu, không được. Lỡ đêm có chuyện gì người ta xét nhà, tôi nói sao. Không được. Tôi thương chú, ai thương tôi. Thôi chú đi đi, cho tôi ăn cơm. Tôi đói bụng rồi”.
“Tôi đi đâu?”
“Đi đâu thây kệ chú chớ. Mắc mớ gì đến tôi”.
Người đàn ông chậm chạp đứng lên nhưng chưa bước đi. Người đàn bà tự động lùi lại một bước thủ thế. Người đàn ông nài nỉ:
“Tôi đi đâu? Thím nghĩ coi…”
“Tôi không biết. Mấy người rắc rối lắm… Tôi không kêu lính trên đồn là may phước lắm”.
Người đàn ông ngập ngừng bước ra khỏi quán. Dãy phố và con lộ im lặng như tờ, chỉ nghe tiếng ve rộn rã và tiếng côn trùng khởi trỗi lẻ tẻ ở bãi cỏ. Người đàn bà khép cửa quán lại nhưng vẫn còn ló đầu dòm theo người lạ. Người đàn ông đi trở ngược dãy phố. Trong tiệm chạp phô, gia đình đang ăn cơm trên bộ ngựa ở ngoài. Người đàn bà vấn khăn đang bới cơm không ngó thấy bên ngoài.
Người lạ mặt đứng lại trước tiệm sửa xe. Người thợ đã tắm rửa, thay đồ, ngồi trên ghế ngay trong cửa ôm cây đàn ghi ta đang khẩy. Người đàn ông đứng lại, rồi tiến tới bên cửa:
“Chào anh”.
Người thợ ngừng tay khẩy, ngó lên hỏi:
“Gì anh?”
Người đàn ông đứng trân một hồi mới nói:
“Anh Hai làm ơn chỉ dùm tôi có chỗ nào ngủ đậu một tối, tôi lỡ đường hết xe về”.
Người thợ cười riễu, gác cẳng lên thềm cửa:
“Chỗ ngủ đâu. Anh tới quán kia hỏi coi…”
“Tôi hỏi rồi. Họ không chịu”.
“Vậy tôi cũng chịu”.
Người thợ lại tiếp tục khẩy đàn và cười một mình. Người đàn ông vẫn đứng yên tại chỗ:
“Anh Hai cho tôi ngủ đậu. Dưới đất cũng được. Mai tôi đón xe về sớm”.
“Cha này giỡn hoài ta. Tôi đâu quen biết anh”.
“Anh cho tôi ngủ đậu một tối thôi”.
“Bộ anh cho tôi khùng hả. Cha này kỳ quá…”
Người đàn ông quay mặt về phía rừng cao su trong ấy bóng tối đã dày. Ngoài rừng trời chạng vạng nhá nhem. Người đàn ông đi tới bên lề đường. Một vài tiếng đại bác nổ ầm ở xa. Hắn đi vài bước về hướng nhà việc rồi bỗng quay bước. Trong tiệm xe máy tiếng đàn dạo đến khúc mùi mẫn. Hắn đến trước căn nhà có đặt lu nước ở ngoài và đứng lại. Nhà cửa đóng kín không thấy ánh sáng. Hắn gõ nhẹ lên cánh cửa rồi nghe ngóng. Có cả mấy phút không tiếng trả lời. Trong nhà tiếng niệm Phật rất nhỏ. Hắn đứng đợi nghe tiếng mõ đều đều thỉnh thoảng đệm tiếng chuông. Trời cứ tối dần. Một hồi hắn lại gõ cửa và sau tiếng ho là tiếng hỏi nhỏ:
“Ai đó?”
Người đàn ông không đáp. Hắn lại gõ cửa. Trong nhà lại nghe tiếng hỏi: “Ai đó?” Tiếng động trên cửa và một lỗ hổng tròn được kéo ngang tầm ngực người đàn ông.
“Ai ở ngoài đó?”
Người đàn ông cúi nghiêng xuống ngang mặt với lỗ hổng:
“Tôi lỡ độ đường”.
“Chú kiếm ai?”
“Dạ không, thưa bác con kiếm chỗ ngủ tối nay. Bác cho con ngủ nhờ”.
Bên trong im lặng khá lâu, tiếng thì thào rồi nghe giọng già cả run rẩy:
“Thôi chú ơi, tôi tu hành chú đừng phá tôi”.
“Thưa bác, thiệt tình con lỡ đường. Con đi kiếm thằng em mần trong đồn điền cao su lại lên lộn xe. Giờ không có xe về. Bác cho con ngủ đậu một tối. Mai con đón xe về sớm”.
“Thôi mà chú, chú kiếm nơi khác. Tôi tu hành mà”.
“Không đâu họ chịu cả. Bác làm phước thương con”.
“Tôi biết chú nói thật. Nhưng chú thương chúng tôi. Chúng tôi không làm gì hại ai cả. Chú cảm phiền. Trong nhà chỉ có mấy bà cháu không có đàn ông. Lỡ ra tội nghiệp, chú ơi…”
“Thưa bác con thật tình. Con không gạt. Con đi kiếm người em”.
Bỗng trong nhà có giọng thiếu nữ ngắt ngang:
“Bà tôi nói thiệt mà. Khi không tới đòi ngủ đậu. Ai mà tin được. Tụi tôi la bây giờ là lính trên đồn nghe thấy xuống tới”.
“Tôi thiệt tình mà cô Hai”.
“Thiệt hay không thiệt cũng không ai chứa người lạ trong nhà”.
Một tiếng nổ ầm rung chuyển đất. Lỗ hổng đóng sập lại và tiếng chân chạy trong các nhà. Mọi cửa đều đóng vội. Những tiếng nổ tiếp theo còn cách xa. Người đàn ông dáo dác ngó ra đường. Trên trời phía rừng cao su trái hỏa pháo bắn vọt lên lơ lửng vài phút rồi tắt. Tiếp theo một trái hỏa pháo khác. Người đàn ông đứng ôm bọc giấy dầu bên lu nước.
Thanh Tâm Tuyền
THI SĨ NGUYỄN TẤT NHIÊN
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
2009-11-08
2009-11-08
Làm thơ năm 14 tuổi
“Giữa năm 1970, khi tôi
đang ngồi ở cà phê La Pagode ở Sài Gòn cùng với mấy người bạn của tôi là các
anh Nguyễn Đình Toàn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ thì có một cậu học trò đẩy
cửa đi vào hỏi tôi có phải là Du Tử Lê không, thì tôi nói là: “phải”. Sau đó cậu
ấy tặng cho tôi một tập thơ nhan đề là Thiên Tai, và tác giả tập thơ đó tên là
Hoài Thi Yên Thi. Cậu ấy cho biết là cậu đang học ở trường Ngô Quyền, Biên Hòa.
Sau đó chúng tôi trở thành tình anh em rất là thân thiết. Đến lần gặp thứ hai
thì cậu nói với tôi là cậu muốn có một tên hiệu khác, tức là một bút hiệu khác,
vì bút hiệu Hoài Thi Yên Thi có vẻ thi văn đoàn quá. Tôi có chọn cho cậu ấy cái
tên“Nguyễn Tất Nhiên”. Đó là kỷ niệm mà tôi rất nhớ.”
Khúc Tình Buồn
Trong những năm đó
sinh viên học sinh miền Nam có phong trào thành lập Thi văn đoàn và những người
có năng khiếu văn chương cùng tụ tập nhau lại để in những bài thơ, hay văn xuôi
chung với nhau. Kỹ thuật quay ronéo để xuất bản tác phẩm của những người trẻ
trong giai đoạn này rất phổ biến. Nguyễn Tất Nhiên nổi lên như một ngôi sao khi
bài thơ Khúc Tình Buồn của ông được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Khúc Tình Buồn
được đặt lại tên “Thà như giọt mưa” và trong nhiều tuần lễ sau đó, nhạc phẩm
này hầu như ngày nào cũng phát trên đài phát thanh Sài Gòn được giới sinh viên
học sinh chuyền tay nhau tập thơ của ông với tất cả sự thích thú vốn có của tuổi
trẻ:
Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng
(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)
Khúc tình
buồn
Người con gái tên Duyên
Bài thơ “Khúc Tình Buồn”
không nhắc tới tên Duyên như trong nhạc phẩm “Thà Như Giọt Mưa” của Phạm Duy.
Cô gái tên Duyên này là một nhân vật có thật và học chung lớp với nhà thơ tại
trường trung học Ngô Quyền thành phố Biên Hòa, và tình cảm của ông đối với cô
chính là nguồn cảm hứng khiến ông liên tục sáng tác những bài thơ nổi tiếng một
thời chỉ để riêng tặng cho cô. Tuổi trẻ thời ấy thích thú với những dỗi hờn rất
con nít của tác giả bài thơ khi mong cho người con gái tên Duyên sẽ đau khổ
muôn niên, sẽ đau khổ trăm năm…lời lẽ như là chính cô gái đã phụ tình tác giả.
Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi
Thị Duyên ngày nào nay sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Cô nhớ lại những kỷ niệm thật
đẹp của tuổi học trò áo trắng:
“Tụi này học chung với
nhau từ năm đệ tứ. Trường đó là trường nam-nữ học chung. Đến khi học sinh đông
quá thì họ phân lớp ra, trong đó có một lớp đệ tứ “mix” giữa con trai với con
gái. Sau đó tôi lên học ban B thì tôi học luôn đến lớp đệ nhất, học chung với tụi
con trai, trong lớp chỉ có vài cô con gái thôi. Tụi này biết nhau từ hồi nhỏ,
lúc đó cũng ngây thơ, tôi chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay
không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng
một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản chính. Một bản của Nhiên, một
bản cho tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển
thôi. Tôi biết sự hình thành quyển thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải
không, nhưng thật ra là chẳng có gì hết, tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết,
nhưng đó là chuyện hồi nhỏ.”
Thật ra chính cái tên
Duyên mới làm bài thơ nổi tiếng. Trong tập thơ Thiên Tai, Nguyễn Tất Nhiên có rất
nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng
duy nhất đó.
“Dĩ nhiên là phải xúc động
bởi nguyên một quyển thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên
ngay từ đầu là mình làm bạn thôi, nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau
anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn
như tôi.Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm.”
Nguồn cảm hứng tôn giáo
Thời gian trôi qua, những
vần thơ nói về Duyên hay ám ảnh bởi Duyên không còn là nguồn cảm hứng chính
trong thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Thay vào đó nguồn hứng khởi tôn giáo bắt đầu đi
vào thơ ông một cách tình cờ, bắt đầu từ bài “Hai năm tình lận đận”:
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian mưa
Anh bây giờ có lẽ
Thiết tha hơn tín đồ
Nguyện làm cây thánh
giá
Trên chót đỉnh nhà thờ
Cô đơn nhìn bụi bậm
Làm phân bón rêu xanh
Dù sao cây thánh giá
Cũng được người nhân
danh
Càng về sau Nguyễn càng thấy
hình tượng của Chúa, của Linh Mục, Ma Soeur gần gũi với ông hơn mặc dù nhà thơ
là người ngoại đạo. Vì ngoại đạo nên thơ ông không chịu sự ràng buộc của tín lý,
của đức vâng lời, tôn kính. Nguyễn Tất Nhiên tung tăng trong ngôn ngữ đức tin
và bởi vô úy nên những lời thơ truyền thẳng vào tâm tình người đọc, bùng lên thứ
cảm nhận vừa xuýt xoa ngạc nhiên vừa lâng lâng niềm khoái cảm của người ăn trái
cấm:
vì tôi là linh mục
không mặc chiếc áo
giòng
nên suốt đời hiu quạnh
nên suốt đời lang thang!
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân
gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
(một tín đồ duy nhất
vừa thiêu hủy lầu
chuông!)
vì tôi là linh mục
phổ lời tình nhân gian
thành câu thơ buồn bã
nên hạnh phúc đâu còn
nên người tình duy nhất
vừa thiêu hủy lầu
chuông
Nguyễn Tất Nhiên chậm rãi
dìu người tình của mình nay hóa thân thành một Ma Soeur đằm thắm. Ma-Soeur-Người-yêu
này nhẹ nhàng xưng tụng niềm thống hối như tín đồ xưng tội. Kẻ ngoại đạo cảm thấy
Thượng Đế mỉm cưởi với mình qua ẩn dụ tràn ngập chân phước. Tình Yêu trở thành
bất tử, và thánh hóa dưới ánh mắt hiền hòa của Chúa qua những vần thơ xưng tụng.
Ðưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Phất phơ đời sương gió
Hồn mình gần nhau chưa?
Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi
thai
Xa nhau mà không hay
Hỡi em cười vô tội
Ðeo thánh giá huy hoàng
Hỡi ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng!
Em hiền như ma soeur
Vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta làm mủ
Ma soeur này ma soeur
Có dịu dàng ánh mắt
Có êm đềm cánh môi
Ru ta người bệnh hoạn
Ru ta suốt cuộc đời
Những năm cuối đời
Nguyễn Tất Nhiên ở những
năm cuối đời đã có những biểu hiện của chứng trầm cảm. Người thơ thường đặt những
câu hỏi gần gụi với cái vĩnh hằng, là sự chết. Chết trở thành một câu hỏi lớn
theo đuổi nhà thơ, như bóng ma thời gian ám ảnh sự sống không ngừng. Trong bài
Thiên Thu, nhà thơ thở dài buồn bã nhận ra bóng mình in trên bức tường vôi luống
tuổi mang tên “Con người”:
sao thiên thu không là
chôn sâu?
nên nắng xưa còn hanh
mái tóc nhầu
tôi đứng như xe tang ngừng
ngập
và một họ hàng khăn trắng
buồn đau!
sao thiên thu không là
đường chim?
nên mây năm xưa còn
trên tay phiền
tôi đứng như tường vôi
luống tuổi
và những tàng xanh chùm
gởi quê hèn!
sao thiên thu không là
lãng quên?
nên tình xưa còn cháy
âm thầm
tôi đứng như căn nhà
nám lửa
và những người thân trốn
chạy vội vàng!
sao thiên thu không là
sương tan?
nên mặt trời xưa còn gượng
huy hoàng
tôi đứng như dòng sông
yên lặng
và những cánh buồm kiệt
sức lang thang!
“Cánh buồm kiệt sức” ấy
không còn lang thang nữa, theo như lời kể của nhà báo Đinh Quang Anh Thái, người
quen thân với nhà thơ từ thuở thiếu thời:
“Một tuần lễ trước ngày
Nguyễn Tất Nhiên quyết định con đường ra đi, tôi và Nhiên ngồi với nhau ở ngoài
lề đường. Tôi nói Nguyễn Tất Nhiên đi vào ăn cơm thì Nhiên nói rằng:“Cái thằng
sắp chết không ăn”. Biết tính Nhiên từ lúc còn bé chơi với nhau, nên tôi cũng
không để ý câu nói đó, tôi hỏi:“Vậy thì hút thuốc không?”, Nhiên cũng nói rằng:“Cái
thằng sắp chết không hút thuốc lá”. Và đó là lần chót mà hai đứa có trao đổi với
nhau. Và tuần lễ sau thì Nhiên mất. Thực sự ra thì từ lúc chơi với nhau ở Sài
Gòn trước 75, và sau 75 thân thiết hơn, thì lúc nào Nhiên cũng mang một ý định
muốn tự quyết định cuộc đời mình. Mãi sau, những người bạn thân với Nguyễn Tất
Nhiên đều hiểu rằng có thể đó là một lúc mà tinh thần không được ổn định thì
Nhiên nói thế thôi. Anh em không còn để ý và xem đó như là một lời nói có tính
cách nghiêm trọng nữa. Không ngờ một tuần lễ trước khi Nhiên quyết định tự tử,
Nhiên lại nói với bản thân tôi hai lần câu: “Người sắp chết không ăn cơm và người
sắp chết không hút thuốc lá.”
Nguyễn Tất Nhiên ra đi ở
tuổi 40 khi còn rất trẻ, khi mầm sống thi ca đến độ chín muồi nhất. Thế nhưng đối
với trường hợp riêng ông thì quyết định chọn được nằm im để hòa mình vào nguồn
minh triết của suy tưởng bất diệt có lẽ là một quyết định đúng với nhà thơ khi
ông chợt nhận ra cõi đời đã trở nên vô nghĩa …
ÔNG KHAI TRÍ (1926 - 2005)
ÔNG KHAI TRÍ
Tôi có người chị ruột giúp viêc bán sách cho tiệm sách Việt Hương ở số 34 đưòng Lê Lợi. Từ đây đi về hướng chợ Bến Thành có thêm 3 tiệm sách :
Thanh Tuấn số 56, Phúc Thành số 58 và Khai Trí chiếm 2 căn 60 - 62.
Nhà sách Sài Gòn bây giờ trước 1975 là nhà sách Khai Trí trên đường Lê Lợi
Theo chị tôi kể lại Ông Khai Trí khởi nghiệp bằng 1 chiếc xe đẩy ( như xe bán sách ở bến sông Seine bây giờ ). Xe bán sách của Ông thường đậu trước cổng Trường Chasseloup Laubat đường HồngThập Tự. Tôi nghe kể laị vây thôi chớ đâu ngờ gặp Ông ở Z30C Hàm Tân.
Buổỉ sáng Tù đợi đi lao động, nhưng sớm hơn có một ông già lúc nào cũng với bộ quần áo trắng đã ngã qua màu cháo lòng đẩy chiếc xe cải tiến chứa phân bắc cuả tù đem đi. Sáng nào cũng vậy, ít ai biết ông là ai.
Ông Nguyễn Hùng Trương (Chủ nhà sách Khai Trí) - người Sài Gòn gọi ông là "ông Khai Trí" (theo tên nhà sách - nhà xuất bản do ông làm chủ). Hết sức quảng bác nhưng ông lại rất ít nói về mình, nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền Nam.
Ông Khai Trí" tên thật là Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức. Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo đọc. Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà, đầu tuần trở lên với món tiền đủ để tiêu xài dè sẻn trong tuần. Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số tiền đó vào sách báo rồi cả tuần nhịn ăn sáng, chỉ uống nước lã cho đỡ đói.
Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài, vào thập niên 1940 ông đã gây dựng được một tủ sách có giá trị. Bạn bè đến chơi, thấy ông có nhiều sách hay thường nhờ ông mua giùm. Có lần, chỉ 5 người nhờ nhưng ông mua đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng. Số sách dư ra, ông đem ký gửi ở quán sách; 3 hôm sau, người chủ quán hỏi ông sách loại đó còn không, nếu còn thì đem tới tiếp vì sách gửi trước đã bán hết rồi. Từ đó ông nảy ra ý định mua sách báo ở nước ngoài về gửi bán. Sách ông chọn là loại sách có giá trị, quý hiếm, nhiều người cần mà trong nước không bán. Lúc đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên, có khi cả nghìn cuốn.
Nhờ cố gắng làm việc không quản mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng nên đến năm 1952 ông Khai Trí đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi), đặt tên là Nhà sách Khai Trí (nay là Nhà sách Sài Gòn). Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua. Nữ nhân viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một cách kín đáo...
Những điều này hiện nay được áp dụng ở đa số hiệu sách nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ vậy mà sau nầy nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng lầu. Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản sách với những đầu sách được chọn lựa kỹ càng và phong phú.
Một thú chơi đặc biệt của ông Trương nữa là sưu tầm sách báo (chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde, ông có từ số đầu tiên cho tới ngày 30/4/1975). Ông còn cùng nhà văn Nhật Tiến chủ trương ra Tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu sách có giá trị. Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách: Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Quê em mến yêu, Làm con nên nhớ, Chánh tả cho người miền Nam, Huế mến yêu, Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam...
Nhà văn Nguyễn Thụy Long (tác giả của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Loan mắt nhung," một cuốn tiểu thuyết mà sau này giới nghiên cứu miền Bắc sau 1975 cũng hết lời ca ngợi) có viết một bài nhan đề "Vĩnh biệt ông Khai Trí," trong đó có nhắc đến hoàn cảnh đau thương của ông Khai Trí sau 1975:
"Ông Khai Trí, Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ Đức, Gia Định, mất hồi 5 giờ 15 ngày 11 tháng 3 năm 2005, tức ngày mồng 2 tháng 2 năm Ất Dậu, thọ 80 tuổi sau hai tuần nằm bệnh viện. Ông mất đi do sức già lực kiệt, nhiều năm ông cố gắng tranh đấu để xin lại hiệu sách vĩ đại của ông sau khi bị nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa tịch thu, sau đợt cải tạo văn hóa 1976 tại Sài Gòn. Tiệm sách của ông tại đường Lê Lợi mang tên Khai Trí bị nhà nước "quản lý", nay mang tên Phahasa của nhà nước.
Thuở đó, sau khi các sĩ quan chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị đi cải tạo trước, đến lượt những văn nghệ sĩ bị bắt, tác phẩm thiêu đốt và họ đều bị coi là kẻ có tội, đương nhiên bị bôi nhọ, kết tội là Biệt Kích Văn Nghệ.
Ông Khai Trí cũng bị coi là tội phạm, liệt vào hàng văn nghệ sĩ và bị bỏ tù, vì người chiến thắng cho ông là người kinh doanh và phát triển cái văn hóa đồi trụy. Những người đã từng sống ở miền Nam trước giải phóng, ai cũng biết đến ông. Gọi là ông Khai Trí mà quên cái tên cúng cơm của ông là Nguyễn Hùng Trương, ông làm được nhiều công việc lợi ích cho văn hóa Việt Nam, cả đời ông đam mê công việc ấy. Và ông quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở miền Nam, kể cả những văn nghệ sĩ Bắc di cư 1954. Ông Khai Trí lại ra tay giúp đỡ nhiều anh em văn nghệ sĩ gặp hoàn cảnh khó khăn, mua tác phẩm của họ, tuy chưa in còn để đấy nhưng ông vẫn trả tiền đầy đủ không thiếu một xu. Ngoài ra ông tài trợ cho nhiều tờ báo hồi đó ở Sài Gòn. Tôi không biết nhiều, nhưng tôi biết về tờ báo Sống của Chu Tử, cũng có sự góp sức về mặt tiền bạc.
Bao nhiêu lần tôi đi qua đường Lê Lợi, tôi nhìn thấy ông Khai Trí buồn bã đứng ở góc đường đó, nhìn sang hiệu sách cũ của mình mang tên mới là Phahasa.
Một lần khác, cũng trong bữa giỗ ông Chu Tử, tôi hỏi ông Khai Trí về việc xin lại nhà sách Khai Trí đến đâu rồi? Ông cười chua chát:
- Phải đến năm 3000 thì may ra…
Ngày ông bị bắt, bị bỏ tù, bao nhiêu bài báo nói xấu ông, kết tội ông còn dấu bao nhiêu kho sách Ngụy, không thành thật khai báo. Chuyện thế thái nhân tình lúc ông gặp hoạn nạn, những kẻ trước đây từng chịu ơn ông, tố cáo ông bao nhiêu là tội kể cả những điều không có để lập công.
Buổi lễ tang ông Khai Trí, tại nhà ông đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (Phan Thanh Giản cũ) tôi gặp nhiều bạn bè của ông, những người thuộc chế độ Sài Gòn cũ đến thắp cho ông những nén nhang và chia xẻ sự thương tiếc với gia đình ông.
Tôi nhớ mãi dáng ông Khai Trí đứng nhìn lên hiệu sách cũ của mình và câu nói chán nản của ông, năm 3000 thì người ta trả lại cho ông nhà sách Khai Trí. Sao mà chua chát thế cho ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, cả một đời chỉ có một đam mê là làm văn hóa, giữ gìn cái hay, cái đẹp cho thế hệ mai sau.
Vĩnh biệt ông Khai Trí - người mê sách
Ông luôn có mặt trong các buổi sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dù lớn hay nhỏ trong nội ô Sài Gòn: dự triển lãm tranh, giao lưu thơ ca, nói chuyện chuyên đề... Đến lặng lẽ và về âm thầm, tuy nhiên sự có mặt của ông đủ làm cho không khí hứng khởi thêm. Nhưng từ hôm nay, bóng dáng quen thuộc ấy không còn nữa...
Ông Khai Trí (phải).
|
Người Sài Gòn gọi ông là "ông Khai Trí" (theo tên nhà sách - nhà xuất
bản do ông làm chủ). Hết sức quảng bác nhưng ông lại rất ít nói về mình,
nên ít người biết ông chính là tấm gương sống động: từ hai bàn tay
trắng trở thành người kinh doanh ngành sách lớn nhất và uy tín nhất miền
Nam.
"Ông Khai Trí" tên thật là Nguyễn Hùng Trương, sinh năm 1926 tại Thủ
Đức. Thuở nhỏ, ông thường nhịn ăn sáng, dùng 2 đồng xu mẹ cho để mua báo
đọc. Lên Sài Gòn học trung học ở Petrus Ký, ông được sắm cho chiếc xe
đạp cũ để cuối tuần đạp về nhà, đầu tuần trở lên với món tiền đủ để tiêu
xài dè sẻn trong tuần. Nhưng cứ mỗi chiều thứ hai là ông tiêu sạch số
tiền đó vào sách báo rồi cả tuần nhịn ăn sáng, chỉ uống nước lã cho đỡ
đói.
Sách ông mua hầu hết là sách báo nước ngoài, vào thập niên 1940 ông đã
gây dựng được một tủ sách có giá trị. Bạn bè đến chơi, thấy ông có nhiều
sách hay thường nhờ ông mua giùm. Có lần, chỉ 5 người nhờ nhưng ông mua
đến 10 cuốn để được hưởng 30% hoa hồng. Số sách dư ra, ông đem ký gửi ở
quán sách. 3 hôm sau, người chủ quán hỏi ông sách loại đó còn không,
nếu còn thì đem tới tiếp vì sách gửi trước đã bán hết rồi. Từ đó ông nảy
ra ý định mua sách báo ở nước ngoài về gửi bán. Sách ông chọn là loại
sách có giá trị, quý hiếm, nhiều người cần mà trong nước không bán. Lúc
đầu mua mỗi thứ vài chục cuốn, thấy bán chạy ông mới tăng số lượng lên,
có khi cả nghìn cuốn.
Nhờ cố gắng làm việc không quản mệt mỏi, tiết kiệm từng đồng nên đến năm
1952 ông Khai Trí đủ vốn để mở một hiệu sách nhỏ tại 62 đại lộ Bonard
(nay là Lê Lợi), đặt tên là Nhà sách Khai Trí (nay là Nhà sách Sài Gòn).
Đây là nhà sách đầu tiên ở Việt Nam bán hàng theo kiểu tự chọn, khách
có thể đứng đọc tại chỗ hàng giờ rồi đi ra mà không phải mua. Nữ nhân
viên bán hàng mặc đồng phục, lúc nào cũng vui vẻ ân cần, trông nom một
cách kín đáo... Những điều này hiện nay được áp dụng ở đa số hiệu sách
nhưng vào thời điểm đó thì quá mới mẻ và rất được khách hàng ủng hộ, nhờ
vậy mà sau đó nhà sách được mở rộng thêm 2 căn liền kề với nhiều tầng
lầu.
Nhà sách Khai Trí còn phụ trách cả việc xuất bản sách với những đầu sách
được chọn lựa kỹ càng và phong phú. Một thú chơi đặc biệt của ông
Trương nữa là sưu tầm sách báo (chỉ riêng tờ báo Pháp ngữ Le Monde,
ông có từ số đầu tiên cho tới ngày 30/4/1975). Ông còn cùng nhà văn
Nhật Tiến chủ trương ra Tuần báo Thiếu Nhi và là soạn giả của nhiều đầu
sách có giá trị. Riêng trong khoảng 10 năm từ 1993 đến 2003, ông đã
tuyển chọn và biên soạn khoảng 15 cuốn sách: Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Quê em mến yêu, Làm con nên nhớ, Chánh tả cho người miền Nam, Huế mến yêu, Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam...
Con người có niềm đam mê mãnh liệt với sách báo ấy đã không còn nữa. Ông
ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237 Điện
Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại
Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ
thiện thành phố.
VIỆT NAM HÔM NAY
Người "sống" ở nghĩa trang
Cát Linh, RFA
2017-04-01
2017-04-01
Có một số người không có lấy mảnh đất để cắm dùi phải sống dựa vào mộ phần của người chết.
Mỗi người một cảnh đời
Con đường dẫn vào phía trong nghĩa trang Bình Hưng Hoà xẻ dọc xẻ ngang.
Những khối bê tông to, có những mảng gần như nát vụn rơi rải trên đoạn
đường mòn; những cành cây khô ngả nghiêng nằm chơ vơ trên đường; những
đám cỏ dại cao gần bằng đầu người phủ trùm quanh những ngôi mộ bám đầy
bụi.
Dù còn nguyên vẹn hay bị đập phá do đã di dời, nơi đây bỗng dưng trở
thành “nhà” của hàng chục người đang tá túc trong khu nghĩa trang có từ
trước năm 1975 với hơn 75 ngàn ngôi mộ.
Bệnh không biết sống đến ngày nào hay chừng đó chứ biết sao bây giờ. Sống tới đâu hay tới đó, cũng không sống được bao lâu đâu.
- Một người sống ở nghĩa trang
Mỗi một người là một cảnh đời, không ai giống ai, ngay cả lý do vì sao
họ có mặt ở đây cũng thế. Người đàn ông có hơn 20 năm gắn bó với nơi này
kể lại:
“Kể từ hồi tuổi còn chăn bò, còn nhỏ lắm, ở đây nói chung không có mả
mồ gì hết, chỉ có cái sân đá bóng thôi. Sau này họ chôn đặc hết thì
không còn chỗ đá nữa.”
Một “hộ” khác, không khá gì hơn. Trong cái nơi gọi là nhà của hai người
này, có hẳn những vật dụng cần thiết của một “tư gia”, như trang thờ,
nồi nấu cơm, tivi, giường.
Những món đồ này được lượm lặt từ nơi này, nơi khác, rồi bỏ vào trong
một không gian chật hẹp được kết nối bởi những miếng tôn vụn, tấm bạt
rách, những miếng gỗ mục nát. Những mảnh ghép ấy đã và đang tạo thành
nơi che nắng che mưa cho họ trong ba năm qua.
"Hồi đó ở dưới quê, rồi lên đây đi làm sống cũng lâu rồi. Mọi lần đẩy
xe đi lụm rác, sau này làm nhiều quen thì canh bãi rác chứ không phải
canh mộ ở đây.”
UBND Quận Bình Tân cho biết tính đến hết tháng 11/2016, gần 11.000 ngôi
mộ tại đây đã có thân nhân đến kê khai di dời. Người đàn ông trung niên
kể lại:
“Mười mấy năm trước mấy ổng kêu bỏ tiền túi ra, bốc xong rồi, chờ có
tiền bồi thường, mấy ổng mới trả lại. Bây giờ dân ít làm, Nhật đầu tư vô
làm hết, thiêu cho vô hũ cốt, rồi giao lại cho mình, rồi hẹn ngày lên
gửi lại tiền bồi thường rồi trừ lại tiền thiêu. Mình không phải bỏ tiền
túi, chỉ bỏ vài trăm bồi dưỡng cho mấy anh đào huyệt thôi.”
Còn hơn 5.000 ngôi mộ vẫn là mộ hoang chưa có người nhận dù trên bia đá
có khắc đủ họ tên và trưng di ảnh. Thế là, bỗng dưng, những ngôi mộ chưa
có người đến nhận ấy được sử dụng cho những sinh hoạt đời thường trong
một gia đình. Họ nấu ăn, nấu cháo nuôi bò. Họ nuôi gà, nuôi chó như
những gia đình khác bên ngoài xã hội.
Họ gọi nơi đây là nhà, chọn là nơi ăn chốn ở, có hẳn một cuộc sống sinh
hoạt không khác gì với cuộc sống đang diễn ra phía ngoài con lộ dẫn vào
nghĩa trang. Họ có thể ung dung sống nhiều năm ở đây và không gặp khó
khăn nào từ phía chính quyền địa phương.
Hồi đó ở dưới quê, rồi lên đây đi làm sống cũng lâu rồi. Mọi lần đẩy xe đi lụm rác, sau này làm nhiều quen thì canh bãi rác chứ không phải canh mộ ở đây.
- Một người sống ở nghĩa trang
“Mình ở đây, giữ rác ở đây nên họ cũng không hỏi gì.”
Cơn mưa buổi chiều đổ xuống đột ngột, mùi đất ẩm ướt xông lên hăn hắt.
Mái vòm của những ngôi mộ chưa có người nhận và chưa bị di dời trở thành
nơi che mưa cho những phận người sống nơi đây.
Trên những gương mặt đó, ánh mắt vô hồn gần như không còn cảm xúc trước
những gì đang diễn ra xung quanh họ. Với những người này, “sống nay
không biết ngày mai” là cách sống họ phải chấp nhận. Có nghĩa rằng, khi
giai đoạn một của dự án di dời nghĩa trang Bình Hưng Hoà đã xong vào
ngày 31 tháng 1 vừa qua, giai đoạn 2 sắp được thực hiện, thì họ vẫn
không biết ngày đó, “ngôi nhà” của họ sẽ trôi dạt về đâu?
Người đàn ông làm nghề canh rác:“Bệnh không biết sống đến ngày nào
hay chừng đó chứ biết sao bây giờ. Sống tới đâu hay tới đó, cũng không
sống được bao lâu đâu. Mà cái này có giải toả chắc thời gian cũng lâu
lắm, chứ đâu có nói rồi làm cái một?”
Tiếng ca cải lương phát ra từ chiếc radio cũ kỹ bên trong “ngôi nhà” của
người đàn ông canh rác, một trong những tài sản giá trị mà ôg đang có.
Đốt thêm điếu thuốc, ông nhìn ra bên ngoài, nơi có một ngôi mộ của ai đó
chưa có người đến nhận, đang bị đám cỏ lau dày đặc bao quanh.Có lẽ ông và những người đang sống nơi nghĩa trang này sẽ chẳng bao giờ phải tự hỏi: “khi nằm xuống lòng đất lạnh, người ta sẽ ra sao?”
http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/people-living-at-the-cemetery-rfa-03312017133332.html
Người vô gia cư ở Sài Gòn
Thông tín viên Việt Nam
2016-12-24
2016-12-24
Có những người không may hằng đêm phải lấy vỉa hè làm chỗ ngả lưng, khi mà nhiều người khác được yên giấc cùng người thân trong mái nhà ấm cúng của họ.
Cảnh nhộn nhịp của Sài Gòn về khuya không còn đông vui như lúc đêm vừa xuống; đâu đó vẫn còn những hàng quán chưa đóng cửa vì thực khách chưa ra về. Trong khung cảnh đó còn đó những người vô gia cư bên vỉa hè.
Một số đang nhặt rác, một vài người thì vắt chân ngủ trên ‘cần câu cơm’ của mình.
Cũng có nhiều người đang nằm ngay trên vỉa hề và không biết họ đang ngủ hay trằn trọc… nhưng chúng tôi không dám làm phiền.
Dạo qua các con phố để tìm gặp những người vô gia cư và nghe đôi lời
tâm sự ngắn ngủi của họ để cảm thông được chút nào phận đời không may
của họ.
Một cụ bà, ngồi một mình trong con hẻm nhỏ. Bà là người Quảng Châu, nói
giọng lớ lớ hơi khó nghe. Bà ngồi đây chỉ với mục đích duy nhất là mong
đợi người làm từ thiện cho miếng ăn, cho chút quà. Mắt của bà đã hỏng,
đi xin ăn cũng khó, nên chỉ còn biết ngồi đây.
“Để người ta giúp đỡ…để người ta thấy người ta giúp đỡ. Mình có thấy đường đâu mà xin người ta."
Ông Hùng, một người không nhà mà chúng tôi tình cờ ngang qua, thấy ông đang ngủ bên vỉa hè một con phố nhỏ.
Chân phải của ông đã bị mất trong một vụ tai nạn từ thời thanh niên. Bây
giờ, muốn xin một công việc thật khó khăn. Ông chỉ còn cách đi bán vé
số dạo hàng ngày.
“Đi khắp hết cả quận huyện thành phố này đi hơn nửa tháng trời xin
việc, không ai nhận mình hết. Không lẽ mình đi xin ăn…ban ngày bán vé
số, buổi tối kiếm những phần quà của người từ thiện cho, mình dùng
thôi.”
Không nhà, không cửa vậy những người vô gia cư khi cần phải giải quyết
các nhu cầu vệ sinh cá nhân thì đến đâu? Một người cho biết phải kiếm
đến những chỗ công cộng hoặc những nơi nào miễn phí.
Chú chỉ mong bề trên cho chú một giấc ngủ đi luôn, chứ sống như vậy mình cũng khổ quá trời rồi.
- người vô gia cư
“3 tháng 2 có cái trạm xăng á, có cái vệ sinh công cộng á, khỏi tiền.
Vô đó tắm rửa…giặt xong kiếm chỗ nào vắng không có ai mình phơi ở đó
vậy thôi đơn giản”
Những người lấy vỉa hè làm nơi ngả lưng khi đêm về có được hoàn toàn tự
do muốn nằm đâu thì nằm hay không? Trong thực tế cơ quan chức năng có
qui định về an ninh- trật tự nên lâu lâu lực lượng thi hành công vụ cũng
tiến hành chiến dịch truy quét người vô gia cư.
“Ngủ bên đó mát lắm, mà chú sợ công an nó đuổi nên chú qua đây chú
ngủ, qua đây chú ngủ đuổi thì chạy qua chạy lại…nhiều đêm ngồi trắng đêm
mưa dầm mưa dũ đâu có chỗ ngủ, tạt ướt hết…”
Bên cạnh đó là tình trạng bị mất trộm số đồ dùng thiết yếu ít ỏi của bản thân.
“Có những đoàn từ thiện cho đồ mình mà mình ngủ quên nó lấy hết à.
Đêm đó có một phái đoàn, một cô một cậu trẻ lại cho chú 180 ngàn với một
cái mền bự. Cô cậu đó vừa đi chút xíu nó lại nó lấy hết. Chú tiếc cái
mền mới giựt, chú tiếc cái mền quá…trời, nó quýnh chú không thể tưởng
tượng nổi. Mà biết bao người xe chạy tới chạy lui không ai can. Quýnh 4
ngày sau chú không đi bán nổi luôn.”
Ông bày tỏ một ước mơ:
“Chú chỉ mong bề trên cho chú một giấc ngủ đi luôn, chứ sống như vậy mình cũng khổ quá trời rồi.”
Đối với số vô gia cư thường xuyên thì những dịp lễ tôn giáo như Giáng
Sinh của người theo Thiên Chúa Giáo, có một số đoàn thiện nguyện cho họ
chút quà cáp nên cùng mong ngóng:
“Lúc nào cũng mong chờ mấy ngày đó sẽ Giáng Sinh, anh em bà con đạo
Chúa á, đi phát quà này nọ. Nhưng mà không phải ngày đó, ngày thường
cũng có…! Điều ước của chú mong sao đi làm được chứng minh. Vậy thôi, do
cái cuộc sống tương lai do mình tạo nên…”
Chăm lo cho người dân là khẩu hiệu được chính phủ luôn tuyên truyền.
Ngoại trừ một số đối tượng lợi dụng thời gian về đêm để ra tay thực hiện
những hành vi mờ ám, kiếm tiền phi pháp… những người dân chân chính vì
hoàn cảnh gia đình trở nên cơ nhỡ luôn mong nhận được hỗ trợ từ các
chương trình phúc lợi xã hội của chính phủ và các tổ chức nhân đạo khác
để có được cuộc sống ổn định không phải lang thang vất vả trên các nẻo
đường phố thị.
Xóm phao giữa sông Hồng
Phóng viên RFA tại Hà Nội
2017-01-08
2017-01-08
Những cư dân không giấy tờ
‘Bãi giữa sông Hồng’ trước đây là làng Trung Hà nhưng do một trận lũ lớn năm 1971, người dân làng này chuyển vào bờ sinh sống. Vùng đất này nay thuộc phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Hiện nay tại bãi giữa sông Hồng có 26 hộ dân sinh sống đến từ nhiều vùng khác nhau và không ai có hộ khẩu nơi đây cả.
Hầu hết người dân trong xóm đều sống trên các “ngôi nhà” phao dập dềnh theo con nước.
Trước đây, do không có giấy tờ tùy thân, trẻ em chỉ được học tới lớp 5
tại một “lớp học tình thương” do sinh viên các trường đại họa xuống dạy.
Ông Nguyễn Đăng Được, người đầu tiên về tạo lập khu xóm trên bãi này cách đây 28 năm cho biết:
“Lên lớp 5, buộc các cháu phải có giấy tờ, có khai sinh mới vào được.
Nên tôi chỉ xin bổ sung xóa nạn mù chữ cho các cháu từ lớp 1 thôi. Còn
cấp 2 là phải bỏ học”
Được biết hiện nay, phía chính quyền đã hỗ trợ làm giấy khai sinh, chứng
minh nhân dân cho các trẻ em nơi đây nên nhiều em được học tiếp lên cấp
trung học.
Tuy nhiên, hầu hết người lớn trong xóm đều không có giấy tờ tuỳ thân căn
bản - đồng nghĩa với việc họ không được hưởng các quyền công dân.
Đùm bọc nhau mà sống
Trong xóm này, duy chỉ có ông Được có đất thuê để trồng trọt, còn lại
những người khác đều làm nghề buôn bán, làm mướn, hoặc lượm ve chai ở
trên bờ. Ông Được cho biết:
“Một vài người có điều kiện thì đi bán nước bán nôi trên bờ. Già thì ở
nhà trông cháu rồi tối khuya đi lượm đồng nát tới 2, 3 giờ sáng. Thanh
niên khỏe khỏe thì đi làm mướn trên chợ người. Công việc bấp bênh thất
thường”.
Người phụ nữ bế cháu: “Cô đi lượm đồng nát nhưng giờ nghỉ ngơi thôi con ạ. Thu nhập khoảng 50 một ngày.”
Trước đây, người dân trong xóm không có điện và nước sạch để sử dụng.
Khoảng 2 năm nay, các tổ chức, cá nhân thiện nguyện tặng những tấm pin
năng lượng mặt trời đặt trên mái nhà nên họ có điện sử dụng, còn nước
sinh hoạt được bơm từ các giếng khoan lên, đổ vào các thùng lọc nước do
sinh viên trường y giúp đỡ kinh phí và công sức.
Biết đi đâu ngày mai?
Vì không có giấy tờ tùy thân, người dân bãi giữa hoàn toàn không được
hưởng các dịch vụ y tế cũng như không có bảo hiểm y tế. Khi có bệnh thì
phải bỏ tiền túi ra chữa bệnh.
Theo chia sẻ của ông Được, mỗi hộ gia đình trên bãi hàng tháng góp 20
ngàn đồng vào một quỹ để giúp trẻ em học tập, mua thuốc chữa bệnh cho
người đau ốm, và hỗ trợ các cặp vợ chồng tổ chức hôn lễ đơn giản.
Mới đây, Hiệp hội Vận tải Hà Nội đưa ra đề xuất xây dựng bãi đỗ xe trên
bãi giữa sông Hồng để phục vụ khách du lịch thăm quan cầu Long Biên khi
cây cầu này ngưng lưu thông xe.
Được biết từ nhiều năm nay, nhiều dự án đã được đề ra tại vùng bãi này nhưng vẫn treo lơ lửng đó chưa được triển khai.
Ông Được cho rằng dự án bãi đỗ xe như vừa nói có thể không động đến phần
đất xóm ông. Tuy nhiên, điều mà toàn bộ người dân ở đây lo ngại là nếu
có dự án tiến hành lấy đất của họ thì họ sẽ không còn chốn dung thân.
Người dân nơi đây cho biết phía chính quyền chưa bao giờ có ý định tái định cư cho họ ở một nơi đàng hoàng, tử tế.
Ông Được nói về điều này: “Mình ở khu vực địa bàn người ta thì người
ta chỉ quản lý con người, quản lý nhân khẩu. Miễn anh đừng phạm luật là
được. Sau này có dự án thì có thể đuổi anh đi.”
Saturday, April 8, 2017
PHAN NGHỊ * PHỞ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY
PHỞ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY
– Phan-Nghị
Cũng như thịt chó, phở là một đặc sản của
miền Bắc. Người ta cho rằng nó chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm
1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau
và một ở xóm Đại Đồng.
Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người
Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải
chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm, mặc dù
họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ (Hà nội) vào
những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu
chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh
xếp nước… Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên
đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.
Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực
sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành
trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy
phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.
THƠ PHỞ…
Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở
ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm
tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề
các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm
trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là
ngon. Nó không giống như kẹo kéo “ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn
lại nài ăn năm”. Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi
mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả
truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê
Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô
Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu
giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ
một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe
thấy… toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ
nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn
câu :
Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề : tái, chín, gầu, gân, sách
Gia vị : hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…
Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một
người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết
bài thơ ấy và treo ở trong tiệm.
… VÀ CÂU ĐỐI PHỞ
Saigon
thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món
tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn
nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô
tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ
ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một
nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh… máu văn nghệ, ông bắt đầu
giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.
Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh,
trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền
làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín,
nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho
nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ
nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa
trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở
lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa,
nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm
trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh
sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý
thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm
chồng”
Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa
nhất là cụm từ ”tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có
nghĩa là ”phở tái giá”. Cũng như ”da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố
Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ
có một vế.
PHỞ GÀ TRỐNG THIẾN
Ngay cả Hà Nội – quê hương của phở – từ
trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến, cho dù ở phố
Huyền Trân Công Chúa, vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon
nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về
tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở
tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải
làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ
mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp
xì xụp.
Phở
gà trống thiến xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn
Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm
thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và
mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén
ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt
tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm
cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ,
tự nhiên như một cô đầm non.
Đó
là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng
giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi; ban đêm, chìm đắm trong
ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ.
Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm
phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.
PHỞ KHÔNG RAU KHÔNG GIÁ
Tiệm
này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý – Yên Đỗ (nay là ngã tư
Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lý Chính Thắng) khoảng 100m – trong một cái hẻm
rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất
cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không
có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp
với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới
ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ
sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị
không rau không giá đó.
Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn
tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt
mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những
năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp.
Hà
Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở :
phở vịt, phở ngan, phở lợn (thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một
phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở.
Đó là khu Hiền Vương (Võ Thị Sáu – Pasteur). Hiền Vương chuyên bán phở
gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa
có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý
Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các (đường Võ Văn
Tần) và phở Bưu Điện hôm nay.
Những
tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật,
phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua
đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm
để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một
thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên
đường Võ Tánh góc Trương Tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy
tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổi tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng
khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là
bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ
chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái
tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng
thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Đặc biệt tiệm
BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở
tái thì đúng là nhà quéo.
Đang
phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 1982 bỗng dưng ông dẹp
tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng
lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này
ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi
dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên
ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con
gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt
mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi
đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tâm Vấn ở tít trong Chợ Lớn, sáng
nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt – không phải để đánh banh lông –
mà là để đớp phở.
Cao
thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông,
còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe
đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao
quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có lẽ tại tối
trước ông K. anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân
chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước
phở chổng mông lên trời. Phở chính thống là thế : bao nhiêu thịt là bấy
nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết,
chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon
vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy
lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng
với cô chủ phở như thế này :
Mỗi
sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để
ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như
thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này
cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang
hồ. Được ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống. Ngày nay nghe đâu ông
Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary,
Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.
Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của
chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông,
trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu
thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có
mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.
Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm
khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn
toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh
bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng
đàn bà.
PHỞ SAU 75 VÀ CƠN SỐT PHỞ BẮC HẢI
Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt
đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ
Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao,
xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí
ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn
một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.
Số là vào thời bao cấp, ở phố Thuốc Bắc,
Hà Nội có một tiệm phở chui mà ông chủ tên là Bắc Hải. Đó là bí danh,
biệt hiệu hay tên thật của ông ? Chả có ai rỗi hơi tìm hiểu. Chỉ biết cứ
thế mà gọi. Tiệm của ông dĩ nhiên là đông khách, nhưng toàn khách quen.
Những cái mặt lạ hoắc đừng có hòng bước vào. Trong khi phở quốc doanh
“chạy qua hàng thịt”, thì phở Bắc Hải cả bánh lẫn thịt đều có chất
lượng. Ngoài ra lại còn cái thú uống rượu quốc lủi nhắm với món “bốc mả”
(xíu quách). Thịt do dân”bờ lờ” (buôn lậu) từ Phú Xuyên, Thường Tín
hoặc ngả Gia Lâm đi theo xe khách thành, đưa vào bán cho các mối. Còn
quốc lủi do ngoại thành cung cấp.
Ông
Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái
áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi
khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa
đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ
thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói
cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong
xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với
một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng
nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.
Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào
Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ
tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch. Râu. Gọi như thế là vì
trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh
xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm
xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm”.
Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn,
Ch. Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải
của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp
chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.
Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.
Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé
trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một
người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn
sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng
thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các
bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật.
Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ
con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.
Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết.
Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa
xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy
mà thương !
Vài
năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa
lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở
vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng
bụng.
PHỞ THẦY CÔ
Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.
Phở
thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề
đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên
bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào
ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các
tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương
vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn
vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô
đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.
Giữa
họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không
có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng
mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là
một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.
Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên,
còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái
nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học,
nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại,
bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp”
với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng
không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ
dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.
Phở
Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi
bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu
so với phở Hòa ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém
treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều.
Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ,
đó là một giá rẻ mạt.
Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại
trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới
đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà,
màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông
giống như một bức tranh tĩnh vật.
Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.
Phở
có bảng hiệu mang tên số nhà, nhưng người ta cứ quen miệng gọi là phở
T. D., tên ông chủ, mặc dù anh không đứng bán. Căn nhà đó, xưa kia, anh
mở tiệm cơm Tây với hai món đặc sản : chateaubriand và chân giò nấu đậu
trắng. Các bằng hữu của anh đa số là những người làm văn nghệ. Anh cũng
được liệt vào số đó, bởi giọng ca tuyệt diệu của anh. Nhưng mỗi năm anh
chỉ hát có một lần và chỉ hát có một bài vào đêm Giáng sinh : “Đêm thánh
vô cùng” (Silent Night). Một điệu nhạc tắt đèn. Trong lúc tiếng ca
thánh thiện của anh vang lên, người ta ôm nhau đi một đường slow.
Sau
khi thưởng thức phở Quyền, phở Tàu Bay, phở bà Dậu, nếu muốn đổi hương
vị, người ta có thể đến T.D để nếm món ”vú sữa”, tức là khoảng thịt bụng
có những núm vú, ăn béo ngậy, thơm và sần sật, nhưng không giống như
sụn hoặc nậm của thịt chó. Nhà hàng có mặt bằng rộng, quạt máy quay vù
vù, khách ăn không phải chịu cái cảnh mồ hôi mẹ mồ hôi con cùng chảy.
PHỞ CÔNG TỬ SÀI GÒN
Đó là tiệm phở gà H. B. ở đường Võ Thị
Sáu. Ông chủ tiệm tên là Q., một người thuộc giới giang hồ mà cả hai đạo
hắc bạch đều biết… tiếng từ khi Q. ở địa vị một ông chủ.
Nghề
phở đến với anh một cách tình cờ. Trong một cuộc đọ tài cao thấp với
một tay anh chị, anh bị hắn thưa về tội đả thương, và sau đó bị đưa đi
cải tạo. Thời gian chém tre đẵn gỗ trên ngàn, anh thường hay giúp đỡ một
anh bạn đồng cảnh ngộ. Thấy bạn bị bắt nạt là anh can thiệp ngay.
Không phải bằng vũ lực, mà chỉ với một chiêu số thôi : bấm vào huyệt nội
quan ở cổ tay và huyệt khúc trì ở khuỷu tay, là địch thủ phải thổi bài
kèn ”ô rơ lui” ngay. Q. lại còn thường giúp anh ta trong các công tác
lao động. Để đáp lại ân tình ấy, người bạn kia đã truyền cho anh nghề
nấu phở. Anh ta dạy Q. từ cách lựa chọn gà – phải là gà được nuôi ở nông
thôn – đến cách pha chế gia vị cho thùng nước lèo, và cách nấu nướng
làm sao cho gà khỏi bị vỡ da.
Sau
thời gian cải tạo, Q. về đường Võ Thị Sáu mở tiệm phở H.B. – tiệm phở
ngon nhất trong khu phố ấy. Chỉ trong vòng ba năm, anh đã phất lên như
diều. Và bây giờ, với 8 năm trong nghề phở, anh chỉ giữ vai trò chuyên
viên, và để cho một số đệ tử đứng bán. Còn một chàng nữa cũng phất lên
như Q., nhờ phở. Đó là anh D., chủ một tiệm phở ở trong một con hẻm
đường Nguyễn Thị Minh Khai, cách nhà thương Từ Dũ khoảng 500m. Từ Hà Nội
vô thành phố Sài Gòn, anh chỉ có đủ tiền để làm một gánh phở ở đầu ngõ.
Mới đầu, anh chả biết một tí gì về cái nghề này. Toàn đi học mót. Hỏi
người này, học người kia, rồi tới ăn ở các tiệm phở danh tiếng để thử
nghiệm. Phải mất gần một năm anh mới thành thạo.
Phở
D. hôm nay nổi tiếng ngang với phở Quyền ở Phú Nhuận. Tiệm của anh có
một món đặc biệt : tái bắp. Muốn ăn món này phải đi sớm, bởi 8 giờ sáng
là hết. Có một điều ly kỳ là phở D. ăn vào buổi chiều bao giờ cũng ngon
hơn buổi sáng. Cả chủ lẫn khách đều công nhận chuyện đó. Hỏi nguyên nhân
tại sao ? Anh lắc đầu vì không giải thích được. ”Sáng và chiều cùng một
thùng nước lèo. Nửa thùng buổi sáng còn lại, buổi chiều chỉ việc đun
sôi, không pha thêm một chút gia vị nào, thế mà nó lại ngon hơn buổi
sáng”, anh mỉm cười nói.
Bây
giờ thì phở có bề thế lắm rồi. Anh mới tậu thêm một ngôi nhà ở đầu hẻm.
Phở là một đặc sản của Việt Nam. Đó là điều ”quốc tế phải công nhận”.
Nhưng ông Tây lại bảo nó là “soupe chinoise”, còn ông Tàu thì lại bảo nó
là “ngầu phấn” chỉ là tiếng Quảng Đông, phiên âm ra tiếng Hán Việt là
“ngưu” (bò hoặc trâu), ”phấn” (bột gạo). Một điều nữa, hỏi ông tổ của
nghề phở là ai ? Các ông chủ tiệm phở đều lắc, mặc dù nhờ phở, họ đã có
của ăn của để.
thụyvi post (theo Phan Nghị)
TS. PHẠM CAO DƯƠNG * BIÊN GIỚI VIỆT HOA
TS Phạm Cao Dương
Biên Giới Việt Nam và Trung Quốc Qua Các Triều Đại Quân Chủ Việt Nam
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ?
Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần.
Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian.
Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất củaThái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.
Vua Lê Thánh Tông (1473)
Do thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc Việt Nam và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong bài này người viết trình bày một cách tổng quát vấn đề biên giới Việt – Trung qua các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, với nội dung gồm có ba phần: phần thứ nhất nói về tính cách phức tạp của biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc phần thứ hai nói về chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ của các triều đại Việt Nam ở miền biên giới này và phần thứ ba dành cho một số những cuộc tranh chấp điển hình.
Bài này được viết nhằm cung cấp cho độc giả một vài sự kiện quan trọng và những nhận định liên hệ tới nỗ lực của tổ tiên người Việt trong công cuộc giữ gìn và bảo vệ đất nước, một nỗ lực không ngừng nghỉ kể từ ngày lập quốc cho đến những ngày hiện tại.
Tính cách phức tạp của vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Khi tìm hiểu vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhận xét đầu tiên người ta có thể đưa ra là cho đến thời kỳ Pháp thuộc, giữa hai nước không có đường biên giới như người ta quan niệm ngày nay mà chỉ có những vùng biên giới mà thôi. Đặc tính này bắt nguồn không những từ thực tại địa lý ở nơi tiếp giáp giữa hai quốc gia mà còn do những yếu tố nhân văn, lịch sử và quan niệm về chính trị của các triều đại trị vì nữa.
Trước hết là về địa lý. Giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc không có núi cao hay sông lớn có thể dùng làm ranh giới thiên nhiên.
– Những sông hay những núi được viện dẫn như những đường phân thủy chỉ là những đồi hay sông nhỏ, có khi chỉ được biết tới một cách mơ hồ và đã trở thành đầu mối của những tranh chấp.
Điển hình là sự lẫn lộn hay cố tình lẫn lộn giữa sông Đổ Chú và một sông nhỏ khác ở thượng nguồn của sông Chảy trong vụ tranh chấp về biên dưới giữa hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ thuộc trấn Tuyên Quang của Việt Nam và phủ Khai Hóa thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc vào năm 1728.
Cũng vậy, với các núi Xưởng Chì hay Diên Xưởng, núi Tụ Long mà người viết dám chắc là các giáo sư sử địa hiếm người biết đến ngay cả nghe đến các địa danh này.
Các rặng núi lớn có hình cánh cung ở phía đông của sông Hồng thay vì nằm ngang theo hướng tây – đông để làm ranh giới giữa hai nước lại xòe ra theo hình nan quạt và mở rộng về phía bắc khiến cho sự xâm nhập từ phương bắc xuống trở thành dễ dàng.
Nhiều sông của Trung Quốc lại có nguồn từ trên đất Việt Nam hay ngược lại. Tính cách núi liền núi, sông liền sông của địa lý chính trị ở biên giới Hoa Việt này không những đã làm cho việc ngăn chặn các cuộc xâm lăng qui mô của người Tàu từ phương bắc xuống trở thành vô cùng khó khăn cho người Việt, mà còn làm cho ranh giới giữa hai nước không bao giờ ổn định.
Về phương diện nhân văn, miền biên giới Việt – Trung không phải là nơi cư trú của người Việt hay người Tàu mà là của nhiều sắc dân thiểu số của các miền núi như Tày, Nùng, Thổ, Mán…
– Những dân này đã ở cả hai phía, ranh giới cư trú thường không rõ ràng. Nhiều nhóm đã từ Trung Quốc di cư xuốngViệt Nam qua nhiều giai đoan lịch sử khác nhau.
Những con số được ghi trong tác phẩm Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ của các
soạn giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, xuất bản năm 1930 ở
Hà Nội, dưới thời Pháp thuộc, có thể cho ta một khái niệm về tính cách
thiểu số của người Việt cư ngụ ở miền này so với các dân miền thượng.
Trước hết là ở tỉnh Lạng Sơn. Trong số 85.300 cư dân của tỉnh này,
người Kinh hay người Việt chỉ có 3.120 người tức 4%, trong khi con số
người Thổ là 38.900 người hay 36%, người Nùng là 37.500 người hay 44%,
và người Hoa là 3.800 hay 4%.[i]
Ở Cao Bằng, trên tổng số dân là 87.000 người, số người Kinh chỉ có
1.200 người hay 1,4%, còn người Thổ là 39.930 người hay 46%, người Nùng
38. 750 người hay 44%, còn lại là người Tàu.
Còn ở Hà Giang thì trong tổng số dân là 69.600 người, người Kinh chỉ có
1.000 người, tức 1,4%, so với 20.600 người Thổ hay 31%, còn lại là người
Lô Lô, 30%, người Mán, 14%… Các miền giáp ranh giữa các tỉnh này và
các tỉnh miền Nam Trung Quốc do đó đã trở thành những vùng biên giới
giữa hai nước.
Sự tùy thuộc vào nước này hay nước kia một phần nằm trong tay các thổ tù
trưởng tức các lãnh tụ của các dân địa phương và sự trung thành của họ
từ đó tùy theo chính sách của chính quyền trung ương đối với họ.
Về quan niệm chính trị của các triều đình liên hệ, vì là những miền đất ở xa kinh đô của cả hai nước Hoa, Việt, các vùng biên giới này được coi như những miền đất cơ mi hay ky mi là những miền đất làm phên giậu cho triều đình trung ương.
– Đây là một hình thức cai trị lỏng lẻo nhằm liên kết những miền đất xa xôi thay vì cai trị trực tiếp trong chế độ hành chánh thời cổ, ít nhất từ thời nhà Đường của Trung Quốc mà Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã tả rõ trong câu “Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.”
Các thổ tù trưởng do đó được cha truyền con nối cai trị lãnh thổ riêng của mình với điều kiện tuân phục triều đình trung ương.
Vượt lên trên các địa phương, quan hệ giữa các triều đình Trung Quốc và các triều đình Việt Nam cũng mang phần nào tính cách phong kiến của Á Đông theo đó Việt Nam chỉ là một chư hầu của Trung Quốc, lãnh thổ Việt Nam cũng là lãnh thổ Trung Quốc.
Điều này thường được thể hiện qua lời nói hay các thơ văn của các sứ giả Trung Quốc khi được các vua Việt Nam hỏi thăm về sức khỏe sau những cuộc hành trình tới kinh đô Việt Nam.
Việt Nam thường được người Tàu gọi là Giao Chỉ, hiểu ngầm là Giao Chỉ Quận, là một quận của nước Tàu qua tước phong các vua Tàu phong cho các vua Việt Nam là Giao Chỉ Quận Vương kể từ thời Vương Liễn nhà Đinh, kèm theo với danh vị Tiết Độ Sứ là một chức quan của người Tàu, kể cả sau khi tước vị An Nam quốc vương đã được phong cho vua Lý vào năm 1174 và Việt Nam chính thức trở thành An Nam Quốc và kéo dài rất lâu về sau này.
Thái độ phong kiến luôn luôn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận này đã giúp cho các hoàng đế Trung Quốc giữ được thể diện mỗi khi phải nhượng bộ và trao trả lại những đất mà họ đã chiếm của Việt Nam, vì theo họ, trong thiên hạ đất nào chẳng là đất của thiên tử.
Rõ rệt nhất và gần với ta nhất là trong sắc văn của vua nhà Thanh viết vào năm Ung Chính thứ sáu, năm Bảo Thái thời Vua Dụ Tông nhà Lê (1728), gửi cho vua Việt Nam về việc trả lại vùng mỏ đồng Tụ Long cho Việt Nam, đoạn chính có viết: “Mới đây Ngạc Nhĩ Thái (Tổng Đốc Vân Nam và Quý Châu thời đó) đem bản tâu của quốc vương (vua Việt Nam thời đó) tiến trình, lời lẽ ý tứ trong bản tâu tỏ lòng cung kính, trẫm (vua Thanh) rất vui lòng khen ngợi. Vả lại, 40 dặm ấy nếu thuộc vào Vân Nam thì là nội địa của trẫm, nếu thuộc vào An Nam thì vẫn là ngoại vi của trẫm, không có chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn cho đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương (vua Việt Nam) được đời đời giữ lấy.”[ii] Nói cách khác sự phân chia biên giới giữa hai nước Hoa, Việt mang nặng tính cách lịch sử và quan niệm chính trrị cổ thời. Đó là những giới hạn có tính cách hành chánh nhiều hơn là phân ranh quốc tế.
Chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ ở các miền biên giới của các triều đại quân chủ Việt Nam
Chủ trương này được xác định rất rõ ngay từ thời nhà Lý qua bài thơ Nam Quốc Sơn Hà được truyền tụng là của Lý Thường Kiệt và được khẳng định bởi các triều đại kế tiếp.
– Trong bài Nam Quốc Sơn Hà tác giả đã khẳng định sự cương quyết của triều đình nhà Lý là sẽ không dung tha bất cứ kẻ nào dám xâm phạm vào lãnh thổ nước mình. Nhưng đó là một thứ tuyên ngôn nói với người ngoài, với kẻ địch, một kẻ địch lớn hơn và mạnh hơn gấp bội nước Việt Nam thời đó.
Lê Thánh Tông, bốn thế kỷ sau, năm Hồng Đức thứ tư (1473), khi dụ Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy là người ở trong nước đã nghiêm khắc khẳng định: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.”[iii]” Lời dụ này vừa là một nghiêm lệnh, vừa là một sách lược.
Đó là không được nhượng bộ dù là nhượng một thước núi, một tấc sông, vì
đó là của cha ông để lại, phải cương quyết tranh biện bảo vệ đến cùng
không cho kẻ địch lấn dần ngay tự bước đầu ở mức độ địa phương. Nếu kẻ
địch không nghe thì triều đình sẽ sai sứ sang biện bạch phải trái theo
phương thức ngoại giao. Còn kẻ nào dám đem dù là một tấc đất dâng cho
giặc thì không phải chỉ là bị tử hình mà thôi, mà còn bị tru di nghĩa
là giết ba họ nữa. Đây là hình phạt nặng nhất của thời quân chủ, một tội
dành cho những kẻ khi quân, phản quốc.
Thực thi chủ trương và đường lối kể trên, các nhà cầm quyền quân chủ Việt Nam đã phải đương đầu vừa với các thổ châu mục của mình, vừa với các quan lại địa phương Trung Quốc ở miền giáp ranh với những địa điểm tranh chấp và với triều đình Trung Quốc. – Đối với các thổ mục địa phương, các chính sách được dùng là vừa uyển chuyển, vừa khoan dung, phủ dụ, vừa kết thân, vừa cứng dắn, nghiêm khắc trừng phạt với mục tiêu trước sau không đổi là giữ vững biên cương. Đối với các quan lại và triều đình Trung Quốc thì nhún nhường, khéo léo, lựa những danh sĩ thông minh, lanh lẹ, có tài biện luận, đồng thời kiên trì tranh đấu, không bỏ cuộc, cố gắng duy trì sự tranh chấp, không nhượng bộ để thiệt thòi cho nước mình hầu có thể đặt vấn đề lại sau này.
Để bảo đảm sự trung thành của các thổ mục địa phương, ngoài chính sách cai trị lỏng lẻo, để cho các châu mục cha truyền, con nối như các họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng , họ Chu, họ Giáp, họ Thân, họ Hà, họ Đèo… tự trị trong các lãnh thổ của họ, các vua nhà Lý còn dùng hôn nhân để ràng buộc họ chặt chẽ hơn với triều đình trung ương, không phân biệt kinh thượng.
Việc các vua nhà Lý gả các công chúa cho các châu mục miền núi đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam khá nhiều như năm 1029 Lý Thái Tông gả Công Chúa Bình Dương cho châu mục Lạng châu là Thân Thiện Thái, năm 1082, dưới thời Lý Nhân Tông, Công Chúa Khâm Thánh được gả cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh, năm 1142, dưới thời Lý Anh Tông, Công Chúa Thiều Dung được gả cho Dương Tự Minh là thủ lãnh châu Phú Lương, năm 1167, cũng dưới triều Lý Anh Tông, Công Chúa Thiên Cực được gả cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung Hầu… Trước đó Tống Sử hay một sách khác thời nhà Tống cũng chép là tổ tiên của họ Thân, trước mang họ Giáp, là Giáp Thừa Quí lấy con gái của Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, con Thừa Quí là Thiệu Thái, lại lấy con gái của Đức Chính, tức Lý Thái Tông, rồi con Thiệu Thái là Cảnh Long, lại lấy con Nhật Tôn, tức Lý Thánh Tông… Ngược lại, Lý Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu Chân Đăng đưa về làm hoàng phi.
Thực thi chủ trương và đường lối kể trên, các nhà cầm quyền quân chủ Việt Nam đã phải đương đầu vừa với các thổ châu mục của mình, vừa với các quan lại địa phương Trung Quốc ở miền giáp ranh với những địa điểm tranh chấp và với triều đình Trung Quốc. – Đối với các thổ mục địa phương, các chính sách được dùng là vừa uyển chuyển, vừa khoan dung, phủ dụ, vừa kết thân, vừa cứng dắn, nghiêm khắc trừng phạt với mục tiêu trước sau không đổi là giữ vững biên cương. Đối với các quan lại và triều đình Trung Quốc thì nhún nhường, khéo léo, lựa những danh sĩ thông minh, lanh lẹ, có tài biện luận, đồng thời kiên trì tranh đấu, không bỏ cuộc, cố gắng duy trì sự tranh chấp, không nhượng bộ để thiệt thòi cho nước mình hầu có thể đặt vấn đề lại sau này.
Để bảo đảm sự trung thành của các thổ mục địa phương, ngoài chính sách cai trị lỏng lẻo, để cho các châu mục cha truyền, con nối như các họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng , họ Chu, họ Giáp, họ Thân, họ Hà, họ Đèo… tự trị trong các lãnh thổ của họ, các vua nhà Lý còn dùng hôn nhân để ràng buộc họ chặt chẽ hơn với triều đình trung ương, không phân biệt kinh thượng.
Việc các vua nhà Lý gả các công chúa cho các châu mục miền núi đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam khá nhiều như năm 1029 Lý Thái Tông gả Công Chúa Bình Dương cho châu mục Lạng châu là Thân Thiện Thái, năm 1082, dưới thời Lý Nhân Tông, Công Chúa Khâm Thánh được gả cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh, năm 1142, dưới thời Lý Anh Tông, Công Chúa Thiều Dung được gả cho Dương Tự Minh là thủ lãnh châu Phú Lương, năm 1167, cũng dưới triều Lý Anh Tông, Công Chúa Thiên Cực được gả cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung Hầu… Trước đó Tống Sử hay một sách khác thời nhà Tống cũng chép là tổ tiên của họ Thân, trước mang họ Giáp, là Giáp Thừa Quí lấy con gái của Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, con Thừa Quí là Thiệu Thái, lại lấy con gái của Đức Chính, tức Lý Thái Tông, rồi con Thiệu Thái là Cảnh Long, lại lấy con Nhật Tôn, tức Lý Thánh Tông… Ngược lại, Lý Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu Chân Đăng đưa về làm hoàng phi.
Vũ Quán có từ đời vua Lý Thái Tổ 1010 – 1028
Đối với những lãnh tụ đã làm phản như trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, các vua cũng tỏ ra rất khoan dung.
Mở đầu, năm 1038, khi Nùng Tồn Phúc xưng đế chống lại triều đình , Lý Thái Tông thân chinh đi đánh bắt được Tồn Phúc đem về kinh xử trảm, con là Trí Cao và vợ là A Nùng chạy thoát được và trở về lập ra nước Đại Lịch, tiếp tục chống lại vào năm 1041. Lý Thái Tông lại thân chinh đi đánh, bắt được Trí Cao nhưng thương tình cha và anh đã bị giết nên không những tha cho về lại còn sai sứ đến tận nơi phong hàm thái bảo.
Sau đó mẹ con Trí Cao lại xưng đế, làm phản, chống lại cả hai triều Tống, Việt nhưng cuối cùng bị đánh thua phải bỏ chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đó. Hai lần làm đại nghịch nhưng các triều đình Việt Nam đương thời và sau này vẫn tỏ ra rất khoan nhượng với họ Nùng và những người liên hệ, bằng cớ là ở Cao Bằng các vua Việt Nam vẫn để cho người địa phương lập đền thờ cả hai mẹ con Nùng Trí Cao.
Hai đền này nằm trên hai ngọn núi trong số bốn ngọn bao bọc chung quanh tỉnh Cao Bằng là núi Kỳ Cầm ở phía bắc (đền thờ Nùng Trí Cao), và núi Kim Phả ở phía đông (đền thờ A Nùng, gọi là đền Bà Hoàng), cho đến năm 1930 hãy còn.
Nhà Tổ, nhà Tăng, và đền thờ anh hùng Nùng Trí Cao
Chính sách được goi là hòa thân này cộng thêm với vị trí gần gũi với kinh đô Thăng Long của người Việt hơn là kinh đô của người Tàu và chắc chắn các đường tiếp tế các sản phẩm của miền đồng bằng và miền biển, nhất là muối từ châu thổ Sông Hồng chắc chắn đã là những tác tố vô cùng trọng yếu của sự trung thành của các châu mục với các triều đình Việt Nam hơn là với triều đình Trung Quốc.
Trong cách tranh biện để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, người ta thấy công tác đã được thực hiện ở hai cấp địa phương và trung ương. Ở địa phương các thổ mục đóng vai trò chính yếu . Vì là người địa phương, họ nắm vững tình hình từ địa lý thiên nhiên qua từng con sông, từng ngọn suối, từng trái đồi, từng cột mốc… đến tình hình dân cư với những ruộng nương, nhà cửa, đền thờ của họ, biết rành rẽ hơn những quan lại được cử từ miền xuôi lên. Không những thế, vì được tự trị, những lãnh thổ được trao cho họ được họ coi là phải cẩn trọng giữ gìn. Chỉ đến khi cần phải tranh luận phải trái giữa hai triều đình trung ương, vai trò của các nhà trí thức, các sứ thần mới được đặt ra.
Một số những cuộc tranh chấp điển hình
Với chủ trương bảo vệ từng thước núi, từng tấc sông, các triều đại quân chủ Việt Nam một mặt đã cương quyết đấu tranh để bảo vệ những phần đất đã có, mặt khác đã kiên trì đòi lại những lãnh thổ đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm, ngoại trừ hai trường hợp nhượng đất quá nhiều dưới thời Hồ Quí Ly hay dâng đất dưới thời Mạc Đăng Dung.
Cả hai trường hợp này, đặc biệt là trường hợp Mạc Đăng Dung, những người chủ trương đã bị hậu thế lên án nặng nề. Cả hai triều đại này đều bị gọi là ngụy, không phải chỉ vì có nguồn gốc là do sự thoán nghịch mà ra mà còn là vì những hành động bị coi như là phản quốc nữa. Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược, đã viết về Mạc Đăng Dung như sau:
”Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ…. Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được.”[iv]”
Trên bình diện tích cực, trong phần cuối của bài này, ta nhìn lại ba trường hợp điển hình trong đó các vua quan Việt Nam nói riêng, và người Việt Nam nói chung, đã tỏ ra hết sức kiên nhẫn và cương quyết trong công cuộc bảo vệ biên cương của nước mình. Đó là là các cộc đấu tranh để đòi lại châu Quảng Nguyên, các châu Vật Dương, Vật Ác thời nhà Lý và vùng mỏ đồng Tụ Long trong những giai đoạn sau này.
Quảng Nguyên là tên cũ của một châu thuộc tỉnh Cao Bằng, từ thời nhà Lê được đổi thành Quảng Uyên. Dưới nhà Lý, để trả đũa việc Lý Thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh các châu Khâm, châu Liêm và châu Ung thuộc các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc vào năm 1075, năm 1076 nhà Tống sai Quách Quì sang đánh Đại Việt . Bị quân Đại Việt chống trả kịch liệt lại không hợp thủy thổ, quân Tống bị thiệt hại nặng nề phải rút lui, nhưng vẫn giữ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô, Mậu và huyện Quang Lang. Trong số các châu huyện này Quang Lang và Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả vì Quang Lang, sau này được nhà Lê đổi là Ôn Châu là cổ họng của châu Ung, còn Quảng Nguyên là nơi có nhiều mỏ vàng và mỏ bạc. Để thu hồi lại hai châu này, nhà Lý đã dùng cả quân sự lẫn ngoại giao.
Huyện Quan Lang đã được Lý Thường Kiệt chiếm lại không lâu sau đó, có lẽ cùng lúc với các châu Tô Mậu và Môn. Riêng châu Quảng Nguyên, việc đòi lại phức tạp hơn vì khả năng sản xuất vàng bạc của địa phương này. Ở đây đường lối ngoại giao đã được sử dụng.
Hai lần nhà Lý đã sai sứ bộ sang thương nghị. Lần thứ nhất không thành công vì các quan địa phương nhà Tống viện cớ lời biểu của vua Lý có dùng có dùng
chữ húy của triều Tống không nhận. Lần thứ hai, sứ bộ do Đào Tông Nguyên cầm đầu, đem theo năm con voi làm đồ cốngvới lời yêu cầu nhà Tống trả lại các đất quân Tống đã chiếm. Nhà Tống ưng thuận với điều kiện nhà Lý trả lại tất cả những dân các châu Khiêm, Liêm và Ung đã bị quân của Lý Thường Kiệt và Tôn Đản bắt về Đại Việt trước đó. Nhà Lý ưng thuận và Quảng Nguyên đã trở về với Đại Việt. Sự hoàn trả Quảng Nguyên cho Đại Việt đã làm cho nhiều người bên nhà Tống bất mãn. Hai câu thơ châm biếm: “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim” có nghĩa là vì tham voi Giao Chỉ nên mất vàn Quảng Nguyên mà các tác giả Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca dịch sang thơ là “Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên” đã được họ làm trong trường hợp này. Thắng lợi này xảy ra vào năm 1079 dưới thời Lý Nhân Tông.
Chùa Một Cột
Thành công trong việc đòi lại châu Quảng Nguyên và một số đất khác ít năm sau, Việt nam đã không thành công trong việc đòi lại các động Vật Dương, Vật Ác từ trước đã bị các thổ mục họ Nùng dâng cho nhà Tống, mặc dầu sứ bộ nhà Lý do Lê Văn Thịnh, vị thủ khoa của khoa thi đầu tiên của người Việt cầm đầu đã tranh luận gay gắt. Phản bác lại chủ trương của các quan nhà Tống cho rằng các đất nà là của Tống vì do các thổ mục địa phương dâng cho nhà Tống vì họ qui phục nhà Tống., Lê văn Thịnh lý luận rằng “Đất thì có chủ; bọn thuộc lại giữ đất đem dâng nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất cho chủ lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được, mà ăn hối lộ và tàng trữ của ăn trộm pháp luật cũng không dung. Huống chi, bọn chúng lại có thể làm nhơ bẩn cả sổ sách của quí vị hay sao?”
Không những quyết tâm bảo vệ lập trường, các vua quan Đại Việt còn tỏ ra rất kiên trì. Các cuộc thương nghị đã diễn ra cả thảy sáu lần những đều bị nhà Tống khước từ, cuối cùng đã bị bỏ dở.
Thắng lợi trong việc đòi lại được mỏ đồng Tụ Long xảy ra vào năm 1728, năm Bảo Thái thứ 9, thời Vua Trần Dụ Tông. Thắng lợi này có thể coi là điển hình nhất trong nỗ lực bảo vệ lãnh thổ của các triều đại quân chủ Việt Nam.
Mỏ đồng ở tống Tụ Long
Để kết luận ta có thể nói là trong suốt mười thế kỷ tồn tại, các triều đại gọi là quân chủ Việt Nam đã luôn luôn quan tâm đến sứ mạng vô cùng thiêng liêng là bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn, trường kỳ và tế nhị, đôi khi nguy hiểm, trong đó từ vua quan, nho sĩ trí thức, hoàng phi, công chúa… đến các dân thiểu số ở các vùng biên giới xa xăm đều đã cùng nhau đóng góp cho nỗ lực chung.
Điều đáng chú ý ở đây là trong chính sách hoà thân của các triều đình thời đó, các vua đã hy sinh luôn cả hạnh phúc cá nhân và gia đình của chính mình, đem các công chúa gả cho các thổ tù trưởng ở những vùng biên cương hẻo lánh, xa xôi vào lúc giao thông liên lạc còn vô cùng khó khăn, hiểm trở. Nỗi nhớ thương, đau đớn, xót xa khó có thể tưởng tượng là lớn lao đến chừng nào.
Nói như vậy nhưng ta cũng không nên quên tình cảm và sự can đảm của các thổ tù trưởng miền biên giới dành cho Triều Đình Việt Nam. Giữa triều đình Trung Quốc, mạnh hơn, các thổ tù trưởng này đã lựa chọn triều đình Việt Nam và từ đó họ đã gặp phải không ít khó khăn.
Cuối cùng là các nhà trí thức. Vai trò của những nho sĩ được trao cho trách nhiệm đi sứ để biện minh cho chủ quyền của nước mình cũng không phải là một việc làm đơn giản, dễ dàng, không vất vả và không nguy hiểm. Lời dặn dò gần như là cảnh cáo của Lê Thánh Tông dành cho Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư (1473) được dẫn trên đây, đã nói lên điều đó. Nhưng cuối cùng thì, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi, họ đã thành công trong sứ mạng thiêng liêng, cao cả của mình khiến người sau khi đọc đến
Nguồn: BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA /LỜI TÒA SOẠN:
Trong
cuộc bảo vệ sự toàn vẹn – chủ quyền lãnh thổ lãnh hải sinh tử hiện nay
đối với người láng giềng khổng lồ phương Bắc; nhận lời mời của Nhật báo
Văn Hóa Online, Giáo sư Phạm Cao Dương đã gởi cho Văn Hóa bài viết về
vấn đề hệ trọng này nhân ngày đầu năm Dương lịch 2016.
Xin gởi đến quý bạn đọc vài hàng tiểu sử Giáo sư Phạm Cao Dương:
Giáo
Sư Phạm Cao Dương, Tiến Sĩ Sử Học Đại Học Paris- Sorbonne, trước năm
1975 giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa Saigon, đồng thời
là Giáo Sư Thỉnh Giảng tại các Đại Học Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Đà-Lạt,
Cao Đài…Ngoài việc dạy học, GS Phạm Cao Dương còn là Hội Viên của các
Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục, Hội Đồng Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học và Ủy Ban
Điển Chế Văn Tự của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Trong
phạm vi khảo cứu, Giáo Sư Phạm Cao Dương là tác giả của nhiều sách và
bài nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt,
tiếng Pháp và tiếng Anh trong đó có các tác phẩmVietnamese Peasants
Under French Domination, do Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học
Berkeley và University Press of America cùng ấn hành năm 1985 và nhiều
sách hay tài liệu giáo khoa khác. Giáo Sư Dương cũng từng là cộng tác
viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Nam và Đông Nam Á của Đại Học Berkeley Hoa
Kỳ và Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Pháp.
Sau
năm 1975, ông định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục hoạt động trong các ngành
giáo dục và nghiên cứu. Ông đã từng giảng dạy các môn về lịch sử, văn
hóa và ngôn ngữ Việt Nam Học tại các Đại Học UCI, UCLA, CSU Long Beach,
CSU Fullerton…
[i] Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ. Hà Nội, Lê Văn Tân, 1930, in lần thứ tư, tr 61.
[ii] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập hai. Hà Nội: Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Sử Học, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998, tr. 468-469.
[iii] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội, 1993, tr. 462.
[iv] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển II. Saigon: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1971, tr. 17.
LÂM QUANG KHẢI * GÁNH HÁT SƠN ĐÔNG
Bình Dương xưa và coi hát thuật Sơn Đông
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/trump-xi-summit-04072017101354.html
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20170406-thuo%CC%A3ng-di%CC%89nh-my%CC%83-trung-cuo%CC%A3c-ga%CC%A3p-kho%CC%81-khan-da%CC%80u-tien-cu%CC%89a-to%CC%89ng-tho%CC%81ng-trump
Lâm Quang Khải
Đám con nít thời xưa tụi này gọi là coi ‘’hát thựt xưn đông’’. Thời một ngàn chín trăm năm mươi lăm, sáu mươi , khoảng đó ( 1955-1960), lâu lâu có đoàn Sơn Đông mãi võ về chợ Bình Dương mình, làm bà con và nhất là đám con nít rộn ràng . Đám con nít tụi này đi coi “Coi hát thựt xưn đông” sướng đã chỉ luôn. Những danh từ “Gánh Hát Sơn Đông”, hay “Hát Thuật Sơn Đông” là chỉ đoàn bán thuốc “gia truyền”, xen kẻ với những màn ảo thuật hoặc biểu diễn “nghề võ” .
Khi thì gánh hát ở chợ đầu trên, khi đầu chợ dưới. Chợ Bình Dương mình lúc đó thì họp chợ buôn bán buổi sáng, một hai giờ trưa là chợ ‘’giãn’’ từ từ, tới ba bốn giờ chiều là trống trải rồi. Sở vệ sinh lo hốt rác, quét dọn coi khá sạch sẽ tươm tất. Chợ đông người buôn bán buổi sang hay chợ chiều trống trải, lúc còn nhỏ đó, tôi đã cảm nhận những rung động riêng tư khác nhau mỗi cảnh chợ trong lòng mình.
Sau khi thấy bà con tụ tập đông đủ, thì người điều khiển gánh hát, và luôn có một hay hai có anh hề lập lại lời ông nói; nối tiếp là tiếng trống, tiếng chập chỏa đánh lên:
“Thưa bà con cô bác”. Anh hề lập lại thưa bà con cô bác (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các ông già”. Anh hề lập lại thưa mấy ông già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa mấy bà già …”. Anh hề lập lại thưa mấy bà già (lùng tùng , lùng tùng xèng!). “Thưa các bác …, thưa các chú … , thưa các cô … , thưa các dì …. , thưa các anh trai … thưa các chị gái …, thưa mấy … mấy em con nít ..”. Mỗi lần nói như vậy luôn anh hề lập lại và trống đánh… lùng tùng , lùng… tùng xèng!
“Hôm nay đoàn hát thuật bán thuốc chúng tôi hân hạnh giới thiệu loại thuốc gia truyền trị nhức mỏi…. Trống đánh lên! … lung tung, tung! lung tung, tung xà!. Cô bác nào đau cái vai …tung tung, tung! Đau cái cổ … lung tung, tung! Đau cái lưng … tung tung, tung! …. Các ông bà cô bác hãy mua thử về xài …tung tung, tung! Không cần mua nhiều … tung tung, tung! . Coi như trước mua vui, sau làm nghĩa! …tung tung, tung! xà!
Các bạn có biết tiếng … xèng là tiếng hai cái chập chả vổ vào nhau, tiếng xà thì cũng vổ vào nhau mà kéo hai miếng chập chả đẩy xẹt ra ngoài.
Sau màn giới thiệu công dụng và hiệu quả của thuốc, thì nhiều bàn tay trong đám đông cầm tiền giơ lên “Bán tui hai gói”, “Tui một gói”, … Số người mua cũng khá đông, lúc đó ông bầu chỉ … người trong đoàn mang thuốc đến: “Bên này hai gói” trống đánh lên... lung tung, tung! Nầy anh ba, “Bên kia một gói!” lung tung, tung! Nây anh năm, hoặc “Bên nây mua!”, “Bên kia mua!”.… lung tung, tung! Nghe sao mà vui và đã cái lỗ tai quá!
Sau màn bán thuốc là màn biểu diễn “nghề võ” (hoặc hát thuật); Đây chính là màn mà bọn trẻ chúng tôi mong đợi! Với múa đao, múa thương loang loáng; thanh sắt kê vào ngực, rồi ngực chịu lại để bẻ cong thanh sắt lại, chứng tỏ là ngực cứng hơn cây sắt! hay với màn nằm trên bàn chông với mấy tảng đá chồng lên ngực rồi cho một người dùng búa tạ đập lên, khiến ai cũng le lưỡi, lắc đầu.
Và cứ một màn bán thuốc, một màn biểu diễn “nghề võ” xen kẽ nhau.
Thuốc bán thì thường là thuốc nhức mỏi, thuốc điều hòa kinh nguyệt, thuốc xổ lãi, thuốc đau răng, thuốc ho, thuốc dán hiệu con rắn, thuốc cảm mạo…. Và thương hiệu và nhất là “thuốc xổ lãi mộng dừa” , kể lại bà con đừng có ớn nhen. Người điều khiển chương trình lựa một số em ( có bụng bư bự) cho uống thuốc xổ lãi “biểu diễn”. Các em biểu diễn viên, tuột quần ngồi…đưa cái đít ra, vừa ăn kẹo “chơi”. Khoản mươi mười lăm phút sau, từ lỗ đít mấy em ra một nùi lãi, lãi kim , lãi đủa…coi thấy mà ghê. Bà con vỗ tay nhiệt liệt hoan hô.
Xong màn biểu diễn, tới cái màn đi xin tiền, chỗ này là chỗ vui nhất đây. Họ dẫn một con khỉ, có mặt áo xanh xanh đỏ đỏ đàng hoàng, tay cầm cái nón, đi xin tiền! Mấy em con nít gái thì thích mục này nhứt, vì con gái có khoái coi màn đánh võ đâu.
Riêng cái gánh hát thuật Sơn Đông bán dầu cù là MatSu ( dầu cù là hiệu con voi) gây cho tôi chú ý nhất, được xem con voi. Vì quá khoái và thương voi nữa, tôi đi lượm những khúc mía , vạt bỏ của bà bán mía trước nhà, đem lại cho con voi ăn. Mấy người lớn thì cho thưởng voi những cây mía, mấy nảy chuối xâu xấu, mà họ mua. Đoàn hát với con voi này ở một hai ngày gì đó rồi cuốn gói ra đi .
Con voi và chú nài xuống bến đò, ở chợ cá và voi lội qua bên kia sông … tôi dòm theo riết, khi con voi bị cái chợ cá làm khuất mắt, tôi vội chạy qua khỏi tiệm Hiệp Thành, để dòm tiếp. Lúc này voi đã lội hơn nửa dòng sông. Khi đến bờ bên kia, voi sấn rấn một chút rồi đi về hướng Hóc Môn mất khuất, để lại ở lòng tôi bao nhiêu thương tiếc và nhớ.
Có một thứ tôi cũng ‘mê’ lắm và nhớ mãi là đoàn “hát thuật” hộp biến giấy ra tiền . Người làm hát thuật bỏ một tờ giấy vào một hộp khối hình vuông , đậy nắp kín lại, đọc vài câu thần chú, gõ gõ mấy cái vào hộp rồi mở ra, thì lạ chưa? Một hai tờ giấy bạc một đồng, hai đồng cáu cạnh nằm dưới đáy hộp! và sau đó cứ bỏ giấy vào, đóng hộp lại và mở hộp ra…và lấy tiền. Tôi ước phải chi mình có hộp này biến ra tiền, có tiền mua bánh và ăn mì, ăn nước đá đậu đõ đã luôn.
Một vài năm sau khi lớn lên, tôi cũng bắt chước và làm được cái trò này, mấy người bạn coi, họ khoái lắm.
Hoặc cái màn coi chớp bóng trong “cái thùng”. Một cái thùng kín bằng thiếc, chiều ngang hơn một thước rưỡi, chiều dài hơn hai thước, cao gần một thước. Thùng này để trên một cái xe ba bánh. Ta tạm gọi đó là một rạp chiếu bóng nhỏ. Xung quanh thùng có khoét từng hai lỗ nhỏ một, và có đánh số thứ tự , ai trả tiền thì đặt hai mắt vào hai lỗ đó mà coi chiếu bóng. Mỗi ‘’xuất’’ như vậy có khoảng năm hay sáu khán giả coi.
Hát thựt xưn đông (Hát Thuật Sơn Đông) đến chợ Bình Dương của mình trong khoảng thời gian từ năm 55 đến năm 60, thời gian không dài, nhưng để lại trong lòng chúng tôi những kỷ niệm êm đềm khó phai.
Còn chuyện đi coi chóp bóng trên nhà việc Phú Cường, tức là nhà làng , mí lị đi coi mô tô bay, … từ từ kể bà con nghe sau nhen.
08.06.2015.
PHAN THANH ĐÀO * TRUYỆN NÔM
Truyện Nôm cổ in đầu thế kỷ XX được phát hiện ở Bình Dương
Phan Thanh Đào
Phan Thanh Đào
Sự xuất hiện của chữ viết để ghi nhận tiếng nói và tâm hồn của dân tộc,
sự xuất hiện ấy là một dấu ấn quan trọng nói lên bước tiến lớn lao của
nền văn hóa dân tộc đó.
Ở Việt Nam ta, sự xuất hiện chữ Nôm là đánh dấu sự trưởng thành của nền văn hóa dân tộc, chữ viết ấy xuất hiện trong lịch sử nước ta cách nay trên 10 thế kỷ. Chữ Nôm dùng để chuyển tải tiếng nói của dân tộc, vừa để ghi lại nền văn hóa, văn minh riêng tư của giống nòi.
Trong quá khứ, vì nhiều lý do dân tộc ta đã học chữ Hán phát âm theo giọng Việt để rồi ông cha ta mượn các bộ chữ Hán mà sáng tác chữ Nôm, trong lịch sử văn học, ông cha ta đã sáng tác nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm có giá trị xuất sắc mang rõ tính bác học, bên cạnh đó là những tác phẩm đậm nét tính dân gian phản ánh cách sống và tâm tư của những người bình dân, là tầng lớp người đông đảo trong xã hội. Trong những tác phẩm dân gian ấy lần lượt chúng ta phát hiện được nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên đến ngày nay cũng chưa có thể nói là chúng ta đã phát hiện hết những tác phẩm Nôm mà người xưa đã sáng tác, bởi vì chữ Nôm đã trở thành chữ cổ, một thứ 'từ ngữ', ít người biết. Mặt khác, do qua thời gian và chiến tranh tàn phá làm mất mát. Đó là chưa kể: Ngày xưa việc in ấn còn nhiều hạn chế, nên số lượng tác phẩm được in ra rất hạn hẹp, nên tác phẩm lưu truyền không nhiều, dễ bị thất lạc, mất mát.
Điều may mắn là gần đây chúng tôi đã phát hiện được một tác phẩm chữ Nôm trên đất Bình Dương mình, cụ thể là tác phẩm đã nằm trong kho sách cũ ở chùa Hội Khánh, một ngôi chùa cổ có chứa nhiều di tích di sản văn hóa quý.
Qua sự tìm hiểu về tác phẩm này, chúng tôi sơ bộ có thể đưa ra một số nhận định bước đầu sau đây:
Đây là tác phẩm Nôm cổ xưa duy nhất còn lại trên đất Bình Dương chúng tôi đã tìm, hỏi nhiều nơi như Huế, Quy Nhơn nhưng vẫn chưa ai biết về sự xuất hiện của tác phẩm này. Thứ hai là tác phẩm trên là tác phẩm có chủ đề về tư tưởng Phật giáo, nếu xét về tác phẩm chữ Nôm cổ viết về những tư tưởng Phật giáo dân gian thì đây là tác phẩm thứ ba sau hai tác phẩm là Quan Âm Thị Kính và tác phẩm Phật Bà Quan Âm.
Do vậy mà tác phẩm này cũng mang tính giáo dục và tính khuyến thiện đậm đà. Tác phẩm có tên là: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển. Sách được in bằng giấy bản xưa, khổ 13x21 , bìa ngoài màu đỏ với chữ Hán viết tay: Lưu Hương cổ tích toàn truyện. Lớp bìa bên trong với chữ, ghi: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển, bên trái ghi: Đại Nam Quốc tín nữ Nguyễn Từ Nguyên, Hoàng Diệu Trúc đồng kính san. Bên phải ghi Quang Tự tam thập tứ niên Mậu Thân mạnh thu cốc đán (1908).
Toàn bộ tập sách có 86 trang, gồm có 3.042 câu thơ lục bát.
Xét về nguồn gốc thì chúng ta thấy loại “Bảo quyến” xuất hiện ở đời Tống (TQ) và có hai loại: Một loại được gọi là Kinh vì đã diễn nghĩa tứ các kinh Phật như: Dược sư bản nguyện công đức bảo quyển... Loại thứ hai là diễn nghĩa từ những truyện cổ của Phật giáo, loại này rất được dân gian ưa thích, như: Mục Liên Cứu mẫu xuất li địa Ngục Thăng Thiên Bảo Quyển, Ngư Lam Quan Âm Bảo Quyển, Diệu Anh (?) Bảo Quyển... Ngoài ra có những tác phẩm cũng diễn nghĩa từ những cố sự trong dân gian mang nội dung tư tưởng Phật giáo dùng để khuyến thiện, răn đời như Hương Sơn Bảo quyển và Lưu Hương Nữ Bảo Quyển, tác phẩm Lưu Hương... đã được một tác giả Việt Nam nào đó đã diễn Nôm thành lập thơ Lưu Hương... như đã thấy.
Nội dung nguyên tác Lưu Hương Nữ Bảo Quyển như thế nào chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu cụ thể được, ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt cốt truyện ở bản Nôm Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển này:
“Lưu Hương là con gái của ông bà Lưu Quang và Từ thị, lúc mới sinh có ánh sáng và mùi hương tỏa ra nên cha mẹ lấy điềm lành mà đặt tên cho con mình. Lớn lên Lưu Hương sớm có lòng mộ đạo: Khi nghe ni cô Chân Không giống lý nhân quả, nàng đã ngộ đạo và quyết chí tu hành, nàng khuyên cha mẹ bỏ nghề buôn bán rượu thịt...
Trong vùng có Viên ngoại họ Mã, nhà giàu có mà kém đạo đức, lại muốn cưới Lưu Hương cho con trai thứ ba là Mã Ngọc. Vì sợ gây thù kết oán làm khổ cha mẹ nên Lưu Hương chấp nhận cuộc hôn nhân. Dù có chồng nhưng Lưu Hương vẫn ăn mặc sô gai, lại cảm phục được chồng cũng ăn chay giữ giới như mình, nhưng rồi bị mẹ chồng phát hiện đánh đập nàng và buộc con trai phải đi xa tìm thầy học hành theo con đường khoa danh.
Vì Lưu Hương quyết giữ nếp sống tu hành nên hai người chị dâu không ưa theo rình rập rồi vu cáo nàng với mẹ chồng để nàng bị đánh đập tàn nhẫn. Mặc dù nhiều lần bị oan, nàng vẫn nhẫn nhục và luôn mong mẹ và hai chị sớm thấy được lẽ đạo. Nhờ sự nhẫn nhục và lòng luôn vị tha ấy mà nàng đã cảm phục được hai nàng hầu là Ngọc Mai và A Hoàn.
Muốn nàng bỏ cuộc sống tu hành, mẹ chồng bắt nàng đảm trách toàn bộ công việc bếp núc, nàng chấp nhận làm việc vất vả ấy, nhưng van xin mẹ chồng không buộc nàng sát sinh loài vật, nhưng càng van xin nàng lại càng bị hành hạ đánh đập nhiều hơn.
Đến tiết Thanh minh, toàn thể gia đình họ Mã đi tảo mộ, Lưu Hương cũng phải đi theo, đến nơi thấy người ta giết hại súc vật để cúng tế, nàng bất nhẫn lén trốn đến một nơi vắng mà thở than, cầu nguyện. Mẹ chồng bắt gặp, nàng bị đánh đập và buộc phải ở lại nghĩa trang không cho về nhà. Ngày kia nơi nghĩa trang nàng đã che giấu một con thú do hai người anh chồng săn đuổi, nên nàng đã bị hai gã này đánh đến bất tỉnh, sau nhờ con thú có tánh linh chạy đi báo vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang sống đúng theo con đường đạo hạnh. Đến đây những tưởng là nàng có thể yên thân tu hành, không ngờ tin Mã Ngọc, chồng nàng thi đậu Trạng nguyên và sắp vinh quy, hai người chị dâu từng xử ác với nàng nay sợ lộ chuyện nên vu cáo nàng đã ngoại tình, thất tiết ở nghĩa trang, thế là mẹ chồng cho gọi nàng về, không cần hỏi han gì mà ra tay đánh đập rồi cạo tóc nàng mà đuổi đi. Trước sự việc ấy nàng lại cho là gặp sự may mắn, vì bây giờ nàng có dáng tu hành, Lưu Hương tìm tới một miếu để ở, ngày đi khất thực tối về cổ miếu tụng niệm. Một đềm có hai gã vô lại xông vào miếu định cưỡng hiếp nàng nhưng nhờ có thần linh che chở, nàng lại dùng lời lẽ cảm hóa được hai kẻ kia. Dần dần tiếng tăm đạo hạnh của nàng vang xa, nàng đã giúp nhiều người trở về với đạo pháp, đồng thời nàng được mời về một ngôi đền trang nghiêm, ở đó tu trì.
Mã Ngọc vinh quy bái tổ, không thấy vợ mình đâu, tìm hiểu biết sự việc đã đến thăm và khuyên nàng trở về, nàng nhất quyết không chịu lại khuyên Mã Ngọc lấy vợ để có con nối dõi tông đường.
Kim Chi, người vợ sau của Mã Ngọc lại là cô gái hiền đức, một lòng kính trọng và tuân theo lời dạy của Lưu Hương mà sống đạo hạnh và đi theo Mã Ngọc đến trấn nhậm triều Châu.
Nhân lễ đáo tuế của Viện Quân, mẹ chồng của Lưu Hương, cả gia đình họ Mã ăn phải cá độc mà ngã ra chết, chỉ hai cô hầu nhờ trường trai mà thoát nạn. Lưu Hương được tin dữ, rất đau xót, vội vàng trở về lo ma chay, báo tin cho Mã Ngọc để về thọ tang. Sau cùng Mã Ngọc lai kinh trả lại chức tước để tiếp tục cuộc sống tu hành đạo hạnh...
Toàn bộ câu chuyện đặt trên cơ sở tinh thần nhẫn nhục, giữ giới, kiêng sát sanh của Phật giáo, lại đề cao thuyết nhân quả. Cốt truyện đặt trên quan điểm phổ biến của văn học cổ điển: “Tích thiện phùng thiện tích ác phùng ác”. Mâu thuẫn được phản ánh trong tác phẩm là những mâu thuẫn xảy ra trong gia đình: Mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu, mâu thuẫn giữa những chị em dâu trong gia đình.
Tác phẩm này nặng tinh thần đạo đức và khuyến thiện nên trong quá trình xây dựng nhân vật chưa làm đậm nét nhân vật phản diện nếu so với tác phẩm Quan Âm Thị Kính chẳng hạn. Tuy nhiên, chúng ta cũng đọc thấy nơi đây hình ảnh hiện thực của cuộc sống nông nghiệp ngày xưa, ở đó người nghèo khó đã bị ngược đãi, chẳng hạn đoạn thuật việc gia đình Mã Viên ngoại ngang nhiên bắt bớ hành hạ những kẻ thiếu nợ một cách tàn nhẫn:
Bắt người khiếm trái chớ chầy
Cắt sai công việc thuở này khổ thân.
Đêm ngày kẹp khảo vang rân,
Ngày ăn một bữa việc mần hoảng kinh.
Một bổ (người) khiếm trái thất thinh
Cùng nhau tính việc bán mình đợ con
Âm thầm than khóc nỉ non
Bởi năm thiêm tháp (?) vợ con đợ đần.
Người nào trả đặng khỏi mần
Kẻ lo chưa đặng chịu phần khổ lao.
Ngoài ra tính dân gian Nam bộ là nét nổi bật của tập truyện thơ Nôm này.
P.T.Đ
(Giáo viên về hưu)
Nguồn: http://www.sugia.vn
Ở Việt Nam ta, sự xuất hiện chữ Nôm là đánh dấu sự trưởng thành của nền văn hóa dân tộc, chữ viết ấy xuất hiện trong lịch sử nước ta cách nay trên 10 thế kỷ. Chữ Nôm dùng để chuyển tải tiếng nói của dân tộc, vừa để ghi lại nền văn hóa, văn minh riêng tư của giống nòi.
Trong quá khứ, vì nhiều lý do dân tộc ta đã học chữ Hán phát âm theo giọng Việt để rồi ông cha ta mượn các bộ chữ Hán mà sáng tác chữ Nôm, trong lịch sử văn học, ông cha ta đã sáng tác nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm có giá trị xuất sắc mang rõ tính bác học, bên cạnh đó là những tác phẩm đậm nét tính dân gian phản ánh cách sống và tâm tư của những người bình dân, là tầng lớp người đông đảo trong xã hội. Trong những tác phẩm dân gian ấy lần lượt chúng ta phát hiện được nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên đến ngày nay cũng chưa có thể nói là chúng ta đã phát hiện hết những tác phẩm Nôm mà người xưa đã sáng tác, bởi vì chữ Nôm đã trở thành chữ cổ, một thứ 'từ ngữ', ít người biết. Mặt khác, do qua thời gian và chiến tranh tàn phá làm mất mát. Đó là chưa kể: Ngày xưa việc in ấn còn nhiều hạn chế, nên số lượng tác phẩm được in ra rất hạn hẹp, nên tác phẩm lưu truyền không nhiều, dễ bị thất lạc, mất mát.
Điều may mắn là gần đây chúng tôi đã phát hiện được một tác phẩm chữ Nôm trên đất Bình Dương mình, cụ thể là tác phẩm đã nằm trong kho sách cũ ở chùa Hội Khánh, một ngôi chùa cổ có chứa nhiều di tích di sản văn hóa quý.
Qua sự tìm hiểu về tác phẩm này, chúng tôi sơ bộ có thể đưa ra một số nhận định bước đầu sau đây:
Đây là tác phẩm Nôm cổ xưa duy nhất còn lại trên đất Bình Dương chúng tôi đã tìm, hỏi nhiều nơi như Huế, Quy Nhơn nhưng vẫn chưa ai biết về sự xuất hiện của tác phẩm này. Thứ hai là tác phẩm trên là tác phẩm có chủ đề về tư tưởng Phật giáo, nếu xét về tác phẩm chữ Nôm cổ viết về những tư tưởng Phật giáo dân gian thì đây là tác phẩm thứ ba sau hai tác phẩm là Quan Âm Thị Kính và tác phẩm Phật Bà Quan Âm.
Do vậy mà tác phẩm này cũng mang tính giáo dục và tính khuyến thiện đậm đà. Tác phẩm có tên là: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển. Sách được in bằng giấy bản xưa, khổ 13x21 , bìa ngoài màu đỏ với chữ Hán viết tay: Lưu Hương cổ tích toàn truyện. Lớp bìa bên trong với chữ, ghi: Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển, bên trái ghi: Đại Nam Quốc tín nữ Nguyễn Từ Nguyên, Hoàng Diệu Trúc đồng kính san. Bên phải ghi Quang Tự tam thập tứ niên Mậu Thân mạnh thu cốc đán (1908).
Toàn bộ tập sách có 86 trang, gồm có 3.042 câu thơ lục bát.
Xét về nguồn gốc thì chúng ta thấy loại “Bảo quyến” xuất hiện ở đời Tống (TQ) và có hai loại: Một loại được gọi là Kinh vì đã diễn nghĩa tứ các kinh Phật như: Dược sư bản nguyện công đức bảo quyển... Loại thứ hai là diễn nghĩa từ những truyện cổ của Phật giáo, loại này rất được dân gian ưa thích, như: Mục Liên Cứu mẫu xuất li địa Ngục Thăng Thiên Bảo Quyển, Ngư Lam Quan Âm Bảo Quyển, Diệu Anh (?) Bảo Quyển... Ngoài ra có những tác phẩm cũng diễn nghĩa từ những cố sự trong dân gian mang nội dung tư tưởng Phật giáo dùng để khuyến thiện, răn đời như Hương Sơn Bảo quyển và Lưu Hương Nữ Bảo Quyển, tác phẩm Lưu Hương... đã được một tác giả Việt Nam nào đó đã diễn Nôm thành lập thơ Lưu Hương... như đã thấy.
Nội dung nguyên tác Lưu Hương Nữ Bảo Quyển như thế nào chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu cụ thể được, ở đây chúng tôi chỉ tóm tắt cốt truyện ở bản Nôm Lưu Hương Diễn Nghĩa Bảo Quyển này:
“Lưu Hương là con gái của ông bà Lưu Quang và Từ thị, lúc mới sinh có ánh sáng và mùi hương tỏa ra nên cha mẹ lấy điềm lành mà đặt tên cho con mình. Lớn lên Lưu Hương sớm có lòng mộ đạo: Khi nghe ni cô Chân Không giống lý nhân quả, nàng đã ngộ đạo và quyết chí tu hành, nàng khuyên cha mẹ bỏ nghề buôn bán rượu thịt...
Trong vùng có Viên ngoại họ Mã, nhà giàu có mà kém đạo đức, lại muốn cưới Lưu Hương cho con trai thứ ba là Mã Ngọc. Vì sợ gây thù kết oán làm khổ cha mẹ nên Lưu Hương chấp nhận cuộc hôn nhân. Dù có chồng nhưng Lưu Hương vẫn ăn mặc sô gai, lại cảm phục được chồng cũng ăn chay giữ giới như mình, nhưng rồi bị mẹ chồng phát hiện đánh đập nàng và buộc con trai phải đi xa tìm thầy học hành theo con đường khoa danh.
Vì Lưu Hương quyết giữ nếp sống tu hành nên hai người chị dâu không ưa theo rình rập rồi vu cáo nàng với mẹ chồng để nàng bị đánh đập tàn nhẫn. Mặc dù nhiều lần bị oan, nàng vẫn nhẫn nhục và luôn mong mẹ và hai chị sớm thấy được lẽ đạo. Nhờ sự nhẫn nhục và lòng luôn vị tha ấy mà nàng đã cảm phục được hai nàng hầu là Ngọc Mai và A Hoàn.
Muốn nàng bỏ cuộc sống tu hành, mẹ chồng bắt nàng đảm trách toàn bộ công việc bếp núc, nàng chấp nhận làm việc vất vả ấy, nhưng van xin mẹ chồng không buộc nàng sát sinh loài vật, nhưng càng van xin nàng lại càng bị hành hạ đánh đập nhiều hơn.
Đến tiết Thanh minh, toàn thể gia đình họ Mã đi tảo mộ, Lưu Hương cũng phải đi theo, đến nơi thấy người ta giết hại súc vật để cúng tế, nàng bất nhẫn lén trốn đến một nơi vắng mà thở than, cầu nguyện. Mẹ chồng bắt gặp, nàng bị đánh đập và buộc phải ở lại nghĩa trang không cho về nhà. Ngày kia nơi nghĩa trang nàng đã che giấu một con thú do hai người anh chồng săn đuổi, nên nàng đã bị hai gã này đánh đến bất tỉnh, sau nhờ con thú có tánh linh chạy đi báo vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang rồi ngậm lá thuốc đến cứu tỉnh nàng, sau chính nàng lại cảm hóa vợ chồng lão giữ nghĩa trang sống đúng theo con đường đạo hạnh. Đến đây những tưởng là nàng có thể yên thân tu hành, không ngờ tin Mã Ngọc, chồng nàng thi đậu Trạng nguyên và sắp vinh quy, hai người chị dâu từng xử ác với nàng nay sợ lộ chuyện nên vu cáo nàng đã ngoại tình, thất tiết ở nghĩa trang, thế là mẹ chồng cho gọi nàng về, không cần hỏi han gì mà ra tay đánh đập rồi cạo tóc nàng mà đuổi đi. Trước sự việc ấy nàng lại cho là gặp sự may mắn, vì bây giờ nàng có dáng tu hành, Lưu Hương tìm tới một miếu để ở, ngày đi khất thực tối về cổ miếu tụng niệm. Một đềm có hai gã vô lại xông vào miếu định cưỡng hiếp nàng nhưng nhờ có thần linh che chở, nàng lại dùng lời lẽ cảm hóa được hai kẻ kia. Dần dần tiếng tăm đạo hạnh của nàng vang xa, nàng đã giúp nhiều người trở về với đạo pháp, đồng thời nàng được mời về một ngôi đền trang nghiêm, ở đó tu trì.
Mã Ngọc vinh quy bái tổ, không thấy vợ mình đâu, tìm hiểu biết sự việc đã đến thăm và khuyên nàng trở về, nàng nhất quyết không chịu lại khuyên Mã Ngọc lấy vợ để có con nối dõi tông đường.
Kim Chi, người vợ sau của Mã Ngọc lại là cô gái hiền đức, một lòng kính trọng và tuân theo lời dạy của Lưu Hương mà sống đạo hạnh và đi theo Mã Ngọc đến trấn nhậm triều Châu.
Nhân lễ đáo tuế của Viện Quân, mẹ chồng của Lưu Hương, cả gia đình họ Mã ăn phải cá độc mà ngã ra chết, chỉ hai cô hầu nhờ trường trai mà thoát nạn. Lưu Hương được tin dữ, rất đau xót, vội vàng trở về lo ma chay, báo tin cho Mã Ngọc để về thọ tang. Sau cùng Mã Ngọc lai kinh trả lại chức tước để tiếp tục cuộc sống tu hành đạo hạnh...
Toàn bộ câu chuyện đặt trên cơ sở tinh thần nhẫn nhục, giữ giới, kiêng sát sanh của Phật giáo, lại đề cao thuyết nhân quả. Cốt truyện đặt trên quan điểm phổ biến của văn học cổ điển: “Tích thiện phùng thiện tích ác phùng ác”. Mâu thuẫn được phản ánh trong tác phẩm là những mâu thuẫn xảy ra trong gia đình: Mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu, mâu thuẫn giữa những chị em dâu trong gia đình.
Tác phẩm này nặng tinh thần đạo đức và khuyến thiện nên trong quá trình xây dựng nhân vật chưa làm đậm nét nhân vật phản diện nếu so với tác phẩm Quan Âm Thị Kính chẳng hạn. Tuy nhiên, chúng ta cũng đọc thấy nơi đây hình ảnh hiện thực của cuộc sống nông nghiệp ngày xưa, ở đó người nghèo khó đã bị ngược đãi, chẳng hạn đoạn thuật việc gia đình Mã Viên ngoại ngang nhiên bắt bớ hành hạ những kẻ thiếu nợ một cách tàn nhẫn:
Bắt người khiếm trái chớ chầy
Cắt sai công việc thuở này khổ thân.
Đêm ngày kẹp khảo vang rân,
Ngày ăn một bữa việc mần hoảng kinh.
Một bổ (người) khiếm trái thất thinh
Cùng nhau tính việc bán mình đợ con
Âm thầm than khóc nỉ non
Bởi năm thiêm tháp (?) vợ con đợ đần.
Người nào trả đặng khỏi mần
Kẻ lo chưa đặng chịu phần khổ lao.
Ngoài ra tính dân gian Nam bộ là nét nổi bật của tập truyện thơ Nôm này.
P.T.Đ
(Giáo viên về hưu)
Nguồn: http://www.sugia.vn
GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * VIỆT NAM VÀ Á CHÂU
Việt Nam và Á Châu:
Những con số tiêu biểu, 2016
GS Phạm Đức Liên
A. Dẫn nhập:
* "Nói thì dễ" - qua những bài diễn văn, lời tuyên bố - rỗng tuếch - bằng những mỹ từ, hào nhoáng - trong sách giáo khoa "nhân văn" - mà ru ngủ lòng người - thì con kiến trong lỗ - cũng bò ra để hoan hô và dồn phiếu cho: Easy talked than done.
* Thế nhưng "Làm mới khó" - khó lắm và khó quá: Toàn dân và chánh phủ phải làm việc cực kỳ vất vả - mới ra được những con số thông kê (thất nghiệp, Dec 2015 ở Mỹ chỉ còn 5.3% ... ). Làm có nghĩa là STEM (more doing - less talking). STEM creates the world.
* Bài viết nầy chỉ là sao chép lại (asa copy) những bảng thống kê rải rác trong các tuần báo kinh tế (The Economist, The World in 2016... ) và sách (The World Almanac 2016 ... ) mới nhất (as of Nov 30, 2015) - về kinh tế Việt Nam và những quốc gia láng giếng (Vietnam and South East Asia - in numbers). Rồi từ những con số thống kê đó (Statistics and Probability) - mà từng độc giả có nhận xét riêng - tùy theo trình độ (undergrad, grad, postgrad schools...) về Việt Nam cẩm tú. Xin nhắc nhở rằng : " Con Rồng Cháu Tiên (Children of the Dragon anf Fairies) là dân tộc thông minh chăm chỉ và kỷ luật" (bằng chứng: Việt Nam hải ngoại hiện có 500 Professor Doctors, Professor Postdoctoral Fellows đang giảng dạy về Khoa học kỹ thuật / STEM - tại những đại học lừng danh toàn cầu ) . Việt Nam tiến bộ hay tụt hậu là do nhà lãnh đạo !. Real change today! Changer ensemble maintenant !: mà Rising Vietnam nhé. Việt Nam vạn tuế vạn vạn tuế!.
Chỉ những nước có tăng trưởng kinh tế (GDP growth) mỗi năm từ 7% trở lên thì đây là The World's Top Ten: hạng nhất là Vương Quốc Lào (8.0), hạng ba là Cao Miên (7.5), tiếp theo là Miến Điện (Myamar) hạng sáu (7.2). Viẹt Nam - sau 40 năm thống nhứt (1975-2015), 30 năm ở cửa (1986-2015), 20 năm giao thương với Mỹ (1995-2015): 6-8%.
B. Việt Nam, Á Châu và Thế Giới - bằng những con số (in numbers, 2016):
I. Tăng trưởng kinh tế (GDP Growth) toàn cầu - từng vùng , 2016:
1. Theo phần lớn những nhà kinh tế (Tiến Sĩ Kinh Tài + 10 năm kinh nghiệm) thì cuộc khủng oảng kinh tế thế giới 2007 - vẫn còn đè nặng nhân loại. Về thương mại quốc tế (Business 2016) - còn nhiều lo âu (a great wall of worry) !. Về thị trường chứng khoán (Finance 2016) còn lắm chao đảo (An unsettling year for the market) !.Tuy nhiên quý vị và những quốc gia sở tại - cũng phác họa được con đường đi (World GDP growth, 2016): The future by design:
2. Chín vùng kinh tế tăng trưởng khác nhau:
- Eastern Europe (Đông Âu, Nga): 1.2%
- Latin America (Châu Mỹ Latinh - Trung và Nam Mỹ) 1.3%
- Japan (Nhật Bản): 1.7%
- Western Europe: (Tây Âu - Đức, Anh Pháp..) 1.8% - North America (Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, Canada, Mexico) 2.5% - Australia (Úc Châu) 2.6%
- Middle East/ North Africa (Trung Đông, Bắc Phi..) 3.2%
- Sub-Saharan Africa (Trung và Nam Phi ) 3.6%
- Asia (Á Châu trừ Nhật, Úc, Tân Tây Lan) 5.4%
trong đó:
Hongkong: 1.9%
Taiwan (Đài Loan) 2.0%
Singapore (Tân Gia Ba) 2.8%
South Korea (Nam Hàn) 3.0%
Thailand (Thái Lan) 3.5%
Pakistan (Hồi Quốc) 4.8%
Indonesia (Nam Dương) 5.1%
Philippines (Phi Luật Tân) 5.7%
China (Trung Quốc) 6.4%
Bangladesh (Đông Hồi) 6.5%
Malaysia (Mã Lai) 6.6%
Sri Lanka (Tích Lan) 6.5%
Việt Nam 6.8%
II. GDP Per Capita: Việt Nam và các nước lân bang, 2016: được tính bằng đo la Mỹ (USD)
1. Singapore:
- GDP (Gross Domestic Product - Tổng Sản Lượng Nội Địa): $445.2 tỉ.
- GDP per head (or per capita): cao nhất Á Châu ($54,000).
- PPP (Purchasing Power Parity - sức mua): một người ngoại quốc tới Singapore làm việc muốn giữ cho sinh hoạt bình thường (to maintain a standard of living) - thì phải có $86,500 để trang trải.
2. Nhật Bản:
- GDP: $4,800 tỉ (cường quốc thứ 3 toàn cầu).
- Nhập cảng: $811.9 tỉ (22% nhập từ Trung Quốc).
- Xuất cảng: $710.5 tỉ (xuất cảng qua Mỹ 195, Trung Quốc 18%..)
- Tháng 8.1945: một nước Nhật tan tành (sau khi bị 2 trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima và Nagasaki).
- Thế nhưng tháng 8/1965 những chiếc xe hơi Honda Civic, Mazda 1200 và 1500 ... chạy khắp Miền Nam Việt Nam... Làm gì mà tiếng nói của Thủ Tướng Nhật chẳng nặng ký. Làm gì mà dân chúng khắp thế giới chẳng đến Nhật du lịch, rồi ghesha, và samurai ... Người Nhật - kỷ luật nhất thế giới.
3. Nam Hàn:
- GDP: $1,800 tỉ.
- Nhập cảng: $525.5 tỉ (16% từ Trung Quốc, 12% từ Nhật..)
- Xuất cảng: $572.7 tỉ (26% qua Trung Quốc, 11% qua Mỹ). - Dân chúng Nam Hàn thuộc lòng "Let's use the power of STEM to change the Korea" . Đầu thập niên 1980, những chiếc xe Hyundai chạy khắp xa lộ và đường phố Mỹ, Canada ... Để rồi những năm 1995 những chiếc xe KIA - cạnh tranh với xe Mỹ, Đức, Anh, Pháp.. Và Samsung/Galaxy S6 - tuyệt vời- ngang ngửa với Iphone 6S+, ... Làm gì mà dân Nam Hàn xuất ngoại chẳng được quốc tế nể vì?. Thành phố lớn nào ở Canada, USA .. cũng có nhiều võ đường Tai Kwon Do (võ sinh da trắng theo học rất đông).
4. Đài Loan:
- GDP: $1,100 tỉ.
- Nhập cảng: $277.5 tỉ. (18% từ Nhật, 16% từ Trung Quốc, 10% từ Mỹ...)
- Xuất cảng: $318.0 tỉ. (27% qua Trung Quốc, 10% qua Mỹ..)
- Cô nhân tình bé bỏng, xinh xinh Đài Bắc - luôn luôn được chàng Mỹ che dù.
5. Mã Lai:
- GDP: $746.1 tỉ.
- Nhập cảng: $193.6 tỉ (17% từ Trung Quốc, 13% từ Singapore...)
- Xuất cảng: 4231.3 tỉ. (14% qua Trung Quốc, 14% qua Singapore..)
6. Trung Quốc:
- GDP: $17,600 tỉ.
- Nhập cảng: $2,000 tỉ (10% từ Nam Hàn, 8% từ Nhật, 8% từ Mỹ, 8% từ Đài Loan...)
- Xuất cảng: $2,300 tỉ (17% qua Mỹ, 16% qua Hongkong...)
7. Thái Lan:
- GDP: $985.5 tỉ (gần $1,000 tỉ - tương đương Đài Loan)
- Nhập cảng: $200.2 tỉ (từ Nhật 16%, Trung Quốc: 155, Mỹ 6%..)
- Xuất cảng: $224.8 tỉ (qua Trung Quốc: 12%, Mỹ 10%, Nhật 10%..)
- Trong số các nước Á Châu (trừ siêu cường Trung Quốc $57 tỉ, du lịch Thái Lan quyến rũ nhất. Năm 2014, du khách đóng góp cho du lịch Thái $39 tỉ, so với Mã Lai $22 tỉ, Singapore 19 tỉ, Nhật 19 tỉ..)
8. Nam Dương:
- GDP: $2,700 tỉ
- Nhập cảng: $168.4 tỉ (Trung quốc 16%, Singapore 14%, Nhật 11%, Nam Hàn 7%...)
- Xuất cảng: $175.3 tỉ: (Nhật 15%, Trung Quốc, 12%, Singapore 9%, Mỹ 8%, Nam Hàn 7%..)
- "Dân giàu nước mạnh" thì lôi cuốn du khách toàn cầu. Indonesia thâu nhập $10 tỉ hàng năm (Mỹ $177 tỉ, quyến rũ nhất là California, Florida, New York, Texas..)
9. Phi Luật Tân:
- GDP: $692.2 tỉ.
- Nhập cảng: 63.6 tỉ (Trung Quốc 15%, Mỹ 9%, Nhật 8%, Nam Hàn 8%..)
- Xuất cảng: $47.8 tỉ. (Nhật 23%, Mỹ 14%, Trung Quốc 12%...)
10. Việt Nam:
- GDP: $510.7 tỉ.
- Nhập cảng $138.6 tỉ (Trung Quốc 32%, Nam Hàn 14%, Nhật 7%...)
- Xuất cảng: 4147.0 tỉ (Mỹ 18%, Trung Quốc 12%, Nhật 10%, Nam Hàn 5%...)
- Gần 1/3 hang hóa và nguyên nhiên liệu nhập cảng vào việt Nam là đén twuf Trung Quóc và 12% tổng số hàng hóa sản xuất của Việt Nam xuất cảng qua Trung Quốc. Điều nầy khiến kinh tế Việt Nam phụ thuọc quá nhiều vào Trung Quốc từ đó sẽ bị lệ thuộc chánh trị, nhất là khi nhận viện trợ dưới bất kỳ hình thức nào!. Bản chất cảu viện trợ là có điều kiện ẩn tàng !.
- Từ năm 1995, du lịch Việt Nam phát triển và năm 2014 - thu hoạch được $7.3 tỉ.
- Tỉ lệ thất nghiệp là 2% (2104).
11. Lào:
- GDP: $34.4 tỉ.
- Nhập cảng: $4.1 tỉ (Thái Lan: 56%, Trung Quốc 26%, Vietnam 7%..)
- Xuất cảng: $2.8 tỉ (Thái Lan 33%, Trung Quốc 25%, Vietnam 12%..)
12. Miến Điện:
- GDp: $242 tỉ
- Nhập cảng: $12.5 tỉ (Trung Quốc 40%, Thái Lan 20%, Singapore 12%)
- Xuất cảng: $10.3 tỉ (Thái Lan 35%, Trung Quốc 255, Ấn Độ 12%..)
- Thất nghiệp 3.45%
13. Campuchia:
- GDP: $50 tỉ.
- Nhập cảng: $10.6 tỉ (Thái Lan 27%, Trung Quốc 22%, Vietnam 20%..)
- Xuất cảng: $7.6 tỉ (Mỹ 29%, Anh 9%, Đức 9%, Nhật 6%, Vietnam 5%..)
- Du lịch: thu $3.0 tỉ, 97% du khách quốc tế: Hẹn ngày trở lại Cao Miên.
C. Lời kết:
1. Khoa học kỹ thuật là con đường duy nhất để chỉ đạo dân tộc và phát triển kinh tế (Maths, Sciences. The common denominators of world - changing innovation). Dân tộc nào cũng có nhiều người thông minh (trí tuệ), thế nhưng con cháu Lạc Hồng thông minh lắm (94.4 +4.6= 100 triệu). "Tự trị đại học" để trí tuệ được tự do phát triển - nhất là STEM. Khoa học kỹ thuật là phát minh, là sáng tạo. Điển hình là những bằng sáng chế (patents) được trình tòa (trademark) rồi được kỹ nghệ ứng dụng mà tung ra thị trường những sản phẩm (LED, smart phone, Ipad Pro, Galaxy, Hybrid...) đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế quốc gia sở tại và cho văn minh, tiến bộ của nhân loại. Thế giới chờ những "electronics products" của Việt Nam" Made in Vietnam by children of the Dragons and Firies, of Vietnames Enginering, for Vietnam Pride.
2. Bằng sáng chế (patents for innovations, grants) của những cường quốc , 2014:
- Đặng tiểu Bình (1904-1997) : Năm 1977 : "Phải máy móc hóa Trung Hoa " thì năm 2014 mới trở thành cường quốc thứ hai sau Mỹ.
- 11 quốc gia dưới đây đua nhau phát minh sáng tạo (Nam Hàn có 16,469 bằng sáng chế...) bỏ lại sau lưng những tư tưởng, lý thuyết, từ thế kỷ 19, 20 lỗi tời, vô duyên, trình độ không vượt qua lũy tre làng !...
Phạm Đức Liên, EdD
Former Professor Central Piedmont Community CollegeWindy City, trọng thu 2015 (250 F)
Những con số tiêu biểu, 2016
GS Phạm Đức Liên
A. Dẫn nhập:
* "Nói thì dễ" - qua những bài diễn văn, lời tuyên bố - rỗng tuếch - bằng những mỹ từ, hào nhoáng - trong sách giáo khoa "nhân văn" - mà ru ngủ lòng người - thì con kiến trong lỗ - cũng bò ra để hoan hô và dồn phiếu cho: Easy talked than done.
* Thế nhưng "Làm mới khó" - khó lắm và khó quá: Toàn dân và chánh phủ phải làm việc cực kỳ vất vả - mới ra được những con số thông kê (thất nghiệp, Dec 2015 ở Mỹ chỉ còn 5.3% ... ). Làm có nghĩa là STEM (more doing - less talking). STEM creates the world.
* Bài viết nầy chỉ là sao chép lại (asa copy) những bảng thống kê rải rác trong các tuần báo kinh tế (The Economist, The World in 2016... ) và sách (The World Almanac 2016 ... ) mới nhất (as of Nov 30, 2015) - về kinh tế Việt Nam và những quốc gia láng giếng (Vietnam and South East Asia - in numbers). Rồi từ những con số thống kê đó (Statistics and Probability) - mà từng độc giả có nhận xét riêng - tùy theo trình độ (undergrad, grad, postgrad schools...) về Việt Nam cẩm tú. Xin nhắc nhở rằng : " Con Rồng Cháu Tiên (Children of the Dragon anf Fairies) là dân tộc thông minh chăm chỉ và kỷ luật" (bằng chứng: Việt Nam hải ngoại hiện có 500 Professor Doctors, Professor Postdoctoral Fellows đang giảng dạy về Khoa học kỹ thuật / STEM - tại những đại học lừng danh toàn cầu ) . Việt Nam tiến bộ hay tụt hậu là do nhà lãnh đạo !. Real change today! Changer ensemble maintenant !: mà Rising Vietnam nhé. Việt Nam vạn tuế vạn vạn tuế!.
Chỉ những nước có tăng trưởng kinh tế (GDP growth) mỗi năm từ 7% trở lên thì đây là The World's Top Ten: hạng nhất là Vương Quốc Lào (8.0), hạng ba là Cao Miên (7.5), tiếp theo là Miến Điện (Myamar) hạng sáu (7.2). Viẹt Nam - sau 40 năm thống nhứt (1975-2015), 30 năm ở cửa (1986-2015), 20 năm giao thương với Mỹ (1995-2015): 6-8%.
B. Việt Nam, Á Châu và Thế Giới - bằng những con số (in numbers, 2016):
I. Tăng trưởng kinh tế (GDP Growth) toàn cầu - từng vùng , 2016:
1. Theo phần lớn những nhà kinh tế (Tiến Sĩ Kinh Tài + 10 năm kinh nghiệm) thì cuộc khủng oảng kinh tế thế giới 2007 - vẫn còn đè nặng nhân loại. Về thương mại quốc tế (Business 2016) - còn nhiều lo âu (a great wall of worry) !. Về thị trường chứng khoán (Finance 2016) còn lắm chao đảo (An unsettling year for the market) !.Tuy nhiên quý vị và những quốc gia sở tại - cũng phác họa được con đường đi (World GDP growth, 2016): The future by design:
2. Chín vùng kinh tế tăng trưởng khác nhau:
- Eastern Europe (Đông Âu, Nga): 1.2%
- Latin America (Châu Mỹ Latinh - Trung và Nam Mỹ) 1.3%
- Japan (Nhật Bản): 1.7%
- Western Europe: (Tây Âu - Đức, Anh Pháp..) 1.8% - North America (Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, Canada, Mexico) 2.5% - Australia (Úc Châu) 2.6%
- Middle East/ North Africa (Trung Đông, Bắc Phi..) 3.2%
- Sub-Saharan Africa (Trung và Nam Phi ) 3.6%
- Asia (Á Châu trừ Nhật, Úc, Tân Tây Lan) 5.4%
trong đó:
Hongkong: 1.9%
Taiwan (Đài Loan) 2.0%
Singapore (Tân Gia Ba) 2.8%
South Korea (Nam Hàn) 3.0%
Thailand (Thái Lan) 3.5%
Pakistan (Hồi Quốc) 4.8%
Indonesia (Nam Dương) 5.1%
Philippines (Phi Luật Tân) 5.7%
China (Trung Quốc) 6.4%
Bangladesh (Đông Hồi) 6.5%
Malaysia (Mã Lai) 6.6%
Sri Lanka (Tích Lan) 6.5%
Việt Nam 6.8%
II. GDP Per Capita: Việt Nam và các nước lân bang, 2016: được tính bằng đo la Mỹ (USD)
1. Singapore:
- GDP (Gross Domestic Product - Tổng Sản Lượng Nội Địa): $445.2 tỉ.
- GDP per head (or per capita): cao nhất Á Châu ($54,000).
- PPP (Purchasing Power Parity - sức mua): một người ngoại quốc tới Singapore làm việc muốn giữ cho sinh hoạt bình thường (to maintain a standard of living) - thì phải có $86,500 để trang trải.
2. Nhật Bản:
- GDP: $4,800 tỉ (cường quốc thứ 3 toàn cầu).
- Nhập cảng: $811.9 tỉ (22% nhập từ Trung Quốc).
- Xuất cảng: $710.5 tỉ (xuất cảng qua Mỹ 195, Trung Quốc 18%..)
- Tháng 8.1945: một nước Nhật tan tành (sau khi bị 2 trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima và Nagasaki).
- Thế nhưng tháng 8/1965 những chiếc xe hơi Honda Civic, Mazda 1200 và 1500 ... chạy khắp Miền Nam Việt Nam... Làm gì mà tiếng nói của Thủ Tướng Nhật chẳng nặng ký. Làm gì mà dân chúng khắp thế giới chẳng đến Nhật du lịch, rồi ghesha, và samurai ... Người Nhật - kỷ luật nhất thế giới.
3. Nam Hàn:
- GDP: $1,800 tỉ.
- Nhập cảng: $525.5 tỉ (16% từ Trung Quốc, 12% từ Nhật..)
- Xuất cảng: $572.7 tỉ (26% qua Trung Quốc, 11% qua Mỹ). - Dân chúng Nam Hàn thuộc lòng "Let's use the power of STEM to change the Korea" . Đầu thập niên 1980, những chiếc xe Hyundai chạy khắp xa lộ và đường phố Mỹ, Canada ... Để rồi những năm 1995 những chiếc xe KIA - cạnh tranh với xe Mỹ, Đức, Anh, Pháp.. Và Samsung/Galaxy S6 - tuyệt vời- ngang ngửa với Iphone 6S+, ... Làm gì mà dân Nam Hàn xuất ngoại chẳng được quốc tế nể vì?. Thành phố lớn nào ở Canada, USA .. cũng có nhiều võ đường Tai Kwon Do (võ sinh da trắng theo học rất đông).
4. Đài Loan:
- GDP: $1,100 tỉ.
- Nhập cảng: $277.5 tỉ. (18% từ Nhật, 16% từ Trung Quốc, 10% từ Mỹ...)
- Xuất cảng: $318.0 tỉ. (27% qua Trung Quốc, 10% qua Mỹ..)
- Cô nhân tình bé bỏng, xinh xinh Đài Bắc - luôn luôn được chàng Mỹ che dù.
5. Mã Lai:
- GDP: $746.1 tỉ.
- Nhập cảng: $193.6 tỉ (17% từ Trung Quốc, 13% từ Singapore...)
- Xuất cảng: 4231.3 tỉ. (14% qua Trung Quốc, 14% qua Singapore..)
6. Trung Quốc:
- GDP: $17,600 tỉ.
- Nhập cảng: $2,000 tỉ (10% từ Nam Hàn, 8% từ Nhật, 8% từ Mỹ, 8% từ Đài Loan...)
- Xuất cảng: $2,300 tỉ (17% qua Mỹ, 16% qua Hongkong...)
So với Mỹ:
- GDP : $17,400 tỉ. - Nhập cảng: $2,300 tỉ (20% từ Trung Quốc, 15% từ Canada, 12% từ Mexico, 65 từ Nhật...) - Xuất cảng: $1,600 tỉ (20% qua Canada, 14% qua Mexico, 8% qua Trung Quốc...) **** - Mỗi năm, trong tổng số hàng hóa xuất cảng của Trung Quốc thì 17% qua Mỹ, trong tổng số hàng hóa nhập cảng vào Mỹ thì 20% là từ Trung Quốc, và trong lượng hàng hóa xuất cảng của Mỹ thì 8% qua Trung Quốc, trong lượng hàng hóa nhập cảng vào Trung Quốc thì 8% đến từ Mỹ. - Về thương mại, hai siêu cường Hoa Kỳ và Trung Quốc - gắn bó với nhau chặt chẽ như thế (cài răng lượcs!). Về chánh trị, Mỹ Tầu lại đoàn kết với nhau - để giải quyết những tranh chấp giữa các quốc gia đàn em (sen đầm quốc tế!). Rồi vì quyền lợi của chính mình hai siêu cường sẵn sàng hy sinh những nước nhược tiểu !. Việt Nam ơi: "Let's use the power of STEM to change our country" - mà kiêu hãnh giương cao ngọn cờ Việt Nam. và đừng quên" "Lãnh đạo bất đại học - bất tri lý" (lãnh đạo= giám đốc nha, tỉnh trưởng...+). |
7. Thái Lan:
- GDP: $985.5 tỉ (gần $1,000 tỉ - tương đương Đài Loan)
- Nhập cảng: $200.2 tỉ (từ Nhật 16%, Trung Quốc: 155, Mỹ 6%..)
- Xuất cảng: $224.8 tỉ (qua Trung Quốc: 12%, Mỹ 10%, Nhật 10%..)
- Trong số các nước Á Châu (trừ siêu cường Trung Quốc $57 tỉ, du lịch Thái Lan quyến rũ nhất. Năm 2014, du khách đóng góp cho du lịch Thái $39 tỉ, so với Mã Lai $22 tỉ, Singapore 19 tỉ, Nhật 19 tỉ..)
8. Nam Dương:
- GDP: $2,700 tỉ
- Nhập cảng: $168.4 tỉ (Trung quốc 16%, Singapore 14%, Nhật 11%, Nam Hàn 7%...)
- Xuất cảng: $175.3 tỉ: (Nhật 15%, Trung Quốc, 12%, Singapore 9%, Mỹ 8%, Nam Hàn 7%..)
- "Dân giàu nước mạnh" thì lôi cuốn du khách toàn cầu. Indonesia thâu nhập $10 tỉ hàng năm (Mỹ $177 tỉ, quyến rũ nhất là California, Florida, New York, Texas..)
9. Phi Luật Tân:
- GDP: $692.2 tỉ.
- Nhập cảng: 63.6 tỉ (Trung Quốc 15%, Mỹ 9%, Nhật 8%, Nam Hàn 8%..)
- Xuất cảng: $47.8 tỉ. (Nhật 23%, Mỹ 14%, Trung Quốc 12%...)
10. Việt Nam:
Vietnam: GDP Growth: 6.8% GDP per head: $2,250 (PPP: $6,230) Inflation: 3.6% Budget Balance (% GDP): -3.8 Population: 94.4 mil |
- GDP: $510.7 tỉ.
- Nhập cảng $138.6 tỉ (Trung Quốc 32%, Nam Hàn 14%, Nhật 7%...)
- Xuất cảng: 4147.0 tỉ (Mỹ 18%, Trung Quốc 12%, Nhật 10%, Nam Hàn 5%...)
- Gần 1/3 hang hóa và nguyên nhiên liệu nhập cảng vào việt Nam là đén twuf Trung Quóc và 12% tổng số hàng hóa sản xuất của Việt Nam xuất cảng qua Trung Quốc. Điều nầy khiến kinh tế Việt Nam phụ thuọc quá nhiều vào Trung Quốc từ đó sẽ bị lệ thuộc chánh trị, nhất là khi nhận viện trợ dưới bất kỳ hình thức nào!. Bản chất cảu viện trợ là có điều kiện ẩn tàng !.
- Từ năm 1995, du lịch Việt Nam phát triển và năm 2014 - thu hoạch được $7.3 tỉ.
- Tỉ lệ thất nghiệp là 2% (2104).
11. Lào:
Laos: GDP per head: $2010 (PPP: $5,000) Inflation: 4.1% Population: 6.9 mil. |
- GDP: $34.4 tỉ.
- Nhập cảng: $4.1 tỉ (Thái Lan: 56%, Trung Quốc 26%, Vietnam 7%..)
- Xuất cảng: $2.8 tỉ (Thái Lan 33%, Trung Quốc 25%, Vietnam 12%..)
12. Miến Điện:
Burma (Myanmar): GDP per head: $1,890 (PPP: $4,700) Inflation: 5.5% Population: 56.3 mil. |
- GDp: $242 tỉ
- Nhập cảng: $12.5 tỉ (Trung Quốc 40%, Thái Lan 20%, Singapore 12%)
- Xuất cảng: $10.3 tỉ (Thái Lan 35%, Trung Quốc 255, Ấn Độ 12%..)
- Thất nghiệp 3.45%
13. Campuchia:
Cambodia GDP per head: $1,330 (PPP: $3,300) Inflation: 3.9% Population: 15.7 mil. |
- GDP: $50 tỉ.
- Nhập cảng: $10.6 tỉ (Thái Lan 27%, Trung Quốc 22%, Vietnam 20%..)
- Xuất cảng: $7.6 tỉ (Mỹ 29%, Anh 9%, Đức 9%, Nhật 6%, Vietnam 5%..)
- Du lịch: thu $3.0 tỉ, 97% du khách quốc tế: Hẹn ngày trở lại Cao Miên.
C. Lời kết:
1. Khoa học kỹ thuật là con đường duy nhất để chỉ đạo dân tộc và phát triển kinh tế (Maths, Sciences. The common denominators of world - changing innovation). Dân tộc nào cũng có nhiều người thông minh (trí tuệ), thế nhưng con cháu Lạc Hồng thông minh lắm (94.4 +4.6= 100 triệu). "Tự trị đại học" để trí tuệ được tự do phát triển - nhất là STEM. Khoa học kỹ thuật là phát minh, là sáng tạo. Điển hình là những bằng sáng chế (patents) được trình tòa (trademark) rồi được kỹ nghệ ứng dụng mà tung ra thị trường những sản phẩm (LED, smart phone, Ipad Pro, Galaxy, Hybrid...) đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế quốc gia sở tại và cho văn minh, tiến bộ của nhân loại. Thế giới chờ những "electronics products" của Việt Nam" Made in Vietnam by children of the Dragons and Firies, of Vietnames Enginering, for Vietnam Pride.
2. Bằng sáng chế (patents for innovations, grants) của những cường quốc , 2014:
- Đặng tiểu Bình (1904-1997) : Năm 1977 : "Phải máy móc hóa Trung Hoa " thì năm 2014 mới trở thành cường quốc thứ hai sau Mỹ.
- 11 quốc gia dưới đây đua nhau phát minh sáng tạo (Nam Hàn có 16,469 bằng sáng chế...) bỏ lại sau lưng những tư tưởng, lý thuyết, từ thế kỷ 19, 20 lỗi tời, vô duyên, trình độ không vượt qua lũy tre làng !...
Phạm Đức Liên, EdD
Former Professor Central Piedmont Community CollegeWindy City, trọng thu 2015 (250 F)
Saturday, April 8, 2017
ĐẶNG PHÙNG QUÂN * EDMUND HUSSERL
Edmund Husserl với Triết Lý Toán Học
-Đặng Phùng Quân
Khởi sinh từ triết lý toán học
Edmund Husserl
(1859-1938)
Trình chơi Âm thanh
00:00
03:32
Trong lịch sử triết học, việc đánh giá một nhân vật dựa trên
nhiều yếu tố, song chắc chắn người xây dựng một triết học,
một phong trào tư tưởng, một ý thức hệ với ảnh hưởng rộng
lớn trong xã hội có thể được xem như “triết gia lớn nhất của
thế kỷ này“.
Điều này xét ra không thậm xưng, chỉ nói trong vòng cận hiện
đại, những Descartes, Kant, Hegel, Marx … xứng đáng có tầm vóc
này.
Edmund Husserl (1859-1938), người khai sinh ra phong trào hiện
tượng luận ở thế kỷ XX từng được tôn là triết gia lớn nhất
của thế kỷ này. Điều này có thể không cần bàn cãi, vì ở nửa đầu thế
kỷ XX, triết học thường gọi là triết học lục địa (CP) chịu ảnh hưởng
hiện tượng luận Husserl ở nhiều lãnh vực, từ triết học đến những khoa
học nhân văn, Herbert Spiegelberg đã dẫn lời Herbert W. Schneider ở
đại học Columbia:
“Ảnh hưởng của Husserl đã cách mạng nhiều nền triết học lục địa, không
những vì triết học của ông thống trị, song vì bất kỳ triết học nào ngày
nay cũng mưu tìm việc kết hợp, và diễn tả theo phương pháp hiện tượng
luận. Nó là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm phê phán.”
Nhận xét này ghi vào năm 1950, song ngày nay, hiện tượng luận không
chỉ phát triển ở châu Âu, còn du nhập vào nhiều khu vực khác
trên thế giới (nửa sau thế kỷ XX, hiện tượng luận phát triển
ở Mỹ, xem: Phenomenology in America, James Edie biên tập 1967; Analecta Husserliana,
niên san nghiên cứu hiện tượng luận, Anna-Teresa Tymienieca chủ
biên, của The World Institute for Advanced Phenomenological Research
and Learning, Belmont, Massachusetts v.v…). Husserl cũng như đại đa
số triết gia vừa nghiên cứu vừa giảng dạy cho nên công trình
của ông gồm những tác phẩm đã xuất bản, những giáo trình và
nhiều bản thảo ghi tốc ký cần giải mã – nếu so sánh với
Platon và Aristote, ông may mắn sinh vào thời hiện đại, do đó
những tư liệu này đã hoàn tất và xuất bản thành Toàn tập của Husserl: Husserliana. Edmund Husserl Gesammelte Werke do Thư khố Husserl của Louvain/Husserl-Archief te Leuven chịu trách nhiệm – tôi sẽ đề cập sau)
Tên tuổi Husserl gắn liền với hiện tượng luận, thậm chí đại
từ điển triết học xem “trường phái triết học này hiện thân
qua Husserl và hậu duệ triết học của ông”[2]. Spiegenberg khi
viết một dẫn nhập lịch sử về phong trào hiện tượng luận
nhận xét:
Hiện tượng luận không chỉ nói về triết học Husserl…cũng không
thể nói toàn bộ triết học của ông là hiện tượng luận. Không
phải tới khi Husserl đã gần tuổi bốn mươi, tư tưởng triết lý
của ông mới chín mùi trong quan niệm hiện tượng luận. Tuy nhiên.
thực sự khuôn mặt chính trong sự phát triển phong trào hiện
tượng luận vẫn là Edmund Husserl.[3]
Do đó, Spiegelberg không đồng ý với Eugen Fink, học trò thân tín
của Husserl khi phân chia ba giai đoạn trong đời người thày dựa
trên những trường sở địa lý nơi ông giảng dạy (bắt đầu ở đại
học Halle khi ông làm Privatdozent
từ 1887 đến 1901, tiếp tục ở Göttigen trong 15 năm từ 1901 đến
1916 và sau cùng ở Freiburg im Breisgau cho đến hưu và mất năm
1938)[3]. Theo ông, hành trạng triết học của Husserl có thể chia
làm ba giai đoạn: (1) thời kỳ tiền hiện tượng luận kéo dài ở
nửa đầu những năm dạy ở Halle cho đến 1896 và tương ứng với
những ý tưởng hình thành quyển đầu bộ Nghiên cứu luận lý; (2) thời kỳ hiện tượng luận như mật công việc tri thức luận giới hạn, tương ứng với quyển hai bộ Nghiên cứu
nói trên, bao gồm những năm đầu ở Göttingen; (3) thời kỳ hiện
tượng luận thuần tuý như thể cơ sở phổ quát của triết học và
khoa học, hình thành chung quanh năm 1906, không những dẫn tới
tạo hình cho chủ nghĩa siêu nghiệm mới song còn là một chủ
nghĩa (l)ý tưởng/duy tâm hiện tượng luận đặc sắc, mà sự triệt
để/cấp tiến hoá tiệm tiến là chủ đề chính của giai đoạn
Husserl ở Freiburg.
Tôi sẽ trở lại bàn về lối phân chia của Spiegelberg. Như tiêu đề
của chương 1 ở trên, hình thành trí thức của Husserl là toán
học và vật lý học, qua những kinh nghiệm sinh động đó, Husserl
đã viết Philosophie als strenge Wissenschaft/triết học như thể khoa học chân xác xuất bản năm 1911 ngay giữa giai đoạn Logische Untersuchungen 1900-01 và Ideen I 1913.
Từ những dòng mở đầu, ông khẳng định: Tự triết học, trong
nghĩa đặc thù hiện nay đã rõ thiếu hơn bao giờ tính cách khoa
học chân xác…Tôi không nói triết học là một khoa học bất
toàn; có thể nói đơn giản triết học vẫn chưa bao giờ là một
khoa học. chưa bao giờ bắt đầu là khoa học. [4]
Nói như vậy không có nghĩa mọi khoa học hoàn hảo, Husserl giải
thích: mọi khoa học không hoàn hảo, kể cả những khoa học
chính xác đáng kính. Một mặt chúng không đầy đủ vì chân trời
không giới hạn của những vấn đề mở ngỏ, không bao giờ tri
thức ngưng nghỉ; mặt khác có vô số những sai sót trong nội dung
học thuyết đã triển khai, đây đó vẫn còn những hiển nhiên cho
thấy thiếu rõ ràng và hoàn tất trong trật tự hệ thống
chứng cớ và lý thuyết.
Ông cũng khẳng định những lợi ích cao đẳng nhất của văn hoá
con người yêu cầu phát triển một triết lý khoa học chân
xác.[5] Cũng trong tập sách nhỏ này, ông nêu ra những phê phán
hai đối tượng: triết học có xu hướng tự nhiên/naturalistische
Philosophie và triết học về thế giới quan và chủ nghĩa duy
sử/Historizismus und Weltanschauungsphilosophie. Từ phê phán này,
trong tác phẩm kế tiếp Ideen
zu einer reinen Phänomenologie und phänomenologischen
Philosophie/Những Ý tưởng về một hiện tượng luận thuần tuý và
triết học hiện tượng luận, phần hai nhận xét cơ
bản hiện tượng luận, chương thứ nhất về luận đề thái độ tự
nhiên và giảm trừ, tiết 28, Husserl viết:
“Tôi thường thấy mình như một người nào đó đang tri giác, biểu
hiện, suy nghĩ, cảm giác, thèm muốn v.v…; và tôi nhận ra mình
phần lớn thời giờ có quan hệ hiện tại tới thực tại này
tiếp tục bao quanh tôi. Không phải lúc nào tôi cũng có quan hệ
nhưvậy, không phải cogito/tôi tư duy, tôi sống trong đó, có sự
vật, người, những đối tượng nào đó hay những cảnh trạng nào
đó là những sự vật được tư duy thuộc về thế giới quanh tôi.
Có thể tôi bộn rộn tới những con số thuần tuý và những quy
luật của chúng: những cái đó không hiện diện trong thế giới
chung quanh, thế giới này thuộc về “thực tại tự nhiên”. Đối
với tôi, thế giới của những số cũng ở đó, tạo thành trường
sở những đối tượng của hoạt động số học; trong khi hoạt động
này , một vài con số hay cấu tạo số sẽ ở trong tiêu điểm
nhìn của tôi,bao quanh bởi một chân trời số học một phần được
xác định, một phần không xác định… Thế giới số học chỉ ở
đó với tôi khi nào và bao lâu tôi vẫn giữ thái độ của nhà số
học; trong khi thế giới tự nhiên, theo nghĩa thông thường luôn
luôn ở đó đối với tôi, bao lâu tôi vẫn sống trong đó”.[6]
Thế giới số học, đó là khởi đầu triết lý toán học của Husserl với Luận về khái niệm số/ber den Begriff der Zahl 1887, Triết lý số học/Philosophie der Arithmetik 1887,
tác phẩm đầu tay của Husserl mà nhà chuyên cứu Husserl là
Suzanne Bachelard không khảo sát vì cảm thấy công trình này biểu
hiện quan tâm của nhà toán học về phản tư tri thức hơn là quan
niệm luận lý cơ bản. Điều đó có đúng hay sai, tôi sẽ xét sau.
.
————————–
[1] Jean-Michel Salanskis, Husserl 1998: “le plus grand philosophe de ce siècle”, tôi cho in nghiêng từ “ce”
để nói tới cái tương đối thận trọng cuả tác giả. Thực sự.
những triết gia như Platon, Aristote, Kant, Hegel không chỉ vĩ đại
ở một thế kỷ.
[2] Grand Dictionnaire de la Philosophie 2003:École philosophique incarnée par Husserl et sa postérité.
[3] Herbert Spiegelberg, The Phenomenologial Movement. A historical introduction 1959:
Phenomenologie is not confined to Edmund Husserl’s philosophy…It could
not even be correct to say that all of E. Husserl’s own philosophy is
phenomenology. For it was not until Husserl had nearly reached the age
of forty that his philosophical thinking matured into his conception of
phenomenology. Nevertheless, it remains true that the central figure in
the development of the Phenomenological Movement was, and still is,
Edmund Husserl.
[3] Dựa trên hành trạng giảng dạy này, Fink nhận xét ba tác phẩm chính đã xuất bản của Husserl là Formale und transzendentale Logik 1929; Méditations cartésiennes 1931 và Logische Untersuchungen 1900-1901. Quan điểm của Fink có thể là những tác phẩm khởi từ hiện tượng luận mới bắt đầu triết học Husserl.
[4] Husserl, Sdt:
Die Philosophie selbst in dem sich nun erst abhebenden besonderen Sinne
entbehrte nach wie vor des Charakters strenger Wissenschaft…Ich sage
nicht, Philosophie sei eine unvollkommene Wissenschaft, ich sage
schlechthin, sie sei noch keine Wissenschaft, sie habe als Wissenschaft
noch keinen Anfang genommen.
[5] Husserl, Sdt: die höchsten Interessen menschlicher Kultur die Ausbildung eine streng wissenschafttlichen Philosophie fordern.
[6] Husserl, Sdt §
28: Immerfort bin ich mir vorfindlich als jemand, der wahrnimmt,
vorstellt, denkt, fühlt, begehrt usw.; und darin finde ich mich zumeist
aktuell bezogen auf die mich beständig umgebende Wirklichkeit. Denn
nicht immer bin ich so bezogen, nicht jedes cogito, in dem ich lebe, hat
Dinge, Menschen, irgendwelche Gegenstände oder Sachverhalte meiner
Umwelt zum cogitatum. Ich beschäftige mich etwa mit reinen Zahlen und
ihren Gesetzen: dergleichen ist nichts in der Umwelt, dieser Welt
“realer Wirklichkeit” Vorhandenes. Für mich da, eben als Objektfeld
arithmetischer Beschäftigung, ist die Zahlenwelt ebenfalls; während
solcher Beschäftigung werden einzelne Zahlen oder Zahlengebilde in
meinem Blickpunkte sein, umgeben von einem teils bestimmten, teils
unbestimmten arithmetischen Horizont…Die arithmetische Welt ist für mich
nur da, wenn und solange ich arithmetisch eingestellt bin.Die
natürliche Welt aber, die Welt im gewöhnlichen Wortsinn, ist immerfort
für mich da, solange ich natürlich dahinlebe.
Đặng Phùng Quân
THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUỐC TẾ
Thượng đỉnh Mỹ - Trung đầu tiên của Tổng thống Trump
RFA
2017-04-07
2017-04-07
Tại Florida, hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bắt đầu ngày làm
việc thứ nhì và cũng là ngày cuối của thượng đỉnh Mỹ-Trung, nhằm giải
quyết những vấn đề liên quan đến mối quan hệ thương mại song phương và
tình hình an ninh toàn cầu, đặc biệt là căng thẳng do Bắc Hàn gây nên ở
Bán Đảo Triều Tiên.
Tối hôm 6 tháng tư, trước khi bắt đầu bữa tiệc chiêu đãi Chủ Tịch Nhà
nước trung Quốc Tập Cận Bình và phu nhân, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump
có nói đùa rằng ông và nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã có cuộc thảo luận đầu
tiên, và ông chưa nhận được hứa hẹn gì từ ông Tập.
Ông Trump nói thêm rằng sau cuộc thảo luận đó, hai ông đã có cơ hội phát
triển tình bạn, tin tưởng về lâu về dài đó sẽ là mối tính bạn rất tốt,
góp phần xây dựng mối quan hệ tối đẹp hơn giữa Washington và bắc Kinh.
Lịch trình do Nhà Trắng phổ biến cho hay cuộc họp vào ngày 7 tháng tư sẽ
kéo dài cho đến trưa, hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ bàn thảo
chi tiết về những điều 2 ông và 2 quốc gia đều quan tâm.
Hôm 6 tháng tư khi trên Air Force One từ Washington đi Florida, Tổng
Thống Trump nói với các ký giả tháp tùng rằng mục đích quan trọng nhất
của thưởng đỉnh là vấn đề thương mại và Bắc Hàn.
Về thương mại, Tổng Thống Mỹ nói rằng trong bao nhiêu năm qua, Hoa Kỳ đã
bị thiệt thòi rất nhiều khi trao đổi thương mại với Trung Quốc, nhắc
lại điều ông đã nhiều lần nói đến từ khi còn vận động tranh cử là ông
đòi hỏi Bắc Kinh phải công bằng, không chấp nhận chuyện các công ty và
công nhân Mỹ tiếp tục bị thiệt thòi.
Về vấn để Bắc Hàn, Tổng Thống Trump nói đây là một vấn đề nghiệm trọng,
tin tưởng sẽ thuyết phục được ông Tập để Trung Quốc có phản ứng mạnh hơn
đối với Bình Nhưỡng.
Ngoài hai vấn đề vừa nói, các quan chức Nhà Trắng cho hay nhiều điều
khác nữa cũng được Hoa Kỳ đặt trên bàn hội nghị, trong đó bao gồm cả
căng thẳng ở Biển Đông và tình trạng nhân quyền tại Hoa Lục.
Sau cuộc thảo luận hồi chiều ngày 6 tháng tư, tin phát xuất từ các quan
chức ngoại giao Trung Quốc cho hay Chủ Tịch Tập Cận Bình có nói với Tổng
Thống Trump rằng ông muốn cùng ông Trump cổ võ, xây dựng quan hệ thương
mại, đầu tư song phương.
Tin cũng cho hay ông Tập Cận Bình nói với Tổng Thống Hoa Kỳ rằng hai ông
có cả ngàn lý do để xây dựng quan hệ cho đúng hướng, và không có một lý
do gì để gây trở ngại cho mối quan hệ đang có.
Bản tin của Tân Hoa Xã cho hay cũng trong cuộc họp đầu tiên, ông Tập Cận
Bình chính thức mời ông Trump sang thăm Bắc Kinh trong năm nay, và ông
Trump nhận lời mời này.
Một điểm bên lề cũng được nói tới là thượng đỉnh Mỹ-Trung diễn ra cùng
lúc với việc Tổng Thống Trump ra lệnh cho quân đội Mỹ tấn công một phi
trường của Syria bằng tên lửa hành trình Tomahawk.
Theo Nhà Trắng, Tổng Thống Trump thông báo quyết định này cho Chủ Tịch Tập Cận Bình biết.http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/trump-xi-summit-04072017101354.html
Những vấn đề ưu tiên trong thượng đỉnh Mỹ - Trung?
RFA
2017-04-06
2017-04-06
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sẽ có cuộc gặp thượng đỉnh đầu tiên với
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào ngày 6 tháng tư tại khu Mar-a-Lago ở
Palm Beach, Florida.
Những vấn đề được trông đợi đề cập đến trong cuộc gặp bao gồm vấn đề thương mại và căng thẳng tại bán đảo Triều Tiên.
Trong suốt thời gian tranh cử của mình vào năm 2016, Tổng thống Trump đã
hứa là sẽ tìm cách ngăn chặn tình trạng việc làm từ Mỹ bị lấy mất bởi
Trung Quốc. Hồi tuần trước, Tổng thống Trump viết trên twitter rằng Hoa
Kỳ sẽ không chấp nhận thâm thủng thương mại và mất việc làm quá lớn, và
rằng cuộc gặp giữa ông và Chủ tịch Trung Quốc sẽ là một cuộc gặp vô cùng
khó khăn.
Tuy nhiên các quan chức Nhà Trắng lại đưa ra một mức trông đợi thấp hơn
cho cuộc gặp này, khi nói rằng cuộc gặp nhằm tạo cơ sở cho các thỏa
thuận trong tương lai.
Trong khi đó, các quan chức Trung Quốc lại tỏ ra lo ngại về cách hành xử
khó đoán của Tổng Thống Trump dựa trên những gì đã diễn ra trước đó.
Hãng tin Reuters trích lời một quan chức Trung Quốc cho biết việc đảm
bảo cho Chủ tịch Tập Cận Bình không bị mất mặt sẽ là một ưu tiên hàng
đầu của Trung Quốc trong cuộc gặp.
Ông Tập về lại Trung Quốc ngay sau bữa cơm trưa với ông Trump
2017-04-07
Tin mới nhất từ Florida cho hay, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ lên
máy bay về lại Bắc Kinh ngay trong ngày hôm nay thứ Sáu 7/4, sau bữa
cơm trưa với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.
Hiện vẫn chưa rõ hai nhà lãnh đạo có họp báo sau thượng đỉnh hay không.
Ông Tập Cận Bình đến Florida hôm qua 6/4 và đã có cuộc gặp ngắn với ông Donald Trump trước khi tham dự tiệc tối do Tổng thống nước chủ nhà đãi.
Hôm nay 7/4, hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bắt đầu ngày làm việc thứ nhì, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến mối quan hệ thương mại song phương và tình hình an ninh toàn cầu, đặc biệt là căng thẳng do Bắc Hàn gây nên ở Bán Đảo Triều Tiên.
Ngoài hai vấn đề vừa nói, các quan chức Nhà Trắng cho hay nhiều điều khác nữa cũng được Hoa Kỳ đặt trên bàn hội nghị, trong đó bao gồm cả căng thẳng ở Biển Đông và tình trạng nhân quyền tại Hoa Lục.
http://www.rfa.org/vietnamese/internationalnews/trump-xi-summit-update-04072017102349.htmlHiện vẫn chưa rõ hai nhà lãnh đạo có họp báo sau thượng đỉnh hay không.
Ông Tập Cận Bình đến Florida hôm qua 6/4 và đã có cuộc gặp ngắn với ông Donald Trump trước khi tham dự tiệc tối do Tổng thống nước chủ nhà đãi.
Hôm nay 7/4, hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bắt đầu ngày làm việc thứ nhì, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến mối quan hệ thương mại song phương và tình hình an ninh toàn cầu, đặc biệt là căng thẳng do Bắc Hàn gây nên ở Bán Đảo Triều Tiên.
Ngoài hai vấn đề vừa nói, các quan chức Nhà Trắng cho hay nhiều điều khác nữa cũng được Hoa Kỳ đặt trên bàn hội nghị, trong đó bao gồm cả căng thẳng ở Biển Đông và tình trạng nhân quyền tại Hoa Lục.
Thượng đỉnh Mỹ-Trung : Cuộc gặp khó khăn đầu tiên của tổng thống Trump
Hình ảnh ông Donald Trump và Tập Cận Bình chiếm trang nhất các báo Trung Quốc ngày 06/04/2017.AFP
Hôm nay, 06/04/2017, tại Florida diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung
– Mỹ đầu tiên dưới thời tổng thống Donald Trump, người từng
không ít lần chỉ trích gay gắt nhằm vào Trung Quốc từ khi còn
là ứng viên cũng như khi đã đắc cử tổng thống. Dư luận Mỹ
trông đợi cuộc gặp lần này là dịp để tổng thống Trump phác
họa một chương mới trong quan hệ Washington - Bắc Kinh.
Khác với tất cả các lần tiếp tân trước với những nguyên thủ
quốc gia hữu hảo, cuộc gặp với chủ tịch Trung Quốc dự trù sẽ
rất khó khăn với tổng thống Mỹ. Làm sao dung hòa quyền lợi
của cả hai nước trên các hồ sơ kinh tế cũng như địa chính trị
quốc tế, trong khi mà ông Donald Trump vốn nổi tiếng với chủ
trương bảo hộ kinh tế vì mục tiêu tôn chỉ « nước Mỹ trước tiên? ».
Nhà báo Phạm Trần tại Washington phân tích :
Nhà báo Phạm Trần tại Washington phân tích :
VIỆT CỘNG NÓI LÁO VỂ FORMOSA
Láo toàn tập và lừa đảo toàn bộ
Người Quan Sát (Danlambao) - Vào ngày 6/4/2017, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Phát ngôn viên của Chính phủ là Mai Tiến Dũng tuyên bố: "Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, 4 tỉnh miền Trung đã
thực hiện nghiêm túc vấn đề kê khai, thanh toán tiền hỗ trợ của Chính
phủ cho các đối tượng bị thiệt hại, bị ảnh hưởng do sự cố môi trường
Formosa." (1)
Chương trình Thời sự của VTV1 vào tối 4/4/2017 đưa tin: "Biển miền Trung đã cơ bản sạch, mọi hoạt động trở lại bình thường; ngư dân được bồi thường công bằng, kịp thời..."
Giấy Cam Kết:
Họ tên tôi: Phan Duy Vĩnh
Phó Chủ tịch UBND thị xã Kỳ Anh
Phó Chủ tịch UBND thị xã Kỳ Anh
Cam kết với bà con thôn Đông Yên đúng
8g ngày 4/4/2017 lãnh đạo UBND thị xã sẽ trực tiếp đối thoại trả lời cụ
thể với bà con những vấn đề còn thắc mắc. Những đối tượng đã được niêm
yết công khai sẽ được chi trả trước 15/4/2017.
Nếu không thực hiện các nội dung tôi xin chịu trách nhiệm trước cam kết với bà con thôn Đông Yên.
Phan Duy Vĩnh - PCT UBND
Nguyễn Văn Cương - Chủ tịch UBND
Khi cam kết "Những đối tượng đã được niêm yết công khai sẽ được chi trả trước 15/4/2017" tức là cho đến giờ phút Mai Tiến Dũng tuyên bố: "...4 tỉnh miền Trung đã thực hiện
nghiêm túc vấn đề kê khai, thanh toán tiền hỗ trợ của Chính phủ cho các
đối tượng bị thiệt hại, bị ảnh hưởng do sự cố môi trường Formosa.", VTV đưa tin "ngư dân được bồi thường công bằng, kịp thời..." nhiều người dân vẫn chưa được đền bù"nghiêm túc", "công bằng" và "kịp thời" như lời tuyên bố của quan chức nhà nước và tuyên giáo đảng.
Đặt trường hợp ngược lại, nếu người dân Hà Tĩnh không tranh đấu để được
bồi thường chính đáng, liệu các quan chức đầu tỉnh có ký giấy cam kết
hay không? Và khi cả phó lẫn chủ tịch ký giấy cam kết thì có nghĩa là
người dân đã tranh đấu cho một mục tiêu chính đáng, hợp lý. Thế nhưng,
VTV1 lại đăng tin "người dân bị “kích động, gây rối..." và "phải xử lý nghiêm những kẻ kích động, gây rối".
Trở lại vấn đề Formosa tiếp tục hoạt động. Mai Tiến Dũng cho biết: "Tinh
thần chỉ đạo của Thủ tướng là khi nào Formosa bảo đảm các điều kiện để
hoạt động, không để xảy ra sự cố như tháng 4/2016 sẽ tiếp tục cho hoạt
động và nếu hoạt động không bảo đảm thì yêu cầu đóng cửa."
Tuy nhiên, Mai Tiến Dũng cũng như toàn bộ các quan chức Bộ Tài-Môi lẫn
tuyên giáo đảng đã cố tình lờ đi nguồn cơn gây ra thảm họa môi trường
xảy ra vào tháng 4/2016. Đó là Formosa đã sử dụng lò luyện cốc và quy
trình luyện cốc theo phương thức "dập cốc ướt" thay vì "dập cốc khô" như
trong quy định ký kết dự án ban đầu.
Dựa vào thông tin của các quan chức thì "theo kế hoạch, cuối tháng 3/2017
là thời điểm Formosa sẽ hoàn thành cơ bản các hạng mục khắc phục sự cố.
Vì vậy trong đợt kiểm tra này, Bộ TNMT cùng các chuyên gia đầu ngành về
môi trường của Việt Nam sẽ kiểm tra tổng thể các công trình bảo vệ môi
trường, đồng thời đánh giá kỹ lưỡng lại từng hạng mục khắc phục của
Formosa."
Cuối tháng 3 đã qua, Formosa vẫn tiếp tục sử dụng lò luyện cốc và phương
thức dập cốc ướt. Rõ ràng là toàn bộ hệ thống đã thông đồng với Tàu
cộng qua vỏ bọc Formosa để Formosa tiếp tục đe dọa môi trường Việt Nam.
Mọi phản đối sẽ bị côn an và tuyên giáo đảng quy vào tội "kích động và
gây rối".
07.04.2017
______________________________________
HẢI ÂU * VIỆT CỘNG CẤM DẠ CỔ HOÀI LANG
Vì sao cộng sản đòi cấm vĩnh viễn bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang”
Hải Âu (Danlambao)
- Cục Nghệ thuật biểu diễn của nhà nước cộng sản đang tỏ ra thách thức
công chúng khi liên tiếp cấm những bản nhạc bất hủ đã đi vào lòng khán
thính giả Việt Nam. Câu chuyện về 5 ca khúc nổi tiếng (Cánh thiệp đầu xuân, Con đường xưa em đi, Chuyện buồn ngày xuân, Đừng gọi anh bằng chú, Rừng xưa) đã bị cộng sản cấm sử dụng vĩnh viễn vẫn đang làm cho dư luận phẫn nộ trong những ngày qua.
Lấy lý do ca từ trong những bản nhạc đã bị sửa lời so với bản gốc, nhưng
thực chất thâm ý của cộng sản là muốn giết chết nền âm nhạc vốn dĩ được
hình thành và phát triển từ nét văn hóa của thời Việt Nam Cộng Hòa. Mới
đây nhiều thông tin cho thấy cộng sản có thể sẽ cấm vĩnh viễn lưu hành
bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu cũng với lý do ca từ của bản nhạc đã bị sửa lời.
Bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” có nội dung nói về nỗi niềm của một người
vợ nhớ chồng mỗi khi đêm về. Bản nhạc cổ được chính nhạc sĩ Sáu Lầu (Cao
Văn Lầu) sáng tác trong hoàn cảnh duyên nợ trái ngang của vợ chồng ông.
Năm 28 tuổi, ông Sáu Lầu buộc phải nghe lệnh mẹ thôi vợ vì lý do “tam
niên vô tự bất thành thê”, (hai vợ chồng ông không có con sau ba năm
chung sống). Thời ấy nếu thôi vợ thì ông phải đem trả vợ về cho cha mẹ
vợ, nhưng vì quá thương vợ, ông đã âm thầm chống lại lệnh của mẹ ông khi
gửi vợ đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu. Chiều chiều ông lại đem
cây đàn Kìm ra làm bạn, khi màn đêm buông xuống, phu thê ông lại phải
cam chịu cảnh “đêm đông gối chiếc cô phòng”... Chính từ những cảm xúc
rất tự nhiên của đời người trong câu chuyện của ông Sáu Lầu mà từ đó bản
nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” đã ra đời.
Cũng như bao tác phẩm âm nhạc nổi tiếng khác, người nhạc sĩ cần có và
phải có hoàn cảnh sống hoặc những câu chuyện đầy cảm xúc mới có thể sáng
tác những ca khúc đi vào lòng người cùng những áng văn nên thơ, lãng
mạn và đẹp đẽ. Nhưng đó lại là những điều mà cộng sản ngày nay không
muốn thừa nhận vì lẽ đó không phải là nhạc đỏ, nhạc cách mạng. Nó khác
hẳn với dòng nhạc cổ vũ chiến tranh khi “bác cùng chúng cháu hành quân”
hay cổ xúy cho sự chết chóc khi “đường vinh quang xây xác quân thù”. Hơn
thế nữa, những bản nhạc bất hủ trước năm 1975 lại là của những người
“bên thua cuộc” sáng tác.
Chuyện sửa lời bài hát mà cộng sản mượn cớ để cấm lưu hành những ca khúc
trước năm 1975 chỉ là cách biện hộ cho thói hành xử vô lối của cộng
sản. Có thể những ca từ ấy được chỉnh sửa, thay đổi ca từ âu cũng là làm
cho những ca khúc ấy gần gũi với công chúng nghe nhạc hơn. Tuy nhiên
sau khi sửa lời thì nội dung và ca từ của những bản nhạc ấy không hề làm
mất đi ý nghĩa chính của bản nhạc, cũng không gây phản cảm cho người
nghe. Những người lính hay những trận chiến trong bối cảnh sáng tác
những ca khúc ấy không xuyên tạc sự thật, không kích động chiến tranh,
cũng chẳng thù hằn Nam, Bắc. Thế thì sao phải cấm chúng lưu hành khi
những bản nhạc ấy mang lại món ăn tinh thần cho hàng triệu người từ Bắc
chí Nam.
Cũng vậy, bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang” chỉ đơn thuần là một tác phẩm âm
nhạc kể về sự trái ngang trong tình duyên của một xã hội còn nhiều giáo
điều mang tâm thức phong kiến thời ấy. Một bản nhạc cổ đã làm rơi nước
mắt của biết bao người yêu nhạc và đã tạo hứng khởi để từ đó Bạc Liêu
trở thành cái nôi của dòng nhạc “Đờn ca tài tử”. Một thể loại âm nhạc
được UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại vào ngày 5/12/2013. Đến cuối tháng 4/2014 chính nhà nước
cộng sản đã long trọng tổ chức Festival Đờn ca tài tử lần thứ nhất tại
Bạc Liêu. Hầu hết các quan chức cao cấp của đảng cộng sản đều có mặt
trong dịp Festival này nhằm vinh danh dòng nhạc có âm hưởng gần gũi với
văn hóa và tính cách con người miền Nam. Hàng tỷ đồng đã được nhà cầm
quyền chi ra để xây nhà tưởng niệm, khu trưng bày di sản của cố nhạc sĩ
Cao Văn Lầu cùng những hạ tầng cơ sở khác để tạo nên một Festival “Đờn
ca tài tử” rất Nam bộ.
Thế nhưng chỉ ba năm sau, cũng chính những kẻ “làm văn hóa” của cộng sản
đảng lại hăm he sẽ cấm vĩnh viễn bản nhạc cổ “Dạ cổ hoài lang”. Cục
Biểu diễn nghệ thuật của nhà nước cộng sản đưa ra lý do “chưa xác định
thời điểm sáng tác ca khúc này và cho rằng có nhiều dị bản đang được lưu
hành trên thị trường”. Một bản nhạc đã tạo ra cái nôi của “Đờn ca tài
tử” khiến UNESCO và thế giới công nhận là di sản của nhân loại đang đứng
trước nguy cơ chịu án “tù chung thân” tại Việt Nam.
Nếu cộng sản cấm những bài hát trước năm 1975 vì “bị” sửa ca từ hay vì
“dính” những hình ảnh người lính và chiến trận. Vậy thử hỏi những ca từ
trong bài “đồng chí” hay “năm anh em trên một chiếc xe tăng” và vô số
những bài hát liên quan đến cuộc chiến Bắc Nam của “bên thắng cuộc” tại
sao lại không cấm. Đất nước không còn chiến tranh, cộng sản luôn mồm kêu
gọi hòa hợp dân tộc nhưng tâm địa lại luôn thù hằn những gì gắn liền
với Miền Nam Việt Nam. Phải chăng cộng sản lo sợ văn hóa nghệ thuật đầy
tính nhân văn và tình dân tộc của Việt Nam Cộng Hòa hồi sinh và sẽ là
bước đệm nhằm giải thể cộng sản đảng độc tài?
08.04.2017
No comments:
Post a Comment