Thursday, May 4, 2017
PHẠM TRẦN * HÒA HỢP
Hoà giải với ai - hoà hợp cái gì?
Phạm Trần (Danlambao)
- Cuộc chiến đánh phá Việt Nam Cộng Hòa do đảng Cộng sản Việt Nam
(CSVN) chủ động đã kết thúc 42 năm, nhưng tại sao dân tộc Việt Nam vẫn
còn chia rẽ nghiêm trọng và ước mơ đòan kết tòan dân để xây dựng đất
nước hãy còn xa vời?
Tìm câu giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi này không khó, vì trách nhiệm
hòan tòan thuộc phe thắng trận là đảng CSVN, được Nga-Tầu sử dụng đánh
Mỹ thay cho họ ở chiến trường miền Nam.
Nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Lê Duẩn đã nhìn nhận như thế dù trên lý
thuyết nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975 vẫn tuyên truyền
chiến tranh trong Nam là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”.
Câu nói để đời cho đảng CSVN của Lê Duẩn là: "Ta đánh Mỹ là đánh cả
cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho
cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta."
Chưa bao giờ đảng và nhà nước CSVN dám cải chính câu nói này, do Nhà văn Vũ Thư Hiên ghi lại trong Tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày” do nhà xuất bản Văn Nghệ in và phát hành năm 1997 (trang. 422, phần chú thích).
Cũng thật trớ trêu cho lịch sử, ông Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, một thời gian dài là bí thư của ông Chủ tịch Hồ Chí Minh,
nhưng cả hai cha con sau đó bị công an bắt bỏ tù vì nghi tham gia vào
phong trào được gọi là “xét lại chống Đảng” (1967-1976) . Nhà văn Vũ Thư
Hiên bị tù 9 năm từ Hỏa Lò qua các nhà tù Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập
(Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Ông từng bị biệt giam trong xà
lim 4 năm rưỡi. Hiện ông sống tị nạn chính trị ở Pháp.
Nhưng không cần phải đợi đến tiết lộ của Nhà văn Vũ Thư Hiên, người
Việt Nam nào cũng biết cuộc chiến nồi da xáo thịt dài 20 năm, chuẩn bị
từ 1954 để phát động từ 1955, (1955-1975) ở miền Nam , thực chất chỉ là
“cuộc chiến đánh thuê” cho Nga-Tầu của Cộng sản miền Bắc (nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa) chống miền Nam không Cộng sản của Việt Nam Cộng hòa.
Tổn thất đồng minh Bắc-Nam
Nhưng để vuốt mặt cho khỏi xấu hổ, miền Bắc Cộng sản đã lấy cớ “chống
Mỹ” để xua quân đánh chiếm miền Nam sau khi miền Nam phải nhờ vào sự yểm
trợ của trên nửa triệu quân Mỹ (khỏang 541.933) và quân của các nước
đồng minh gồm Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan và Úc Đại Lợi
để tự vệ chống quân xâm lược miền Bắc.
Miền Bắc không có quân đội của khối Cộng sản, do Nga-Tầu điều binh khiển
tướng trực tiếp tác chiến bên cạnh quân miền Bắc ở các mặt trận trong
Nam hay trên các tuyến xâm nhập đường Mòn Hồ Chí Minh qua Ai Lao, Cao
Miên, hay “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” (sử dụng ven biển để xâm
nhập vào Nam) , nhưng các chuyên viên quân sự và cố vấn Nga-Tầu và các
nước chư hầu của Nga trong khối Liên bang Xô Viết cũ đã có mặt ở miền
Bắc trong suốt 20 năm chiến tranh xâm lăng miền Nam.
Theo Bách khoa Tòan (BKTT) thư mở thì đã có "khoảng 6.000 quân nhân
Xô Viết tham gia vào Chiến tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và
huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn."
Phía Trung Hoa có 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai
nạn), trong khi Bắc Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có 14 phi
công chết, 2 cố vấn bị thương.
Nhưng nếu hai khối Cộng sản Nga-Tầu không cung cấp lương thực, quần áo
và súng đạn cho miền Bắc theo đuổi cuộc nội chiến để gây thảm họa cho
nhân dân miền Nam thì ngày nay đã không có hận thù Nam-Bắc và không có
chia rẽ dân tộc.
Tổn thất Mỹ-VNCH và dân thường
Về tổn thất của Hoa Kỳ, BKTT ghi nhận có 58.209 quân nhân tử thương, 153.303 bị thương và 1.948 vẫn còn ghi là mất tích.
Phía các đồng minh khác của VNCH gồm quân đội Nam Hàn có 5.099 tử trận,
11.232 bị thương và 4 mất tích trong chiến đấu. Phi Luật Tân bị 552 tử
trận; Thái Lan có 351 chết và 1.358 bị thương; Úc Đại Lợi bị khoảng 500
chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu và 76 chết vì các nguyên nhân
khác. Cuối cùng là Tân Tây Lan với 55 lính tử trận và 2 dân thường.
Về tổn thất của 2 phía người Việt Nam trong cuộc chiến, tài liệu của BKTT viết: "Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là:
Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia của nhà nước CSVN thì phiá miền Bắc có:
- 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)
- 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.”
Tổn thất của Quân lực VNCH được ước tính có 300.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị thương.
Vể tổn thất của người dân, BKTT ước tính: "Có từ 900.000 đến
4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Cộngh sản)
Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995], hai triệu
thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa
năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả
của các chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam."
Ngoài số thương vong, BKTT cũng báo cáo còn có: "Hơn 2 triệu thường
dân mang thương tật suốt đời; Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân)
bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại."
Với những tổn thất và đổ vỡ như thế thì phe nào trong cuộc chiến phải có
bổn phận hàn gắn vết thương dân tộc? Chẳng lẽ lại là phe người miền
Nam, nạn nhân của cuộc xâm lăng từ miền Bắc?
Thế nhưng trong 42 năm qua, đảng và nhà nước CSVN đã không biến ăn năn
hối lỗi để tạ tội với nhân dân. Ngược lại, họ đã có hành động và ngôn
ngữ "bới đống tro tàn tìm máu đổ" để chạy tội và vụ lợi.
Từ nghị quyết 36 đến dối trá
Tiêu biểu là Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004
"Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài".
Điều then chốt của NQ 36 là tuyên bố "Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời
của cộng đồng dân tộc Việt Nam."
Từ quan điểm chính trị “vơ vào” này, đảng CSVN đã sử dụng mọi mánh khoé
và hậu ý của ngôn từ để mồi chài và đánh lừa người Việt Nam ở nước ngoài
nói chung và nói riêng những người Việt miền Nam đã chạy thoát chế độ
hà khắc và kỳ thị Cộng sản chạy ra nước ngoài tìm tự do.
NQ 36 chủ trương: "Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá
khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng,
thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt
Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã
hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều
được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc."
Nhưng thực tế thì khác. Đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngoài, nhất
là giới chuyên gia, trí thức và các nhà kinh doanh quay đầu về “hội
nhập” vào guồng máy cai trị của nhà nước để giúp mở mang dân trí, ngành
nghề, nhất là hai lĩnh vực khoa học và kỹ thuật để giúp Việt Nam phát
triển theo đường lối và chính sách cai trị độc tôn và đôc quyền của đảng
CSVN.
Vì vậy, nhà nước CSVN đã thất bại. Cho đến nay, sau 13 năm thi hành NQ
36, số trí thức về giúp nước chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên do vì
đảng đã coi thường trí thức không có đảng tịch, ganh tị và kỳ thị trí
thức “kiều bào” và luôn luôn đặt cán bộ đảng học dốt, bằng dổm chỉ huy
người có bằng thật và có kiến thức kinh nghiệm chuyên môn vuợt trội hơn.
Ngay đến các du học sinh theo học ở nước ngoài bằng tiền nhà nước Việt
Nam cũng rất ít người muốn trở về phục vụ vì ở Việt Nam không có điều
kiện và phương tiện cho họ hành nghề và phát triển kiến thức. Hơn nữa,
dù có học giỏi và có bằng cao nhưng không là hậu duệ của con ông cháu
cha, không quen biết, không nhờ cò hối lộ xin việc thì bằng cấp chỉ là
thứ không đáng một đồng xu.
Trong lĩnh vực kinh doanh, con số doanh nhân Việt kiều về nước làm ăn
cũng không nhiều và nếu có, chỉ tập trung vào các linh vực có lợi nhuận
và kiếm lời nhanh như bất động sản và du lịch.
Lý do không có Việt kiều nào dám bỏ tiền đầu tư vào các dự án kinh tế
lớn và bền vững vì nhà nước chỉ muốn bảo vệ các Doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) để cho các phe phái và lợi ích nhóm có phương tiện ăn chia với
nhau và để nuôi đảng.
Hơn nữa, nhà nước CSVN lại gỉa bộ không biết cái gía của tự do và dân
chủ mà các trí thức Việt kiều và doanh nhân người Việt đã được hưởng ở
nước ngoài nên khi họ về nước làm việc đã lập tức bị những con mắt cú vọ
của Công an khu vực dòm ngó theo dõi từng bước đi mà lời nói, khiến có
người vừa về Việt Nam đã muốn quay gót ra đi ngay.
Tình hình này cũng đã khiến không có mấy người Việt Nam, dù sống lâu năm
ỡ nước ngoài, muốn quay về Việt Nam sống cho hết cuộc đời, dù biết phải
đau lòng bỏ lại Việt Nam mồ mả của cha mẹ, anh em và Tổ tiên.
Từ thông tin đến xâm nhập
Về phương diện thông tin, NQ 36 chủ trương: "Đổi mới mạnh mẽ và toàn
diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước
ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài
phát thanh, truyền hình và Internet; chú trọng đổi mới nội dung, hình
thức và kỹ thuật của các chương trình này. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở
đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng
Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí
vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa
phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng."
Nhưng khi thi hành thì Nhà nước đã thất bại ê chề vì con số người Việt
Nam ở nước ngoải, dù có coi báo đài trong nước hay các chương trình phát
sóng ở nước ngoài cũng không mảy may thay lòng đổi dạ để “thay áo quốc gia bằng áo Cộng sản”.
Lý do vì các cơ quan truyền thông và báo của người Việt tị nạn ở khắp
thế giới đã khuynh loát và nhấn sâu xuống bùn đen mọi nguồn thông tin
không thật, dối trá và lươn lẹo” của Bộ Thông tin-Truyền thông và báo
đài nhà nước.
Người Việt Nam sống ở nước ngoài, cũng như rất đông người Việt ở trong
nước ngày nay đã thông minh, sáng suốt và nhạy bén với thông tin nhanh
chóng và đúng sự thật của những “nhà báo lề dân” đang can đảm hoạt động
chống lại thông tin một chiều và sai sự thật của báo “lề đảng”.
Bằng chứng là các mạng báo điện tử của người Việt không Cộng sản ở nước
ngoài đã kết nối thành công và nhanh chóng với các nhà báo tự do, các
blocger, các tổ chức xã hội dân sự và Face book trong nước để, chỉ trong
nháy mắt, đã truyền tải đầy đủ tin tức và hình ảnh sự thật của biến cố
trong nước đến người Việt Nam trên thế giới, và ngay cả ở Việt Nam.
Sự lép vế ngày một rõ ràng của báo chí nhà nước đã đẩy lùi NQ 36 vào
sâu trong bóng tối trong cuộc chiến truyền thông giữa nhà nước Việt Nam
và người Việt quốc gia ở nước ngoài.
Ngay cả đến công tác xâm nhập cán bộ vào các tổ chức Cộng đồng người
Việt Nam, hoặc mồi chài tay sai để vu khống và phá họai hàng ngũ người
Việt Nam ở nước ngoài cũng thất bại.
Nếu Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông và Cục Chính trị quân
đội không tin thì cứ hỏi Đại sứ Việt Nam ở Moscow, ông Nguyễn Thanh Sơn,
nguyên Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài xem ông ta đã nếm
những thất bại chua cay như thế nào khi còn tại chức và trong các chuyến
đi tuyên truyền cho NQ 36 ở Hoa Kỳ và Châu Âu.
Ai buồn-ai vui?
Nhưng trong hàng ngũ đảng CSVN sau 42 năm Sài Gòn bị quân Cộng sản
cưỡng chiếm, vẫn không thiếu những kẻ chỉ biết to mồm khoe chiến thắng
để chia rẽ dân tộc và xuyên tạc sự thật.
Điển hình như các cuộc biểu tình đấu tranh tranh đòi đền bù công bằng
và đòi đóng cửa Fomosa để bảo vệ môi trường của đồng bào Hà Tĩnh, Nghệ
An và Qủang Bình từ đầu năm 2017 đã bị Công an đàn áp và chống phá. Báo
đài Hà Tĩnh và báo lề đảng đã xuyên tạc các cuộc tranh đấu hòa bình là
phá rối an ninh trật tự và cuộc sống thanh bình của người dân.
Người dân, các Linh mục lãnh đạo biểu tình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp,
vị chủ chiên của đồng bào Công giáo địa phận Vinh còn bị vu khống và
buộc tội nhận sự yểm trợ tài chính và tinh thần của cái mà Công an và
báo đài nhà nước gọi là “các thế lực thù địch bên ngoài”.
Rồi các cuộc khiếu kiện đền bù của người dân bị cuỡng chế đất đai, tiêu
biểu như vụ Đồng Tâm, cách Hà Nội 40 cây số cũng đã bị đàn áp, bắt tù
người tranh đấu vô tội.
Như vậy thì hòa hợp, hòa giải được với ai? Ngay đến đồng bào trong nước
mà còn bị kỳ thị, bị cai trị bằng dùi cui và công an đội lốt côn đồ đánh
phá, tấn công ở bất cứ đâu và không trừ ngày hay đêm thì làm sao mà
những nạn nhân của ngày 30/4/1975 có thể quên được những khổ đau và đọa
đầy mà đảng CSVN đã gây ra cho đồng bào miền Nam trong 42 năm qua?
Trong nỗi bất hạnh này là chính sách kỳ thị man rợ của nhà nước CSVN đã
áp dụng trong mọi lĩnh vực, kể cả xin việc làm và giáo dục, chống lại
con cháu của những người của chế độ VNCH.
Nhưng trong 42 năm qua, liệu có khi nào lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN ở
Hà Nội biết nếm nỗi đắng cay của những gia đình người miền Nam có hàng
trăm ngàn thân nhân bị bắt đi tù lao động cực hình, hay đã bỏ thây
trong các trại tập trung được mạo danh là “cải tạo học tập”?
Hoặc có bao giờ họ thấu được nỗi oan khiên của hàng chục ngàn đồng bào,
được thế giới gọi là “thuyền nhân” (boat people) đã chết tức tưởi và ô
nhục trên đường vượt biển tìm tự do sau ngày quân Cộng sản miền Bắc vào
Sài Gòn, 30/4/1975?
Tất cả những hình ảnh bi thảm này của người dân miền Nam vẫn sống động như mới xẩy ra hôm qua.
Và cuối cùng, những người Cộng sản ngày nay, nếu còn sót dòng máu Việt
Nam trong cơ thể thì nên bình tĩnh chiêm nghiệm di chúc của Nguyên Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã để lại cho họ:
"Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá
cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt
nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở
phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì
thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu
người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung
của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu."
(Phỏng vấn của báo báo Tổ Quốc, ngày 31/03/2005)
Như vậy thì liệu Lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN có nên tự xét mình xem
họ đã làm được gì để hàn gắn vết thương dân tộc hay chỉ biết gây ra
những chia rẽ mới?
(05/016)
NGUYỄN AN DÂN * ĐỔI MỚI
04/05/2017
“DÙ CÓ TRẢ GIÁ CŨNG PHẢI TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI 2”
Nguyễn An Dân
Ai sẽ tiến hành “đổi mới lần 2” ?
1/ Ai sẽ tiến hành “đổi mới lần 2” ?
Đó là hàm ý của ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẩn trong bài viết
“nghĩ về cuộc đổi mới lần 2” đăng trên báo CAND ngày 19/2/2017 [1].
Trong đảng gọi là đổi mới 2 – đổi mới chính trị, còn Mỹ và nhân dân VN
gọi nó là “chuyển hóa”. Bài viết được đăng trên cơ quan ngôn luận của
ngành công an, do đó có thể hiểu đây cũng là một phần quan điểm của Bộ
trưởng công an Tô Lâm và xa hơn là tiền nhiệm bộ trưởng, ông Trần Đại
Quang.
Chúng ta cần nhớ lại những kinh nghiệm lịch sử, câu chuyện Hungary không
thể chuyển hóa sau nhiều lần trì hoãn vì bị Liên Xô hăm dọa tấn công
là điều cần tham khảo. Mãi đến khi 1989, lúc Liên Xô suy yếu thì
Hungary mới chuyển hóa được dù đã trồi lên thụt xuống trước đó khoảng 10
năm.
Chuyện này một lần nữa đang lặp lại ở Việt Nam. Hãy nhớ lời thượng nghị
sĩ Mỹ John McCain khi ông thăm Hà Nội vào năm 2014 “Vì Trung Quốc hạ đặt
giàn khoan, chúng ta phải nhanh lên”. Từ “chúng ta” ở đây nói rộng là
quan hệ Việt-Mỹ, nói hẹp là tư thế đại diện cho Mỹ của McCain nói với
nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Lá bài giàn khoan HD-981 khi đó được
thảy lên bàn cờ Việt –Trung chính là lời đe dọa của Trung Quốc khi muốn
đè nén xu hướng đổi mới chính trị do ông Nguyễn Tấn Dũng thúc đẩy.
Nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “thua cuộc” tại Đại Hội 12 phần lớn đến
từ sự đe dọa của TQ sẽ tấn công Việt Nam nếu ông có thể lên làm tổng bí
thư. Phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “nếu có va chạm ở Biển
Đông, chúng ta có thể yên ổn mà tiến hành hội họp được không? ” sau khi
tái cử ở Đại Hội 12 là một bằng chứng cho sự đe dọa đó. Trong bối cảnh
chính sách “cải lương” của Obama với Trung Quốc đang là xu hướng lúc
đó, việc Mỹ đứng sau Việt Nam khi TQ nổ súng là điều khó khả thi. Một
lần nữa trong bàn cờ khu vực, Việt Nam lại bị phụ thuộc và đánh mất cơ
hội thay đổi của mình.
Chúng ta có thể thấy rõ sau khi ông Dũng về hưu, trong đảng có sự chuyển
dịch vai trò. Quyền lực của vị trí thủ tướng trong đối ngoại và đối nội
thay vì thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kế thừa theo truyền thống thì nay có
sự thay đổi mạnh mẽ. Nó chuyển sang vị trí chủ tịch nước của ông Trần
Đại Quang. Sự thỏa thuận rút lui của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm
xong vai trò chiến thuật của nó. Đó là giữ cho Việt Nam yên ổn để “chờ
Trump và chờ Mỹ”, là để ông Trần Đại Quang kế thừa đường lối của mình.
Tôi gọi những gì ông Trần Đại Quang đang làm là “theo đường lối của Dũng
mà không có Dũng”.
Nghĩa là giờ đây, ông Trần Đại Quang tiếp tục thúc đẩy chính sách thân
Mỹ và thực hiện “đổi mới 2” do ông Dũng khởi xướng. Điều này đã được Mỹ
chứng minh qua việc ông Quang chủ trì chính khi tiếp Obama và nhận lá
thư do Trump gửi [2], chứ không phải thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Ông
Trần Đại Quang đã có cái mà năm xưa ông Nguyễn Tấn Dũng không có. Đó là
việc Mỹ -Việt đã kêu gọi 2 trục đồng minh Mỹ-Anh-Pháp và Nhật-Úc-Ấn-Việt
quay trở lại để ngăn cản Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông. Trong bối
cảnh nếu xu hướng đổi mới – thân Mỹ trong đảng lúc này thắng thế, việc
TQ còn dám đe dọa Việt Nam nữa là điều Trung Quốc sẽ phải thận trọng hơn
nếu không muốn trả giả nặng nề.
Tàu hải cảnh Trung Quốc hung hãn đâm thẳng vào tàu Cảnh sát biển Việt
Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, gần nơi
Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981
Trong bối cảnh đó, Hội Nghị Trung Ương 5 chuẩn bị khai mạc, là hội nghị
bản lề để tiến tới bàn bạc nhân sự ở hội nghị TW 6 vào cuối năm. Hãy nhớ
lại cũng ở mốc này ở khóa 11 của đảng 6 năm trước, thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã thoát kỷ luật đảng để thấy nó quan trọng với đảng như thế nào.
Và thay cho ông Dũng thì là ông Đinh La Thăng lần này bị mang ra Ban
Chấp Hành TW “mổ xẻ”. Dù ông Dũng từng có chỉ đạo phải xử lý sai phạm ở
tập đoàn dầu khí VN thời ông Thăng còn là chủ tịch, nhưng đó là quan hệ
cộng việc, chứ ông Thăng vẫn là người được coi là gần gũi với ông Dũng.
Ít nhất là khi phát biểu ủng hộ Bob Kerrey qua VN làm chủ tịch
Fullbritgh bất chấp “quan điểm ngầm” mang tính phản đối của phái bảo thủ
khi đó (chỉ đạo báo Tuổi Trẻ tháo bài phát biểu của ông Thăng), ông
Thăng cho thấy ông vẫn là người cùng giữ gìn đường lối của ông Nguyễn
Tấn Dũng.
2/ Những gì chủ tịch Trần Đại Quang đang muốn
Ông Trần Đại Quang là người được ông Dũng cơ cấu ủng hộ và đưa vào đường
lối thân Mỹ từ khi ông còn chưa là bộ trưởng. Hãy nhìn Bộ Công An đã và
đang cải cách theo mô hình cơ quan an ninh của Mỹ từ 10 năm nay để
thấy quyết tâm đổi mới của ông.
Điều này càng được khẳng định thêm khi chính ông Trần Đại Quang là người
thực hiện việc ngăn chặn sự quá đà trong quan hệ quốc phòng Việt -
Trung của cựu bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh trong quá khứ.
Từ khi là chủ tịch nước, ông Trần Đại Quang thúc đẩy dần việc đặt hiến
pháp cao hơn đảng pháp, ví dụ như đề cao vai trò của hội đồng quốc phòng
an ninh theo đúng tinh thần hiến pháp quy định, cũng như thúc đẩy việc
chuyển giao quyền lực cầm nắm quân đội từ quân ủy trung ương sang cho
chủ tịch nước, đúng với bản chất danh xưng “tổng tư lệnh các lực lượng
vũ trang” của chức danh này. Chúng ta có thể thấy rõ xu hướng này từ
phát biểu ủng hộ việc mở rộng quyền cho chủ tịch nước từ các đại biểu
quốc hội tiến bộ ở nghị trường trong năm 2016.
Trong tư thế đó, ông Quang bước vào Hội Nghị TW 5. Một hội nghị theo tôi
đánh giá là khá căng thẳng, nó quyết định “mức án” mà hội nghị TW 6 sẽ
tuyên cho ông Đinh La Thăng, bên cạnh đó, ông Quang còn nói với cử tri
sẽ xem xét sửa đổi Luật Đất Đai (vụ Đồng Tâm) và ban hành Luật Biểu Tình
đúng quy trình, thận trọng nhưng sẽ làm. Ông Quang đang thúc đẩy đảng
phải làm rõ những vấn đề xưa nay đảng có xu hướng tránh né. Trong buổi
tiếp xúc cử tri mới đây nhất, ông Quang còn nói “chúng ta giữ kỷ cương,
pháp luật nhưng phải để phát huy dân chủ cơ sở”.
Hội Nghị TW 5 cũng sẽ bàn về nhất thể hóa chức danh bí thư và chủ tịch ở
cấp tỉnh. Nếu đảng làm điều này là để giảm chi phí, tinh gọn bộ máy
trong bối cảnh ngân sách đất nước đang khó khăn thì cá nhân ông Quang
cũng muốn làm điều này để về sau đảng có thể nhất thể hóa chức danh tổng
bí thư và chủ tịch nước. Tuy nhiên, lâu nay Trung Quốc chưa bao giờ
muốn VN tiến hành nhất thể hóa ở cấp tối cao.
Hội nghị TW 5 của đảng sẽ bắt đầu với những vấn đề gai góc, căng thẳng,
chưa có tiền lệ như thế. Trong trạng thái mọi thứ đều “tĩnh” nhưng không
hứa hẹn điều gì khả quan, thì bất kỳ sự thay đổi nào cũng sẽ sinh ra
thách thức và cơ hội, vấn đề là lực lượng đổi mới có quyết tâm như ông
Lê Kiên Thành nói hay không?
Tôi mong là ông Trần Đại Quang, dù xuất thân từ lực lượng xưa nay “bảo
hoàng hơn vua” nhưng sẽ bước vào hội nghị TW trong khí thế và tinh thần
quyết tâm kế thừa đường lối cải cách của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng. Điều đó phù hợp với tâm tư của quần chúng nhân dân, của các đảng
viên yêu nước và cả chiến lược hợp tác Việt –Mỹ.
Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, đại tướng Martin Demsey đã từng nói
khi đến thăm VN vào năm 2014 [3] “chúng ta hãy nhìn vào quan hệ Việt Mỹ ở
50 năm nữa”. Muốn đạt được mốc đó, bắt đầu từ bây giờ đã là hơi muộn,
nhưng có còn hơn không.
N.A.D.
Mai Hiền
Buổi sáng 30 tháng Tư của 42 năm trước, trong ngôi nhà trọ sinh viên
đường An Dương Vương, Quận 5, tôi nhìn xuống đường. Sự ngột ngạt của
chiến tranh gia tăng khủng khiếp từ mấy tháng trước ở thành phố Sài Gòn.Đêm cũng như ngày, tiếng bom, tiếng súng dội về từ hướng sân bay. Tiếng đạn pháo như xé nát góc trời ngùn ngụt lửa cháy. Đám sinh viên ở trọ đã lo sợ nên về nhà gần hết. Tôi phải ở lại vì còn công việc chưa kết toán ở hãng. Lúc đó tôi là nhân viên tiếp thị của hãng kem đánh răng Perlon, tối mới cắp sách đến trường.
Không khí trên đường phố sáng hôm đó rất khác thường. Người xuôi, kẻ
ngược, hối hả. Xe nhà binh giương cờ trắng từng đoàn chạy ngang. Ba lô,
giày nhà binh, áo, mũ lính nằm lăn lóc dọc đường.
Chốc chốc, lại có từng đám người đi bộ gồng gánh, tay xách nách mang,
không biết họ về đâu mà gương mặt đầy vẻ lo lắng, thất thần. Bà chủ nhà
chực chờ bên chiếc Radio từ sáng sớm. Khi nghe tin cổng Dinh Độc Lập bị
húc đổ sập, đài phát tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng Cộng Sản, tay bà làm dấu Thánh Giá, giọng thảng thốt: “Vậy là mất
nước rồi!”
Tôi không cảm nhận được ý nghĩa mất nước trong thái độ hốt hoảng của bà
chủ nhà. Việt Cộng, tôi chỉ biết lờ mờ qua những tấm pano tuyên truyền
được treo rải rác ở một số đường phố Sài Gòn, vẽ lại buổi đấu tố cải
cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc: Hình ảnh nông dân tố điền chủ, con tố
cha, vợ tố chồng…
Nhưng điều đó cũng chưa làm tôi hình dung được chân dung Việt Cộng. Sự
đe dọa của chiến tranh cũng không tác động gì nhiều đến tâm trạng của
tôi, một cô gái hai mươi sáu tuổi chỉ biết đi làm, tối đến trường, thì
giờ rãnh cùng bạn bè đi cà phê tán dóc. Bà chủ nhà ngồi bệt ở bật cửa
thềm nhà, nói trống không với tôi, mắt thẩn thờ: “Năm 54, bỏ hết ruộng
vườn tài sản chạy từ Bắc vô Nam trốn Việt Cộng, bây giờ Việt Cộng tràn
vào biết đi đâu!”
Tôi không biết an ủi chị thế nào, chỉ ngồi cạnh người phụ nữ vốn vui tính và tốt bụng với đám sinh viên ở trọ.
Công ty tôi sau đó cũng bị tiếp quản trong chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Ngày tiếp quản, công nhân viên đứng tề tựu, đón chào ban quân quản. Tay
tôi bỗng nổi da gà, gáy trở nên lạnh buốt khi thấy một nữ quân nhân (sau
đó tôi mới biết bà tên Tuyết Minh) gương mặt nghiêm nghị, lạnh lùng,
theo sau bà là đoàn lính khoảng 20 người.
Họ đi trong tiếng nhạc Tiến Quân Ca. Lần đầu tiên, nghe ca từ mà tim tôi
đập thình thịch vì nội dung sắt máu của nó: “Thề phanh thây uống máu
quân thù / đường vinh quang xây xác quân thù ...”
Sau đó chủ nhà máy phải giao toàn bộ tài sản, gồm máy móc nhà xưởng, chỉ
được giữ lại gian nhà đằng sau khu vườn trồng lan để ở. Một chiến dịch
cải tạo mang tên X2 tiếp theo không lâu. Gia đình chủ lại phải rời khỏi
sở hữu cuối cùng là gian nhà ở của mình.
Công nhân viên chúng tôi bị bắt buộc học lớp chính trị do Ban Quân Quản
trực tiếp giảng dạy, gồm một ông trưởng ban người Nam Bộ có giọng nói từ
tốn, một ông phó ban Bắc Kỳ vẻ liến thoắng, lanh lợi. Chúng tôi ngồi
nghe, há hốc mồm. Những gì các ông nói, vẽ ra một cảnh tượng chưa từng
được nghe, thấy: Thiên đường Cộng Sản.
Là một người kém hiểu biết về chính trị, thời cuộc, tôi giống như một tờ
giấy trắng, tiếp thu đầy hứng khởi những gì mà hai cán bộ quân quản
tuyên truyền trong bài thu hoạch được đặt tên “Đi Về Phía Chân Trời”
– Ở chân trời đó, sau khi đã hoàn thành thời kỳ quá độ xã hội chủ
nghĩa, người lao động như chúng tôi sẽ tiến lên xã hội chủ nghĩa, làm
chủ tư liệu sản xuất, làm chủ tập thể nhà máy, không bị chủ bóc lột và
cuối cùng là đi vào thiên đường Cộng Sản, tức mọi người “làm theo năng
lực, hưởng theo nhu cầu”…
Lúc đó, tôi cũng chưa hiểu làm thế nào họ đưa chúng tôi lên được chốn thiên đường Muốn gì có nấy
đó. Bài thu hoạch đó đã được một anh phóng viên Báo Công Nhân Giải
Phóng (Báo Người Lao Động hiện nay) đến phỏng vấn nhà máy, xem và đưa
lên báo.
Tôi bước vào nghề báo bằng bài báo đầu tiên chứa đựng cảm xúc thật thà
đó. Chỉ vài năm sau, qua những biến động xã hội, mà tôi là nhà báo có
dịp tiếp cận thông tin, đường chân trời đẹp đẽ trong tôi dần tan biến.
Tôi cũng không ngạc nhiên khi một hôm gặp anh phó Ban Quân Quản, từng
thao thao giảng cho chúng tôi về sự tốt đẹp của chế độ, đem lại sự ấm no
cho người dân ngoài Bắc đang đứng ở chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, thu gom
hàng về ngoài đó bán kiếm lời. Xã hội lúc ấy xuất hiện câu vè “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng.” Nhận
họ, để mong có sự dễ dãi, nương tay trong chính sách mở ra 150 trại tù,
giam hơn một triệu sĩ quan, văn nghệ sĩ… dưới danh nghĩa học tập cải
tạo. Nhận hàng: Là những cái truyền hình, quạt máy, xe Honda, vải vóc…
phong phú, đầy ắp, choáng ngợp người dân miền Bắc đang thiếu thốn qua
nhiều năm dài bế quan tỏa cảng.
Chỉ được ít lâu, miền Nam cũng cạn kiệt vì cơn lốc của hai cuộc cải tạo,
rồi hai cuộc đổi tiền, quét qua gần 7,000 xí nghiệp lớn nhỏ, một triệu
cửa hàng. Miền Nam bắt đầu cuộc sống tem phiếu, khan hiếm lương thực như
miền Bắc!
Thời đó phải nói đến sự nhanh nhạy của người Sài Gòn. Họ chế biến bột mì
ra bánh mì và mì sợi bột mì và cao lương cũng được đem ra đổi lấy gạo,
thét rồi hình thành chợ trời nhu yếu phẩm. Chợ trời tại Sài Gòn thời ấy
cũng trở nên đông đúc vì bổ sung thêm đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ,
công chức bị đào thải, sĩ quan chế độ cũ vừa học tập cải tạo ra hoặc vợ
của sĩ quan kiếm tiền mua đồ thăm chồng ở trại cải tạo hàng tháng .
Tôi cũng gặp lại Khánh Linh, nhỏ bạn học thân thiết thời trung học tại
chợ trời thuốc tây trong chợ An Đông. Ôm nhau mừng mừng, tủi tủi, sau
mười năm trời không gặp kể từ khi chúng tôi rời khỏi mái trường Phan Bội
Châu, Phan Thiết – “Mày làm gì ở đây?” Nó chỉ cái sạp nhỏ trong mấy
chục sạp chen chúc nhau bày lủ khủ thuốc tây đủ loại. Chồng nó, giáo sư ở
trường đại học Nông Lâm Súc (hiện nay là trường Đại Học Nông Lâm), thất
nghiệp vì không được chế độ mới trọng dụng, đang ngồi tìm thuốc cho
khách. Nó cũng từng tốt nghiệp trường này trước biến động 30 tháng Tư
một tháng. Cầm lá đơn xin việc là con của quận trưởng Phan Thiết, nó bị
từ chối ngay ở cái liếc mắt vào sơ yếu lý lịch! Nhà ba má nó cũng bị
chính quyền tịch thu vì cái chức Quận Trưởng, tức “nguỵ quyền,” mặc dù
ông cụ đã về hưu hơn mười năm trước đó.
Hôm buộc giao nhà, có sự đôi co qua lại, bất thình lình, một thằng cán
bộ phường, tuổi khoảng 20, thẳng tay tát ba nó, một ông già đã hơn 70,
đứng sững sờ như trời trồng. Vợ chồng bạn tôi vượt biên nhiều lần thất
bại vì bị gạt có, bị lộ có, từng bị bắt giam một năm, phải buôn bán
thuốc tây kiếm sống và kiếm tiền để tiếp tục vượt biển. Hiện nay vợ
chồng nó đã định cư ở Úc.
Ba má của chị dâu tôi, tôi vẫn gọi là dì Ba vì hai gia đình cha mẹ là
bạn bè thân thiết, lớn lên kết sui gia, vốn là “hàm hộ” nước mắm nổi
tiếng ở Phú Hài, Phan Thiết, thuộc diện phải cải tạo công thương nghiệp,
bị tịch thu toàn bộ xưởng sản xuất nước mắm, nhà ở.
Nghe kể, hôm buộc giao nhà xưởng cho chính quyền, vợ chồng dì Ba ra đứng
ở một góc đường, nhìn lại rất lâu những gì đã gầy dựng từ hai bàn tay
trắng. Ngôi nhà ít lâu sau được phân cho cán bộ. Xưởng nước mắm Nhà Nước
đứng tên, thay bảng hiệu. Một đêm, ông bà lẳng lặng ẳm một cháu nội và
một cháu ngoại vượt biển. Ơn trời, chuyến đi trót lọt. Sự may mắn không
dễ có, khi hàng vạn người đã bỏ xác ở biển khơi, nơi rừng sâu và các
trại tị nạn trong trùng trùng triệu người cố bám vào những con tàu lớn,
nhỏ với nỗi khao khát được nhìn thấy chân trời tự do.
Anh chị tôi không đành lòng về thằng con trai nhỏ, mới chừng ấy tuổi đã
lìa cha mẹ, lại buồn vì thời thế thay đổi, không còn đất sống, sau khi
anh tôi là Sĩ Quan Thiết Giáp từ trại cải tạo về, hai ông bà lại vét
những đồng tiền dành dụm, góp cho chủ tàu và liên tục nếm mùi thất bại
từ những chuyến vượt biển. Có lần suýt bị bắt, anh chị tôi chạy bán sống
bán chết, may nhờ ngư dân Phú Hài chở che, cho ẩn nấp qua đêm. Mãi đến
khi giấy bảo lãnh của cha mẹ chị dâu đến San Jose, Bắc California, có
hiệu lực thì đã qua 13 năm. Ông bà ngoại qua đời, đứa cháu ngoại bơ vơ,
thiếu tình thương gia đình trong một thời gian dài.
Sự bùng nổ của Internet và các mạng xã hội làm cho người dân Việt bình
thường như tôi hiểu tường tận về sự thật lịch sử sau bốn mươi hai năm
Đảng Cộng Sản cầm quyền. Nhà Văn Dương Thu Hương khi đặt chân đến Sài
Gòn sau ngày 30 tháng Tư, đã phải khóc: “Nền văn minh đã thua chế độ man rợ.” Nghệ sĩ Kim Chi sau một thời gian cũng đã hiểu ra: “Đảng nói dzậy mà không phải dzậy.” Còn
tôi và những con người từng sống ở miền Nam, từng hít thở không khí của
tự do, dân chủ, lại càng thấy rõ sức tàn phá, hủy hoại ghê gớm của Đảng
Cộng Sản đối với đất nước này.
Miền Nam với đồng bằng sông Cửu Long, đồng ruộng bát ngát, thẳng cánh cò
bay, nông dân no ấm, yên tâm làm chủ mảnh ruộng của mình qua chính sách
cải cách điền địa và người cày có ruộng. Hồi đó, tôi nhớ đã được ăn các
loại gạo có tên mười hai thứ Nàng dẻo thơm danh tiếng lẫy lừng, bây giờ
không còn tìm thấy.
Cũng khẩu hiệu người cày có ruộng, ở miền Bắc, Đảng Cộng Sản chiêu dụ
nông dân để giành chiến thắng trong Cách Mạng Tháng Tám, nhưng sau đó
nối gót Trung Quốc, thực hiện cuộc đấu tranh giai cấp thảm khốc với cải
cách ruộng đất, rồi đất đai thuộc về Sở hữu toàn dân, do Nhà Nước quản lý. Nhà nước là đại địa chủ, chính quyền các cấp có nhiều hình thức “thu tô.”
Sau 30 tháng Tư, nông dân miền Nam cùng chung số phận tá điền của Nhà
Nước như miền Bắc. Sự lạc hậu của chính sách kinh tế, quản lý đất đai đã
khiến nạn tham nhũng tràn lan, bị Tổ Chức Minh Bạch thế giới xếp thứ
hai về nạn tham nhũng ở Châu Á. Chính quyền ngoéo tay với nhà đầu tư dự
án, nông dân phải rời ruộng đất với giá đền bù rẻ mạt. Dân oan mất đất,
mất ruộng nổi lên khắp nơi, bị công an đàn áp đánh đập.
Tháng tư năm nay, lần đầu tiên trong lịch sử, 6000 nông dân Mỹ Đức, Đồng
Tâm, đã thành công bằng sự đoàn kết, bắt tạm giam 30 lính cơ động đến
cưỡng chế đất, để đấu tranh với chính quyền đòi sự công bằng về đất đai.
Nhưng tiếng bom Đoàn văn Vươn, Tiên Lãng, tiếng súng Đoàn ngọc Viết xả
vào đoàn dự án, rồi tự sát, đã không dừng lại. Hàng triệu lá đơn khiếu
nại gởi đến chính phủ, trong đó 70% là tranh chấp đất đai…
Văn hào Thomas Hardy đã cảnh báo: Có một trạng thái tồi tệ hơn mù lòa là thấy thứ không thật sự tồn tại . Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, người trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác Lê, đã phải thú nhận – đến cuối thế kỷ 21, chưa biết là đã có Chủ Nghĩa Xã Hội hay chưa!
Nói về kinh tế thị trường kèm theo cái đuôi định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa,
nguyên Bộ Trưởng Đầu Tư Kế Hoạch, Bùi Quang Vinh, đã phải thốt lên: Làm
gì có cái đó mà tìm.
Vậy mà qua bốn thập kỷ, đất nước bị Đảng dẫn dắt đi theo Chủ Nghĩa hoang
tưởng đó, để một xứ sở kinh tế phát triển như miền Nam Việt Nam, một
Hòn Ngọc Viễn Đông, vốn là niềm mơ ước của các nước trong khu vực, trở
nên tụt hậu thê thảm về mọi phương diện: Kinh tế bất ổn, giáo dục loay
hoay, lạc thời so với thế giới.
Đất nước có thật sự thống nhất, người dân có yên bình hay không, khi mà
đến 30 tháng Tư, Nhà Nước tổ chức cờ xí tung bay, tự hào chiến thắng
trong khi lòng dân lo toan thường trực với thực phẩm không an toàn, cá
chết vì nước xả thải formosa, phải đối mặt với đạo đức xuống cấp, tội ác
lên ngôi, đe dọa sự an toàn của xã hội và hạnh phúc của mọi gia đình.
Phải mất nhiều năm sống trong chế độ Cộng Sản, tôi mới trải nghiệm câu nói của thủ tướng lỗi lạc người Anh, Winston Churchil: Chủ
Nghĩa Xã Hội là hệ tư tưởng của sự thất bại, là tiếng kêu của sự ngu
dốt, là lời truyền giáo của sự ghen tị; ưu điểm của nó là chia sẻ đồng
đều sự nghèo khổ. Nhà báo Tống Văn Công, từ một chiến sĩ Vệ Quốc
Đoàn, 56 năm tuổi Đảng Cộng Sản, sau nhiều lần góp ý cho Đảng, đành bất
lực, nói lời chia tay với Đảng và cho rằng “Đảng Cộng Sản chỉ có thể vứt đi chớ không thể cải hóa được.”
Những ngày tháng Tư, nhớ nao nao hình ảnh chị chủ nhà trọ, đôi mắt thẫn
thờ, tay làm dấu Thánh Giá, thốt lên, mất nước rồi! Tôi giờ đã hiểu chị.
(Tác giả từng là một nhà báo tại Sài Gòn)
Trân Văn
Nếu giải phóng là gạt bỏ những trói buộc thì sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 đã giải phóng nhiều người tham gia hoặc có liên quan đến công cuộc mệnh danh “giải phóng”.
***
Càng ngày sự tự hào của Đảng CSVN về “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” càng giảm.
Càng ngày càng nhiều người thuộc “bên thắng cuộc” trải lòng – kể lại công khai, chính xác những gì mà họ biết một cách tường tận hay những gì mà họ cảm nhận về công cuộc “giải phóng”.
***
Dịp 30 tháng 4 năm nay, facebooker Võ Đắc Danh – con của một “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, người có chồng và hai con trai hy sinh trong công cuộc “giải phóng” – kể rằng, sự hãnh diện trong ông vì những đóng góp của cha anh mình cho cách mạng chỉ kéo dài chừng hai năm. Sự hãnh diện ấy bị bào mòn từ việc mẹ ông, sau một thời gian dài giấu lúa nuôi cách mạng, phải tiếp tục giấu lúa để không bị cách mạng tịch thu. Sự hãnh diện tiếp tục sụt giảm khi ông chứng kiến một người bạn phải bỏ dở việc học vì gia đình bị quy kết là tư sản, mất nhà và những căn nhà bị tịch thu như thế được cấp lại cho những bạn bè mà cha mẹ tham gia công cuộc “giải phóng”...
Những chuyện như thế càng ngày càng nhiều và đó là lý do Võ Đắc Danh liên tục từ chối gia nhập Đảng CSVN để được “qui hoạch” làm lãnh đạo. Trong một status chừng vài trăm chữ với tựa là “Giải phóng để làm gì” trên trang facebook của mình, Võ Đắc Danh kết luận: “Nếu như năm 1975 tôi hãnh diện vì ‘lý lịch đỏ’ thì bây giờ, sau 42 năm, tôi hãnh diện vì quyết định từ chối vào đảng của mình”.
Facebooker Nguyễn Quang Lập – một nhà văn nổi tiếng - đăng lại status “Sài Gòn giải phóng tôi” mà ông từng viết hồi năm ngoái. Nguyễn Quang Lập tròn 19 tuổi đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhờ sự thông thương giữa Nam với Bắc, cậu sinh viên miền Bắc – nơi khởi xướng và kết thúc thành công “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” – cùng bạn bè đồng lứa mới biết đến bút bi, mì gói và máy cassette.
Cũng kể từ đó thành viên của “gia đình bảy đảng viên cộng sản” mơ được đến Sài Gòn. Tháng 8 năm 1976, khi vào Sài Gòn thăm người bác ruột, buổi sáng đầu tiên tiếp xúc với dân chúng Sài Gòn, Nguyễn Quang Lập sửng sốt khi thấy bà chủ tiệm tạp hóa thưa, gửi với khách, bỏ hàng hóa vào bọc nylon, cột lại cẩn thận… Nguyễn Quang Lập tiếp tục sững sờ khi thấy trong đống sách cũ bày bán trên vỉa hè có cả “Tư bản luận”, “Hành trình trí thức” của Karl Mark do các nhà xuất bản ở Sài Gòn in và phát hành từ thập niên 1960.
Facebooker Nguyễn Quang Lập kể rằng ông chỉ có 30 buổi sáng như thế ở Sài Gòn, nhiều chuyện tưởng như rất nhỏ nhưng lại tạo nơi ông những cảm nhận lớn lao, khác thường. Vào thời điểm đó, ông không cắt nghĩa được đó là gì song khi quay ra Hà Nội, ông bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, nói khác đi. Tuy bạn bè ngày đó gọi ông là thằng hâm, thằng lập dị nhưng ông “rất vui vì biết mình đã được giải phóng”.
Nguyễn Quang Lập viết “Sài Gòn giải phóng tôi” sau khi bị tạm giam gần ba tháng với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” rồi được phóng thích vì đã “cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.
Khác với Võ Đắc Danh và Nguyễn Quang Lập – chỉ có “quan hệ liên đới”,
facebooker Đinh Hữu Hanh là người trực tiếp cầm súng, tham gia “công
cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Đinh Hữu Hanh chỉ có chừng 700 người bạn trên facebook. Đa số bạn bè của
Đinh Hữu Hanh hoặc là cựu chiến binh như ông, hoặc là thân nhân của các
cựu chiến binh.
Trang facebook của Đinh Hữu Hanh đáng chú ý vì nó là nơi đăng “Ký ức một thời bi tráng” – thời người Việt được Đảng CSVN điều động từ Bắc vào Nam thực hiện công cuộc “giải phóng”.
“Ký ức một thời bi tráng” do Đinh Hữu Hanh viết có nhiều kỳ - hiện đang ngừng ở kỳ thứ 29.
“Ký ức một thời bi tráng” có nhiều điểm đặc biệt. Nó được những độc giả
vốn là đồng đội cũ của Đinh Hữu Hanh “giám sát”, góp ý trực tiếp để tác
giả sửa chữa, bổ sung. Từ câu chuyện của những giảng viên, sinh viên Đại
học Sư phạm Vinh bị biến thành lính, tới hoạt động của Trung đoàn 6,
Quân khu Trị Thiên từ 1972 đến 30 tháng 4 năm 1975,… làm người ta vừa
ngậm ngùi, vừa ngỡ ngàng, song đáng chú ý nhất vẫn là những bình luận.
Mức độ của sự cay đắng nơi những người lính “giải phóng” tăng dần, không
có điểm dừng từ lúc bị buộc cầm súng cho tới nay.
Đọc “Ký ức một thời bi tráng”, Hồ Thái Hà – một facebooker từng là đồng
đội của Đinh Hữu Hanh, giống như Đinh Hữu Hanh, từng bị gọi nhập ngũ và
điều vào Nam, cảm thán bằng thơ như thế này: “Chín
người chết sáu còn ba. Thế là ta ‘thắng’ địch ‘thua’ rõ ràng. Ba mươi
năm cuộc đao binh. Nồi da nấu thịt để giành ‘tự do’. Tự do bỏ xác nơi
mô. Tự do bệnh tật tự do đói nghèo”.
Chưa biết đến lúc nào thì “Ký ức một thời bi tráng” hoàn tất nhưng facebooker Nguyễn Kỳ Nam – một hậu sinh – đã gom các kỳ của hồi ký này vào một chỗ
và giải thích lý do là vì: Những ngày này ký ức của những người lính
năm xưa lại ùa về. Có niềm vui và cả những nỗi buồn. Có nụ cười, có nước
mắt cùng cả sự hối tiếc. Nhiều người lính ở cả hai phía đã nhận ra kẻ
thù của họ là ai và cuối cùng chỉ có nhân dân chúng tôi là người thua
cuộc.
ĐINH CÔNG ĐỨC * AI CÒN NHỚ VÀ AI ĐÃ QUÊN
Tháng 4 đen - AI CÒN NHỚ VÀ AI ĐÃ QUÊN?
Ai còn nhớ, và ai đã quên? CS Bắc việt là hiểm họa kinh hòang nhất cuả
dân tộc. Hãy xem hình ảnh đau thương, chết chóc, chia lìa khi đồng bào
chạy trốn Cộng sản 37 năm về trước .
Tại Tuy Hòa , Vạn Ninh (Tỉnh Phú Yên, Tỉnh Khánh Hòa)
Ngày 23-3-1975 phần đuôi đoàn xe di tản bị mắc kẹt trên Tỉnh Lộ 7 gần
quận Phú Túc, cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 40 km về phía tây, vì pháo
cộng sản bắn vào đoàn xe ở phía trước
Bà mẹ mất con tại Tuy Hòa. Ngày 25 - 3 – 1975
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Hòa.
Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đình trốn chạy cộng sản
Tại Nha Trang
Ngày 31 - 3- 1975 tại phi trường Nha Trang
Trên chuyến bay cuối cùng rời khỏi phi trường Nha Trang ngày 31 - 3-
1975 Trong cuộc hổn loạn những người Lính VNCH không chỉ lo cho riêng
bản thân mình mà còn giúp đở bảo vệ sự sinh tồn của người dân nhất là
những em bé
Phi trường Nha Trang Ngày 1 - 4- 1975
http://farm8.staticflickr.com/7274/7033729371_a43f57ee94_z.jpg Ngày 2 -
4- 1975. Trong cảnh di tản ra khỏi Nha Trang. Một người dân đang đu
trên cánh cửa máy bay
3 giờ sáng Ngày 30 - 3 - 1975. Chiếc HQ 802 cập bến cãng Cam Ranh
... đến 8 giờ tối Ngày 30 tháng 3 năm 1975, nhổ neo tiếp tục cuộc hành trình, rời cảng Cam Ranh để về Vũng Tàu
Hai ngày sau, là ngày 3-4-1975. Tàu HQ 802 đang trên biển Đông
Ngày 2 tháng 4 ngăm 1975 Nha Trang thất thủ
Tại Phan Rang , Phan Rí
Tại Phan Rang . Ngày 16 tháng 4 năm 1975.
Tại Cửa Phan Rí . Ngày 18 tháng 4 năm 1975.
Tại Xuân Lộc
Ngày 12 tháng 4 năm 1975, đồng bào bỏ chạy khi việt cọng tới Xuân Lộc và
người thanh niên xấu số này đã gục ngã trong vòng lửa đạn trên quốc lộ 1
Ngày 13 - 4 - 1975.
Tại Xuân Lộc
Ngày 14 - 4 - 1975, em trai này di tản một mình bằng chiếc xe lăn trên đoạn đường dài từ Xuân Lộc, đang di chuyển trên quốc lộ 1
Ngày 14-4-1975 , dân chúng Xuân Lộc chạy hổn loạn tranh dành leo lên chiếc trực thăng.
Ngày 15 - 4 - 1975
Ngày 23 tháng 3 năm 1975 tại Xuân Lộc
Ngày 31 - 3 - 1975
Ngày 23 tháng 3 năm 1975 Xuân Lộc thất thủ
Tại Lâm Đồng , Long Khánh
Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tại tuyến phòng ngã ba Dầu Giây
Ngày 19 - 3 - 1975, trên quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Tiếng
Ngày 20 - 4 – 1975, Quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Giây
Ngày 20 - 4 - 1975 tại Dầu Tiếng
Ngày 21 - 4 - 1975, dân chúng Long Khánh chạy tránh cọng sản
Ngày 21 - 4 - 1975, người chồng cuả phụ nữ này bị trúng đạn pháo kích của cộng sản
Ngày 21 - 4 - 1975, cộng sản vô tới Long Khánh
Ngày 21 tháng 4 năm 1975 Long Khánh thất thủ
Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cộng sản
Một chiếc tàu vận tải Vishipco chở số người tị nạn nặng trĩu từ miền trung khi cộng sản tràn vô
Một chiếc thuyền tị nạn ở miền trung
Người chạy giặc chỉ có đôi giày, vài cái túi, và một cái radio
Một gia đình dắt dìu nhau chạy giặc từ miền trung tránh đợt tấn cộng của cộng sản
Gia đình và trẻ em chạy giặc từ miền trung vào nam trong ngày cuối tháng 4 năm 1975
Hai em bé lạc loài trong dòng người di tản
Với chút hành trang còn lại người cha cõng đứa con chạy trốn cộng sản ở Trảng Bom ngày 23 - 4 -1975
Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cộng sản
Vũng Tàu Ngày 9 tháng 4 năm 1975
Dân chúng chen chúc tìm lối thoát tại các bến tàu
Ngày 21 – 4 - 1975, người dân Sài Gòn lũ lượt kéo nhau chạy ra Vũng Tàu tị nạn
Vòng đai thành phố Sài Gòn những ngày cuối tháng 4 năm 1975 đã bị vây chặt bởi nhiều sư đoàn của cọng sản
Tại Sài Gòn
Ngày 24 - 4 - 1975. cọng sản đã ném bom vào Sài Gòn
Lúc 3 giờ 30 Ngày 27 tháng 4 năm 1975, cộng sản pháo kích vào hành phố Sài Gòn
Ngày 28 - 4 - 1975, cộng sản tiếp tục pháo kích vào Sài Gòn
Ngày 28 - 4 – 1975, Xác T-54 trên đường Trương Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một chiếc trực thăng đáp trên sân thượng nhà 4 tầng của người dân trên đường Truơng Minh Ký
Tại Bến Sông Bạch Đằng
Người dân Sài Gòn tìm thoát trên bến phà Thủ Thiêm trên bến sông Bạch Đằng
Ngày 28 - 4 - 1975, người dân leo qua hàng rào bến cãng để trốn thoát khỏi Sài gòn
Những cửa ngõ duy nhất có thể thoát ra khỏi Sài Gòn như Toà Đại Sứ Mỹ,
khu DAO ở gần Air Vietnam và bến Bạch Đằng, thì lúc nào cũng đông nghẹt
người chen chúc chờ đợi một cơ hội cuối cùng. Đa số là thành phần trong
chính quyền cao cấp hoặc những người có liên hệ với Mỹ trước đây
Và những người sài Gòn đang liều mạng trèo lên các xà lan tại bến cảng Sài Gòn họ cố gắng trốn thoát khỏi cộng sản
Ngày 29 - 4 - 1975
Một bé trai đầu đội mũ lính, trên lưng cõng một đứa bé lạc loài trong đoàn người di tản
Sài Gòn vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 như một cái chảo đặt trên
lửa đang nóng dần lên và dân chúng như đàn kiến loi ngoi trong đó không
lối thoát
Thursday, May 4, 2017
NGUYỄN HUY * 30-4
30 tháng 4 năm 2017 và 2 Việt Gian Hải ngoại
Xin gởi, bài viết dưới này, đăng tại báo Thời Mới, số 767, ngày 5 tháng 4, 2017, tác giả Nguyễn Huy.
Có những vị cảm thấy " bình thường" khi tổ chức vui chơi ca nhạc vào tháng Tư đen, miễn không vào ngày 30 tháng 4.
Tôi cho rằng chúng ta nên tôn trọng cả Tháng 4 đen vì bối cảnh của cộng đồng Việt hải ngoại rất đặc biệt. It nhất là trong tuần lễ cuối của tháng 4 và nhất là vào các ngày gần kề như 27, 28, 29 thì càng nhạy cảm và càng nên tránh.
Như ngày giổ của Cha Mẹ đã mất, thì chỉ có những người con đại bất hiếu mới trong những ngày gần kề đó mà đi vui chơi ca hát.
Các vị làm trong các hội đoàn/ đoàn thể chính trị càng nên làm gương. Vì các vị mang trọng trách và nhận niềm tin từ bao nhiêu người.
Các vị bầu sô, ca nhạc sĩ đến các đất nước xa xôi, cộng đồng Người Việt ít, như Na Uy, càng không nên chà đạp lên Tháng Tư đầy tang tóc. Các vị có thể chọn một tháng khác. Các Cộng đồng Người Việt Quốc gia ở những nước ít dân Việt càng cần giúp đỡ ủng hộ.
Chính những lời ngụy biện và thái độ vô cảm thiếu trách nhiệm, mà để cho cộng sản và các nhóm các bầu sô và ca sĩ thân cộng ngày càng lấn tới.
DD
CÓ NHỮNG CHUYỆN KHÔNG THỂ LÀM
Nguyễn Huy
Tôi chỉ là người bình thường. Tôi không rành văn chương. Tôi cũng không thích bài xích ai. Nhưng có những việc tôi nghĩ mình phải lên tiếng, và mong mọi người lên tiếng mạnh mẽ với tấm lòng của một người yêu thương dân tộc và đất nước Việt Nam.
Trong cộng đồng hải ngoại, chúng ta nên tôn trọng ngày 30 tháng 4, là ngày để tang cho nạn nhân của cộng sản Việt Nam, là ngày Quốc Hận để tang cho ngày đã kết thúc nền Tự Do Dân Chủ của dân tộc Việt, và là ngày bắt đầu sự tang thương của nước Việt Nam phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị. Ngày 30 tháng 4 cũng là ngày Quốc Hận cho những thế hệ của người dân Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản Bắc Việt cùng Trung cộng và Liên sô cưỡng chiếm. Là ngày đánh dấu từng đợt sóng của người Việt liều mình để lánh nạn cộng sản đi tìm Tự Do. Và là ngày nhắc nhở tuổi trẻ Việt Nam về giá trị của một thể chế Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền.
Sự tham tàn độc ác mất tính người và tội ác bán nước của cộng sản VN không có bút mực nào kể đủ. Viết bao nhiêu giấy đây, khi báo chí truyền thông và nhiều người đã lên tiếng cụ thể từng tội ác của chế độ thối nát này, khi bao người dân trong nước đều nhận ra dù họ phải im miệng chịu đựng trong phẩn uất và đau thương, khi đất nước Việt Nam mà ông cha tổ tiên hy sinh gìn giữ nay trở thành nơi mạng người bị coi rẻ, nhân phẩm không được coi trọng, và đất nước rõ ràng đang dần lọt vào tay Trung cộng.
Người dân hải ngoại chúng ta có thể thấy nhiều chuyện dồn dập trong những năm gần đây, khi mà làn sóng của tập đoàn đỏ cộng sản đang tìm mọi cách tẩu tán tài sản ra nước ngoài, thì chúng càng tích cực đẩy mạnh Văn Hóa Vận cộng sản. Âm mưu xâm nhập và chia rẽ cộng đồng hải ngoại của cộng sản rất thâm hiểm, làm nhiều người ham lợi danh hoặc nhiều người bị lợi dụng đã vô tình trở thành công cụ của cộng sản. Như nhóm Canada Vietnam Society (CVS) do đại sứ quán cộng sản ở Ottawa thành lập và gian giảo tự xưng đại diện cộng đồng người Việt Canada. Và nhóm du học sinh Vietnamese Students Organization in Canada (VietSoc) tự xưng đại diện du học sinh tại Canada, công khai đánh bóng chế độ cộng sản VN. Cộng đồng tỵ nạn cộng sản còn phải thấy các ca sĩ cộng sản hãnh diện mặc áo cờ đỏ sao vàng hát ở VN như Thu Phương và Đàm Vĩnh Hưng rồi lại cùng các bầu sô vô lương tri thách thức tại các show nhạc hoặc thi Hoa hậu ở hải ngoại. Chúng dùng cách dần dần làm cộng đồng hải ngoại quen mắt và làm mũi lòng những người yêu thích văn nghệ để đưa đến chia rẽ trong cộng đồng đang tẩy chay những ca sĩ cộng sản đó.
Giờ đây, cộng đồng Hải ngoại chúng ta bắt đầu phải chịu bị cộng sản phủ đầu tấn công bằng những nhóm tổ chức ca nhạc, không chỉ chọn vào tháng Tư đen là tháng đau thương, mà còn chọn ngay vào ngày 30 tháng 4. Là hành động không chỉ chà đạp trên nỗi đau của những người tỵ nạn cộng sản, mà còn chà đạp lên sự đau khổ mất mát của hàng triệu triệu dân oan, dân khổ và quê hương đang tan tác. Là thủ đoạn thâm độc vì người dân VN đau thương và những nhà đấu tranh cho nhân quyền ở VN luôn xem hải ngoại như là một thành trì chống cộng, một lực đồng hành và là điểm hy vọng và ủng hộ cho quốc nội, để lên tiếng với quốc tế và các chính phủ của các nước Dân Chủ Tự Do.
Mà nếu đó là một vị có được sự kính trọng trong Tôn giáo, một vị Cha hay vị Thầy thì lại càng không thể nào chấp nhận được, vì đây là hành động tạo nên một tình trạng chia rẽ trong cộng đồng hải ngoại. Nhiều Giáo dân hoặc Phật tử vì tôn giáo mà có khi nhắm mắt và tự nhủ lòng “thôi chuyện gì Cha/ Thầy làm, mình cứ ủng hộ”.Và từ đó kéo theo bè bè lũ lũ cộng sản được thể lấn tiếp, và có tiền lệ thì cộng sản mừng lắm từ đó sẽ tiếp tục quấy phá.
Trong khi các chùa hay nhà thờ ở VN bị san bằng, bị đàn áp cấm đoán. Trong khi Cha Lý hy sinh thân mình cho dân tộc. Trong khi Cha Thục, Cha Nam ở miền Trung mạnh dạn lên tiếng để giúp người dân đòi lại quyền lợi vì các Cha xót xa nỗi thống khổ mất mát của ngư dân và gia đình họ.Trong khi giáo dân và đồng bào chịu đánh đập vẫn quyết phản đối Formosa. Trong khi nhiều người can đảm dám đến nhà thờ Đức Bà ở Saigon biểu tình giữa làn dày đặc công an để lên tiếng nói cho miền Trung. Và trong khi tại hải ngoại đang đấu tranh chống những tên Việt gian ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, với những tên di dân và du học sinh con ông cháu cha vừa muốn ra hải ngoại với khối tài sản tham nhũng để vui hưởng lợi ích của các nước Văn minh Tự Do vừa tìm cách nhuộm đỏ hải ngoại, và với những người thờ ơ quên đi dân mình đang khổ.
Thì tại hải ngoại, nay lại cùng lúc có 2 nhóm tổ chức ca nhạc vui chơi vào ngày 30 tháng 4, 2017:
Đó là Hội chợ mùa xuân 2017 của Giáo xứ các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại thành phố Houston, USA vui chơi trong 3 ngày 28, 29, 30 tháng 4, 2017. Dù có ngụy biện gì, tôi không hiểu sao một số vị giáo dân và linh mục đứng đầu giáo xứ này lại có thể làm một chuyện như vậy.
Một linh mục ở VN thường qua hải ngoại cất cao “Tiếng hát cho người nghèo” để gây quỹ giúp người nghèo người bệnh ở VN. Từ Phật tử cho đến Giáo dân hải ngoại đều hết lòng ủng hộ khi các năm linh mục nầy qua Mỹ, Canada .., để tổ chức gây quỹ. Nay linh mục này lại tổ chức hát hò vào đúng ngày 30 tháng 4, 2017 tại Lyon nước Pháp, hãnh diện với một dàn ca nhạc sĩ. Xin được hỏi Cha, có nhiều ngày để hát giúp người nghèo khổ, sao Cha lại chọn ngày Quốc Hận 30 tháng 4?
Tôi không muốn dùng những lời nặng nề. Nhưng tôi nghĩ là các vị tổ chức các buổi ca hát lễ hội vui chơi vào ngày 30 tháng 4 xin hãy suy nghĩ lại.
Lương tri con người giúp mình phân biệt đúng sai thiện ác.
Trí tuệ và sự thông cảm giúp mình không làm chuyện gì mà gây tổn thương cho cả một cộng đồng và bao người dân ở quê hương.
Trái tim con người giúp mình biết nỗi đau của đồng loại.
Lòng ái quốc giúp mình biết đất nước đang lâm nguy, dù đang mặc áo dòng hay áo tăng bào thì mình vẫn là người dân nước Việt.
Tự trọng của con người giúp mình không làm chuyện mà nhiều người khinh bỉ.
Mong những người tổ chức, tham gia, ủng hộ ca hát vào ngày 30 tháng 4 hãy tôn trọng chính mình. Các vị đang tiếp tay cho cộng sản, chà đạp trên bao nhiêu vong linh của nạn nhân cộng sản, đánh vào nỗi đau của cộng đồng Người Việt Tự Do và giúp Việt Cộng phá hoại ngày Tang của dân tộc khi quê hương còn nằm dưới ách độc tài đảng trị.
Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 là thời điểm để mỗi người Việt vinh danh Tự Do Dân Chủ Công Lý và Nhân Quyền, để thúc đẩy cuộc đấu tranh cho quyền sống của người dân Việt, chống lại đảng cộng sản Việt Nam phản bội dân tộc và chống lại sự xâm lược của Trung cộng.
Nguyễn Huy
NGUYỄN NGỌC GIÀ * BIẾT ƠN VIỆT NAM CỘNG HÒA
Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa
* Bài viết đã đăng trên Danlambao vào tháng 4/2014 của Nguyễn Ngọc Già.
Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) - Một số người trong nước cũng như người Việt hải ngoại cho rằng không nên vực dậy "xác chết" có tên Việt Nam Cộng Hòa.
Tuy nhiên, lịch sử là nguồn cội của bất kỳ dân tộc nào. Lịch sử là khoa
học và tính Người được thể hiện cao nhất từ đó. Bất kỳ một giai tầng nào
hay một bậc vua chúa hoặc một nhà độc tài nào đi nữa, cũng không thể
nào trốn được lịch sử. Lịch sử là Con Người.
Lịch sử dù đau thương như VNCH đã để mất Hoàng Sa, hay đáng tủi hổ như
công hàm 1958 của VNDCCH và hội nghị Thành Đô của CHXHCNVN cùng nhiều
biến cố sự kiện quan trọng khác không thể không nhắc lại.
Nhắc lại để hiểu rõ hơn và để cho thế hệ con cháu hôm nay, ngày mai
nghiền ngẫm, dọn mình cho một thời đại mới - đang bắt đầu ló dạng. Tôi
không biết mình có mơ mộng hão huyền trong tình thế của nước CHXHCNVN
hôm nay không, nhưng trong tâm hồn tôi, từ lâu, tôi muốn nói: Cám ơn
Việt Nam Cộng Hòa - Nhà Nước mà ở đó, làm cho tôi "Trích Lục Bộ Khai
Sanh" [*].
Sài Gòn - nơi tôi được sinh ra, lớn lên, chứng kiến một góc nhỏ nhoi những trầm luân của số phận dân tộc Việt Nam.
Dù VNCH tồn tại ngắn ngủi, nhưng tôi không sao quên được cuộc sống chan
hòa nhân ái của tuổi hoa niên, dù ngay trong những ngày chiến tranh lửa
khói.
Hôm nay, bỗng nhiên trong tôi bật ra lời thành tâm này. Tôi viết với nỗi
xúc động rưng rưng trên khóe mắt, khi xem lại hình ảnh những tử sĩ đã
ngã xuống tại Hoàng Sa - Trường Sa ngày xưa.
Thay mặt gia đình
Như đã viết rải rác trong nhiều bài trước đây, tôi sinh ra và lớn lên
tại Sài Gòn, trong một gia đình trung lưu với việc làm ăn phát đạt, dần
dẫn đến giàu có hơn.
Thật ra, sau này tôi mới biết ba tôi là "Việt Cộng nằm vùng", do đó có
thể nói, gia đình tôi là gia đình "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản".
Cách đây vài chục năm, khi nghe câu này, tôi khá giận dữ và cảm thấy bị
sỉ nhục. Cảm giác đó dễ hiểu bởi sự thật chưa được phơi bày như sau này.
Tuy nhiên, cũng nhờ đó mà tôi tự tìm tòi. Tôi nghĩ, không có cách gì
thuyết phục nhất cho mỗi người, nếu như tự thân mình không chủ động tìm
hiểu và can đảm nhìn thẳng vào Sự Thật. Nhìn một cách thẳng thắn, không
hề né tránh là điều chưa bao giờ dễ dàng, cho bất kỳ ai, cho bất kỳ điều
gì, không riêng lãnh vực chính trị.
Ít nhất, cho đến nay, tôi có thể nói, tôi đã nhìn thẳng vào Sự Thật mà tôi biết, tôi tin một cách có căn cứ.
Từ cảm giác giận dữ, dần dần tôi chuyển qua cảm giác nhục nhã. Nhục nhã
vì sự vong ân bội nghĩa của gia đình mình đối với Quốc Gia mà từ đó gia
đình tôi làm ăn khá giả một cách chân chính, còn bản thân tôi lớn lên từ
đó.
Tôi không có ý định chạy tội cho ba tôi hay những người thân khác. Suy
cho cùng, gia đình tôi vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của cộng sản.
Đó là sự thật. Ba tôi chưa bao giờ giết bất kỳ một ai.
Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có
muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì
người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự "ân
sủng" dành cho ông - một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính
nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự "ban ơn" nào từ người cộng
sản. Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng
sản gây ra. Có thể đó là một niềm an ủi cho tôi. Cũng có thể đó là một
ơn huệ của Ơn Trên, đã sắp đặt cho ba tôi một cái chết không hề nhơ
nhuốc mà nhuốm màu thê lương trong một con người thơ ngây và chơn chất.
Nhưng đó là câu chuyện quá vãng của gần 20 năm về trước, không phải
những gì tôi muốn viết hôm nay.
Tôi có ba người chú ruột đều được "phong liệt sĩ". Cả ba người đều chết
thời Pháp. Bà nội tôi được "tặng" "bà mẹ Việt Nam anh hùng". Tôi có hai
người cậu ruột, trốn ngoại tôi để đi tập kết năm 1954. Hai người cậu
ruột khác lại làm trong chế độ VNCH. Hai người cậu này đều có chức phận
vào thời bấy giờ. Tôi có một người chị ruột làm trong nhà thương và
"thân cộng" lúc đó. Một người anh ruột là sĩ quan thuộc quân lực VNCH
(nhưng thật ra là VC nằm vùng), một người anh ruột khác là hạ sĩ quan
cũng thuộc quân lực VNCH (thuần túy là lính, không quan tâm và tham gia
vào chính trị, cũng như không phải VC nằm vùng). Tôi có vài người anh,
chị ruột nữa, họ là dạng "cách mạng 30/4". Một số bà con thân thuộc nội
ngoại khác, người thì ở trong "khu", người lại chống Cộng triệt để. Vài
người khác, người thì là quân nhân, người nữa lại là công chức của VNCH
v.v...
Hồi trước 1975, đa số gia đình đều đông con. Ít thì ba, bốn; nhiều thì
chín, mười. Có gia đình lên đến mười hai - mười bốn người con, đều bình
thường trong nếp sống lúc bấy giờ. Một đời sống sung túc, hầu hết gia
đình khá giả, đều giống nhau suy nghĩ: nhiều con là phúc lộc Trời cho.
Chế độ VNCH cũng không có việc "sinh đẻ có kế hoạch". Mắn đẻ lại là điều
tốt mà phụ nữ thời xưa luôn tự hào. Cuộc sống dung dị như thế. Không
chỉ riêng những gia đình giàu có mà có thể nói hầu hết đều tương tự như
vậy.
Dông dài như thế, để nói rằng giòng tộc nội ngoại của tôi khá phức tạp. Giá như...
Vâng, chính cái "giá như" nó đã làm hầu hết giòng tộc, anh chị em đại
gia đình tôi "tan đàn xẻ nghé" từ dạo ấy. Dạo mà "rầm rập bước chân ta
đi rung chuyển đường phố Sài Gòn" với ngày 30/4/1975 (!)
Một giòng tộc như thế mà nói đến "đoàn kết" (như CSVN đang kêu gọi) thì quả là... hài kịch.
Ba tôi và anh chị tôi đã từng đi tù dưới chế độ VNCH. Ba tôi ra tù sớm,
chị tôi thì được tha bổng sau vài tuần tạm giam, vì không đủ chứng cớ
kết tội. Riêng anh tôi nhận án "20 năm khổ sai" và bị đày đi Côn Đảo cho
đến (tất nhiên) 1975.
Điều tôi cám ơn Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa thật giản dị:
- Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là ông có thể bắt tay trở lại công việc làm ăn.
- Suốt thời gian ba và anh chị tôi bị điều tra cho đến lúc kết án chính
thức, gia đình tôi (những người không liên quan) không hề bị săn đuổi,
bắt bớ vô pháp, hành hung, xách nhiễu v.v... Má tôi đã gánh vác mọi việc
làm ăn vào lúc đó. Chúng tôi vẫn đi học bình thường và sống trong môi
trường không hề bị kỳ thị của bất kỳ thầy cô hay bạn bè nào. Hàng xóm
láng giềng cũng không vì thế mà ghẻ lạnh, hắt hủi hay tiếp tay như kiểu
bây giờ mà người ta gọi là "đấu tố thời đại mới".
- Anh tôi - người ở tù Côn Đảo, ngày trở về đất liền vẫn mạnh khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả.[**]
Cá nhân tôi
Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã
hội - có thể chưa phải là tốt đẹp nhất - nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng
sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục,
có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng
"cải cách" giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút
tiến bộ nào khả dĩ. Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất
lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam.
Nền giáo dục trước 1975 mà tôi hấp thụ, dù ngắn ngủi, nó thật sự là nền
giáo dục nhân bản và khai phóng. Trung thực và hiền lương. Ganh đua
nhưng không đố kỵ. Biết phẫn nộ nhưng không tàn ác. Đặc biệt nền giáo
dục đó giúp cho hầu hết học trò luôn biết dừng lại đúng lúc trước cái
sai với nỗi xấu hổ và tính liêm sỉ - tựa như "hàng rào nhân cách" được
kiểm soát kịp thời.
Chính xác hơn, tôi cám ơn Thầy - Cô của tôi, có lẽ bây giờ hầu hết đã
qua đời, nếu còn sống chắc cũng đã nghễnh ngãng hay quá già yếu.
Tôi biết ơn các Giáo sư [***]. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.
Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi, vì nhiều độc giả thương mến (có lẽ qua
những bài viết), họ ngỡ tôi là: giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, nhà văn, nhà
giáo v.v... nhưng tôi thưa thật, tôi chỉ là một người "tay ngang" trong
viết lách. Qua từng bài viết, tôi rút ra kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi luôn
cố gắng viết cẩn trọng và khách quan nhất để thuyết phục độc giả. Tính
cách này, tôi đã học từ Thầy - Cô tôi, ngày xưa. Dù môn Văn Chương ngày
ấy, tôi luôn nhận điểm thấp tệ.
Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi cũng vì, sau 1975, cả nước rơi vào đói
kém, làm cho "tính người" trong xã hội cũng mai một dần và tôi không là
ngoại lệ. Thảm trạng xã hội lúc đó biến tôi trở nên chai lỳ, mất cảm xúc
và lạnh lùng. Đặc biệt "chữ nghĩa" hầu như trôi sạch hết cùng những
"tem phiếu", "xếp sổ mua gạo", chầu chực "mua nhu yếu phẩm" v.v... ngày
xưa.
Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời
cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi "trầm mình" trong nỗi đau của
bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học
và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.
Tôi tìm lại được "tính Người" mà bấy lâu nay tôi đánh mất.
Một lần nữa, tôi cám ơn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và các Thầy - Cô của ngày xưa.
______________________________________
Chú thích:
[*] Vì những năm loạn lạc, đặc biệt tết Mậu Thân, nhiều nơi cháy nhà và
thất lạc giấy tờ. Sau khi tạm bình yên, má tôi đã ra Tòa Hành Chánh Quận
3 thời bấy giờ để làm "Trích Lục Bộ Khai Sanh" cho tôi.
[**] Tôi nhớ khoảng đến cả tháng sau (tức đâu khoảng cuối tháng 5/1975)
anh tôi mới về tới SG, nhưng chưa được về nhà ngay mà ở đâu đó (lâu quá
rồi tôi không còn nhớ địa điểm, hình như lúc đó ở tại một trường học nào
đó thì phải?) đợi thẩm vấn điều tra từ "chính quyền cách mạng lâm thời"
lúc bấy giờ, đâu hết cả hai tuần nữa mới được về nhà. Tôi nhớ lúc đó,
tôi hỏi anh tôi rất ngây ngô: Ủa! Sao hơn cả tháng trời anh mới về nhà?
Anh tôi cười và im lặng không nói. Mãi về sau, tôi mới lò mò tìm hiểu,
thì ra, dù là "phe mình", nhưng bản chất người cộng sản là "bản chất Tào
Tháo". Họ có tin ai bao giờ đâu! Họ giữ lại tất cả tù chính trị để điều
tra xem thử có phải là gián điệp (các loại) được cài lại hay không (để
tính chuyện lâu dài).
[***] Trước 1975, từ đệ thất (nghĩa là lớp 6 bây giờ), Thầy - Cô được
gọi là Giáo Sư - một cách gọi trân trọng, không phải học hàm như bây giờ
nhiều người biết.
Wednesday, May 3, 2017
SƠN TRUNG * TRUNG CỘNG, ÔNG THẦY VIỆT CỘNG
TRUNG CỘNG, ÔNG THẦY VIỆT CỘNG
SƠN TRUNG
Trong thế giới hiện nay, có hai thầy trò nhà Cộng là nổi tiếng hung đồ, gian manh và tham lam.
Thế giới ngày
càng thâu ngắn lại vì phương tiện giao thông tối tân. Máy bay, du thuyền
đã đưa Trung Cộng và Việt Cộng đi khắp nơi. Họ càng đi nhiều càng bộc
lộ cái dã man và nghèo đói của họ.
Xin xem các hình ảnh dưới đây:
Starbucks hối hận vì cho phép khách tự mang cốc riêng, nhìn món đồ họ mang tới, nhân viên chỉ biết khóc ròng
ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.
*
*
* *
CÁI chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Ghi-Chú:
Nguyễn Văn Long sinh ngày 1 tháng 6 năm 1919 tại Phú-Hội, Huế, tuẫn-tiết tại Thủ-Đô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
;CSH
Mua bán người : Càng ngày càng tinh vi và nhiều thủ đoạn : Buôn bán trẻ sơ sinh, buôn bán bào thai, nội tạng và một hình thức buôn bán mới nhất gần đây là đẻ thuê…. Đất nước cứ mỗi ngày một nghèo thêm để nối dài chậm tiến và tụt hậu so với nhân dân các nước trong khu vực. Thậm chí có nhiều lĩnh vực bây giờ thua cả Kampuchea và Lào.
Nhuộm đỏ đất nước theo XHCN
Hôm nay là ngày 27, chỉ còn 3 hôm nữa là 30 tháng Tư 2017, 42 năm im tiếng súng mà lòng người vẫn chưa yên, là cảm nghĩ từ một số cựu binh từng vượt Trường Sơn gọi là vào giải phóng miền Nam 42 năm trước:
Ngày 27 tháng Tư năm 1975 thì tôi đang công tác ở rừng U Minh Thượng thuộc Long Châu Hà theo cách gọi của phía cộng sản tức là gồm Long Xuyên, Châu Đốc và Hà Tiên. Đến ngày 30 tháng Tư, đơn vị chúng tôi được lệnh tiến ra tiếp quản các cơ sở kinh tài, ngân hàng, ngân khố, kho bạc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vượt hơn một ngày trời bằng đường bộ và bằng ghe xuồng trên các kênh rạch ở miền Nam, đến đêm ngày 1 tháng Năm tiến vào thị xã Long Xuyên, tiếp quản Ngân Hàng Công Thương cũng như Kho Bạc, Ty Ngân Khố, Sở Nông Nghiệp của tình An Giang lúc đó.
Nhưng mà tôi đã thấy một thành phố phồn thịnh, sầm uất ở miền Nam. Tháng Chín 1975 tôi có dịp lên bệnh viện Chợ Rẫy chữa vết thương trong chiến tranh, được tiếp xúc với bà con họ hàng thân thuộc đã di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 thì tôi chính thức có lập trường và có nhận thức hoàn toàn khác với những gì mà đảng cộng sản và cả hệ thống giáo dục miền Bắc nhồi nhét cho tôi.
Càng nhận thức càng thêm ngậm ngùi và tiếc nuối, là tâm trạng của cựu binh Nguyễn Khắc Toàn 42 năm sau, khi quyết định trở thành một người hoạt động cho dân chủ và dân oan ở Hà Nội:
Đi vào miền Nam dưới khẩu hiệu giải phóng, thống nhất đất nước, chống Mỹ cứu nước, nhưng bây giờ nhìn lại cuộc chiến đã kết thúc cách đây 42 năm thì rất buồn bởi đó là cái bi kịch lớn của dân tộc. Lẽ ra cuộc chiến này không nên có. Đất nước thì cần phải thống nhất nhưng thống nhất bằng con đường hòa bình, thương lượng, đàm phán như tấm gương của Cộng Hòa Liên Bang Đức và Cộng Hòa Dân Chủ Đức thì tốt hơn. Gọi là đi giải phóng miền Nam mà chế độ miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã có đầy đủ những đặc trưng của một xã hội tiến bộ, người dân được tự do làm ăn kinh doanh, một xã hội văn minh. Tiến hành một cuộc chiến để thu hồi nốt miền Nam, để nhuộm đỏ toàn bộ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa chỉ là một ảo vọng, chỉ là một thử nghiệm thì nay cũng đã sụp đổ hết.
Ngày 30 tháng Tư 1975 đã theo đoàn quân 203 vào tiếp quản Sài Gòn, cựu chiến binh Bùi Đình Toàn:
Lần đầu tiên vào thành phố Hồ Chí Minh thì rất ngỡ ngàng, rất xa lạ. Phải nói là lối sống của thành phố Hồ Chí Minh nó hay gấp bao lần Hà Nội, dân lúc bấy giờ người ta cũng không ưa cộng sản lắm. Nó hay là con người ta sống thoải mái hơn ngoài Bắc. Lúc bấy giờ tôi còn đi thăm một số cô dì chú bác di cư năm 54. Năm 77 tôi lại vào trong ấy một lần nữa thì coi như là một số gia đình đã đi hết, một số nữa đến năm 80 thì cũng đi hết không còn ai.
Ông Bùi Đình Toàn đã làm việc 6 năm tại Công Ty Xổ Số tỉnh Đồng Tháp. Năm 1983, khi xin chuyển về Bắc mà không được chấp thuận, ông bỏ việc trở lại Hà Nội, đi làm trong một số cơ quan ở đây. Đến giờ đã luống tuổi, ông là thợ sửa vá xe đạp tại phố Quán Sứ, Hàng Bông:
Tôi là người Phố Cổ mà cũng là người nhiều đời ở phố này rồi, ngồi sửa xe lặt vặt được hào nào hay hào ấy, năm nay tôi 64 rồi.
Ngày 30 tháng Tư mỗi năm là lúc ông Bùi Đình Toàn cảm thấy buồn cho mình nhất và nhớ thương đồng đội đã ngã gục ở chiến trường hơn bao giờ hết:
Tôi chả có chế độ gì cả mặc dù mình là người lính là người từng cầm súng đi đánh giặc bao năm. Thật ra cái số cũng còn may mắn, đơn vị tôi nhiều người chết lắm, 10 người chết đến 7 mà bao nhiêu trận là tôi thoát chết.
Đáng nhẽ những người lính như tôi và một số đồng đội về là phải có sự ưu đãi nhưng thực tế thì chả có cái gì ưu đãi cả. Những năm tháng còn trẻ thì mình gian khổ trong chiến trường dọc theo các nơi mà thực tế cuộc chiến này cũng chẳng mang lại cái gì cả. Giải phóng rồi cuộc sống cao lên thì nó là là tiến triển chung của xã hội, còn nói chung những người lính như chúng tôi thiệt thòi nhất là những năm tháng trẻ tuổi mà phải đi cầm súng, bao nhiêu người hy sinh bao nhiêu người chết, không tưởng tượng được chiến tranh nó kinh khủng thế nào đâu. Những người bạn của tôi, 50 người, về chỉ còn 3 người.
Theo lời ông Bùi Đình Toàn, chiến tranh không chỉ cướp đi tuổi thanh xuân đẹp đẽ nhất của bao trai tráng Việt Nam mà còn biến họ thành phế phẩm xã hội như tình cảnh của ông hiện giờ.
Tôi chỉ là người làm công mà họ qui kết cho tôi là bao nhiêu vật liệu là tôi chiếm đoạt hết để họ bắt đưa đi tù.
Suốt 21 năm qua, cựu binh Nguyễn Duy Huân đi gỏ cửa nhiều nơi cấp trung ương nhưng vì thấp cổ bé miệng nên cứ bị đẩy từ cơ quan này qua cơ quan khác mà không được giải quyết rốt ráo:
Năm nay là năm thứ 21 rồi, thông qua vụ việc của tôi và một số dân oan khác thì nói thực bây giờ tôi chẳng còn tin gì cái đảng cộng sản này, nó là một đảng ăn cướp chứ không còn là đảng lãnh đạo nhà nước và xã hợi nữa, nó từ cấp cơ sở đến cấp trung ương rồi. Nói thực qua cuộc chiến đồng đội của tôi hy sinh rất nhiều, biết bao nhiêu người đã chết ở Quảng Trị, Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, xương máu của đồng đội tôi đổ xuống sông xuống biển hết, nó chả mang lại ý nghĩa gì cả. Sau khi đã có độc lập tự do rồi những người như chúng tôi, là những người có công, lại trở thành người mất hết không còn gì cả. Trong quá trình 20 năm khiếu kiện ròng rã như thế tôi mới được biết người đi khiếu kiện ở cấp trung ương là rất đông, phải tới 2/3 là những trường hợp gia đình có công với cách mạng đang bị trù dập..
Đó là một trong những lý do mà cựu binh Võ Văn Tạo, vốn may mắn được hoàn cảnh học tập và sinh hoạt thuận lợi hơn anh em đồng ngũ khác, không bao giờ muốn vào đảng mà chỉ muốn làm một cây bút phản biện như đang làm:
Năm 1972 tới có mặt tại chiến dịch “mùa hè đỏ lửa” tôi có mặt 14 tháng trong Quảng Trị. Tóm lại tôi có tham gia cuộc chiến đầy đủ từ lúc trinh sát cho đến lúc kết thúc. Khi về trường đại học tôi đã nghiên cứu về chủ nghĩa Mác với một tư duy phân tích độc lập và một số anh em chúng tôi biết cái đó là sai lầm rồi cho nên là tôi không vào đảng.
Tôi chỉ mong một đất nước Việt Nam làm sao để xứng đáng như hồi chúng tôi bắt đầu hăm hở vượt Trường Sơn đi vào Nam, và sau này tiến lên chủ nghĩa xã hội như đảng và nhà nước tuyên truyền là ưu việt.
Từ năm 75 đến giờ thì đất nước đã vượt qua những giai đoạn tăm tối nhất nhưng so với thế giới thì vẫn tụt hậu. Kinh tế phát triển đã chậm mà xã hội có nhiều bất ổn đẻ ra từ một cơ chế không có đối lập không có đa nguyên không có cạnh tranh chính trị cho nên kết quả không được như chúng tôi mong muốn.
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc ngày 30 tháng Tư 1975, ngày mà cố thủ tướng
cộng sản Võ Văn Kiệt nói triệu người vui thì cũng có triệu người buồn.
KÝ GIẢ NẰM VÙNG
TẠ QUANG KHÔI
Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen.
I.NGUYỄN NGỌC LƯƠNG
Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ. Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát thanh Saigon. Tôi liền nói :
“Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay. Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao.”
Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản ? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ông không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng báo nào. Một hôm, Ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được giấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975.
Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon.
Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ngay cả vợ ông cũng đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị Mỹ bỏ rơi.
Cuối cùng Lương qua đời vì bệnh ung thư.
II. VŨ HẠNH
Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An ?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An ?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi ? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy ?
Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xúất bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.
Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nàm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh :”Anh em văn nghệ chỉ quen dùng bút, chư có biết chơi súng đâu.” Hạnh lườm xéo Tuấn rồi bỏ đi.
Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ :”Totalement decu !” (hoàn toàn thất vọng). Tôi không dám có ý kiến gì vì khi ở với cộng sản, ta không thể tin bất cứ ai trừ những người thân trong gia đình. Sau đó ít lâu, một người bạn giầu có của tôi cho biết anh cộng tác với Vũ Hạnh để mở một gánh hát cải lương. Tôi không quan tâm mấy nên không hỏi thêm điều gì, vì lúc đó vợ tôi đang ốm nặng. Dường như gánh hát thất bại nên ít lâu sau lại nghe tin Hạnh lập xưởng làm xà bông. Tất nhiên cũng phải có người bỏ vốn. Tôi thắc mắc tại sao Hạnh thân cộng, nằm vùng, mà sau khi chiếm được miền Nam cộng sản không dùng Hạnh khiến ông long đong phải làm hết việc này đén việc khác để kiếm sống ? Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi tôi đang tìm đường vượt biên, một hôm tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao ở nhà bưu điện Saigon. Giao là thư ký tòa soạn tờ nguyệt san Văn trước năm 1975 mà Nguyễn Đình Vượng là chủ nhiệm. Giao và tôi ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình đồng hương nữa. Chúng tôi cùng sinh trưởng ở Nam Ðịnh. Vì lâu không gặp nhau, chúng tôi ngồi ngay xuống bậc thềm nhà bưu điện để nói chuyện. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng tôi thì thầm cho Giao biết tôi đang tìm đường vượt biên. Ông liền hỏi tôi có biết Vũ Hạnh cũng đang tìm đường vượt biên không ? Tôi ngạc nhiên hỏi :
”Nó mà cũng vượt biên ?”
Giao lắc đầu và cho biết Hạnh tìm đường cho các con Hạnh thôi. Rồi Giao cười, nửa đùa nửa thật :
“Thằng ấy mà ra khỏi nước thế nào cũng bị người ta quẳng xuống biển.”
Rồi Giao nói thêm :
“Ngay cả việc giới thiệu cho con nó đi thôi cũng không dám, lỡ nó tố cáo với công an tổ chức vượt biên thì mệt lắm.”
Có một điều rất ngạc nhiên là từ khi ra khỏi nước, sống ở hải ngoại, tôi không hề nghe ai nhắc tới Vũ Hạnh nữa, kể cả những bạn văn nghệ còn sống ở Việt Nam. Cho đến nay tôi không hiểu Hạnh còn sống hay đã chết ?
Nhà văn thứ ba bị coi là nằm vùng cho cộng sản là Ngọc Linh. Khi viết truyện cho nhật báo Hồa Bình, cứ hai ba hôm tôi lại phải ghé tòa báo để đưa bài. Lần nào tôi cũng gặp Ngọc Linh. Ông làm thường trực trong ban biên tập, đồng thời viết cả truyện dài cho báo. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả hâm mộ. Ông có truyện đã được đưa lên sân khấu cải lương và quay thành phim, như truyện “Ðôi Mắt Người Xưa”. Một hôm tôi ghé tòa soạn Chính Luận để đưa bài, một nhân viên tòa soạn hỏi tôi có biết Ngọc Linh là cộng sản nằm vùng không ? Tôi hơi ngạc nhiên vì quả thật tôi không bao giờ nghĩ rằng Ngọc Linh lại có thể là một cán bộ cộng sản. Ông có một cuộc sống rất sung túc và rất…tiểu tư sản. Ông đi xe hơi Nhật mới toanh, là chủ một phòng tập dưỡng sinh (không rõ là Tai chi hay Yoga ?) Truyện ông viết rất ướt át đày tình cảm. Ông biết rõ lập trường chống cộng của tôi mà vẫn thân mật với tôi. Ông đã giới thiệu nhà xuất bản in sách của tôi.
Rồi chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông mới tỏ ra thân cộng. Ông tích cực họat động cho hội Văn Nghệ Sĩ cộng sản. Một hôm, tôi tình cờ gặp ông giữa đường, lúc đó ông không còn lái xe hơi nữa mà đi xe đạp, tôi vui vẻ chào ông mà ông ngoảnh mặt làm ngơ như chưa từng biết tôi là ai. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ra ngay. Tôi không buồn mà cũng chẳng giận ông. Ít lâu sau thì nghe tin ông bị tai biến mạch máu não và qua đời.
Trong giới văn nghệ Saigon, người ta cũng đồn nhà văn Sơn Nam nằm vùng. Tôi không thân với Sơn Nam, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở tòa báo Chính Luận khi cùng đến đưa bài. Chúng tôi lạnh nhạt chào nhau một cách xã giao. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tôi thấy ông cũng không có gì thay đổi.
Người cuối cùng nằm vùng trong làng báo Saigon mà tôi biết là Thái Bạch. Tôi chỉ gặp Thái Bạch có hai lần. Lần thứ nhất ở tòa báo Tự do vào năm 1955, rồi ông mất tích luôn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi họp các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ Ðại Hàn cũ, ông xuất hiện và có đeo súng lục bên hông với vẻ mặt vênh váo.
Tổng số những nhà văn nhà báo nằm vùng cho cộng sản hay thân cộng, tôi chỉ biết có thế thôi. Nhưng tôi thắc mắc về hai chữ “nằm vùng”. Theo tôi hiểu thì “nằm vùng” là có hoạt động cho cộng sản, chống lại chính quyền quốc gia miền Nam. Ngay cả Nguyễn Ngọc Lương là người được cộng sản gài theo dân Bắc di cư vào Nam và có cấp bậc thượng tá và là đảng viên đảng cộng sản, tôi cũng không thấy có hoạt động gì có lợi cho cộng sản. Không những thế, ông còn làm trong phòng bình luận của đài phát thanh Saigon. Nhân viên của phòng này có nhiệm vụ viết những bài ca tụng hoặc giải thích mọi việc làm của chính phủ. Một biên tập viên của chính phòng đó một hôm nói đùa với tôi rằng họ làm công việc “mẹ hát con khen hay”. Lương cũng phải viết những bài theo lập trường đó, không thể viết ngược lại được. Người ta chỉ biết ông là cộng sản khi ông bị công an Saigon bắt mấy lần.
Ðối với những người “nằm vùng” hay thân cộng, tôi không được đọc một bài viết chống chính phủ quốc gia hay ca tụng cộng sản nào. Như vậy, có thật họ nằm vùng hay chỉ ngấm ngầm thân cộng thôi ? Nếu chỉ là thân cộng hay có cảm tình với cộng sản thì tôi dám nói rằng trước 30 tháng 4 năm 1975, đa số người Nam có cảm tình với cộng sản vì nhiều gia đình có thân nhân tập kết ra Bắc. Rồi chỉ sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam và giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam họ mới vỡ mộng. Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang :
“Mày biết không ? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.”
Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp :
“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ.”
III. VŨ BẰNG
Trường hợp Vũ Bằng
Sau khi ông Vũ Bằng qua đời, thân nhân của ông ở Hà Nội tìm cách chứng minh ông được cử vào Nam nằm vùng cho cộng sản. Mục đích của việc chứng minh này là con cháu được hưởng tiền tử tuất và trợ cấp. Tôi không hiểu vấn đề tiền bạc ra sao, nhưng sự liên hệ giữa ông và tôi ở Saigon trước năm 1975 khá thân mật.
Khi tôi làm hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Trãi, ông xin cho hai đứa con nhỏ vào lớp đệ Lục. Theo nguyên tắc, học sinh muốn vào học một trường công lập phải dự thi tuyển, một cho lớp đệ Thất và một cho lớp đệ Tam. Có trúng tuyển mới được vào học. Thoạt tiên tôi không biết ông là ai, dù tôi đã từng đọc văn ông từ lâu. Ông là một nhà văn lớp tiền chiến, tôi coi như bậc chú bác. Nhà ông ở trước cửa Kho Năm, Khánh Hội. Tôi cũng không ngờ ông còn con nhỏ như vậy. Trước khi ông gặp tôi, một thư ký của văn phòng nhà trường cho biết một người tên là Vũ Bằng muốn xin học cho con. Nhân viên này cũng nói rõ ông là một nhà văn. Khi nghe nói là nhà văn Vũ Bằng, tôi vội chạy ra gặp ông ngay. Sau đó, tất nhiên tôi cho hai con ông vào ngang, vì tôi là một độcgiả hâm mộ ông từ lâu.
Ngay buổi tối hôm đó, ông theo một thư ký văn phòng nhà trường đến nhà tôi để cho tôi hai chai Martell cổ lùn. Tôi rất ngạc nhiên và cương quyết không nhận. Nhưng khi ra về, ông cứ để lại hai chai rươu. Lúc bắt tay từ biệt ông, tôi báo cho ông rõ là hai đứa nhỏ ngày mai sẽ bị đuổi ra khỏi trường nếu ông không đem hai chai rượu về. Thế là ông vội vàng chạy trở vào nhà để lấy rượu.
Sau đó, thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp ông, nhưng không dám xuồng xã vì vẫn coi ông là bậc đàn anh, lớp cha chú. Có lần tình cờ tôi gặp ông trong một tiệm phở khi ông đang ngồi chung bàn với mấy nhà văn Saigon. Ông vồn vã kéo tôi ngồi cạnh ông. Tiệm phở này ở đường Võ Tánh. Chồng bà chủ tiệm mới chết vì ung thư. Bà còn trẻ và cũng vào loại xinh đẹp. Vũ Bằng vui vẻ nói với mọi người :
“Tôi có một vế câu đối, ai đối được sẽ có thưởng. Câu đó như sau : Em chẳng thích tái vè, tái nạm, còn tái giá xin anh đừng mong đợi.”
(Đã bốn chục năm qua, tôi không còn nhớ chắc câu đối có hoàn toàn đúng như vậy không ?)
Mọi người cười vui, nhưng lúc đó không ai đối được.
Trong thời gian ở Saigon trước 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Bằng viết nhiều tùy bút (nay người ta gọi là Tạp ghi ?) đăng trên các báo văn nghệ của Saigon. Tôi là một độc giả trung thành của ông nên thường tìm đọc bài ông viết. Những bài tôi được đọc không có một dấu hiệu thân cộng nào.
Theo lời Cụ Tam Lang Vũ Đình Chí, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, ông Vũ Bằng tổ chức một buổi họp mặt với các văn nghệ sĩ cũ, mời cả mấy người mới từ Bắc vào. Nhưng buổi họp không thành vì Tố Hữu đến chỉ vào mặt Vũ Bằng mà mắng là ngụy, rồi bỏ về. Thi sĩ Xuân Diệu cũng tới nhưng thấy Tố Hữu làm dữ thì cũng bỏ về.
Như vậy, có đúng Vũ Bằng là một cán bộ cộng sản nằm vùng không ?
BỔ TÚC CỦA BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG
II. VŨ HẠNH
Vương Trùng Dương
Để đáp ứng lời mời ngọt ngào ấy, từ sớm, một hàng dài người đã xếp hàng chờ tới giờ mở cửa. Điều đáng nói ở đây là mọi người không mang theo cốc (ly), mà là…
Theo truyền thông Trung quốc đưa tin, hưởng ứng Ngày Trái Đất thế giới 22/4, hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã có một số chương trình hoạt động khuyến mãi vô cùng hấp dẫn.
Theo đó, khách hàng mang cốc riêng đến một số cửa hàng trong chuỗi Starbucks sẽ được uống cà phê miễn phí. Để đáp ứng lời mời ngọt ngào ấy, từ sớm, một hàng dài người đã xếp hàng chờ tới giờ mở cửa. Điều đáng nói ở đây, là mọi người tới không phải mang theo cốc, mà là tô lớn, nồi, chảo, chậu rửa mặt, thậm chí can đựng nước 20 lít.
Một phụ nữ Trung Quốc đã bị bắt giữ hôm 30/7, do đổ nước cam vào tiếp viên hàng không trên chuyến bay từ Dubai tới Hong Kong.
Cảnh sát đã chờ chuyến bay số hiệu CX746 của hãng Cathay Pacific từ
Dubai tới sân bay quốc tế Hong Kong (Trung Quốc) vào lúc 5h để bắt giữ
hành khách gây rối này.
Cảnh sát đã có mặt và bắt giữ người phụ nữ gây rối. Ảnh: Scmp. |
Vụ việc phát sinh khi người phụ nữ (đi theo nhóm đông người) tức giận do
các suất ăn cho trẻ con không được chuẩn bị trước. Điều này dẫn tới
tranh cãi giữa hành khách và tổ bay. Sau đó, người phụ nữ này đã đổ nước
cam vào tiếp viên hàng không. Theo báo cáo của cảnh sát, nạn nhân không
bị thương và vụ việc đang được điều tra.
Đây không phải lần đầu tiên hành khách Trung Quốc gây rối trên máy bay. Tháng 12/2015, một nhóm du khách Trung Quốc đã tạt mì, nước sôi vào một tiếp viên hàng không Thái Lan và đe dọa đánh bom máy bay chỉ vì không hài lòng về chỗ ngồi. Tháng 6, một cuộc ẩu đả giữa các hành khách Trung Quốc cũng đã xảy ra trên chuyến bay của hãng Hainan Airlines.
Đây không phải lần đầu tiên hành khách Trung Quốc gây rối trên máy bay. Tháng 12/2015, một nhóm du khách Trung Quốc đã tạt mì, nước sôi vào một tiếp viên hàng không Thái Lan và đe dọa đánh bom máy bay chỉ vì không hài lòng về chỗ ngồi. Tháng 6, một cuộc ẩu đả giữa các hành khách Trung Quốc cũng đã xảy ra trên chuyến bay của hãng Hainan Airlines.
Monday, May 1, 2017
LÊ XUÂN NHUẬN * TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN LONG
Quốc Hận 30-4-1975
TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG
CỘNG-SẢN chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp-tục bị
chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi
“làm việc” như thế tại các trại giam như Thanh-Liệt ở Hà-Nội; Kho-Ðạn,
Hội-An,và Hòa Sơn ở
Quảng-Nam; mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về
tội “kinh-tế” hoặc “tham-ô” và cả “bạo-loạn” nữa, cũng như đồng-bào
nhiều giới phạm tội “phản-động hiện-hành”, vượt biên, vượt biển, đưa
hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên
tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra bên ngoài thế-giới
“cải-tạo” hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin Trung-Tá Nguyễn Văn Long tự-tử từ lâu. Nhưng vì có
những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là
một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa,
anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy
mình; do đó, tôi vừa âm-thầm đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín
bán-nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên
“thủ-trưởng” ― một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí
Minh”, một thuộc Ban Hậu-Cần Quân-Khu 5 ― khẳng-định là họ có nghe
đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam đã
tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một
trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà-Nẵng di-tản vào, đã tự-tử
chết phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó
chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng
và đồng-bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù
thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang
cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc Huyện Thanh-Trì, Hà-Nội, là
nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Ðảng,
Nhà-Nước và Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi
mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi-tiết quý-báu về cái chết
hùng-vinh của trung-tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một
trung-tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét
Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam ― tổng-thư-ký của một tổ-chức
đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979
nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp
khác ― xác-nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung-tá
Nguyễn Văn Long mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài
Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, in trên
bìa trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ, trong kho sách+báo ngoại-quốc mà
Việt-Cộng ở một số cấp cao đã sưu-tầm để nghiên-cứu những gì có
liên-quan đến Việt-Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng
mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều
biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng tuẫn-quốc khác trong biến-cố
lịch-sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần
bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của
cộng-sản bạo-tàn.
*
Thuở ấy, vào khoảng 1947-1950, ở Miền Trung có hai hệ-thống an-ninh: một
bên là Pháp với hai cơ-quan Sûreté fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và
Police française (Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với hai cơ-quan
Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng-sự bên Sûreté
Fédérale (chính-trị) của Pháp, trong số vài người phụ-trách nội-ô
Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự) của Việt-Nam. Tôi kiêm cả
việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn, nhà hàng lộ-thiên trên lề
Đại-Lộ Trần Hưng-Ðạo, quay lưng vào Chợ Ðông-Ba. Nhân-viên hai bên không
ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm-lược và
Bảo-Ðại bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ Cao
Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà-báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám-Ðốc
Thông-Tin Lê Tảo can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả
tự-do. Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện-cảm của nhiều người hơn.
Một hôm, anh Long tâm-sự với tôi: “Tôi chống Việt-Minh nên lỡ vào làm
với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình”.
Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng
với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến ngần nào
trước thời-cuộc bấp-bênh của nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh
Long đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của
tôi, thí-dụ Nhất-Hiên, Vân-Sơn PMT, Như-Trị, v.v... mà Sûreté Fédérale
đã định bắt giam. Liêm-Phóng Liên-Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người
ấy khó về được vẹn toàn.
Sau đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn Phan Mỹ Trúc cũng
như Như-Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài-Gòn; kẻ thành ký-giả tên tuổi,
người nên luật-sư tài-danh.
Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa
Quốc-Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát &
Công-An Việt-Nam Cộng-Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận-tụy phục-vụ, và đã
nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực và
liêm-khiết nhất trong Ngành.
*
TÔI về lại Miền Trung đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại Bộ Chỉ-Huy
Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. Tìm gặp lại các bạn cũ,
thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các chức-vụ Trưởng Ty Công-An,
Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Ðại qua thời
Ðệ-Nhất Cộng-Hòa đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6
người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long.
Một số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho
làm Phó Giám-Ðốc, Chánh-Sở. Anh Long thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở
Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà chỉ giúp về công-vụ mà
thôi; những tin-tức về hình-sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi
chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn,
rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện
tinh-thần.
Anh Long tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị ― diệt-Cộng ― ngoài
phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình. Là một tay
cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân làm công-tác sưu-tầm về
hình-phạm mà thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp cho
Ngành Ðặc-Cảnh của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng. Theo anh
quan-niệm, đã là Cảnh-Sát Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì
phải góp phần trực-tiếp hoặc gián-tiếp vào lãnh-vực tình-báo, để
phát-hiện và loại-trừ cộng-sản ― mà trong giai-đoạn hiện-tại thì
đối-tượng Việt-Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu ― để bảo-vệ và duy-trì
an-ninh & trật-tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận-sự
tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong khả-năng
mình, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của mình, Trung-Tá Nguyễn Văn Long
đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những
anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lý-do nào đó đã tự cho mình là Cảnh-Sát
Sắc-Phục thì không dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Tặc Miền Nam
và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn-Chà, tuốt
bên kia bờ Hàn-Giang. Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào
Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến
dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn-khóa, chấm dứt tình-trạng bắt các
học-viên góp tiền. Không còn tiệc-tùng, thì phần lớn quan-khách ngớt
vãng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp-tục
đến dự ― anh nói ― để yểm-trợ tinh-thần chung.
Về mặt tư-pháp, Trung-Tá Nguyễn Văn Long đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu
“pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên
Cảnh-Sát nào mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa thẳng tay ― anh
nói ― để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho
người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý
nói anh chỉ biết chiếu-lý chứ không vị-tình.
Sau Hiệp-Ðịnh Paris 1973, tình-hình xã-hội Miền Nam thật là rối-ren.
Bên ngoài thì Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và chiến-cụ,
vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các tổ-chức xưng-danh đối-lập và
lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày càng
gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái
tinh-thần các lực-lượng Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải
đối-phó với các bộ-phận Ðảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và
“Việt-Cộng”, vừa phải chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng
cho kẻ thù.
Về mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch
nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đã gặp quá nhiều khó-khăn. Hầu
như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, tìm
sự che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo nào đó trong
Chính-Quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy
tai-họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ
truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất
là vụ “tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn”. Ðại-khái như sau:
Ðầu năm 1975, đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị bắt đầu di-tản. Chính-Quyền
Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại Tạm-Cư Ðà-Nẵng. Trên
thực-tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có
một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lãnh các món cứu-trợ di-tản
nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng
chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn
đồng-bào vẫn còn ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do
ngân-sách của Bộ Xã-Hội đài-thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo
diện tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các xã bất-an và “xôi-đậu” đến
định-cư tại các xã an-ninh, để lãnh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng
chung cho bất-cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng-nhận cho cũng
những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát,
nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp loại này do Bộ
Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân di-tản cũng bị
lôi-cuốn vào tình-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa
hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số trở thành nhân-viên Chương-Trình Áo
Xanh, do một tổ-chức xã-hội Hoa-Kỳ tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người
lao-động thất-nghiệp. Một số cũng là hội-viên Hội Cựu-Chiến-Binh và
Dân-Phế, quy-tụ lính cũ đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật chiếm, thời
kháng-Pháp, thời Bảo-Ðại, và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả,
hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ
và lãnh đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo Hoa-Kỳ những món viện-trợ tiền
mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v... Hơn nữa, một số giả-danh là
Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến xe.
Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia. Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp
với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được
một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian+tham.
Vụ án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều
giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường, lên đến Quận,
Tỉnh, vào thấu Sài-Gòn, là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa,
do đó, đã phí-phạm công-quỹ và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.
TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên
Ðặc-Cảnh phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương. Bởi thế, đã có một số
Trưởng Mối bị trừng-phạt oan, vì phía Hình-Cảnh nghi là đồng-lõa hay đỡ
đầu. Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh Cảnh-Lực, Ðặc-Cảnh càng gặp nhiều
khó-khăn hơn, đến nỗi Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là
Trung-Tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Ðốc chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Ðặc-Cảnh liên-can
đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại
cho công-tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt
nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó là quyết-định linh-động duy-nhất
trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long.
*
KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi
Ðà-Nẵng, thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975.
Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành
Ðà-Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời.
Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy
hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều
người ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng
Hòa-Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở
Ðặc-Cảnh sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho Đại-Tá Nguyễn
Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với
các Chánh-Sở cấp Vùng và một số Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực cấp Tỉnh
tập-trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền-tin Ðặc-Cảnh Vùng của tôi ―
nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ
toàn-quốc, và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự ― cách dăm
mười phút lại gọi hỏi tôi tình-hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của Đại-Tá Lộc để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung.
Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I Trung-Tá Long gọi tôi.
Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác thường:
“Tôi xin mời ông Phụ-Tá, hiện là cấp chỉ-huy cao chức nhất, đến đây ngay
để tổ-chức phòng-tuyến và điều-khiển đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em
chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam-kết của Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát-Thanh Ðà-Nẵng suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Đại-Tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường: “Các ngài đào-ngũ hết rồi!”
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại
trụ-sở Vùng ― Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy-Trưởng của một số Tỉnh, có cả mấy
viên đại-tá quân-đội ― theo Đại-Tá Lộc xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu
Giang-Cảnh [thuộc BCH/CSQG Thị-Xã Đà-Nẵng], rời bến hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Đại-Tá Lộc trả lời: “Chúng ta di-tản vào Nam!” Anh
thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên
vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!”
Lộc cố giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn đã rút đi rồi. Trong
tình-huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!” Long bèn
rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu
ghé vào bờ cho anh trở lui.
Và anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em.
TÔI tin-tưởng và kính-phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu
đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động hoạt-động bên ngoài, nên
nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và đòi
đến họp với tôi.
Tôi kéo Thiếu-Tá Ngô Phi Ðạm, Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch-Ðằng
quả thấy xe Jeep xanh+trắng [của CSQG] và ô-liu [của QLVNCH] bỏ đậu
nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến Đại-Tá Lộc ở sở, ở
nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh Vùng
báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương.
Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng
tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào
phi-trường, nhưng tôi đến Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn
ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà
tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân-nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua
bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài-Gòn. Tôi cùng Ngô Phi
Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, và Trần Văn Phú, Chỉ-Huy-Phó Thám-Sát Ðặc-Biệt
Vùng, quan-sát xong tình-hình bên đó, len lách trở về thành-phố thì
thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình-dáng của anh Nguyễn Văn Long, mặc
cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng
đầy cương-nghị, lái xe ngược chiều chạy vụt qua.
ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.
*
GẦN sáng, ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường. Mờ
sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước bắt đầu tấn-công vào. Ðến trưa,
tôi gọi máy về cho Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó
còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Ðặc-Cảnh Vùng
I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH còn hoạt-động đến phút cuối
cùng, và cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân.
Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn mình.
Và tôi không còn gặp lại anh Long.
*
* *
CÁI chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ý-thức được chúng là
kẻ thù số một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một
của mọi người yêu quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ thành-quả chống
Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả
con số chúng bị thiệt-hại trên chiến-trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào
bản-thân mình một phần trách-nhiệm đối với đối-phương về những tổn-thất
mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm-khốc
của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và
Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi
người, trong đó có anh; nên anh tự xử ― cũng như các anh-hùng Nguyễn
Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai,
Hồ Ngọc Cẩn, vân vân ― để tạ tội với Tiền-Nhân và Quốc-Dân, và để nói
lên tinh-thần bất-khuất của người chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình
đầu-hàng kẻ thù.
CÁI chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không
mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy
những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin-tưởng và
phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung-tá, là
một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên-chức An-Ninh, là những gì gì khác nữa
... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào,
không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay phản-gián,
phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh-quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách
một anh-hùng của Dân-Tộc Việt-Nam nói chung và Lực-Lượng BÊN KIA BỜ ĐẠI
DƯƠNG 466Cảnh-Sát Quốc-Gia nói riêng.
Ghi-Chú:
Nguyễn Văn Long sinh ngày 1 tháng 6 năm 1919 tại Phú-Hội, Huế, tuẫn-tiết tại Thủ-Đô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.
;CSH
Monday, May 1, 2017
TS PHAN VĂN SONG * QUÓC HẬN
Bài
viết cho ngày Quốc Hận 2017
Tuổi Trẻ Can
Trường, Tuổi Trẻ Bất Khuất !
Kính thưa quý vị,
Tình hình thế giới
và đặc biệt ở khu vực Biển Đông càng ngày càng gay go. Nào Bắc
Hàn hăm dọa sử dụng vũ khí nguyên tử, nào Hoa Kỳ phô trương biểu diễn sức mạnh
Hải quân. Nào thương thuyết, nào đi đêm Nhật, Hàn, Tàu, Mỹ… Tất cả các quốc gia
Đông Bắc Á và Đông Nam Á đều có thái độ rõ ràng – CHÔNG BÁ QUYỀN Và
BÀNH TRƯỚNG TÀU.
Riêng thái độ của
nhà đương quyền Cộng Sản Hà Nội là Chờ. Chờ ngóng, mong vào quan Thầy Tàu
Cộng.
Và dĩ nhiên, tình
hình quốc tế ấy, đã thôi thúc dân Việt Nam cả hải ngoại lẫn quốc nội. Thế còn
tình hình trong nước ?
Trong nước, tình hình hoàn
toàn đen tối. Ngoài đám tư sản đỏ, vệ tinh của bộ máy cầm quyền Cộng Sản Hà
nội, càng ngày càng giàu sụ, đang tìm đường tải của ra xứ ngoài, tìm nơi «hạ
cánh an toàn», tỵ nạn kinh tế. Ngoài một bộ phận trí thức nhỏ, cùng
với một bộ phận thanh niên, tuy xuất thân từ hệ thống giáo dục Cộng Sản,
nhưng đã dám xa rời định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, đã dám ca ngợi Chủ nghĩa Tư
Bản và các giá trị phương Tây, đang thức tỉnh, tìm một con đường kinh tế phát
triển mới đề giải thoát dân tộc, nhưng chỉ thấy bàn cãi nhưng không dám hành
động cải tổ vì SỢ mất ổn định. Còn phần còn lại của xã hội, nhứt là … tuổi
trẻ, tình hình rất bi đát, thật khủng khiếp : Việt Nam ước tính
có khoảng 183.000 người nghiện ma túy… gần 33.000 người bán dâm, độ tuổi bán
dâm ngày càng trẻ hóa : 16/18 tuổi.
Mua bán người : Càng ngày càng tinh vi và nhiều thủ đoạn : Buôn bán trẻ sơ sinh, buôn bán bào thai, nội tạng và một hình thức buôn bán mới nhất gần đây là đẻ thuê…. Đất nước cứ mỗi ngày một nghèo thêm để nối dài chậm tiến và tụt hậu so với nhân dân các nước trong khu vực. Thậm chí có nhiều lĩnh vực bây giờ thua cả Kampuchea và Lào.
Chúng ta - những
người Việt yêu nước, yêu một nước Việt Nam Dân chủ, Pháp trị, yêu một nước Việt
Nam đa đảng, đa nguyên, đầy những quyền tự do tối thiểu – mong rằng nhân dân
Việt Nam có thể làm được một cái gì để tự giải phóng mình, tìm con đường độc
lập cho đất nước mình.
Đã từ bao năm tháng
nay, nhân dân Việt Nam trong nước đã bao lần xuống đường đấu tranh đòi hỏi
những quyền lợi căn bản, tự do tư tưởng, tự do tín ngưởng … Từ thập niên vừa
qua, tuổi trẻ đã dám xuống đường với khẩu hiệu Hoàng sa, Trường sa là
của Việt Nam… Các bloggers, các nhà bất đồng chánh kiến chấp nhận đi tù,
những luật sư chấp nhận mất việc làm, đòi nhân quyền, tự do, dân chủ… Và
trong những tuần gần đây, với là cờ Vàng Ba Sọc Đỏ dẫn đầu, dân chúng Hà Tĩnh
đã phất lên đòi quyền Tự Quyết đời sống môi trường trong sạch lành mạnh của
mình.
Cám Ơn Đồng
bào ! Cám Ơn Tuổi trẻ can trường, tuổi trẻ bất khuất !
Truyền thống giữ
nước, bảo vệ quê cha đất tổ nay vẫn còn, vẫn tiếp tục dẫn dắt tuổi trẻ đấu
tranh để không bị mất đất, mất biển, quê hương không bị bán ra từng mảnh.
- Hỡi tuổi trẻ Việt
Nam … Cám ơn các bạn đã đứng lên tố cáo sự phá hoại môi
trường, cũng như những kẻ bán nước.
- Hỡi tuổi trẻ
trong các đơn vị Quân đội Nhân dân,
- Hỡi các bạn trẻ
trong các đơn vị Công An !
Nếu các bạn muốn
tiếp tục truyền thống tiền nhân giữ nước và bảo vệ quê hương, hãy đứng lên cùng
với những người dân đòi lại quyền điều hành đất nước, bảo vệ không gian
sinh tồn của dân tộc Đại Việt, đuổi tập đoàn độc tài đảng trị, giành
lại độc lập, giành lại quyền tự chủ cho dân tộc Việt, lấy lại bờ cõi giang sơn
Đất Nước Đại Việt.
«Nam Quốc Sơn
Hà Nam Dân Cư » (Đất phương Nam của người Nam)
Năm Nay Đinh Dậu,
2017, sẽ năm thay đổi, xoá bỏ độc tài,
giành lại Độc lập Tự do và Không gian sinh tồn cho dân tộc Đại Việt.
giành lại Độc lập Tự do và Không gian sinh tồn cho dân tộc Đại Việt.
…. Còn Việt Nam
triệu con tim nầy, còn Triệu khối Kiêu Hùng !
Máu ta từ thành Văn
Lang dồn lại
Xương da thịt này
cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười
ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một
đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát
cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu
con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Cảm ơn quý vị và
tuổi trẻ Việt Nam !
Phan Văn Song
30/04/2017
DƯƠNG VĂN MINH
Lịch sử có nợ gì Tướng Dương Văn Minh?
Tổng thống Dương Văn Minh (đeo kính, cúi đầu) bị bộ đội cộng sản đưa đi.
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975.
Trong cuốn sách của mình với tựa đề “và Sài Gòn sụp đổ” (Et Saigon tomba – Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện ‘quan trọng nhất’ với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris :
Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là “một người minh mẫn và nắm vững tình hình”.
Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
“Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Nhà báo Pháp viết trong cuốn sách:
“Tôi gặp tướng Minh vào ngày thứ hai, trong một villa rộng lớn, yên bình, không bày biện xa hoa, bao bọc xung quanh bởi một vườn hoa, nơi ông sống từ nhiều năm, ở giữa Sài Gòn. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ, ông nói cho tôi biết cơ hội mỏng manh về đàm phán với phía bên kia ra sao.
Ông mô tả xúc động về tình trạng kiệt quệ của quân đội, những tướng lĩnh mất tinh thần, những kho đạn và chiến cụ gần như trống rỗng, vật tư bị bỏ mặc, bộ máy hành chính bất lực, dân chúng lo lắng và những người của Thiệu không làm gì khác là cất giấu đô la, vàng, trang sức cùng những tác phẩm nghệ thuật của họ …
Tướng Minh có giọng nói chậm rãi và nhẹ nhàng. Cặp mắt không chớp sau cặp kính gọng kim loại, nhưng người ta nhận thấy rõ rệt ông bối rối sâu sắc trước hiện tình đất nước ông.”
Không ra nước ngoài
Cuốn sách ‘Và Sài Gòn sụp đổ’ của Paul Dreyfus “Thế nào đi nữa, ông nói với tôi, tôi sẽ không đi đâu cả. Hạnh phúc hay bất hạnh đó vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã sống những năm định cư ở Bangkok. Tôi không thiếu thốn gì. Nhưng tôi cảm thấy rất bất hạnh. Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Cuối cuộc phỏng vấn, tôi hỏi ông thẳng thắn rằng, ông nghĩ sao sắp tới sẽ đóng một vai trò quan trọng của một nhân vật chính trị.
Nếu để làm bù nhìn, thì chắc chắn không. Nhưng nếu tôi có thể hữu ích hay có thực quyền thì tôi sẽ không từ chối.” Từ cách nhìn của tôi, từ thời điểm này, tướng Minh đã sẵn sàng.
Hôm nay (24/4/1975), ông già không có chút sinh khí (chỉ tổng thống Hương) đã đến gặp tướng Minh nêu ra một vai phụ số hai : đó là chức Thủ tướng. Vai trò mà một người tiền nhiệm vừa bỏ lại sáng nay.”
Minh cự tuyệt, vì ông không có toàn quyền. Ngày mai, ông sẽ có tất cả.
Nếu không, Việt Cộng sẽ bắt đầu đặt quyền cai trị lên Sài Gòn.”
Khi CIA giả danh Khmer Đỏ “Thứ Sáu 25/4/1975. Sau khi Phnom Penh sụp đổ, CIA sử dụng một đài tiếp vận radio từ Okinawa, hòn đảo lớn phía Nam quần đảo Nhật Bản. Những nhân viên bí mật của Mỹ phát sóng dưới danh nghĩa những người Khmer. Họ đưa tin như từ chức năng quyền lực của Khmer Đỏ.
Đài phát thanh gián điệp này tung những tin thất thiệt, hướng vào cộng đồng dân chúng Campuchia, hy vọng gây những bất ổn cho những chủ nhân mới của đất nước.
Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975 Cũng là CIA, trong một buổi phát thanh đội lốt ngôi sao đỏ đã đưa tin, có một cuộc đảo chính tại Hà Nội và họ nói rằng đã có ba sư đoàn Bắc Việt rút về cứu nguy cho miền Bắc.”
Bình luận về việc xuyên tạc này, giám đốc CIA tại Sài Gòn hả hê với những ai muốn nghe:
“Đó thật sự là chương trình duy nhất hoạt động tốt.”
Thật khó tin, nhưng đúng như thế!
Tướng Minh và sứ mệnh bất khả thi “Tối thứ Bảy, Thượng và Hạ viện nhất trí trao toàn quyền cho tướng Minh hoạt động ngõ hầu mang lại một ‘nền hòa bình trong danh dự’, trong lúc cả tối thứ Bảy và Chủ Nhật đạn pháo nã vào trung tâm quyền lực giữa Sài Gòn.
Người dân thủ đô sống trong thấp thỏm trước những đợt pháo kích ngày càng gia tăng. Những sư đoàn Bắc Việt và Việt Cộng được chiến xa hạng nặng hỗ trợ chỉ còn không đầy 30 km cách thủ đô VNCH. Những tướng lĩnh can đảm nhất cũng nói rằng tất cả đã mất.
“Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Trần Văn Đôn u ám trước tấm bản đồ ngày càng đen tối. Các chuyến bay ‘Galaxia’ của không quân Mỹ hối hả chuyển những công dân Hoa Kỳ di tản. Tất cả như trong tình trạng như khi Byzance thất thủ, các chân tay thân cận của Thiệu theo chân chủ chạy trốn với những valy chật căng đô la, nữ trang, vật dụng quý giá, nhà băng đóng cửa , nền kinh tế sụp đổ.
Trong tình thế gần như tuyệt vọng, Lưỡng viện và ông tổng thống mắt lòa, chậm chạp với tuổi già vẫn còn loay hoay bàn cãi về thủ tục bàn giao chính quyền cho tướng Minh, mà không ‘vi hiến’.
Trong không khí nghẹt thở, lưỡng viện bỏ phiếu cho giải pháp tình thế hệt như trong buổi đẹp trời của Đệ Tam Cộng hòa. Cuối cùng, sau một ngày điên rồ, khi màn đêm đã buông xuống Sài Gòn, Lưỡng viện Quốc hội nhất trí chuyển giao hoàn toàn quyền lực cho tướng Minh.”
Một người cộng sự thân thiết của tướng Minh đã nói với tôi ngay từ hôm qua không úp mở:
“Chúng tôi nắm một sứ mệnh không thể thực hiện nổi.”
Thứ Tư, ngày 30/4/1975: ‘Tôi đợi các ông ở đây’
Bộ đội cộng sản đem cờ Mặt trận Giải phóng vào cắm ở Dinh Độc Lập 30/04/1975
Cuốn sách mô tả tiếp giờ phút tiếp quản :
“Nhóm sĩ quan cấp cao nhảy xuống xe. Xung quanh họ là những binh sĩ đầy súng ống. Họ chạy nhanh qua những bậc thang rộng của Phủ Tổng thống, vượt qua phòng khánh tiết và gặp tướng Minh trong phòng làm việc của ông ta.
‘Tôi đã đợi các ông ở đây’, tướng Minh nói. Buổi sáng cùng ngày, lúc 10 giờ, ông đã cho phát trên radio lời tuyên bố gửi đến đối phương.
Minh từ căn phòng của Phủ Tổng thống đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị Nam Việt Nam ngừng bắn. Rất trầm tĩnh, Minh trao đổi với các phụ tá và một vài bộ trưởng mà chỉ trong thời gian ngắn ông đã tìm được ra.
Các chiến binh Bắc Việt ngay lập tức vây quanh ông. Trong số những sĩ quan của đoàn quân chiến thắng có những Việt Cộng hoạt động bí mật tại Sài Gòn, không mặc quân phục, không mang quân hàm, quân hiệu, có người biết rất rõ tướng Minh. “
Ông ta tiến gần và nói:
“Ông đã làm một việc lớn cho Việt Nam, ngăn không cho Sài Gòn bị phá hủy. Chúng tôi cám ơn ông, tướng Minh.”
Tướng Minh hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng
Nhà báo Pháp
Minh đáp lại rằng, ông hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng.”
Nhà báo Paul Dreyfus cũng suy tư về chuyện ông Minh đã nghĩ gì:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thỏa thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
“Bằng việc gạt qua cá nhân mình, Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết.
Thật ngắn ngủi.
Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này.”
Các đoạn trích do nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris chuyển ngữ.
BBC
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975.
Trong cuốn sách của mình với tựa đề “và Sài Gòn sụp đổ” (Et Saigon tomba – Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện ‘quan trọng nhất’ với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris :
Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là “một người minh mẫn và nắm vững tình hình”.
Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
“Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Nhà báo Pháp viết trong cuốn sách:
“Tôi gặp tướng Minh vào ngày thứ hai, trong một villa rộng lớn, yên bình, không bày biện xa hoa, bao bọc xung quanh bởi một vườn hoa, nơi ông sống từ nhiều năm, ở giữa Sài Gòn. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ, ông nói cho tôi biết cơ hội mỏng manh về đàm phán với phía bên kia ra sao.
Ông mô tả xúc động về tình trạng kiệt quệ của quân đội, những tướng lĩnh mất tinh thần, những kho đạn và chiến cụ gần như trống rỗng, vật tư bị bỏ mặc, bộ máy hành chính bất lực, dân chúng lo lắng và những người của Thiệu không làm gì khác là cất giấu đô la, vàng, trang sức cùng những tác phẩm nghệ thuật của họ …
Tướng Minh có giọng nói chậm rãi và nhẹ nhàng. Cặp mắt không chớp sau cặp kính gọng kim loại, nhưng người ta nhận thấy rõ rệt ông bối rối sâu sắc trước hiện tình đất nước ông.”
Không ra nước ngoài
Cuốn sách ‘Và Sài Gòn sụp đổ’ của Paul Dreyfus “Thế nào đi nữa, ông nói với tôi, tôi sẽ không đi đâu cả. Hạnh phúc hay bất hạnh đó vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã sống những năm định cư ở Bangkok. Tôi không thiếu thốn gì. Nhưng tôi cảm thấy rất bất hạnh. Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Cuối cuộc phỏng vấn, tôi hỏi ông thẳng thắn rằng, ông nghĩ sao sắp tới sẽ đóng một vai trò quan trọng của một nhân vật chính trị.
Nếu để làm bù nhìn, thì chắc chắn không. Nhưng nếu tôi có thể hữu ích hay có thực quyền thì tôi sẽ không từ chối.” Từ cách nhìn của tôi, từ thời điểm này, tướng Minh đã sẵn sàng.
Hôm nay (24/4/1975), ông già không có chút sinh khí (chỉ tổng thống Hương) đã đến gặp tướng Minh nêu ra một vai phụ số hai : đó là chức Thủ tướng. Vai trò mà một người tiền nhiệm vừa bỏ lại sáng nay.”
Minh cự tuyệt, vì ông không có toàn quyền. Ngày mai, ông sẽ có tất cả.
Nếu không, Việt Cộng sẽ bắt đầu đặt quyền cai trị lên Sài Gòn.”
Khi CIA giả danh Khmer Đỏ “Thứ Sáu 25/4/1975. Sau khi Phnom Penh sụp đổ, CIA sử dụng một đài tiếp vận radio từ Okinawa, hòn đảo lớn phía Nam quần đảo Nhật Bản. Những nhân viên bí mật của Mỹ phát sóng dưới danh nghĩa những người Khmer. Họ đưa tin như từ chức năng quyền lực của Khmer Đỏ.
Đài phát thanh gián điệp này tung những tin thất thiệt, hướng vào cộng đồng dân chúng Campuchia, hy vọng gây những bất ổn cho những chủ nhân mới của đất nước.
Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975 Cũng là CIA, trong một buổi phát thanh đội lốt ngôi sao đỏ đã đưa tin, có một cuộc đảo chính tại Hà Nội và họ nói rằng đã có ba sư đoàn Bắc Việt rút về cứu nguy cho miền Bắc.”
Bình luận về việc xuyên tạc này, giám đốc CIA tại Sài Gòn hả hê với những ai muốn nghe:
“Đó thật sự là chương trình duy nhất hoạt động tốt.”
Thật khó tin, nhưng đúng như thế!
Tướng Minh và sứ mệnh bất khả thi “Tối thứ Bảy, Thượng và Hạ viện nhất trí trao toàn quyền cho tướng Minh hoạt động ngõ hầu mang lại một ‘nền hòa bình trong danh dự’, trong lúc cả tối thứ Bảy và Chủ Nhật đạn pháo nã vào trung tâm quyền lực giữa Sài Gòn.
Người dân thủ đô sống trong thấp thỏm trước những đợt pháo kích ngày càng gia tăng. Những sư đoàn Bắc Việt và Việt Cộng được chiến xa hạng nặng hỗ trợ chỉ còn không đầy 30 km cách thủ đô VNCH. Những tướng lĩnh can đảm nhất cũng nói rằng tất cả đã mất.
“Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Trần Văn Đôn u ám trước tấm bản đồ ngày càng đen tối. Các chuyến bay ‘Galaxia’ của không quân Mỹ hối hả chuyển những công dân Hoa Kỳ di tản. Tất cả như trong tình trạng như khi Byzance thất thủ, các chân tay thân cận của Thiệu theo chân chủ chạy trốn với những valy chật căng đô la, nữ trang, vật dụng quý giá, nhà băng đóng cửa , nền kinh tế sụp đổ.
Trong tình thế gần như tuyệt vọng, Lưỡng viện và ông tổng thống mắt lòa, chậm chạp với tuổi già vẫn còn loay hoay bàn cãi về thủ tục bàn giao chính quyền cho tướng Minh, mà không ‘vi hiến’.
Trong không khí nghẹt thở, lưỡng viện bỏ phiếu cho giải pháp tình thế hệt như trong buổi đẹp trời của Đệ Tam Cộng hòa. Cuối cùng, sau một ngày điên rồ, khi màn đêm đã buông xuống Sài Gòn, Lưỡng viện Quốc hội nhất trí chuyển giao hoàn toàn quyền lực cho tướng Minh.”
Một người cộng sự thân thiết của tướng Minh đã nói với tôi ngay từ hôm qua không úp mở:
“Chúng tôi nắm một sứ mệnh không thể thực hiện nổi.”
Thứ Tư, ngày 30/4/1975: ‘Tôi đợi các ông ở đây’
Bộ đội cộng sản đem cờ Mặt trận Giải phóng vào cắm ở Dinh Độc Lập 30/04/1975
Cuốn sách mô tả tiếp giờ phút tiếp quản :
“Nhóm sĩ quan cấp cao nhảy xuống xe. Xung quanh họ là những binh sĩ đầy súng ống. Họ chạy nhanh qua những bậc thang rộng của Phủ Tổng thống, vượt qua phòng khánh tiết và gặp tướng Minh trong phòng làm việc của ông ta.
‘Tôi đã đợi các ông ở đây’, tướng Minh nói. Buổi sáng cùng ngày, lúc 10 giờ, ông đã cho phát trên radio lời tuyên bố gửi đến đối phương.
Minh từ căn phòng của Phủ Tổng thống đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị Nam Việt Nam ngừng bắn. Rất trầm tĩnh, Minh trao đổi với các phụ tá và một vài bộ trưởng mà chỉ trong thời gian ngắn ông đã tìm được ra.
Các chiến binh Bắc Việt ngay lập tức vây quanh ông. Trong số những sĩ quan của đoàn quân chiến thắng có những Việt Cộng hoạt động bí mật tại Sài Gòn, không mặc quân phục, không mang quân hàm, quân hiệu, có người biết rất rõ tướng Minh. “
Ông ta tiến gần và nói:
“Ông đã làm một việc lớn cho Việt Nam, ngăn không cho Sài Gòn bị phá hủy. Chúng tôi cám ơn ông, tướng Minh.”
Tướng Minh hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng
Nhà báo Pháp
Minh đáp lại rằng, ông hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng.”
Nhà báo Paul Dreyfus cũng suy tư về chuyện ông Minh đã nghĩ gì:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thỏa thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
“Bằng việc gạt qua cá nhân mình, Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết.
Thật ngắn ngủi.
Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này.”
Các đoạn trích do nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris chuyển ngữ.
BBC
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.
Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.
Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.
Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.
Những cô gái Việt sang tới Mã Lai làm ăn thì người chồng ở nhà phải chờ “chín trăng” là chín tháng hay “mười thu” là mười năm.
Bài hát ca dao Nam Bộ đó, bây giờ được hát bởi những người chồng.
Từ cửa sổ khách sạn Nova Hotel trên đường Jalan Alor, không cách xa tháp
đôi nổi tiếng Twin Tower lắm của Kuala Lumpur, buổi tối mở cánh cửa sổ
ra, nếu bạn ngó về phía trái, thấy một con đường nhỏ với một dẫy đèn
lồng đỏ, treo trên những mái hiên. Những ngọn đèn đỏ này không to lắm,
có “ngọn tỏ ngọn lu” thỉnh thoảng có cả một ngọn không được thắp hay
thắp mà không sáng.
Nơi đó họ gọi là Phố Đèn Đỏ. Cái tên nghe thật dung dị. Thắp đèn đỏ thì
gọi là phố đèn đỏ vừa gợi hình vừa dễ nhớ. Thật ra cái tên Phố Đèn Đỏ có
tiểu sử của nó tùy từng quốc gia, nhưng nói chung đó là tên gọi của
chốn ăn chơi của các ông trên thế giới.
Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.
Khu đèn đỏ là khu “Bán phấn Buôn Hương.” Hương gái Việt và Phấn gái Việt được biết, ở thời điểm này chiếm 80%.
Con phố Jalan Alor có chợ đêm “Night Market.” Sinh hoạt chính từ 4 giờ
chiều cho tới 5, 6 giờ sáng hôm sau. Chợ đêm chủ yếu là thức ăn. Ở đây
ngoài bếp Mã, có bếp Tàu và bếp Việt. Tìm nước mía, nước dừa, ngô (bắp)
hấp, khoai luộc rất dễ dàng. Trái cây Mã rất gần gũi với Việt Nam: Chôm
chôm, măng cụt, soài, nhãn mùa này đầy chợ. Có Quán ăn Việt, người Việt
làm chủ. Du khách đủ mọi lớp tới. Có người đi du lịch với vợ, với gia
đình. Cũng có những thương gia trên đường giao hàng, trên đường ký hợp
đồng tới đây ăn xong thì ở lại qua đêm đi mua hương mua phấn.
Những cô gái Việt bán hương phấn ở đây nhiều lắm, họ còn khá trẻ. Tuổi
từ mười tám cho tới ba mươi. Họ là những món hàng đẹp và ngon trong chợ
đêm này.
Tài xế taxi Mã gặp khách đàn ông đi một mình. Bất cứ người khách đó mang
quốc tịch gì, màu da gì, cũng được hỏi một câu rất giản dị:
- Do you want Vietnamese pretty girls?
Chữ Vietnamese được nhấn mạnh trong câu hỏi.
Tại sao gái Việt ở đây nhiều thế, họ tới đây bằng cách nào? Có thể là họ
đi theo diện “Xuất Khẩu Lao Động” chính thức hay họ bị mua chuộc, bị
lừa, hoặc tự nguyện sang Mã làm gái bán vui, mua buồn. Đi bằng cách nào
thì tất cả đều vì lý do kinh tế.
Họ là những phụ nữ rất đáng thương.
Một buổi sáng, tôi tình cờ được ngồi ăn cùng bàn với mấy cô trong một
quán ăn của người Việt. Ngồi một lúc, cung cách của các cô mang thuốc lá
ra hút, gọi cà phê, thức ăn, cho tôi biết các cô làm gì ở đất nước này.
Tôi bắt chuyện làm quen, các cô vui vẻ tâm sự.
Một cô khoảng trên dưới ba mươi, người miền Nam. Cô nói cô ở Kiên Giang đến.
- Kiên Giang bây giờ đẹp lắm! cô khoe.
Rồi cô tâm sự. Em với chồng bỏ nhau, con gái lớn đang học Trung Học,
thằng nhỏ bảy tuổi bệnh, em không có tiền chạy thuốc, nó chết. Em buồn
quá, có người rủ đi xa kiếm tiền thì đi. Đi theo diện du lịch, rồi ở lậu
luôn.
- Nếu bị hỏi giấy tờ thì sao?
- Không sao cả cô ơi! Ở đây dễ lắm, có tiền cho tụi lính (công an) là xong hết. Có tiền em gửi về nuôi má, nuôi con ăn học.
Cô khác nói: cô ơi, ở đây tụi em làm gái sợ lính Mã lắm, nó cho vào tù
bất cứ lúc nào. Mình ở lậu, làm việc này phải sợ tất cả mọi người. Phải
có tiền thuê “Bảo Vệ” nữa. Bị khách hành hung hay không trả tiền thì gọi
Bảo Vệ can thiệp. Vào tù cũng gọi Bảo Vệ chuộc ra. Tiền chuộc cộng tiền
nộp cho Bảo Vệ thành một số nợ to. Mình phải làm để trả món nợ đó trước
khi có tiền gửi về nhà. Tụi em mỗi đứa một cảnh cô ơi.
Cô khác kể: Ở Bắc em trồng trà trên Thái Nguyên, sáng nắng, chiều mưa,
vất vả lắm, cũng chẳng được bao nhiêu, nhà lúc nào cũng nợ. Thấy bạn em
rủ sang Mã Lai kiếm tiền dễ hơn, nói làm massage, hát Karaoke khá lắm.
Người ta ứng trước cho cả ngàn đồng Mỹ, làm giấy tờ cho mình hết, chỉ
việc đi sang làm trừ dần. Sang đến nơi mới hay mình nợ người ta cả tiền
ứng trước, tiền vé máy bay, tiền giấy tờ, một con số to lắm. Khó lòng mà
trả được món nợ này. Giấy tờ người ta giữ hết, mình không nói được
tiếng của nước này. Thế là họ bảo sao phải nghe vậy nếu không muốn vào
tù.
Cô chưa nói hết câu đã nước mắt ngắn, dài.
Một cô khác kể chuyện của nhau:
Chúng em, có người xuất cảng lao động, cực quá không làm nổi, hay đang
làm thì hết việc.Về lại quê nhà thì tiền vay nợ để đi chưa trả được bao
nhiêu. Chồng có khi đang thất nghiệp hoặc ốm đau. Thôi anh để em ở lại
làm thêm đôi năm nữa. Anh đâu có biết đích xác em làm việc gì. “Ngậm bồ
hòn làm ngọt” cô ơi! (Chữ ngậm Bồ Hòn này chỉ có người Bắc mới biết.)
Một cô khoảng ba mươi, có cặp mắt rất buồn.
Cô ơi, làm hoài cũng quen, nếu mình biết tự đề phòng cho không nhiễm
bệnh và biết nghe lời thì dễ sống hơn. Số phần mà cô, phải chấp nhận để
sống. Chắc cỡ tuổi tụi em cũng chỉ làm được vài năm nữa. Nếu có phe đảng
thì lên làm chủ, rồi mình lại “lừa” người sang sau. Nếu không thì mang
cái thân tàn về quê. Không tính trước được cô ơi. Chúng em phó mặc cho
phần số. Giọng miền Trung của cô, ngập ngừng, dịu dàng, nghe mà mủi
lòng.
Có cô thú nhận. Tụi em yếu đuối chứ có chị rất cứng cỏi, biết bị lừa tìm
mọi cách để thoát. Chạy vào tòa Đại Sứ tố cáo, hay chạy vào sở công an
Mã, đôi khi cũng thoát được cô ạ. Thật ra các chị có chồng tốt ở nhà
chờ, chỉ vì nghèo muốn ra nước ngoài lao động, nay bị lừa nên nhất định
về. Còn như chúng em, ai có chồng ở nhà cờ bạc, nghiện hút, hay đánh đập
vợ con thì đâu còn muốn về nữa. Mà chồng mình đôi khi cũng chẳng cần
biết mình làm gì, miễn cứ gửi tiền về là được. Buồn lắm cô ơi!
Cô ăn đi chứ, sao cô cứ nhìn cái ang cá kèo vậy?
Cái ang cá kèo lạ lắm. Cả trăm con cứ nhảy tung lên như là khiêu vũ, bắn
cả ra ngoài ang. Mươi phút sau chúng nằm xếp lớp lên nhau, rất ngoan
ngoãn và thứ tự. Tất cả cái đầu nghiêng về một phía như có người cầm đũa
xếp những con cá trong một cái nồi để kho. Những con cá này
được mang sang từ Việt Nam. Người chủ quán bảo gây mê cho nó ngủ mấy
tiếng, bỏ vào thùng xốp gửi máy bay qua đây. Sang tới nơi chúng sẽ tỉnh
dậy.Từ Việt Nam sang Mã Lai có hai tiếng bay mà.
Trên một khía cạnh nào đó, những cô gái Việt có phải đã sang Mã Lai bằng cách đi của những con cá kèo này không?
Cá kèo ở Việt Nam được xếp vào dạng cá rẻ tiền, cá của dân quê nghèo khó ăn thường ngày.
Cá kèo là hạng chót nên đi xem hát mà mua vé rẻ tiền người ta cũng gọi là ngồi ở hạng “cá kèo”.
Hôm sau tôi được một anh bạn kể cho nghe chuyện “Đi Biển” tối hôm trước.
Anh ở trong nhóm của chúng tôi, anh dắt cả mấy cô cháu, cả một linh mục
khá trẻ, vào đó “tham quan cho biết sự tình” thôi.
Đó là một nhà hàng đêm có tên là Beach Club (Họ gọi tắt là đi Biển), ở
không xa khu chợ đêm. Nơi đây mỗi người vào phải mua một chai nước ngọt
hay bia giá khoảng 400 tiền Mã (gần 10 Mỹ Kim). Vào trong Biển tối om đó
có cả hàng chục cô gái Việt tuổi mười tám, đôi mươi, chạy ra vây chung
quanh mình.
Khách và các cô muốn tính với nhau thế nào thì tính, miễn là nộp tiền
cho chủ theo đúng luật đã quy định. Ở nơi này, các cô còn xuân trẻ có
thể kiếm một đêm từ một đến hai trăm Mỹ kim.
Các cô sẽ lôi kéo, vuốt ve, khách không trốn vào đâu được (thật ra đã
vào đấy thì có ông nào không muốn bị bắt). Nhưng đây là nhóm của chú
cháu anh nên họ chỉ đứng chụm vào nhau nói chuyện và quan sát. Nghe anh
nói chuyện với linh mục cứ Cha Cha, Con Con. Một cô khẽ lên tiếng:
- Con muốn được xưng tội.
Tôi ngắt lời, hỏi: Thế Cha có giải tội cho cô ấy không? Anh bạn nói, không, Cha sợ bị phục kích.
Tự nhiên tôi thấy thương quá! Nếu thật tình cô ấy muốn xưng tội thì sao?
Có lẽ cô là người Công Giáo, bao lâu nay không hề tới nhà thờ vì nghĩ
mình tội lỗi.
Tôi tin cô có thể cầu xin tha thứ thẳng với Chúa. Chúa nhân từ vô cùng, Chúa hiểu hoàn cảnh của cô hơn bất cứ ai.
Trong một buổi tối khác, quán ăn khác, chủ cũng là một phụ nữ người
Việt, khoảng bốn mươi tuổi. Phụ bếp, chạy bàn có nam, có nữ, toàn người
Việt. Một cô trông rất trẻ, đang ngồi chẻ rau muống làm gỏi cho khách.
Tôi hỏi chuyện làm quen mọi người, cô chủ cho biết ở đây đã chín năm,
chồng là người Hoa. Cô phụ bếp mới sang được một tháng. Đi diện du lịch
rồi sẽ ở luôn. Cô chủ nói, em chỉ cần đút tiền cho lính Mã là cái gì
cũng xong cô ạ.
Tôi đợi lúc cô phụ bếp mang thức ăn cho tôi, tôi hỏi: Con có gia đình chưa? Ở thành phố nào?
- Dạ có rồi, con ở Huế, con có hai đứa con nhỏ. Cô ngập ngừng một chút
nói thêm: Nghèo quá cô ạ, mà luôn luôn không có việc làm. Cả hai vợ
chồng cùng thất nghiệp hoài. Con giao con cho nhà chồng, sang đây làm để
có tiền gửi về.
Tôi nhìn kỹ cô thêm một chút, thấy cô người mảnh mai, có chút nhan sắc, tôi chạnh lòng nói khẽ.
- Cô biết con làm ở đây vất vả, từ 4 giờ chiều tới 5, 6 giờ sáng. Nhưng nếu ai rủ con đi làm việc gì nhàn hơn, nhiều tiền hơn, con đừng có nghe. Con hiểu cô nói gì không?
Cô gái nhìn tôi với cặp mắt bối rối, cô hạ mi mắt thấp xuống một chút, cô cũng trả lời rất khẽ
- Dạ, con hiểu, con cám ơn cô.
Tôi thấy lòng mình nao nao. Chẳng phải bà con thân thích gì sao bỗng thấy thương như thương con, cháu mình.
Hoàn cảnh của những cô gái mang hộ chiếu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Cô đến từ đâu? Huế, Hà Nội, Kiên Giang, Mỹ Tho, Cà Mau hay Ninh
Bình, Lạng Sơn, Nam Định, các cô đều là những con cá kèo bị (hay tự
chọn) gây mê bỏ vào thùng xốp mang đi.
Những ngọn đèn lồng đỏ, ngọn tỏ ngọn lu đó còn treo tới bao giờ.
(Mã Lai - Tháng 4/2017)
Có thể nói hầu hết những văn-nhạc sĩ của miền nam Việt Nam, dưới hai
thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa, đều cảm thấy đau buồn khi nhắc đến ngày
30 tháng 4 năm 1975.
Cuộc sống họ đã thay đổi từ vật chất đến tinh thần. Cảm hứng sáng tác không còn nữa. Một số văn-nhạc sĩ, nếu không ra được nước ngoài thì phải chịu số phận bi thảm, tù đày, hay bị vứt ra ngoài lề xã hội ngay trên quê hương mình.
Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh, một trong những người sáng lập Phong Trào Hưng Ca, từ thành phố New Orleans tiểu bang Louisiana sẽ về vùng Washington vào tháng 6 tới để ra mắt cuốn hồi ký có tựa đề “Vượt tù, Vượt biển”, chia sẻ cảm nghĩ về 30/4:
“Khi tôi mới qua Mỹ năm 1981 thì tôi hiểu ngày 30 tháng 4 không giống như bây giờ. Mỗi năm, mỗi 30 tháng 4, ý nghĩa của nó cao hơn, in đậm trong lòng mình hơn. Tôi gọi ngày đó là một đám tang lớn. Đám tang ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, còn ray rứt hơn nữa vì khi ba mẹ tôi mất thì có đám giỗ nhưng đám giỗ đó không nhìn thấy máu đổ, không nhìn thấy đọa đày của chiến hữu, của giống nòi hiện giờ đổ xuống.”
Liên hệ đến sự kiện lịch sử này, ông Ánh nói những tác phẩm văn nghệ của hai miền nam bắc Việt Nam cũng rất khác biệt:
Cuộc sống họ đã thay đổi từ vật chất đến tinh thần. Cảm hứng sáng tác không còn nữa. Một số văn-nhạc sĩ, nếu không ra được nước ngoài thì phải chịu số phận bi thảm, tù đày, hay bị vứt ra ngoài lề xã hội ngay trên quê hương mình.
Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh, một trong những người sáng lập Phong Trào Hưng Ca, từ thành phố New Orleans tiểu bang Louisiana sẽ về vùng Washington vào tháng 6 tới để ra mắt cuốn hồi ký có tựa đề “Vượt tù, Vượt biển”, chia sẻ cảm nghĩ về 30/4:
“Khi tôi mới qua Mỹ năm 1981 thì tôi hiểu ngày 30 tháng 4 không giống như bây giờ. Mỗi năm, mỗi 30 tháng 4, ý nghĩa của nó cao hơn, in đậm trong lòng mình hơn. Tôi gọi ngày đó là một đám tang lớn. Đám tang ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, còn ray rứt hơn nữa vì khi ba mẹ tôi mất thì có đám giỗ nhưng đám giỗ đó không nhìn thấy máu đổ, không nhìn thấy đọa đày của chiến hữu, của giống nòi hiện giờ đổ xuống.”
Liên hệ đến sự kiện lịch sử này, ông Ánh nói những tác phẩm văn nghệ của hai miền nam bắc Việt Nam cũng rất khác biệt:
“Hai dòng nhạc khác nhau, trước đây dòng nhạc miền bắc lơ lớ như nhạc
Tàu, và luôn luôn sắt máu, kêu gọi nổi dậy, đứng lên, kể cả những nhà
thơ cũng vậy như Tố Hữu, nhà thơ tiêu biểu nhứt miền bắc cũng kêu gọi
giết, giết, giết. Trong văn, trong thơ của họ rất sắt máu. Họ kêu gọi
phục vụ cho ai, cho Các-mác, cho Lê-nin. Nền văn học miền bắc là nền văn
học sắt máu chỉ phục vụ cho chiến tranh, phục vụ cho tư tưởng cộng sản
để nhuộm đỏ đất nước. Ngược lại miền nam có những bản nhạc nổi tiếng,
những bản nhạc phản chiến, có những bản nhạc có thể cấm hát nhưng vẫn
được hát. Văn học miền nam rất nhân bản, rất tình người. Văn học nghệ
thuật để phục vụ cho giống nòi, cho nhân sinh và cho tư tưởng phóng
khoáng tự do, nhân quyền của con người.”
Nhạc sĩ Trúc Hồ, Tổng Giám đốc hệ thống truyền hình SBTN ở hải ngoại,
nguyên là Giám đốc âm nhạc của Trung tâm ASIA, chia sẻ suy nghĩ của một
nhạc sĩ trẻ về ngày 30 tháng 4:
“Từ ngày qua Mỹ đến giờ, mỗi mùa tháng 4 mình đều buồn hết, bởi vì mình
biết mình đã mất quốc gia, đã mất đất nước của mình, nhưng mà nhìn lại
mình cũng thấy là mình cám ơn những người lính đã bảo vệ miền nam trong
vòng hai mươi năm hơn, nên những người miền nam được có tự do. Có tự do
cho nên những văn nghệ sĩ miền nam có quyền sáng tác và quyền sáng tác
tự do đó vô cùng quan trọng bởi vì nhờ quyền tự do đó mà đệ nhất, đệ nhị
Cộng hòa chúng ta có một tài sản quốc gia về văn hóa, từ sách vở cho
tới thơ, nhạc. Mặc dù sau 1975, chính quyền cộng sản muốn tiêu diệt nền
văn hóa đó, nhưng sau 42 năm rồi chúng ta vẫn thấy trên đường phố có
những người hát những bản nhạc trước 75, ngay cả những ca sĩ trong nước
bây giờ trình diễn những show, game cũng hát những bài nhạc đó chứng tỏ
nền văn hóa đó là tài sản của quốc gia.”
Nhạc sĩ Vũ Thành An nổi tiếng vì những bài không tên trước năm 1975,
hiện là phó tế tại một nhà thờ Công giáo thuộc thành phố Portland, tiểu
bang Oregon, nói với VOA Việt ngữ:
“30 tháng 4 hoàn cảnh đã thay đổi hoàn toàn. Trước 30 tháng 4 không có
giới hạn gì cả cho nên mình suy nghĩ cái gì mình cảm thấy thì mình viết
ra và đề tài muôn thuở về tình yêu, mình nói lên những gì ở tận nơi sâu
thẳm trái tim của mình. Đối với Vũ Thành An là một điều may mắn vì có
một thời gian mấy năm trước đó, từ năm 1965 đến 1975, Vũ Thành An có 10
năm sống và sáng tác tự do cho nên có một số tác phẩm để lại trong đó có
mấy bài không tên. Sau 30 tháng 4, không còn có không khí, có cuộc sống
như trước đó nữa và trong hoàn cảnh sống như thế thì làm sao sáng tác
được như trước.”
Nhạc sĩ Trúc Hồ nhận xét những nhạc phẩm sáng tác tại Việt Nam sau năm
1975 ‘chỉ tuyên truyền thôi’ chứ ‘không đi vào lòng người’:
“Sau một thời gian khi có mở cửa rồi thì đỡ hơn. Những nhạc sĩ trong
nước cũng có cơ hội để viết những bài nhạc, không nhiều thì ít cũng có
một số bài nói lên những tình cảm riêng tư của họ. Họ được quyền nói lên
chuyện đó nhưng 42 năm so sánh với 20 năm âm nhạc của đệ nhất và đệ nhị
Cộng hòa thì không so sánh nổi đâu. Còn những sáng tác của những người
đi ra hải ngoại thì có nhiều bài hay khủng khiếp lắm vì đó là những
trang nhật ký viết bằng máu và nước mắt. Nhạc tình thì cũng có nhiều bài
khá hay nhưng nhạc đi sát với máu và nước mắt của người Việt thì loại
nhạc đó lại nổi hơn nhiều và có giá trị thời gian tính lâu hơn.”
Trong khi chính quyền trong nước tổ chức ăn mừng ngày 30 tháng 4 thì
người Việt hải ngoại xem 30 tháng 4 là một ngày tang chế cho đất nước và
nỗi nhớ thương, hoài niệm của họ lại day dứt hơn mỗi dịp tháng tư về.
GIÁO DỤC VIỆT NAM
Giáo dục trước và sau năm 1975
Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2017-04-28
2017-04-28
Giáo dục các thế hệ trở thành những con người có đầy đủ lòng yêu thương
và nhân cách để bước vào đời, hòa điệu cùng xã hội hay đào tạo ra những
cỗ máy biết đi, đứng, nằm ngồi và biết đào ra tiền nhưng lại nhanh chóng
làm nghèo đất nước? Đó là câu hỏi chung của mọi nền giáo dục. Vấn đề
giáo dục tại Việt Nam trước và sau 30 tháng 4 năm 1975 là một câu chuyện
dài. Trong giới hạn của tường trình này, chúng tôi chỉ xin phép đề cập
đến những lát cắt thông qua các nhận định của những người từng có kinh
nghiệm trong lĩnh vực này, trong phép so sánh của họ về giáo dục trước
và sau 1975 tại Việt Nam.
Một nền giáo dục nhân bản đã mất
Thầy Luận, một giáo sư dạy cấp trung học phổ thông (trước năm 1975,
những người dạy trung học phổ thông được gọi là giáo sư), chia sẻ: “Hồi
đó giáo dục thì yêu thương gia đình, tổ quốc, tôn sư trọng đạo, nhưng
họ làm thật. Rồi chào cờ thì phải nghiêm túc, đi gặp đám tang thì dở mũ
đưa tiễn, đó là nhưng thứ liên quan đến đạo đức mà gần như ai cũng được
dạy và làm. Hồi đó học sinh tôn trọng thầy lắm, sợ thầy lắm. Còn thầy
thì gương mẫu lắm, nghiêm túc. Cái kiểu mặc quần đùi lên giảng dạy là
không có rồi. Anh có thể dạy học sinh phá vỡ nhiều thứ, ví dụ như những
hủ tục nhưng tư cách của anh phải nghiêm túc. Mô phạm đó.”
Theo thầy Luận, vấn đề trọng tâm của giáo dục nằm ở chỗ người làm quản
lý và người dạy đang nắm cái lõi nào, nhắm vào trung tâm, hạt nhân nào
để từ đó khai triển thành một bộ khung triết lý trong giáo dục con
người. Và nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã làm được
điều này.
Theo ông, chính nhờ vào nền giáo dục nhân bản, lấy triết lý con người
làm trung tâm mà trong vòng hai mươi năm nội chiến với khói lửa chiến
tranh và máu đổ, nền giáo dục miền Nam vẫn mọc lên những cây trái thành
tựu hết sức xuất sắc với những cái tên như Bùi Giáng, Bùi Văn Nam Sơn,
Phạm Cộng Thiện, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cùng hàng loạt trí thức,
nghệ sĩ tài năng và đức độ khác.
Điều này, cũng tại miền Nam Việt Nam, với quĩ thời gian hơn gấp đôi, 42
năm, sống trong hòa bình, không có lửa đạn chiến tranh nhưng lại không
có những cá nhân xuất sắc như trước đây. Đó là nói riêng về các thành
tựu đỉnh cao,nhưng khi nói tới giáo dục, mặt bằng chung vẫn là quan
trọng nhất, nghĩa là một xã hội được hình thành từ giáo dục như thế nào.
Điều này thì giáo dục miền Nam Việt Nam tốt hơn rất nhiều so với giáo
dục sau 1975.
Với triết lý nhân bản, dân tộc và khai phóng, qua giáo dục, phát triển
toàn diện mỗi cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh,
phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học… Điều này đã mang lại
một mặt bằng xã hội tương đối cân bằng, ổn định bởi sự hiểu biết, tôn
trọng dân chủ, yêu quê hương, đất nước và yêu dân tộc cũng như coi trọng
con người, lấy nhân cách và phẩm hạnh làm mục tiêu của đời người.
Như kết luận vấn đề đã nêu, thầy Luận cho rằng nền giáo dục Việt Nam
Cộng Hòa là một nền giáo dục tốt nhất trong lịch sử các nền giáo dục
Việt Nam trong lịch sử và cho đến thời điểm hiện nay. Và hơn nữa, vấn đề
chính phủ, nhà nước quan tâm đến giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa cũng
là điều đáng nói, bởi ngân sách giáo dục tuy không phì đại như hiện nay
nhưng lại đảm bảo học sinh không tốn tiền khi đến trường và nếu học tốt
thì có cơ hội du học nước ngoài. Nền giáo dục không có tính chợ búa như
nền giáo dục hiện tại.
Một nền giáo dục chợ búa
Như để chứng mình cho những luận điểm của thầy giáo cũ của mình, thầy
Toàn, một giáo viên dạy môn văn vừa nghỉ hưu, chia sẻ thêm: “Thì đầu
tiên, chính sự dối trá đã phá vỡ giáo dục. Nó dẫn đến giả bằng thật, dẫn
đến bệnh háu danh, cả xã hội bùng lên lạm phát bằng cấp. Rồi người ta
lợi dụng, hợp thức hóa những cái bằng, học vị chuyên tu, toàn bi kịch,
dốt nát kinh khủng, điều này kéo dài đã bao nhiêu năm. Rồi những cái học
vị xỏ lá đó tạo nên những vết thương trong xã hội, cái bất công trong
giáo dục cũng giống như bất công trong xã hội vậy.
Cái bất công trong giáo dục là thằng học vị cao nhất, ngu dốt nhất sẽ
là thằng lên học vị cao nhất bởi nó sẽ tìm cách hợp thức hóa cái bằng
nhanh nhất, cái học vị khốn nạn nhất. Những cái thằng học đại học chuyên
tu nó sẽ là thằng đầu tiên đi học thạc sĩ chuyên tu. Chính vì sự chen
lấn như vậy nên người có học theo kiểu này càng có nhiều bằng cấp, học
vị càng tàn ác bởi họ trả giá quá đắt. Cái kiểu đổi tình, đổi tiền lấy
điểm phổ biến.
Và khi mà họ đã trả giá quá đắt cho việc có được cái bằng, cái học vị
đó, cả thân xác họ mà họ còn không quý nữa thì nghĩa lý gì người khác,
họ phải tận thu để ‘bù vốn’, vì họ đầu tư quá lớn. Cái trụ cột đạo đức
bị gãy. Như những cô giáo mẫu giáo, họ nghĩ ra việc trộn thuốc ngủ cho
con người ta ăn đi ngủ khỏi phải trông. Những cái độc ác xuất phát từ
những gì độc ác mà họ phải trải qua trong quá trình chen lấn để lấy cái
bằng.”
Theo thầy Toàn, để nói về nền giáo dục Việt Nam hiện tại, ông có thể tóm
gọn trong mấy chữ, đó là nền giáo dục chợ búa. Tính chợ búa này thể
hiện rất rõ trong các chính sách giáo dục tốn kém nhưng không có hiệu
quả và đằng sau nó là hàng tá các nhà giáo dục xôi thịt đang chực chờ để
tham nhũng, đục khoét. Cứ mỗi lần cải cách giáo dục, học sinh phải chịu
thêm một gánh nặng mới từ học phí, sách mới, học thêm, kính thưa các
loại gánh nặng chất lên đôi vai non nớt của học sinh.
Nói sâu xa hơn một chút, nền giáo dục phía Bắc vĩ tuyến 17 những năm
trước 1975 đã có những dấu hiệu thiếu vắng tính nhân bản. Nếu như miền
Nam chú trọng vào triết lý nhân bản trong giáo dục thì miền Bắc lại tập
trung vào tính chiến đấu trong giáo dục. Những bài thơ, những truyện
ngắn đầy tính giết tróc được áp dụng triệt để trong các giáo trình văn
học miền Bắc. Từ thơ Tố Hữu cho đến truyện ngắn của Nguyên Ngọc và nhiều
nhà văn, nhà thơ khác. Các tác phẩm văn học miền Bắc đều lấy tinh thần
kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam làm kim chỉ Nam.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền
Bắc đã xô dạt những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hệ quả của
nó là suốt 42 năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc. Những quan chức
giáo dục bị kỉ luật ở cấp thấp thì lại được thăng cấp, nhảy tót lên ghế
trên để làm quản lý. Hiện tại, có nhiều quan chức giáo dục cấp tỉnh, với
vị trí giám đốc sở giáo dục, nhưng nếu chịu khó kiểm tra kiến thức,
trình độ và đạo đức của họ, dường như là có quá nhiều vấn đề để bàn.
Theo thầy Toàn, có người từng bị kỉ luật ở nhà trường vì nạn đề đóm
nhưng sau đó lại được cất nhắc làm chuyên viên sở, rồi cuối cùng là giám
đốc sở giáo dục, trong khi đó, người này từng ra đề thi sai nhiều lần
vì không có kiến thức và ông ta chỉ giỏi duy nhất một điều, đó là biết
làm được lòng cấp trên, biết đội trên đạp dưới.
Một nền giáo dục không có triết lý, không coi trọng dân chủ và không đề
cao nhân cách đã và đang cho ra những đáp số xã hội đầy rẫy tội lỗi và
cái ác. Thầy Toàn khẳng định rằng nếu như truy tìm nguyên nhân gây ra
một xã hội hết sức manh động và vô cảm như hiện tại, nền giáo dục đã góp
một phần rất lớn để xây dựng nên xã hội như đang thấy.
Nói cho cùng, một nền giáo dục chỉ lấy vật dục làm kim chỉ Nam và không
coi trọng tính nhân bản, tính dân chủ, cộng thêm với sự thiếu thành thật
và phiến diện sẽ không bao giờ là một nền giáo dục có khả năng hoàn
thiện con người. Và những người trưởng thành trong nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa, nói cho cùng là nhờ vào niềm đam mê tri thức cũng như thiện
căn có sẵn của họ chứ không phải do tác động của giáo dục.
Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động, làm giàu
nhân tính xã hội, ngược lại, một nền giáo dục tồi tệ là nền giáo dục
luôn chịu lời nhắc nhở về nhân tính cũng như phẩm hạnh từ xã hội. Và nền
giáo dục Việt Nam kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay là nền giáo dục
như thế!
CÁT LINH * VIỆT NAM THUA LÀO VÀ CAMPUCHIA
Việt Nam thua Lào và Campuchia mọi mặt - Vì sao?
Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-28
2017-04-28
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Campuchia và Lào từ ngày 24 đến 27 tháng 4, năm 2017.
Không thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.
Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.
Theo thông tin nhận được từ trong nước, rất nhiều hợp tác quan hệ song
phương giữa Việt Nam, Lào và Campuchia được đánh giá tăng trưởng tốt
trong vài năm qua. Tuy nhiên, theo những số liệu báo cáo do Ngân hàng
thế giới – World Bank và Diễn đàn kinh tế Thế giới – WEF đưa ra cho thấy
Việt Nam ngày càng thua Lào và Campuchia về mọi mặt.
Thậm chí, trong một bài viết đăng tải trên báo Một Thế giới viết rằng:
“Việt Nam bị Lào, Campuchia vượt qua không còn là dự báo, không còn là
nguy cơ nữa mà đã thành hiện thực và cái danh sách thua kém ngày càng
dài ra.”
Kinh tế
Nói về báo cáo của các tổ chức tài chính thế giới liên quan đến mức tăng
trưởng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng
Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, từ Hà Nội
đưa ra những điểm ông cho là đáng chú ý:
“Cái tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Campuchia và của Lào cao hơn
Việt Nam những năm gần đây. Campuchia tăng trưởng khoảng 7 – 8%. Trong
khi đó Việt Nam năm ngoái chỉ tăng 6,21%, quí 1 năm nay tăng 5%.
Cái thứ hai, số doanh nghiệp tư nhân của Campuchia thì cũng cao hơn Việt Nam.
Campuchia cũng ít, hay hầu như không có những doanh nghiệp nhà nước
lớn như Việt Nam kinh doanh vào những lĩnh vực có tính chất thương mại.
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.”
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Báo Một Thế Giới từng trích dẫn lời chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ -
Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển – đánh giá về khả năng
hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam so với Lào và Campuchia. Ông
đã đưa ra một vài nhận định khá đồng thuận với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.
Điển hình là ở mô hình kinh tế, một vấn đề dẫn đến sự tụt hậu của Việt Nam. Ông Lưu Bích Hồ cũng nói rằng “doanh
nghiệp tư nhân của Campuchia không bị trì trệ, và đặc biệt, Campuchia
không có nhiều doanh nghiệp nhà nước nên họ không gặp trở ngại về hệ
thống hành chính”. Ngược lại, theo ông, nguyên nhân chủ yếu của Việt Nam là do “bộ máy hành chính quá cồng kềnh và chậm chạp trong việc cải cách.”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hoàn toàn không phản biện vấn đề này. Bà
chia sẻ ý kiến với báo trong nước rằng hoạt động kinh tế của Lào và
Campuchia không xây dựng ở quy mô hoành tráng. Ngược lại, họ tập trung
một số ít ngành có thế mạnh nên dẫn đến chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp tốt hơn Việt Nam.
Giáo dục dừng lại
Không phải chỉ riêng nền kinh tế, sự thụt lùi của Việt Nam so với Lào và
Campuchia được báo chí trong nước nhắc đến ở nhiều dấu hiệu. Một trong
những dấu hiệu đó nằm ở lĩnh vực giáo dục.
Tiến sĩ, nhà giáo Vũ Minh Giang đưa ra ý kiến về dấu hiệu tụt hậu giáo dục ở Việt Nam so với hiện tại và thập kỷ trước.
“Có một thời kỳ người ta đánh giá cao giáo dục Việt Nam thì lúc đó,
tôi nghĩ rằng, những thành tựu của giáo dục Việt Nam tập trung ở cái
giải quyết mặt bằng có tính đại trà.
Ví dụ từ một dân tộc mà số người không biết chữ rất đông, sau đó bằng
nhiều chính sách có tính chất phổ cập thì người biết chữ gần như phổ
cập toàn bộ thì đó là thành tích rất lớn của giáo dục Việt Nam.”
Với điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý rất khác nhau của các vùng miền
trong xã hội Việt Nam, nhưng nền giáo dục Việt Nam đã tạo ra được một sự
tương đối khá đồng đều, Nhà giáo Vũ Minh Giang đánh giá đó là một nỗ
lực rất lớn.
Tuy nhiên, ông đưa ra phản biện về ý kiến nói rằng giáo dục Việt Nam đã
tụt hậu so với các nước láng giềng từ sau khi giáo dục được phổ cập toàn
bộ.
“Những gì mà ngay cả thời kỳ gọi là phát triển mạnh ấy thì bây giờ
không gọi là tụt hậu mà là vẫn duy trì như thế. Người ta gọi là dừng
lại. Trong khi đó thì các nước xung quanh phát triển bắt kịp với chuyển
biến nhanh của thế giới.”
Vào giữa năm 2016, Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh,
với vai trò là diễn giả trong buổi toạ đàm tại trường Đại học Tôn Đức
Thắng cho biết điều ông trăn trở nhất là nguồn nhân lực của Việt Nam
không được đào tạo và sử dụng có hiệu quả. So sánh với hình thức thi cử
của các nước khác, ông Vinh chỉ ra thể chế của giáo dục Việt Nam là
“kiểm soát đầu vào chặt chẽ mà không xem xét kết quả”.
Nhận xét về điều này, nhà giáo, Tiến sĩ Vũ Minh Giang nói rằng hệ thống
giáo dục đào tạo Việt Nam cần phải có những cải cách rất mạnh mẽ và cấp
bách. Ông gọi vấn đề này là “Đổi mới căn bản toàn diện.”
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Theo ông, giáo dục Việt Nam đã dừng lại quá lâu một phương thức tiếp cận
mà cho đến bây giờ không phù hợp nữa, là tiếp cận nội dung, tức là dạy
rất nhiều những kiến thức mà rồi kiến thức đó vận dụng vào xã hội khó
khăn. Để tiếp cận nội dung thì học sinh phải học và nhớ rất nhiều. Hệ
thống thi cử đánh giá thì cũng theo cách đó.
“Đấy là một hạn chế mà bây giờ đang bắt đầu công việc đổi mới không
hề dễ chút nào, rất là khó khăn. Nó chuyển đổi hẳn sang một tiếp cận để
người học được học phương pháp, học kỹ năng, học làm người và nhiều cái
khác nữa. Bởi bây giờ, kiến thức thì người ta có thể tìm thấy ở bất cứ
đâu, học ở bất cứ đâu.”
Bên cạnh đó, ông ý kiến thêm, người học phổ thông ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế về định hướng ngành nghề tương lai. Ông nhận thấy sự học ở Việt
Nam vẫn còn trong tư tưởng Đại học là con đường duy nhất nên tạo ra sự
mất cân đối trong đào tạo.
Bên cạnh nền giáo dục có tính cách đại chúng, theo nhà giáo Vũ Minh
Giang, cần phải có một cơ chế thu hút nhân tài, sử dụng tài năng.
“Việc tìm, phát hiện và đặc biệt sử dụng tài năng ở Việt Nam hiện nay
vẫn còn đang nhiều cái chưa phù hợp, chưa thu hút tài năng. Nguồn nhân
lực tài năng hiện nay đang tìm đường đi nơi này nơi khác, nên vẫn còn
hiện tượng người ta hay gọi là chảy máu chất xám.”
Cải cách thể chếKhông thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.
Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
“Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy,
nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả
và cần thiết. Như chăm lo bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng,
chăm lo giáo dục y tế. Còn các lĩnh vực thuần tuý thương mại như sản
xuất bia nước ngọt thì nhà nước nên thoái vốn để tư nhân hoạt động có
hiệu quả hơn.”
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng những vấn đề này một lần nữa đã được đề
cập trong nghị quyết 19 của năm nay. Kết quả thực hiện sẽ như thế nào,
vẫn còn là câu hỏi chưa có đáp án đối với xã hội, người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, có hai điều mà ai quan tâm đến tình hình tăng trưởng của đất
nước cũng tìm hiểu được, đó là chiếc ôtô "Angkor EV 2014" lấy tên ngôi
đền cổ Angkor của Campuchia được điều khiển bằng điện thoại thông minh
và thẻ căn cước tần số rađiô (RFID) có trang bị hệ thống GPS, có vận tốc
tối đa 60km/giờ và do nhà sáng chế Nhean Phaloek, người Campuchia thiết
kế.
Điều thứ hai, là câu nói nổi tiếng của ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng
Singapore từng nhận xét hàng: “Nếu có vị trí số một Đông Nam Á thì đó
phải là Việt Nam.”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-lags-behind-laos-n-cambodia-why-cl-04282017081028.htmlTHANH TRÚC * HỒI TƯỞNG CỦA VIỆT CỘNG SAU 42 NĂM
Hồi tưởng của cựu binh miền Bắc 42 năm sau chiến tranh
Nhuộm đỏ đất nước theo XHCN
Hôm nay là ngày 27, chỉ còn 3 hôm nữa là 30 tháng Tư 2017, 42 năm im tiếng súng mà lòng người vẫn chưa yên, là cảm nghĩ từ một số cựu binh từng vượt Trường Sơn gọi là vào giải phóng miền Nam 42 năm trước:
Ngày 27 tháng Tư năm 1975 thì tôi đang công tác ở rừng U Minh Thượng thuộc Long Châu Hà theo cách gọi của phía cộng sản tức là gồm Long Xuyên, Châu Đốc và Hà Tiên. Đến ngày 30 tháng Tư, đơn vị chúng tôi được lệnh tiến ra tiếp quản các cơ sở kinh tài, ngân hàng, ngân khố, kho bạc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vượt hơn một ngày trời bằng đường bộ và bằng ghe xuồng trên các kênh rạch ở miền Nam, đến đêm ngày 1 tháng Năm tiến vào thị xã Long Xuyên, tiếp quản Ngân Hàng Công Thương cũng như Kho Bạc, Ty Ngân Khố, Sở Nông Nghiệp của tình An Giang lúc đó.
Tiếp xúc với bà con họ hàng thân thuộc đã di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 thì tôi chính thức có lập trường hoàn toàn khác với những gì mà đảng cộng sản và cả hệ thống giáo dục miền Bắc nhồi nhét cho tôi.Đó là hồi tưởng của cựu binh Nguyễn Khắc Toàn khi chưa đầy 20 tuổi:
- Cựu binh Nguyễn Khắc Toàn
Nhưng mà tôi đã thấy một thành phố phồn thịnh, sầm uất ở miền Nam. Tháng Chín 1975 tôi có dịp lên bệnh viện Chợ Rẫy chữa vết thương trong chiến tranh, được tiếp xúc với bà con họ hàng thân thuộc đã di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 thì tôi chính thức có lập trường và có nhận thức hoàn toàn khác với những gì mà đảng cộng sản và cả hệ thống giáo dục miền Bắc nhồi nhét cho tôi.
Càng nhận thức càng thêm ngậm ngùi và tiếc nuối, là tâm trạng của cựu binh Nguyễn Khắc Toàn 42 năm sau, khi quyết định trở thành một người hoạt động cho dân chủ và dân oan ở Hà Nội:
Đi vào miền Nam dưới khẩu hiệu giải phóng, thống nhất đất nước, chống Mỹ cứu nước, nhưng bây giờ nhìn lại cuộc chiến đã kết thúc cách đây 42 năm thì rất buồn bởi đó là cái bi kịch lớn của dân tộc. Lẽ ra cuộc chiến này không nên có. Đất nước thì cần phải thống nhất nhưng thống nhất bằng con đường hòa bình, thương lượng, đàm phán như tấm gương của Cộng Hòa Liên Bang Đức và Cộng Hòa Dân Chủ Đức thì tốt hơn. Gọi là đi giải phóng miền Nam mà chế độ miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã có đầy đủ những đặc trưng của một xã hội tiến bộ, người dân được tự do làm ăn kinh doanh, một xã hội văn minh. Tiến hành một cuộc chiến để thu hồi nốt miền Nam, để nhuộm đỏ toàn bộ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa chỉ là một ảo vọng, chỉ là một thử nghiệm thì nay cũng đã sụp đổ hết.
Ngày 30 tháng Tư 1975 đã theo đoàn quân 203 vào tiếp quản Sài Gòn, cựu chiến binh Bùi Đình Toàn:
Lần đầu tiên vào thành phố Hồ Chí Minh thì rất ngỡ ngàng, rất xa lạ. Phải nói là lối sống của thành phố Hồ Chí Minh nó hay gấp bao lần Hà Nội, dân lúc bấy giờ người ta cũng không ưa cộng sản lắm. Nó hay là con người ta sống thoải mái hơn ngoài Bắc. Lúc bấy giờ tôi còn đi thăm một số cô dì chú bác di cư năm 54. Năm 77 tôi lại vào trong ấy một lần nữa thì coi như là một số gia đình đã đi hết, một số nữa đến năm 80 thì cũng đi hết không còn ai.
Ông Bùi Đình Toàn đã làm việc 6 năm tại Công Ty Xổ Số tỉnh Đồng Tháp. Năm 1983, khi xin chuyển về Bắc mà không được chấp thuận, ông bỏ việc trở lại Hà Nội, đi làm trong một số cơ quan ở đây. Đến giờ đã luống tuổi, ông là thợ sửa vá xe đạp tại phố Quán Sứ, Hàng Bông:
Tôi là người Phố Cổ mà cũng là người nhiều đời ở phố này rồi, ngồi sửa xe lặt vặt được hào nào hay hào ấy, năm nay tôi 64 rồi.
Ngày 30 tháng Tư mỗi năm là lúc ông Bùi Đình Toàn cảm thấy buồn cho mình nhất và nhớ thương đồng đội đã ngã gục ở chiến trường hơn bao giờ hết:
Tôi chả có chế độ gì cả mặc dù mình là người lính là người từng cầm súng đi đánh giặc bao năm. Thật ra cái số cũng còn may mắn, đơn vị tôi nhiều người chết lắm, 10 người chết đến 7 mà bao nhiêu trận là tôi thoát chết.
Đáng nhẽ những người lính như tôi và một số đồng đội về là phải có sự ưu đãi nhưng thực tế thì chả có cái gì ưu đãi cả. Những năm tháng còn trẻ thì mình gian khổ trong chiến trường dọc theo các nơi mà thực tế cuộc chiến này cũng chẳng mang lại cái gì cả. Giải phóng rồi cuộc sống cao lên thì nó là là tiến triển chung của xã hội, còn nói chung những người lính như chúng tôi thiệt thòi nhất là những năm tháng trẻ tuổi mà phải đi cầm súng, bao nhiêu người hy sinh bao nhiêu người chết, không tưởng tượng được chiến tranh nó kinh khủng thế nào đâu. Những người bạn của tôi, 50 người, về chỉ còn 3 người.
Theo lời ông Bùi Đình Toàn, chiến tranh không chỉ cướp đi tuổi thanh xuân đẹp đẽ nhất của bao trai tráng Việt Nam mà còn biến họ thành phế phẩm xã hội như tình cảnh của ông hiện giờ.
Lần đầu tiên vào thành phố Hồ Chí Minh thì rất ngỡ ngàng, rất xa lạ. Phải nói là lối sống của thành phố Hồ Chí Minh nó hay gấp bao lần Hà Nội.Ngày 30 tháng Tư 1975 cựu binh Nguyễn Duy Huân, quê ở Tuyên Quang, đang cùng sư đoàn 308 có mặt tại chiến trường Quảng Trị. Năm 1977 ông được chuyẻn ngành vể làm công tác báo chí tại Tuyên Quang. Năm 1995, ông bị qui kết chiếm đoạt tài sản nhà nước do cấp trên vu cáo, liên quan đến tuyến đường Tân Trào Tuyên Quang mà Bộ Chính Trị khóa VIII đảng cộng sản khởi xướng để kỷ niệm 105 ngày sinh Hồ Chí Minh và 50 năm ngày thành lập nước:
- Cựu binh Bùi Đình Toàn
Tôi chỉ là người làm công mà họ qui kết cho tôi là bao nhiêu vật liệu là tôi chiếm đoạt hết để họ bắt đưa đi tù.
Suốt 21 năm qua, cựu binh Nguyễn Duy Huân đi gỏ cửa nhiều nơi cấp trung ương nhưng vì thấp cổ bé miệng nên cứ bị đẩy từ cơ quan này qua cơ quan khác mà không được giải quyết rốt ráo:
Năm nay là năm thứ 21 rồi, thông qua vụ việc của tôi và một số dân oan khác thì nói thực bây giờ tôi chẳng còn tin gì cái đảng cộng sản này, nó là một đảng ăn cướp chứ không còn là đảng lãnh đạo nhà nước và xã hợi nữa, nó từ cấp cơ sở đến cấp trung ương rồi. Nói thực qua cuộc chiến đồng đội của tôi hy sinh rất nhiều, biết bao nhiêu người đã chết ở Quảng Trị, Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, xương máu của đồng đội tôi đổ xuống sông xuống biển hết, nó chả mang lại ý nghĩa gì cả. Sau khi đã có độc lập tự do rồi những người như chúng tôi, là những người có công, lại trở thành người mất hết không còn gì cả. Trong quá trình 20 năm khiếu kiện ròng rã như thế tôi mới được biết người đi khiếu kiện ở cấp trung ương là rất đông, phải tới 2/3 là những trường hợp gia đình có công với cách mạng đang bị trù dập..
Đó là một trong những lý do mà cựu binh Võ Văn Tạo, vốn may mắn được hoàn cảnh học tập và sinh hoạt thuận lợi hơn anh em đồng ngũ khác, không bao giờ muốn vào đảng mà chỉ muốn làm một cây bút phản biện như đang làm:
Năm 1972 tới có mặt tại chiến dịch “mùa hè đỏ lửa” tôi có mặt 14 tháng trong Quảng Trị. Tóm lại tôi có tham gia cuộc chiến đầy đủ từ lúc trinh sát cho đến lúc kết thúc. Khi về trường đại học tôi đã nghiên cứu về chủ nghĩa Mác với một tư duy phân tích độc lập và một số anh em chúng tôi biết cái đó là sai lầm rồi cho nên là tôi không vào đảng.
Tôi chỉ mong một đất nước Việt Nam làm sao để xứng đáng như hồi chúng tôi bắt đầu hăm hở vượt Trường Sơn đi vào Nam, và sau này tiến lên chủ nghĩa xã hội như đảng và nhà nước tuyên truyền là ưu việt.
Từ năm 75 đến giờ thì đất nước đã vượt qua những giai đoạn tăm tối nhất nhưng so với thế giới thì vẫn tụt hậu. Kinh tế phát triển đã chậm mà xã hội có nhiều bất ổn đẻ ra từ một cơ chế không có đối lập không có đa nguyên không có cạnh tranh chính trị cho nên kết quả không được như chúng tôi mong muốn.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến đã kết thúc cách đây 42 năm thì rất buồn bởi đó là cái bi kịch lớn của dân tộc.Trong mặt trận ở Quảng Trị, chỉ trong một mùa hè mà gần 30.000 người ngã xuống thì tôi cảm thấy như mình mắc nợ anh em, mình còn sống mà để cho đất nước mình như thế này. Cho nên còn một ngày thì tôi còn cố gắng góp ý để cho đất nước mình không tụt hậu, không xa lạ, không dị hợm với nhân loại tiến bộ. Để cho con cháu mình nở mày nở mặt và đồng đội của tôi nằm dưới suối vàng cũng mát lòng mát dạ.
- Cựu binh Nguyễn Khắc Toàn
Sau cùng là cựu binh Nguyễn Đức Giang, không đi B tức không vào miền Nam
vì còn nhỏ tuổi, nhưng sau này có tham gia trận chiến biên giới phía
bắc 1979, nói rằng sau 30 tháng Tư 75 ông đã đủ lớn để nhìn thấy và
hiểu biết về miền Nam Việt Nam thông qua những thứ mà các anh chị bộ đợi
trở về và mang theo như những chiến lợi phẩm:
Nghe các anh chị bộ đội kể lại trong cuộc chiến thì báo chí, đài, cứ
ca ngợi giải phóng miền Nam là giải phóng đồng bào khỏi ách thống trị
của Việt Nam Cộng Hòa, của đế quốc Mỹ. Nhưng mà sau khi giải phóng miền
Nam xong thì các sĩ quan quân đội từ tiểu đoàn, trung đoàn trưởng là bê
ra Bắc nào Tivi, tủ lạnh, quạt, xe máy...Còn lính tráng không được phép
mang thì bổ xà phòng ra rồi giấu đồng hồ trong đấy. Một cái đồng hồ hồi
ấy mang ra có thể có giá trị hàng cây vàng, bán một cái quạt Sanyo là có
thể đổi lấy được một cái nhà ở nông thôn.
Ngoài Bắc sau 75 thì đồ miền Nam mới được xài nhiều chứ ngày xưa làm
gì có tivi để xem. Băng nhạc thì nhiều nhà có điều kiện hoặc có bà con
trong Nam ra là bắt đầu mang ra những giàn Akai, loa Pioneer, thế là bật
nhạc tiền chiến nghe thích lắm. Cũng chỉ nghe nhỏ thôi, nghe to là công
an nó đến tịch thu, không cho nghe nhạc vàng.
Tôi thấy cuộc chiến này là anh em đánh nhau, huynh đệ tương tàn chứ
chả phải giải phóng miền Nam gì cả. Đến giờ phút này tôi thấy đất nước
dưới chế độ cộng sản thì càng ngày dân chúng càng bất bình, nhưng có
điều là có người dám lên tiếng và có người không dám lên tiếng.
Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/northern-soldiers-forty-two-years-after-war-tt-04272017113113.htmlTẠ QUANG KHÔI * KÝ GIẢ NẰM VÙNG
KÝ GIẢ NẰM VÙNG
TẠ QUANG KHÔI
Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen.
I.NGUYỄN NGỌC LƯƠNG
Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ. Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát thanh Saigon. Tôi liền nói :
“Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay. Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao.”
Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản ? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ông không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng báo nào. Một hôm, Ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được giấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975.
Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon.
Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ngay cả vợ ông cũng đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị Mỹ bỏ rơi.
Cuối cùng Lương qua đời vì bệnh ung thư.
II. VŨ HẠNH
Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An ?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An ?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi ? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy ?
Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xúất bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.
Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nàm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh :”Anh em văn nghệ chỉ quen dùng bút, chư có biết chơi súng đâu.” Hạnh lườm xéo Tuấn rồi bỏ đi.
Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ :”Totalement decu !” (hoàn toàn thất vọng). Tôi không dám có ý kiến gì vì khi ở với cộng sản, ta không thể tin bất cứ ai trừ những người thân trong gia đình. Sau đó ít lâu, một người bạn giầu có của tôi cho biết anh cộng tác với Vũ Hạnh để mở một gánh hát cải lương. Tôi không quan tâm mấy nên không hỏi thêm điều gì, vì lúc đó vợ tôi đang ốm nặng. Dường như gánh hát thất bại nên ít lâu sau lại nghe tin Hạnh lập xưởng làm xà bông. Tất nhiên cũng phải có người bỏ vốn. Tôi thắc mắc tại sao Hạnh thân cộng, nằm vùng, mà sau khi chiếm được miền Nam cộng sản không dùng Hạnh khiến ông long đong phải làm hết việc này đén việc khác để kiếm sống ? Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi tôi đang tìm đường vượt biên, một hôm tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao ở nhà bưu điện Saigon. Giao là thư ký tòa soạn tờ nguyệt san Văn trước năm 1975 mà Nguyễn Đình Vượng là chủ nhiệm. Giao và tôi ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình đồng hương nữa. Chúng tôi cùng sinh trưởng ở Nam Ðịnh. Vì lâu không gặp nhau, chúng tôi ngồi ngay xuống bậc thềm nhà bưu điện để nói chuyện. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng tôi thì thầm cho Giao biết tôi đang tìm đường vượt biên. Ông liền hỏi tôi có biết Vũ Hạnh cũng đang tìm đường vượt biên không ? Tôi ngạc nhiên hỏi :
”Nó mà cũng vượt biên ?”
Giao lắc đầu và cho biết Hạnh tìm đường cho các con Hạnh thôi. Rồi Giao cười, nửa đùa nửa thật :
“Thằng ấy mà ra khỏi nước thế nào cũng bị người ta quẳng xuống biển.”
Rồi Giao nói thêm :
“Ngay cả việc giới thiệu cho con nó đi thôi cũng không dám, lỡ nó tố cáo với công an tổ chức vượt biên thì mệt lắm.”
Có một điều rất ngạc nhiên là từ khi ra khỏi nước, sống ở hải ngoại, tôi không hề nghe ai nhắc tới Vũ Hạnh nữa, kể cả những bạn văn nghệ còn sống ở Việt Nam. Cho đến nay tôi không hiểu Hạnh còn sống hay đã chết ?
Nhà văn thứ ba bị coi là nằm vùng cho cộng sản là Ngọc Linh. Khi viết truyện cho nhật báo Hồa Bình, cứ hai ba hôm tôi lại phải ghé tòa báo để đưa bài. Lần nào tôi cũng gặp Ngọc Linh. Ông làm thường trực trong ban biên tập, đồng thời viết cả truyện dài cho báo. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả hâm mộ. Ông có truyện đã được đưa lên sân khấu cải lương và quay thành phim, như truyện “Ðôi Mắt Người Xưa”. Một hôm tôi ghé tòa soạn Chính Luận để đưa bài, một nhân viên tòa soạn hỏi tôi có biết Ngọc Linh là cộng sản nằm vùng không ? Tôi hơi ngạc nhiên vì quả thật tôi không bao giờ nghĩ rằng Ngọc Linh lại có thể là một cán bộ cộng sản. Ông có một cuộc sống rất sung túc và rất…tiểu tư sản. Ông đi xe hơi Nhật mới toanh, là chủ một phòng tập dưỡng sinh (không rõ là Tai chi hay Yoga ?) Truyện ông viết rất ướt át đày tình cảm. Ông biết rõ lập trường chống cộng của tôi mà vẫn thân mật với tôi. Ông đã giới thiệu nhà xuất bản in sách của tôi.
Rồi chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông mới tỏ ra thân cộng. Ông tích cực họat động cho hội Văn Nghệ Sĩ cộng sản. Một hôm, tôi tình cờ gặp ông giữa đường, lúc đó ông không còn lái xe hơi nữa mà đi xe đạp, tôi vui vẻ chào ông mà ông ngoảnh mặt làm ngơ như chưa từng biết tôi là ai. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ra ngay. Tôi không buồn mà cũng chẳng giận ông. Ít lâu sau thì nghe tin ông bị tai biến mạch máu não và qua đời.
Trong giới văn nghệ Saigon, người ta cũng đồn nhà văn Sơn Nam nằm vùng. Tôi không thân với Sơn Nam, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở tòa báo Chính Luận khi cùng đến đưa bài. Chúng tôi lạnh nhạt chào nhau một cách xã giao. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tôi thấy ông cũng không có gì thay đổi.
Người cuối cùng nằm vùng trong làng báo Saigon mà tôi biết là Thái Bạch. Tôi chỉ gặp Thái Bạch có hai lần. Lần thứ nhất ở tòa báo Tự do vào năm 1955, rồi ông mất tích luôn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi họp các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ Ðại Hàn cũ, ông xuất hiện và có đeo súng lục bên hông với vẻ mặt vênh váo.
Tổng số những nhà văn nhà báo nằm vùng cho cộng sản hay thân cộng, tôi chỉ biết có thế thôi. Nhưng tôi thắc mắc về hai chữ “nằm vùng”. Theo tôi hiểu thì “nằm vùng” là có hoạt động cho cộng sản, chống lại chính quyền quốc gia miền Nam. Ngay cả Nguyễn Ngọc Lương là người được cộng sản gài theo dân Bắc di cư vào Nam và có cấp bậc thượng tá và là đảng viên đảng cộng sản, tôi cũng không thấy có hoạt động gì có lợi cho cộng sản. Không những thế, ông còn làm trong phòng bình luận của đài phát thanh Saigon. Nhân viên của phòng này có nhiệm vụ viết những bài ca tụng hoặc giải thích mọi việc làm của chính phủ. Một biên tập viên của chính phòng đó một hôm nói đùa với tôi rằng họ làm công việc “mẹ hát con khen hay”. Lương cũng phải viết những bài theo lập trường đó, không thể viết ngược lại được. Người ta chỉ biết ông là cộng sản khi ông bị công an Saigon bắt mấy lần.
Ðối với những người “nằm vùng” hay thân cộng, tôi không được đọc một bài viết chống chính phủ quốc gia hay ca tụng cộng sản nào. Như vậy, có thật họ nằm vùng hay chỉ ngấm ngầm thân cộng thôi ? Nếu chỉ là thân cộng hay có cảm tình với cộng sản thì tôi dám nói rằng trước 30 tháng 4 năm 1975, đa số người Nam có cảm tình với cộng sản vì nhiều gia đình có thân nhân tập kết ra Bắc. Rồi chỉ sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam và giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam họ mới vỡ mộng. Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang :
“Mày biết không ? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.”
Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp :
“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ.”
III. VŨ BẰNG
Trường hợp Vũ Bằng
Sau khi ông Vũ Bằng qua đời, thân nhân của ông ở Hà Nội tìm cách chứng minh ông được cử vào Nam nằm vùng cho cộng sản. Mục đích của việc chứng minh này là con cháu được hưởng tiền tử tuất và trợ cấp. Tôi không hiểu vấn đề tiền bạc ra sao, nhưng sự liên hệ giữa ông và tôi ở Saigon trước năm 1975 khá thân mật.
Khi tôi làm hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Trãi, ông xin cho hai đứa con nhỏ vào lớp đệ Lục. Theo nguyên tắc, học sinh muốn vào học một trường công lập phải dự thi tuyển, một cho lớp đệ Thất và một cho lớp đệ Tam. Có trúng tuyển mới được vào học. Thoạt tiên tôi không biết ông là ai, dù tôi đã từng đọc văn ông từ lâu. Ông là một nhà văn lớp tiền chiến, tôi coi như bậc chú bác. Nhà ông ở trước cửa Kho Năm, Khánh Hội. Tôi cũng không ngờ ông còn con nhỏ như vậy. Trước khi ông gặp tôi, một thư ký của văn phòng nhà trường cho biết một người tên là Vũ Bằng muốn xin học cho con. Nhân viên này cũng nói rõ ông là một nhà văn. Khi nghe nói là nhà văn Vũ Bằng, tôi vội chạy ra gặp ông ngay. Sau đó, tất nhiên tôi cho hai con ông vào ngang, vì tôi là một độcgiả hâm mộ ông từ lâu.
Ngay buổi tối hôm đó, ông theo một thư ký văn phòng nhà trường đến nhà tôi để cho tôi hai chai Martell cổ lùn. Tôi rất ngạc nhiên và cương quyết không nhận. Nhưng khi ra về, ông cứ để lại hai chai rươu. Lúc bắt tay từ biệt ông, tôi báo cho ông rõ là hai đứa nhỏ ngày mai sẽ bị đuổi ra khỏi trường nếu ông không đem hai chai rượu về. Thế là ông vội vàng chạy trở vào nhà để lấy rượu.
Sau đó, thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp ông, nhưng không dám xuồng xã vì vẫn coi ông là bậc đàn anh, lớp cha chú. Có lần tình cờ tôi gặp ông trong một tiệm phở khi ông đang ngồi chung bàn với mấy nhà văn Saigon. Ông vồn vã kéo tôi ngồi cạnh ông. Tiệm phở này ở đường Võ Tánh. Chồng bà chủ tiệm mới chết vì ung thư. Bà còn trẻ và cũng vào loại xinh đẹp. Vũ Bằng vui vẻ nói với mọi người :
“Tôi có một vế câu đối, ai đối được sẽ có thưởng. Câu đó như sau : Em chẳng thích tái vè, tái nạm, còn tái giá xin anh đừng mong đợi.”
(Đã bốn chục năm qua, tôi không còn nhớ chắc câu đối có hoàn toàn đúng như vậy không ?)
Mọi người cười vui, nhưng lúc đó không ai đối được.
Trong thời gian ở Saigon trước 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Bằng viết nhiều tùy bút (nay người ta gọi là Tạp ghi ?) đăng trên các báo văn nghệ của Saigon. Tôi là một độc giả trung thành của ông nên thường tìm đọc bài ông viết. Những bài tôi được đọc không có một dấu hiệu thân cộng nào.
Theo lời Cụ Tam Lang Vũ Đình Chí, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, ông Vũ Bằng tổ chức một buổi họp mặt với các văn nghệ sĩ cũ, mời cả mấy người mới từ Bắc vào. Nhưng buổi họp không thành vì Tố Hữu đến chỉ vào mặt Vũ Bằng mà mắng là ngụy, rồi bỏ về. Thi sĩ Xuân Diệu cũng tới nhưng thấy Tố Hữu làm dữ thì cũng bỏ về.
Như vậy, có đúng Vũ Bằng là một cán bộ cộng sản nằm vùng không ?
BỔ TÚC CỦA BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG
I. VŨ BẰNG
Cuối năm 1948, Vũ Bằng trở về Hà Nội, bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới tình báo cách mạng. Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và con trai ở Hà Nội (năm 1967, bà Quỳ qua đời) và tiếp tục hoạt động cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
Vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc, mãi
đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động cách mạng và được
truy tặng huân chương nhà nước [3]. Ở Sài Gòn, ông lập gia đình với bà Phấn.
Ông mất lúc 4 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4 năm 1984[1] tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 71 tuổi. Ngày 13 tháng 2 năm 2007, nhà văn Vũ Bằng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. WIKIPEDIA
Ông Vũ Hoàng Tuấn, con trai trưởng của nhà văn kể lại: Năm 1954, hai mẹ
con anh xuống Hải Phòng để tiễn Vũ Bằng xuống tàu vào Nam. Tuấn lúc đó
mới mười mấy tuổi, cứ nằng nặc đi theo bố.
Ông bảo con: Nước độc lập rồi. Con còn phải ở nhà học chứ! Hai năm nữa sau Hiệp định thống nhất, lúc đó bố lại về với con”... Hai mẹ con bà Quỳ đã gạt nước mắt trở về Hà Nội đợi ngày tái ngộ... Nhưng đất nước bị kẻ thù chia cắt lâu dài. 21 năm chia ly ấy đã làm ông khắc khoải trong văn chương một nỗi nhớ Hà Nội, nơi có người vợ tảo tần và đứa con đầu lòng như đã biết.
Và trong lòng Sài thành, Vũ Bằng tiếp tục âm thầm làm sứ mệnh của người chiến sĩ tình báo. Đại tá Trần Văn Hội là người phụ trách lưới tình báo đã xác nhận điều đó. Nghề tình báo là thế. Đơn độc và cô đơn giữa đất nước mình, giữa gia đình, bạn bè mình... Và Vũ Bằng là một điển hình về đức hy sinh của người chiến sĩ như vậy.
Đại tá tình báo Trần Văn Hội cho biết, sau giải phóng hơn một năm thì gặp lại Vũ Bằng, thấy gia đình nheo nhóc, liền đến cơ quan đề nghị trợ cấp cho Vũ Bằng hơn tạ gạo. Cẩn thận, ông viết cho Vũ Bằng giấy xác nhận là thành viên cơ sở trong mạng lưới tình báo do ông phụ trách nay đã hoàn thành nhiệm vụ. Đưa giấy xác nhận, rồi ông nói với Vũ Bằng rằng cứ sinh sống bình thường, nếu ai hỏi gì đã có bằng chứng ấy. Ông Trần Văn Hội cùng vợ con ra Hà Nội sinh sống. Ông cũng không ngờ, khi xa nhau, Vũ Bằng ở lại phải chịu nhiều nỗi truân chuyên đến thế...
Nhà văn Văn Giá kể: Tôi có gặp trực tiếp hỏi ông Hội rằng thế khi hai ông xa nhau, Vũ Bằng không liên lạc gì với ông sao, ông cho biết ngày đó Bắc Nam cách trở, tuổi cao sức yếu, chả có liên lạc thư từ gì, thì vẫn cứ yên tâm rằng Vũ Bằng yên ổn...
Nỗi oan của nhà báo Vũ Bằng đã được giải, có công của nhà phê bình văn học Văn Giá. Đó là hành trình tìm được đồng đội và người chỉ huy năm xưa đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho Vũ Bằng. Từ năm 2000, nhà báo Vũ Bằng đã được công nhận chính thức là chiến sĩ tình báo có bí danh X10, và được tổ chức biệt phái vào Nam năm 1954.
Ông được xác nhận và được Nhà nước truy tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật... Nhà văn Triệu Xuân - Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Văn học tại TP Hồ Chí Minh cho biết thêm: Trong kỷ yếu nhà văn in năm 2007, Vũ Bằng được công nhận là Nhà văn trước khi thành lập hội 1957...
Bây giờ lúc kỷ niệm 100 năm sinh thì Vũ Bằng đã về miền cát bụi chẵn 30 năm, mang theo nhiều bí ẩn về chính cuộc đời và nghiệp chướng của mình. Nhưng tôi tin lịch sử vốn công bằng. Hy vọng sẽ có lúc những sự thật và bí ẩn ấy được sáng rõ, để chân dung nhà báo Vũ Bằng lung linh hơn, rực rỡ hơn...
Ông bảo con: Nước độc lập rồi. Con còn phải ở nhà học chứ! Hai năm nữa sau Hiệp định thống nhất, lúc đó bố lại về với con”... Hai mẹ con bà Quỳ đã gạt nước mắt trở về Hà Nội đợi ngày tái ngộ... Nhưng đất nước bị kẻ thù chia cắt lâu dài. 21 năm chia ly ấy đã làm ông khắc khoải trong văn chương một nỗi nhớ Hà Nội, nơi có người vợ tảo tần và đứa con đầu lòng như đã biết.
Và trong lòng Sài thành, Vũ Bằng tiếp tục âm thầm làm sứ mệnh của người chiến sĩ tình báo. Đại tá Trần Văn Hội là người phụ trách lưới tình báo đã xác nhận điều đó. Nghề tình báo là thế. Đơn độc và cô đơn giữa đất nước mình, giữa gia đình, bạn bè mình... Và Vũ Bằng là một điển hình về đức hy sinh của người chiến sĩ như vậy.
Đại tá tình báo Trần Văn Hội cho biết, sau giải phóng hơn một năm thì gặp lại Vũ Bằng, thấy gia đình nheo nhóc, liền đến cơ quan đề nghị trợ cấp cho Vũ Bằng hơn tạ gạo. Cẩn thận, ông viết cho Vũ Bằng giấy xác nhận là thành viên cơ sở trong mạng lưới tình báo do ông phụ trách nay đã hoàn thành nhiệm vụ. Đưa giấy xác nhận, rồi ông nói với Vũ Bằng rằng cứ sinh sống bình thường, nếu ai hỏi gì đã có bằng chứng ấy. Ông Trần Văn Hội cùng vợ con ra Hà Nội sinh sống. Ông cũng không ngờ, khi xa nhau, Vũ Bằng ở lại phải chịu nhiều nỗi truân chuyên đến thế...
Nhà văn Văn Giá kể: Tôi có gặp trực tiếp hỏi ông Hội rằng thế khi hai ông xa nhau, Vũ Bằng không liên lạc gì với ông sao, ông cho biết ngày đó Bắc Nam cách trở, tuổi cao sức yếu, chả có liên lạc thư từ gì, thì vẫn cứ yên tâm rằng Vũ Bằng yên ổn...
Nỗi oan của nhà báo Vũ Bằng đã được giải, có công của nhà phê bình văn học Văn Giá. Đó là hành trình tìm được đồng đội và người chỉ huy năm xưa đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho Vũ Bằng. Từ năm 2000, nhà báo Vũ Bằng đã được công nhận chính thức là chiến sĩ tình báo có bí danh X10, và được tổ chức biệt phái vào Nam năm 1954.
Ông được xác nhận và được Nhà nước truy tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật... Nhà văn Triệu Xuân - Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Văn học tại TP Hồ Chí Minh cho biết thêm: Trong kỷ yếu nhà văn in năm 2007, Vũ Bằng được công nhận là Nhà văn trước khi thành lập hội 1957...
Bây giờ lúc kỷ niệm 100 năm sinh thì Vũ Bằng đã về miền cát bụi chẵn 30 năm, mang theo nhiều bí ẩn về chính cuộc đời và nghiệp chướng của mình. Nhưng tôi tin lịch sử vốn công bằng. Hy vọng sẽ có lúc những sự thật và bí ẩn ấy được sáng rõ, để chân dung nhà báo Vũ Bằng lung linh hơn, rực rỡ hơn...
Những người am hiểu Vũ Bằng từ khi nhà văn vào Nam mà tôi đã gặp đều
khẳng định: Vũ Bằng là một con người chân chính, một nhà văn yêu nước,
có tấm lòng son sắt với Hà Nội. Khi ông lâm bệnh cho đến lúc trút hơi
thở cuối cùng, gia cảnh ông vô cùng túng thiếu. Đó là những năm cả nước
thiếu lương thực, Vũ Bằng và vợ con ông (ông lấy người vợ thứ hai sau
khi vào Nam vài năm) thường xuyên bị thiếu ăn. Ông Thượng Sỹ Nguyễn Đức
Long (vừa qua đời năm 1998), người bạn thân với Vũ Bằng từ hồi còn ở Hà
Nội - đã giúp tôi rất nhiều trong việc sưu tầm tư liệu về Vũ Bằng. Trong
câu chuyện hồi đầu tháng 5-1992, ông Thượng Sỹ có nói đến một tờ Giấy
xác nhận của một đơn vị tình báo quân đội rằng Vũ Bằng là cơ sở của một
mạng lưới tình báo quân đội hoạt động tại Sài Gòn. Ông Thượng Sỹ nói:
"Khoảng Tết năm 1976, Bằng có khoe với tôi chuyện đó với vẻ mặt rất
buồn! Bằng nói: Đơn vị có tư giấy về Quận, nhưng dường như người ta bận
nhiều việc quá cho nên chẳng thấy đả động gì!". Ông Thượng Sỹ nói tiếp:
"Thời kỳ đó, người ta lũ lượt vượt biên tìm đất sống, tôi biết Bằng rất
buồn vì thế sự, nên không thấy đả động đến chuyện đó nữa".
Tôi đã hỏi chuyện nhiều nhà văn, nhà báo hoạt động tại Sài Gòn, ai cũng
bảo: "Ông Vũ Bằng là người của mình đấy!". Nhưng tôi hỏi chi tiết thì ai
cũng lắc đầu: Không thể biết!
Về chuyện Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo, anh Vũ Hoàng Tuấn, con trai duy
nhất của Vũ Bằng với bà Quỳ, có giao cho tôi nhiều tài liệu, trong đó
nổi bật nhất là Giấy xác nhận của ông Trần Văn Hội, đại tá, nay về hưu ở
Hà Nội, là cấp chỉ huy trực tiếp của Vũ Bằng. Giấy xác nhận này làm
ngày 10-1-1976 và chính là cái giấy mà ông Thượng Sỹ đã từng nhắc đến
với tôi hồi tháng 5-1992. Nội dung chính: "Tôi, Trần Văn Hội, cán bộ ở
đơn vị 1752, Bộ Tổng tham mưu Quân đội NDVN, hoạt động tại thành phố Hồ
Chí Minh từ 1954 đến 1969, phụ trách một bộ phận công tác nội thành,
chứng nhận: Ông Vũ Bằng, Nhà văn, hiện cư ngụ tại số 476 đường Trịnh
Minh Thế, Sài Gòn, quận 4 - là một cơ sở quan hệ công tác từ thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Ông vào miền Nam năm 1954 và tiếp tục liên lạc
với tôi suốt trong thời gian tôi công tác tại Sài Gòn. Sau ngày hoàn
toàn giải phóng, tổ chức đã giới thiệu ông với địa phương (thành phố Hồ
Chí Minh) để ông có thể tiếp tục phục vụ được cho cách mạng… Ông có
người con trai lớn ở Hà Nội là anh Vũ Hoàng Tuấn". Thủ trưởng của đơn vị
1752 là trung tá Nguyễn Đắc Thân đã ký xác nhận trên giấy này.
Anh Tuấn kể: "Những năm mới hòa bình, tôi đã nhiều lần mời bố tôi ra
thăm Hà Nội, thắp nhang cho mẹ tôi. Bố nhìn tôi không nói gì, hỏi gặng
mới nói: "Bố muốn về lắm! Nhưng anh biết đấy, bố về với tư cách gì?!".
Mang tâm trạng đó, không rõ Vũ Bằng, một người trọng sĩ diện, có chờ đợi
tổ chức làm rõ danh phận hay không, chỉ biết ông qua đời trong túng
thiếu, trong cô đơn…
Vũ Bằng chết, con ông đến một tòa soạn đăng cáo phó (mất tiền). Tòa soạn
này đồng ý đăng nhưng nhất quyết không cho đăng hai chữ Nhà văn trước
tên của Vũ Bằng! Thành thử nội dung tin buồn chỉ vẻn vẹn có vài chữ:
"Ông Vũ Bằng sinh ngày… mất ngày…". Đám tang của ông thật vắng người
đưa!
Khi Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh tái bản cuốn
Thương nhớ mười hai, người ta đã bỏ đi lời đề từ trên đầu sách: "Bắt đầu
viết thì là thương…". Bỏ đi lời đề từ ấy, có khác nào không cho Vũ Bằng
thắp nén hương khóc vợ ông?!
Năm 1992, tôi hợp tác với Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin để tái bản tác
phẩm "Bốn mươi năm nói láo" - Một cuốn hồi ký rất có giá trị văn học, sử
học về một giai đoạn văn chương, báo chí Việt Nam. Tôi làm việc này
trước hết vì yêu quý Vũ Bằng là một nhà văn lớn, một người làm báo giỏi,
thiết tha yêu nước thương nòi. Cuốn hồi ký nổi tiếng Bốn mươi năm nói
láo ấy, khi phát hành được năm ngày thì… chỉ có một hai ý kiến thôi,
không có văn bản gì, sách đã bị giam trong kho không được bán suốt từ
năm 1993 đến nay! Hương hồn nhà văn Vũ Bằng nơi chín suối có biết chăng
chuyện trớ trêu trên?
Có rất nhiều người yêu mến Vũ Bằng, đã bỏ công sức tìm hiểu lai lịch đời
hoạt động cách mạng của Vũ Bằng. Đã có nhiều bằng chứng cho thấy không
phải Vũ Bằng "dinh tê, di cư, phản bội", mà là ông nhận nhiệm vụ hoạt
động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952. Đại tá Trần Văn
Hội - thủ trưởng trực tiếp của Vũ Bằng, đang nghỉ hưu tại Hà Nội, đại tá
Nguyễn Mạnh Khoát là thủ trưởng trực tiếp của ông Hội, đang nghỉ hưu
tại 44A đường Cửu Long, Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình thành phố Hồ Chí
Minh, là hai người đã từng chỉ huy, làm việc trực tiếp với nhà văn Vũ
Bằng thời kỳ Vũ Bằng "di cư". Cả hai ông đều khẳng định Vũ Bằng là một
tình báo viên, và đề nghị Nhà nước công nhận điều này!
Hiện có nhiều người còn sống xác nhận Vũ Bằng là người của Việt Minh
ngay từ những năm 1944-1954, hoạt động trong tầng lớp trí thức văn nghệ
sĩ. Ông Nguyễn Văn Tỉnh, tức Nguyễn Văn Lang, nguyên cán bộ thành ủy Hà
Nội, nguyên thành viên tổ công tác đặc biệt của Công an Hà Nội những năm
1944-1954, năm nay 78 tuổi, nghỉ hưu tại tổ 24 phường Phú Thượng, quận
Tây Hồ, Hà Nội, cùng hoạt động với Vũ Bằng, đã viết thư cho ông Trần
Quốc Hương (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, chỉ huy mạng lưới tình báo,
đã nghỉ hưu - người chỉ huy cấp cao của ông Lang, ông Bằng), đề nghị ông
Hương cùng thúc đẩy tiến trình công nhận tư cách vẻ vang của Vũ Bằng và
các bạn chiến đấu của Vũ Bằng.
Nhờ những nỗ lực của những người yêu mến Vũ Bằng, vấn đề Vũ Bằng đã được
Hội Nhà văn Việt Nam cử người xác minh, dù quá muộn màng!
Tháng 3-2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng đã có văn
bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo. Hy vọng rằng ở nơi
chín suối, hương hồn nhà văn Vũ Bằng sẽ thanh thản sau những năm dài tủi
hận!
(Triệu Xuân . VŨ BẰNG – Người lữ hành đơn côi : Tựa VŨ BẰNG tòan tập)
II. VŨ HẠNH
Trước khi đi vào câu chuyện Đào Hiếu gọi Vũ Hạnh là Vô Hạnh, tôi xin đưa
ra vài sự kiện Vũ Hạnh đã ăn cháo đá bát đối với văn nghệ miền Nam
trước bảy lăm:“”
- Vũ Hạnh hoạt động năm vùng cho Việt Cộng, len lỏi trong danh xưng văn nghệ sĩ, trong Hội Văn Bút Việt Nam, lúc đó nhà văn linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch văn bút Việt Nam Cộng Hòa. Khi an ninh điều tra biết Vũ Hạnh là Việt cộng nằm vùng, ông bị bắt giam ở Suối Máu Biên Hòa. Ông đã dùng danh nghĩa Hội viên hội Văn Bút Việt Nam, nhờ Linh Mục Thanh Lãng vận động cho ông được thả ra. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, ông đã dùng ngoài bút mình đánh phá văn nghệ miền Nam, lên án và chửi rủa tất cả c1c nhà văn miền Nam , gọi đó là nền văn hóa phản động đồi trụy.
- Ở trong nước, khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư viết cuốn Cánh Đồng Bất Tận, một tác phẩm được đánh giá từ nhiều phía, phần đông được cho là có giá trị. Sau đó Cánh Đồng Bất Tận được Nan Hàn dịch ra tiếng Hàn và có ý định quay thành phim. Vũ Hạnh là nhà văn lên tiếng phản đối sự việc này. Báo trong nước kể lại sự việc này như sau: Mở đầu buổi hội thảo là tiếng nói của nhà văn Vũ Hạnh, ông không "góp ý" cho tờ báo mà xoay qua phê phán việc Hàn Quốc dịch cuốn Cánh Đồng Bất Tận, dịch một cốt truyện phản động như thế mà báo chí lại ca ngợi, lại phê luôn phim Áo Lụa Hà Đông có cảnh Việt Cộng pháo kích làm chết dân thường mà được nhiều giải thưởng.”
- Rồi đến chuyện nhà xuất bản - công ty Phương Nam xuất bản các sách của nhà văn miền Nam trước bảy lăm là Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hạnh cũng đem sự việc này lên bàn mổ. Báo trong nước thuật lại sự việc này, Vũ Hạnh đã lên tiếng phản đối với những lời lẽ như sau:
“Khi đem in lại 4 quyển sách của ông Dương Nghiễm Mậu, Giám đốc Công ty Phương Nam cho rằng điều đó "đáp ứng tiêu chí của người xuất bản", vì trải qua những thăng trầm, đổi thay, các sách này vẫn giá trị và vẫn bán được.
Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần.
Chúng ta đều biết phản động và đồi trụy là những đặc điểm nổi bật mà chế độ cũ vận dụng để làm tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược. Nếu nhiều quyển sách của Dương Nghiễm Mậu nổi bật là tính phản động thì sách Lê Xuyên là tính đồi trụy. Phải nhìn nhận rằng, thời chế độ cũ, không ai quan niệm sách của Lê Xuyên thuộc loại văn chương, bởi sự dễ dãi về mặt bút pháp và sự tồi tệ về mặt nội dung.
Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi... "
Vũ Hạnh đã phá luôn nhà nghiên cứu phê bình trong nước là Phạm Xuân Nguyên, khi ông Nguyện viết có ý khen nhà văn Dương Nghiễm Mâu. Vũ Hạnh viết tiếp:
'Và rất nhiều người đã thực sự giật mình khi đọc những dòng sau đây của Phạm Xuân Nguyên trên tờ Thể thao và Văn hóa (ngày 13-4-2007): "Đọc Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt, lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào...'.
Ông Dương Nghiễm Mậu hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào thì chúng ta đã rõ, ngoại trừ ông Phạm Xuân Nguyên và những người chủ trương đưa sách của ông Dương Nghiễm Mậu đến với đông đảo bạn đọc.
Vũ Hạnh hay Vô Hạnh!
Những hành động hận thù nền văn hóa miền Nam trước bảy lăm khiến Vũ Hạnh, sau ngày 30 tháng tư bảy lăm đã lồng lên, như con chó điên lên những tiếng khủng khiếp, nào là đó là nền văn hóa phản động, đồi trụy, tàn dư của Mỹ Ngụy. Ông đã cùng một số văn nô của chế độ như Trần Trọng Đăng Đàn, Hoàng Vũ Ngọc Tường gầm thét kết án nền văn học miền Nam, nơi mà ông đã được nuôi dưỡng ông, ông được dạy học, được viết một cách tự do và nổi tiếng.
Chuyện Vũ Hạnh là Vô Hạnh được nhà văn Đào Hiếu viết trong Lạc Đường như sau:
“Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài Gòn nêu đích danh là "cộng sản nằm vùng".
Tuy nhiên chúng tôi không thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương. Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu “giải phóng” tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong Hội đồng Đánh giá Văn học miền Nam tại Thư viện Quốc gia...
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện:
"Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi."
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn nghệ Sài Gòn thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn nghệ.
Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động “cách mạng” trong nội thành nhưng khi ở tù, ông cộng tác với phe quốc gia lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là "Vô Hạnh chui lỗ chó", vì thế "“giải phóng”" xong ông không được tin dùng nên ông "hận" những anh em văn nghệ sĩ ở rừng về, nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung vít.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù doạ mấy anh em nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được "lưu dung". Còn đối với các nhà văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào Từ điển Văn học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.”"
(Trần Yên Hòa.Vũ Hạnh hay Vô Hạnh)
- Vũ Hạnh hoạt động năm vùng cho Việt Cộng, len lỏi trong danh xưng văn nghệ sĩ, trong Hội Văn Bút Việt Nam, lúc đó nhà văn linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch văn bút Việt Nam Cộng Hòa. Khi an ninh điều tra biết Vũ Hạnh là Việt cộng nằm vùng, ông bị bắt giam ở Suối Máu Biên Hòa. Ông đã dùng danh nghĩa Hội viên hội Văn Bút Việt Nam, nhờ Linh Mục Thanh Lãng vận động cho ông được thả ra. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, ông đã dùng ngoài bút mình đánh phá văn nghệ miền Nam, lên án và chửi rủa tất cả c1c nhà văn miền Nam , gọi đó là nền văn hóa phản động đồi trụy.
- Ở trong nước, khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư viết cuốn Cánh Đồng Bất Tận, một tác phẩm được đánh giá từ nhiều phía, phần đông được cho là có giá trị. Sau đó Cánh Đồng Bất Tận được Nan Hàn dịch ra tiếng Hàn và có ý định quay thành phim. Vũ Hạnh là nhà văn lên tiếng phản đối sự việc này. Báo trong nước kể lại sự việc này như sau: Mở đầu buổi hội thảo là tiếng nói của nhà văn Vũ Hạnh, ông không "góp ý" cho tờ báo mà xoay qua phê phán việc Hàn Quốc dịch cuốn Cánh Đồng Bất Tận, dịch một cốt truyện phản động như thế mà báo chí lại ca ngợi, lại phê luôn phim Áo Lụa Hà Đông có cảnh Việt Cộng pháo kích làm chết dân thường mà được nhiều giải thưởng.”
- Rồi đến chuyện nhà xuất bản - công ty Phương Nam xuất bản các sách của nhà văn miền Nam trước bảy lăm là Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hạnh cũng đem sự việc này lên bàn mổ. Báo trong nước thuật lại sự việc này, Vũ Hạnh đã lên tiếng phản đối với những lời lẽ như sau:
“Khi đem in lại 4 quyển sách của ông Dương Nghiễm Mậu, Giám đốc Công ty Phương Nam cho rằng điều đó "đáp ứng tiêu chí của người xuất bản", vì trải qua những thăng trầm, đổi thay, các sách này vẫn giá trị và vẫn bán được.
Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần.
Chúng ta đều biết phản động và đồi trụy là những đặc điểm nổi bật mà chế độ cũ vận dụng để làm tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược. Nếu nhiều quyển sách của Dương Nghiễm Mậu nổi bật là tính phản động thì sách Lê Xuyên là tính đồi trụy. Phải nhìn nhận rằng, thời chế độ cũ, không ai quan niệm sách của Lê Xuyên thuộc loại văn chương, bởi sự dễ dãi về mặt bút pháp và sự tồi tệ về mặt nội dung.
Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi... "
Vũ Hạnh đã phá luôn nhà nghiên cứu phê bình trong nước là Phạm Xuân Nguyên, khi ông Nguyện viết có ý khen nhà văn Dương Nghiễm Mâu. Vũ Hạnh viết tiếp:
'Và rất nhiều người đã thực sự giật mình khi đọc những dòng sau đây của Phạm Xuân Nguyên trên tờ Thể thao và Văn hóa (ngày 13-4-2007): "Đọc Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt, lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào...'.
Ông Dương Nghiễm Mậu hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào thì chúng ta đã rõ, ngoại trừ ông Phạm Xuân Nguyên và những người chủ trương đưa sách của ông Dương Nghiễm Mậu đến với đông đảo bạn đọc.
*
Vũ Hạnh hay Vô Hạnh!
Những hành động hận thù nền văn hóa miền Nam trước bảy lăm khiến Vũ Hạnh, sau ngày 30 tháng tư bảy lăm đã lồng lên, như con chó điên lên những tiếng khủng khiếp, nào là đó là nền văn hóa phản động, đồi trụy, tàn dư của Mỹ Ngụy. Ông đã cùng một số văn nô của chế độ như Trần Trọng Đăng Đàn, Hoàng Vũ Ngọc Tường gầm thét kết án nền văn học miền Nam, nơi mà ông đã được nuôi dưỡng ông, ông được dạy học, được viết một cách tự do và nổi tiếng.
*
Chuyện Vũ Hạnh là Vô Hạnh được nhà văn Đào Hiếu viết trong Lạc Đường như sau:
“Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài Gòn nêu đích danh là "cộng sản nằm vùng".
Tuy nhiên chúng tôi không thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương. Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu “giải phóng” tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong Hội đồng Đánh giá Văn học miền Nam tại Thư viện Quốc gia...
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện:
"Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi."
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn nghệ Sài Gòn thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn nghệ.
Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động “cách mạng” trong nội thành nhưng khi ở tù, ông cộng tác với phe quốc gia lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là "Vô Hạnh chui lỗ chó", vì thế "“giải phóng”" xong ông không được tin dùng nên ông "hận" những anh em văn nghệ sĩ ở rừng về, nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung vít.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù doạ mấy anh em nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được "lưu dung". Còn đối với các nhà văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào Từ điển Văn học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.”"
(Trần Yên Hòa.Vũ Hạnh hay Vô Hạnh)
Vương Trùng Dương
Vũ Hạnh chim cút hoạt đầu văn nghệ
Nguyễn Đức Dũng sinh ngày 15 tháng 7 năm
1926 tại Kế Xuyên, xã Bình Nguyên, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Học
tiểu học ở quê và trung học ở Huế. Hoạt động Việt Minh từ tháng 3 năm
1945 ở Liên Khu 5, phụ trách ban kịch tuyên truyền kháng chiến. Năm
1953, ông dạy ở trường trung học Thăng Bình.
Năm 1954, ông được tổ chức phân công ở lại để hoạt động nằm vùng. Chẳng
may, người bạn đồng hương, đồng lớp là Vũ Đình, thay ông Phan Vỹ làm
quận trưởng Thăng Bình, chân tướng của Vũ Hạnh bị bại lộ, ông bị bắt
giam ở đề lao Hội An. Tại đề lao có tên cán bộ Cộng sản là Vũ Hạnh, đồng
hương, đồng chí, bạn thân của Nguyễn Đức Dũng, trưởng toán đơn vị hoạt
động bí mật đã từng thủ tiêu thành phần chống cộng và Việt Nam Quốc Dân
Đảng... Vũ Hạnh bị giam cầm và chết trong đề lao nên khi ra khỏi nơi
này, Nguyễn Đức Dũng lấy bút hiệu Vũ Hạnh để “tưởng nhớ người bạn cố
tri”. Năm 1987, ông viết bài ca tụng tên cán bộ này trên báo Công An và Tuổi Trẻ.
Năm 1956, ông vào Sài Gòn lập nghiệp, dạy học ở trường Khai Trí, Chợ Lớn
và vài trường trung học tư thục, hoạt động bí mật. Trước năm 1954, ông
sở trường về viết kịch và diễn kịch, nhận thấy bộ môn này phải xuất đầu
lộ diện nên ông chuyển sang lãnh vực sáng tác. Thời gian đầu ông gặp Lưu
Nghi, người Hội An, Quảng Nam, theo học trung học Khải Định và đại học
văn khoa, năm 1957 chủ trương nhà xuất bản Trùng Dương, cùng dạy học với nhau, nhờ Lưu Nghi giới thiệu nên Vũ Hạnh được quen biết với một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn.
Tạp chí Tin Văn
Trong quyển Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa của Cao Thế Dung đề cập đến sự xâm nhập của Cộng sản trên mặt trận văn nghệ:
“Hàng trăm điệp viên hữu hạng của Cộng sản từ Bắc vào Nam sau Hiệp Định
Genève. Số điệp viên này thuộc Phòng Đông Á Vụ và Phản Gián, hầu hết đã
có kinh nghiệm hoạt động nội thành, chia nhau xâm nhập nhiều đường dây
thuộc nhiều lãnh vực. Phan Nghị thì hành nghề ký giả sau len lỏi vào tờ Ngôn Luận và Chính Luận
(sau năm 1963). Vũ Ngọc Nhạ len lỏi vào Công giáo phía Linh mục Hoàng
Quỳnh; Nguyễn Ngọc Lương, một giáo viên tư thục ở Nam Định là kẻ đã móc
nối Vũ Hạnh (1964 cùng Vũ Hạnh xuất bản tạp chí Tin Văn và sau bí mật cộng tác với Thế Nguyên, tạp chí Trình Bày)...”
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của Võ Phiến, nhà xuất bản Văn Nghệ, Cali, ấn hành năm 1986, trang 216 ghi nhận thời điểm của tờ Tin Văn:
“Lữ Phương cùng với Vũ Hạnh cho ra tờ Tin Văn vào tháng 6 năm 1966 dưới sự lãnh đạo của cán bộ Cộng sản Nguyễn văn Bổng...”.
Thật ra, lúc đó Lữ Phương chưa nằm trong tổ chức bí mật này. Năm 1960,
Vũ Hạnh gia nhập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng và ở trong tổ chức nhà báo
yêu nước với bí danh Hoàng Thanh Kỳ. Tháng 8 năm 1966, Lực lượng Bảo vệ
Văn hóa Dân tộc thành lập, bí mật tổ chức cơ sở ngôn luận với tờ báo Tin Văn, Nguyễn Ngọc Lương làm Chủ bút và Vũ Hạnh giữ vai trò Tổng thư ký, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn văn Bổng.
Nguyễn văn Bổng cũng người Quảng Nam, lớn hơn Vũ Hạnh 5 tuổi, bước chân
vào con đường văn nghệ vào thập niên 40. Năm 1955 công tác ở Hội Văn
Nghệ Việt Nam đến năm 1962 vào Nam giữ vai trò Phó chủ tịch trong Hội
Văn Nghệ Giải Phóng. Ngoài việc “chỉ đạo” tờ Tin Văn, Nguyễn văn Bổng với bí danh Tám Nhàn, còn lãnh đạo tờ Người Việt bí mật dưới bút hiệu Lê Nguyên Trung, Vương Quế Lâm. Cuối năm 1968, bị lộ, trở ra Bắc, làm chủ nhiệm báo Văn Nghệ.
Trong tờ Tin Văn với những bài viết nòng cốt về lý luận phê bình
của Lữ Phương nên nhiều người cho rằng Lữ Phương ở trong tổ chức bí mật
tờ báo này. Thời gian từ 1964 đến tháng 4 năm 1968, Lữ Phương dạy tại
trường Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên, chỉ có Nguyễn Ngọc Lương, Vũ Hạnh,
Nguyễn Nguyên và Hà Kiều đảm trách tờ báo mà thôi. Trong bài viết Những Chuyến Ra Đi của Lữ Phương viết vào năm 1999 nhưng mãi đến năm 2008 mới được phổ biến. Lữ Phương đã đề cập đến giai đoạn này:
“... Lúc bấy giờ tôi đang học năm thứ hai ở đại học sư phạm Sài Gòn, ghi
danh học thêm hai chứng chỉ ở Văn Khoa, tiếp tục đọc thêm về triết học
hiện sinh và Mácxít, sau đó định tập trung chuẩn bị cho kỳ thi tốt
nghiệp thì chẳng may bị tai nạn gẫy chân phải nằm liệt giường suốt tám
tháng ròng rã. Trong khi đó, phong trào Phật Giáo và học sinh sinh viên
đã lên tới đỉnh cao, đưa đến cuộc đảo chính của Dương văn Minh năm 1963
lật độ được chế độ Ngô Đình Diệm. Khi trường mở lại sau một thời gian
tạm ngừng hoạt động vì biến cố nói trên, tôi đã có thể chống nạng đi học
lại được. Cũng vào năm đó tôi lập gia đình để sau khi tốt nghiệp, nhận
sự vụ lệnh xuống Long Xuyên dạy học...
... Về sau này dần dà tôi đã đoán biết được Tin Văn do Nguyễn
Ngọc Lương làm chủ bút, Vũ Hạnh và Hà Kiều điều hành chính là một trong
những tờ báo do Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo trực tiếp về đường
lối, bài vở và cả tài chính nữa.
... Vào thời gian hợp tác với tờ Tin Văn, tôi đã gặp một vài
người mà qua cung cách ăn nói, ứng xử tôi nghi là cán bộ từ ngoài vào để
chỉ đạo trực tiếp phong trào, trong số những người này có Hai Vũ (sau
này tôi biết tên thật là Tài, không rõ họ gì) là gần gũi nhất và kế đó
là một người khác mà mãi sau này tôi biết được là Nguyễn văn Bổng.
... Phong trào lên rất cao vào những năm 1966-1967 thì bị bể bạc: hầu
hết các cán bộ chỉ đạo bí mật như Hai Vũ, Hoàng Hà cùng với các nồng cốt
của những hoạt động công khai trong Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc
như Vũ Hạnh, Lê văn Giáp, Nguyễn Ngọc Lương, Thái Bạch... đều lần lượt
bị bắt. Tờ Tin Văn bị đình bản. Tên tôi đã bị báo Sống của
Chu Tử liên tục lôi ra chửi bới thậm tệ. Nhưng bấy giờ do không trực
tiếp đến tổ chức và bị khai báo nên tôi vẫn tiếp tục được công việc của
mình bằng cách hợp tác với nhóm “Công giáo cấp tiến” của Thế Nguyên.
Nhóm này có những cơ sở hoạt động rộng lớn với một nhà xuất bản và một
loạt các tạp chí như Trình BàyĐất Nước, Nghiên Cứu Văn Học cùng với nhật báo Làm Dân
có quan điểm chính trị khá rõ rệt: chống độc tài, chống sự can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam, chấm dứt chiến tranh. Sau khi đăng cho tôi một số
bài trên Đất Nước, Nghiên Cứu Văn Học, năm 1967, chính Thế Nguyên đã đề nghị tôi gom lại một số bài đã viết để nhà Trình Bày xuất bản, và đó là tập Mấy Vấn Đề Văn Nghệ.
Sau này, tôi biết Thế Nguyên đã trở thành cơ sở của cách mạng, có ra
bưng họp. Anh chết cách đây mấy năm hết sức vô lý: Dùng dao lam cắt một
mụn cóc và bị nhiễm phong đòn gánh...”
Sau Tết Mậu Thân, tháng 4 năm 1968 Lữ Phương vào bưng, ghi lại những nhân vật đã gặp:
“... Ở đây tôi gặp lại tất cả những người tôi đã quen biết từ Hoài
Hương, Nguyễn Khắc Vỹ, Lê Hiếu Đằng, Thiên Giang, Vân Trang (vợ Thiên
Giang), Nguyễn Đăng Trừng, ông bà Phú Hữu Nguyễn Thạnh Cường, Nguyễn văn
Kiết (thầy dạy tôi ở Đại Học Sư Phạm), Lê văn Giáp (chủ tịch Lực lượng
Bảo vệ Văn hóa Dân tộc ở Sài Gòn và chủ tịch Liên minh Sài Gòn sau khi
ra khu) cho đến những người tôi từng nghe tên nhưng chưa gặp mặt như
Trịnh Đình Thảo, Liên Hoa Ngô thị Phú (vợ Trịnh Đình Thảo), Lâm văn Tết,
Dương Quỳnh Hoa, Huỳnh văn Nghị (mới kết hôn với Dương Quỳnh Hoa khi
vào khu), Trương Như Tảng, Thanh Nghị, Dương Kỵ, Thanh Lan Võ Ngọc
Thành, Nguyễn văn Bửu, Hồ văn Bửu, Cao văn Bổn, Nguyễn Hữu Khương,
Lucien Phạm Ngọc Hùng, Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc... tất cả những nhân
vật trên đây đều ở chung với nhau trong một khu vực biệt lập do Huỳnh
Tấn Phát trực tiếp quản lý. Lúc tôi tới đây thì căn cứ này đang đóng ở
trên đất K, ở một khu vực gần biên giới Việt Nam gọi là Sáu Cầu...”.
Những khuôn mặt được Lữ Phương nêu trên, sau 1975 chỉ thời gian ngắn đều bị thất sủng.
Bản chất láu cá
Nói đến Vũ Hạnh, trước năm 1975, mọi người đều nhớ đến trò lường gạt,
mánh mung trong vụ “chim cút” để giàu có nhưng vấn đề làm ăn bất chính,
giới cầm bút không bận tâm đề cập nhưng với Vũ Hạnh cũng là “thành tích”
dù bất hảo!
Tháng Tư năm 1976, tháng Tư Đen với văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, hàng trăm văn
nghệ sĩ bị liệt kê vào sổ đen rồi lần lượt nhốt vào trại giam Phan Đăng
Lưu, khám Chí Hòa. Trong khi đó, Vũ Hạnh đã đạt được thời cơ, chân
tướng lộ diện, vênh váo với “thành tích” hoạt động của mình:
“Hồi trước, ở Sài Gòn, sống len lỏi với địch nhưng tôi vẫn cố tìm cách ra bưng, gặp các đồng chí lãnh đạo Thành ủy”.
Với Trần Bạch Đằng, Vũ Hạnh nhắc lại quá khứ hầu “thấy sang bắt quàng
làm họ” để lòe và hù thiên hạ. Trần Bạch Đằng, bí danh Tư Ánh, cùng tuổi
với Vũ Hạnh, trước năm 1975 đã từng đảm trách Bí thư Thành ủy Sài Gòn,
phụ trách Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Vũ Hạnh viết:
“Có một lần, đồng chí Trần Bạch Đằng gặp riêng tôi dặn dò... đồng chí cố
tìm cách khích động tinh thần dân tộc của đồng bào, đặc biệt ở vùng
thành thị, để dấy lên một phong trào bài Mỹ, may ra làm suy yếu bớt sức
mạnh của quần chúng”.
Thế nhưng, trong thời điểm tranh tối tranh sáng sau ngày 30 tháng Tư, Vũ
Hạnh được làm Tổng thư ký của Hội Văn Nghệ ở thành phố Sài Gòn, với
tham vọng của Vũ Hạnh chưa xứng đáng mà còn thiếu thực quyền. Làm thủ
quân đội bóng tròn để giải khuây.
Năm 1976, Trần Bạch Đằng chỉ là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, đến năm
1978, làm phó Ban Dân vận Trung ương, giữ vai trò lý thuyết gia nhưng
chẳng có thực quyền gì để nâng đỡ Vũ Hạnh. Và, chức vụ quá xoàng đối với
Vũ Hạnh cũng không còn nữa, không có sáng tác nào ra hồn, chỉ có khả
năng đánh phá, bôi bẩn giới cầm bút!
Với những người cùng quê và sinh hoạt văn nghệ ở Liên khu V có Nguyễn
văn Báu với bút hiệu Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, năm
1954 tập kết ra Bắc, năm 1962 vào Tây Nguyên hoạt động, sau năm 1975 trở
ra Bắc, giữ nhiều chức vụ quan trọng, sau đó bị thất sủng và nhận chân
được sự thật để lên tiếng chống đối.
Lê Khâm (1930-1995), bút hiệu Phan Tứ, con của cụ Lê Ấm (1897-1976),
từng làm Đốc Học ở trường Quốc Học Huế. Thân mẫu là bà Phan thị Châu
Liên, trưởng nữ của nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Năm 1961 trở vào Nam
hoạt động trong Ban Tuyên huấn Liên khu V cho đến năm 1966 trở ra Bắc
làm việc ở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật.
Vì vậy khi Vũ Hạnh hoạt động bí mật ở Sài Gòn, nắm được tin tức giới cầm bút để báo cáo.
Với tác phẩm Người Việt Cao Quý ký tên A. Pazzi, Vũ Hạnh vênh
váo: “Tôi phải phịa ra tên tác giả là một người ngoại quốc, một người Ý
để người ta khó truy tìm tông tích thật hư... Thế thôi! Khi quyển sách
tung ra, bán rất chạy, đến năm 1975 tái bản cả thảy 10 lần, nhưng không
ai biết là mình bị lừa cả”. Với mấy chữ “không ai biết là mình bị lừa
cả”, tư cách của nhà giáo, nhà văn mà nghĩ như vậy thì thật đểu cáng, lố
bịch.
Thật ra, độc giả thích đọc vì quyển đó viết đề cao con người Việt Nam
trong biến thiên của lịch sử. Chẳng ai quan tâm tác giả là Ý, Áo...
Trong quyển Tự Điển Danh Ngôn Đông Tây của Thanh Vân Nguyễn Duy
Nhường, xuất bản ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60, trang 50 có đề cập:
“Biết bao anh hùng đã tạo nên lịch sử của dân tộc. Ông Pazzi, người Ý,
mấy chục năm ở Việt Nam, trong cuốn “Percomprendre it Vietnam e
Việtmita” (1) có viết: “Cái giá trị của người Việt là ý chí tự cường,
bất khuất của họ... Đó là hình ảnh của một dân tộc không chịu nhục nhã,
một dân tộc kiêu hãnh về giá trị mình... Người Việt Nam là một dân tộc
duy nhất trên địa cầu đã từng chiến đấu và chiến thắng những kẻ xâm lược
có khuôn mặt lớn lao nhất trong lịch sử loài người...” (2). Và, phần
chú thích ghi như sau: (1): Tác phẩm của A. Pazzi viết năm 1965, do Hồng
Cúc dịch là Người Việt Cao Quý, có nhiều nhận xét tinh vi. Thú
thật khi đọc tác phẩm này, tôi cảm thấy sung sướng vì được người ngoại
quốc biết đến dòng máu Việt, nhưng rồi cảm giác tôi đi đến nghẹn ngào
quằn quại trong đau thương của một dân tộc có nhiều chiến công oanh liệt
nhất là dân tộc chịu qua nhiều đau thương, để luôn luôn phải làm lịch
sử, không biết bao giờ được yên hưởng thái bình. (2) Trích theo bản dịch
của Hồng Cúc.
Trong thời điểm này, trước hiểm họa của Trung Cộng xâm lăng Việt Nam, Vũ
Hạnh nên để tên của mình và ấn hành tác phẩm này có lẽ thích hợp nhất.
Vì thời điểm khi viết quyển đó thì trang sử Việt Nam ghi lại hình ảnh
“đương đầu kẻ xâm lược có khuôn mặt lớn lao nhất” là bọn bành trướng Bắc
Phương mà thôi, lúc đó chưa có bóng dáng “Đế quốc Mỹ”. Thật là lú lẫn,
đánh lừa cả thời gian, “đem râu ông nọ cắm cầm bà kia”.
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của Võ Phiến, trang 238-239 ghi nhận: “... Lý Chánh Trung có cả cuốn sách Tìm Về Dân Tộc
(1967), Bình Nguyên Lộc, một tiểu thuyết gia, bỗng dưng đeo đuổi một
công tình nghiên cứu quy mô về nguồn gốc dân tộc; Sơn Nam đặt vấn đề Người Việt Có Dân Tộc Tính Không (1969); Doãn Quốc Sỹ ca ngợi Người Việt Đáng Yêu (1965), Vũ Hạnh (dưới bút hiệu Hồng Cúc) viết Người Việt Cao Quý, cuốn sách bán rất rộng rãi...”. Như vậy quyển Người Việt Cao Quý
chẳng có gì độc đáo để gọi là “mình bị lừa cả” mà thể hiện tính nhân
bản, tinh thần yêu nước của người dân trong xã hội tự do vì vậy mới được
độc giả đón nhận. Sau hiệp định Paris 1973, đổi tên là Người Việt Kỳ Dị.
Như đã đề cập ở trên về Lữ Phương và tờ Tin Văn, Vũ Hạnh cho mình
là người móc nối với Lữ Phương mà Lữ Phương đã giữ chức Thứ trưởng Bộ
Văn hóa trong chính phủ Cách mạng Lâm thời... được cung cấp biệt thự
(sau này trở thành chủ nhân ông) thì với cương vị Tổng thư ký của Hội
Văn Nghệ của thành phố quá chênh lệch, làm sao không bất mãn nhưng “méo
mó có hơn không” đối với bản chất của Vũ Hạnh! Sau này Lữ Phương bị thất
sủng và nhìn vào thực tế cũng gióng lên tiếng nói, còn “thức tỉnh” phần
nào.
Đánh phá hạ cấp
Năm 1963, tác phẩm đầu tay Yêu của Chu Tử ấn hành, in 5.000 ấn
bản, bán hết trong 25 ngày, đây là tác phẩm bán nhanh nhất và nhiều nhất
như là hiện tượng trong ngành phát hành. Vũ Hạnh ganh tị, tức tối và Vũ
Hạnh là người gây ra cuộc “xung trận” sóng gió để rồi lãnh hậu quả “gậy
ông đập lưng ông”.
Trong mục Sổ Tay của Nguyên Sa trên tờ Dân Chúng, số ra ngày 13 tháng 7 năm 1996 ghi vào giai đoạn năm 1966
“... Thời điểm Vũ Hạnh tấn công ào ạt nhắm vào là tiểu thuyết Yêu,
Chu Tử ngồi trong gian phòng khách của nhà tôi, số 322 đường Phan Thanh
Giản. Anh tới để tiễn tôi đi trình diện nhập ngũ Thủ Đức, chúng tôi nói
chuyện về người ẩn danh viết bài gọi là “phê bình” quyển Yêu, mà
mục tiêu là xóa bỏ, đạp đổ. Trong mọi trường hợp, câu chuyện giữa chúng
tôi, và mấy anh em đi cùng với Chu Tử, mau chóng bỏ qua những đục bỏ
của Bộ Thông tin, vấn đề ông Thiệu, ông Kỳ, hướng đến vấn đề phê bình
của Vũ Hạnh. Tôi đọc bài văn, ký tên lạ hoắc, từ trước rồi, biết người
viết là ai rồi, khi Chu Tử đưa cho tôi coi, tôi nói tôi đọc rồi, tôi nói
Vũ Hạnh. Tôi đọc văn tôi biết là Vũ Hạnh. Thế Nguyên cho tôi biết người
viết những bài văn loại này là Vũ Hạnh...
Tình yêu là đồi trụy, là tiểu tư sản, là phản động, tôn giáo là thuốc
phiện. Vũ Hạnh liệt kê tác phẩm của Lê Tất Điều là tiểu tư sản, là phản
động. Xóa bỏ quyển sách, xóa bỏ người viết nó. Lê Tất Điều là đối tượng
đánh phá đầu tiên của Vũ Hạnh. Phê bình gì mà kỳ cục, tôi nói với Thế
Nguyên, phê bình hiện thực xã hội của L’ Humanité là Cộng sản ở tả ngạn
sông Seine, mà không có thơ, không còn tình tự, chỉ có mùi khói xưởng
thợ ở Saint Denis, phê bình hiện thực xã hội kiểu Vũ Hạnh là Cộng sản
trong hình thức thô bạo và bán khai nhất...
Đọc tới bài đánh phá tiểu thuyết Yêu của Chu Tử bởi tay phê bình quản giáo tôi quyết định không bao giờ đọc phê bình của Vũ Hạnh nữa...”
“... Tôi nói với Chu Tử về mặt lý thuyết, phê bình của Vũ Hạnh không có
trọng lượng nào, không đáng cho chúng mình quan tâm, về mặt con người,
Vũ Hạnh chỉ làm công việc mà anh ta phải làm, là một cán bộ Cộng sản
hoạt động trong ngành giáo dục và văn nghệ, nhiệm vụ của anh ta là đánh
phá, là bôi đen những tác phẩm không đi theo đường lối văn chương hiện
thực như một con đường cho cái gọi là “cách mạng”. Những chi tiết về Vũ
Hạnh vừa bật ra làm Chu Tử đưa tay ngăn tôi lại.
Tác giả tiểu thuyết Yêu hỏi tôi :
- Anh nói Vũ Hạnh đã bị bắt về tình nghi là cán bộ Cộng sản?
Tôi trả lời bạn tôi hồ sơ cũa Vũ Hạnh nói như thế. Những cơ quan an ninh
bắt giữ giáo viên tên Dũng, một cán bộ Cộng sản, muốn tha sau một thời
gian giam giữ, cần đến một Hội đoàn trong ngành giáo dục đứng ra đóng
vai trò bảo lãnh. Bạn tôi, giáo sư Nguyễn Hữu Chỉnh, giáo sư Nguyễn văn
Khánh phụ trách công việc này, đưa hồ sơ cho tôi coi và tham khảo ý
kiến. Những thầy giáo hiền hòa chọn lựa từ trước khi đọc hồ sơ... Tổng
hội Giáo giới đã đề nghị tha, và nhận bảo lãnh giáo viên tên Dũng có bút
hiệu là Vũ Hạnh...
Sáng hôm sau, tôi lên đường đi trình diện nhập ngũ... Tôi được chở tới
Thủ Đức... Chúng tôi ngồi xuống trên một bực thềm, anh bạn đưa tôi tờ
báo Sống, tôi nhìn tờ báo không cầm lấy, tôi cười, anh bạn cười gượng gạo, anh mở lớn tớ báo, chỉ tay vào mục Ao Thả Vịt...
Tôi đọc. Bài Ao Thả Vịt của Chu Tử nổ thật. Quả bom cỡ nặng. Ngòi nổ của quả bom là chính tôi. Ao Thả Vịt
nói Vũ Hạnh chính là cán bộ Cộng sản đang phung phá văn học nghệ thuật
miền Nam Việt Nam. Nhân chứng được viện dẫn là Nguyên Sa, người đã biết
rõ hồ sơ Cộng sản của Vũ Hạnh, Nguyên Sa khẳng định Vũ Hạnh tên thật là
Dũng, cán bộ Dũng đã bị an ninh của Đệ nhất Cộng hòa bắt giữ, tình hình
chính trị đổi thay, Dũng vớ tên Vũ Hạnh cùng nhiều bút hiệu khác vùng
lên tung ra những tác phẩm hiện thực xã hội, căn bản là chủ nghĩa Mác
xít Lê nin lít, với chiếc xe chuyên chở duy vật biện chứng, đánh phá
những nhà văn không thực hiện tác phẩm theo đường lối hiện thực của xã
hội.
Tôi cảm thấy ngất ngư, thấy người nóng ran, thấy có nhiều mồ hôi trên
đầu tóc mới cắt và trên trán, trên cổ, mồ hôi lẫn với những sợi tóc
con...”
Thế rồi Nguyên Sa đề cập đến mẩu đối thoại với người bạn là nói riêng với Chu Tử nhưng nhưng lại viết ra, đó là Định Mệnh.
“Tôi nói với người bạn đồng ngũ có lòng tốt với Chu Tử viết ra như thế
là đúng, ném ra một mồi nổ xem bên phần kia sân khấu Định Mệnh đánh ra
những tiếng bạc nào... Tôi không nói cho người bạn mới biết giữa tôi và
Chu Tử có một mật ước”.
Và, từ đó, mục Ao Thả Vịt trên nhật báo Sống, ngón đòn của Chu Tử làm cho Vũ Hạnh thất điên bát đảo!
Vũ Hạnh được che chở trong sự nghiệp cầm bút nhờ Văn Bút Việt Nam
(1957-1975) qua thời kỳ chủ tịch Vũ Hoàng Chương và Linh mục Thanh Lãng
(thời kỳ tiền nhiệm với Đỗ Đức Thu, Nhất Linh). Trong danh sách Văn Bút
Việt Nam có 160 hội viên và Vũ Hạnh ở số thứ tự 28, nhờ uy tín của Văn
Bút Việt Nam và đảm trách biên tập trong tờ Tin Sách nên khi có chuyện “bất an với nghi can” thì được che chở.
Chuyện đánh phá trước năm 1975 như đã đơn cử, tạm cho là “công tác của
Vũ Hạnh” nhưng với bản chất, sau này với “đồng chí” cũng bị vu oan. Năm
1988, bài thơ của Trần Vàng Sao đăng trên tạp chí Sông Hương đã dùng từ “chí sĩ”, Vũ Hạnh viết bài đả kích, chụp mũ nhà thơ trên báo Tuổi Trẻ và Công An, từ chí sĩ ám chỉ hình ảnh Ngô Đình Diệm. Tác giả và ban biên tập tờ Sông Hương bị kiểm điểm, đính chính!. Lẽ nào ông không đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí và hình ảnh Ngô Thời Nhậm.
Bẩn thỉu nhất là vụ đánh hôi với Mai Quốc Liên về Dương Nghiễm Mậu
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Nghiễm Mậu vào trại giam Lê văn
Duyệt như một số văn nghệ sĩ khác. Với bản chất hiền lành, thật thà,
Dương Nghiễm Mậu làm sơn mài, không màng đến chuyện viết lách gì cả.
Theo bài viết của Hồ Nam trong tháng 11-2007: “Thế rồi không biết Nguyễn
Quốc Thái đại diện Công ty Văn Hóa Phương Nam “tán tỉnh” thế nào Dương
Nghiễm Mâu đã cho Công ty Văn Hóa Phương Nam in lại một loạt tác phẩm
viết trước năm 1975 của Dương Nghiễm Mậu phát hành cùng lúc với truyện
dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên. Những tác phẩm của Dương
Nghiễm Mậu do Công ty Văn Hóa Phương Nam tái bản phát hành chưa được một
tuần lễ thì trên tờ Sài Gòn Giải Phóng có bài “đấu tố” Lê Xuyên và Dương Nghiễm Mậu, tiếp theo là tờ Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Mai Quốc Liên và Vũ Hạnh mang Dương Nghiễm Mậu ra đấu trường “chơi” sát
ván với đủ thứ tội danh văn chương đồi trụy, văn chương phản động.
Gặp lại Dương Nghiễm Mậu, tôi hỏi nhà văn chỉ cười nhất định không chịu nói một câu nào dù một câu ngắn cũng không nói”.
Càng ngày chân tướng của Vũ Hạnh bị phơi bày, và “gậy ông lại đập lưng ông” lần nữa, năm 2008, tác phẩm Lạc Đường, tự truyện của Đào Hiếu đề cập đến Vũ Hạnh:
“Phong trào sinh viên vẫn án binh bất động. Anh Nguyễn Ngọc Lương giới
thiệu tôi với nữ nghệ sĩ Hột Xoàn và nhà văn Vô Hạnh (tôi không muốn nêu
tên thật của ông vì ông đã gần đất xa trời, vì thế tôi mượn tạm cái tên
mà nhà văn Ngụy Ngữ đã đặt cho ông).
Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài
Gòn nêu đích danh là “Cộng sản nằm vùng”. Tuy nhiên chúng tôi không
thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương.
Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính
luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị
chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế
nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời
điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu giải phóng tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong
Hội Đồng Đánh Giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia.
Anh khá nổi bật trong số các thành viên của Hội đồng vì cách ăn mặc.
Trong khi các cán bộ miền Bắc và cán bộ ở rừng ăn mặc luộm thuộm, đi dép
râu, còn những người tại chỗ như Vô Hạnh và tôi cũng xuềnh xoàng, thì
Lữ Phương ăn mặc chỉnh tề, đẹp. Có lẽ đó là những bộ quần áo của thời
anh đi dạy học trước giải phóng. Quần Gabardine màu xám nhạt, sơ mi màu
sậm, cài măng sét, giày da màu nâu bóng loáng.
Anh ăn nói lưu loát nhưng hòa nhã, lịch thiệp. Cái nhìn của anh về văn
học ở các đô thị miền Nam trước giải phóng cũng khá thoáng.
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt
lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời
lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm
mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người
cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó
anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện :
- Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi.
Lúc ấy nhiều người cho rằng ông muốn tranh cái chức Thứ trưởng Bộ Văn
hóa của Lữ Phương, riêng Lữ Phương có lẽ anh đang cười thầm vì từ lâu
anh đã hiểu cái chức ấy chẳng qua cũng chỉ là một vai diễn trên sân khấu
chính trị mà thôi.
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có
lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn
nghệ.
... Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động cách mạng trong nội thành nhưng khi ở tù ông cộng tác với
địch lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là “Vô Hạnh chui lỗ chó”
vì thế giải phóng xong ông không được tin dùng nên ông “hận” những anh
em văn nghệ sĩ ở rừng về. Nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung
vít. Chửi cách mạng không tiếc lời.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không
biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một
nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người
này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên
chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù dọa mấy anh em
nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được “lưu dụng”. Còn đối với các nhà
văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Lê Tất
Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã
tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở
giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào
Từ Điển Văn Học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh
bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên
giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là
refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.
... Ngược hẳn với Vô Hạnh 180 độ là anh Nguyễn Ngọc Lương. Hiền lành,
nhẫn nhục mà sống, mà làm việc. Trước giải phóng thành ủy giao cho anh
làm Chủ bút một tờ báo công khai của Đảng tại thành phố Sài Gòn, nói nôm
na là làm ông Tổng biên tập một tờ báo “Việt cộng nằm vùng” ngay trong
lòng địch. Chuyện đó đâu có dễ. Nếu là bạn, chưa chắc bạn đã dám nhận,
phải không? Nhất là làm việc mà không có lãnh lương!
Sau “giải phóng” người ta cho anh làm một nhân viên sửa morasse tại tòa soạn báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Vậy mà anh cũng làm. Cứ cho là trong thời gian công tác anh có mắc phải
một vài sai lầm nho nhỏ nào đó đi (tôi biết chắc chắn là không có gì
lớn). Cái thứ sai lầm vặt ấy, truy lý lịch ra ai mà chẳng có. Vậy thì nỡ
lòng nào đày đọa đồng chí mình như vậy!
Anh Nguyễn Ngọc Lương đã qua đời trong một tâm trạng buồn như thế...”.
Là người trong cuộc, một thời “đồng chí” với nhau còn tỏ thái độ như
vậy, thấy rõ bản thất thấp hèn con người cầm bút như Vũ Hạnh.
Kết
Trong gần hai thập niên, tại Sài Gòn, Vũ Hạnh đã cho ra đời nhiều tác phẩm: Lửa Rừng trên tuần báo Mai (1960), Vượt Thác (1963), Mùa Xuân Trên Đỉnh Non Cao (1964), Chất Ngọc (1964), Ngôi Trường Đi Xuống (1966), Đọc Lại Truyện Kiều (1966), Tìm Hiểu Văn Nghệ (1971), Bút Máu (1971), Người Chồng Thời Đại (1971), Con Chó Hào Hùng (1973), Cô Gái Xà Riêng (1973), Những Người Còn Lại (1974)...
Nguyễn Đức Dũng, ngoài bút hiệu Vũ Hạnh, còn có những bút hiệu khác như Nguyên Phi, Minh Hiếu, Cô Phương Thảo (Tin Sách và Bách Khoa)... còn các bút hiệu của kẻ “đồ tể đánh lận con đen”.
Trong chế độ mà ông thù địch đã tạo dựng sự nghiệp văn chương và được đón nhận những tác phẩm, xếp loại vào khuynh hướng xã hội.
Sau tháng Tư 1975, tiểu sử Vũ Hạnh được đề cập trong Từ Điển Văn Học, nhà xuất bản Văn Học Xã Hội, 1984.
Hơn ba thập niên, sống trong vùng đất dụng võ của ông nhưng không có tác
phẩm nào, chỉ có những bài viết vớ vẩn, vờ vịt và đâm thọc cho thỏa mãn
thú tính và đố kỵ tài năng.
Ông tự bôi tro trát trấu vào bút danh đã một thời nổi tiếng của ông và
nói như Ngụy Ngữ, Đào Hiếu, thay chữ Vũ bằng Vô. Thật vậy, gọi như vậy
nặng lắm nhưng nghĩ cho cùng, không có chữ nào ngắn, gọn hơn để thay thế
chữ “Vô”. Ông biết viết tác phẩm Con Chó Hào Hùng nhưng con người lại hèn đến thế!.
Tên tuổi Vũ Hạnh đã bị đào thải rồi, quyển Tự Điển Tác Giả Văn Hóa Việt Nam
của Nguyễn Q. Thắng, dày gần 1.800 trang, ấn hành năm 1999. Tác giả là
người đồng hương, đề cập đến nhiều khuôn mặt trong nước nhưng cũng không
có Vũ Hạnh.
° ° ° ° °
Năm 1990, trước khi rời Sài Gòn đi Mỹ, tôi ghé lại thăm anh Vũ Đình, tôi
không hỏi Vũ Hạnh có biết anh ở Sài Gòn không, bởi ngại bản chất thù
vặt của Vũ Hạnh, vì lúc đó đông người?... Khi định cư tại Cali, bài viết
này tôi viết trên tuần báo Saigon Times, Los Angeles, số ra ngày 27 tháng 12 năm 1991. Lý do tôi viết bài này vì tờ Les Nouvelles số 13 ra ngày 31 tháng 3 năm 1991 phổ biến bức thư của Vũ Hạnh qua tựa đề Họ Cô Đơn Trước Nhân Dân.
Trong bức thư Vũ Hạnh đã viết: “Dân chúng nghèo đói đi nhiều lắm, xã
hội trở nên hỗn loạn” và “Như vậy, người ta mới thấy rõ ràng biết bao hy
sinh lớn lao và cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn do cái ý thức hệ
gọi là Cộng sản gây ra ấy đã tỏ như là vô ích...
... Sự đề cao trường học Xã Hội Chủ nghĩa rập khuôn trong đầu óc sự tôn
sùng lá cờ đỏ thiêng liêng và những lãnh tụ Cộng sản vĩ đại đã xen vào
đời sống để biến mọi người thành những dụng cụ ngoan ngoãn nằm trong tay
gần như vô học mà lại tiếm quyền, những kẻ lũng đoạn quyền hành để thử
nghiệm một cách tàn bạo, nên cả nước bị khủng bố và bị cấm đoán phải câm
miệng...
... Những lãnh đạo của chế độ nay ghi nhận với sự sợ hãi... Họ cô đơn
đối diện với nhân dân, để rồi trong những ngày tới đây phải trả về những
sự khốn khổ, đói khát mà họ đã bắt nhân dân phải chịu đựng từ mấy chục
năm qua...”.
Lý do Vũ Hạnh viết bức thư như vậy vì trước đó, năm 1986 Nguyễn văn Linh
phát pháo chính sách “cởi trói” và “đổi mới” như năm 1985 ở Liên Xô,
Gorbachev cải cách với chính sách perestroika và glasnost... Bước vào
giai đoạn đầu thập niên 90, cùng với thời điểm Liên Xô và bức màn sắt
Đông Âu sụp đổ. Vũ Hạnh sợ tình thế trong nước thay đổi, muốn lập cơ hội
thoát thân, cho con cái du học Liên Xô chẳng thấy vinh quang gì nên tìm
cách “dọn đường” cho tương lai... nhưng “kẻ cắp lại gặp bà già” chán
thật. Hơn nữa, trò lừa bịp của Vũ Hạnh rất nguy hiểm, biết đâu dựng ra
lá bài như “trăm hoa đua nở” để ai nhẹ dạ, cả tin rơi vào bẫy!
Khi tôi viết bài này, tôi rất áy náy, đắn đo. Thú thật, tôi có đầu óc
cục bộ, bảo thủ địa phương với quê hương, không muốn đem hình ảnh xấu
nào của quê mình trên mặt báo. Dù sống bất cứ nơi nào, bóng dáng quê
hương như hình ảnh người mẹ. Qua vài ý kiến bạn bè đồng hương, tôi viết.
Gần hai thập niên qua, mỗi năm hội đồng hương Quảng Nam ra đặc san, nhờ
tôi đóng góp bài vở; nếu có viết, tôi viết về những bậc tiền nhân của
quê hương, tuy đã đề cập nhiều nhưng mỗi người có phong cách diễn đạt
khác nhau. Với tôi, nên tô điểm những bông hoa cho thế hệ tương lai biết
và hãnh diện mảnh đất “cày lên sỏi đá” đó ở quê hương có những bông hoa
tươi đẹp, tấm gương sáng, còn loài sâu bọ sẽ bị đào thải theo thời
gian.
Tháng 11 năm 2007, tôi viết bài Cung Tích Biền, Giữa Hai Lằn Đạn.
Qua những điều thăm hỏi bằng hữu, đọc được những bài viết của anh, tôi
cảm nhận được nỗi uẩn khúc, cả lời thị phi và bất hạnh, tôi viết. Và, từ
đó, tôi đọc được những bài viết của anh được phổ biến trên trang web,
bước vào tuổi thất thập, bị tiểu đường đã hai thập niên, đau tim và ung
thư đại tràng nhưng trở lại với ngòi bút rất tuyệt. Với lương tâm của
người cầm bút trước thực trạng xã hội, bằng lối ẩn dụ tài tình, nói lên
cách nhìn sắc bén qua ngòi bút, tôi rất trân trọng. Nhắc đến Vũ Hạnh và
Cung Tích Biền vì hai người cùng “bà con lối xóm” với nhau ở quê nhà và
từ khi “cái vụ chiếc xe Honda” xảy ra, coi như xa lạ, nhưng đó là chuyện
đời tư, còn nhân cách và lương tri thì hoàn toàn khác xa.
Trong sinh hoạt văn nghệ, khi ngồi trước máy điện toán để viết, tôi muốn
phác họa hình ảnh tốt, đẹp bồng bềnh trong khói thuốc mới gây cảm hứng
ghi lại, ít ra cũng học hỏi được nhân cách, tài năng, sự lương thiện ở
đối tượng mình đề cập.
Bài này viết lại cũng vào dịp tháng Tư, thời điểm hoạn nạn và Vũ Hạnh
còn sống, nếu ông đã ra đi thì “nghĩa tử là nghĩa tận” bới đống tro tàn
chỉ bẩn tay!
Vương Trùng Dương
Viết lại 4-2009
HẾT
Khách Trung Quốc tranh nhau ăn hoa quả ở Việt Nam
Trong đoạn video mới được đăng tải trên Daily Mail, các du khách Trung
Quốc vây quay nhân viên phục vụ và tranh nhau “dọn sạch” đĩa hoa quả khi
nhân viên vừa đặt xuống.
Những du khách nóng vội trong đoạn video này đã tranh nhau để lấy phần
hoa quả trên đĩa ở bàn cạnh hồ bơi tại một khách sạn Việt Nam. Đoạn băng
này xuất hiện sau khi hình ảnh du khách Trung Quốc lấy đĩa xúc thức ăn
vô tội vạ tại một bữa buffet ở Thái Lan lan truyền trên mạng.
Đoạn video bắt đầu với hình ảnh nhân viên phục vụ đang cố đặt đĩa vải
lên bàn. Đám đông du khách xung quanh liên tục vươn tay ra lấy quả,
khiến nhân viên chật vật mới chuẩn bị xong. Khi đĩa quả vừa được đặt lên
bàn, trong tích tắc các du khách đã tranh nhau lấy sạch. Clip không có
thời gian quay, tuy nhiên địa điểm diễn ra được cho là ở Việt Nam.
Tuần trước, một video về hành vi tương tự của du khách Trung Quốc ở Thái Lan đã lan truyền với tốc độ chóng mặt. Các du khách này lấy đĩa xúc rất nhiều tômvà bỏ thừa phần lớn.
Các du khách tranh nhau lấy hoa quả. Ảnh: Shanghaiist. |
Du khách Trung Quốc lấy thật nhiều thức ăn và sau đó bỏ thừa. Ảnh: Weibo. |
Tuần trước, một video về hành vi tương tự của du khách Trung Quốc ở Thái Lan đã lan truyền với tốc độ chóng mặt. Các du khách này lấy đĩa xúc rất nhiều tômvà bỏ thừa phần lớn.
Đó là những biểu lộ của văn minh Mao Trạch Đông, Tập Cận Bình, Hồ Chí Minh. Đó là biểu thị của chủ nghĩa ăn cướp, ăn cướp bằng nhiều cách bất kể liêm sỉ!
Monday, May 1, 2017
TS PHAN VĂN SONG * QUÓC HẬN
Bài
viết cho ngày Quốc Hận 2017
Tuổi Trẻ Can
Trường, Tuổi Trẻ Bất Khuất !
Kính thưa quý vị,
Tình hình thế giới
và đặc biệt ở khu vực Biển Đông càng ngày càng gay go. Nào Bắc
Hàn hăm dọa sử dụng vũ khí nguyên tử, nào Hoa Kỳ phô trương biểu diễn sức mạnh
Hải quân. Nào thương thuyết, nào đi đêm Nhật, Hàn, Tàu, Mỹ… Tất cả các quốc gia
Đông Bắc Á và Đông Nam Á đều có thái độ rõ ràng – CHÔNG BÁ QUYỀN Và
BÀNH TRƯỚNG TÀU.
Riêng thái độ của
nhà đương quyền Cộng Sản Hà Nội là Chờ. Chờ ngóng, mong vào quan Thầy Tàu
Cộng.
Và dĩ nhiên, tình
hình quốc tế ấy, đã thôi thúc dân Việt Nam cả hải ngoại lẫn quốc nội. Thế còn
tình hình trong nước ?
Trong nước, tình hình hoàn
toàn đen tối. Ngoài đám tư sản đỏ, vệ tinh của bộ máy cầm quyền Cộng Sản Hà
nội, càng ngày càng giàu sụ, đang tìm đường tải của ra xứ ngoài, tìm nơi «hạ
cánh an toàn», tỵ nạn kinh tế. Ngoài một bộ phận trí thức nhỏ, cùng
với một bộ phận thanh niên, tuy xuất thân từ hệ thống giáo dục Cộng Sản,
nhưng đã dám xa rời định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, đã dám ca ngợi Chủ nghĩa Tư
Bản và các giá trị phương Tây, đang thức tỉnh, tìm một con đường kinh tế phát
triển mới đề giải thoát dân tộc, nhưng chỉ thấy bàn cãi nhưng không dám hành
động cải tổ vì SỢ mất ổn định. Còn phần còn lại của xã hội, nhứt là … tuổi
trẻ, tình hình rất bi đát, thật khủng khiếp : Việt Nam ước tính
có khoảng 183.000 người nghiện ma túy… gần 33.000 người bán dâm, độ tuổi bán
dâm ngày càng trẻ hóa : 16/18 tuổi.
Mua bán người : Càng ngày càng tinh vi và nhiều thủ đoạn : Buôn bán trẻ sơ sinh, buôn bán bào thai, nội tạng và một hình thức buôn bán mới nhất gần đây là đẻ thuê…. Đất nước cứ mỗi ngày một nghèo thêm để nối dài chậm tiến và tụt hậu so với nhân dân các nước trong khu vực. Thậm chí có nhiều lĩnh vực bây giờ thua cả Kampuchea và Lào.
Chúng ta - những
người Việt yêu nước, yêu một nước Việt Nam Dân chủ, Pháp trị, yêu một nước Việt
Nam đa đảng, đa nguyên, đầy những quyền tự do tối thiểu – mong rằng nhân dân
Việt Nam có thể làm được một cái gì để tự giải phóng mình, tìm con đường độc
lập cho đất nước mình.
Đã từ bao năm tháng
nay, nhân dân Việt Nam trong nước đã bao lần xuống đường đấu tranh đòi hỏi
những quyền lợi căn bản, tự do tư tưởng, tự do tín ngưởng … Từ thập niên vừa
qua, tuổi trẻ đã dám xuống đường với khẩu hiệu Hoàng sa, Trường sa là
của Việt Nam… Các bloggers, các nhà bất đồng chánh kiến chấp nhận đi tù,
những luật sư chấp nhận mất việc làm, đòi nhân quyền, tự do, dân chủ… Và
trong những tuần gần đây, với là cờ Vàng Ba Sọc Đỏ dẫn đầu, dân chúng Hà Tĩnh
đã phất lên đòi quyền Tự Quyết đời sống môi trường trong sạch lành mạnh của
mình.
Cám Ơn Đồng
bào ! Cám Ơn Tuổi trẻ can trường, tuổi trẻ bất khuất !
Truyền thống giữ
nước, bảo vệ quê cha đất tổ nay vẫn còn, vẫn tiếp tục dẫn dắt tuổi trẻ đấu
tranh để không bị mất đất, mất biển, quê hương không bị bán ra từng mảnh.
- Hỡi tuổi trẻ Việt
Nam … Cám ơn các bạn đã đứng lên tố cáo sự phá hoại môi
trường, cũng như những kẻ bán nước.
- Hỡi tuổi trẻ
trong các đơn vị Quân đội Nhân dân,
- Hỡi các bạn trẻ
trong các đơn vị Công An !
Nếu các bạn muốn
tiếp tục truyền thống tiền nhân giữ nước và bảo vệ quê hương, hãy đứng lên cùng
với những người dân đòi lại quyền điều hành đất nước, bảo vệ không gian
sinh tồn của dân tộc Đại Việt, đuổi tập đoàn độc tài đảng trị, giành
lại độc lập, giành lại quyền tự chủ cho dân tộc Việt, lấy lại bờ cõi giang sơn
Đất Nước Đại Việt.
«Nam Quốc Sơn
Hà Nam Dân Cư » (Đất phương Nam của người Nam)
Năm Nay Đinh Dậu,
2017, sẽ năm thay đổi, xoá bỏ độc tài,
giành lại Độc lập Tự do và Không gian sinh tồn cho dân tộc Đại Việt.
giành lại Độc lập Tự do và Không gian sinh tồn cho dân tộc Đại Việt.
…. Còn Việt Nam
triệu con tim nầy, còn Triệu khối Kiêu Hùng !
Máu ta từ thành Văn
Lang dồn lại
Xương da thịt này
cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười
ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một
đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát
cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu
con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Cảm ơn quý vị và
tuổi trẻ Việt Nam !
Phan Văn Song
30/04/2017
DƯƠNG VĂN MINH
Lịch sử có nợ gì Tướng Dương Văn Minh?
Tổng thống Dương Văn Minh (đeo kính, cúi đầu) bị bộ đội cộng sản đưa đi.
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975.
Trong cuốn sách của mình với tựa đề “và Sài Gòn sụp đổ” (Et Saigon tomba – Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện ‘quan trọng nhất’ với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris :
Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là “một người minh mẫn và nắm vững tình hình”.
Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
“Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Nhà báo Pháp viết trong cuốn sách:
“Tôi gặp tướng Minh vào ngày thứ hai, trong một villa rộng lớn, yên bình, không bày biện xa hoa, bao bọc xung quanh bởi một vườn hoa, nơi ông sống từ nhiều năm, ở giữa Sài Gòn. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ, ông nói cho tôi biết cơ hội mỏng manh về đàm phán với phía bên kia ra sao.
Ông mô tả xúc động về tình trạng kiệt quệ của quân đội, những tướng lĩnh mất tinh thần, những kho đạn và chiến cụ gần như trống rỗng, vật tư bị bỏ mặc, bộ máy hành chính bất lực, dân chúng lo lắng và những người của Thiệu không làm gì khác là cất giấu đô la, vàng, trang sức cùng những tác phẩm nghệ thuật của họ …
Tướng Minh có giọng nói chậm rãi và nhẹ nhàng. Cặp mắt không chớp sau cặp kính gọng kim loại, nhưng người ta nhận thấy rõ rệt ông bối rối sâu sắc trước hiện tình đất nước ông.”
Không ra nước ngoài
Cuốn sách ‘Và Sài Gòn sụp đổ’ của Paul Dreyfus “Thế nào đi nữa, ông nói với tôi, tôi sẽ không đi đâu cả. Hạnh phúc hay bất hạnh đó vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã sống những năm định cư ở Bangkok. Tôi không thiếu thốn gì. Nhưng tôi cảm thấy rất bất hạnh. Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Cuối cuộc phỏng vấn, tôi hỏi ông thẳng thắn rằng, ông nghĩ sao sắp tới sẽ đóng một vai trò quan trọng của một nhân vật chính trị.
Nếu để làm bù nhìn, thì chắc chắn không. Nhưng nếu tôi có thể hữu ích hay có thực quyền thì tôi sẽ không từ chối.” Từ cách nhìn của tôi, từ thời điểm này, tướng Minh đã sẵn sàng.
Hôm nay (24/4/1975), ông già không có chút sinh khí (chỉ tổng thống Hương) đã đến gặp tướng Minh nêu ra một vai phụ số hai : đó là chức Thủ tướng. Vai trò mà một người tiền nhiệm vừa bỏ lại sáng nay.”
Minh cự tuyệt, vì ông không có toàn quyền. Ngày mai, ông sẽ có tất cả.
Nếu không, Việt Cộng sẽ bắt đầu đặt quyền cai trị lên Sài Gòn.”
Khi CIA giả danh Khmer Đỏ “Thứ Sáu 25/4/1975. Sau khi Phnom Penh sụp đổ, CIA sử dụng một đài tiếp vận radio từ Okinawa, hòn đảo lớn phía Nam quần đảo Nhật Bản. Những nhân viên bí mật của Mỹ phát sóng dưới danh nghĩa những người Khmer. Họ đưa tin như từ chức năng quyền lực của Khmer Đỏ.
Đài phát thanh gián điệp này tung những tin thất thiệt, hướng vào cộng đồng dân chúng Campuchia, hy vọng gây những bất ổn cho những chủ nhân mới của đất nước.
Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975 Cũng là CIA, trong một buổi phát thanh đội lốt ngôi sao đỏ đã đưa tin, có một cuộc đảo chính tại Hà Nội và họ nói rằng đã có ba sư đoàn Bắc Việt rút về cứu nguy cho miền Bắc.”
Bình luận về việc xuyên tạc này, giám đốc CIA tại Sài Gòn hả hê với những ai muốn nghe:
“Đó thật sự là chương trình duy nhất hoạt động tốt.”
Thật khó tin, nhưng đúng như thế!
Tướng Minh và sứ mệnh bất khả thi “Tối thứ Bảy, Thượng và Hạ viện nhất trí trao toàn quyền cho tướng Minh hoạt động ngõ hầu mang lại một ‘nền hòa bình trong danh dự’, trong lúc cả tối thứ Bảy và Chủ Nhật đạn pháo nã vào trung tâm quyền lực giữa Sài Gòn.
Người dân thủ đô sống trong thấp thỏm trước những đợt pháo kích ngày càng gia tăng. Những sư đoàn Bắc Việt và Việt Cộng được chiến xa hạng nặng hỗ trợ chỉ còn không đầy 30 km cách thủ đô VNCH. Những tướng lĩnh can đảm nhất cũng nói rằng tất cả đã mất.
“Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Trần Văn Đôn u ám trước tấm bản đồ ngày càng đen tối. Các chuyến bay ‘Galaxia’ của không quân Mỹ hối hả chuyển những công dân Hoa Kỳ di tản. Tất cả như trong tình trạng như khi Byzance thất thủ, các chân tay thân cận của Thiệu theo chân chủ chạy trốn với những valy chật căng đô la, nữ trang, vật dụng quý giá, nhà băng đóng cửa , nền kinh tế sụp đổ.
Trong tình thế gần như tuyệt vọng, Lưỡng viện và ông tổng thống mắt lòa, chậm chạp với tuổi già vẫn còn loay hoay bàn cãi về thủ tục bàn giao chính quyền cho tướng Minh, mà không ‘vi hiến’.
Trong không khí nghẹt thở, lưỡng viện bỏ phiếu cho giải pháp tình thế hệt như trong buổi đẹp trời của Đệ Tam Cộng hòa. Cuối cùng, sau một ngày điên rồ, khi màn đêm đã buông xuống Sài Gòn, Lưỡng viện Quốc hội nhất trí chuyển giao hoàn toàn quyền lực cho tướng Minh.”
Một người cộng sự thân thiết của tướng Minh đã nói với tôi ngay từ hôm qua không úp mở:
“Chúng tôi nắm một sứ mệnh không thể thực hiện nổi.”
Thứ Tư, ngày 30/4/1975: ‘Tôi đợi các ông ở đây’
Bộ đội cộng sản đem cờ Mặt trận Giải phóng vào cắm ở Dinh Độc Lập 30/04/1975
Cuốn sách mô tả tiếp giờ phút tiếp quản :
“Nhóm sĩ quan cấp cao nhảy xuống xe. Xung quanh họ là những binh sĩ đầy súng ống. Họ chạy nhanh qua những bậc thang rộng của Phủ Tổng thống, vượt qua phòng khánh tiết và gặp tướng Minh trong phòng làm việc của ông ta.
‘Tôi đã đợi các ông ở đây’, tướng Minh nói. Buổi sáng cùng ngày, lúc 10 giờ, ông đã cho phát trên radio lời tuyên bố gửi đến đối phương.
Minh từ căn phòng của Phủ Tổng thống đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị Nam Việt Nam ngừng bắn. Rất trầm tĩnh, Minh trao đổi với các phụ tá và một vài bộ trưởng mà chỉ trong thời gian ngắn ông đã tìm được ra.
Các chiến binh Bắc Việt ngay lập tức vây quanh ông. Trong số những sĩ quan của đoàn quân chiến thắng có những Việt Cộng hoạt động bí mật tại Sài Gòn, không mặc quân phục, không mang quân hàm, quân hiệu, có người biết rất rõ tướng Minh. “
Ông ta tiến gần và nói:
“Ông đã làm một việc lớn cho Việt Nam, ngăn không cho Sài Gòn bị phá hủy. Chúng tôi cám ơn ông, tướng Minh.”
Tướng Minh hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng
Nhà báo Pháp
Minh đáp lại rằng, ông hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng.”
Nhà báo Paul Dreyfus cũng suy tư về chuyện ông Minh đã nghĩ gì:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thỏa thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
“Bằng việc gạt qua cá nhân mình, Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết.
Thật ngắn ngủi.
Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này.”
Các đoạn trích do nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris chuyển ngữ.
BBC
Nhà báo Pháp Paul Dreyfus là một trong 25 nhà báo Pháp có mặt tại Sài Gòn vào giờ phút cuối cùng của tháng Tư năm 1975.
Trong cuốn sách của mình với tựa đề “và Sài Gòn sụp đổ” (Et Saigon tomba – Collection Témoignages 1975), tác giả đánh giá sự kiện Sài Gòn thất thủ là sự kiện ‘quan trọng nhất’ với hệ thống cộng sản châu Á sau cuộc tiến vào Bắc Kinh năm 1949 của Mao. Ông thuật lại những cảm nhận cá nhân qua những lần tiếp xúc với đại tướng Dương văn Minh, tổng thống cuối cùng của miền Nam, theo giới thiệu sau qua lời dịch của nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris :
Theo Paul Dreyfus, tướng Minh là “một người minh mẫn và nắm vững tình hình”.
Những tâm sự của tướng Minh thời điểm đó mang lại một cách đánh giá đa chiều về nhân vật gây nhiều tranh cãi.
“Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Nhà báo Pháp viết trong cuốn sách:
“Tôi gặp tướng Minh vào ngày thứ hai, trong một villa rộng lớn, yên bình, không bày biện xa hoa, bao bọc xung quanh bởi một vườn hoa, nơi ông sống từ nhiều năm, ở giữa Sài Gòn. Trong một cuộc phỏng vấn kéo dài hơn một giờ, ông nói cho tôi biết cơ hội mỏng manh về đàm phán với phía bên kia ra sao.
Ông mô tả xúc động về tình trạng kiệt quệ của quân đội, những tướng lĩnh mất tinh thần, những kho đạn và chiến cụ gần như trống rỗng, vật tư bị bỏ mặc, bộ máy hành chính bất lực, dân chúng lo lắng và những người của Thiệu không làm gì khác là cất giấu đô la, vàng, trang sức cùng những tác phẩm nghệ thuật của họ …
Tướng Minh có giọng nói chậm rãi và nhẹ nhàng. Cặp mắt không chớp sau cặp kính gọng kim loại, nhưng người ta nhận thấy rõ rệt ông bối rối sâu sắc trước hiện tình đất nước ông.”
Không ra nước ngoài
Cuốn sách ‘Và Sài Gòn sụp đổ’ của Paul Dreyfus “Thế nào đi nữa, ông nói với tôi, tôi sẽ không đi đâu cả. Hạnh phúc hay bất hạnh đó vẫn là tổ quốc tôi. Tôi đã sống những năm định cư ở Bangkok. Tôi không thiếu thốn gì. Nhưng tôi cảm thấy rất bất hạnh. Tôi thích sống trong ngục tù của tổ quốc tôi còn hơn tự do ở nước ngoài.”
Cuối cuộc phỏng vấn, tôi hỏi ông thẳng thắn rằng, ông nghĩ sao sắp tới sẽ đóng một vai trò quan trọng của một nhân vật chính trị.
Nếu để làm bù nhìn, thì chắc chắn không. Nhưng nếu tôi có thể hữu ích hay có thực quyền thì tôi sẽ không từ chối.” Từ cách nhìn của tôi, từ thời điểm này, tướng Minh đã sẵn sàng.
Hôm nay (24/4/1975), ông già không có chút sinh khí (chỉ tổng thống Hương) đã đến gặp tướng Minh nêu ra một vai phụ số hai : đó là chức Thủ tướng. Vai trò mà một người tiền nhiệm vừa bỏ lại sáng nay.”
Minh cự tuyệt, vì ông không có toàn quyền. Ngày mai, ông sẽ có tất cả.
Nếu không, Việt Cộng sẽ bắt đầu đặt quyền cai trị lên Sài Gòn.”
Khi CIA giả danh Khmer Đỏ “Thứ Sáu 25/4/1975. Sau khi Phnom Penh sụp đổ, CIA sử dụng một đài tiếp vận radio từ Okinawa, hòn đảo lớn phía Nam quần đảo Nhật Bản. Những nhân viên bí mật của Mỹ phát sóng dưới danh nghĩa những người Khmer. Họ đưa tin như từ chức năng quyền lực của Khmer Đỏ.
Đài phát thanh gián điệp này tung những tin thất thiệt, hướng vào cộng đồng dân chúng Campuchia, hy vọng gây những bất ổn cho những chủ nhân mới của đất nước.
Dinh Độc Lập trong ảnh chụp ngày 3/05/1975 Cũng là CIA, trong một buổi phát thanh đội lốt ngôi sao đỏ đã đưa tin, có một cuộc đảo chính tại Hà Nội và họ nói rằng đã có ba sư đoàn Bắc Việt rút về cứu nguy cho miền Bắc.”
Bình luận về việc xuyên tạc này, giám đốc CIA tại Sài Gòn hả hê với những ai muốn nghe:
“Đó thật sự là chương trình duy nhất hoạt động tốt.”
Thật khó tin, nhưng đúng như thế!
Tướng Minh và sứ mệnh bất khả thi “Tối thứ Bảy, Thượng và Hạ viện nhất trí trao toàn quyền cho tướng Minh hoạt động ngõ hầu mang lại một ‘nền hòa bình trong danh dự’, trong lúc cả tối thứ Bảy và Chủ Nhật đạn pháo nã vào trung tâm quyền lực giữa Sài Gòn.
Người dân thủ đô sống trong thấp thỏm trước những đợt pháo kích ngày càng gia tăng. Những sư đoàn Bắc Việt và Việt Cộng được chiến xa hạng nặng hỗ trợ chỉ còn không đầy 30 km cách thủ đô VNCH. Những tướng lĩnh can đảm nhất cũng nói rằng tất cả đã mất.
“Bộ trưởng Quốc phòng, tướng Trần Văn Đôn u ám trước tấm bản đồ ngày càng đen tối. Các chuyến bay ‘Galaxia’ của không quân Mỹ hối hả chuyển những công dân Hoa Kỳ di tản. Tất cả như trong tình trạng như khi Byzance thất thủ, các chân tay thân cận của Thiệu theo chân chủ chạy trốn với những valy chật căng đô la, nữ trang, vật dụng quý giá, nhà băng đóng cửa , nền kinh tế sụp đổ.
Trong tình thế gần như tuyệt vọng, Lưỡng viện và ông tổng thống mắt lòa, chậm chạp với tuổi già vẫn còn loay hoay bàn cãi về thủ tục bàn giao chính quyền cho tướng Minh, mà không ‘vi hiến’.
Trong không khí nghẹt thở, lưỡng viện bỏ phiếu cho giải pháp tình thế hệt như trong buổi đẹp trời của Đệ Tam Cộng hòa. Cuối cùng, sau một ngày điên rồ, khi màn đêm đã buông xuống Sài Gòn, Lưỡng viện Quốc hội nhất trí chuyển giao hoàn toàn quyền lực cho tướng Minh.”
Một người cộng sự thân thiết của tướng Minh đã nói với tôi ngay từ hôm qua không úp mở:
“Chúng tôi nắm một sứ mệnh không thể thực hiện nổi.”
Thứ Tư, ngày 30/4/1975: ‘Tôi đợi các ông ở đây’
Bộ đội cộng sản đem cờ Mặt trận Giải phóng vào cắm ở Dinh Độc Lập 30/04/1975
Cuốn sách mô tả tiếp giờ phút tiếp quản :
“Nhóm sĩ quan cấp cao nhảy xuống xe. Xung quanh họ là những binh sĩ đầy súng ống. Họ chạy nhanh qua những bậc thang rộng của Phủ Tổng thống, vượt qua phòng khánh tiết và gặp tướng Minh trong phòng làm việc của ông ta.
‘Tôi đã đợi các ông ở đây’, tướng Minh nói. Buổi sáng cùng ngày, lúc 10 giờ, ông đã cho phát trên radio lời tuyên bố gửi đến đối phương.
Minh từ căn phòng của Phủ Tổng thống đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị Nam Việt Nam ngừng bắn. Rất trầm tĩnh, Minh trao đổi với các phụ tá và một vài bộ trưởng mà chỉ trong thời gian ngắn ông đã tìm được ra.
Các chiến binh Bắc Việt ngay lập tức vây quanh ông. Trong số những sĩ quan của đoàn quân chiến thắng có những Việt Cộng hoạt động bí mật tại Sài Gòn, không mặc quân phục, không mang quân hàm, quân hiệu, có người biết rất rõ tướng Minh. “
Ông ta tiến gần và nói:
“Ông đã làm một việc lớn cho Việt Nam, ngăn không cho Sài Gòn bị phá hủy. Chúng tôi cám ơn ông, tướng Minh.”
Tướng Minh hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng
Nhà báo Pháp
Minh đáp lại rằng, ông hy vọng vào sự nghĩa hiệp của người chiến thắng.”
Nhà báo Paul Dreyfus cũng suy tư về chuyện ông Minh đã nghĩ gì:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thỏa thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
“Bằng việc gạt qua cá nhân mình, Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết.
Thật ngắn ngủi.
Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này.”
Các đoạn trích do nhà báo Phạm Cao Phong từ Paris chuyển ngữ.
BBC
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.
Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.
Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em vẫn đợi mười thu em vẫn chờ.
Đây không phải là đèn Mỹ Tho hay đèn Sài Gòn. Đây là những ngọn đèn trên đường phố Mã Lai.
Những cô gái Việt sang tới Mã Lai làm ăn thì người chồng ở nhà phải chờ “chín trăng” là chín tháng hay “mười thu” là mười năm.
Bài hát ca dao Nam Bộ đó, bây giờ được hát bởi những người chồng.
Từ cửa sổ khách sạn Nova Hotel trên đường Jalan Alor, không cách xa tháp
đôi nổi tiếng Twin Tower lắm của Kuala Lumpur, buổi tối mở cánh cửa sổ
ra, nếu bạn ngó về phía trái, thấy một con đường nhỏ với một dẫy đèn
lồng đỏ, treo trên những mái hiên. Những ngọn đèn đỏ này không to lắm,
có “ngọn tỏ ngọn lu” thỉnh thoảng có cả một ngọn không được thắp hay
thắp mà không sáng.
Nơi đó họ gọi là Phố Đèn Đỏ. Cái tên nghe thật dung dị. Thắp đèn đỏ thì
gọi là phố đèn đỏ vừa gợi hình vừa dễ nhớ. Thật ra cái tên Phố Đèn Đỏ có
tiểu sử của nó tùy từng quốc gia, nhưng nói chung đó là tên gọi của
chốn ăn chơi của các ông trên thế giới.
Con phố nhỏ này trông như một đường hẻm ở Việt Nam, xe hơi khéo lách có thể vào được nếu người đi bộ nhường đường. Đầu phố phía kia không biết dẫn tới đâu, nhưng ở trên cao ngó xuống thì đầu phía này dắt ra đường Jalan Alor trước cửa khách sạn, nơi nhóm “Thăm Mộ Thuyền Nhân” chúng tôi ngụ.
Khu đèn đỏ là khu “Bán phấn Buôn Hương.” Hương gái Việt và Phấn gái Việt được biết, ở thời điểm này chiếm 80%.
Con phố Jalan Alor có chợ đêm “Night Market.” Sinh hoạt chính từ 4 giờ
chiều cho tới 5, 6 giờ sáng hôm sau. Chợ đêm chủ yếu là thức ăn. Ở đây
ngoài bếp Mã, có bếp Tàu và bếp Việt. Tìm nước mía, nước dừa, ngô (bắp)
hấp, khoai luộc rất dễ dàng. Trái cây Mã rất gần gũi với Việt Nam: Chôm
chôm, măng cụt, soài, nhãn mùa này đầy chợ. Có Quán ăn Việt, người Việt
làm chủ. Du khách đủ mọi lớp tới. Có người đi du lịch với vợ, với gia
đình. Cũng có những thương gia trên đường giao hàng, trên đường ký hợp
đồng tới đây ăn xong thì ở lại qua đêm đi mua hương mua phấn.
Những cô gái Việt bán hương phấn ở đây nhiều lắm, họ còn khá trẻ. Tuổi
từ mười tám cho tới ba mươi. Họ là những món hàng đẹp và ngon trong chợ
đêm này.
Tài xế taxi Mã gặp khách đàn ông đi một mình. Bất cứ người khách đó mang
quốc tịch gì, màu da gì, cũng được hỏi một câu rất giản dị:
- Do you want Vietnamese pretty girls?
Chữ Vietnamese được nhấn mạnh trong câu hỏi.
Tại sao gái Việt ở đây nhiều thế, họ tới đây bằng cách nào? Có thể là họ
đi theo diện “Xuất Khẩu Lao Động” chính thức hay họ bị mua chuộc, bị
lừa, hoặc tự nguyện sang Mã làm gái bán vui, mua buồn. Đi bằng cách nào
thì tất cả đều vì lý do kinh tế.
Họ là những phụ nữ rất đáng thương.
Một buổi sáng, tôi tình cờ được ngồi ăn cùng bàn với mấy cô trong một
quán ăn của người Việt. Ngồi một lúc, cung cách của các cô mang thuốc lá
ra hút, gọi cà phê, thức ăn, cho tôi biết các cô làm gì ở đất nước này.
Tôi bắt chuyện làm quen, các cô vui vẻ tâm sự.
Một cô khoảng trên dưới ba mươi, người miền Nam. Cô nói cô ở Kiên Giang đến.
- Kiên Giang bây giờ đẹp lắm! cô khoe.
Rồi cô tâm sự. Em với chồng bỏ nhau, con gái lớn đang học Trung Học,
thằng nhỏ bảy tuổi bệnh, em không có tiền chạy thuốc, nó chết. Em buồn
quá, có người rủ đi xa kiếm tiền thì đi. Đi theo diện du lịch, rồi ở lậu
luôn.
- Nếu bị hỏi giấy tờ thì sao?
- Không sao cả cô ơi! Ở đây dễ lắm, có tiền cho tụi lính (công an) là xong hết. Có tiền em gửi về nuôi má, nuôi con ăn học.
Cô khác nói: cô ơi, ở đây tụi em làm gái sợ lính Mã lắm, nó cho vào tù
bất cứ lúc nào. Mình ở lậu, làm việc này phải sợ tất cả mọi người. Phải
có tiền thuê “Bảo Vệ” nữa. Bị khách hành hung hay không trả tiền thì gọi
Bảo Vệ can thiệp. Vào tù cũng gọi Bảo Vệ chuộc ra. Tiền chuộc cộng tiền
nộp cho Bảo Vệ thành một số nợ to. Mình phải làm để trả món nợ đó trước
khi có tiền gửi về nhà. Tụi em mỗi đứa một cảnh cô ơi.
Cô khác kể: Ở Bắc em trồng trà trên Thái Nguyên, sáng nắng, chiều mưa,
vất vả lắm, cũng chẳng được bao nhiêu, nhà lúc nào cũng nợ. Thấy bạn em
rủ sang Mã Lai kiếm tiền dễ hơn, nói làm massage, hát Karaoke khá lắm.
Người ta ứng trước cho cả ngàn đồng Mỹ, làm giấy tờ cho mình hết, chỉ
việc đi sang làm trừ dần. Sang đến nơi mới hay mình nợ người ta cả tiền
ứng trước, tiền vé máy bay, tiền giấy tờ, một con số to lắm. Khó lòng mà
trả được món nợ này. Giấy tờ người ta giữ hết, mình không nói được
tiếng của nước này. Thế là họ bảo sao phải nghe vậy nếu không muốn vào
tù.
Cô chưa nói hết câu đã nước mắt ngắn, dài.
Một cô khác kể chuyện của nhau:
Chúng em, có người xuất cảng lao động, cực quá không làm nổi, hay đang
làm thì hết việc.Về lại quê nhà thì tiền vay nợ để đi chưa trả được bao
nhiêu. Chồng có khi đang thất nghiệp hoặc ốm đau. Thôi anh để em ở lại
làm thêm đôi năm nữa. Anh đâu có biết đích xác em làm việc gì. “Ngậm bồ
hòn làm ngọt” cô ơi! (Chữ ngậm Bồ Hòn này chỉ có người Bắc mới biết.)
Một cô khoảng ba mươi, có cặp mắt rất buồn.
Cô ơi, làm hoài cũng quen, nếu mình biết tự đề phòng cho không nhiễm
bệnh và biết nghe lời thì dễ sống hơn. Số phần mà cô, phải chấp nhận để
sống. Chắc cỡ tuổi tụi em cũng chỉ làm được vài năm nữa. Nếu có phe đảng
thì lên làm chủ, rồi mình lại “lừa” người sang sau. Nếu không thì mang
cái thân tàn về quê. Không tính trước được cô ơi. Chúng em phó mặc cho
phần số. Giọng miền Trung của cô, ngập ngừng, dịu dàng, nghe mà mủi
lòng.
Có cô thú nhận. Tụi em yếu đuối chứ có chị rất cứng cỏi, biết bị lừa tìm
mọi cách để thoát. Chạy vào tòa Đại Sứ tố cáo, hay chạy vào sở công an
Mã, đôi khi cũng thoát được cô ạ. Thật ra các chị có chồng tốt ở nhà
chờ, chỉ vì nghèo muốn ra nước ngoài lao động, nay bị lừa nên nhất định
về. Còn như chúng em, ai có chồng ở nhà cờ bạc, nghiện hút, hay đánh đập
vợ con thì đâu còn muốn về nữa. Mà chồng mình đôi khi cũng chẳng cần
biết mình làm gì, miễn cứ gửi tiền về là được. Buồn lắm cô ơi!
Cô ăn đi chứ, sao cô cứ nhìn cái ang cá kèo vậy?
Cái ang cá kèo lạ lắm. Cả trăm con cứ nhảy tung lên như là khiêu vũ, bắn
cả ra ngoài ang. Mươi phút sau chúng nằm xếp lớp lên nhau, rất ngoan
ngoãn và thứ tự. Tất cả cái đầu nghiêng về một phía như có người cầm đũa
xếp những con cá trong một cái nồi để kho. Những con cá này
được mang sang từ Việt Nam. Người chủ quán bảo gây mê cho nó ngủ mấy
tiếng, bỏ vào thùng xốp gửi máy bay qua đây. Sang tới nơi chúng sẽ tỉnh
dậy.Từ Việt Nam sang Mã Lai có hai tiếng bay mà.
Trên một khía cạnh nào đó, những cô gái Việt có phải đã sang Mã Lai bằng cách đi của những con cá kèo này không?
Cá kèo ở Việt Nam được xếp vào dạng cá rẻ tiền, cá của dân quê nghèo khó ăn thường ngày.
Cá kèo là hạng chót nên đi xem hát mà mua vé rẻ tiền người ta cũng gọi là ngồi ở hạng “cá kèo”.
Hôm sau tôi được một anh bạn kể cho nghe chuyện “Đi Biển” tối hôm trước.
Anh ở trong nhóm của chúng tôi, anh dắt cả mấy cô cháu, cả một linh mục
khá trẻ, vào đó “tham quan cho biết sự tình” thôi.
Đó là một nhà hàng đêm có tên là Beach Club (Họ gọi tắt là đi Biển), ở
không xa khu chợ đêm. Nơi đây mỗi người vào phải mua một chai nước ngọt
hay bia giá khoảng 400 tiền Mã (gần 10 Mỹ Kim). Vào trong Biển tối om đó
có cả hàng chục cô gái Việt tuổi mười tám, đôi mươi, chạy ra vây chung
quanh mình.
Khách và các cô muốn tính với nhau thế nào thì tính, miễn là nộp tiền
cho chủ theo đúng luật đã quy định. Ở nơi này, các cô còn xuân trẻ có
thể kiếm một đêm từ một đến hai trăm Mỹ kim.
Các cô sẽ lôi kéo, vuốt ve, khách không trốn vào đâu được (thật ra đã
vào đấy thì có ông nào không muốn bị bắt). Nhưng đây là nhóm của chú
cháu anh nên họ chỉ đứng chụm vào nhau nói chuyện và quan sát. Nghe anh
nói chuyện với linh mục cứ Cha Cha, Con Con. Một cô khẽ lên tiếng:
- Con muốn được xưng tội.
Tôi ngắt lời, hỏi: Thế Cha có giải tội cho cô ấy không? Anh bạn nói, không, Cha sợ bị phục kích.
Tự nhiên tôi thấy thương quá! Nếu thật tình cô ấy muốn xưng tội thì sao?
Có lẽ cô là người Công Giáo, bao lâu nay không hề tới nhà thờ vì nghĩ
mình tội lỗi.
Tôi tin cô có thể cầu xin tha thứ thẳng với Chúa. Chúa nhân từ vô cùng, Chúa hiểu hoàn cảnh của cô hơn bất cứ ai.
Trong một buổi tối khác, quán ăn khác, chủ cũng là một phụ nữ người
Việt, khoảng bốn mươi tuổi. Phụ bếp, chạy bàn có nam, có nữ, toàn người
Việt. Một cô trông rất trẻ, đang ngồi chẻ rau muống làm gỏi cho khách.
Tôi hỏi chuyện làm quen mọi người, cô chủ cho biết ở đây đã chín năm,
chồng là người Hoa. Cô phụ bếp mới sang được một tháng. Đi diện du lịch
rồi sẽ ở luôn. Cô chủ nói, em chỉ cần đút tiền cho lính Mã là cái gì
cũng xong cô ạ.
Tôi đợi lúc cô phụ bếp mang thức ăn cho tôi, tôi hỏi: Con có gia đình chưa? Ở thành phố nào?
- Dạ có rồi, con ở Huế, con có hai đứa con nhỏ. Cô ngập ngừng một chút
nói thêm: Nghèo quá cô ạ, mà luôn luôn không có việc làm. Cả hai vợ
chồng cùng thất nghiệp hoài. Con giao con cho nhà chồng, sang đây làm để
có tiền gửi về.
Tôi nhìn kỹ cô thêm một chút, thấy cô người mảnh mai, có chút nhan sắc, tôi chạnh lòng nói khẽ.
- Cô biết con làm ở đây vất vả, từ 4 giờ chiều tới 5, 6 giờ sáng. Nhưng nếu ai rủ con đi làm việc gì nhàn hơn, nhiều tiền hơn, con đừng có nghe. Con hiểu cô nói gì không?
Cô gái nhìn tôi với cặp mắt bối rối, cô hạ mi mắt thấp xuống một chút, cô cũng trả lời rất khẽ
- Dạ, con hiểu, con cám ơn cô.
Tôi thấy lòng mình nao nao. Chẳng phải bà con thân thích gì sao bỗng thấy thương như thương con, cháu mình.
Hoàn cảnh của những cô gái mang hộ chiếu Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Cô đến từ đâu? Huế, Hà Nội, Kiên Giang, Mỹ Tho, Cà Mau hay Ninh
Bình, Lạng Sơn, Nam Định, các cô đều là những con cá kèo bị (hay tự
chọn) gây mê bỏ vào thùng xốp mang đi.
Những ngọn đèn lồng đỏ, ngọn tỏ ngọn lu đó còn treo tới bao giờ.
(Mã Lai - Tháng 4/2017)
Có thể nói hầu hết những văn-nhạc sĩ của miền nam Việt Nam, dưới hai
thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa, đều cảm thấy đau buồn khi nhắc đến ngày
30 tháng 4 năm 1975.
Cuộc sống họ đã thay đổi từ vật chất đến tinh thần. Cảm hứng sáng tác không còn nữa. Một số văn-nhạc sĩ, nếu không ra được nước ngoài thì phải chịu số phận bi thảm, tù đày, hay bị vứt ra ngoài lề xã hội ngay trên quê hương mình.
Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh, một trong những người sáng lập Phong Trào Hưng Ca, từ thành phố New Orleans tiểu bang Louisiana sẽ về vùng Washington vào tháng 6 tới để ra mắt cuốn hồi ký có tựa đề “Vượt tù, Vượt biển”, chia sẻ cảm nghĩ về 30/4:
“Khi tôi mới qua Mỹ năm 1981 thì tôi hiểu ngày 30 tháng 4 không giống như bây giờ. Mỗi năm, mỗi 30 tháng 4, ý nghĩa của nó cao hơn, in đậm trong lòng mình hơn. Tôi gọi ngày đó là một đám tang lớn. Đám tang ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, còn ray rứt hơn nữa vì khi ba mẹ tôi mất thì có đám giỗ nhưng đám giỗ đó không nhìn thấy máu đổ, không nhìn thấy đọa đày của chiến hữu, của giống nòi hiện giờ đổ xuống.”
Liên hệ đến sự kiện lịch sử này, ông Ánh nói những tác phẩm văn nghệ của hai miền nam bắc Việt Nam cũng rất khác biệt:
Cuộc sống họ đã thay đổi từ vật chất đến tinh thần. Cảm hứng sáng tác không còn nữa. Một số văn-nhạc sĩ, nếu không ra được nước ngoài thì phải chịu số phận bi thảm, tù đày, hay bị vứt ra ngoài lề xã hội ngay trên quê hương mình.
Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh, một trong những người sáng lập Phong Trào Hưng Ca, từ thành phố New Orleans tiểu bang Louisiana sẽ về vùng Washington vào tháng 6 tới để ra mắt cuốn hồi ký có tựa đề “Vượt tù, Vượt biển”, chia sẻ cảm nghĩ về 30/4:
“Khi tôi mới qua Mỹ năm 1981 thì tôi hiểu ngày 30 tháng 4 không giống như bây giờ. Mỗi năm, mỗi 30 tháng 4, ý nghĩa của nó cao hơn, in đậm trong lòng mình hơn. Tôi gọi ngày đó là một đám tang lớn. Đám tang ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, còn ray rứt hơn nữa vì khi ba mẹ tôi mất thì có đám giỗ nhưng đám giỗ đó không nhìn thấy máu đổ, không nhìn thấy đọa đày của chiến hữu, của giống nòi hiện giờ đổ xuống.”
Liên hệ đến sự kiện lịch sử này, ông Ánh nói những tác phẩm văn nghệ của hai miền nam bắc Việt Nam cũng rất khác biệt:
“Hai dòng nhạc khác nhau, trước đây dòng nhạc miền bắc lơ lớ như nhạc
Tàu, và luôn luôn sắt máu, kêu gọi nổi dậy, đứng lên, kể cả những nhà
thơ cũng vậy như Tố Hữu, nhà thơ tiêu biểu nhứt miền bắc cũng kêu gọi
giết, giết, giết. Trong văn, trong thơ của họ rất sắt máu. Họ kêu gọi
phục vụ cho ai, cho Các-mác, cho Lê-nin. Nền văn học miền bắc là nền văn
học sắt máu chỉ phục vụ cho chiến tranh, phục vụ cho tư tưởng cộng sản
để nhuộm đỏ đất nước. Ngược lại miền nam có những bản nhạc nổi tiếng,
những bản nhạc phản chiến, có những bản nhạc có thể cấm hát nhưng vẫn
được hát. Văn học miền nam rất nhân bản, rất tình người. Văn học nghệ
thuật để phục vụ cho giống nòi, cho nhân sinh và cho tư tưởng phóng
khoáng tự do, nhân quyền của con người.”
Nhạc sĩ Trúc Hồ, Tổng Giám đốc hệ thống truyền hình SBTN ở hải ngoại,
nguyên là Giám đốc âm nhạc của Trung tâm ASIA, chia sẻ suy nghĩ của một
nhạc sĩ trẻ về ngày 30 tháng 4:
“Từ ngày qua Mỹ đến giờ, mỗi mùa tháng 4 mình đều buồn hết, bởi vì mình
biết mình đã mất quốc gia, đã mất đất nước của mình, nhưng mà nhìn lại
mình cũng thấy là mình cám ơn những người lính đã bảo vệ miền nam trong
vòng hai mươi năm hơn, nên những người miền nam được có tự do. Có tự do
cho nên những văn nghệ sĩ miền nam có quyền sáng tác và quyền sáng tác
tự do đó vô cùng quan trọng bởi vì nhờ quyền tự do đó mà đệ nhất, đệ nhị
Cộng hòa chúng ta có một tài sản quốc gia về văn hóa, từ sách vở cho
tới thơ, nhạc. Mặc dù sau 1975, chính quyền cộng sản muốn tiêu diệt nền
văn hóa đó, nhưng sau 42 năm rồi chúng ta vẫn thấy trên đường phố có
những người hát những bản nhạc trước 75, ngay cả những ca sĩ trong nước
bây giờ trình diễn những show, game cũng hát những bài nhạc đó chứng tỏ
nền văn hóa đó là tài sản của quốc gia.”
Nhạc sĩ Vũ Thành An nổi tiếng vì những bài không tên trước năm 1975,
hiện là phó tế tại một nhà thờ Công giáo thuộc thành phố Portland, tiểu
bang Oregon, nói với VOA Việt ngữ:
“30 tháng 4 hoàn cảnh đã thay đổi hoàn toàn. Trước 30 tháng 4 không có
giới hạn gì cả cho nên mình suy nghĩ cái gì mình cảm thấy thì mình viết
ra và đề tài muôn thuở về tình yêu, mình nói lên những gì ở tận nơi sâu
thẳm trái tim của mình. Đối với Vũ Thành An là một điều may mắn vì có
một thời gian mấy năm trước đó, từ năm 1965 đến 1975, Vũ Thành An có 10
năm sống và sáng tác tự do cho nên có một số tác phẩm để lại trong đó có
mấy bài không tên. Sau 30 tháng 4, không còn có không khí, có cuộc sống
như trước đó nữa và trong hoàn cảnh sống như thế thì làm sao sáng tác
được như trước.”
Nhạc sĩ Trúc Hồ nhận xét những nhạc phẩm sáng tác tại Việt Nam sau năm
1975 ‘chỉ tuyên truyền thôi’ chứ ‘không đi vào lòng người’:
“Sau một thời gian khi có mở cửa rồi thì đỡ hơn. Những nhạc sĩ trong
nước cũng có cơ hội để viết những bài nhạc, không nhiều thì ít cũng có
một số bài nói lên những tình cảm riêng tư của họ. Họ được quyền nói lên
chuyện đó nhưng 42 năm so sánh với 20 năm âm nhạc của đệ nhất và đệ nhị
Cộng hòa thì không so sánh nổi đâu. Còn những sáng tác của những người
đi ra hải ngoại thì có nhiều bài hay khủng khiếp lắm vì đó là những
trang nhật ký viết bằng máu và nước mắt. Nhạc tình thì cũng có nhiều bài
khá hay nhưng nhạc đi sát với máu và nước mắt của người Việt thì loại
nhạc đó lại nổi hơn nhiều và có giá trị thời gian tính lâu hơn.”
Trong khi chính quyền trong nước tổ chức ăn mừng ngày 30 tháng 4 thì
người Việt hải ngoại xem 30 tháng 4 là một ngày tang chế cho đất nước và
nỗi nhớ thương, hoài niệm của họ lại day dứt hơn mỗi dịp tháng tư về.
GIÁO DỤC VIỆT NAM
Giáo dục trước và sau năm 1975
Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2017-04-28
2017-04-28
Giáo dục các thế hệ trở thành những con người có đầy đủ lòng yêu thương
và nhân cách để bước vào đời, hòa điệu cùng xã hội hay đào tạo ra những
cỗ máy biết đi, đứng, nằm ngồi và biết đào ra tiền nhưng lại nhanh chóng
làm nghèo đất nước? Đó là câu hỏi chung của mọi nền giáo dục. Vấn đề
giáo dục tại Việt Nam trước và sau 30 tháng 4 năm 1975 là một câu chuyện
dài. Trong giới hạn của tường trình này, chúng tôi chỉ xin phép đề cập
đến những lát cắt thông qua các nhận định của những người từng có kinh
nghiệm trong lĩnh vực này, trong phép so sánh của họ về giáo dục trước
và sau 1975 tại Việt Nam.
Một nền giáo dục nhân bản đã mất
Thầy Luận, một giáo sư dạy cấp trung học phổ thông (trước năm 1975,
những người dạy trung học phổ thông được gọi là giáo sư), chia sẻ: “Hồi
đó giáo dục thì yêu thương gia đình, tổ quốc, tôn sư trọng đạo, nhưng
họ làm thật. Rồi chào cờ thì phải nghiêm túc, đi gặp đám tang thì dở mũ
đưa tiễn, đó là nhưng thứ liên quan đến đạo đức mà gần như ai cũng được
dạy và làm. Hồi đó học sinh tôn trọng thầy lắm, sợ thầy lắm. Còn thầy
thì gương mẫu lắm, nghiêm túc. Cái kiểu mặc quần đùi lên giảng dạy là
không có rồi. Anh có thể dạy học sinh phá vỡ nhiều thứ, ví dụ như những
hủ tục nhưng tư cách của anh phải nghiêm túc. Mô phạm đó.”
Theo thầy Luận, vấn đề trọng tâm của giáo dục nằm ở chỗ người làm quản
lý và người dạy đang nắm cái lõi nào, nhắm vào trung tâm, hạt nhân nào
để từ đó khai triển thành một bộ khung triết lý trong giáo dục con
người. Và nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã làm được
điều này.
Theo ông, chính nhờ vào nền giáo dục nhân bản, lấy triết lý con người
làm trung tâm mà trong vòng hai mươi năm nội chiến với khói lửa chiến
tranh và máu đổ, nền giáo dục miền Nam vẫn mọc lên những cây trái thành
tựu hết sức xuất sắc với những cái tên như Bùi Giáng, Bùi Văn Nam Sơn,
Phạm Cộng Thiện, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh cùng hàng loạt trí thức,
nghệ sĩ tài năng và đức độ khác.
Điều này, cũng tại miền Nam Việt Nam, với quĩ thời gian hơn gấp đôi, 42
năm, sống trong hòa bình, không có lửa đạn chiến tranh nhưng lại không
có những cá nhân xuất sắc như trước đây. Đó là nói riêng về các thành
tựu đỉnh cao,nhưng khi nói tới giáo dục, mặt bằng chung vẫn là quan
trọng nhất, nghĩa là một xã hội được hình thành từ giáo dục như thế nào.
Điều này thì giáo dục miền Nam Việt Nam tốt hơn rất nhiều so với giáo
dục sau 1975.
Với triết lý nhân bản, dân tộc và khai phóng, qua giáo dục, phát triển
toàn diện mỗi cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh,
phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học… Điều này đã mang lại
một mặt bằng xã hội tương đối cân bằng, ổn định bởi sự hiểu biết, tôn
trọng dân chủ, yêu quê hương, đất nước và yêu dân tộc cũng như coi trọng
con người, lấy nhân cách và phẩm hạnh làm mục tiêu của đời người.
Như kết luận vấn đề đã nêu, thầy Luận cho rằng nền giáo dục Việt Nam
Cộng Hòa là một nền giáo dục tốt nhất trong lịch sử các nền giáo dục
Việt Nam trong lịch sử và cho đến thời điểm hiện nay. Và hơn nữa, vấn đề
chính phủ, nhà nước quan tâm đến giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa cũng
là điều đáng nói, bởi ngân sách giáo dục tuy không phì đại như hiện nay
nhưng lại đảm bảo học sinh không tốn tiền khi đến trường và nếu học tốt
thì có cơ hội du học nước ngoài. Nền giáo dục không có tính chợ búa như
nền giáo dục hiện tại.
Một nền giáo dục chợ búa
Như để chứng mình cho những luận điểm của thầy giáo cũ của mình, thầy
Toàn, một giáo viên dạy môn văn vừa nghỉ hưu, chia sẻ thêm: “Thì đầu
tiên, chính sự dối trá đã phá vỡ giáo dục. Nó dẫn đến giả bằng thật, dẫn
đến bệnh háu danh, cả xã hội bùng lên lạm phát bằng cấp. Rồi người ta
lợi dụng, hợp thức hóa những cái bằng, học vị chuyên tu, toàn bi kịch,
dốt nát kinh khủng, điều này kéo dài đã bao nhiêu năm. Rồi những cái học
vị xỏ lá đó tạo nên những vết thương trong xã hội, cái bất công trong
giáo dục cũng giống như bất công trong xã hội vậy.
Cái bất công trong giáo dục là thằng học vị cao nhất, ngu dốt nhất sẽ
là thằng lên học vị cao nhất bởi nó sẽ tìm cách hợp thức hóa cái bằng
nhanh nhất, cái học vị khốn nạn nhất. Những cái thằng học đại học chuyên
tu nó sẽ là thằng đầu tiên đi học thạc sĩ chuyên tu. Chính vì sự chen
lấn như vậy nên người có học theo kiểu này càng có nhiều bằng cấp, học
vị càng tàn ác bởi họ trả giá quá đắt. Cái kiểu đổi tình, đổi tiền lấy
điểm phổ biến.
Và khi mà họ đã trả giá quá đắt cho việc có được cái bằng, cái học vị
đó, cả thân xác họ mà họ còn không quý nữa thì nghĩa lý gì người khác,
họ phải tận thu để ‘bù vốn’, vì họ đầu tư quá lớn. Cái trụ cột đạo đức
bị gãy. Như những cô giáo mẫu giáo, họ nghĩ ra việc trộn thuốc ngủ cho
con người ta ăn đi ngủ khỏi phải trông. Những cái độc ác xuất phát từ
những gì độc ác mà họ phải trải qua trong quá trình chen lấn để lấy cái
bằng.”
Theo thầy Toàn, để nói về nền giáo dục Việt Nam hiện tại, ông có thể tóm
gọn trong mấy chữ, đó là nền giáo dục chợ búa. Tính chợ búa này thể
hiện rất rõ trong các chính sách giáo dục tốn kém nhưng không có hiệu
quả và đằng sau nó là hàng tá các nhà giáo dục xôi thịt đang chực chờ để
tham nhũng, đục khoét. Cứ mỗi lần cải cách giáo dục, học sinh phải chịu
thêm một gánh nặng mới từ học phí, sách mới, học thêm, kính thưa các
loại gánh nặng chất lên đôi vai non nớt của học sinh.
Nói sâu xa hơn một chút, nền giáo dục phía Bắc vĩ tuyến 17 những năm
trước 1975 đã có những dấu hiệu thiếu vắng tính nhân bản. Nếu như miền
Nam chú trọng vào triết lý nhân bản trong giáo dục thì miền Bắc lại tập
trung vào tính chiến đấu trong giáo dục. Những bài thơ, những truyện
ngắn đầy tính giết tróc được áp dụng triệt để trong các giáo trình văn
học miền Bắc. Từ thơ Tố Hữu cho đến truyện ngắn của Nguyên Ngọc và nhiều
nhà văn, nhà thơ khác. Các tác phẩm văn học miền Bắc đều lấy tinh thần
kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam làm kim chỉ Nam.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, trận gió giáo dục mang tính chiến đấu của miền
Bắc đã xô dạt những thư viện giáo dục nhân bản miền Nam. Và hệ quả của
nó là suốt 42 năm, nền giáo dục càng lúc càng bệ rạc. Những quan chức
giáo dục bị kỉ luật ở cấp thấp thì lại được thăng cấp, nhảy tót lên ghế
trên để làm quản lý. Hiện tại, có nhiều quan chức giáo dục cấp tỉnh, với
vị trí giám đốc sở giáo dục, nhưng nếu chịu khó kiểm tra kiến thức,
trình độ và đạo đức của họ, dường như là có quá nhiều vấn đề để bàn.
Theo thầy Toàn, có người từng bị kỉ luật ở nhà trường vì nạn đề đóm
nhưng sau đó lại được cất nhắc làm chuyên viên sở, rồi cuối cùng là giám
đốc sở giáo dục, trong khi đó, người này từng ra đề thi sai nhiều lần
vì không có kiến thức và ông ta chỉ giỏi duy nhất một điều, đó là biết
làm được lòng cấp trên, biết đội trên đạp dưới.
Một nền giáo dục không có triết lý, không coi trọng dân chủ và không đề
cao nhân cách đã và đang cho ra những đáp số xã hội đầy rẫy tội lỗi và
cái ác. Thầy Toàn khẳng định rằng nếu như truy tìm nguyên nhân gây ra
một xã hội hết sức manh động và vô cảm như hiện tại, nền giáo dục đã góp
một phần rất lớn để xây dựng nên xã hội như đang thấy.
Nói cho cùng, một nền giáo dục chỉ lấy vật dục làm kim chỉ Nam và không
coi trọng tính nhân bản, tính dân chủ, cộng thêm với sự thiếu thành thật
và phiến diện sẽ không bao giờ là một nền giáo dục có khả năng hoàn
thiện con người. Và những người trưởng thành trong nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa, nói cho cùng là nhờ vào niềm đam mê tri thức cũng như thiện
căn có sẵn của họ chứ không phải do tác động của giáo dục.
Một nền giáo dục tốt phải là nền giáo dục có khả năng tác động, làm giàu
nhân tính xã hội, ngược lại, một nền giáo dục tồi tệ là nền giáo dục
luôn chịu lời nhắc nhở về nhân tính cũng như phẩm hạnh từ xã hội. Và nền
giáo dục Việt Nam kể từ sau 30 tháng 4 năm 1975 đến nay là nền giáo dục
như thế!
CÁT LINH * VIỆT NAM THUA LÀO VÀ CAMPUCHIA
Việt Nam thua Lào và Campuchia mọi mặt - Vì sao?
Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-28
2017-04-28
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vừa kết thúc chuyến thăm chính thức Campuchia và Lào từ ngày 24 đến 27 tháng 4, năm 2017.
Không thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.
Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.
Theo thông tin nhận được từ trong nước, rất nhiều hợp tác quan hệ song
phương giữa Việt Nam, Lào và Campuchia được đánh giá tăng trưởng tốt
trong vài năm qua. Tuy nhiên, theo những số liệu báo cáo do Ngân hàng
thế giới – World Bank và Diễn đàn kinh tế Thế giới – WEF đưa ra cho thấy
Việt Nam ngày càng thua Lào và Campuchia về mọi mặt.
Thậm chí, trong một bài viết đăng tải trên báo Một Thế giới viết rằng:
“Việt Nam bị Lào, Campuchia vượt qua không còn là dự báo, không còn là
nguy cơ nữa mà đã thành hiện thực và cái danh sách thua kém ngày càng
dài ra.”
Kinh tế
Nói về báo cáo của các tổ chức tài chính thế giới liên quan đến mức tăng
trưởng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Tiến sĩ kinh tế Lê Đăng
Doanh, nguyên là Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, từ Hà Nội
đưa ra những điểm ông cho là đáng chú ý:
“Cái tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Campuchia và của Lào cao hơn
Việt Nam những năm gần đây. Campuchia tăng trưởng khoảng 7 – 8%. Trong
khi đó Việt Nam năm ngoái chỉ tăng 6,21%, quí 1 năm nay tăng 5%.
Cái thứ hai, số doanh nghiệp tư nhân của Campuchia thì cũng cao hơn Việt Nam.
Campuchia cũng ít, hay hầu như không có những doanh nghiệp nhà nước
lớn như Việt Nam kinh doanh vào những lĩnh vực có tính chất thương mại.
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.”
Lào có nhiều tài nguyên, nhất là tài nguyên thuỷ điện. và Lào đang cố gắng hướng đến sự phát triển mạnh mẽ.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Báo Một Thế Giới từng trích dẫn lời chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ -
Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển – đánh giá về khả năng
hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam so với Lào và Campuchia. Ông
đã đưa ra một vài nhận định khá đồng thuận với Tiến sĩ Lê Đăng Doanh.
Điển hình là ở mô hình kinh tế, một vấn đề dẫn đến sự tụt hậu của Việt Nam. Ông Lưu Bích Hồ cũng nói rằng “doanh
nghiệp tư nhân của Campuchia không bị trì trệ, và đặc biệt, Campuchia
không có nhiều doanh nghiệp nhà nước nên họ không gặp trở ngại về hệ
thống hành chính”. Ngược lại, theo ông, nguyên nhân chủ yếu của Việt Nam là do “bộ máy hành chính quá cồng kềnh và chậm chạp trong việc cải cách.”
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan hoàn toàn không phản biện vấn đề này. Bà
chia sẻ ý kiến với báo trong nước rằng hoạt động kinh tế của Lào và
Campuchia không xây dựng ở quy mô hoành tráng. Ngược lại, họ tập trung
một số ít ngành có thế mạnh nên dẫn đến chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp tốt hơn Việt Nam.
Giáo dục dừng lại
Không phải chỉ riêng nền kinh tế, sự thụt lùi của Việt Nam so với Lào và
Campuchia được báo chí trong nước nhắc đến ở nhiều dấu hiệu. Một trong
những dấu hiệu đó nằm ở lĩnh vực giáo dục.
Tiến sĩ, nhà giáo Vũ Minh Giang đưa ra ý kiến về dấu hiệu tụt hậu giáo dục ở Việt Nam so với hiện tại và thập kỷ trước.
“Có một thời kỳ người ta đánh giá cao giáo dục Việt Nam thì lúc đó,
tôi nghĩ rằng, những thành tựu của giáo dục Việt Nam tập trung ở cái
giải quyết mặt bằng có tính đại trà.
Ví dụ từ một dân tộc mà số người không biết chữ rất đông, sau đó bằng
nhiều chính sách có tính chất phổ cập thì người biết chữ gần như phổ
cập toàn bộ thì đó là thành tích rất lớn của giáo dục Việt Nam.”
Với điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý rất khác nhau của các vùng miền
trong xã hội Việt Nam, nhưng nền giáo dục Việt Nam đã tạo ra được một sự
tương đối khá đồng đều, Nhà giáo Vũ Minh Giang đánh giá đó là một nỗ
lực rất lớn.
Tuy nhiên, ông đưa ra phản biện về ý kiến nói rằng giáo dục Việt Nam đã
tụt hậu so với các nước láng giềng từ sau khi giáo dục được phổ cập toàn
bộ.
“Những gì mà ngay cả thời kỳ gọi là phát triển mạnh ấy thì bây giờ
không gọi là tụt hậu mà là vẫn duy trì như thế. Người ta gọi là dừng
lại. Trong khi đó thì các nước xung quanh phát triển bắt kịp với chuyển
biến nhanh của thế giới.”
Vào giữa năm 2016, Nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh,
với vai trò là diễn giả trong buổi toạ đàm tại trường Đại học Tôn Đức
Thắng cho biết điều ông trăn trở nhất là nguồn nhân lực của Việt Nam
không được đào tạo và sử dụng có hiệu quả. So sánh với hình thức thi cử
của các nước khác, ông Vinh chỉ ra thể chế của giáo dục Việt Nam là
“kiểm soát đầu vào chặt chẽ mà không xem xét kết quả”.
Nhận xét về điều này, nhà giáo, Tiến sĩ Vũ Minh Giang nói rằng hệ thống
giáo dục đào tạo Việt Nam cần phải có những cải cách rất mạnh mẽ và cấp
bách. Ông gọi vấn đề này là “Đổi mới căn bản toàn diện.”
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Theo ông, giáo dục Việt Nam đã dừng lại quá lâu một phương thức tiếp cận
mà cho đến bây giờ không phù hợp nữa, là tiếp cận nội dung, tức là dạy
rất nhiều những kiến thức mà rồi kiến thức đó vận dụng vào xã hội khó
khăn. Để tiếp cận nội dung thì học sinh phải học và nhớ rất nhiều. Hệ
thống thi cử đánh giá thì cũng theo cách đó.
“Đấy là một hạn chế mà bây giờ đang bắt đầu công việc đổi mới không
hề dễ chút nào, rất là khó khăn. Nó chuyển đổi hẳn sang một tiếp cận để
người học được học phương pháp, học kỹ năng, học làm người và nhiều cái
khác nữa. Bởi bây giờ, kiến thức thì người ta có thể tìm thấy ở bất cứ
đâu, học ở bất cứ đâu.”
Bên cạnh đó, ông ý kiến thêm, người học phổ thông ở Việt Nam còn nhiều
hạn chế về định hướng ngành nghề tương lai. Ông nhận thấy sự học ở Việt
Nam vẫn còn trong tư tưởng Đại học là con đường duy nhất nên tạo ra sự
mất cân đối trong đào tạo.
Bên cạnh nền giáo dục có tính cách đại chúng, theo nhà giáo Vũ Minh
Giang, cần phải có một cơ chế thu hút nhân tài, sử dụng tài năng.
“Việc tìm, phát hiện và đặc biệt sử dụng tài năng ở Việt Nam hiện nay
vẫn còn đang nhiều cái chưa phù hợp, chưa thu hút tài năng. Nguồn nhân
lực tài năng hiện nay đang tìm đường đi nơi này nơi khác, nên vẫn còn
hiện tượng người ta hay gọi là chảy máu chất xám.”
Cải cách thể chếKhông thiếu những buổi toạ đàm, những ý kiến của chuyên gia, tiến sĩ trong nước bày tỏ lo ngại về lời cảnh báo Việt Nam thua kém Lào và Campuchia. Ông Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế vĩ mô – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, trong lần trả lời báo trong nước vào năm 2016 cho biết giải pháp cần thiết theo ông là chính sách tiền tệ phải được cân bằng, giữ ổn định thành quả kinh tế vĩ mô. Nhưng quan trọng hơn hết là cải cách thể chế.
Đồng thuận với ý kiến này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng Việt Nam cần phải xem xét thực hiện một số vấn đề liên quan đến thể chế.
Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy, nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả và cần thiết.
- Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
“Cái điều Việt Nam cần phải làm là cải cách thể chế, cải cách bộ máy,
nghĩa là nhà nước làm những việc mà đích thị nhà nước làm có hiệu quả
và cần thiết. Như chăm lo bảo vệ môi trường, xây dựng kết cấu hạ tầng,
chăm lo giáo dục y tế. Còn các lĩnh vực thuần tuý thương mại như sản
xuất bia nước ngọt thì nhà nước nên thoái vốn để tư nhân hoạt động có
hiệu quả hơn.”
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói rằng những vấn đề này một lần nữa đã được đề
cập trong nghị quyết 19 của năm nay. Kết quả thực hiện sẽ như thế nào,
vẫn còn là câu hỏi chưa có đáp án đối với xã hội, người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, có hai điều mà ai quan tâm đến tình hình tăng trưởng của đất
nước cũng tìm hiểu được, đó là chiếc ôtô "Angkor EV 2014" lấy tên ngôi
đền cổ Angkor của Campuchia được điều khiển bằng điện thoại thông minh
và thẻ căn cước tần số rađiô (RFID) có trang bị hệ thống GPS, có vận tốc
tối đa 60km/giờ và do nhà sáng chế Nhean Phaloek, người Campuchia thiết
kế.
Điều thứ hai, là câu nói nổi tiếng của ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng
Singapore từng nhận xét hàng: “Nếu có vị trí số một Đông Nam Á thì đó
phải là Việt Nam.”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-lags-behind-laos-n-cambodia-why-cl-04282017081028.htmlTHANH TRÚC * HỒI TƯỞNG CỦA VIỆT CỘNG SAU 42 NĂM
Hồi tưởng của cựu binh miền Bắc 42 năm sau chiến tranh
Nhuộm đỏ đất nước theo XHCN
Hôm nay là ngày 27, chỉ còn 3 hôm nữa là 30 tháng Tư 2017, 42 năm im tiếng súng mà lòng người vẫn chưa yên, là cảm nghĩ từ một số cựu binh từng vượt Trường Sơn gọi là vào giải phóng miền Nam 42 năm trước:
Ngày 27 tháng Tư năm 1975 thì tôi đang công tác ở rừng U Minh Thượng thuộc Long Châu Hà theo cách gọi của phía cộng sản tức là gồm Long Xuyên, Châu Đốc và Hà Tiên. Đến ngày 30 tháng Tư, đơn vị chúng tôi được lệnh tiến ra tiếp quản các cơ sở kinh tài, ngân hàng, ngân khố, kho bạc của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vượt hơn một ngày trời bằng đường bộ và bằng ghe xuồng trên các kênh rạch ở miền Nam, đến đêm ngày 1 tháng Năm tiến vào thị xã Long Xuyên, tiếp quản Ngân Hàng Công Thương cũng như Kho Bạc, Ty Ngân Khố, Sở Nông Nghiệp của tình An Giang lúc đó.
Tiếp xúc với bà con họ hàng thân thuộc đã di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 thì tôi chính thức có lập trường hoàn toàn khác với những gì mà đảng cộng sản và cả hệ thống giáo dục miền Bắc nhồi nhét cho tôi.Đó là hồi tưởng của cựu binh Nguyễn Khắc Toàn khi chưa đầy 20 tuổi:
- Cựu binh Nguyễn Khắc Toàn
Nhưng mà tôi đã thấy một thành phố phồn thịnh, sầm uất ở miền Nam. Tháng Chín 1975 tôi có dịp lên bệnh viện Chợ Rẫy chữa vết thương trong chiến tranh, được tiếp xúc với bà con họ hàng thân thuộc đã di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 thì tôi chính thức có lập trường và có nhận thức hoàn toàn khác với những gì mà đảng cộng sản và cả hệ thống giáo dục miền Bắc nhồi nhét cho tôi.
Càng nhận thức càng thêm ngậm ngùi và tiếc nuối, là tâm trạng của cựu binh Nguyễn Khắc Toàn 42 năm sau, khi quyết định trở thành một người hoạt động cho dân chủ và dân oan ở Hà Nội:
Đi vào miền Nam dưới khẩu hiệu giải phóng, thống nhất đất nước, chống Mỹ cứu nước, nhưng bây giờ nhìn lại cuộc chiến đã kết thúc cách đây 42 năm thì rất buồn bởi đó là cái bi kịch lớn của dân tộc. Lẽ ra cuộc chiến này không nên có. Đất nước thì cần phải thống nhất nhưng thống nhất bằng con đường hòa bình, thương lượng, đàm phán như tấm gương của Cộng Hòa Liên Bang Đức và Cộng Hòa Dân Chủ Đức thì tốt hơn. Gọi là đi giải phóng miền Nam mà chế độ miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã có đầy đủ những đặc trưng của một xã hội tiến bộ, người dân được tự do làm ăn kinh doanh, một xã hội văn minh. Tiến hành một cuộc chiến để thu hồi nốt miền Nam, để nhuộm đỏ toàn bộ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa chỉ là một ảo vọng, chỉ là một thử nghiệm thì nay cũng đã sụp đổ hết.
Ngày 30 tháng Tư 1975 đã theo đoàn quân 203 vào tiếp quản Sài Gòn, cựu chiến binh Bùi Đình Toàn:
Lần đầu tiên vào thành phố Hồ Chí Minh thì rất ngỡ ngàng, rất xa lạ. Phải nói là lối sống của thành phố Hồ Chí Minh nó hay gấp bao lần Hà Nội, dân lúc bấy giờ người ta cũng không ưa cộng sản lắm. Nó hay là con người ta sống thoải mái hơn ngoài Bắc. Lúc bấy giờ tôi còn đi thăm một số cô dì chú bác di cư năm 54. Năm 77 tôi lại vào trong ấy một lần nữa thì coi như là một số gia đình đã đi hết, một số nữa đến năm 80 thì cũng đi hết không còn ai.
Ông Bùi Đình Toàn đã làm việc 6 năm tại Công Ty Xổ Số tỉnh Đồng Tháp. Năm 1983, khi xin chuyển về Bắc mà không được chấp thuận, ông bỏ việc trở lại Hà Nội, đi làm trong một số cơ quan ở đây. Đến giờ đã luống tuổi, ông là thợ sửa vá xe đạp tại phố Quán Sứ, Hàng Bông:
Tôi là người Phố Cổ mà cũng là người nhiều đời ở phố này rồi, ngồi sửa xe lặt vặt được hào nào hay hào ấy, năm nay tôi 64 rồi.
Ngày 30 tháng Tư mỗi năm là lúc ông Bùi Đình Toàn cảm thấy buồn cho mình nhất và nhớ thương đồng đội đã ngã gục ở chiến trường hơn bao giờ hết:
Tôi chả có chế độ gì cả mặc dù mình là người lính là người từng cầm súng đi đánh giặc bao năm. Thật ra cái số cũng còn may mắn, đơn vị tôi nhiều người chết lắm, 10 người chết đến 7 mà bao nhiêu trận là tôi thoát chết.
Đáng nhẽ những người lính như tôi và một số đồng đội về là phải có sự ưu đãi nhưng thực tế thì chả có cái gì ưu đãi cả. Những năm tháng còn trẻ thì mình gian khổ trong chiến trường dọc theo các nơi mà thực tế cuộc chiến này cũng chẳng mang lại cái gì cả. Giải phóng rồi cuộc sống cao lên thì nó là là tiến triển chung của xã hội, còn nói chung những người lính như chúng tôi thiệt thòi nhất là những năm tháng trẻ tuổi mà phải đi cầm súng, bao nhiêu người hy sinh bao nhiêu người chết, không tưởng tượng được chiến tranh nó kinh khủng thế nào đâu. Những người bạn của tôi, 50 người, về chỉ còn 3 người.
Theo lời ông Bùi Đình Toàn, chiến tranh không chỉ cướp đi tuổi thanh xuân đẹp đẽ nhất của bao trai tráng Việt Nam mà còn biến họ thành phế phẩm xã hội như tình cảnh của ông hiện giờ.
Lần đầu tiên vào thành phố Hồ Chí Minh thì rất ngỡ ngàng, rất xa lạ. Phải nói là lối sống của thành phố Hồ Chí Minh nó hay gấp bao lần Hà Nội.Ngày 30 tháng Tư 1975 cựu binh Nguyễn Duy Huân, quê ở Tuyên Quang, đang cùng sư đoàn 308 có mặt tại chiến trường Quảng Trị. Năm 1977 ông được chuyẻn ngành vể làm công tác báo chí tại Tuyên Quang. Năm 1995, ông bị qui kết chiếm đoạt tài sản nhà nước do cấp trên vu cáo, liên quan đến tuyến đường Tân Trào Tuyên Quang mà Bộ Chính Trị khóa VIII đảng cộng sản khởi xướng để kỷ niệm 105 ngày sinh Hồ Chí Minh và 50 năm ngày thành lập nước:
- Cựu binh Bùi Đình Toàn
Tôi chỉ là người làm công mà họ qui kết cho tôi là bao nhiêu vật liệu là tôi chiếm đoạt hết để họ bắt đưa đi tù.
Suốt 21 năm qua, cựu binh Nguyễn Duy Huân đi gỏ cửa nhiều nơi cấp trung ương nhưng vì thấp cổ bé miệng nên cứ bị đẩy từ cơ quan này qua cơ quan khác mà không được giải quyết rốt ráo:
Năm nay là năm thứ 21 rồi, thông qua vụ việc của tôi và một số dân oan khác thì nói thực bây giờ tôi chẳng còn tin gì cái đảng cộng sản này, nó là một đảng ăn cướp chứ không còn là đảng lãnh đạo nhà nước và xã hợi nữa, nó từ cấp cơ sở đến cấp trung ương rồi. Nói thực qua cuộc chiến đồng đội của tôi hy sinh rất nhiều, biết bao nhiêu người đã chết ở Quảng Trị, Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, xương máu của đồng đội tôi đổ xuống sông xuống biển hết, nó chả mang lại ý nghĩa gì cả. Sau khi đã có độc lập tự do rồi những người như chúng tôi, là những người có công, lại trở thành người mất hết không còn gì cả. Trong quá trình 20 năm khiếu kiện ròng rã như thế tôi mới được biết người đi khiếu kiện ở cấp trung ương là rất đông, phải tới 2/3 là những trường hợp gia đình có công với cách mạng đang bị trù dập..
Đó là một trong những lý do mà cựu binh Võ Văn Tạo, vốn may mắn được hoàn cảnh học tập và sinh hoạt thuận lợi hơn anh em đồng ngũ khác, không bao giờ muốn vào đảng mà chỉ muốn làm một cây bút phản biện như đang làm:
Năm 1972 tới có mặt tại chiến dịch “mùa hè đỏ lửa” tôi có mặt 14 tháng trong Quảng Trị. Tóm lại tôi có tham gia cuộc chiến đầy đủ từ lúc trinh sát cho đến lúc kết thúc. Khi về trường đại học tôi đã nghiên cứu về chủ nghĩa Mác với một tư duy phân tích độc lập và một số anh em chúng tôi biết cái đó là sai lầm rồi cho nên là tôi không vào đảng.
Tôi chỉ mong một đất nước Việt Nam làm sao để xứng đáng như hồi chúng tôi bắt đầu hăm hở vượt Trường Sơn đi vào Nam, và sau này tiến lên chủ nghĩa xã hội như đảng và nhà nước tuyên truyền là ưu việt.
Từ năm 75 đến giờ thì đất nước đã vượt qua những giai đoạn tăm tối nhất nhưng so với thế giới thì vẫn tụt hậu. Kinh tế phát triển đã chậm mà xã hội có nhiều bất ổn đẻ ra từ một cơ chế không có đối lập không có đa nguyên không có cạnh tranh chính trị cho nên kết quả không được như chúng tôi mong muốn.
Bây giờ nhìn lại cuộc chiến đã kết thúc cách đây 42 năm thì rất buồn bởi đó là cái bi kịch lớn của dân tộc.Trong mặt trận ở Quảng Trị, chỉ trong một mùa hè mà gần 30.000 người ngã xuống thì tôi cảm thấy như mình mắc nợ anh em, mình còn sống mà để cho đất nước mình như thế này. Cho nên còn một ngày thì tôi còn cố gắng góp ý để cho đất nước mình không tụt hậu, không xa lạ, không dị hợm với nhân loại tiến bộ. Để cho con cháu mình nở mày nở mặt và đồng đội của tôi nằm dưới suối vàng cũng mát lòng mát dạ.
- Cựu binh Nguyễn Khắc Toàn
Sau cùng là cựu binh Nguyễn Đức Giang, không đi B tức không vào miền Nam
vì còn nhỏ tuổi, nhưng sau này có tham gia trận chiến biên giới phía
bắc 1979, nói rằng sau 30 tháng Tư 75 ông đã đủ lớn để nhìn thấy và
hiểu biết về miền Nam Việt Nam thông qua những thứ mà các anh chị bộ đợi
trở về và mang theo như những chiến lợi phẩm:
Nghe các anh chị bộ đội kể lại trong cuộc chiến thì báo chí, đài, cứ
ca ngợi giải phóng miền Nam là giải phóng đồng bào khỏi ách thống trị
của Việt Nam Cộng Hòa, của đế quốc Mỹ. Nhưng mà sau khi giải phóng miền
Nam xong thì các sĩ quan quân đội từ tiểu đoàn, trung đoàn trưởng là bê
ra Bắc nào Tivi, tủ lạnh, quạt, xe máy...Còn lính tráng không được phép
mang thì bổ xà phòng ra rồi giấu đồng hồ trong đấy. Một cái đồng hồ hồi
ấy mang ra có thể có giá trị hàng cây vàng, bán một cái quạt Sanyo là có
thể đổi lấy được một cái nhà ở nông thôn.
Ngoài Bắc sau 75 thì đồ miền Nam mới được xài nhiều chứ ngày xưa làm
gì có tivi để xem. Băng nhạc thì nhiều nhà có điều kiện hoặc có bà con
trong Nam ra là bắt đầu mang ra những giàn Akai, loa Pioneer, thế là bật
nhạc tiền chiến nghe thích lắm. Cũng chỉ nghe nhỏ thôi, nghe to là công
an nó đến tịch thu, không cho nghe nhạc vàng.
Tôi thấy cuộc chiến này là anh em đánh nhau, huynh đệ tương tàn chứ
chả phải giải phóng miền Nam gì cả. Đến giờ phút này tôi thấy đất nước
dưới chế độ cộng sản thì càng ngày dân chúng càng bất bình, nhưng có
điều là có người dám lên tiếng và có người không dám lên tiếng.
Liên lạc góp ý với Thanh Trúc: nguyent@rfa.org
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/northern-soldiers-forty-two-years-after-war-tt-04272017113113.htmlTẠ QUANG KHÔI * KÝ GIẢ NẰM VÙNG
KÝ GIẢ NẰM VÙNG
TẠ QUANG KHÔI
Tôi không biết chắc miền Nam trước 30 tháng 4 1975 có bao nhiêu ký giả nằm vùng cho cộng sản, tôi chỉ nhớ có mấy người. Có người tôi quen thân, cũng có người tôi chỉ gặp một vài lần mà không quen.
I.NGUYỄN NGỌC LƯƠNG
Người tôi quen thân nhất là Nguyễn Ngọc Lương vì Lương cùng làm đài phát thanh Saigon với tôi nhiều năm, lại cùng quê Nam Ðịnh. Lương ở Hải Hậu, tôi ở ngay tỉnh lỵ. Vì tình đồng hương, chúng tôi dễ thân nhau. Hồi mới gặp Lương, tôi không ngờ ông lại là một cán bộ cộng sản được gài vào Nam theo cuộc di cư năm 1954. Ông có vẻ nhà quê và ít hiểu biết. Vào cuối thập niên 1950, thuốc chữa bệnh lao phổi rất hiệu nghiệm là Streptomycine, thế mà Lương không biết. Khi tôi sang thăm ông bên Thị Nghè, thấy ông gầy và xanh xao. Tôi ngạc nhiên hỏi ông có ốm đau gì không, thì ông cho biết bị lao phổi và đang uống thuốc Bắc. Tôi rất ngạc nhiên về sự kém hiểu biết của ông. Vậy mà cũng là biên tập viên phòng bình luận đài phát thanh Saigon. Tôi liền nói :
“Trời ơi, sao cậu lại uống thuốc Bắc ? Cậu phải đi bác sĩ hoặc vào nhà thương ngay. Thuốc Bắc làm sao chữa được ho lao.”
Quả nhiên sau một thời gian nằm bệnh viện Saint Paul, Lương khỏi bệnh. Con người như thế, ai có thể ngờ là một cán bộ cộng sản nằm vùng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông bị công an bắt. Không phải một lần mà nhiều lần. Tôi không hiểu sao công an bắt rồi thả mà không giam giữ luôn trong tù hoặc đưa ra tòa nếu biết chắc ông hoạt động cho cộng sản ? Không những thế, ông tổng giám đốc Nha Vô Tuyến Truyến Thanh còn vào khám thăm Lương. Nhưng rồi ông không làm đài phát thanh nữa mà ra mở báo riêng, một tờ nguyệt san (tôi quên tên tờ nguyệt san này). Tòa báo ở đường Phạm Ngũ Lão và bút hiệu ông là Nguyễn Nguyên. Như vậy, chính quyền miền Nam quá khoan dung.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Lương lộ nguyên hình là một cán bộ cộng sản trong lãnh vực báo chí. Ði đâu ông cũng ôm kè kè một chiếc cặp da đầy các bài viết. Ông thường hôi thúc tôi viết cho ông, nhưng không nói rõ sẽ đăng báo nào. Một hôm, Ông mở cặp lấy ra hai bài viết của hai tác giả nổi tiếng miền Nam (tôi xin phép được giấu tên hai tác giả này vì một người đã qua đời và một hiện sống ở Úc). Tôi tò mò đọc lướt qua hai bài viết. Cả hai đều bị Lương sửa bằng bút đỏ, như thầy giáo sửa bài luận văn của học trò. Thật ra, tôi cũng chưa bao giờ sửa bài học trò quá đáng như vậy. Tôi rất ngạc nhiên về sự sửa chữa ấy. Dù sao họ cũng là những tác giả đã nổi tiếng trước 1975.
Sau nhiều lần bị Lương hối thúc, tôi đành viết một truyện ngắn, tên là “Tiếng Hát Trương Chi” với mục đích bênh vực các nhà văn miền Nam cũ, cho rằng họ là những người có tài, nhưng bị chế độ mới ruồng rẫy, ghét bỏ. Khi tôi viết xong, tìm Lương thì không thấy ông đâu. Có người cho biết lúc đó ông phải về quê Hải Hậu, Nam Ðịnh, để xác nhận lại đảng tịch và cấp bậc thượng tá. Khi tôi đưa các con tôi vượt biên thì ông vẫn chưa trở lại Saigon.
Sau khi được định cư ở Mỹ, tôi lại liên lạc được với Lương qua những lá thư gửi bưu điện. Tôi biết tin ông không còn được đảng và nhà nước cộng sản trọng dụng nữa. Ngay cả vợ ông cũng đã bỏ ông. Bà là em gái ông Ngô Vân, chủ nhiệm nhật báo Tia Sáng ở Hà Nội trước năm 1954. Bà làm cho sở Mỹ, đáng lẽ được Mỹ bốc ra khỏi Việt Nam trước 30 tháng 4 năm 1975. Nhưng vì chồng bà là cán bộ cộng sản nên bà bị Mỹ bỏ rơi.
Cuối cùng Lương qua đời vì bệnh ung thư.
II. VŨ HẠNH
Người thứ hai mang tiếng nằm vùng hay thân cộng là Vũ Hạnh. Tôi quen Vũ Hạnh từ hồi cùng làm báo Ngày Nay của nhà văn Nguyễn Họat tức Hiếu Chân, Rồi sau đó lại cùng dạy ở một trường tư. Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Ðức Dũng, người Ðà Nẵng (hay Hội An ?). Theo ông Vũ Ký, một giáo sư của trường Pétrus Ký, cũng là một nhà văn, cùng quê với Vũ Hạnh, thì Hạnh đã bị chính quyền tỉnh Ðà Nẵng (hay Hội An ?) nọc ra giữa sân tòa tỉnh trưởng để đánh đòn về tội thân cộng, rồi thả ra mà không bắt giam. Quả thật tôi không biết chuyện này thực hư ra sao nhưng thắc mắc nếu đã biết Hạnh là cộng sản nằm vùng mà không bắt giam, chỉ đánh đòn thôi ? Không lẽ chính quyền miền Nam chống cộng một cách…ngây thơ như vậy ?
Dù nhiều người không ưa Vũ Hạnh, nhưng ai cũng phải công nhận ông viết văn hay. Nhiều lần ông đề nghị ông và tôi xúất bản một tờ báo lấy tên là “Ði Về Hướng Mặt Trời”. Tôi đứng tên chủ nhiệm, ông chủ bút. Tôi hiểu thâm ý của ông nên cương quyết từ chối.
Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, chính quyền cộng sản tổ chức một buổi họp mặt các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ cũ của Ðại Hàn, Hạnh và mấy cán bộ nàm vùng, như Thái Bạch, Nguyễn Ngọc Lương đều đeo súng lục bên hông. Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn nửa đùa nửa thật nói với Hạnh :”Anh em văn nghệ chỉ quen dùng bút, chư có biết chơi súng đâu.” Hạnh lườm xéo Tuấn rồi bỏ đi.
Nhưng mấy tháng sau đó, tôi tình cờ gặp Hạnh ở giữa đường. Tôi chưa kịp hỏi thăm, ông đã lắc đầu nói nhỏ :”Totalement decu !” (hoàn toàn thất vọng). Tôi không dám có ý kiến gì vì khi ở với cộng sản, ta không thể tin bất cứ ai trừ những người thân trong gia đình. Sau đó ít lâu, một người bạn giầu có của tôi cho biết anh cộng tác với Vũ Hạnh để mở một gánh hát cải lương. Tôi không quan tâm mấy nên không hỏi thêm điều gì, vì lúc đó vợ tôi đang ốm nặng. Dường như gánh hát thất bại nên ít lâu sau lại nghe tin Hạnh lập xưởng làm xà bông. Tất nhiên cũng phải có người bỏ vốn. Tôi thắc mắc tại sao Hạnh thân cộng, nằm vùng, mà sau khi chiếm được miền Nam cộng sản không dùng Hạnh khiến ông long đong phải làm hết việc này đén việc khác để kiếm sống ? Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi tôi đang tìm đường vượt biên, một hôm tôi tình cờ gặp Trần Phong Giao ở nhà bưu điện Saigon. Giao là thư ký tòa soạn tờ nguyệt san Văn trước năm 1975 mà Nguyễn Đình Vượng là chủ nhiệm. Giao và tôi ngoài tình bạn văn nghệ còn có tình đồng hương nữa. Chúng tôi cùng sinh trưởng ở Nam Ðịnh. Vì lâu không gặp nhau, chúng tôi ngồi ngay xuống bậc thềm nhà bưu điện để nói chuyện. Chúng tôi nói đủ thứ chuyện, cuối cùng tôi thì thầm cho Giao biết tôi đang tìm đường vượt biên. Ông liền hỏi tôi có biết Vũ Hạnh cũng đang tìm đường vượt biên không ? Tôi ngạc nhiên hỏi :
”Nó mà cũng vượt biên ?”
Giao lắc đầu và cho biết Hạnh tìm đường cho các con Hạnh thôi. Rồi Giao cười, nửa đùa nửa thật :
“Thằng ấy mà ra khỏi nước thế nào cũng bị người ta quẳng xuống biển.”
Rồi Giao nói thêm :
“Ngay cả việc giới thiệu cho con nó đi thôi cũng không dám, lỡ nó tố cáo với công an tổ chức vượt biên thì mệt lắm.”
Có một điều rất ngạc nhiên là từ khi ra khỏi nước, sống ở hải ngoại, tôi không hề nghe ai nhắc tới Vũ Hạnh nữa, kể cả những bạn văn nghệ còn sống ở Việt Nam. Cho đến nay tôi không hiểu Hạnh còn sống hay đã chết ?
Nhà văn thứ ba bị coi là nằm vùng cho cộng sản là Ngọc Linh. Khi viết truyện cho nhật báo Hồa Bình, cứ hai ba hôm tôi lại phải ghé tòa báo để đưa bài. Lần nào tôi cũng gặp Ngọc Linh. Ông làm thường trực trong ban biên tập, đồng thời viết cả truyện dài cho báo. Ông là một nhà văn có nhiều độc giả hâm mộ. Ông có truyện đã được đưa lên sân khấu cải lương và quay thành phim, như truyện “Ðôi Mắt Người Xưa”. Một hôm tôi ghé tòa soạn Chính Luận để đưa bài, một nhân viên tòa soạn hỏi tôi có biết Ngọc Linh là cộng sản nằm vùng không ? Tôi hơi ngạc nhiên vì quả thật tôi không bao giờ nghĩ rằng Ngọc Linh lại có thể là một cán bộ cộng sản. Ông có một cuộc sống rất sung túc và rất…tiểu tư sản. Ông đi xe hơi Nhật mới toanh, là chủ một phòng tập dưỡng sinh (không rõ là Tai chi hay Yoga ?) Truyện ông viết rất ướt át đày tình cảm. Ông biết rõ lập trường chống cộng của tôi mà vẫn thân mật với tôi. Ông đã giới thiệu nhà xuất bản in sách của tôi.
Rồi chỉ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông mới tỏ ra thân cộng. Ông tích cực họat động cho hội Văn Nghệ Sĩ cộng sản. Một hôm, tôi tình cờ gặp ông giữa đường, lúc đó ông không còn lái xe hơi nữa mà đi xe đạp, tôi vui vẻ chào ông mà ông ngoảnh mặt làm ngơ như chưa từng biết tôi là ai. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ra ngay. Tôi không buồn mà cũng chẳng giận ông. Ít lâu sau thì nghe tin ông bị tai biến mạch máu não và qua đời.
Trong giới văn nghệ Saigon, người ta cũng đồn nhà văn Sơn Nam nằm vùng. Tôi không thân với Sơn Nam, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở tòa báo Chính Luận khi cùng đến đưa bài. Chúng tôi lạnh nhạt chào nhau một cách xã giao. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tôi thấy ông cũng không có gì thay đổi.
Người cuối cùng nằm vùng trong làng báo Saigon mà tôi biết là Thái Bạch. Tôi chỉ gặp Thái Bạch có hai lần. Lần thứ nhất ở tòa báo Tự do vào năm 1955, rồi ông mất tích luôn. Sau 30 tháng 4 năm 1975, trong buổi họp các văn nghệ sĩ Saigon ở tòa đại sứ Ðại Hàn cũ, ông xuất hiện và có đeo súng lục bên hông với vẻ mặt vênh váo.
Tổng số những nhà văn nhà báo nằm vùng cho cộng sản hay thân cộng, tôi chỉ biết có thế thôi. Nhưng tôi thắc mắc về hai chữ “nằm vùng”. Theo tôi hiểu thì “nằm vùng” là có hoạt động cho cộng sản, chống lại chính quyền quốc gia miền Nam. Ngay cả Nguyễn Ngọc Lương là người được cộng sản gài theo dân Bắc di cư vào Nam và có cấp bậc thượng tá và là đảng viên đảng cộng sản, tôi cũng không thấy có hoạt động gì có lợi cho cộng sản. Không những thế, ông còn làm trong phòng bình luận của đài phát thanh Saigon. Nhân viên của phòng này có nhiệm vụ viết những bài ca tụng hoặc giải thích mọi việc làm của chính phủ. Một biên tập viên của chính phòng đó một hôm nói đùa với tôi rằng họ làm công việc “mẹ hát con khen hay”. Lương cũng phải viết những bài theo lập trường đó, không thể viết ngược lại được. Người ta chỉ biết ông là cộng sản khi ông bị công an Saigon bắt mấy lần.
Ðối với những người “nằm vùng” hay thân cộng, tôi không được đọc một bài viết chống chính phủ quốc gia hay ca tụng cộng sản nào. Như vậy, có thật họ nằm vùng hay chỉ ngấm ngầm thân cộng thôi ? Nếu chỉ là thân cộng hay có cảm tình với cộng sản thì tôi dám nói rằng trước 30 tháng 4 năm 1975, đa số người Nam có cảm tình với cộng sản vì nhiều gia đình có thân nhân tập kết ra Bắc. Rồi chỉ sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam và giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam họ mới vỡ mộng. Vào cuối năm 1975, một hôm nhà văn Phan Nghị đến thăm tôi. Khi tôi ra mở cửa, ông toe toét cười nói oang oang :
“Mày biết không ? Bây giờ miền Nam hết người mù rồi.”
Tôi chưa hiểu ý ông định nói gì thì ông đã tiếp :
“Chúng nó sáng mắt rồi, mày ạ.”
III. VŨ BẰNG
Trường hợp Vũ Bằng
Sau khi ông Vũ Bằng qua đời, thân nhân của ông ở Hà Nội tìm cách chứng minh ông được cử vào Nam nằm vùng cho cộng sản. Mục đích của việc chứng minh này là con cháu được hưởng tiền tử tuất và trợ cấp. Tôi không hiểu vấn đề tiền bạc ra sao, nhưng sự liên hệ giữa ông và tôi ở Saigon trước năm 1975 khá thân mật.
Khi tôi làm hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Trãi, ông xin cho hai đứa con nhỏ vào lớp đệ Lục. Theo nguyên tắc, học sinh muốn vào học một trường công lập phải dự thi tuyển, một cho lớp đệ Thất và một cho lớp đệ Tam. Có trúng tuyển mới được vào học. Thoạt tiên tôi không biết ông là ai, dù tôi đã từng đọc văn ông từ lâu. Ông là một nhà văn lớp tiền chiến, tôi coi như bậc chú bác. Nhà ông ở trước cửa Kho Năm, Khánh Hội. Tôi cũng không ngờ ông còn con nhỏ như vậy. Trước khi ông gặp tôi, một thư ký của văn phòng nhà trường cho biết một người tên là Vũ Bằng muốn xin học cho con. Nhân viên này cũng nói rõ ông là một nhà văn. Khi nghe nói là nhà văn Vũ Bằng, tôi vội chạy ra gặp ông ngay. Sau đó, tất nhiên tôi cho hai con ông vào ngang, vì tôi là một độcgiả hâm mộ ông từ lâu.
Ngay buổi tối hôm đó, ông theo một thư ký văn phòng nhà trường đến nhà tôi để cho tôi hai chai Martell cổ lùn. Tôi rất ngạc nhiên và cương quyết không nhận. Nhưng khi ra về, ông cứ để lại hai chai rươu. Lúc bắt tay từ biệt ông, tôi báo cho ông rõ là hai đứa nhỏ ngày mai sẽ bị đuổi ra khỏi trường nếu ông không đem hai chai rượu về. Thế là ông vội vàng chạy trở vào nhà để lấy rượu.
Sau đó, thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp ông, nhưng không dám xuồng xã vì vẫn coi ông là bậc đàn anh, lớp cha chú. Có lần tình cờ tôi gặp ông trong một tiệm phở khi ông đang ngồi chung bàn với mấy nhà văn Saigon. Ông vồn vã kéo tôi ngồi cạnh ông. Tiệm phở này ở đường Võ Tánh. Chồng bà chủ tiệm mới chết vì ung thư. Bà còn trẻ và cũng vào loại xinh đẹp. Vũ Bằng vui vẻ nói với mọi người :
“Tôi có một vế câu đối, ai đối được sẽ có thưởng. Câu đó như sau : Em chẳng thích tái vè, tái nạm, còn tái giá xin anh đừng mong đợi.”
(Đã bốn chục năm qua, tôi không còn nhớ chắc câu đối có hoàn toàn đúng như vậy không ?)
Mọi người cười vui, nhưng lúc đó không ai đối được.
Trong thời gian ở Saigon trước 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Bằng viết nhiều tùy bút (nay người ta gọi là Tạp ghi ?) đăng trên các báo văn nghệ của Saigon. Tôi là một độc giả trung thành của ông nên thường tìm đọc bài ông viết. Những bài tôi được đọc không có một dấu hiệu thân cộng nào.
Theo lời Cụ Tam Lang Vũ Đình Chí, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, ông Vũ Bằng tổ chức một buổi họp mặt với các văn nghệ sĩ cũ, mời cả mấy người mới từ Bắc vào. Nhưng buổi họp không thành vì Tố Hữu đến chỉ vào mặt Vũ Bằng mà mắng là ngụy, rồi bỏ về. Thi sĩ Xuân Diệu cũng tới nhưng thấy Tố Hữu làm dữ thì cũng bỏ về.
Như vậy, có đúng Vũ Bằng là một cán bộ cộng sản nằm vùng không ?
BỔ TÚC CỦA BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG
I. VŨ BẰNG
Cuối năm 1948, Vũ Bằng trở về Hà Nội, bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới tình báo cách mạng. Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và con trai ở Hà Nội (năm 1967, bà Quỳ qua đời) và tiếp tục hoạt động cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
Vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc, mãi
đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động cách mạng và được
truy tặng huân chương nhà nước [3]. Ở Sài Gòn, ông lập gia đình với bà Phấn.
Ông mất lúc 4 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4 năm 1984[1] tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 71 tuổi. Ngày 13 tháng 2 năm 2007, nhà văn Vũ Bằng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. WIKIPEDIA
Ông Vũ Hoàng Tuấn, con trai trưởng của nhà văn kể lại: Năm 1954, hai mẹ
con anh xuống Hải Phòng để tiễn Vũ Bằng xuống tàu vào Nam. Tuấn lúc đó
mới mười mấy tuổi, cứ nằng nặc đi theo bố.
Ông bảo con: Nước độc lập rồi. Con còn phải ở nhà học chứ! Hai năm nữa sau Hiệp định thống nhất, lúc đó bố lại về với con”... Hai mẹ con bà Quỳ đã gạt nước mắt trở về Hà Nội đợi ngày tái ngộ... Nhưng đất nước bị kẻ thù chia cắt lâu dài. 21 năm chia ly ấy đã làm ông khắc khoải trong văn chương một nỗi nhớ Hà Nội, nơi có người vợ tảo tần và đứa con đầu lòng như đã biết.
Và trong lòng Sài thành, Vũ Bằng tiếp tục âm thầm làm sứ mệnh của người chiến sĩ tình báo. Đại tá Trần Văn Hội là người phụ trách lưới tình báo đã xác nhận điều đó. Nghề tình báo là thế. Đơn độc và cô đơn giữa đất nước mình, giữa gia đình, bạn bè mình... Và Vũ Bằng là một điển hình về đức hy sinh của người chiến sĩ như vậy.
Đại tá tình báo Trần Văn Hội cho biết, sau giải phóng hơn một năm thì gặp lại Vũ Bằng, thấy gia đình nheo nhóc, liền đến cơ quan đề nghị trợ cấp cho Vũ Bằng hơn tạ gạo. Cẩn thận, ông viết cho Vũ Bằng giấy xác nhận là thành viên cơ sở trong mạng lưới tình báo do ông phụ trách nay đã hoàn thành nhiệm vụ. Đưa giấy xác nhận, rồi ông nói với Vũ Bằng rằng cứ sinh sống bình thường, nếu ai hỏi gì đã có bằng chứng ấy. Ông Trần Văn Hội cùng vợ con ra Hà Nội sinh sống. Ông cũng không ngờ, khi xa nhau, Vũ Bằng ở lại phải chịu nhiều nỗi truân chuyên đến thế...
Nhà văn Văn Giá kể: Tôi có gặp trực tiếp hỏi ông Hội rằng thế khi hai ông xa nhau, Vũ Bằng không liên lạc gì với ông sao, ông cho biết ngày đó Bắc Nam cách trở, tuổi cao sức yếu, chả có liên lạc thư từ gì, thì vẫn cứ yên tâm rằng Vũ Bằng yên ổn...
Nỗi oan của nhà báo Vũ Bằng đã được giải, có công của nhà phê bình văn học Văn Giá. Đó là hành trình tìm được đồng đội và người chỉ huy năm xưa đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho Vũ Bằng. Từ năm 2000, nhà báo Vũ Bằng đã được công nhận chính thức là chiến sĩ tình báo có bí danh X10, và được tổ chức biệt phái vào Nam năm 1954.
Ông được xác nhận và được Nhà nước truy tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật... Nhà văn Triệu Xuân - Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Văn học tại TP Hồ Chí Minh cho biết thêm: Trong kỷ yếu nhà văn in năm 2007, Vũ Bằng được công nhận là Nhà văn trước khi thành lập hội 1957...
Bây giờ lúc kỷ niệm 100 năm sinh thì Vũ Bằng đã về miền cát bụi chẵn 30 năm, mang theo nhiều bí ẩn về chính cuộc đời và nghiệp chướng của mình. Nhưng tôi tin lịch sử vốn công bằng. Hy vọng sẽ có lúc những sự thật và bí ẩn ấy được sáng rõ, để chân dung nhà báo Vũ Bằng lung linh hơn, rực rỡ hơn...
Ông bảo con: Nước độc lập rồi. Con còn phải ở nhà học chứ! Hai năm nữa sau Hiệp định thống nhất, lúc đó bố lại về với con”... Hai mẹ con bà Quỳ đã gạt nước mắt trở về Hà Nội đợi ngày tái ngộ... Nhưng đất nước bị kẻ thù chia cắt lâu dài. 21 năm chia ly ấy đã làm ông khắc khoải trong văn chương một nỗi nhớ Hà Nội, nơi có người vợ tảo tần và đứa con đầu lòng như đã biết.
Và trong lòng Sài thành, Vũ Bằng tiếp tục âm thầm làm sứ mệnh của người chiến sĩ tình báo. Đại tá Trần Văn Hội là người phụ trách lưới tình báo đã xác nhận điều đó. Nghề tình báo là thế. Đơn độc và cô đơn giữa đất nước mình, giữa gia đình, bạn bè mình... Và Vũ Bằng là một điển hình về đức hy sinh của người chiến sĩ như vậy.
Đại tá tình báo Trần Văn Hội cho biết, sau giải phóng hơn một năm thì gặp lại Vũ Bằng, thấy gia đình nheo nhóc, liền đến cơ quan đề nghị trợ cấp cho Vũ Bằng hơn tạ gạo. Cẩn thận, ông viết cho Vũ Bằng giấy xác nhận là thành viên cơ sở trong mạng lưới tình báo do ông phụ trách nay đã hoàn thành nhiệm vụ. Đưa giấy xác nhận, rồi ông nói với Vũ Bằng rằng cứ sinh sống bình thường, nếu ai hỏi gì đã có bằng chứng ấy. Ông Trần Văn Hội cùng vợ con ra Hà Nội sinh sống. Ông cũng không ngờ, khi xa nhau, Vũ Bằng ở lại phải chịu nhiều nỗi truân chuyên đến thế...
Nhà văn Văn Giá kể: Tôi có gặp trực tiếp hỏi ông Hội rằng thế khi hai ông xa nhau, Vũ Bằng không liên lạc gì với ông sao, ông cho biết ngày đó Bắc Nam cách trở, tuổi cao sức yếu, chả có liên lạc thư từ gì, thì vẫn cứ yên tâm rằng Vũ Bằng yên ổn...
Nỗi oan của nhà báo Vũ Bằng đã được giải, có công của nhà phê bình văn học Văn Giá. Đó là hành trình tìm được đồng đội và người chỉ huy năm xưa đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho Vũ Bằng. Từ năm 2000, nhà báo Vũ Bằng đã được công nhận chính thức là chiến sĩ tình báo có bí danh X10, và được tổ chức biệt phái vào Nam năm 1954.
Ông được xác nhận và được Nhà nước truy tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật... Nhà văn Triệu Xuân - Giám đốc Chi nhánh Nhà xuất bản Văn học tại TP Hồ Chí Minh cho biết thêm: Trong kỷ yếu nhà văn in năm 2007, Vũ Bằng được công nhận là Nhà văn trước khi thành lập hội 1957...
Bây giờ lúc kỷ niệm 100 năm sinh thì Vũ Bằng đã về miền cát bụi chẵn 30 năm, mang theo nhiều bí ẩn về chính cuộc đời và nghiệp chướng của mình. Nhưng tôi tin lịch sử vốn công bằng. Hy vọng sẽ có lúc những sự thật và bí ẩn ấy được sáng rõ, để chân dung nhà báo Vũ Bằng lung linh hơn, rực rỡ hơn...
Những người am hiểu Vũ Bằng từ khi nhà văn vào Nam mà tôi đã gặp đều
khẳng định: Vũ Bằng là một con người chân chính, một nhà văn yêu nước,
có tấm lòng son sắt với Hà Nội. Khi ông lâm bệnh cho đến lúc trút hơi
thở cuối cùng, gia cảnh ông vô cùng túng thiếu. Đó là những năm cả nước
thiếu lương thực, Vũ Bằng và vợ con ông (ông lấy người vợ thứ hai sau
khi vào Nam vài năm) thường xuyên bị thiếu ăn. Ông Thượng Sỹ Nguyễn Đức
Long (vừa qua đời năm 1998), người bạn thân với Vũ Bằng từ hồi còn ở Hà
Nội - đã giúp tôi rất nhiều trong việc sưu tầm tư liệu về Vũ Bằng. Trong
câu chuyện hồi đầu tháng 5-1992, ông Thượng Sỹ có nói đến một tờ Giấy
xác nhận của một đơn vị tình báo quân đội rằng Vũ Bằng là cơ sở của một
mạng lưới tình báo quân đội hoạt động tại Sài Gòn. Ông Thượng Sỹ nói:
"Khoảng Tết năm 1976, Bằng có khoe với tôi chuyện đó với vẻ mặt rất
buồn! Bằng nói: Đơn vị có tư giấy về Quận, nhưng dường như người ta bận
nhiều việc quá cho nên chẳng thấy đả động gì!". Ông Thượng Sỹ nói tiếp:
"Thời kỳ đó, người ta lũ lượt vượt biên tìm đất sống, tôi biết Bằng rất
buồn vì thế sự, nên không thấy đả động đến chuyện đó nữa".
Tôi đã hỏi chuyện nhiều nhà văn, nhà báo hoạt động tại Sài Gòn, ai cũng
bảo: "Ông Vũ Bằng là người của mình đấy!". Nhưng tôi hỏi chi tiết thì ai
cũng lắc đầu: Không thể biết!
Về chuyện Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo, anh Vũ Hoàng Tuấn, con trai duy
nhất của Vũ Bằng với bà Quỳ, có giao cho tôi nhiều tài liệu, trong đó
nổi bật nhất là Giấy xác nhận của ông Trần Văn Hội, đại tá, nay về hưu ở
Hà Nội, là cấp chỉ huy trực tiếp của Vũ Bằng. Giấy xác nhận này làm
ngày 10-1-1976 và chính là cái giấy mà ông Thượng Sỹ đã từng nhắc đến
với tôi hồi tháng 5-1992. Nội dung chính: "Tôi, Trần Văn Hội, cán bộ ở
đơn vị 1752, Bộ Tổng tham mưu Quân đội NDVN, hoạt động tại thành phố Hồ
Chí Minh từ 1954 đến 1969, phụ trách một bộ phận công tác nội thành,
chứng nhận: Ông Vũ Bằng, Nhà văn, hiện cư ngụ tại số 476 đường Trịnh
Minh Thế, Sài Gòn, quận 4 - là một cơ sở quan hệ công tác từ thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Ông vào miền Nam năm 1954 và tiếp tục liên lạc
với tôi suốt trong thời gian tôi công tác tại Sài Gòn. Sau ngày hoàn
toàn giải phóng, tổ chức đã giới thiệu ông với địa phương (thành phố Hồ
Chí Minh) để ông có thể tiếp tục phục vụ được cho cách mạng… Ông có
người con trai lớn ở Hà Nội là anh Vũ Hoàng Tuấn". Thủ trưởng của đơn vị
1752 là trung tá Nguyễn Đắc Thân đã ký xác nhận trên giấy này.
Anh Tuấn kể: "Những năm mới hòa bình, tôi đã nhiều lần mời bố tôi ra
thăm Hà Nội, thắp nhang cho mẹ tôi. Bố nhìn tôi không nói gì, hỏi gặng
mới nói: "Bố muốn về lắm! Nhưng anh biết đấy, bố về với tư cách gì?!".
Mang tâm trạng đó, không rõ Vũ Bằng, một người trọng sĩ diện, có chờ đợi
tổ chức làm rõ danh phận hay không, chỉ biết ông qua đời trong túng
thiếu, trong cô đơn…
Vũ Bằng chết, con ông đến một tòa soạn đăng cáo phó (mất tiền). Tòa soạn
này đồng ý đăng nhưng nhất quyết không cho đăng hai chữ Nhà văn trước
tên của Vũ Bằng! Thành thử nội dung tin buồn chỉ vẻn vẹn có vài chữ:
"Ông Vũ Bằng sinh ngày… mất ngày…". Đám tang của ông thật vắng người
đưa!
Khi Hội Nghiên cứu Giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh tái bản cuốn
Thương nhớ mười hai, người ta đã bỏ đi lời đề từ trên đầu sách: "Bắt đầu
viết thì là thương…". Bỏ đi lời đề từ ấy, có khác nào không cho Vũ Bằng
thắp nén hương khóc vợ ông?!
Năm 1992, tôi hợp tác với Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin để tái bản tác
phẩm "Bốn mươi năm nói láo" - Một cuốn hồi ký rất có giá trị văn học, sử
học về một giai đoạn văn chương, báo chí Việt Nam. Tôi làm việc này
trước hết vì yêu quý Vũ Bằng là một nhà văn lớn, một người làm báo giỏi,
thiết tha yêu nước thương nòi. Cuốn hồi ký nổi tiếng Bốn mươi năm nói
láo ấy, khi phát hành được năm ngày thì… chỉ có một hai ý kiến thôi,
không có văn bản gì, sách đã bị giam trong kho không được bán suốt từ
năm 1993 đến nay! Hương hồn nhà văn Vũ Bằng nơi chín suối có biết chăng
chuyện trớ trêu trên?
Có rất nhiều người yêu mến Vũ Bằng, đã bỏ công sức tìm hiểu lai lịch đời
hoạt động cách mạng của Vũ Bằng. Đã có nhiều bằng chứng cho thấy không
phải Vũ Bằng "dinh tê, di cư, phản bội", mà là ông nhận nhiệm vụ hoạt
động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952. Đại tá Trần Văn
Hội - thủ trưởng trực tiếp của Vũ Bằng, đang nghỉ hưu tại Hà Nội, đại tá
Nguyễn Mạnh Khoát là thủ trưởng trực tiếp của ông Hội, đang nghỉ hưu
tại 44A đường Cửu Long, Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình thành phố Hồ Chí
Minh, là hai người đã từng chỉ huy, làm việc trực tiếp với nhà văn Vũ
Bằng thời kỳ Vũ Bằng "di cư". Cả hai ông đều khẳng định Vũ Bằng là một
tình báo viên, và đề nghị Nhà nước công nhận điều này!
Hiện có nhiều người còn sống xác nhận Vũ Bằng là người của Việt Minh
ngay từ những năm 1944-1954, hoạt động trong tầng lớp trí thức văn nghệ
sĩ. Ông Nguyễn Văn Tỉnh, tức Nguyễn Văn Lang, nguyên cán bộ thành ủy Hà
Nội, nguyên thành viên tổ công tác đặc biệt của Công an Hà Nội những năm
1944-1954, năm nay 78 tuổi, nghỉ hưu tại tổ 24 phường Phú Thượng, quận
Tây Hồ, Hà Nội, cùng hoạt động với Vũ Bằng, đã viết thư cho ông Trần
Quốc Hương (nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, chỉ huy mạng lưới tình báo,
đã nghỉ hưu - người chỉ huy cấp cao của ông Lang, ông Bằng), đề nghị ông
Hương cùng thúc đẩy tiến trình công nhận tư cách vẻ vang của Vũ Bằng và
các bạn chiến đấu của Vũ Bằng.
Nhờ những nỗ lực của những người yêu mến Vũ Bằng, vấn đề Vũ Bằng đã được
Hội Nhà văn Việt Nam cử người xác minh, dù quá muộn màng!
Tháng 3-2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục 2 - Bộ Quốc phòng đã có văn
bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo. Hy vọng rằng ở nơi
chín suối, hương hồn nhà văn Vũ Bằng sẽ thanh thản sau những năm dài tủi
hận!
(Triệu Xuân . VŨ BẰNG – Người lữ hành đơn côi : Tựa VŨ BẰNG tòan tập)
II. VŨ HẠNH
Trước khi đi vào câu chuyện Đào Hiếu gọi Vũ Hạnh là Vô Hạnh, tôi xin đưa
ra vài sự kiện Vũ Hạnh đã ăn cháo đá bát đối với văn nghệ miền Nam
trước bảy lăm:“”
- Vũ Hạnh hoạt động năm vùng cho Việt Cộng, len lỏi trong danh xưng văn nghệ sĩ, trong Hội Văn Bút Việt Nam, lúc đó nhà văn linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch văn bút Việt Nam Cộng Hòa. Khi an ninh điều tra biết Vũ Hạnh là Việt cộng nằm vùng, ông bị bắt giam ở Suối Máu Biên Hòa. Ông đã dùng danh nghĩa Hội viên hội Văn Bút Việt Nam, nhờ Linh Mục Thanh Lãng vận động cho ông được thả ra. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, ông đã dùng ngoài bút mình đánh phá văn nghệ miền Nam, lên án và chửi rủa tất cả c1c nhà văn miền Nam , gọi đó là nền văn hóa phản động đồi trụy.
- Ở trong nước, khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư viết cuốn Cánh Đồng Bất Tận, một tác phẩm được đánh giá từ nhiều phía, phần đông được cho là có giá trị. Sau đó Cánh Đồng Bất Tận được Nan Hàn dịch ra tiếng Hàn và có ý định quay thành phim. Vũ Hạnh là nhà văn lên tiếng phản đối sự việc này. Báo trong nước kể lại sự việc này như sau: Mở đầu buổi hội thảo là tiếng nói của nhà văn Vũ Hạnh, ông không "góp ý" cho tờ báo mà xoay qua phê phán việc Hàn Quốc dịch cuốn Cánh Đồng Bất Tận, dịch một cốt truyện phản động như thế mà báo chí lại ca ngợi, lại phê luôn phim Áo Lụa Hà Đông có cảnh Việt Cộng pháo kích làm chết dân thường mà được nhiều giải thưởng.”
- Rồi đến chuyện nhà xuất bản - công ty Phương Nam xuất bản các sách của nhà văn miền Nam trước bảy lăm là Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hạnh cũng đem sự việc này lên bàn mổ. Báo trong nước thuật lại sự việc này, Vũ Hạnh đã lên tiếng phản đối với những lời lẽ như sau:
“Khi đem in lại 4 quyển sách của ông Dương Nghiễm Mậu, Giám đốc Công ty Phương Nam cho rằng điều đó "đáp ứng tiêu chí của người xuất bản", vì trải qua những thăng trầm, đổi thay, các sách này vẫn giá trị và vẫn bán được.
Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần.
Chúng ta đều biết phản động và đồi trụy là những đặc điểm nổi bật mà chế độ cũ vận dụng để làm tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược. Nếu nhiều quyển sách của Dương Nghiễm Mậu nổi bật là tính phản động thì sách Lê Xuyên là tính đồi trụy. Phải nhìn nhận rằng, thời chế độ cũ, không ai quan niệm sách của Lê Xuyên thuộc loại văn chương, bởi sự dễ dãi về mặt bút pháp và sự tồi tệ về mặt nội dung.
Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi... "
Vũ Hạnh đã phá luôn nhà nghiên cứu phê bình trong nước là Phạm Xuân Nguyên, khi ông Nguyện viết có ý khen nhà văn Dương Nghiễm Mâu. Vũ Hạnh viết tiếp:
'Và rất nhiều người đã thực sự giật mình khi đọc những dòng sau đây của Phạm Xuân Nguyên trên tờ Thể thao và Văn hóa (ngày 13-4-2007): "Đọc Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt, lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào...'.
Ông Dương Nghiễm Mậu hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào thì chúng ta đã rõ, ngoại trừ ông Phạm Xuân Nguyên và những người chủ trương đưa sách của ông Dương Nghiễm Mậu đến với đông đảo bạn đọc.
Vũ Hạnh hay Vô Hạnh!
Những hành động hận thù nền văn hóa miền Nam trước bảy lăm khiến Vũ Hạnh, sau ngày 30 tháng tư bảy lăm đã lồng lên, như con chó điên lên những tiếng khủng khiếp, nào là đó là nền văn hóa phản động, đồi trụy, tàn dư của Mỹ Ngụy. Ông đã cùng một số văn nô của chế độ như Trần Trọng Đăng Đàn, Hoàng Vũ Ngọc Tường gầm thét kết án nền văn học miền Nam, nơi mà ông đã được nuôi dưỡng ông, ông được dạy học, được viết một cách tự do và nổi tiếng.
Chuyện Vũ Hạnh là Vô Hạnh được nhà văn Đào Hiếu viết trong Lạc Đường như sau:
“Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài Gòn nêu đích danh là "cộng sản nằm vùng".
Tuy nhiên chúng tôi không thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương. Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu “giải phóng” tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong Hội đồng Đánh giá Văn học miền Nam tại Thư viện Quốc gia...
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện:
"Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi."
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn nghệ Sài Gòn thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn nghệ.
Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động “cách mạng” trong nội thành nhưng khi ở tù, ông cộng tác với phe quốc gia lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là "Vô Hạnh chui lỗ chó", vì thế "“giải phóng”" xong ông không được tin dùng nên ông "hận" những anh em văn nghệ sĩ ở rừng về, nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung vít.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù doạ mấy anh em nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được "lưu dung". Còn đối với các nhà văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào Từ điển Văn học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.”"
(Trần Yên Hòa.Vũ Hạnh hay Vô Hạnh)
- Vũ Hạnh hoạt động năm vùng cho Việt Cộng, len lỏi trong danh xưng văn nghệ sĩ, trong Hội Văn Bút Việt Nam, lúc đó nhà văn linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch văn bút Việt Nam Cộng Hòa. Khi an ninh điều tra biết Vũ Hạnh là Việt cộng nằm vùng, ông bị bắt giam ở Suối Máu Biên Hòa. Ông đã dùng danh nghĩa Hội viên hội Văn Bút Việt Nam, nhờ Linh Mục Thanh Lãng vận động cho ông được thả ra. Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, ông đã dùng ngoài bút mình đánh phá văn nghệ miền Nam, lên án và chửi rủa tất cả c1c nhà văn miền Nam , gọi đó là nền văn hóa phản động đồi trụy.
- Ở trong nước, khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư viết cuốn Cánh Đồng Bất Tận, một tác phẩm được đánh giá từ nhiều phía, phần đông được cho là có giá trị. Sau đó Cánh Đồng Bất Tận được Nan Hàn dịch ra tiếng Hàn và có ý định quay thành phim. Vũ Hạnh là nhà văn lên tiếng phản đối sự việc này. Báo trong nước kể lại sự việc này như sau: Mở đầu buổi hội thảo là tiếng nói của nhà văn Vũ Hạnh, ông không "góp ý" cho tờ báo mà xoay qua phê phán việc Hàn Quốc dịch cuốn Cánh Đồng Bất Tận, dịch một cốt truyện phản động như thế mà báo chí lại ca ngợi, lại phê luôn phim Áo Lụa Hà Đông có cảnh Việt Cộng pháo kích làm chết dân thường mà được nhiều giải thưởng.”
- Rồi đến chuyện nhà xuất bản - công ty Phương Nam xuất bản các sách của nhà văn miền Nam trước bảy lăm là Dương Nghiễm Mậu, Vũ Hạnh cũng đem sự việc này lên bàn mổ. Báo trong nước thuật lại sự việc này, Vũ Hạnh đã lên tiếng phản đối với những lời lẽ như sau:
“Khi đem in lại 4 quyển sách của ông Dương Nghiễm Mậu, Giám đốc Công ty Phương Nam cho rằng điều đó "đáp ứng tiêu chí của người xuất bản", vì trải qua những thăng trầm, đổi thay, các sách này vẫn giá trị và vẫn bán được.
Những tác phẩm này giá trị ra sao, đa số bạn đọc sống ở miền Nam trong thời chống Mỹ đều đã biết rõ. Bởi lẽ, những quyển sách này không chỉ là các sản phẩm văn hóa mà vốn là những vũ khí độc hại về mặt tinh thần.
Chúng ta đều biết phản động và đồi trụy là những đặc điểm nổi bật mà chế độ cũ vận dụng để làm tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược. Nếu nhiều quyển sách của Dương Nghiễm Mậu nổi bật là tính phản động thì sách Lê Xuyên là tính đồi trụy. Phải nhìn nhận rằng, thời chế độ cũ, không ai quan niệm sách của Lê Xuyên thuộc loại văn chương, bởi sự dễ dãi về mặt bút pháp và sự tồi tệ về mặt nội dung.
Hơn ba mươi năm trôi qua, những thứ sản phẩm, gọi rằng văn hóa, rất độc hại ấy đã được xếp xó cùng với bao khối bom, mìn, súng ống đủ loại từng gây chết chóc, thương tật cho những con người yêu nước và tưởng rằng sự yên nghỉ ngàn thu của các sản phẩm như thế là chuyện lịch sử đã an bài rồi... "
Vũ Hạnh đã phá luôn nhà nghiên cứu phê bình trong nước là Phạm Xuân Nguyên, khi ông Nguyện viết có ý khen nhà văn Dương Nghiễm Mâu. Vũ Hạnh viết tiếp:
'Và rất nhiều người đã thực sự giật mình khi đọc những dòng sau đây của Phạm Xuân Nguyên trên tờ Thể thao và Văn hóa (ngày 13-4-2007): "Đọc Dương Nghiễm Mậu là đọc những day dứt, lựa chọn của người trí thức, người sĩ phu trước một hiện tại lịch sử: hành động hay không hành động, hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào...'.
Ông Dương Nghiễm Mậu hành động vì cái gì, hành động theo hướng nào thì chúng ta đã rõ, ngoại trừ ông Phạm Xuân Nguyên và những người chủ trương đưa sách của ông Dương Nghiễm Mậu đến với đông đảo bạn đọc.
*
Vũ Hạnh hay Vô Hạnh!
Những hành động hận thù nền văn hóa miền Nam trước bảy lăm khiến Vũ Hạnh, sau ngày 30 tháng tư bảy lăm đã lồng lên, như con chó điên lên những tiếng khủng khiếp, nào là đó là nền văn hóa phản động, đồi trụy, tàn dư của Mỹ Ngụy. Ông đã cùng một số văn nô của chế độ như Trần Trọng Đăng Đàn, Hoàng Vũ Ngọc Tường gầm thét kết án nền văn học miền Nam, nơi mà ông đã được nuôi dưỡng ông, ông được dạy học, được viết một cách tự do và nổi tiếng.
*
Chuyện Vũ Hạnh là Vô Hạnh được nhà văn Đào Hiếu viết trong Lạc Đường như sau:
“Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài Gòn nêu đích danh là "cộng sản nằm vùng".
Tuy nhiên chúng tôi không thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương. Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu “giải phóng” tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong Hội đồng Đánh giá Văn học miền Nam tại Thư viện Quốc gia...
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện:
"Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi."
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn nghệ Sài Gòn thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn nghệ.
Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động “cách mạng” trong nội thành nhưng khi ở tù, ông cộng tác với phe quốc gia lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là "Vô Hạnh chui lỗ chó", vì thế "“giải phóng”" xong ông không được tin dùng nên ông "hận" những anh em văn nghệ sĩ ở rừng về, nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung vít.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù doạ mấy anh em nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được "lưu dung". Còn đối với các nhà văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào Từ điển Văn học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.”"
(Trần Yên Hòa.Vũ Hạnh hay Vô Hạnh)
Vương Trùng Dương
Vũ Hạnh chim cút hoạt đầu văn nghệ
Nguyễn Đức Dũng sinh ngày 15 tháng 7 năm
1926 tại Kế Xuyên, xã Bình Nguyên, quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Học
tiểu học ở quê và trung học ở Huế. Hoạt động Việt Minh từ tháng 3 năm
1945 ở Liên Khu 5, phụ trách ban kịch tuyên truyền kháng chiến. Năm
1953, ông dạy ở trường trung học Thăng Bình.
Năm 1954, ông được tổ chức phân công ở lại để hoạt động nằm vùng. Chẳng
may, người bạn đồng hương, đồng lớp là Vũ Đình, thay ông Phan Vỹ làm
quận trưởng Thăng Bình, chân tướng của Vũ Hạnh bị bại lộ, ông bị bắt
giam ở đề lao Hội An. Tại đề lao có tên cán bộ Cộng sản là Vũ Hạnh, đồng
hương, đồng chí, bạn thân của Nguyễn Đức Dũng, trưởng toán đơn vị hoạt
động bí mật đã từng thủ tiêu thành phần chống cộng và Việt Nam Quốc Dân
Đảng... Vũ Hạnh bị giam cầm và chết trong đề lao nên khi ra khỏi nơi
này, Nguyễn Đức Dũng lấy bút hiệu Vũ Hạnh để “tưởng nhớ người bạn cố
tri”. Năm 1987, ông viết bài ca tụng tên cán bộ này trên báo Công An và Tuổi Trẻ.
Năm 1956, ông vào Sài Gòn lập nghiệp, dạy học ở trường Khai Trí, Chợ Lớn
và vài trường trung học tư thục, hoạt động bí mật. Trước năm 1954, ông
sở trường về viết kịch và diễn kịch, nhận thấy bộ môn này phải xuất đầu
lộ diện nên ông chuyển sang lãnh vực sáng tác. Thời gian đầu ông gặp Lưu
Nghi, người Hội An, Quảng Nam, theo học trung học Khải Định và đại học
văn khoa, năm 1957 chủ trương nhà xuất bản Trùng Dương, cùng dạy học với nhau, nhờ Lưu Nghi giới thiệu nên Vũ Hạnh được quen biết với một số văn nghệ sĩ ở Sài Gòn.
Tạp chí Tin Văn
Trong quyển Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa của Cao Thế Dung đề cập đến sự xâm nhập của Cộng sản trên mặt trận văn nghệ:
“Hàng trăm điệp viên hữu hạng của Cộng sản từ Bắc vào Nam sau Hiệp Định
Genève. Số điệp viên này thuộc Phòng Đông Á Vụ và Phản Gián, hầu hết đã
có kinh nghiệm hoạt động nội thành, chia nhau xâm nhập nhiều đường dây
thuộc nhiều lãnh vực. Phan Nghị thì hành nghề ký giả sau len lỏi vào tờ Ngôn Luận và Chính Luận
(sau năm 1963). Vũ Ngọc Nhạ len lỏi vào Công giáo phía Linh mục Hoàng
Quỳnh; Nguyễn Ngọc Lương, một giáo viên tư thục ở Nam Định là kẻ đã móc
nối Vũ Hạnh (1964 cùng Vũ Hạnh xuất bản tạp chí Tin Văn và sau bí mật cộng tác với Thế Nguyên, tạp chí Trình Bày)...”
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của Võ Phiến, nhà xuất bản Văn Nghệ, Cali, ấn hành năm 1986, trang 216 ghi nhận thời điểm của tờ Tin Văn:
“Lữ Phương cùng với Vũ Hạnh cho ra tờ Tin Văn vào tháng 6 năm 1966 dưới sự lãnh đạo của cán bộ Cộng sản Nguyễn văn Bổng...”.
Thật ra, lúc đó Lữ Phương chưa nằm trong tổ chức bí mật này. Năm 1960,
Vũ Hạnh gia nhập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng và ở trong tổ chức nhà báo
yêu nước với bí danh Hoàng Thanh Kỳ. Tháng 8 năm 1966, Lực lượng Bảo vệ
Văn hóa Dân tộc thành lập, bí mật tổ chức cơ sở ngôn luận với tờ báo Tin Văn, Nguyễn Ngọc Lương làm Chủ bút và Vũ Hạnh giữ vai trò Tổng thư ký, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn văn Bổng.
Nguyễn văn Bổng cũng người Quảng Nam, lớn hơn Vũ Hạnh 5 tuổi, bước chân
vào con đường văn nghệ vào thập niên 40. Năm 1955 công tác ở Hội Văn
Nghệ Việt Nam đến năm 1962 vào Nam giữ vai trò Phó chủ tịch trong Hội
Văn Nghệ Giải Phóng. Ngoài việc “chỉ đạo” tờ Tin Văn, Nguyễn văn Bổng với bí danh Tám Nhàn, còn lãnh đạo tờ Người Việt bí mật dưới bút hiệu Lê Nguyên Trung, Vương Quế Lâm. Cuối năm 1968, bị lộ, trở ra Bắc, làm chủ nhiệm báo Văn Nghệ.
Trong tờ Tin Văn với những bài viết nòng cốt về lý luận phê bình
của Lữ Phương nên nhiều người cho rằng Lữ Phương ở trong tổ chức bí mật
tờ báo này. Thời gian từ 1964 đến tháng 4 năm 1968, Lữ Phương dạy tại
trường Thoại Ngọc Hầu ở Long Xuyên, chỉ có Nguyễn Ngọc Lương, Vũ Hạnh,
Nguyễn Nguyên và Hà Kiều đảm trách tờ báo mà thôi. Trong bài viết Những Chuyến Ra Đi của Lữ Phương viết vào năm 1999 nhưng mãi đến năm 2008 mới được phổ biến. Lữ Phương đã đề cập đến giai đoạn này:
“... Lúc bấy giờ tôi đang học năm thứ hai ở đại học sư phạm Sài Gòn, ghi
danh học thêm hai chứng chỉ ở Văn Khoa, tiếp tục đọc thêm về triết học
hiện sinh và Mácxít, sau đó định tập trung chuẩn bị cho kỳ thi tốt
nghiệp thì chẳng may bị tai nạn gẫy chân phải nằm liệt giường suốt tám
tháng ròng rã. Trong khi đó, phong trào Phật Giáo và học sinh sinh viên
đã lên tới đỉnh cao, đưa đến cuộc đảo chính của Dương văn Minh năm 1963
lật độ được chế độ Ngô Đình Diệm. Khi trường mở lại sau một thời gian
tạm ngừng hoạt động vì biến cố nói trên, tôi đã có thể chống nạng đi học
lại được. Cũng vào năm đó tôi lập gia đình để sau khi tốt nghiệp, nhận
sự vụ lệnh xuống Long Xuyên dạy học...
... Về sau này dần dà tôi đã đoán biết được Tin Văn do Nguyễn
Ngọc Lương làm chủ bút, Vũ Hạnh và Hà Kiều điều hành chính là một trong
những tờ báo do Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo trực tiếp về đường
lối, bài vở và cả tài chính nữa.
... Vào thời gian hợp tác với tờ Tin Văn, tôi đã gặp một vài
người mà qua cung cách ăn nói, ứng xử tôi nghi là cán bộ từ ngoài vào để
chỉ đạo trực tiếp phong trào, trong số những người này có Hai Vũ (sau
này tôi biết tên thật là Tài, không rõ họ gì) là gần gũi nhất và kế đó
là một người khác mà mãi sau này tôi biết được là Nguyễn văn Bổng.
... Phong trào lên rất cao vào những năm 1966-1967 thì bị bể bạc: hầu
hết các cán bộ chỉ đạo bí mật như Hai Vũ, Hoàng Hà cùng với các nồng cốt
của những hoạt động công khai trong Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc
như Vũ Hạnh, Lê văn Giáp, Nguyễn Ngọc Lương, Thái Bạch... đều lần lượt
bị bắt. Tờ Tin Văn bị đình bản. Tên tôi đã bị báo Sống của
Chu Tử liên tục lôi ra chửi bới thậm tệ. Nhưng bấy giờ do không trực
tiếp đến tổ chức và bị khai báo nên tôi vẫn tiếp tục được công việc của
mình bằng cách hợp tác với nhóm “Công giáo cấp tiến” của Thế Nguyên.
Nhóm này có những cơ sở hoạt động rộng lớn với một nhà xuất bản và một
loạt các tạp chí như Trình BàyĐất Nước, Nghiên Cứu Văn Học cùng với nhật báo Làm Dân
có quan điểm chính trị khá rõ rệt: chống độc tài, chống sự can thiệp
của Mỹ vào Việt Nam, chấm dứt chiến tranh. Sau khi đăng cho tôi một số
bài trên Đất Nước, Nghiên Cứu Văn Học, năm 1967, chính Thế Nguyên đã đề nghị tôi gom lại một số bài đã viết để nhà Trình Bày xuất bản, và đó là tập Mấy Vấn Đề Văn Nghệ.
Sau này, tôi biết Thế Nguyên đã trở thành cơ sở của cách mạng, có ra
bưng họp. Anh chết cách đây mấy năm hết sức vô lý: Dùng dao lam cắt một
mụn cóc và bị nhiễm phong đòn gánh...”
Sau Tết Mậu Thân, tháng 4 năm 1968 Lữ Phương vào bưng, ghi lại những nhân vật đã gặp:
“... Ở đây tôi gặp lại tất cả những người tôi đã quen biết từ Hoài
Hương, Nguyễn Khắc Vỹ, Lê Hiếu Đằng, Thiên Giang, Vân Trang (vợ Thiên
Giang), Nguyễn Đăng Trừng, ông bà Phú Hữu Nguyễn Thạnh Cường, Nguyễn văn
Kiết (thầy dạy tôi ở Đại Học Sư Phạm), Lê văn Giáp (chủ tịch Lực lượng
Bảo vệ Văn hóa Dân tộc ở Sài Gòn và chủ tịch Liên minh Sài Gòn sau khi
ra khu) cho đến những người tôi từng nghe tên nhưng chưa gặp mặt như
Trịnh Đình Thảo, Liên Hoa Ngô thị Phú (vợ Trịnh Đình Thảo), Lâm văn Tết,
Dương Quỳnh Hoa, Huỳnh văn Nghị (mới kết hôn với Dương Quỳnh Hoa khi
vào khu), Trương Như Tảng, Thanh Nghị, Dương Kỵ, Thanh Lan Võ Ngọc
Thành, Nguyễn văn Bửu, Hồ văn Bửu, Cao văn Bổn, Nguyễn Hữu Khương,
Lucien Phạm Ngọc Hùng, Trần Thiện Tứ, Lê Quang Lộc... tất cả những nhân
vật trên đây đều ở chung với nhau trong một khu vực biệt lập do Huỳnh
Tấn Phát trực tiếp quản lý. Lúc tôi tới đây thì căn cứ này đang đóng ở
trên đất K, ở một khu vực gần biên giới Việt Nam gọi là Sáu Cầu...”.
Những khuôn mặt được Lữ Phương nêu trên, sau 1975 chỉ thời gian ngắn đều bị thất sủng.
Bản chất láu cá
Nói đến Vũ Hạnh, trước năm 1975, mọi người đều nhớ đến trò lường gạt,
mánh mung trong vụ “chim cút” để giàu có nhưng vấn đề làm ăn bất chính,
giới cầm bút không bận tâm đề cập nhưng với Vũ Hạnh cũng là “thành tích”
dù bất hảo!
Tháng Tư năm 1976, tháng Tư Đen với văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, hàng trăm văn
nghệ sĩ bị liệt kê vào sổ đen rồi lần lượt nhốt vào trại giam Phan Đăng
Lưu, khám Chí Hòa. Trong khi đó, Vũ Hạnh đã đạt được thời cơ, chân
tướng lộ diện, vênh váo với “thành tích” hoạt động của mình:
“Hồi trước, ở Sài Gòn, sống len lỏi với địch nhưng tôi vẫn cố tìm cách ra bưng, gặp các đồng chí lãnh đạo Thành ủy”.
Với Trần Bạch Đằng, Vũ Hạnh nhắc lại quá khứ hầu “thấy sang bắt quàng
làm họ” để lòe và hù thiên hạ. Trần Bạch Đằng, bí danh Tư Ánh, cùng tuổi
với Vũ Hạnh, trước năm 1975 đã từng đảm trách Bí thư Thành ủy Sài Gòn,
phụ trách Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Vũ Hạnh viết:
“Có một lần, đồng chí Trần Bạch Đằng gặp riêng tôi dặn dò... đồng chí cố
tìm cách khích động tinh thần dân tộc của đồng bào, đặc biệt ở vùng
thành thị, để dấy lên một phong trào bài Mỹ, may ra làm suy yếu bớt sức
mạnh của quần chúng”.
Thế nhưng, trong thời điểm tranh tối tranh sáng sau ngày 30 tháng Tư, Vũ
Hạnh được làm Tổng thư ký của Hội Văn Nghệ ở thành phố Sài Gòn, với
tham vọng của Vũ Hạnh chưa xứng đáng mà còn thiếu thực quyền. Làm thủ
quân đội bóng tròn để giải khuây.
Năm 1976, Trần Bạch Đằng chỉ là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, đến năm
1978, làm phó Ban Dân vận Trung ương, giữ vai trò lý thuyết gia nhưng
chẳng có thực quyền gì để nâng đỡ Vũ Hạnh. Và, chức vụ quá xoàng đối với
Vũ Hạnh cũng không còn nữa, không có sáng tác nào ra hồn, chỉ có khả
năng đánh phá, bôi bẩn giới cầm bút!
Với những người cùng quê và sinh hoạt văn nghệ ở Liên khu V có Nguyễn
văn Báu với bút hiệu Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Kim, năm
1954 tập kết ra Bắc, năm 1962 vào Tây Nguyên hoạt động, sau năm 1975 trở
ra Bắc, giữ nhiều chức vụ quan trọng, sau đó bị thất sủng và nhận chân
được sự thật để lên tiếng chống đối.
Lê Khâm (1930-1995), bút hiệu Phan Tứ, con của cụ Lê Ấm (1897-1976),
từng làm Đốc Học ở trường Quốc Học Huế. Thân mẫu là bà Phan thị Châu
Liên, trưởng nữ của nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Năm 1961 trở vào Nam
hoạt động trong Ban Tuyên huấn Liên khu V cho đến năm 1966 trở ra Bắc
làm việc ở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật.
Vì vậy khi Vũ Hạnh hoạt động bí mật ở Sài Gòn, nắm được tin tức giới cầm bút để báo cáo.
Với tác phẩm Người Việt Cao Quý ký tên A. Pazzi, Vũ Hạnh vênh
váo: “Tôi phải phịa ra tên tác giả là một người ngoại quốc, một người Ý
để người ta khó truy tìm tông tích thật hư... Thế thôi! Khi quyển sách
tung ra, bán rất chạy, đến năm 1975 tái bản cả thảy 10 lần, nhưng không
ai biết là mình bị lừa cả”. Với mấy chữ “không ai biết là mình bị lừa
cả”, tư cách của nhà giáo, nhà văn mà nghĩ như vậy thì thật đểu cáng, lố
bịch.
Thật ra, độc giả thích đọc vì quyển đó viết đề cao con người Việt Nam
trong biến thiên của lịch sử. Chẳng ai quan tâm tác giả là Ý, Áo...
Trong quyển Tự Điển Danh Ngôn Đông Tây của Thanh Vân Nguyễn Duy
Nhường, xuất bản ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60, trang 50 có đề cập:
“Biết bao anh hùng đã tạo nên lịch sử của dân tộc. Ông Pazzi, người Ý,
mấy chục năm ở Việt Nam, trong cuốn “Percomprendre it Vietnam e
Việtmita” (1) có viết: “Cái giá trị của người Việt là ý chí tự cường,
bất khuất của họ... Đó là hình ảnh của một dân tộc không chịu nhục nhã,
một dân tộc kiêu hãnh về giá trị mình... Người Việt Nam là một dân tộc
duy nhất trên địa cầu đã từng chiến đấu và chiến thắng những kẻ xâm lược
có khuôn mặt lớn lao nhất trong lịch sử loài người...” (2). Và, phần
chú thích ghi như sau: (1): Tác phẩm của A. Pazzi viết năm 1965, do Hồng
Cúc dịch là Người Việt Cao Quý, có nhiều nhận xét tinh vi. Thú
thật khi đọc tác phẩm này, tôi cảm thấy sung sướng vì được người ngoại
quốc biết đến dòng máu Việt, nhưng rồi cảm giác tôi đi đến nghẹn ngào
quằn quại trong đau thương của một dân tộc có nhiều chiến công oanh liệt
nhất là dân tộc chịu qua nhiều đau thương, để luôn luôn phải làm lịch
sử, không biết bao giờ được yên hưởng thái bình. (2) Trích theo bản dịch
của Hồng Cúc.
Trong thời điểm này, trước hiểm họa của Trung Cộng xâm lăng Việt Nam, Vũ
Hạnh nên để tên của mình và ấn hành tác phẩm này có lẽ thích hợp nhất.
Vì thời điểm khi viết quyển đó thì trang sử Việt Nam ghi lại hình ảnh
“đương đầu kẻ xâm lược có khuôn mặt lớn lao nhất” là bọn bành trướng Bắc
Phương mà thôi, lúc đó chưa có bóng dáng “Đế quốc Mỹ”. Thật là lú lẫn,
đánh lừa cả thời gian, “đem râu ông nọ cắm cầm bà kia”.
Trong quyển Văn Học Miền Nam Tổng Quan của Võ Phiến, trang 238-239 ghi nhận: “... Lý Chánh Trung có cả cuốn sách Tìm Về Dân Tộc
(1967), Bình Nguyên Lộc, một tiểu thuyết gia, bỗng dưng đeo đuổi một
công tình nghiên cứu quy mô về nguồn gốc dân tộc; Sơn Nam đặt vấn đề Người Việt Có Dân Tộc Tính Không (1969); Doãn Quốc Sỹ ca ngợi Người Việt Đáng Yêu (1965), Vũ Hạnh (dưới bút hiệu Hồng Cúc) viết Người Việt Cao Quý, cuốn sách bán rất rộng rãi...”. Như vậy quyển Người Việt Cao Quý
chẳng có gì độc đáo để gọi là “mình bị lừa cả” mà thể hiện tính nhân
bản, tinh thần yêu nước của người dân trong xã hội tự do vì vậy mới được
độc giả đón nhận. Sau hiệp định Paris 1973, đổi tên là Người Việt Kỳ Dị.
Như đã đề cập ở trên về Lữ Phương và tờ Tin Văn, Vũ Hạnh cho mình
là người móc nối với Lữ Phương mà Lữ Phương đã giữ chức Thứ trưởng Bộ
Văn hóa trong chính phủ Cách mạng Lâm thời... được cung cấp biệt thự
(sau này trở thành chủ nhân ông) thì với cương vị Tổng thư ký của Hội
Văn Nghệ của thành phố quá chênh lệch, làm sao không bất mãn nhưng “méo
mó có hơn không” đối với bản chất của Vũ Hạnh! Sau này Lữ Phương bị thất
sủng và nhìn vào thực tế cũng gióng lên tiếng nói, còn “thức tỉnh” phần
nào.
Đánh phá hạ cấp
Năm 1963, tác phẩm đầu tay Yêu của Chu Tử ấn hành, in 5.000 ấn
bản, bán hết trong 25 ngày, đây là tác phẩm bán nhanh nhất và nhiều nhất
như là hiện tượng trong ngành phát hành. Vũ Hạnh ganh tị, tức tối và Vũ
Hạnh là người gây ra cuộc “xung trận” sóng gió để rồi lãnh hậu quả “gậy
ông đập lưng ông”.
Trong mục Sổ Tay của Nguyên Sa trên tờ Dân Chúng, số ra ngày 13 tháng 7 năm 1996 ghi vào giai đoạn năm 1966
“... Thời điểm Vũ Hạnh tấn công ào ạt nhắm vào là tiểu thuyết Yêu,
Chu Tử ngồi trong gian phòng khách của nhà tôi, số 322 đường Phan Thanh
Giản. Anh tới để tiễn tôi đi trình diện nhập ngũ Thủ Đức, chúng tôi nói
chuyện về người ẩn danh viết bài gọi là “phê bình” quyển Yêu, mà
mục tiêu là xóa bỏ, đạp đổ. Trong mọi trường hợp, câu chuyện giữa chúng
tôi, và mấy anh em đi cùng với Chu Tử, mau chóng bỏ qua những đục bỏ
của Bộ Thông tin, vấn đề ông Thiệu, ông Kỳ, hướng đến vấn đề phê bình
của Vũ Hạnh. Tôi đọc bài văn, ký tên lạ hoắc, từ trước rồi, biết người
viết là ai rồi, khi Chu Tử đưa cho tôi coi, tôi nói tôi đọc rồi, tôi nói
Vũ Hạnh. Tôi đọc văn tôi biết là Vũ Hạnh. Thế Nguyên cho tôi biết người
viết những bài văn loại này là Vũ Hạnh...
Tình yêu là đồi trụy, là tiểu tư sản, là phản động, tôn giáo là thuốc
phiện. Vũ Hạnh liệt kê tác phẩm của Lê Tất Điều là tiểu tư sản, là phản
động. Xóa bỏ quyển sách, xóa bỏ người viết nó. Lê Tất Điều là đối tượng
đánh phá đầu tiên của Vũ Hạnh. Phê bình gì mà kỳ cục, tôi nói với Thế
Nguyên, phê bình hiện thực xã hội của L’ Humanité là Cộng sản ở tả ngạn
sông Seine, mà không có thơ, không còn tình tự, chỉ có mùi khói xưởng
thợ ở Saint Denis, phê bình hiện thực xã hội kiểu Vũ Hạnh là Cộng sản
trong hình thức thô bạo và bán khai nhất...
Đọc tới bài đánh phá tiểu thuyết Yêu của Chu Tử bởi tay phê bình quản giáo tôi quyết định không bao giờ đọc phê bình của Vũ Hạnh nữa...”
“... Tôi nói với Chu Tử về mặt lý thuyết, phê bình của Vũ Hạnh không có
trọng lượng nào, không đáng cho chúng mình quan tâm, về mặt con người,
Vũ Hạnh chỉ làm công việc mà anh ta phải làm, là một cán bộ Cộng sản
hoạt động trong ngành giáo dục và văn nghệ, nhiệm vụ của anh ta là đánh
phá, là bôi đen những tác phẩm không đi theo đường lối văn chương hiện
thực như một con đường cho cái gọi là “cách mạng”. Những chi tiết về Vũ
Hạnh vừa bật ra làm Chu Tử đưa tay ngăn tôi lại.
Tác giả tiểu thuyết Yêu hỏi tôi :
- Anh nói Vũ Hạnh đã bị bắt về tình nghi là cán bộ Cộng sản?
Tôi trả lời bạn tôi hồ sơ cũa Vũ Hạnh nói như thế. Những cơ quan an ninh
bắt giữ giáo viên tên Dũng, một cán bộ Cộng sản, muốn tha sau một thời
gian giam giữ, cần đến một Hội đoàn trong ngành giáo dục đứng ra đóng
vai trò bảo lãnh. Bạn tôi, giáo sư Nguyễn Hữu Chỉnh, giáo sư Nguyễn văn
Khánh phụ trách công việc này, đưa hồ sơ cho tôi coi và tham khảo ý
kiến. Những thầy giáo hiền hòa chọn lựa từ trước khi đọc hồ sơ... Tổng
hội Giáo giới đã đề nghị tha, và nhận bảo lãnh giáo viên tên Dũng có bút
hiệu là Vũ Hạnh...
Sáng hôm sau, tôi lên đường đi trình diện nhập ngũ... Tôi được chở tới
Thủ Đức... Chúng tôi ngồi xuống trên một bực thềm, anh bạn đưa tôi tờ
báo Sống, tôi nhìn tờ báo không cầm lấy, tôi cười, anh bạn cười gượng gạo, anh mở lớn tớ báo, chỉ tay vào mục Ao Thả Vịt...
Tôi đọc. Bài Ao Thả Vịt của Chu Tử nổ thật. Quả bom cỡ nặng. Ngòi nổ của quả bom là chính tôi. Ao Thả Vịt
nói Vũ Hạnh chính là cán bộ Cộng sản đang phung phá văn học nghệ thuật
miền Nam Việt Nam. Nhân chứng được viện dẫn là Nguyên Sa, người đã biết
rõ hồ sơ Cộng sản của Vũ Hạnh, Nguyên Sa khẳng định Vũ Hạnh tên thật là
Dũng, cán bộ Dũng đã bị an ninh của Đệ nhất Cộng hòa bắt giữ, tình hình
chính trị đổi thay, Dũng vớ tên Vũ Hạnh cùng nhiều bút hiệu khác vùng
lên tung ra những tác phẩm hiện thực xã hội, căn bản là chủ nghĩa Mác
xít Lê nin lít, với chiếc xe chuyên chở duy vật biện chứng, đánh phá
những nhà văn không thực hiện tác phẩm theo đường lối hiện thực của xã
hội.
Tôi cảm thấy ngất ngư, thấy người nóng ran, thấy có nhiều mồ hôi trên
đầu tóc mới cắt và trên trán, trên cổ, mồ hôi lẫn với những sợi tóc
con...”
Thế rồi Nguyên Sa đề cập đến mẩu đối thoại với người bạn là nói riêng với Chu Tử nhưng nhưng lại viết ra, đó là Định Mệnh.
“Tôi nói với người bạn đồng ngũ có lòng tốt với Chu Tử viết ra như thế
là đúng, ném ra một mồi nổ xem bên phần kia sân khấu Định Mệnh đánh ra
những tiếng bạc nào... Tôi không nói cho người bạn mới biết giữa tôi và
Chu Tử có một mật ước”.
Và, từ đó, mục Ao Thả Vịt trên nhật báo Sống, ngón đòn của Chu Tử làm cho Vũ Hạnh thất điên bát đảo!
Vũ Hạnh được che chở trong sự nghiệp cầm bút nhờ Văn Bút Việt Nam
(1957-1975) qua thời kỳ chủ tịch Vũ Hoàng Chương và Linh mục Thanh Lãng
(thời kỳ tiền nhiệm với Đỗ Đức Thu, Nhất Linh). Trong danh sách Văn Bút
Việt Nam có 160 hội viên và Vũ Hạnh ở số thứ tự 28, nhờ uy tín của Văn
Bút Việt Nam và đảm trách biên tập trong tờ Tin Sách nên khi có chuyện “bất an với nghi can” thì được che chở.
Chuyện đánh phá trước năm 1975 như đã đơn cử, tạm cho là “công tác của
Vũ Hạnh” nhưng với bản chất, sau này với “đồng chí” cũng bị vu oan. Năm
1988, bài thơ của Trần Vàng Sao đăng trên tạp chí Sông Hương đã dùng từ “chí sĩ”, Vũ Hạnh viết bài đả kích, chụp mũ nhà thơ trên báo Tuổi Trẻ và Công An, từ chí sĩ ám chỉ hình ảnh Ngô Đình Diệm. Tác giả và ban biên tập tờ Sông Hương bị kiểm điểm, đính chính!. Lẽ nào ông không đọc Hoàng Lê Nhất Thống Chí và hình ảnh Ngô Thời Nhậm.
Bẩn thỉu nhất là vụ đánh hôi với Mai Quốc Liên về Dương Nghiễm Mậu
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Dương Nghiễm Mậu vào trại giam Lê văn
Duyệt như một số văn nghệ sĩ khác. Với bản chất hiền lành, thật thà,
Dương Nghiễm Mậu làm sơn mài, không màng đến chuyện viết lách gì cả.
Theo bài viết của Hồ Nam trong tháng 11-2007: “Thế rồi không biết Nguyễn
Quốc Thái đại diện Công ty Văn Hóa Phương Nam “tán tỉnh” thế nào Dương
Nghiễm Mâu đã cho Công ty Văn Hóa Phương Nam in lại một loạt tác phẩm
viết trước năm 1975 của Dương Nghiễm Mậu phát hành cùng lúc với truyện
dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên. Những tác phẩm của Dương
Nghiễm Mậu do Công ty Văn Hóa Phương Nam tái bản phát hành chưa được một
tuần lễ thì trên tờ Sài Gòn Giải Phóng có bài “đấu tố” Lê Xuyên và Dương Nghiễm Mậu, tiếp theo là tờ Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Mai Quốc Liên và Vũ Hạnh mang Dương Nghiễm Mậu ra đấu trường “chơi” sát
ván với đủ thứ tội danh văn chương đồi trụy, văn chương phản động.
Gặp lại Dương Nghiễm Mậu, tôi hỏi nhà văn chỉ cười nhất định không chịu nói một câu nào dù một câu ngắn cũng không nói”.
Càng ngày chân tướng của Vũ Hạnh bị phơi bày, và “gậy ông lại đập lưng ông” lần nữa, năm 2008, tác phẩm Lạc Đường, tự truyện của Đào Hiếu đề cập đến Vũ Hạnh:
“Phong trào sinh viên vẫn án binh bất động. Anh Nguyễn Ngọc Lương giới
thiệu tôi với nữ nghệ sĩ Hột Xoàn và nhà văn Vô Hạnh (tôi không muốn nêu
tên thật của ông vì ông đã gần đất xa trời, vì thế tôi mượn tạm cái tên
mà nhà văn Ngụy Ngữ đã đặt cho ông).
Ông là nhà văn nổi tiếng và đã từng bị vài tờ báo của chính quyền Sài
Gòn nêu đích danh là “Cộng sản nằm vùng”. Tuy nhiên chúng tôi không
thường gặp nhau vì tờ Tin Văn đã bị đóng cửa, không có môi trường để sinh hoạt.
Có một nhà văn thường xuyên quan hệ với ông Vô Hạnh, đó là Lữ Phương.
Hồi đó anh là giáo viên cấp 3 dạy văn. Anh nổi tiếng qua những bài chính
luận sắc bén đăng trên tờ Tin Văn. Càng nổi tiếng anh càng bị
chính quyền Sài Gòn để ý và tôi cũng không hiểu tình hình đun đẩy thế
nào mà anh lại vào chiến khu, tham gia vào chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam với chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Đến thời
điểm đó tôi vẫn chưa được gặp mặt anh dù đã đọc anh khá nhiều.
Những ngày đầu giải phóng tôi có dịp làm việc chung với Lữ Phương trong
Hội Đồng Đánh Giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia.
Anh khá nổi bật trong số các thành viên của Hội đồng vì cách ăn mặc.
Trong khi các cán bộ miền Bắc và cán bộ ở rừng ăn mặc luộm thuộm, đi dép
râu, còn những người tại chỗ như Vô Hạnh và tôi cũng xuềnh xoàng, thì
Lữ Phương ăn mặc chỉnh tề, đẹp. Có lẽ đó là những bộ quần áo của thời
anh đi dạy học trước giải phóng. Quần Gabardine màu xám nhạt, sơ mi màu
sậm, cài măng sét, giày da màu nâu bóng loáng.
Anh ăn nói lưu loát nhưng hòa nhã, lịch thiệp. Cái nhìn của anh về văn
học ở các đô thị miền Nam trước giải phóng cũng khá thoáng.
Nhưng điều làm tôi bất ngờ nhất là anh luôn luôn bị ông Vô Hạnh ngắt
lời. Ông lớn tiếng, khoa tay múa chân khi nói, và thường dùng những lời
lẽ đao to búa lớn để phủ nhận những ý kiến của Lữ Phương. Thái độ đó làm
mọi người khó chịu. Lữ Phương thì im lặng theo cái cách của một người
cha nhìn cơn bốc đồng của đứa con mình và chờ cho nó hạ xuống. Sau đó
anh lại tiếp tục nói.
Trong giờ nghỉ giải lao, Vô Hạnh nói oang oang ngoài hành lang của thư viện :
- Đầu óc tiểu tư sản của anh ta vẫn còn. Anh ta là Thứ trưởng hả? Chỉ đáng là học trò của tôi.
Lúc ấy nhiều người cho rằng ông muốn tranh cái chức Thứ trưởng Bộ Văn
hóa của Lữ Phương, riêng Lữ Phương có lẽ anh đang cười thầm vì từ lâu
anh đã hiểu cái chức ấy chẳng qua cũng chỉ là một vai diễn trên sân khấu
chính trị mà thôi.
Tôi thì ngỡ ngàng. Lúc đó tôi nghĩ chắc trước đây ông và Lữ Phương có
lục đục với nhau, nhưng về sau khi ông Vô Hạnh về làm việc ở Hội Văn
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh thì tôi mới biết ông là một tên chỉ điểm văn
nghệ.
... Thực ra, nhận xét về ông Vô Hạnh như thế chỉ đúng có một phần.
Phải định nghĩa về nhà văn Vô Hạnh như thế này: Một cá thể phức tạp bị dồn nén và đầy mặc cảm.
Ông hoạt động cách mạng trong nội thành nhưng khi ở tù ông cộng tác với
địch lộ liễu đến nỗi bạn tù đặt cho ông cái tên là “Vô Hạnh chui lỗ chó”
vì thế giải phóng xong ông không được tin dùng nên ông “hận” những anh
em văn nghệ sĩ ở rừng về. Nỗi căm hận biến thành cao ngạo, chửi bới vung
vít. Chửi cách mạng không tiếc lời.
Mặt khác, đối với anh em văn nghệ tại chỗ (nhất là những người không
biết lý lịch của ông) thì ông lại tỏ ra mình là một ngự sử văn đàn, một
nhà văn cách mạng chánh hiệu con nai vàng, vì thế ông phê phán người
này, lên lớp người kia, lúc nào cũng đưa quan điểm lập trường chuyên
chính vô sản, giai cấp công nhân... ra làm thước đo, hù dọa mấy anh em
nhà văn trẻ, nhà văn chế độ cũ đang được “lưu dụng”. Còn đối với các nhà
văn nổi tiếng tài năng khác như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Lê Tất
Điều, Dương Nghiễm Mậu... thì ông mạt sát họ bằng ngôn ngữ dao phay, mã
tấu...
Sau này, khi đã ngoài bảy mươi tuổi, ông vẫn chứng nào tật nấy, vẫn giở
giọng chuyên chính ra truy đuổi những nhà văn tài năng đã được đưa vào
Từ Điển Văn Học như Dương Nghiễm Mậu.
Ông làm như vậy để làm gì?
Trước đây thì có thể động cơ của ông là tâng công với Đảng. Nhưng nịnh
bợ mấy mươi năm có được gì đâu. Thế thì ở cái năm 2007 này ông còn lên
giọng làm gì?
Ôi thôi, đó là chuyện có liên quan tới cái mà khoa tâm phân học gọi là
refoulement, gọi là transfer du complex, gọi là loi de compensation...
Cho đến khi nằm ngáp ngáp chờ chết, có lẽ ông cũng còn bị những quy luật tâm lý phức tạp ấy dẫn dắt như một thằng khùng.
... Ngược hẳn với Vô Hạnh 180 độ là anh Nguyễn Ngọc Lương. Hiền lành,
nhẫn nhục mà sống, mà làm việc. Trước giải phóng thành ủy giao cho anh
làm Chủ bút một tờ báo công khai của Đảng tại thành phố Sài Gòn, nói nôm
na là làm ông Tổng biên tập một tờ báo “Việt cộng nằm vùng” ngay trong
lòng địch. Chuyện đó đâu có dễ. Nếu là bạn, chưa chắc bạn đã dám nhận,
phải không? Nhất là làm việc mà không có lãnh lương!
Sau “giải phóng” người ta cho anh làm một nhân viên sửa morasse tại tòa soạn báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Vậy mà anh cũng làm. Cứ cho là trong thời gian công tác anh có mắc phải
một vài sai lầm nho nhỏ nào đó đi (tôi biết chắc chắn là không có gì
lớn). Cái thứ sai lầm vặt ấy, truy lý lịch ra ai mà chẳng có. Vậy thì nỡ
lòng nào đày đọa đồng chí mình như vậy!
Anh Nguyễn Ngọc Lương đã qua đời trong một tâm trạng buồn như thế...”.
Là người trong cuộc, một thời “đồng chí” với nhau còn tỏ thái độ như
vậy, thấy rõ bản thất thấp hèn con người cầm bút như Vũ Hạnh.
Kết
Trong gần hai thập niên, tại Sài Gòn, Vũ Hạnh đã cho ra đời nhiều tác phẩm: Lửa Rừng trên tuần báo Mai (1960), Vượt Thác (1963), Mùa Xuân Trên Đỉnh Non Cao (1964), Chất Ngọc (1964), Ngôi Trường Đi Xuống (1966), Đọc Lại Truyện Kiều (1966), Tìm Hiểu Văn Nghệ (1971), Bút Máu (1971), Người Chồng Thời Đại (1971), Con Chó Hào Hùng (1973), Cô Gái Xà Riêng (1973), Những Người Còn Lại (1974)...
Nguyễn Đức Dũng, ngoài bút hiệu Vũ Hạnh, còn có những bút hiệu khác như Nguyên Phi, Minh Hiếu, Cô Phương Thảo (Tin Sách và Bách Khoa)... còn các bút hiệu của kẻ “đồ tể đánh lận con đen”.
Trong chế độ mà ông thù địch đã tạo dựng sự nghiệp văn chương và được đón nhận những tác phẩm, xếp loại vào khuynh hướng xã hội.
Sau tháng Tư 1975, tiểu sử Vũ Hạnh được đề cập trong Từ Điển Văn Học, nhà xuất bản Văn Học Xã Hội, 1984.
Hơn ba thập niên, sống trong vùng đất dụng võ của ông nhưng không có tác
phẩm nào, chỉ có những bài viết vớ vẩn, vờ vịt và đâm thọc cho thỏa mãn
thú tính và đố kỵ tài năng.
Ông tự bôi tro trát trấu vào bút danh đã một thời nổi tiếng của ông và
nói như Ngụy Ngữ, Đào Hiếu, thay chữ Vũ bằng Vô. Thật vậy, gọi như vậy
nặng lắm nhưng nghĩ cho cùng, không có chữ nào ngắn, gọn hơn để thay thế
chữ “Vô”. Ông biết viết tác phẩm Con Chó Hào Hùng nhưng con người lại hèn đến thế!.
Tên tuổi Vũ Hạnh đã bị đào thải rồi, quyển Tự Điển Tác Giả Văn Hóa Việt Nam
của Nguyễn Q. Thắng, dày gần 1.800 trang, ấn hành năm 1999. Tác giả là
người đồng hương, đề cập đến nhiều khuôn mặt trong nước nhưng cũng không
có Vũ Hạnh.
° ° ° ° °
Năm 1990, trước khi rời Sài Gòn đi Mỹ, tôi ghé lại thăm anh Vũ Đình, tôi
không hỏi Vũ Hạnh có biết anh ở Sài Gòn không, bởi ngại bản chất thù
vặt của Vũ Hạnh, vì lúc đó đông người?... Khi định cư tại Cali, bài viết
này tôi viết trên tuần báo Saigon Times, Los Angeles, số ra ngày 27 tháng 12 năm 1991. Lý do tôi viết bài này vì tờ Les Nouvelles số 13 ra ngày 31 tháng 3 năm 1991 phổ biến bức thư của Vũ Hạnh qua tựa đề Họ Cô Đơn Trước Nhân Dân.
Trong bức thư Vũ Hạnh đã viết: “Dân chúng nghèo đói đi nhiều lắm, xã
hội trở nên hỗn loạn” và “Như vậy, người ta mới thấy rõ ràng biết bao hy
sinh lớn lao và cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn do cái ý thức hệ
gọi là Cộng sản gây ra ấy đã tỏ như là vô ích...
... Sự đề cao trường học Xã Hội Chủ nghĩa rập khuôn trong đầu óc sự tôn
sùng lá cờ đỏ thiêng liêng và những lãnh tụ Cộng sản vĩ đại đã xen vào
đời sống để biến mọi người thành những dụng cụ ngoan ngoãn nằm trong tay
gần như vô học mà lại tiếm quyền, những kẻ lũng đoạn quyền hành để thử
nghiệm một cách tàn bạo, nên cả nước bị khủng bố và bị cấm đoán phải câm
miệng...
... Những lãnh đạo của chế độ nay ghi nhận với sự sợ hãi... Họ cô đơn
đối diện với nhân dân, để rồi trong những ngày tới đây phải trả về những
sự khốn khổ, đói khát mà họ đã bắt nhân dân phải chịu đựng từ mấy chục
năm qua...”.
Lý do Vũ Hạnh viết bức thư như vậy vì trước đó, năm 1986 Nguyễn văn Linh
phát pháo chính sách “cởi trói” và “đổi mới” như năm 1985 ở Liên Xô,
Gorbachev cải cách với chính sách perestroika và glasnost... Bước vào
giai đoạn đầu thập niên 90, cùng với thời điểm Liên Xô và bức màn sắt
Đông Âu sụp đổ. Vũ Hạnh sợ tình thế trong nước thay đổi, muốn lập cơ hội
thoát thân, cho con cái du học Liên Xô chẳng thấy vinh quang gì nên tìm
cách “dọn đường” cho tương lai... nhưng “kẻ cắp lại gặp bà già” chán
thật. Hơn nữa, trò lừa bịp của Vũ Hạnh rất nguy hiểm, biết đâu dựng ra
lá bài như “trăm hoa đua nở” để ai nhẹ dạ, cả tin rơi vào bẫy!
Khi tôi viết bài này, tôi rất áy náy, đắn đo. Thú thật, tôi có đầu óc
cục bộ, bảo thủ địa phương với quê hương, không muốn đem hình ảnh xấu
nào của quê mình trên mặt báo. Dù sống bất cứ nơi nào, bóng dáng quê
hương như hình ảnh người mẹ. Qua vài ý kiến bạn bè đồng hương, tôi viết.
Gần hai thập niên qua, mỗi năm hội đồng hương Quảng Nam ra đặc san, nhờ
tôi đóng góp bài vở; nếu có viết, tôi viết về những bậc tiền nhân của
quê hương, tuy đã đề cập nhiều nhưng mỗi người có phong cách diễn đạt
khác nhau. Với tôi, nên tô điểm những bông hoa cho thế hệ tương lai biết
và hãnh diện mảnh đất “cày lên sỏi đá” đó ở quê hương có những bông hoa
tươi đẹp, tấm gương sáng, còn loài sâu bọ sẽ bị đào thải theo thời
gian.
Tháng 11 năm 2007, tôi viết bài Cung Tích Biền, Giữa Hai Lằn Đạn.
Qua những điều thăm hỏi bằng hữu, đọc được những bài viết của anh, tôi
cảm nhận được nỗi uẩn khúc, cả lời thị phi và bất hạnh, tôi viết. Và, từ
đó, tôi đọc được những bài viết của anh được phổ biến trên trang web,
bước vào tuổi thất thập, bị tiểu đường đã hai thập niên, đau tim và ung
thư đại tràng nhưng trở lại với ngòi bút rất tuyệt. Với lương tâm của
người cầm bút trước thực trạng xã hội, bằng lối ẩn dụ tài tình, nói lên
cách nhìn sắc bén qua ngòi bút, tôi rất trân trọng. Nhắc đến Vũ Hạnh và
Cung Tích Biền vì hai người cùng “bà con lối xóm” với nhau ở quê nhà và
từ khi “cái vụ chiếc xe Honda” xảy ra, coi như xa lạ, nhưng đó là chuyện
đời tư, còn nhân cách và lương tri thì hoàn toàn khác xa.
Trong sinh hoạt văn nghệ, khi ngồi trước máy điện toán để viết, tôi muốn
phác họa hình ảnh tốt, đẹp bồng bềnh trong khói thuốc mới gây cảm hứng
ghi lại, ít ra cũng học hỏi được nhân cách, tài năng, sự lương thiện ở
đối tượng mình đề cập.
Bài này viết lại cũng vào dịp tháng Tư, thời điểm hoạn nạn và Vũ Hạnh
còn sống, nếu ông đã ra đi thì “nghĩa tử là nghĩa tận” bới đống tro tàn
chỉ bẩn tay!
Vương Trùng Dương
Viết lại 4-2009
HẾT
No comments:
Post a Comment