Kẻ mộng du
Đỗ Trường (Danlambao) - (Có
những người bạn chẳng thân cũng không sơ, lúc thì thâm sâu khó
lường, khi thì mộng du, ảo tưởng nông cạn. Họ mất đi, đôi khi
cũng để lại một khoảng trống trong tâm hồn. Từ đó, buộc ta
phải cầm bút viết về họ, như thể khép lại một chặng đường
đã qua vậy).
Hắn mất ở một thành phố rất xa, sau một tuần tôi mới biết,
từ báo chí của cộng đồng. Một cái chết không gây cho tôi sự
bất ngờ. Bởi, đã bước vào cái ngưỡng gần thất thập, bị
thiến mất một lá phổi, và thương tích chiến tranh vẫn còn găm
đầy mình, song hắn vẫn giữ lối sống hoang phí ở cái tuổi hai
mươi.
Mới tháng trước, hắn về Leipzig mua xe ô tô cũ, và ở lại nhà tôi ít ngày. Dù bị tràn dịch màng phổi sau một thời gian điều trị không lâu, hắn vẫn ực bia, đốt thuốc mù nhà. Cái khoản cá cược bóng đá, hoặc ngồi bấm máy Automat hắn không thể bỏ. Tuy chỉ chơi nhỏ với khoản tiền trong túi, nhưng hắn thường ngồi thông đêm. Chẳng vậy, mấy ngày ở Leipzig, cứ hai, ba giờ sáng, nhè đúng lúc vừa qua cơn trằn trọc, tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, hắn bấm chuông gọi mở cửa. Chịu không nổi, tôi lừ hắn: Đã quá tam ba bận rồi, lần sau ngủ ngoài đường nhé. Hắn cười rất hồn nhiên, nhảy lên giường, rồi bật bia tu ừng ực...
Mới tháng trước, hắn về Leipzig mua xe ô tô cũ, và ở lại nhà tôi ít ngày. Dù bị tràn dịch màng phổi sau một thời gian điều trị không lâu, hắn vẫn ực bia, đốt thuốc mù nhà. Cái khoản cá cược bóng đá, hoặc ngồi bấm máy Automat hắn không thể bỏ. Tuy chỉ chơi nhỏ với khoản tiền trong túi, nhưng hắn thường ngồi thông đêm. Chẳng vậy, mấy ngày ở Leipzig, cứ hai, ba giờ sáng, nhè đúng lúc vừa qua cơn trằn trọc, tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, hắn bấm chuông gọi mở cửa. Chịu không nổi, tôi lừ hắn: Đã quá tam ba bận rồi, lần sau ngủ ngoài đường nhé. Hắn cười rất hồn nhiên, nhảy lên giường, rồi bật bia tu ừng ực...
Tôi gặp hắn lần đầu vào một chiều cuối năm 1986. Khi tôi và
Hải Bia đang ngồi khật khừ ở hàng bia hơi Hoàn Béo đầu Ô Chợ
Dừa, Hà Nội. Bia mới nhất tuần, chợt có chiếc Simson đỗ khự
trước mặt. Một gã có lẽ, lớn hơn chúng tôi đến chục tuổi,
dáng có vẻ còn thư sinh lắm, bước xuống, cười cười bắt tay
Hải Bia thật chặt:
- Đến nhà, bà già bảo ông vừa biến. Đoán hôm nay ông sẽ ngồi ở đây, nên tôi mò đến. Trúng y phóc.
Hải Bia không trả lời, gọi thêm một vại, rồi kéo ghế chỉ cho
hắn ngồi xuống. Thấy hắn quay sang tôi định chào hỏi, Hải Bia
giới thiệu luôn, rồi chỉ vào hắn:
- Lê Quốc Bình, tức Bình Cảnh. Một tay chơi của Bộ công nghiệp nhẹ.
Lời ra, tiếng vào trong lúc khật khừ bia rượu, biết được Bình
Cảnh đang nhờ Hải Bia lấy giấy xác nhận lý lịch đủ tiêu chuẩn
sang Đức lao động của An ninh (A17). Bởi, thời gian này, hắn
luôn bị Cục điều tra hình sự, Bộ công an gọi hỏi về vụ làm
giả giấy tờ cho một gã bạn vào làm việc ở Sông Bé. Do vậy,
việc xét lý lịch sang Đức rất khó khăn, buộc hắn phải tìm
đến Hải Bia. Hải Bia là kỹ sư, xuất thân từ Đại học Bách khoa
Hà Nội (K22) chuyển sang Bộ công an. Tôi và Hải Bia quen biết,
thân nhau qua Phạm Văn, một thương binh Quảng Nam tập kết cũng là
sinh viên Đại học Bách Khoa. Thời gian ấy, Phạm Văn đang cửu
vạn máy khâu từ Hải Phòng về Hà Nội cho tôi. Chuyển vào an
ninh, chẳng biết Hải Bia có học nghiệp vụ ngành hay không, mà
lúc quái nào cũng thấy hắn lật khật, mặt mũi tưng bừng.
Dường như, muốn gặp hắn, kể cả giờ hành chính thì phải tìm
đến các quán bia. Nên cái Spitzname Hải Bia vận vào hắn từ khi
nào cũng chẳng hay. Tuy theo dõi Bộ công nghiệp thực phẩm, nhưng
Hải Bia vẫn có thể với tay sang Bộ công nghiệp nhẹ được. Do
vậy, lời hứa với Bình Cảnh của Hải Bia cứ chắc nình nịch…
Cuối thu 1988, từ Limbach- Oberfohna Bình Cảnh đến Leipzig tìm
tôi. Hắn bảo, đang là thợ sửa chữa máy khâu ở xí nghiệp may
mặc. Qua trường độ nặng nhẹ hơi thở của giọng nói, cảm nhận
ra ngay, sự chán chường của hắn đang ở mức kịch trần. Bởi, ở
Việt Nam làm giả, ăn thật, suốt ngày hắn khệnh khạng bia bọt,
phét lác, rong chơi. Ở Đức buộc hắn phải vào guồng máy, khuôn
khổ. Và đã đến nơi đây, chức tước, già trẻ, lớn bé đều là
thằng cày thuê cuốc mướn, xé vé đồng hạng (như nhau). Sự hụt
hẫng ấy, làm cho hắn sụp đổ hoàn toàn về mặt tâm lý. Và con
đường quay về Việt Nam chính là sự giải thoát. Hắn lẩm bẩm
với tôi như vậy. Vỗ vai hắn, tôi an ủi, động viên:
-Mới sang chưa quen thôi. Ít ngày nữa có đuổi ông cũng chẳng chịu về đâu.
Bình Cảnh ậm ừ, im lặng. Tôi liền nhắc lại cái án làm giấy
tờ giả, vẫn còn treo lơ lửng trên đầu hắn, nếu quay về, và
hỏi:
- Cái vụ làm giấy tờ đểu cho bạn, nếu ông không là thái tử
con quan, có lẽ, nó cho ông ra bã từ lâu rồi ấy nhỉ?
Hắn cười:
- Vụ đó là cái con mẹ gì. Còn những vụ ác đòn hơn thế nhiều. Lúc nào đó, tôi sẽ kể cho ông nghe.
Thấy hắn hứng khởi, tôi hỏi tiếp:
- Vụ bạn ông, làm thế quái nào bị “nghĩa lộ“ vậy?
- Thằng đấy ham hố chết là phải thôi. Rất may sự việc chỉ đến
tôi thì dừng, bằng không liên lụy đến nhiều người.
- Sự việc thế nào, ông có thế nói rõ hơn chăng?
- Nó là bạn học. Năm 1969, chúng tôi cùng tốt nghiệp cấp 3. Để
bù lại sự thiếu hụt quân số từ Tết Mậu Thân 1968, hầu như con
trai khóa chúng tôi đều phải vào bộ đội. Chỉ còn lại thằng
thấp bé nhẹ cân, không đủ sức khỏe như nó mới học tiếp. Đến
năm 1972 lệnh tổng động viên, các sinh viên đại học cũng phải
nhập ngũ, vào chiến trường. Lúc đó, nó phổng phao, đủ cân đủ
lạng nhưng sợ nghẻo, chuồn về quê, rồi theo đám thợ xẻ lên
rừng. Nó sống như vậy, cho đến hết chiến tranh. Năm 1978, tôi
gặp lại, thấy nó vất vưởng, không giấy tờ, hộ khẩu đâm chạnh
lòng. Tôi bàn bạc, và mua cho nó hồ sơ bộ đội phục viên chuyển
ngành khống. Tôi dặn đi dặn lại nó, phải vào các tỉnh phía
Nam xin việc, và suốt đời chỉ là một công nhân bình thường. Nó
ừ ừ, cạc cạc…phấn khởi, rồi phương Nam thẳng tiến. Với vỏ
bọc đó, nó được nhận vào làm công nhân lâm nghiệp tỉnh Sông
Bé. Tưởng đã yên thân, và yên tâm như vậy, nhưng không ngờ, thời
gian sau, nó bắt đầu quẫy đạp. Chẳng hiểu bằng cách nào, nó
lọt qua cửa kiểm tra lý lịch vào đảng, và được cử đi học đại
học tại chức, rồi vọt lên phó, trưởng phòng… Và đường công
danh, tài lộc đang phát, thì bị phe cánh đồng chí phó giám
đốc tìm ra thóp, bắt vở chọc ngoáy, khi nó vừa ngồi vào ghế
giám đốc. Sự việc tóe loe, khi an ninh đến hỏi thăm, tôi mới
biết. Đạn dược của nó lúc đó đủ bắn các cửa, nên không bị
tù tội, nhưng buộc phải về nhà ôm đít vợ. Thật ra, vì hoàn
cảnh có rất nhiều người buộc phải làm giấy tờ giả để có
một cuộc sống, mưu sinh bình thường. Điều này, ai cũng có thể
hiểu và cảm thông. Nhưng thằng này, không thoát ra được sự cám
dỗ, đấu đá tranh giành quyền lực. Do vậy, không trước thì sau,
nó phải đi điếu thôi. Tôi suýt nữa cũng toi theo nó, nếu không
có ông già chống đỡ.
Bình Cảnh kể một thôi một hồi, rồi đột nhiên dừng lại, tu
liền tù tì mấy chai bia, như thể vừa bỏ được gánh nặng, trút
được ấm ức ở trong lòng vậy. Chờ tâm trạng hắn dịu lại, tôi
bảo:
- Ông già của ông đã đến tuổi về vườn, chắc chắn không thể
chống lưng cho ông mãi được. Ông yên tâm ở lại cày kiếm tiền,
đỡ ngứa mắt chúng nó. Năm, sáu năm sau trở về sự việc có thể
đã hóa bùn.
Hắn không trả lời, với bao thuốc châm lửa… hai mắt nhắm nghiền lại.
Có lẽ, nhắc lại án cũ làm cho Bình Cảnh chờn chờn, tởn tởn
trước sự chăm sóc của An ninh chăng? Nên những lần gặp sau
(tịnh) không thấy hắn than thở và muốn trở về Việt Nam nữa.
Năm 1989, mùa Thu dường như đến sớm. Mới tháng mười mà gió và
rét như quất vào mặt người. Cùng đó, cơn bão tự do nổi lên,
quật đổ bức tường Berlin, dẫn đến thống nhất nước Đức. Với
kỹ thuật cổ lỗ, phần lớn nhà máy phía Đông phải đóng cửa.
Không việc làm, dẫn đến không chỉ riêng tôi, mà dường như tất
người Việt ở Đức, kể cả sinh viên và nghiên cứu sinh chạy loạn
xì ngầu. Có lẽ, Bình Cảnh chợt tỉnh ngộ chẳng? Hắn không
chịu nhận tiền đền bù để về nước, như phần đông các đồng
nghiệp, mà chuồn thẳng sang Niedersachsen. Ở đó, hắn tự hành
nghề bán hàng rong.
Sau một thời gian chạy lòng vòng, tôi lại quay về Leipzig. Thành
phố thân yêu, với những kỷ niệm không thể nào quên, ngay từ
buổi đầu tôi đặt chân đến Đức.
Cuối tuần, về Leipzig lấy hàng, hỏi thăm ai đó, Bình Cảnh biết
tôi đang bán bia hơi và đồ ăn ở trung tâm thành phố, hắn mò
đến ngay. Mấy năm không gặp, trông hắn có vẻ khí thế, đẫy đà
hẳn ra. Dù vợ con ở nơi quê nhà dọa sẽ sang, hắn vẫn ẵm thêm
một em mắt xanh, mỏ đỏ vừa từ Việt Nam qua tị nạn. Ngất
ngưởng dìu em bước xuống từ chiếc xe BMW bóng nhẫy, hắn rất
tự tin: Đây là em Hồng.
Rồi hắn nói liên chi hồ điệp, với hơi thở bắn ra toàn mùi
tiền, đập vào mặt tôi cứ rát ràn rạt. Tương lai, mấy cái mẹt
quần áo ngoài chợ giời của hắn trở thành công ty, thương hiệu
cả thế giới phải biết tên, điểm mặt đến nơi rồi cũng không
chừng. Viễn cảnh hắn vẽ ra, làm tôi cứ rung lên bần bật: Gớm,
cái tính lạc quan kỳ này chẳng bù tí tẹo nào cho cái khuôn
mặt gà rù của ông hồi mới sang nhỉ. Bắt tay, ôm vờ em mắt xanh
mỏ đỏ, nhìn chõ sang hắn, tôi bảo vậy. Hắn cười phơ phớ: Sông
có khúc, con người có lúc chớ.
Kể từ đó, tuần nào về mua hàng ở Leipzig, Bình Cảnh cũng ngủ
qua đêm ở nhà tôi. Biết tôi, khoái đi chợ đồ cổ, đồ cũ. Do
vậy, hôm Buss und Bettag, hay ngày lễ gì đó riêng của bang
Sachsen, tôi được nghỉ làm việc, trùng với phiên chợ giời
(flohmarkt) bán đồ cũ ở Braunschweig, hắn nhắn có hứng thú thì
sang đi cùng…
Khi tôi tới chợ, ô đã dựng xong, Bình Cảnh và Hồng đang bày
biện quần áo lên bàn. Chỗ đứng của hắn ở ngay cửa ra vào,
rộng và dài nhất chợ. Một vị trí đẹp, hàng hóa đập thẳng
vào mắt người qua lại. Nhìn chéo sang, thấy có một gã cũng
tóc đen mũi tẹt, tuổi trạc Bình Cảnh đang chăm sóc, lau chùi
mớ đồ giả cổ trên một chiếc bàn gấp bé tẹo. Ngẩng đầu lên,
thấy tôi đang nhìn, gã dừng tay gật đầu chào.
Trời cuối thu, đứng lâu cái rét đã ngấm vào người. Tôi vòng
quanh chợ một lần nữa, rồi sà vào hàng Glühwein. Mới tợp được
vài ngụm, quay lại thấy gã bán đồ giả cổ, tay cầm ly Glühwein
còn bốc khói, đứng ngay sau lưng. Tôi bắt tay gã, chào một câu
tiếng Đức. Bóp chặt tay tôi, gã đáp lại bằng câu hỏi tiếng
Việt, với chất giọng pha trộn, rất khó đoán người vùng nào:
- Em cũng là người Việt?
- Ồ! Vậy mà từ nãy đến giờ thằng em cứ ngỡ bác là người
Thái, Phi hay Indo…chứ. Bởi, người Việt ta ở Đức hình như ít
có ai buôn bán cái món này. Tôi phụt ra một tràng tiếng Việt
làm gã bật cười:
- Thi thoảng mình đi chợ, bán cho vui thôi.
Câu chuyện đang đi vào chiều sâu về cuộc sống, sinh hoạt của người Việt ở hai miền Đông, Tây, đột nhiên gã hỏi:
- Cái ông bán hàng vải ở cửa chợ, nhìn rất giống một người
bạn thời trai trẻ của mình. Ông ấy tên gì, và người nhà của
em à?
- Không. Là người bạn lớn tuổi thôi. Anh ấy tên Lê Quốc Bình.
- Hình như, ông ấy còn cái tên khác nữa?
- Còn Spitzname Bình Cảnh. Trước đây là lính tráng có thay tên
đổi họ hay không, qủa thực em không rõ. Anh đến chuyện trò thử
xem, biết đâu là cố nhân.
Ực xong ly Glühwein có lẽ nóng người, tinh thần gã phấn chấn hẳn ra, theo tôi đến hàng Bình Cảnh ngay.
Trời đã về chiều, dường như chợ sắp tan. Bình Cảnh đang lùi
chiếc xe ba khoang to vật vã đến gần để dọn hàng. Thấy tôi đi
tay không với gã bán hàng giả cổ, Bình Cảnh nhảy xuống xe,
hỏi:
- Không tăm được cái gì hợp khẩu vị hả?
- Tuy không mua được gì, nhưng tôi tìm được bác này, có thể là cố nhân của ông. Nhìn xem thấy có quen không?
Lúc này, Bình Cảnh mới quay sang gã hàng giả cổ. Phút giây im
lặng,.. đến khi gã hàng giả cổ tự lột chiếc mũ, để lộ ra
vết sẹo to vật trên đầu của mình, Bình Cảnh chợt vuột ra:
- Nhẫn. Nhẫn Sẹo phải không?
Gã hàng giả cổ gật đầu, rồi cũng réo tên:
- Trần Phước Long. Tao ngờ ngợ ngay từ khi nhìn thấy mày. Thật
không ngờ chúng ta còn có thể gặp nhau. Và ở trên mảnh đất xa
tít mù tắp này.
Rồi cả hai cười ha hả, lao vào bá cổ và đấm bùm bụp vào
bụng nhau. Tôi ngơ ngác, ngẩng tò te đứng nhìn. Lúc sau, hai gã
mới rời nhau. Bình Cảnh quay sang tôi bảo, quả thật là cố
nhân…
Tuy ở Braunschweig, nhưng sống độc thân, nhà cửa chật chội,
thiếu bàn tay bếp núc cho việc nhấc lên đặt xuống khật khừ, do
vậy Nhẫn Sẹo đồng ý về nhà Bình Cảnh ở Helmstedt. Hàng hóa
chỉ có ở trong tay nải và chiếc bàn gấp nhỏ, do vậy gã cho
cả vào xe của tôi. Trên xe, chuyện trò, tôi mới biết, Nhẫn Sẹo
người gốc Quảng Bình. Năm 1954, mới 5 tuổi cha mẹ đã cho lên
thuyền dong duổi vào cửa biển Hội An. Ở đây gã theo cha mẹ làm
nghề chài lưới. Năm mười sáu tuổi, chẳng biết đạn pháo kích
của ông Nga, ông Tàu, hay của ông Mỹ, ông Hàn đang đêm bắn nát
gia đình gã. Một mình sống sót, với vết thương ở trên đầu khó
có thể thành sẹo. Vật vờ sống như kẻ mộng du, mấy năm sau,
gã xin vào lính thám báo Mỹ. Năm 1973, Mỹ rút quân, gã chuyển
sang lính Việt Nam Cộng Hòa. Sau 1975, rất may hồ sơ quân bạ
thời gian đi lính thám báo, người Mỹ đã mang về nước, gã chỉ
phải đi tù cải tạo một thời gian rất ngắn. Đang vật vờ khói
khát, một chủ thuyền vượt biên tìm đến bảo, cần người có kinh
nghiệm tàu bè biển khơi, sông nước như gã. Nếu có hứng thú đi
cùng, không phải chi trả gì cả.
Vậy là, như chết đuối vớ được cọc…và gã đã đưa con thuyền lá tre ấy tới đích, rồi định cư ở Đức từ đó.
Bữa nhậu hội ngộ của hai gã rất khí thế. Nhẫn Sẹo hò hét,
rượu Wodka cứ nhát một, đang khua tay múa chân, đột nhiên gục
tại chỗ. Tôi và Bình Cảnh còn ngồi lai rai cho đến hết câu
chuyện của hắn. Qủa thực, quãng thời gian lính tráng đầu đời
của Bình Cảnh như một kịch bản vậy, mà tác giả phải là
người có trí tưởng tượng thật phong phú. Nếu không trực tiếp
nghe hắn kể, và gặp được Nhẫn Sẹo, thì tôi khó có thể tin,
đó là sự thật…
Vừa hành quân, vừa luyện tập trên đất Camfuchia, đến cuối năm
1969, Bình Cảnh đến được Phước Long, bổ sung cho Sư đoàn 7 vừa
bị thiệt hại nặng nề trong Tết Mậu Thân. Không được học hành,
và tập luyện cơ bản về đại đội trinh sát là vô cùng khó khăn
đối với Bình Cảnh. Tuy nhiên, bước đầu hắn được các đàn anh
cùng tiểu đội kèm cặp. Trước Tết Canh Tuất (1970) tổ trinh sát
của hắn mò vào một đơn vị thuộc Sư đoàn 18 bộ binh, Quân đội
Việt Nam Cộng Hòa, chuẩn bị cho trận đánh vào những ngày Tết.
Bị phát hiện, và súng đã nổ trong đêm. Cũng tưởng rằng, tử
trận cùng với bốn đồng đội, nhưng không ngờ, chỉ một mình
hắn, một lính mới tò te lại sống sót, dù dính mấy viên đạn.
Bình Cảnh bị bắt, và được các y sỹ sơ cứu. Sau đó, hắn được
chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hòa tại Gò Vấp.
Được điều trị, ăn uống đối xử như những người lính Việt Nam
Cộng Hòa làm cho vết thương của Bình Cảnh dường như cũng mau
lành. Tuy trở thành tù binh của chiến tranh, song sự mặc cảm,
khoảng cách của hắn với những người lính VNCH, và xã hội dần
dần được xóa bỏ. Sự sầm uất của Saigon, nhất là những ngày
tết, và con người nơi đây làm cho suy nghĩ dẫn đến nhận thức
của Bình Cảnh hoàn toàn thay đổi. Do vậy, chiêu hồi là cánh
cửa mở cũng như giải pháp tốt nhất mà hắn đã lựa chọn. Tuy
nhiên, sự mâu thuẫn và nỗi lo sợ cho gia đình nơi quê nhà luôn
ray rứt, và đè nặng lên con người hắn. Bởi, ông bố đang quan to
đầu ngành của tỉnh. Nếu tin hắn chiêu hồi vọng về đó, thì bố
hắn và gia đình sẽ đi tong. Do vậy, chờ được tin, xác bốn
đồng đội do Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chôn cất, hắn mới thở
phào nhẹ nhõm, quyết định chiêu hồi. Bởi, cuộc nổ súng không
cân sức ấy, không thấy ai trở về, chắc chắn đơn vị sẽ cho
rằng, cả tổ trinh sát của hắn đã tử trận. Tin này chắc chắn
sẽ được chuyển về quê hương cùng gia đình. Và tấm hình của
hắn sẽ ngồi trên nóc tủ ngắm gà khỏa thân, với tấm bằng Tổ
quốc ghi công là cái chắc. Vậy là, về mặt lý thuyết Lê Quốc
Bình đã nghẻo. Và sau sự tẩy rửa, hắn sống lại với cái tên
cúng cơm mới: Trần Phước Long.
Học tập ở trại chiêu hồi mấy tháng, rồi hắn được về Hố Nai,
Biên Hòa định cư, và học nghề mộc. Nơi đây, phần đông là đồng
bào Công giáo di cư từ miền Bắc, nên hắn hòa đồng rất nhanh.
Được mấy tháng, chợt có thằng bạn học, cũng dân Bắc di cư, rủ
hắn đi khám tuyển vào lính thám báo không số quân, do Mỹ trả
lương. Nghe bùi tai, và đang chán cảnh cưa xẻ, bào đục, hắn
đồng ý ngay…
Đến đây, thấy giọng kể của Bình Cảnh có vẻ hơi bị yếu và
đứt quãng, tôi liền rót đầy hai ly, đẩy về phía hắn: Cạn phát
cho khí thế. Hắn cầm cốc đưa lên miệng, nghĩ thế nào lại hạ
xuống, chỉ vào Nhẫn Sẹo đang nghẹo đầu nghẹo cổ, gáy như sấm
ở trên Sofa:
- Mấy năm làm lính thám báo, chuyến nào tôi và nó cũng đi
cùng. Đầu năm 1972, cứ tưởng hai thằng đi điếu trong rừng Dak Tô
rồi chứ…Số là..
Cắt ngang lời hắn, tôi hỏi:
- Này! Sau 1975 làm thế quái nào ông trở thành thương binh, được học đại học ngon lành cành đào như vậy?
Hắn cười phơ phớ, rồi giảng giải:
- Năm 1973, ông Mỹ rút, không như Nhẫn Sẹo chuyển sang lính Việt
Nam Cộng Hòa, tôi trở lại Saigon, với cuộc sống đời thường. Vì
tôi cảm thấy mạo hiểm thế là đủ. Vẫn cái tên Trần Phước
Long, tôi làm đủ các nghề, dạt vòm khắp nơi. Đùng một phát,
biến cố 30- 4-1975 xảy ra. Cũng định tìm đường ra đi, dù thế
nào, tôi đã có mấy năm làm việc cho ông Mỹ. Nhưng ngay sau đó,
tôi nghĩ đến gia đình, nhớ đến quê hương ngoài Bắc. Và trong
lúc lộn xộn đó, dò hỏi, và biết chắc hồ sơ thám báo, người
Mỹ đã đưa tất cả về nước rồi, tôi mới quyết định ở lại. Tôi
cũng hy vọng ở bố tôi, có lẽ lúc này ông đã là phó hoặc chủ
tịch tỉnh rồi. Bởi, ngày tôi đi lính, ông mới 40, một Trưởng
ty trẻ được học hành, và có năng lực. Thế là, cái tên Lê Quốc
Bình hồi sinh, quần áo nhầu nát độc bộ, lộn ngược dòng
người, tôi trở về với dòng sông Đạ Huoai, với núi rừng Tây
Nguyên.
- Ngày đó ông còn trẻ, nghĩ ra cái trò này, kể cũng quái thai
ngâm dấm ra phết nhỉ. Và một mình sống như vậy, ông không sợ
à? Chờ hắn cạn nốt chai bia, tôi hỏi vậy. Giọng hắn trầm hẳn
xuống:
- Sợ gì, tôi đã được học, và rèn luyện kỹ năng sống, chiến
đấu trong mọi hoàn cảnh, rồi trải qua thực tế, với những
tháng ngày của người lính biệt kích. Do vậy, không riêng tôi,
với thằng lính biệt kích nào cũng vậy, sống một mình giữa
bản làng hoang phế là rất bình thường.
- Thế rồi sao nữa, ông tiếp tục đi.
Hắn không trả lời, nhưng hỏi lại tôi:
- Năm đầu thập niên tám mươi, ông đã từng đi qua Đạ Huoai, Bảo Lộc phải không?
- Đúng vậy.
- Thời đó, huyện lị vẫn còn hoang vu thế, thì hồi 1975 ở
những buôn làng xa ông không thể tưởng tượng ra được đâu. Tuy
nhiên, tôi ở đó không lâu, người dân rải rác trở về. Thấy tôi
lang thang, khờ khạo, khi gặp tiếp xúc, họ nghĩ ngay, tôi là bộ
đội bị thương mất trí. Do vậy, vài tuần sau, người của huyện
đội tìm đến. Họ hỏi, tôi cứ ú ớ, nhe răng cười. Nhìn thấy áo
quần tôi rách lòi ra những vết sẹo to vật vã, họ có vẻ hơi
ái ngại. Rồi có hai người nói tiếng Bắc từ tỉnh đội đến
chuyện trò. Mãi họ cũng luận ra được tên tuổi, quên quán và
đơn vị cũ của tôi. Nghe họ nói, sẽ xác minh và quay lại. Và
tôi không phải chờ lâu, vài tuần sau có người đàn ông lặn lội
vào tìm và bảo, làm ở Ủy ban quân quản thành phố, mới ngoài
Bắc vào. Rồi ông ấy đưa cho tôi bức ảnh. Liếc mắt, tôi nhận ra
bố tôi đứng cùng các đồng nghiệp ở ủy ban tỉnh. Thấy tôi đuột
mặt ra, người đó hỏi, có nhận ra ai không? Ngập ngừng, tôi chỉ
tay vào bố tôi, giả vờ nói đứt tiếng: Bố…bố. Người đàn ông
có vẻ mừng lắm bảo, vậy thì đúng rồi. Bố cháu hiện đang là
Phó chủ tịch thường trực tỉnh nhà. Chú sẽ điện báo cho ông
ấy ngay. Một vài tuần tới, ông ấy sẽ vào đón cháu về thôi.
Bố cháu có nhờ chú chăm sóc cho cháu trong thời gian này. Bây
giờ, cháu về chỗ chú nhé…
Không ngờ, tuần sau bố tôi bay vào ngay. Bố con gặp nhau, tôi vẫn
phải diễn cho đến khi ông đưa tôi ngược ra Bắc về đến nhà. Khi
tôi nói thật, bố tôi hơi hoảng, mắng tôi một trận. Rồi trấn
tĩnh trở lại, bằng mọi quan hệ, quyền uy của mình, ông lấy
lại cho tôi hồ sơ, giấy tờ từ đơn vị cũ, và khám chữa bệnh,
cũng như đánh giá thương tật. Và tôi nghiễm nhiên trở thành
thương binh. Năm sau, tôi vào Trường văn hóa thương binh luyện thi
đại học. Và sau khi tốt nghiệp Đại học kinh tế kế hoạch, năm
1981 tôi về làm việc ở Bộ công nghiệp nhẹ, như ông đã biết.
- Giỏi, tôi phục ông. Bao năm vậy mà không bị thằng nào chọc ngoáy.
Dốc ngược ly rượu cuối cùng, tôi khen. Hắn cười:
- Giỏi chó gì! Cái chính là tôi không đảng đoàn, không ham hố
tranh giành quyền lực. Chỉ khoái kiếm tiền bia rượu, vui chơi
bạn bè. Vậy tôi mới có tên là Bình Cảnh…
* Đoạn kết cho một kiếp người:
Năm 2012, tuổi đã ngoài lục tuần, Bình Cảnh và Nhẫn Sẹo cũng
tiết kiệm được một khoản tiền. Nghe bạn bè rủ rê mang về Việt
Nam chung nhau lập công ty công teo gì đó, bấp chấp sự can ngăn
của mọi người. Bởi, viễn cảnh vẽ ra cứ tươi roi rói, chắc
nình nịch. Phen này, thành đại gia, chủ lớn ở cái tuổi cuối
chầu là cái chắc. Vỗ đùi đen đét, Bình Cảnh nói với bạn bè
vậy. Thôi thì cũng mừng cho hắn.
Một năm sau. Mùa hè, tôi đang nhặt hào, câu cua ở biển Holland,
nhận được điện thoại của Bình Cảnh. Hỏi, ngày mai có thể đón
hắn ở sân bay Tegel không? Tôi trả lời, không về kịp.
Mấy ngày sau, từ Holland về, thấy Bình Cảnh ngồi chờ tôi ở
cửa. Nhìn hắn thấy, xuống sắc lắm. Hỏi, Nhẫn Sẹo đâu? Hắn
trả lời nhát gừng, bị tăng xông chết rồi. Sao vậy, vẫn còn
khỏe mà? Chúng tôi bị lừa, và bị lột sạch cả rồi. Nhẫn Sẹo
không chịu nổi áp lực. Còn tôi chuồn gấp sang đây.
Khi chuyện trò, mới biết, hắn tìm và nhờ tôi đưa ra Sở lao
động xin tiền, xin nhà ở và ra Sở ngoại kiều trình báo. Bởi,
hắn không đủ tiếng Đức để giải thích, và khai báo, dù đã
sống mấy chục năm ở Đức. Hơn nữa, hắn vẫn mang quốc tịch Việt
Nam, không được phép rời khỏi nước Đức quá 6 tháng, nên hơi bị
run.
Làm xong giấy tờ, từ đấy hắn cũng ít đến chỗ tôi. Thỉnh
thoảng hắn có điện thoại, được biết, hắn đã xuống vùng cực
Nam của nước Đức làm thuê cho một nhà hàng, quán ăn gì đó… Và
rồi, hắn ra đi khi đang lái xe đưa đồ ăn cho khách hàng. Một
cái chết không vợ con gia đình, không người thân bên cạnh. Âu
cũng là một kiếp người, nhưng quả thật đáng buồn…
Leipzig 24-10-2019
No comments:
Post a Comment