VIỆT NAM
ĐẠI CÁCH MẠNG.
“CÁCH MẠNG BẰNG
NHƠN NGHĨA”
BIÊN SOẠN
NGUYỄN PHÚC THÀNH.
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
BẢN IN NGÀY 25-01-2014.
NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
LỜI THƯA TRƯỚC.
“In God We Trust”
“Chúng Ta Tin Vào Thượng Đế”.
“Phương thức cách mạng bằng nhơn nghĩa đã ra đời”
Kính quí vị anh
hùng, chiến sĩ đã hy sinh tính mạng, xương máu cho dân tộc và tổ quốc.
Kính các tổ chức
thiện nguyện giúp cho Việt Nam và nhân loại được sống trong nhân quyền và tự do
tôn giáo.
Kính quí đồng
đạo và đồng sanh.
Chúng tôi là
những người theo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) hay Đạo Cao Đài xin mượn tiêu
ngữ của Hoa Kỳ: In God We Trust (Chúng Ta
Tin Vào Thượng Đế) làm nhịp cầu để thưa với quí vị rằng: Chúng tôi cũng tin vào Thượng Đế.
Trong tinh thần
tín ngưỡng Thượng Đế chúng tôi xin kính trình với quí vị rằng: Thượng Đế đã đến
trần gian chỉ cho nhân loại các công thức và nguồn máy để xây dựng một thế giới
hòa bình.
Thượng Đế đến
chỉ dạy bằng cách nào?
Thượng Đế đến
dạy bằng cách dùng cơ bút.
Thượng Đế dạy
năm nào? ở đâu?
Xin thưa dạy từ
năm 1925, cho môn đệ ở tại Sài Gòn. Thượng Đế dạy các vị về lập ra Tòa Thánh ở
Tây Ninh làm nguồn cội cho ĐĐTKPĐ.
Những lời dạy đó
đã được công khai ra toàn nhân loại từ ngày 15-10-Bính Dần (19-11-1926). Hiện
nay Tín đồ ĐĐTKPĐ đang truyền bá công thức của Thượng Đế dạy về cách thức xây
dựng một thế giới hòa bình, dân chủ, tự do... bằng nhiều hình thức.
Trong tập sách
nầy chúng tôi trình chánh rằng Hội Thánh Cao Đài đã áp dụng những công thức nầy
để thực hiện một cuộc cách mạng xây dựng xã hội mới bằng NHƠN NGHĨA rất rõ
ràng.
. Phần công thức
Lập quyền dân; Dân mạnh do Thượng Đế dạy.
. Phần phân tích
là do chúng tôi học từ quí vị tiền bối có trách nhiệm khai đạo đặc biệt là của
Giáo Chủ Phạm Công Tắc.
. Phần làm rõ là
đúc kết từ thực tế xây dựng nên vùng Châu Thành Thánh Địa và các sinh hoạt
trong tôn giáo. Phần nầy chúng tôi trình bày sơ lược về 05 chương trình đã thực
thi: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức,
dân trí và dân sinh.
Đem những công
việc trên phân tích theo khoa học sẽ lộ rõ ra tiến trình của một phát minh mới:
trình bày phát minh và thực hiện phát minh.
Điều quan trọng
là trình bày cách tổ chức bộ máy nhân sự để thực hiện 05 chương trình và 03
phương diện trên. Từ đó cân nhắc để ứng dụng vào Việt Nam (theo nguyên tắc
Taylor).
Sự tự nguyện
hưởng ứng, tham gia của dân chúng là thước đo giá trị của mọi cuộc cách mạng
(phát minh mới). Công thức đúng là nguồn năng lượng vận hành, là nội lực để
vượt qua mọi khó khăn trong nội bộ, là sức mạnh xô ngã mọi chướng ngại và đi
đến sự thành công.
Phương thức cách
mạng bằng NHƠN NGHĨA rất biện chứng và sinh động: lý luận đi đôi với thực hành.
Nó đóng vai trò như phòng thí nghiệm để kiểm chứng các phát minh hay công thức
là đứng đắn.
Đức tin là sự nhận thức về chân lý.
Từ các việc trên
được minh bạch thì tính khả thi của công thức với cộng đồng xã hội nhỏ, lớn
trong buổi năm châu chung chợ bốn biển chung nhà là điều chắc chắn. Thế giới
mới ra sao do chính nhân loại xây dựng nên mà có.
Chúng tôi kính
mong quí vị lưu tâm nhận định xem phần trình bày các công thức, phân tích và
thực hành có gì thiếu chắc chắn hay không. Những nhận xét của quí vị giúp chúng
tôi có thêm kiến thức để nhìn lại những nhận thức chính mình. Nhưng quan trọng
hơn là những người yêu hòa bình và công lý ở Việt Nam và thế giới có dịp suy
nghĩ thêm công thức mới làm hành trang trên đường phụng sự. Bởi vì chính các vị
cũng đang dùng NHƠN NGHĨA để thực hiện cách mạng mà không cần đến súng ống, bạo
lực.
Cuộc cách mạng
dùng NHƠN NGHĨA để xây dựng xã hội dân sự
dù rằng diễn ra trong hòa bình (không dùng súng đạn) vẫn liên quan đến
hạnh phúc, đau khổ hay xương máu những người công nghĩa... Cho nên những người
thật tâm thương dân, yêu nước rất cẩn thận. Phải luận cổ suy kim, kế thừa tinh
hoa của dân tộc, tiếp thu cái mới đem dung hòa với nhau cho được ổn thỏa rồi
mới trình ra cho quần chúng hiểu biết. Trong khi trình ra phải chấp nhận mọi sự
phản biện công khai và dân chủ. Khi đã cân phân mọi lẽ nên hư mới hiệp đồng
nhau để tạo thời cải thế.
Phần tìm hiểu,
nghiên cứu dung hòa là của trí thức, đạo tâm biết thương dân, thương nước. Nếu
thật sự vì giống nòi, vì tổ quốc thì truyền bá cho dân hiểu để thực thi chớ
không phải cưỡng bức người dân phải theo, ai không nghe theo thì tàn sát như
cách làm của cộng sản rồi biện minh rằng bạo lực cách mạng. Súng cách mạng mà bắn giết người dân thì
cũng đồng với súng thực dân Pháp bắn giết người dân. Kẻ sát nhân kia
chỉ giết có một người mà xã hội còn lôi ra xử tội; kẻ giết hàng loạt người lại
được tung hô ca ngợi và gắn huân chương đầy ngực cho họ thì chưa phải là xã hội
loài người văn minh tiến bộ.
Ông Gandhi làm
cách mạng bất bạo động đã thành công sao không học, không nghiên cứu thực thi
cứ đem bạo lực cách mạng ra để giết hại đồng bào chủng tộc. Nước Đức thống nhất
đâu phải tốn xương máu như cách cộng sản làm. Cộng sản giết người không gớm
tay. Giết lầm hơn bỏ sót là
khẩu hiệu máu của cộng sản.
Trong Ngục Trung
Thư Cụ Phan Bội Châu đã nhận xét về đường lối của Hồ Chí Minh: ...đường lối của người thanh niên nầy nếu
đem ra thực hiện thì máu sẽ chảy thành sông, xương sẽ chất thành núi...
Cộng sản Việt Nam đã làm đúng y như thế. Cộng sản giết dân Việt Nam nhiều nhất trong lịch sử.
Cộng sản khởi
đầu bằng dối trá và bạo lực, tiến hành bằng dối trá và bạo lực, khi đã thành
công thì cai trị bằng bạo lực và dối trá bằng pháp luật. Súng ống, mã tấu, lưỡi
lê... với dối trá đã tạo ra chế độ cộng sản.
Cộng sản nắm
chánh quyền họ dối trá bằng cách nay thay mai đổi (kể cả hiến pháp mà họ cho là
rất quan trọng). Lời nói đầu hiến pháp 1980 xác định Trung Quốc là kẻ thù xâm
lược; đến hiến pháp 1992 thì nó biến mất và công thức 16 chữ vàng cùng 04 tốt
như từ đất nẽ chui ra mà không cần cho dân chúng biết vì sao thay đổi như vậy?.
Điều số 04 hiến
pháp 1992 người dân muốn xóa bỏ nó mà Đảng không dám đem ra thảo luận công khai
chứng tỏ họ rất sợ. Chủ tịch Nguyễn Minh Triết thố lộ nổi sợ hãi: Bỏ điều bốn Hiến pháp là tự sát.
Năm 2013 khi bể
ra vụ tham nhũng của Vinalines cả nước phẩn nộ thì cộng sản đem việc sửa hiến
pháp 1992 ra che đậy cho bọn tham nhũng. Kết quả là hiến pháp sau tệ hơn hiến
pháp trước.
Cộng sản âm mưu
đưa dân tộc vào ma trận luật pháp để dân bị rối trí trong đó rồi chịu cho họ
thao túng. Việt Nam có một rừng luật nên cứ lấy luật rừng ra xài. Cứ làm
được một thời gian rồi hô hào đổi mới, hô hào định hướng mới. Họ đang cho dân
tộc leo cây thoa mở bò. Cố bám để leo thế nào đi nữa cũng rớt về vạch xuất phát
và tình trạng còn bê bết hơn trước do mất sức, mất thời gian và mất mạng.
Đảng có 02 thứ
luật: luật dành cho Đảng và luật dành cho công dân hay tổ chức (pháp nhân)
ngoài Đảng như tôn giáo... xin lấy chứng cứ từ ĐĐTKPĐ làm bằng.
./- Luật dành
cho Đảng: Các nhân sự đảng ủy lãnh đạo PMU 18, Vinashin, Vinalines.... tham
nhũng làm thất thoát hàng chục ngàn tỷ đồng từ tiền thuế của dân. Cái pháp nhân
đẻ ra PMU 18, Vinashin, Vinalines là Đảng cộng sản. Đảng xữ mấy tay Đảng viên
tham nhũng chớ không xữ CÁI PHÁP NHÂN đẻ ra nó là Đảng cộng sản Việt Nam.
./- Luật dành
cho ngoài Đảng: Năm 1978 Đảng phân công cho Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh ra
Bản Án Cao Đài kết tội các vị lãnh đạo tôn giáo là phản quốc... đúng sai không
cần biết, Đảng lập tức tịch thâu tài sản tôn giáo và XỬ PHÁP NHÂN ĐĐTKPĐ không
được hành đạo.
Đảng xử theo
luật rừng nên xã hội ngày càng rối loạn là tất nhiên.
Làm cách mạng mà
người dân bị mất tự do, xã hội thục lùi về dân chủ, văn hóa, y tế, giáo dục...
đời sống vật chất thiếu thốn, khổ sở hơn trước, tinh thần bất an thì đó là phản
cách mạng.
Dân tộc Việt Nam
có óc thông minh, cần cù và tín ngưỡng. Trước ngày cộng sản chiếm miền Nam vị
trí VNCH không thua bất cứ quốc gia nào ở khối Asean. Ngày nay Việt Nam thua
tất cả lân bang về kinh tế, tự do, dân chủ và tự do tôn giáo là phản cách mạng.
Bộ máy công
quyền Việt Nam nổi tiếng về bạo lực, tham nhũng, thiếu minh bạch, xài bằng cấp
giả, bắt giam và hành hạ những người không cùng chính kiến.... Đó là phản cách
mạng.
Chùa chiền ngày
nay được Đảng biến thành nơi kinh doanh tôn giáo nên im lặng trước những thảm
trạng của xã hội. Đảng dạy cho họ lừa đảo kinh văn đưa xã hội vào mê tín để
Đảng dễ bề cai trị.
Đảng độc tài đã
tạo ra tham nhũng khủng khiếp làm đất nước suy yếu về mọi mặt nên cái hiểm họa
từ phương Bắc (Trung Cộng) đang lù lù đi tới. Tệ hại khởi nguồn từ Hồ Chí Minh
chối bỏ văn hiến sẳn có đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về đầu độc dân tộc.
Dùng bạo tàn giết hại đồng bào, bán đứng tổ quốc....
Tóm lại: Cộng
sản hứa rất nhiều nhưng làm thì KHÔNG CÓ GÌ.
Con người dù
theo tôn giáo nào cũng có tổ quốc. Đã sống trong tổ quốc thì đã thọ ơn tất đất
ngọn rau nên phải có trách nhiệm với sự thịnh suy hay tồn vong của tổ quốc.
Hộ Pháp Phạm
Công Tắc nhận xét rằng: Một người
tuyệt vọng thì sẽ tự vận. Một dân tộc tuyệt vọng sẽ đứng lên làm cách mạng.
Những con sóng
biển ngày đêm vỗ bờ rồi tan biến; trong tan biến có tích tụ để tạo ra những
trận cuồng phong, những cơn bão tố. Những tin tức về tham nhũng, về bạo lực
ngày đêm tan chảy vào lòng dân, nó tích tạo sự phẩn nộ để ngày kia bộc phát
thành cuộc cách mạng đạp đổ gông xiềng, phá vòng nô lệ của cộng sản, xây dựng
một xã hội mới.
Xã hội mới có
diện mạo như thế nào là điều rất quan trọng nó góp phần tiết kiệm xương máu
người công nghĩa. Những cuộc cách mạng xô ngã chế độ độc tài ở một số nước do
chưa vạch rõ được hiến pháp lập quyền dân, dân mạnh... nên những người công
nghĩa lại phải tiếp tục hy sinh tánh mạng... chúng ta nên nhìn vào đó để tránh.
Nhà bác học
Enstiens nói rằng: "Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng. Tôn giáo
mà không có khoa học thì mù quáng". (Science without religion is lame.
Religion without science is blind.).
Chúng tôi chỉ là
người mạo muội đóng vai trò giới thiệu rằng từ kho chí bữu của Thượng Đế ban
cho nhân loại Hội Thánh đã vận dụng để thực hiện cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA. Dân chúng tự nguyện hưởng ứng và góp phần
thực hiện là thước đo của sự thành công.
Cuộc cách mạng
như vậy theo nhận thức của chúng tôi là mới.
Dầu rất cố gắng nhưng chúng tôi tin chắc chắn
rằng không trình bày hết được những điều sâu xa trong các công thức và cuộc
cách mạng NHƠN NGHĨA đã diễn ra từ năm 1926. Nhưng tự tin rằng tránh được sự mù
quáng mà nhà bác học Enstiens đã cảnh báo.
Chúng tôi hiểu
rằng nhân loại là con chung của Thượng Đế, không đồng đạo cũng là bạn đồng
sanh. Nên không phân biệt lương hay giáo; không phân biệt chính kiến, ngôn ngữ
hay màu da sắc tóc. Mọi phản hồi của quí vị chúng tôi sẽ thảo luận trong tập
thể và hồi đáp cụ thể không né tránh, thối thoát bất cứ vấn đề nào.
Nay kính.
Nguyễn Phúc
Thành.
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
@@@
NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
LỜI TRÌNH CHÁNH VỀ TỰA CUỐN SÁCH.
“Là một phần của Việt Nam Đại Cách Mạng”
Đức Thượng Đế
hoằng khai ĐĐTKPĐ là để xây dựng một tân thế giới cho nhân loại. Thay đổi diện
mạo của cả địa cầu chính là làm cách mạng (Tạo
đời cải dữ ra hiền). Cách mạng xuất phát từ tôn giáo nên tiến hành theo
phương pháp ôn hòa (đại hùng, đại lực, đại từ bi). Đó chính là cuộc đại cách
mạng xuất phát từ Việt Nam.
ĐĐTKPĐ là một
phát minh để xây dựng một thế giới mới trong tình thương và công bằng. Hội
Thánh thực hiện cuộc cách mạng nhơn nghĩa lập nên Châu Thành Thánh Địa như một
phát minh, phải đem ra kiểm chứng trong xã hội. Cuộc kiểm chứng đã có kết quả.
Chủ đích cuốn
sách nầy là trình chánh những điểm căn bản về cuộc cách mạng nhơn nghĩa mà Hội
Thánh đã thực hiện. Như vậy nó chỉ là một phần trong chương trình xây dựng tân
thế giới của Đạo Cao Đài. Trong phần trình chánh chúng tôi cũng chỉ trình chánh
về xã hội học.
Đạo khai trong
buổi năm châu chung chợ bốn biển chung nhà thì từ giáo lý, pháp luật, tổ chức
phải là hệ thống mở mới đáp ứng được luật cung cầu trong thời toàn cầu hóa.
Trong cái mở vẫn có những hòn đá tảng bất di bất dịch đó là Pháp Chánh Truyền.
Nhân loại đã quá
ngán ngẫm, chán chê với các thứ cấm đoán (bất khả xâm phạm như điều bốn hiến
pháp Việt Nam...) cho nên nghe nói cấm thì phải e dè sợ sệt (như chim rày đã sợ làn cây cong...). Nên
chúng tôi xin thưa rằng NGƯỜI CẤM là để làm lợi cho gia đình, dòng họ hay đảng
của họ. Còn TRỜI CẤM thì khác.
Trời là sự sống,
là tình thương, là công bằng thì Trời cấm là cấm giết hại đồng loại, cấm ngăn
chận tình thương, và cấm vi phạm luật công bằng. Cái cấm của Trời và của Người
khác nhau là như vậy.
Cụ thể thì
Pháp Chánh Truyền của Thầy rất ngắn gọn, người đạo có lưu ý một chút là nhớ ngay và hiểu được
phần cơ bản. Nếu Thầy cho phép sửa Pháp Chánh Truyền là gây xáo trộn trong
chánh giáo. Còn như đi vào chi tiết thì người có quyền thường hay lạm quyền.
Pháp chánh truyền phân quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp và có mấy nội dung chính: Hành Pháp: Ấn định
các bậc phẩm, số lượng mỗi phẩm, trách nhiệm mỗi phẩm. Tư Pháp: Hiệp Thiên
Đài. Lập Pháp: tất cả nhân sự tôn giáo đều có quyền tham gia lập pháp trong
cơ chế cụ thể.
Đặc biệt nhất
là nhơn sanh có quyền kiểm soát, giám sát việc làm của nhân sự tôn giáo (muốn
thăng phẩm phải được nhơn sanh đồng ý và khi thất đạo nhơn sanh có quyền xô
xuống), tổ chức tôn giáo... phải
nâng đỡ trí thức tinh thần của nhơn sanh lên cao đặng hiểu cho toàn chơn lý
hầu đủ phương kiềm chế hành động của Hội Thánh. Bởi học trò Thầy phần
lớn là ít học và chưa hiểu quyền của mình được lập từ Pháp Chánh Truyền nên
Thầy sợ chức sắc lộng phép.
Trời cấm sửa
đổi những điều trên chính là để bảo vệ hạ tầng (nhơn sanh). Nếu Thầy không
cấm thì e rằng thượng tầng tìm phương rún ép, rồi hạ tầng lo chống lại là tự
triệt tiêu sức mạnh của đạo và để cái gương không hay. Trời cấm là để tạo lợi
khí cho nhơn sanh.
(Biểu tình ở
Thái Lan cuối năm 2013 là do thượng tầng tạo ra. Thái Lan có dân chủ, có tự
do (được ban phát); nhưng chưa lập quyền dân. Dân chưa có quyền kiểm soát
chính phủ, nên Thủ Tướng Yingluck mới
dám đưa ra một dự luật ân xá cho tham nhũng mà người hưởng lợi nhất là người
anh trai của bà (thủ tướng Thaksin bị lật đổ do tham nhũng). Luật ân xá bị
bác bỏ nhưng nó chính là giọt nước tràn ly làm cho tốn xương máu và ngân quỷ
đất nước...).
Tóm lại Trời
cấm là để làm lợi cho nhơn sanh, còn người cấm thì cần phải hết sức cảnh giác
là đúng.
|
@@@
La Mã không xây nên trong một ngày. Paris không xây
nên trong một ngày. Cây cổ thụ cũng phải khởi đầu từ sự mầm nhỏ. Cho nên cuộc
đại cách mạng của Đạo Cao Đài cũng phải theo qui luật của tự nhiên và xã hội: Khởi từ Châu Thành Thánh Địa rồi mới lan
tỏa ra thế giới.
Từ chổ rừng
thiêng nước độc, sơn lam chướng khí, đất không màu mở nên thực dân Pháp chê
bỏ... Phương tiện khai phá thời đó chủ yếu là sức người và sức cày kéo của gia
súc; mà thú dữ thì rình bắt gia súc, tấn công người...và đặc biệt nguy hiểm là
sự nghi kỵ của chính phủ Pháp (còn dữ dội hơn tất cả những khó khăn trên hàng
trăm lần). Nhưng với phương pháp cách mạng ôn hòa và nội dung phù hợp, đắc nhân
tâm (dân mạnh và lập quyền dân) môn đệ Thượng Đế đã tạo nên trang sử vàng.
Trong môi trường
và tài nguyên hết sức khắc nghiệp, nghèo nàn
như vậy nếu chỉ có lòng tin thì chưa đủ để lập quốc. Chính nhờ nhơn
nghĩa thật sự được thực hiện thì người dân mới chấp nhận ở lại, chấp nhận dấn
thân để xây nên một quốc gia trong một quốc gia.
Người Miên lúc
đầu đến rất đông (hàng ngàn người), là thành phần chủ lực trong công cuộc khai
hoang, mở đất. Họ đến nơi sơn lam chướng khí như thế là do cái gì? Chính là do
đức tin.
Chính phủ Pháp
đã tác động lên hoàng gia Cao Miên để cấm đoán dân Miên không cho sang Việt
Nam. Số người Miên vơi dần nhưng số người Việt lại tăng lên. Tại sao số người
Việt tăng lên?
Bởi vì họ hiểu
được phương pháp dùng đạo đức để xây dựng xã hội của đạo. Họ thấy được tương
lai trong từng bửa ăn chỉ có rau và muối, trong từng ngày công quả... cảnh người
và người sống trong tình thương và công bằng đã hiện ra trước mắt họ từng bước
một. Đức tin và hiện thực sánh đôi nhau đi vào đời họ.
Họ không cần chờ
ai ban phát, không ăn mày tình thương và công bằng. Chính họ quyết định góp phần tạo nên cuộc
cách mạng nhơn nghĩa mà hôm nay chúng tôi trình chánh./.
THIÊN THỨ NHẤT.
TỔNG QUÁT VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI...
Bức tranh nào
cũng có gam màu chủ (căn bản) của nó. Bức tranh kinh tế, chính trị, xã hội Việt
Nam thời cộng sản có gam màu gì?
Gam chủ đạo của
cộng sản là độc tài, ngu dân và bần cùng hóa nhân dân. Hiểu được như vậy thì
hiểu được tất cả việc làm của Đảng.
Sau khi hô hào
quần chúng đánh đổ giai cấp thống trị thì cộng sản nắm quyền thống trị. Đảng
lập những tập đoàn kinh doanh thua lỗ làm cho dân nghèo, kinh doanh lời cũng
làm dân nghèo... Dân nghèo thì chỉ còn biết chạy tần chạy sở lo cho khỏi đói;
con cái không được học hành tử tế để mở mang là tự rơi vào bẫy ngu dân.
Những ghi nhận
điển hình về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục... đã chứng minh
cho 03 gam màu đó. Trong thời đại internet thì tin tức rất nhanh và rất nhiều
muốn nói xấu hay nói tốt theo sự chủ quan của người viết cũng không được. Tráo
trở biến đá thành vàng lại càng không được, chỉ làm trò cười cho thế gian. Nói
thật là dễ nhất. Từ lẽ thật cho chúng ta nhận định giống nòi và tổ quốc đang bị
lâm nguy bởi:
. Từ bên trong
là sự thối nát của chánh quyền hiện tại.
. Từ bên ngoài
là hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc.
Muốn giải nguy
dân tộc phải thức tỉnh và có phương pháp đứng đắn không thể vừa làm vừa học
theo kiểu cộng sản bởi vì đã có rất nhiều cuộc đấu tranh cách mạng đã diễn ra
thành công mà không cần đến súng ống, lưỡi lê, mã tấu.... Cuộc đấu tranh của
Gandhi và Neson Mandela là những bằng chứng sống.
@@@
I/- BA CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG.
Từ ngày thành
lập (1930) đến nay Đảng Cộng Sản Việt Nam có 03 chủ trương lớn và xuyên suốt:
độc tài, ngu dân và bần cùng hóa. Đó là MA TRẬN đưa dân tộc ta đến thảm họa
hiện nay.
1/- Tham nhũng và lợi ích nhóm đi đến thối nát.
Sự cai trị của
Đảng cộng sản đã đưa đất nước đến chổ kiệt quệ, ngân khố trống rỗng và nợ nần
đầm đìa. Báo lề phải đưa tin tính đến đầu năm 2013 đã là 100 (một trăm) tỷ USD.
Báo lề dân và các trang web khác ở nước ngoài đưa tin 133 tỷ USD.
Tham nhũng mạnh
đến nổi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sợ hãi không dám công khai danh tánh gã
tham nhũng trong Bộ Chính Trị, nhưng bị nhân dân chất vấn bí quá lỡ miệng gọi
là đồng chí X.
Tiên sinh Ngô
Thừa Ân khi viết chuyện Tây Du Ký hư cấu việc Thầy trò Đường Tăng hối lộ để có
kinh hữu tự. Với bậc thức giả thì đó là một công án để tìm hiểu về chân lý. Với
người bình dân thì đó là chuyện để mỉa mai, biếm nhẽ bọn quan tham lại nhũng
cấp nhỏ hối lộ cho cấp lớn làm điêu đứng dân lành.
Tổng Bí Thư
Nguyễn Phú Trọng thấy tham nhũng mạnh quá đã hết thuốc chữa và sẳn sàng loại bỏ
ông Trọng nên ông sợ mất chức, phải mua lòng tham nhũng để nó tha cho. Ngày
07-12-2013 trong dịp tiếp xúc cử tri Hà Nội bị chất vấn về vấn đề tham nhũng vì
sao tràn lan. Ông Nguyễn Phú Trọng trả lời: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước phật
đã phải hối lộ…Cho nên chúng ta phải xem xét, bĩnh tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt…”
Tổng bí thư đã biện hộ cho tham nhũng như vậy để yên vị thì chỉ có người mất
trí hay cuồng tín mới tin vào sự trong sạch và kế hoạch chống tham nhũng của
Đảng.
Chủ tịch quốc
hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu rằng: Nếu
kỷ luật hết những người làm sai thì không còn người làm việc. Lời nói của
ông Hùng giống hệt lời nói của Ông Trần Văn Hương thời Việt Nam Cộng Hòa: Nếu loại bỏ hết tham nhũng thì lấy ai mà
làm việc. Ông Hương là trưởng ban chống tham nhũng nhưng cũng sợ hãi
mới ra chiêu sửa cải tham nhũng. Báo chí biếm họa ông Hương lui cui bứng CÂY
CHANH ở nơi nầy trồng vào nơi khác với hy vọng sẽ có cây CHANH NGỌT.
Thủ Tướng Nguyễn
Tấn Dũng khi mới lên chức tuyên bố hùng hồn rằng: Nếu không chống được tham nhũng tôi sẽ từ chức. Khi tham nhũng tràn
lan, bị chất vấn và nêu vấn đề Thủ Tướng có thấy nên từ chức vì đã không chống
được tham nhũng hay không? Ông Dũng trả lời: chức Thủ tướng của tôi là do Đảng phân công, tôi không xin ai cả. Nghĩa
là ông Dũng chỉ cần Đảng phân công cóc cần nhân dân. Tiêu ngữ là DO DÂN mà cóc cần dân là đã rành rành ra đó.
Ông Dũng điều
hành chánh phủ với nhãn hiệu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị ngành ngân hàng tổ chức ngày 18-12-2013 tại Hà Nội, ông Dũng khẳng
định: dứt khoát độc quyền xuất nhập khẩu
vàng. Độc quyền thị trường vàng (và các thị trường khác) nhưng lại đi xin
với phương Tây công nhận là kinh tế thị trường?
Chăn dân mà lại ra làm con buôn thì phải dùng
não trạng con buôn để lừa người dân với cái bụng đói meo và tương lai đen
tối...
Tại Diễn đàn
Quan hệ Đối tác Phát triển tổ chức ngày 5/12/2013 tại Hà Nội. Thủ tướng công bố: thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt
1960 USD/ năm. Thu nhập bình quân như thế là tăng 23% so với năm 2012. Thủ
Tướng lấy tổng thu nhập đem chia cho 90 triệu dân để ra con số đẹp như thế là
cách làm rất bá đạo. Bởi vì trong tổng thu nhập đó chẳng hề được chia đều như
thế bao giờ. Một thiểu số đã ngốn gần hết thu nhập của quốc dân. Còn cả nước
chỉ là ăn thảy uống thừa của bọn chăn dân đi làm con buôn mà thôi.
Tổng Bí Thư
Nguyễn Phú Trọng ngày 24-10-2013 phát biểu tại phiên họp tổ của Quốc hội về dự
thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã xác định: “Đến
hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay
chưa….” Ông Trọng đã nói rất đúng sự thật rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo
ảnh. Đảng đã cưỡng bức dân tộc sống trong ảo ảnh.
a/- Những tập đoàn thua lỗ làm dân nghèo.
Những tập đoàn
như Vinashin, Vinalines, PMU 18... đều nằm trong chủ trương bần cùng hóa nhân
dân. Bởi vì chính Đảng bổ nhiệm người, nắm quyền kiểm soát với bao nhiêu cuộc
thanh tra đến rồi đi mà không phát hiện hay không công bố chi hết. Đến khi báo
chí (thường là lề trái) nêu vấn đề làm cho nó không còn cách bưng bít được nữa
thì Đảng đồng ca bài sai đến đâu sửa đến đó, không bao che...
Đảng đóng vai
người hùng trị tham nhũng trong khi chính Đảng là nguyên nhân của tham nhũng
thì lơ đi. Người dân có thể tức bực vì chưa biết chủ trương bần cùng hóa người
dân của Đảng.
b/- Những tập đoàn có lời
khủng khiếp cũng làm nghèo dân.
Lợi ích nhóm thao túng và làm xiếc giá cả để móc túi dân.
Các tập đoàn như: Tập đoàn Điện lực VN (EVN), Tập đoàn Viễn thông quân
đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính viễn thông VN (VNPT), Tập đoàn xăng
dầu... có điểm chung là muốn tăng giá thì đồng ca bài đang lỗ vốn hay giá thấp
hơn khu vực. Chánh phủ đứng ra giải thích tăng giá là đúng...
Nhưng cuối năm tập đoàn nào cũng lời rất lớn. Tiền lãi khủng nầy xuất
phát từ tăng giá mà có. Đó là điệp khúc hằng năm và miên viễn trong chế độ
cộng sản. Họ đem phần lời ra thưởng cho nhau, chia nhau và hối lộ cấp trên. Cán
bộ đi dự lễ nầy lễ nọ về bỏ quên phong bì hàng trăm triệu trên xe là chuyện bình
thường... Các
doanh nghiệp hoạt động đình đốn, không có lợi nhuận, thậm chí ngày càng lỗ nặng
vì chi phí đầu vào quá lớn... tất cả phù hợp với chủ trương bần cùng hóa của
Đảng.
Tóm lại tập đoàn
vinaxin, vinacho hay vinachia cũng chỉ để bần cùng hóa nhân dân mà thôi.
c/- Kinh tế lệ thuộc.
Viện Nghiên cứu
kinh tế Trung ương xác định kinh tế VN lệ thuộc bên ngoài ngày càng nặng. Đó là
lệ thuộc nhập khẩu hàng hóa đầu vào, nên nhập siêu "trường kỳ". Lệ
thuộc xuất khẩu khi Việt Nam bị thua ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh như
gạo, cà phê... Doanh nghiệp trong nước yếu đi thấy rõ, cả doanh nghiệp nhà
nước, tư nhân.
"Xuất khẩu
lệ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài, chỉ Samsung thôi, kim ngạch xuất khẩu đã
chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, bằng với xuất khẩu ngành nông
nghiệp". Giữa tương thuộc và lệ thuộc, Việt Nam đang lệ thuộc nhiều
hơn. Xu hướng lệ thuộc ngày càng gia
tăng bởi cấu trúc kinh tế nhiều rủi ro, nội lực yếu. Thậm chí, kinh tế Việt Nam
đang rơi vào điểm nghẽn nhưng chưa biết khi nào thoát ra được.
Việt Nam chưa
phải là mắt xích không thể thay thế trong hệ thống kinh tế toàn cầu hiện nay
(nghĩa là chưa có vị thế độc lập). Nguyên nhân do chiến lược “bóc ngắn, cắn
dài”, mô hình tăng trưởng khuyến khích khai thác cạn kiệt tài nguyên quốc gia…
Nguy cơ tụt hậu
xa hơn so với thế giới và khu vực của nền kinh tế Việt Nam là rất rõ. Trong hai
năm 2011 và 2012, Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp hạng nền kinh tế Việt Nam giảm
16 bậc, xuống hạng 75, thấp nhất kể từ khi Việt Nam được xếp hạng.
Chánh phủ có
trách nhiệm chăn dân trị nước thì lại ra làm con buôn để bần cùng hóa nhân dân
trên từng mặt trận nên dẫn đến kết quả như thế.
@@@
2/- Nông dân nắm đằng lưỡi.
Nông dân là
thành phần đa số trong nước. Theo các số liệu chính thức có 60% là nông dân. Làm ruộng, rẫy là nghề gia truyền, ruộng đất
là nguồn sống của nông dân từ bao đời nay nhưng nông dân đang chán ruộng, bỏ
ruộng, bỏ vườn... Nông dân chịu nhiều nghịch lý khi phải chịu bán nông
sản giá rẻ để chống lạm phát nhưng phải mua lại hàng hóa khác với giá đắt đỏ
nhiều lần đặc biệt là hàng công nghiệp và các dịch vụ thiết yếu. Thu nhập bình quân của nông dân năm 2013
khoảng 19,97 triệu đồng/năm.
Lực lượng nông
dân rất đông mà càng ngày thu nhập càng
thấp thì đó chính là sự bốc lột rất tàn nhẫn và giết chết tương lai của họ và
dân tộc. Họ đang phải gánh chịu nhiều rủi ro trong sản xuất về thiên tai và
nhân tai. Thiên tai đã có từ lâu đời và có sự bù trừ là sau lũ lụt đất đai mầu
mỡ hơn, sâu bọ ít hơn...
Còn nhân tai thì chỉ toàn là khủng khiếp.
Nỗi khủng khiếp nhất mới xuất hiện là các công trình thủy điện với bài
đồng ca: xã lũ đúng qui trình. Thủy điện đe dọa nông nghiệp và mạng sống người
dân... là điều rất rõ ràng và mỗi ngày một nghiêm trọng. Bởi vì chính quyền
luôn luôn đứng về phía thủy điện để đồng ca bài đã đúng qui trình... nông
nghiệp thì có mùa vụ, phải đến ngày giờ mới thu hoạch mà thủy điện chỉ cần báo
trước 02 giờ là tự do xã lũ bất chấp tình hình mưa gió hay thủy triều... thì đó
là qui trình TIÊU DIỆT TÀI SẢN CỦA DÂN, GIẾT DÂN.
Nhân tai thứ nhì
là việc độc quyền mua lúa gạo của chánh phủ. Chánh phủ nắm độc quyền buôn gạo
nên quyết định giá mua, giá bán, giá hổ trợ kể cả thời gian nào mua, thời gian
nào không mua sao cho có lợi thật nhiều cho lợi ích nhóm. Người nông dân chịu
biết bao cực nhọc để sản xuất ra lúa gạo phải sống trong nghèo khổ, một tương
lai đen tối. Các công ty, doanh nghiệp nhà nước buôn bán lúa gạo trên sự nghèo
khổ của nông dân đã hưởng tất cả. Người nông dân đầu tư tiền bạc, một nắng hai
sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chăm bẵm đồng ruộng lẽ ra phải được
trả công xứng đáng thì trên thực tế lại đang bị thua thiệt trong khi phần lợi
lớn nhất lại thuộc về các DN, thương lái...
Nhân tai thứ ba
của nông dân là giá phân bón, thuốc trừ sâu và cây giống các loại của Việt Nam
cao ngất trời so với khu vực Asean. Giá phân cao, giá nông sản rẽ làm cho năng
suất Việt Nam kém hẳn so với láng giềng. Nhân tai nầy do chính phủ độc quyền
mua bán mà ra. Người nông dân trồng lúa đang khổ nhất, có thu nhập thấp nhất.
Qua khảo sát, trong điều kiện mưa thuận gió hòa, một sào ruộng (360 m2) trồng
lúa thu khoảng 1,3 triệu đồng/vụ, chi phí đầu tư đã mất trên dưới 1 triệu, mỗi
vụ kéo dài khoảng 3 tháng, nông dân chỉ lãi từ 100.000 - 200.000 đồng.
Nhân tai thứ tư
là việc thu hồi đất đai tùy tiện, đền bù không thỏa đáng, huy động đóng góp quá
mức... và đầu tư lại cho nông nghiệp quá ít, vừa đủ cho họ chết từ từ... nên
chẳng thể làm cho họ phát triễn được. Điều nầy nằm trong chánh sách chung của
chánh phủ cộng sản là làm cho mọi thành phần đều kiệt quệ để lệ thuộc họ nhiều
hơn. Chính sách chung của Đảng là ngu dân và bần cùng hóa nhân dân mà nông dân
bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Các nhân tai nầy
cộng hưởng lại khiến cho nông dân vô cùng khó khăn. Điều đó ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển bền vững của đất nước nhưng lại đúng với kế hoạch và chủ
trương của cộng sản. Nhìn kỷ những điều cộng sản làm sẽ thấy rõ điều đó.
@@@
3/- Chánh phủ nắm độc quyền vàng....
Ngày 16-10-2013
giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 5 triệu đồng/lượng. Còn tính bình
quân là 4 triệu đồng/lượng.
Báo cáo của Tập
đoàn Pricewaterhouse Coopers LLP (PwC), sản suất và tiêu thụ vàng trên thế giới
xác nhận trong năm 2012 Việt Nam đứng thứ 6 trong 13 nước tiêu thụ vàng hàng
đầu thế giới. Nhu cầu về công nghệ là 76 tấn, nhu cầu tiêu dùng 77 tấn.
Cổng thông tin
chính phủ cho biết tính từ ngày 28/3/2013 đến 15/11/2013, NHNN đã tổ chức 70
phiên đấu thầu bán vàng miếng với tổng khối lượng trúng thầu là 1.725.700
lượng. Đem số lượng vàng nhân với 4.000.000 đồng (là mức lời trung bình một
lượng).
4.000.000$ x
1.725.700 lượng = 6.902.800.000.000$
Tiền lời sáu
ngàn chín trăm lẽ hai tỷ tám trăm triệu đồng đó chạy vào túi quan tham lại
nhũng là bao nhiêu? Đó là một mặt hàng chỉ trong tám tháng. Còn tiền bán dầu
thô? Tiền bán vàng trắng (cao su)?
Tiền thu 432
(bốn trăm ba mươi hai) loại phí đi đâu mà đường xá mọc trạm thu phí khắp nơi,
người bệnh nằm hai ba người một giường trường học thì cấp nào cũng thu đủ thứ
tiền.
Điều ghê gớm hơn
nữa là con số nợ nước ngoài mà dân tộc phải trả. Báo lề phải VnEconomy ngày thứ Năm, 19/12/2013 bài viết:
Nợ công của Việt
Nam: Mối đe dọa đang nằm ở đâu?
... “Do vậy, nếu cộng cả số này cùng với nợ đọng
trong xây dựng cơ bản vào con số công bố chính thức thì nợ công Việt Nam hiện
nay sẽ lên tới xấp xỉ 98,2% GDP, vượt xa so với ngưỡng an toàn là 65% GDP được
khuyến cáo phổ biến bởi các tổ chức quốc tế”,...
...Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của Bộ tài chính với tư
cách cơ quan quản lý nợ công hay của Ngân hàng nhà nước là cơ quan gần như
chuyên đi ký để vay nợ công, đó là vấn đề sử dụng nợ công.
...quy mô nợ công đã lên đến 100 tỷ USD, là con số
không hề nhỏ.
@@@
Đó là con số
(đẹp) từ báo lề phải còn con số thực như thế nào không ai có thể biết chính xác
kể cả chính phủ. Bởi vì hệ thống tính toán ở Việt Nam không đáng tin cậy mà các
cơ quan đáng tin cậy thì không được phép tiếp cận để minh bạch.
Thông tin từ lề
trái: 24-11- 2013 ... Nợ
công của Việt Nam là 70,6
tỷ USD (tính tới 17-01-2013), ... Nợ
của các doanh nghiệp quốc doanh do chính phủ bảo lãnh 62,4 tỷ USD (tính tới 31/12/ 2011). Như vậy, gộp 2
nguồn nợ này lại, VN đã mắc nợ trên
133 tỷ USD.
Chênh lệch là 33
tỷ USD. Chúng ta không thể biết con số thực ở đâu bởi cách phù phép thông tin của chánh phủ.
@@@
4./- Chánh phủ độc quyền buôn sức lao động mấy chục triệu
công nhân trên cả nước. Công nhân bán sức lao động mà không đủ sống. Chúng tôi
quan sát đồng lương công nhân ở các khu công nghiệp. Lương công nhân của họ đại
đa số dưới bốn triệu đồng (kể cả tăng ca). Với bốn triệu đồng hàng tháng họ
chưa đủ để tái tạo sức lao động thì làm sao có tích lũy để nuôi con cái ăn học
hay tạo nhà cửa để an cư? Làm sao có điều kiện nâng cao cuộc sống hay phụng
dưỡng cha mẹ, ông bà?
Xuất
khẩu lao động chính là hình thức buôn nô lệ thời toàn cầu hóa. Mỗi lao động
xuất khẩu phải nạp số tiền lớn rồi đi ra nước ngoài tự bơi, hàng hà sa số lao
động xuất khẩu thành nô lệ lao động hay nô lệ tình dục...những thảm cảnh của họ
không sao nói hết. Khi có vụ nào bể ra thì chánh phủ đồng ca bài ...sẽ điều tra
làm rõ và chìm xuồng là chính.
@@@
5/- Độc
quyền về đất đai.
Đất đai là của tạo hóa ban cho nhân loại. Đó là tài
nguyên và môi trường để nuôi sống con
người. Các chế độ xưa nay đều tìm cách chiếm hữu đất đai làm của riêng để nắm
chặc quyền kiểm soát và phân phát cơm áo gạo tiền bắt con người phải chịu trong
vòng thúc phược. Các triều đại phong kiến cậy vào sức mạnh cho rằng đất đai là
của nhà vua.
Đến thời Pháp thuộc, thực dân Pháp định chia đất đai
làm lục hạng điền để đánh thuế. Năm 1906 Thống Đốc Nam Kỳ Outrey đưa ra cho Hội
Đồng Quản hạt Annam biểu quyết. Sáu nghị viên người Annam phản đối nhưng số
thăm của người Pháp chiếm đa số (12 phiếu). Sáu người Annam đồng loạt từ
chức...rốt lại thuế lục hạng điền bị hủy bỏ. Thời pháp thuộc mà tinh thần yêu
nước của Việt tộc mạnh mẽ dường ấy. Ngày nay xem lại cả quốc hội có ai dám phản
đối một điều luật nào của chính phủ về đất đai và từ chức hay chưa. Quốc hội
cũng chỉ là một nhóm lợi ích.
Đảng xem đất đai trong nước là độc quyền của Đảng nên
lên kế hoạch chiếm đất đai từ Nam chí Bắc bằng hình thức dự án khu công nghiệp,
khu đô thị...
Ông Huỳnh Uy Dũng (Dũng lò vôi) và Chủ Tịch Ủy Ban
Nhân Dân Tỉnh Bình Dương Lê Thanh Cung ăn chia nhau không đồng đều nên tố cáo
lẫn nhau (tháng 11-2013)... nhờ vậy xã hội thấy bản chất thật sự của các khu
công nghiệp hay khu qui hoạch. Hàng chục ngàn tỷ chảy vào túi riêng của lợi ích
nhóm và cá nhân móc nối với chánh quyền.
Đảng lấy đất từ
tay dân rẽ mạt rồi ký một tờ giấy là lập tức đất đó có giá giao dịch cao lên
hàng trăm, hàng ngàn lần nên những đại gia lấy đất trên tay dân đều là người
của Đảng hay ăn chia với Đảng làm cho người dân mất nhà cửa ruộng vườn sống
trong cảnh đau khổ còn hơn thời Pháp thuộc. Đất của tạo hóa có một. Thực dân
Pháp chia làm sáu để đánh thuế là bốc lột. Đảng ra hàng trăm, hàng ngàn văn bản
về đất (đến nổi chánh phủ cũng không nhớ hết) để cướp của dân... là siêu bốc
lột.
Chánh phủ nào
cũng tôn trọng cuộc sống an cư lạc nghiệp của dân mà ngày nay chánh phủ cấu kết
với lợi ích nhóm về đất đai tạo ra dân oan từ Nam chí Bắc. Mồ mã ông bà tổ tiên
là một phần trong cuộc sống tinh thần người Việt Nam, cộng sản bứng đi để lấy
đất cho lợi ích nhóm là phá hoại truyền thống nhân nghĩa nước có nguồn, cây có
cội của dân tộc.
6/- Giáo dục.
Khi cộng sản
chưa làm chủ đất nước thì trường công lập ở miền Nam chỉ đóng niên liễm rất
nhẹ. Ngày nay trường công lập nào cũng phải đóng rất nhiều loại tiền để hạn chế
việc học hành của dân chúng là thực hiện chính sách ngu dân.
Hội phụ huynh
thời Việt Nam Cộng Hòa chủ yếu là kết hợp với nhà trường lo việc học tập cho
học sinh. Cộng sản biến Hội phụ huynh thành cánh tay thu tiền cho đảng.
Các tôn giáo
trước kia đều có trường trung tiểu học.
Bốn tôn giáo
lớn: Phật Giáo, Công Giáo, Hòa Hảo và Cao Đài còn được chánh phủ VNCH giúp đở
(tiền bạc và pháp lý) để xây dựng nên Viện Đại Học. Nay cộng sản dẹp sạch để
thực hiện chính sách triệt tiêu trí thức, hiền tài trong tôn giáo thực hiện
chính sách ngu dân.
Cán bộ cộng sản
phần nhiều là chưa qua bậc tiểu học. Sau 1975 chính phủ tổ chức cho học bổ túc.
Ngày nay cán bộ học bổ túc lên tiến sĩ ngồi chật xã hội để thành bộ máy ăn bám
và tham nhũng rất khủng khiếp.
Thời đổi mới ký
một giấy phép mở trường đại học phải lót tay hàng tỷ đồng nên cán bộ ký mỏi cả
tay chừng xã hội la làng thì đồng ca bài chúng tôi sẽ xem xét lại...
7/- Y tế.
Khi cộng sản
chưa chiếm được miền Nam thì chẳng hề có chuyện một giường nằm hai ba bệnh
nhân, chẳng có chuyện bệnh nhân phải nằm dưới gầm giường... chẳng có bệnh nhân
nào nghĩ đến chuyện lót tay cho bác sĩ. Chẳng có bác sĩ nào ngữa tay nhận phong
bì của bệnh nhân. Chẳng có bệnh viện nào dám đạp chân với các công ty dược phẩm
để đẩy giá thuốc lên hằng chục lần. Chẳng có bác sĩ nào dám dùng bệnh viện công
điều trị cho người bệnh để lấy tiền riêng. Chẳng có cò mẹ cò con nào nơi bệnh
viện để gạt gẫm bệnh nhân ăn chia với bác sĩ hết...
Ngày nay những
tệ nạn khủng khiếp đó đầy dẫy từ Nam chí Bắc.
8/- Về tôn giáo.
Thời Việt Nam
Cộng Hòa cấp trung ương chỉ có 02 Đài phát thanh là Sài gòn và Quân Đội, vậy mà
họ đã dành cho các tôn giáo một số giờ trong tuần để các Hội Thánh săn sóc đàn
chiên, phổ biến tin tức... đó là chăm lo đạo đức cho xã hội. Ngày nay từ trung
ương đến các thành phố, các tỉnh đều có truyền thanh và truyền hình (dùng tiền
thuế của dân để phát sóng) nhưng không có một tôn giáo nào được phép lên sóng...đó
là hủy hoại đạo đức dân tộc là phản cách mạng. Đảng còn ra lệnh ngầm cho báo
chí và giới luật sư không được tham gia vào các vấn đề của tôn giáo: Tài sản
tôn giáo, đất đai tôn giáo, nhân sự tôn giáo, pháp lý tôn giáo.
Đặc biệt là
những canh bài tráo sau 30-4-1975 về tôn giáo:
Muốn lũng đoạn
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì chính phủ lập ra Phật Giáo Việt Nam. Muốn lũng đoạn Công Giáo họ lập ra Ủy Ban
Công Giáo Đoàn Kết. Muốn lũng đoạn Phật Giáo Hòa Hảo họ lập ra Ban Trị Sự mới.
Muốn lũng đoạn Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ họ lập ra Chi Phái 1997 tại Nội Ô Tòa
Thánh.
Đức Khổng Tử
nhận xét: Bang hữu đạo tắc trí, bang vô
đạo tắc ngu (nước có đạo là trí, nước vô đạo là ngu). Chủ trương phá hoại
tôn giáo của cộng sản là để phục vụ chính sách ngu dân.
9/- Kết quả:
Xã hội bất an.
Đảng đã ký nghị
định 208 ngày 17-12-2013 cho phép họ bắn chết bất cứ người dân nào họ muốn rồi
chụp lên cái mũ là chống người thi hành công vụ. Đảng giết chết sinh mạng người
dân rồi họ còn muốn giết luôn danh dự người dân. Cứ tha hồ bắn rồi chụp cái mũ
chống người thi hành công vụ là lập tức có dàn đồng ca là đội ngũ truyền thanh,
truyền hình, báo chí ca theo. Thực chất của nghị định nầy là nhắm vào những
người dám chỉ ra cái sai, cái dối trá của Đảng bằng giấy trắng mực đen (văn
bản) hay qua internet để xiếc cò. Đảng giết những người hy sinh thân mình, dâng
hiến tâm huyết để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do và những giá trị cao
cả của nhân loại rồi chụp mũ chống người thi hành công vụ là giết luôn danh dự
và nhân phẩm người công chính. Giết người và chụp mũ là một thủ đoạn tàn ác
không thể hình dung được. Pháp luật trong thời toàn cầu hóa mà như vậy thì sự
tồn tại của họ như người đứng nhón gót... chờ sụp đổ.
Đảng muốn dân
ngu mãi mãi nên sợ tầng lớp trí thức chỉ ra cái sai, cái lừa đảo của Đảng để
thức tỉnh quần chúng. Tri thức là sức mạnh mà Đảng sợ nhất là dân mạnh nên định
tiêu diệt người có tri thức trong dân. Đảng muốn triệt cái nguồn làm cho dân
mạnh.
Một con người tuyệt vọng sẽ tự vận, một
dân tộc tuyệt vọng sẽ làm cách mạng. Đó là qui luật của xã hội và lịch sử.
Chúng ta đứng
lên làm cách mạng thì cũng đừng quên rằng: Hai khối cộng sản và tư bản đã gây
cho dân tộc và tổ quốc ta biết bao nhiêu tang tóc. Chánh phủ Mỹ cũng đã bán
đứng đồng minh Việt Nam Cộng Hòa cho cộng sản. Đó là bài học xương máu của dân
tộc mà chúng ta phải nhớ trên con đường xây dựng và phát triển đất nước.
Cho nên khi cộng
sản sụp đổ chúng ta phải đưa dân tộc, đất nước vào qui chế TRUNG LẬP VĨNH VIỄN
được Liên Hiệp Quốc nhìn nhận và bảo trợ. Chúng ta không lập lại sai lầm của
lịch sử là dựa vào khối nầy để chống khối kia.
Bảo Đại khi xưa
chống Pháp nhưng không kêu gọi Mỹ, Anh can thiệp. Nelson Mendela đấu tranh cũng
không kêu gọi một lực lượng nào trong 02 khối tư bản và cộng sản nhảy vào hổ
trợ.
Chúng ta trân
trọng và đón nhận mọi sự giúp đở lớn hay nhỏ, vật chất hay tinh thần nhưng
không dọn đường cho ngoại bang xen vào chi phối lập trường, quan điểm, đường lối của dân tộc.
Cái đẹp của quê hương phải do chính
chúng ta xây dựng lấy.
Không có một thế
lực nào, không quốc gia nào có thể làm thay chúng ta trong việc xây dựng hòa
bình, dân chủ, tự do, nhân quyền và tự do tôn giáo. Chúng ta cũng không thể cầu
xin Đảng cầm quyền, cầu xin kẻ độc tài ban bố (điều nầy không bao giờ xãy ra).
Chính chúng ta phải đứng lên nhận lấy trách nhiệm và chấp nhận đương đầu. Các
chế độ, chính phủ độc tài chỉ trở cờ sau khi thấy rằng lực lượng trong nhân dân
đủ mạnh để lật đổ họ. Tri thức là sức mạnh. Chúng ta hãy đem tri thức đến với
nhân dân để nhân dân tự quyết lấy số phận đất nước.
Những con dân
nòi giống tiên rồng trong nước và ngoài nước, lương và giáo hiệp đồng nhau được
thì chúng ta đủ mạnh để xô ngã chế độ độc tài Đảng trị nếu họ không chịu thức
tỉnh mà quay về với dân tộc.
Thức tỉnh người
Việt Nam để dân chúng mạnh lên là điều Đảng đang run sợ. Những tổ chức thiện
nguyện trên hành tinh và cục diện thế giới cũng đang hổ trợ cho dân mạnh. Cái
thế tất thắng của dân tộc và sự tiêu vong của Đảng cộng sản đã phơi bày rất rõ
ràng.
Hiền tài là
nguyên khí quốc gia mà cộng sản chà đạp hiền tài, khinh bĩ trí thức. Giam giữ hành hạ tù nhân lương tâm còn ác
độc và tàn nhẫn hơn thực dân Pháp. Cộng sản giết chết tương lai ba thế hệ
của người không chấp nhận cộng sản. Đó là một tội ác được che dấu bằng 02 chữ:
LÝ LỊCH. Cộng sản đưa con em của họ vào bộ máy công quyền còn hơn cả thời phong
kiến cha truyền con nối.
Con vua thì lại làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
Chỉ có một ông
vua đã bị chê bai, biếm nhẽ... ngày nay mỗi Đảng viên là một ông vua. Con cháu
Đảng Viên tràn ngập đất nước để tạo ra bọn sâu dân mọt nước... là phản cách
mạng.
@@@
Trang web BBC ngày 22-01-2014.
Bạo lực và nhà tù
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời được 84 năm,
với hơn nửa thế kỷ nắm quyền lãnh đạo đất nước, đã trải qua hai cuộc chiến
tranh. Nhưng tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn như một đứa trẻ chậm
hiểu, chưa trưởng thành, chưa biết tự bảo vệ quyền lực của mình bằng bản
lĩnh, trí tuệ, đạo đức, uy tín. Sự tồn tại của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
phải dựa vào nòng súng, bạo lực và nhà tù của quân đội và công an. Đảng Cộng
sản Việt Nam chưa thể duy trì hoạt động của mình bằng sự đóng góp đảng phí
của các đảng viên, mà vẫn phải dựa vào tiền thuế của nhân dân để tồn tại....
...Trong một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh
thì các quyền con người phải được tôn trọng và thực thi trong thực tiễn, đặt
biệt phải tôn trọng những người hoạt động nhân quyền và những lực lượng đối
lập. Những người hoạt động nhân quyền sẽ bảo vệ và nói lên tiếng nói của
những nhóm thiểu số mà bị phân biệt đối xử trong xã hội, làm cho chính quyền
phải quan tâm đến họ và giải quyết các bất công trong xã hội. Từ đó mọi người
sẽ được đối xử bình đẳng, xã hội sẽ phát triển hài hòa và tiến bộ...
Luật sư Nguyễn
Văn Đài.
|
II/- HIỂM HỌA TỪ PHƯƠNG BẮC.
Nước ta đã trãi
qua một ngàn năm Bắc thuộc.
Lịch sử Trung
Hoa gắn liền với việc xâm lăng và đồng hóa các nước khác. Việc cài người lên
làm vua chúa nước láng giềng để đổi lấy đất đai hay quyền lợi làm cho lân bang
suy yếu vẫn thường xãy ra. Lịch sử Trung Hoa có ghi lại việc Lã Bất Vi buôn
vua.
Chúng ta luận cổ
suy kim xem việc việc họ Lã buôn vua có khác chi Mao Trạch Đông nuôi Hồ Chí
Minh để làm theo kế hoạch của Mao hay không?
1/- Lã Bất Vi buôn vua.
Lã Bất Vi là lái
buôn rất giàu có. Thấy Công Tôn Dị Nhơn là hoàng tộc nhà Tần sang làm con tin ở
Triệu thì nghĩ rằng không có gì lời bằng buôn bán ngôi vua. Họ Lã đem tiền bạc
đúc lót để Dị Nhơn được chọn làm người kế vị nhà Tần. Khi việc chắc thành thì
đem người thiếp (đã mang thai với Lã Bất Vi gã cho Dị Nhơn) và buộc Dị Nhơn hứa
lập đứa bé còn trong bào thai kế vị. Dị Nhơn về Tần làm vua thì Lã Bất Vi đứng
đầu triều đình. Chẳng bao lâu vua lại chết và con của họ Lã lên ngôi (sau là
Tần Thủy Hoàng).
1.1/- Cụ Nguyễn Đình Chiểu viết trong Lục
Vân Tiên đoạn Võ Công định gã Võ Thể Loan cho Vương Tử Trực... Họ Vương trả
lời:
... Người nay nào phải người Tần,
Bất Vi gã vợ Dị Nhân lấy lầm.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao.
Võ Công hổ thẹn biết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua....
Bất Vi gã vợ Dị Nhân lấy lầm.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao.
Võ Công hổ thẹn biết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua....
1.2/- Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên.
a/- Tần Thủy
Hoàng bản kỷ:
Tần Thủy Hoàng Đế là con của Trang Tương Vương nước
Tần. Trang Tương Vương làm con tin của Tần ở nước Triệu, thấy người thiếp của
Lữ Bất Vi thì rất thích nên lấy rồi sinh Tần Thủy Hoàng vào tháng giêng năm thứ
48 đời Tần Chiêu Vương, ở Hàm Đan, đặt tên là Chính, họ Triệu. Khi lên 13 tuổi,
Trang Tương Vương chết, Chính thay, được lập làm Tân Vương (năm 247 trước công
nguyên).
Phần nầy ông
chưa viết rõ người thiếp của Lã Bất Vi có mang với họ Lã trước khi về với Dị
Nhơn.
b/- Truyện Lã
Bất Vi.
Đến phần nầy Sử
Ký viết rõ rằng Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi kén trong số vợ mình ở Hàm Đan một người
tuyệt đẹp và múa khéo, lại biết người
này đã có mang. Tử Sở sang nhà Bất Vi, trông thấy, đem lòng mê, nhân
đứng dậy chúc thọ mà xin. Bất Vi nghĩ giận mình đã vì Tử Sở phá hết nhà cửa,
muốn dùng món lạ để câu, bèn dâng vợ. Người
vợ giấu chuyện mình đã có mang, đến đủ tháng sinh con là Chính.... Vua
Triệu cũng cho đưa vợ của Tử Sở cùng con là Chính về Tần.... Thái tử Tử Sở lên
ngôi tức là Trang Tương Vương,... làm vua được ba năm thì mất, thái tử tên là
Chính lên ngôi tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ...
Lã Bất Vi buôn
vua và cấy zen họ Lã chiếm ngôi họ Doanh bằng mưu mẹo rất tinh vi là câu chuyện
có thật.
2/- Lã Bất Vi thế kỷ 20: Mao Trạch Đông nuôi Hồ Chí
Minh.
Đảng cộng sản
Việt Nam lập năm 1930. Khi đó nước ta còn nô lệ Pháp. Pháp chiếm cơ đồ nhà
Nguyễn lúc đó tên nước ta là ĐẠI NAM.
Nhưng do đâu mà
tên Việt Nam xuất hiện?
Sau khi diệt nhà
Tây Sơn thống nhất đất nước vua Gia Long cử đại thần Lê Quang Định làm chánh sứ
sang dâng biểu xưng thần với vua Nhân Tông nhà Thanh. Nhà Thanh e rằng tên Nam
Việt trùng tên nước Việt thời Triệu Đà (bao gồm cả Quảng Đông Quảng Tây nên đổi
tên lại là Việt Nam để chứng tỏ uy quyền). Quốc hiệu Việt Nam là Tàu ban cho.
Vua Minh Mạng
(1791-1841) lên ngôi năm 1820. Vua xin nhà Thanh đổi quốc hiệu Việt Nam thành
Đại Nam. Triều đình Mãn Thanh không chấp thuận. Đến ngày 15-02-1839 nhận thấy
Mãn Thanh đã suy yếu vua Minh Mạng ra chiếu đổi quốc hiệu là Đại Nam. Nhà vua
cho biên soạn hàng loạt sách sử có tên Đại Nam... để thể hiện ý chí tự chủ. Khi
người Pháp xâm chiếm nước ta là xâm chiếm nước ĐẠI NAM.
Cộng sản Tàu
nuôi Hồ Chí Minh nên buộc phải lấy tên Việt Nam theo ý của Tàu. Xem lại lịch sử
ta thấy những phong trào chống Pháp mà có nhờ cậy Tàu họ đều buộc lấy tên Việt
Nam cả. Bằng chứng cụ thể là Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng...
đều có cậy nhờ Tàu nên phải dùng tên Việt Nam theo ý của Tàu. Nghĩa là Tàu muốn
lúc nào dân tộc ta cũng phải chịu sự chi phối của họ.
Tổ tiên ta có
tinh thần tự chủ, độc lập rất cao. Đã chịu đựng bao nhiêu gian khó, đã hy sinh
biết bao xương máu để giử vững cơ đồ.
Nhờ vậy nước Việt không bị thôn tính sau 1000 năm nô lệ giặc Tàu thì
không lý gì chúng ta nhận quốc hiệu do ngoại bang áp đặc.
Ông Hồ Chí Minh
được Tàu giúp nên năm 1945 Tàu buộc phải lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà vua Minh
Mạng đã từ bỏ. Một quốc gia có nền văn hiến mấy nghìn năm không thể chấp nhận
dấu vết mất tự chủ như thế. Mao Trạch Đông muốn nước ta dùng tên Việt Nam do
Tàu nghĩ ra và ban cho. Họ Hồ đã thực hiện đúng ý muốn họ Mao.
Họ Mao tính toán
như Lã Bất Vi họ Hồ nhận vai Dị Nhơn lấy lại quốc hiệu Việt Nam do Tàu đẻ ra
thì độc lập cái gì? Tổ tiên ta xưng thần với Tàu nhưng đến giới hạn là quốc
hiệu do Ta đặc, Tàu công nhận quốc hiệu như một thủ tục. Còn để cho Tàu đẻ ra
quốc hiệu là rất khó chịu. Vua Minh Mạng đã ý thức nên đã bỏ đứa con của Tàu đẻ
ra. Hồ Dị Nhơn lấy đứa con của Tàu về là đã mắc bẫy họ.
3/- Mao Bất Vi thu lời Hồ Dị Nhơn bán nước (thực
tế).
Hồ Dị Nhơn rơi
vào kế hoạch Mao Bất Vi nên làm suy yếu dân tộc, thất nhân tâm và phản lại dân
tộc nên phải hiến dâng đất đai, biển đảo và tài nguyên cho Tàu để tồn tại.
Mao đưa vũ khí
và cố vấn cho cộng sản dùng chiến thuật biển người đánh trận Điện Biên Phủ là
xô chiến sĩ và nhân dân vào chổ chết rất tàn nhẫn. Dùng hai chữ yêu nước để tàn
hại sinh mạng người chiến sĩ và dân thường là không sáng suốt. Mao muốn dân tộc
Việt suy yếu để lệ thuộc họ và kết quả đúng y như vậy, bởi vì họ Mao đã cấy
được họ Hồ nên một tung một hứng để đưa giống nòi và tổ quốc vào tay Tàu cộng
từng bước một.
Đảng đã đi vay
tiền bạc, vũ khí của Tàu cộng để tiến
hành chiến tranh nồi da xáo thịt trong 20 năm (1954-1975).
Năm 1958 Trung
Cộng công bố đường lưỡi bò bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa Thủ Tướng Phạm Văn
Đồng gởi công hàm chúc mừng.
Năm 1974 Trung
cộng dùng vũ lực tiến chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa cộng sản Việt Nam
im lặng.
Giáo Sư Hà Văn
Thịnh dạy sử học Đại Học Huế tiết lộ trên trang web RFA ngày 19/01/2013.
Mặc Lâm: Thưa Giáo Sư,
hôm nay là ngày kỷ niệm 39 năm ngày mất Hoàng Sa vào năm 1974, tức là vào
ngày 19-1-1974 Quân Lực VNCH đã bị Trung Quốc xua quân vô đánh chiếm quần đảo
mà họ đang canh giữ cho đất nước. Kỷ niệm ngày này xin được phép hỏi Giáo Sư
là trong thời gian đó Giáo Sư có được biết cụ thể vụ việc xảy ra, hay là hoàn
toàn không biết cho đến sau này?
GS Hà Văn
Thịnh: Hồi đó tôi học
năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Nói thực là ông Hoàng Tùng khi
đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu như thế nào, nhưng mà thầy giới thiệu là
các em hôm nay (180 sinh viên Khoa Sử) Đại Học Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng
Tùng - Ủy viên Trung Ương Đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân, hay là Ban tư
tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi không nhớ, nhưng mà ông Hoàng Tùng nói
chuyện về lịch sử thì ông có nói chuyện Hoàng Sa.
Ông nói nguyên
văn thế này: “Vì ta bận đánh
Mỹ, không có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn
Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ trả
cho mình”.
|
Nên ngày nay
Đảng im lặng trước việc Tàu cộng chiếm Hoàng Sa, còn Trường Sa thì phản đối
chiếu lệ. Đảng đang mặc nhiên nhìn nhận công hàm của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
năm 1958 mừng và tôn trọng lãnh hải Trung Quốc. Đảng đã dâng bao nhiêu đất đai
cho Tàu cộng ngoài Ải Nam Quan lừng danh trong lịch sử và một phần Thác Bản
Giốc? Cớ sao Đảng không dám công khai đối thoại với dân về việc nầy?
Trước khi dâng
Ải Nam Quan lừng danh trong Việt Sử cho họ Mao họ Hồ đã khôn khéo đổi tên thành
Hữu Nghị Quan. Theo Linh Mục Nguyễn Văn Lý (hiện đang bị tù), Hòa Thượng Thích
Quảng Độ (hiện đang bị giam lõng tại Thanh Minh Thiền Viện-TPHCM), một số trang
web và bog thuộc lề trái xác định: Việt Nam đã dâng Ải Nam Quan cho Tàu Cộng.
Nếu các vị trên nói sai thì tại sao chính phủ để yên cho họ, sao không chỉ ra
cái sai của họ cho quốc dân biết. Theo dõi vụ Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị kết án
tù thì không có khoản nào kết tội Linh Mục về việc ông nói chính phủ Việt Nam đã
dâng Ải Nam Quan cho Tàu Cộng.
Đổi tên Ải Nam
Quan thành Hữu Nghị Quan là bước dọn đường để tránh tiếng là dâng Ải Nam Quan
cho Tàu Cộng. Cái cách đổi tên, đổi tuổi rồi tiến hành thay đổi chủ quyền là
cách mà chính phủ theo cụ Hồ thường dùng để thực hiện đường lối chính trị của
họ.
Pháp đã lấy đất
đai của Việt Nam giao cho nhà Thanh để đổi lấy quyền lợi cho Pháp tại sao chánh
phủ Việt Nam không chịu đưa ra Tòa án quốc tế để giải quyết?
Boxit khai thác
lỗ vốn và để lại hiểm họa về môi trường tại sao phải khai thác? Thực chất là
gì? Đảng đang che dấu điều gì?
Các công trình ở
Việt Nam phần nhiều đều do nhà thầu Trung Quốc thi công. Họ làm chẳng ra gì và
đa phần đều là trể hạn....nền kinh tế Việt Nam đang lệ thuộc sâu vào tay người
Trung Quốc đây là một nguy cơ dân thường có chút suy nghĩ đều thấy. Cớ sao
chánh phủ cứ lầm lủi tiến bước trên con đường nguy hiểm đó?
Tinh thần yêu
nước đã thúc đẩy dân tộc đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước.
Đảng cộng sản Việt Nam đã cướp công lao của dân tộc về cho Đảng. Dân tộc đuổi
Pháp cửa trước Đảng đã rước Tàu cửa sau. Tàu cộng đã buộc Đảng gây ra cuộc
chiến tranh nồi da xáo thịt suốt 20 năm. Tàu Cộng muốn Đảng đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng để dân tộc và đất nước kiệt quệ cho Tàu dễ thôn tính. Đảng
đã theo lịnh quan thầy tuyên truyền láo khoét: Chống Mỹ Cứu Nước xô đẩy mấy
triệu thanh niên Nam Nữ ưu tú của giống nòi vào chổ chết. Bao nhiêu người dân
vô tội đã chết vì nạn cốt nhục tương tàn.
Lê Duẫn thố lộ: Chúng
ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc... hay Trung Quốc muốn ta đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng.
Đảng coi thường
sinh mạng người dân ngay từ khi mới thành lập nên mới dùng chiến thuật BIỂN
NGƯỜI xô dân vào chổ chết không hề thương tiếc. Đảng dùng sinh mạng của dân để
có được chiến thắng lớn nhỏ rồi bỏ mặc những xác chết do họ tạo ra từ Nam chí
Bắc. Tại sao Đảng làm được những tội ác đó?
Bởi vì họ đã lừa
gạt được dân chúng (đấu tranh giai cấp) xong rồi họ nắm lấy quyền phân phát cơm
áo gạo tiền làm cho dân chúng phải chịu trong vòng thúc phược của họ. Sinh Bắc tử
Nam là một bằng chứng cho sự tàn ác của Đảng.
Hiện giờ đất
nước đang sống trong gông cùm cộng sản. Đảng hèn hạ với giặc Tàu nhưng rất ác
với dân. Không có ác hành nào mà Đảng không làm để triệt tiêu những người chiến
sĩ đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tự do của dân tộc.
Đảng và chánh
phủ kết hợp với côn đồ, với xã hội đen dùng bạo lực trấn áp những người yêu
nước chống đối việc Trung Cộng chiếm biển đảo Việt Nam. Mấy tên Tiến Sĩ lưu
manh còn ru ngũ dân ta rằng 100 năm sau bàn đến còn chưa muộn.
Tóm lại: Tàu
Cộng dùng Đảng Cộng Sản Việt Nam
để xâm chiếm đất đai, lãnh hãi, thống trị kinh tế và vơ vét tài nguyên… những
điều mà thời phong kiến Tàu không làm được thì nay cộng sản Việt Nam
đang hiến dâng cho họ qua khẩu hiệu 4 tốt và 16 chữ vàng.
4/- Sấm Trạng Trình.
Trạng Trình là
danh hiệu cụ Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491-1585). Đa số người Việt dù là sĩ,
nông, công, thương, binh hay tăng đều có nghe kể về tài bói toán của cụ cũng
như nghe ba chữ Sấm Trạng Trình.
Từ khi Sấm Trạng
Trình ra đời đã gieo vào lòng người biết ít nhiều về nó những cảm nghĩ rất khác
nhau thậm chí trái ngược nhau. Có người nghe qua rồi bỏ có người say mê để tâm
huyết ra tìm kiếm, sưu tập để tìm hiểu và phổ biến. Thực tế ngày nay có hàng
trăm bản Sấm Trạng Trình lưu hành. Ông Nguyễn Thiên Thụ là một trong những
người đã ra công sưu tầm và giử gìn Sấm Trạng Trình.
Trên trang web
Sơn Trung Thư Trang ông có đăng một số bản rất khác nhau. Trong bản II của Sở
Cuồng (1930) và Mai Lĩnh (1939) có câu 101 và 102:
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về.
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về.
Hồi đang học đại học năm 1974
tôi có một radio nhỏ có lần tôi nghe Đài phát thanh Sài Gòn đọc câu 102 nầy là:
Nguyễn đi rồi lại Nguyễn về....
Ý nghĩa câu nầy
đã có rất nhiều cách giải thích. Mỗi cách đều có cái lý của nó mới là SẤM. Theo
Tôi câu Sấm nầy có một cách hiểu mới nữa. Cách hiểu nầy không thiên về cá nhân
hay triều đại mà thiên về công nghiệp của nhà Nguyễn. Mà cụ thể là quốc hiệu
Đại Nam sẽ được dân tộc ta chọn làm quốc hiệu sau màn cộng sản. Xin trình bày
mấy lý do sau:
a/- Truyền thống trọng ơn: Cái công của
Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi phương Nam là điều dân tộc không thể quên. Nhớ ơn
một dòng họ, một triều đại không có nghĩa là phải trở lại chế độ quân chủ. Mà
sự nhớ ơn cao nhất là tiếp tục thể hiện tinh thần tự chủ, độc lập của tổ tiên
trong thời đại mới. Nghĩa là dùng lại quốc hiệu ĐẠI NAM để tỏ lòng nhớ ơn tổ
tiên...và ứng hợp với lời Sấm: ... Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về...
Nguyễn thì chẳng được phải chăng là họ Nguyễn chẳng thể làm vua
được nữa vì lịch sử đã sang trang, thời đại đã khác....(chữ thì cũng là thời,
là cái thời nhà Nguyễn làm vua đã hết...). Nguyễn
thì chẳng được vậy thì lại về là về như thế nào? Nếu
hiểu rằng về bằng ngôi vị nhà vua thì mâu thuẫn với chẳng được. Thiễn nghĩ là
về bằng quốc hiệu ĐẠI NAM vậy. Bí ẩn và ly kỳ như thế mới là Sấm.
b/- Thể hiện tính tự chủ, độc lập của dân tộc
trước nước lớn ở phương Bắc, đoạn tuyệt với sự áp đặc của họ. Nước Việt không
cô lập, không biệt lập nhưng thể hiện ý chí độc lập và tự chủ.
Lời Sấm và tinh
thần độc lập tự chủ dân tộc đã thúc đẩy chúng tôi đã suy nghĩ như trên nếu có
gì không đúng xin lượng thứ.
5/- Thượng Đế gọi tên nước Việt là gì?
Với tinh thần
tín ngưỡng Thượng Đế chúng tôi được biết rằng khi Đức Chí Tôn đến giáo đạo Nam
Phương và hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thầy có dạy vào tháng 7 năm 1927:
...
Thầy có hội chư Tiên Phật lại mà thương nghị về sự lập đạo tại ĐẠI NAM VIỆT
QUỐC....
Năm 1927 nước ta
còn trong vòng nô lệ thực dân Pháp. Quốc hiệu lúc đó là ĐẠI NAM. Thầy thêm hai
chữ VIỆT QUỐC vào tạo nên 04 chữ ĐẠI NAM VIỆT QUỐC để gọi tên nước ta. Thầy
không dùng chữ Việt Nam mà một số phong trào cách mạng chống Pháp đã dùng.
Người có lưu ý
về Đạo Cao Đài hẳn biết Thầy dạy các vị Tiền bối làm TỜ KHAI TỊCH ĐẠO gởi đến
chánh phủ Pháp 29-9-1926 và TỜ KHAI ĐẠO gởi đến chánh phủ Pháp ngày 07-10-1926
chớ KHÔNG CÓ XIN. Tờ khai rất khác với Tờ xin hay Đơn xin. Khai là báo cho
chính quyền biết việc của Đạo, là có sự tự chủ trước chính quyền; các ông muốn
cấm thì ra văn bản, không có văn bản cấm là Đạo cứ tiến hành mà không chờ đợi
chi hết. Còn xin là phải chờ chính quyền cho, là lệ thuộc vào chính quyền; xin
mà chưa cho thì chưa được làm.
Đạo Thầy cốt để
dạy dân mạnh và lập quyền cho nhân loại nên Thầy làm gương từng cử chỉ để tạo ý
thức tự chủ, tự lực cho môn sinh.
Chúng tôi có
tham vọng quốc giáo hay không trong đề xuất nầy?
Xin thưa rằng
hiến pháp nhiều quốc gia đã ghi rất rõ rằng KHÔNG CHẤP NHẬN MỘT TÔN GIÁO NÀO LÀ
QUỐC GIÁO.
Đạo Cao Đài là
một tôn giáo mang tính toàn cầu nếu có tham vọng quốc giáo ắt sẽ bị tẩy chay
tại quốc gia đó. Đã bị tẩy chay thì làm sao xây dựng một thế giới đại đồng
trong Bác Ái – Công Bằng?
Cho nên chúng
tôi chẳng hề có tham vọng quốc giáo gì trong đề nghị trên (vì nó trái với giáo
lý của đạo), mà đó chính là phần đóng góp của Đạo cho giống nòi và tổ quốc. Xã
hội có toàn quyền chấp nhận hay từ chối...
Vậy chữ QUỐC ĐẠO
mà Thầy dạy và người Đạo thường dùng không phải là quốc giáo hay sao?
Xin thưa ngay
rằng quốc đạo khác với quốc giáo như trời với vực.
Quốc đạo là tự
thân của Đạo có tổ chức chặc chẽ, minh bạch như một quốc gia. Bằng chứng là Đạo
lập quyền cho dân trong tôn giáo (dân trong quốc gia). Đạo có bổn phận giáo dân
vi thiện nên có giáo hóa (Cửu Trùng Đài) pháp luật (Hiệp Thiên Đài) nhưng đến
khi Phước Thiện ra đời thì Giáo Chủ Phạm Công Tắc mới công bố quốc đạo đã nên
hình.
Tại sao phải có
Phước Thiện mới nên hình? Vì đó là bộ máy kinh thương tạo nên của cải vật chất
giữ vững nền nhân cội nghĩa cho đạo và tín đồ. Một quốc gia không có kinh tế là
tập thể đi xin của bố thí chớ đâu đã là quốc gia. Nếu tự thân Đạo không có bộ
máy làm ra của cải vật chất thì đến khi có thiên tai, địa ách hay tai nạn
thương tâm xãy ra thì Hội Thánh phải đi quyên góp để cứu trợ vậy thì đã chậm.
Đó là đột xuất.
Còn trong trường
kỳ Phước Thiện có nhiệm vụ tổ chức kinh thương, sản xuất để tạo cuộc sống vật
chất sung túc cho tín đồ trong khuôn viên đạo đức. Cho nên phải đến khi lập
thành Phước Thiện đạo mới có đủ thành tố QUỐC ĐẠO. Quốc đạo là tự thân tôn giáo
mà có, không phải chờ bên ngoài công nhận.
Quốc giáo là do
bên ngoài đến. Tôn giáo có muốn cũng không được hay từ chối cũng không xong, vì
nó vượt ngoài sự tự chủ của tôn giáo. Cho nên cùng một tôn giáo mà có quốc gia
coi đó là quốc giáo có quốc gia không coi đó là quốc giáo.
Nói tóm lại: Quốc đạo là tự thân. Quốc giáo là do bên
ngoài đưa tới. Sự khác nhau rất rõ ràng. Quốc đạo không phải là quốc giáo.
Đã sanh ra nơi
cõi thế là đã có giống nòi, có tổ quốc rồi lớn khôn mới có vấn đề tín ngưỡng.
Thầy đến để dạy nhân loại CHỮ HÒA thì đạo Thầy tuyệt đối không xung đột hay mâu
thuẫn với bất cứ tín ngưỡng nào hết.
@@@
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
Đầu
xuân Bính Thân (1956) Đức Hộ Pháp có gởi cho Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam Phái
một bài thi nói rõ lập trường tranh đấu của Ngài.
THI:
Vẫn gánh non sông đến tuổi già,
Đồng tâm làm mạnh thế tài ba.
Đòi phen kiên nhẫn dìu hồn nước,
Lắm lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.
Tín đức cổ truyền trừ giặc loạn,
Nghĩa nhân pháp bữu dẹp can qua.
Hồng Ân đã sẵn làm thao lược,
Ích nước an dân dụng chữ “Hòa”.
Đầu xuân Bính Thân
Hộ Pháp
(Ấn ký)
|
@@@
THIÊN THỨ HAI:
CÔNG THỨC
“Dân Mạnh & Lập Quyền Dân”.
Hai chữ công thức vốn dĩ xuất phát từ
lãnh vực khoa học tự nhiên như toán học, vật lý, hóa học, quang học... Trong
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) hay Đạo Cao Đài những nguyên tắc căn cơ và quan
trọng được cô động lại cũng được gọi là công thức.
I/-
CÔNG THỨC NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
Về mặt xã hội
ĐĐTKPĐ chủ trương xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ, tự do... Do vậy
trong tôn giáo có những công thức cho từng lãnh vực: đào tạo phẩm chất cá nhân
(tu thân: cần mẫn; thanh liêm; tín nghĩa và chí nhẫn) hay góp phần xây dựng xã
hội (xây dựng hạ tầng; lương thực; khoa học kỹ thuật và kinh thương). Tám công
thức nầy bố trí ở Bao Lơn Đài nơi Đền Thánh.
Chúng tôi xin
giới thiệu công thức xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do điển hình: NƯỚC
GIÀU DÂN MẠNH.
@@@
1/- Xuất xứ:
Công thức NƯỚC
GIÀU DÂN MẠNH có xuất xứ từ Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo bài Khen Ngợi Kinh Sám
Hối.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân
mạnh thanh nhàn muôn
năm.
Bài kinh trên được dùng trong đạo từ năm
1925; đến năm 1936 Hội Thánh đưa vào Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.
@@@
2/- Phân tích.
Theo quốc tế
công pháp hiện nay một quốc gia bao gồm 03 thành tố: lãnh thổ, dân tộc và chánh
quyền.
Dân là một tập
họp nhiều người cùng sống trong một vùng lãnh thổ. Dân là thành phần đông đảo
nhất trong mỗi quốc gia. Dân có trước rồi mới có chánh quyền và tạo thành quốc
gia (nước). Trong 03 thành tố trên thì chánh quyền là mong manh nhất.
Dân là gốc của
nước. Nước trãi qua nhiều tên gọi khác nhau nhưng dân thì vẫn không đổi. Trong
tương quan giữa dân và nước thì dân là gốc mà nước là ngọn.
Do vậy chúng tôi
đề cập DÂN trước nước.
Chánh quyền VN
hiện nay áp dụng công thức dân giàu.
ĐĐTKPĐ áp dụng
công thức dân mạnh.
Vậy chúng ta thử
tìm hiểu, phân tích công thức hiện dụng (DÂN
GIÀU) để đối chứng với DÂN
MẠNH xem công thức nào đúng.
Đúng sai cụ thể
ở đây là sự tín nhiệm hay không tín nhiệm của dân chúng thể hiện qua hành động.
2.1/- Công thức dân giàu:
Chánh phủ hiện
nay đưa ra công thức dân giàu qua hai giai đoạn.
a/- Nước Mạnh Dân Giàu:
Sau ngày
30-4-1975 chánh quyền cộng sản đưa ra công thức: Nước mạnh dân giàu. Nước phải
mạnh trước dân mới giàu sau. Toàn dân phải làm theo nên thi đua quốc doanh hay
công tư hợp doanh, đánh tư sản... gom về cho chánh phủ... KHẮC NHẬP, KHẮC
NHẬP... nhập tất tần tật. Nhập hết vào tay chánh phủ để nước ta mạnh trước rồi
dân sẽ giàu sau. Miền Nam thời đó xe hơi vận tải hàng hóa hoặc chở khách là vốn
quí của Đảng, nên phải đưa cho chánh quyền quản lý. Một cái máy cày, máy xới,
máy nổ lớn nhỏ... cũng là của tập thể. Các sơ sở tiểu thủ công nghiệp đều phải
vào quốc doanh hay công tư hợp doanh. Người nào co cượng không ký giấy hiến của
cho chánh phủ để vào quốc doanh hay công tư hợp doanh thì bị bắt đi cải tạo...
Chủ xe giao xe
chạy bằng diesel hay xăng cho nhà nước rồi mua lại mấy cái xe nhà nước làm hư
không sửa được đem về sửa lại chạy bằng than (vì không mua được xăng dầu) kiếm
sống và phục vụ xã hội. Bây giờ ngồi viết lại tôi như còn nghe tiếng của bác
tài hét cho phụ xế: ...xuống thọc vào bình than cho xe lên dốc... và dáng điệu
nhảy xuống xe của người phụ xế...
Mọi việc đều
phải làm theo kế hoạch nhà nước. Chánh sách ngăn sông cấm chợ diễn ra rất quyết
liệt lương thực, thực phẩm đều do nhà nước quản lý... Dân thì nghèo xác nghèo
xơ, cái áo rách không dám bỏ, cái vỏ xe đạp kết talong mấy lần cũng phải để
xài... dân xã nầy qua xã khác trong cùng một quận làm ruộng làm rẫy gọi làm xâm
canh...
Thực hiện nước mạnh dân giàu một thời gian
Việt Nam mạnh đến đâu không biết mà thấy thế giới xếp Việt Nam là một trong năm
nước nghèo nhất thế giới. Đất nước của những anh hùng đang sống trong thiếu
thốn, một phần lớn phải ăn độn rau củ... mấy ông cán bộ họp dân lại đọc cho dân
nghe bài báo viết về lợi ích của ăn độn. Từ nay không gọi bửa cơm nữa mà gọi là
bửa ăn vì chúng ta ăn nhiều thứ chứ đâu phải chỉ ăn cơm. Ông còn dạy dân
thực hiện bài báo phân tích ba cái hột mít bổ bằng cái trứng vịt để dạy dân
đừng có bỏ phí hột mít... trứng vịt đấy...
Mấy hôm sau có
người bưng đến nhà ông biếu mấy chục trứng vịt... ông mở ra xem rồi trợn mắt
trứng đâu? Người biếu đáp: nhà bác dạy
03 cái hột mít bằng một cái hột vịt nên em đem một rỗ hột mít chẳng bằng với
mấy chục trứng à...
Thảm trạng chết
đói sắp diễn ra thì Đảng thay đổi công thức.
b/- Dân Giàu Nước Mạnh.
Đảng lấy sau làm
trước, đổi trước ra sau.
Thủ Tướng Phan
Văn Khải công khai lên tiếng rằng: Bây
giờ phải tìm mọi cách làm giàu. Câu thần chú KHẮT NHẬP, KHẮC NHẬP đã
giúp cho Đảng viên có tiền, vàng đầy túi nên phải đọc câu thần chú mới là KHẮC
XUẤT, KHẮC XUẤT... bung ra làm ăn và cả quốc dân được quyền làm ngày làm đêm để
tăng của cải cho Đảng viên....
Thời nước mạnh
dân giàu gom hết của cải người dân đem về để nhà nước quản lý. Thời dân giàu
nước mạnh là đã quản lý xong thì bung ra để dân chúng cả nước làm mọi cho nhà
nước. Còn quốc dân ăn thảy uống thừa mà thôi chớ giàu có nỗi gì?
Sau ngày
30-4-1975 đến nay nhà nước chỉ niệm có 02 câu thần chú: khắc nhập và khắc xuất.
Nó đủ sức làm cho cả giống nòi điêu đứng.
Kết quả là ngày
nay (2013) chúng ta thấy rằng quả nhiên có một số rất ít là cực kỳ giàu có còn
lại một đại đa số đang sống trong nghèo khó. Nhiều người học kế toán từ Bắc vào
Nam chỉ cần mười năm làm kế toán cho nhà nước họ đã có cơ ngơi hàng trăm tỷ...
hàng nhiều ngàn tỷ... không thể tưởng tượng nổi. Nhiều cán bộ vừa làm vừa học
bổ túc, nâng cao tới cử nhân, tiến sĩ rất nhanh kết quả là nước ta ngày nay
lãnh vực nào cũng có rất nhiều tiến sĩ...mà dân oan thì đầy dẫy... Đọc báo lề phải, nghe đài phát thanh, truyền
hình trong nước thì khó hình dung toàn cục. Bởi vì họ lãnh lương của chánh phủ,
có nhiệm vụ che chắn cho Đảng nên chỉ được cung cấp những tin tức vừa ý Đảng.
Còn như ai có theo dõi tin tức từ đài phát
thanh hay trang web của VOA, RFA, RFI, BBC... tiếp xúc với báo lề dân (lề trái)
kiểu thông tấn xã của anh basam hay vàng anh, các blog của những người anh
hùng, những nữ kiệt đang đấu tranh cho hòa bình, tự do, dân chủ, nhân quyền và
tự do tôn giáo ở Việt Nam đang ngồi tù hay là tù nhân tiềm năng thì thấy rõ như
ban ngày.
Vụ án anh em nhà
Đoàn Văn Vươn ở Cống Rộc (Hải Phòng) ở Văn Giang, Đặng Ngọc Viết ở Nghệ An, dân
oan ở Dương Nội, ở Đà Nẳng, Sài gòn, Cần Thơ... ôi thôi từ Nam chí Bắc kể sao
cho hết... cái cay đắng, đau khổ của dân oan. Nếu không có thông tin khác với
nhà nước thì chúng ta không biết đầy đủ sự thật.
Như vậy công thức dân giàu là không
đúng. Vì dân không thể giàu hết được chỉ có một số giàu được mà thôi. Một công
thức xã hội mà chỉ đúng cho rất ít người và sai với đại đa số là công thức sai.
Chữ giàu nghèo ở
đây chúng tôi nói đơn giản là giàu hay nghèo theo nghĩa có nhiều hay ít tài sản
vật chất; không nói đến tinh thần. Cũng không đi sâu vào việc phân tích lời kêu
gọi tìm mọi cách để làm giàu tác
động xấu đến xã hội về mặt đạo đức như thế nào.
Chúng tôi nhận
định rằng các nhà chánh trị hay lãnh đạo có dịp đi (hay nhìn) ra ngoại quốc
thấy đời sống vật chất của người dân các nước công nghiệp phát triển có đời
sống sung túc, dân có ô tô, có nhà cửa khang trang, có tiện nghi đời sống đầy
đủ... không phải lo lắng nhiều trong cuộc mưu sinh thì nhận xét là dân giàu mà
không rõ nguồn gốc của sự giàu có như vậy là do đâu. Thấy dân người ta giàu rồi
hô lên dân giàu mà không suy xét coi do đâu mà giàu? Nói rõ ra là thấy cái ngọn
mà không truy cái gốc. Thấy hiện tượng mà không tìm hiểu bản chất.
Thực tế chỉ ra
rằng người dân ở các nước tư bản có nhiều quyền hạn (nhiều tự do, nhiều lựa
chọn qua lá phiếu...) nên dân mạnh. Mạnh là nguyên nhân chính đưa họ đến giàu.
Mạnh nên họ mới có tự do, có dân chủ và chánh phủ họ không dám độc tài nên dân
mới giàu. Dân mạnh nên chính phủ phải qui định giá làm công tối thiểu sao cho
đủ cho họ sống. Sau khi trừ chi phí các thứ họ còn có khoản tích lũy để 03 năm
hay 05 năm sau họ có thể mua nhà. Một tháng lương của họ phải mua được nhiều
mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống... chánh phủ nào không đáp ứng được họ xô
xuống. Dân mạnh đến đâu thì họ giàu đến đó. Mạnh ít giàu ít, mạnh nhiều giàu
nhiều, càng mạnh càng giàu.
Đối chứng với
các nước tư bản là các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Chế độ cộng sản ở đâu thì
dân cũng nghèo. Các quyền tự do chỉ có trên giấy, dân chủ chỉ là hàng dỏm, lá
phiếu người dân chẳng có giá trị gì... dân chẳng có quyền gì.
Dân rất yếu (do
không có quyền gì) nên chánh quyền có lấy tài nguyên lên bán mà ăn thì dân cũng
không giàu vì bọn sâu dân mọt nước đã bỏ túi riêng. Tổng thu nhập quốc dân bổ
đồng thì là con số đẹp nhưng thực tế là phần lớn chạy vào két sắt bọn tham
nhũng. Cuối cùng là đại đa số nghèo khó và chế độ phải sụp đổ.
Liên Xô, Đông
Âu... đại đa số dân chúng trong chế độ cộng sản đều nghèo (ngoại trừ một số rất
ít móc ngoặc với chánh quyền thì giàu). Quan sát 04 nước theo cộng sản hiện nay
là Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam chúng ta thấy đại đa số dân chúng sống
trong nghèo khó và cơ cực. Chỉ một thiểu số rất ít là những ông vua tập thể có
tất cả.
Lương công nhân
trong các khu công nghiệp khoản 4.000.000 đồng một tháng (bốn triệu) kể cả tăng
ca. Sau khi ăn uống chi phí các thứ họ tiết kiệm giỏi thì được một triệu đồng.
Phải nhiều tháng họ mới mua được cái xe gắn máy còn xe hơi thì đừng có mơ tới.
Một căn nhà tạm sống được cho 04 người khoản 500.000.000 đồng (năm trăm triệu)
như vậy 500 tháng sau (hơn 40 năm sau) họ mới có khả năng mua nhà (với điều
kiện trong 40 năm đó không bị bệnh tật hay phát sinh chi phí chi hết. Ông bà,
cha mẹ, anh em có ốm đau hay tai nạn gì cũng không chi ra đồng nào để báo hiếu
hay tương trợ. Họ như từ đất nẽ chui lên không có mối quan hệ nào với ai
hết...). Cho nên đến báo lề phải còn dám viết rằng: Lương công nhân cả đời chưa mua nổi căn nhà.
Các nước không
theo cộng sản mà độc tài thì sao? Người dân không có quyền gì nên yếu thế trước
chánh phủ độc tài, mà yếu thì đi đôi với nghèo. Nhìn vào một số nước ở Phi Châu
sẽ thấy điều đó rất rõ. Họ không theo cộng sản mà do chánh phủ độc tài nên đại
đa số người dân có chung số phận: rất nghèo khổ.
Đó là thực chất
của công thức DÂN GIÀU.
Ngày nay dân
chúng đang rên than, dân oan từ Nam chí Bắc, họ đã tự thiêu, đã khiêng quan tài
đi trên phố để phản đối, chặn xe Bộ Trưởng (tháng 01-2014) quyết liệt kêu gọi
chánh phủ thay đổi. Họ đang muốn xô ngã chánh phủ... Dù rằng do chính sách ngu
dân của chánh phủ họ chưa biết cái khổ đau, bất công mà họ đang chịu có căn cơ
ở đâu và phải thay thế bằng gì? Nhưng điều đó chứng tỏ công thức dân giàu đã
thất bại, Đảng cộng sản đã phá sản.
2.2/- Dân Mạnh.
Quan sát các
quốc gia mà người dân có cuộc sống sung túc chúng ta thấy rõ ràng rằng người
dân có nhiều quyền hạn. Lá phiếu trong tay dân là một công cụ thể hiện quyền
lực rất mạnh. Các hội đoàn, các hiệp hội, các tổ chức thiện nguyện được tự do
thành lập. Họ không lệ thuộc gì đến chuyện thích hay không thích của chính
quyền. Báo chí, phát thanh, truyền hình đều có quyền riêng mà chánh phủ muố`n
đụng chạm với họ thì phải chấp nhận luật chơi công bằng.
Các đảng phái
chánh trị phải thi đua lấy lòng dân mới có phiếu. Do vậy họ không ngừng nâng
cao, trình bày cái hay, cái khéo của họ và chỉ ra cái sai, cái kém của đối thủ
cho dân chúng thấy mà chọn lựa. Sự tranh đua công khai, không hề ngừng nghĩ và
không giới hạn trong lãnh vực nào bắt buộc họ phải tìm ra cách đáp ứng ý muốn
của dân để tồn tại.
Bà Bộ Trưởng sắp
được bổ nhiệm là họ rà ngay Bà nầy mướn người làm trả tiền không ghi hóa đơn...
Tổng Thống đi kiếm người khác.
Ông Thứ Trưởng
bộ quốc phòng giải trình không được 3.000 USD (ba ngàn) trong ngăn kéo do đâu mà có. Ông Thứ Trưởng
từ chức ngay.
Tổng Thống đi
máy bay về trang trại ngoài qui định. Tổng Thống phải xuất tiền trả lại cho
ngân khố quốc gia.
Tham nhũng xãy
ra là lập tức có đối thủ chỉ ra và đem công khai cho xã hội biết. Tài sản quan
chức có không giải trình được nguồn gốc thì đó là do tham nhũng mà có. Dân mạnh
như thế nên họ kiểm soát được ngân khố quốc gia. Ngân khố không bị đụt khoét
thì nước giàu. Nước giàu thì phải cung phụng lại cho dân cả vật chất lẫn tinh
thần. Nhật Bản không có tài nguyên gì và chịu động đất quanh năm sao họ giàu có
đến thế? Singgapore mới lập quốc đây thôi và tài nguyên họ chẳng có gì đáng kể
so với Việt Nam sao họ giàu có như vậy?
Dân mạnh là điều kiện tiên quyết để nước
giàu. Nước giàu thì tự nhiên dân giàu.
Tiền thuế của
dân thì đem ra phục vụ lại dân chớ chẳng cần ơn ích của ai. Dân không ăn xin
lòng bố thí của Đảng và nhà nước (vì Đảng và nhà nước chỉ có súng ống và mà
tấu) họ xin làm gì? Tiền Đảng đang xài là do dân làm ra chớ Đảng làm gì có. Bởi
dân yếu ớt, thiếu mở mang, bị Đảng lừa đảo nhốt vào cái chai nên mới chịu cảnh
đau thương đến vậy. Muốn thay đổi thì đừng mong nơi Đảng mà thất vọng. Ai có
lòng với dân thì giúp dân mạnh lên. Dân
mạnh đến đâu là Đảng lùi đến đó. Dân mạnh thì giàu có là điều tự nhiên.
Kêu gọi dân giàu
mà dân không có tự do, xã hội không có dân chủ là đường đi không đến. Chánh phủ
độc tài mà hô hào dân giàu thì chẳng khác nào họ hứa hẹn có một đại tiệc linh
đình mà lập lờ đánh lận con đen không cho biết chừng nào có tiệc và ai được
hưởng... chánh phủ đưa cho dân cái bánh
vẽ rồi bảo ăn đi...ngon lắm đấy.
Một số người dân
Việt Nam được Đảng dạy rằng làm cách mạng để có tự do theo chủ nghĩa xã hội rồi
lên thiên đường cộng sản không còn cảnh người bốc lột người... sung sướng
lắm... Liên Xô sắp tới giai đoạn làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu
rồi...ráng lên. Chuyên gia Liên Xô dự đoán sau chiến tranh chỉ cần 15 năm Việt
Nam sẽ vượt qua người Mỹ... Đảng ta thần thánh thắng Mỹ ngày 30/4/1975 thống nhứt
đất nước thì làm được tất cả. Họ che dấu sự thật rằng Mỹ bán đứng VNCH cho Mao
Trạch Đông để đổi lấy quyền nhảy vào làm ăn với Tàu Cộng.
Người tin và
theo Đảng từ năm 1930 đến nay tính ra đã hơn 80 năm. Đùng một cái năm 2013 báo
lề phải đưa tin ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố:... đến hết thế kỷ nầy chưa biết có chủ
nghĩa xã hội hoàn thiện hay chưa...
Tổng Bí Thư Đảng
đã nói rất đúng sự thật: Chủ nghĩa xã
hội là điều không tưởng. Đảng đã đưa tấm thực đơn nhưng không có món
nào cả và phù phép bảo dân tộc nhìn tấm đơn đó mà no lòng...
Phụ thân sợ tôi
lầm tin cộng sản nên người kể câu chuyện chủ quán đăng bảng: Ngày mai ăn khỏi trả tiền. Người khách
đang ăn nhìn thấy vậy thì rất thích. Hôm sau vào quán ăn no nê rồi đi ra rất tự
nhiên... bị níu áo thì cự cãi chỉ vào tấm bảng... Chủ quán cười tươi tắn nói
rằng: Ông đọc xem nào. Người khách đọc xong rồi ngẫn người ra... hôm nay đâu
phải là ngày mai... vĩnh viễn không có ngày nào ăn khỏi trả tiền cả dù tấm
bảng lù lù ra đó. Thấp cơ thua trí thôi thì móc túi ra trả tiền. Gẫm lại
ông khách đó có ăn thì trả tiền cũng không lấy chi làm thiệt thòi. Còn với cộng sản không ăn gì cũng phải trả tiền... đi
ngoài đường nó kéo vào đòi tiền cũng phải trả không thì phiền phức lôi thôi có
khi mất mạng... Ngày nay xem lại thấy dân ở Phan Thiết có biết cây cầu Đồng Nai
mặt mũi nó thế nào đâu, chẳng có đi qua cầu lần nào mà cứ è cổ ra mua vé qua
cầu Đồng Nai. Không móc tiền mà đi qua đó là toi mạng với Đảng.
Dân ta bị công
an bắt vào đồn hỏi thăm công việc rồi tự nguyện viết đơn ở lại đồn rồi chết
luôn trong đó. Đầu năm 2014 mấy em học sinh ở Khánh Hòa có độ tuổi 14, 15 cãi
nhau, một em là con của công an đánh một em trong số đó. Công an đến bắt em học
sinh bị đánh về đồn. Kết quả em chết vì vỡ hộp sọ.... Đảng vì dân, do dân, phục
vụ dân bằng bạo lực mọi lúc, mọi chổ nên dân ta chết đủ cách, chết trong phòng
tạm giam, chết trong xe, chết ngoài đường phố...đi cũng chết, đứng cũng chết,
ngồi nằm gì cũng chết... cứ trái ý chánh quyền là chết... sống trong gông cùm,
tù tội chết còn chưa yên nên mồ mã vẫn trong trại tù. Cộng sản bỏ tù cả
xương cốt người chết vì họ dụ được dân tộc ta bằng công thức dân giàu, bằng
thiên đường xã hội chủ nghĩa. Dân ta tin lầm mới đến cảnh vậy.
Đúng là có đại
tiệc nhưng đó là dành cho đại gia hưởng rất đầy đủ còn đại đa số thì nghèo khó.
Nhìn vào xã hội Việt Nam hiện nay thấy dân chúng sống trong cảnh: ...Chưa được nồi mơi lo buổi tối... rất
nhiều.
Đảng đã tìm đủ
cách để lừa phỉnh dân tộc ta. Họ lừa phỉnh được là nhờ có miếng mồi thơm theo
từng giai đoạn nên dân ta dính bẩy, mắc câu. Hồ Chí Minh gởi bài Đường thi cho
Đức Hộ Pháp 02 câu kết:
Mấy lời nhắn gởi
xin ông nhớ,
Nước ngược buông
câu cá chọn mồi.
Ông Hồ tự tin cho rằng mình là ông câu
thiện nghệ
nên buông câu giữa dòng nước ngược... phải chọn mồi thơm, chọn lưỡi câu... như
ông tiều phu Võ Kiết ra mặt khôn... cười mĩa mai ông Khương Thượng đang buông
cần nơi Bàn Khê với cái lưỡi câu ngay đơ và chẳng có cục mồi nào... rồi nhiệt
tình dạy cách uốn cong lưỡi câu, chặc ngạnh sao cho bén, chọn mồi cho thơm...
Ông Khương Thượng cười...
Nghĩa bóng rằng
ông Hồ chủ động chọn đường lối cộng sản và chọn công thức cho dân tộc. Ông
Hồ là ông câu mà dân tộc ta là con cá.
Đức Hộ Pháp họa
lại 02 câu kết:
Cờ tàn mới biết
tài cao thấp,
Nào phải như ai
cá chọn mồi.
Đức Hộ Pháp cho ông Hồ biết rằng một nước cờ
chưa phải là cả bàn cờ. Được một nước cờ chớ cho rằng thắng bàn cờ. Đến tàn
cuộc mới biết ai thắng ai bại. Lấy gì để phân định thắng thua?
Xin thưa rằng
quan sát xem đời sống người dân có được an cư lạc nghiệp hay không, cô nhi, quả
phụ có được chiếu cố hay không? xã hội có mở mang hay không, quốc gia có dân
chủ, tự do hay không... là thước đo. Nói
tóm một lời muốn biết giá trị rốt ráo của một đường lối, một chính sách thì
lòng dân yêu chuộng hay không chính là kết quả.
Nhà cách mạng
Phạm Công Tắc trong câu chót xác định rõ ràng và quyết liệt rằng: ông Hồ Chí Minh chỉ là con cá chớ chẳng
phải ông câu. Ông câu là Mao Trạch Đông kia kìa còn ông Hồ chỉ là con
cá nên chọn mồi cộng sản. Con cá thì
khác với ông câu.
Ông Hồ mắc câu
của Mao Trạch Đông nên phải tiến hành chiến tranh nồi da xáo thịt với miền Nam
20 năm làm cho nguyên khí quốc gia xơ xác. Sau ngày 30/4/1975 mở ra trại tù
khổng lồ cho người liên quan đến chánh thể VNCH làm cho nguyên khí quốc gia
kiệt quệ; lòng dân không còn tín nhiệm gì với cộng sản. Đảng muốn tồn tại phải
lần lượt dâng biển đảo, đất biên giới và cống nạp tài nguyên cho Tàu cộng....
con cá Hồ Chí Minh đã mắc câu của Mao Trạch Đông. Ngày nay còn bao nhiêu Đảng
viên tin vào Đảng? Còn người dân nào tin vào Đảng? Không cần phải chờ Liên Hiệp
Quốc đứng ra trưng cầu dân ý mà cứ nhìn vào Đông Đức, nhìn vào Ba Lan, các nước
Đông Âu và Liên Xô thì biết.
Đảng khi mới lập
thì kêu gọi đánh đổ giai cấp. Dân đang nghèo khổ và bị áp bức nên nghe vậy bùi
tai nghe theo. Đánh đổ giai cấp xong Đảng thành giai cấp mới tàn ác hơn.
Khi tiến hành
chiến tranh nồi da xáo thịt trong 20 năm Đảng ra chiêu bài: Chống Mỹ cứu nước.
Sự thật là để làm vừa lòng Tàu cộng và buôn bán xương máu dân tộc. Bởi vì không
có chiến tranh thì miền Bắc sẽ tự tố cáo sự sai lầm của họ bằng sự thiếu thốn,
nghèo đói và kém phát triễn về kinh tế, văn hóa, khoa học kỷ thuật. Còn miền
Nam sẽ chứng minh tính đứng đắn của con đường tự do, dân chủ giúp người dân
phát triễn làm chủ đời sống của mình là một thực tế.
Chánh sách cải
cách ruộng đất ở miền Bắc và Người cày có ruộng ở miền Nam rồi cũng sẽ được
lịch sử ghi nhận và đánh giá công bằng.
Miền Nam bị cộng
sản tấn công chịu cảnh chiến tranh từ thành thị đến thôn quê nhưng hạ tầng xã
hội đường xá giao thông hơn hẳn miền Bắc. Còn văn hóa, khoa học kỷ thuật?
Khi ký hiệp định
Généve 1954 về Việt Nam miền Bắc có trường Đại Học còn miền Nam thì không. Đến
ngày 30-4-1975 số trường đại học ở miền Nam nhiều hơn miền Bắc. Riêng sinh viên
02 trường Luật Khoa và Văn Khoa đã gần 100 ngàn sinh viên. Còn chất lượng?
Văn bằng của
Việt Nam Cộng Hòa được thế giới nhìn nhận. Còn văn bằng miền Bắc có được nhìn
nhận hay không? Đường lối đó tiếp tục đến ngày nay nên cán bộ học bổ túc văn
hóa vài năm (một năm hai ba lớp) đã vào đại học rồi vài năm sau có bằng cấp sau
đại học.... kết quả tiến sĩ giấy tiến sĩ dõm đầy trời.
Giáo Sư Nguyễn
Văn Trung viết bộ NHẬN ĐỊNH với lối hành văn chặc chẽ, lý luận sắc bén. Cung
cấp nhiều thông tin, kiến thức, phương pháp suy nghĩ, phương pháp phân tích và
quan điểm cho người đọc. Đó là điều rất quí không phải người cầm bút nào cũng
đạt đến tầm vóc như thế. Bây giờ nhớ lại chúng tôi vẫn nhớ ơn giáo sư đã mở
mang cho chúng tôi qua văn bút.
Sách của Giáo Sư
tạo được chấn động rất lớn. Thậm chí miền Bắc đọc đến bộ Nhận Định của Giáo Sư
cũng thấy sao đó mà phân công cho ông Trần Văn Giàu viết NHẬN ĐỊNH VỀ NHẬN
ĐỊNH. Sau 30/4/1975 tôi hỏi nhiều trí thức và cán bộ cộng sản trong ngành giáo
dục và tuyên huấn thì họ đều ngơ ngác không biết rằng có một cuốn sách với cái
tựa như thế. Cho nên chúng tôi không biết ông Trần Văn Giàu viết gì trong đó.
Ước chi ai có thì chụp ảnh phổ biến trên mạng thì hay quá...
Có lần giáo sư
căn cứ vào thống kê của cộng sản ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã đào tạo số kỹ
sư, bác sĩ, giáo sư... với tỷ lệ rất cao so với dân số... khi đó chưa sống với
cộng sản chúng ta chưa biết giáo sư đã bị lừa. Nay đã sống với cộng sản đã tận
mắt chứng kiến kỷ sư, bác sĩ, phó tiến sĩ, tiến sĩ... trong xã hội cộng sản
chất lượng như thế nào thì số lượng đã trở nên một trò hề lố bịch.
Chúng tôi thiễn
nghĩ giá như giáo sư đem đoạn văn mấy chục năm trước ra đối chiếu để góp phần
thức tỉnh dân chúng thì hay hơn là làm thinh. Xin hãy nói lớn, nói công khai
cho dân chúng biết rằng những con số thống kê trong xã hội cộng sản không đáng
tin cậy. Mỗi khi nhìn vào thống kê nên tìm hiểu sâu hơn vào chất lượng của nó
cũng như lấy thực tế cuộc sống làm thước đo. Trăm nghe không bằng một thấy.
Trăm thấy không bằng một lần trãi nghiệm.
Tôi không hề
nghĩ rằng giáo sư thất bại trong văn bút mà trái lại là khác. Nhưng tiền nhân
có dạy: Bậc khôn ngoan là người biết rút ra bài học từ những người khác. Điều
nầy cùng hướng với tựa bài TỘI SINH PHÚC mà Giáo sư đã vận dụng từ Kinh Thánh
để tạo ra một bài nhận định của Giáo Sư vậy.
Thời Việt Nam
Cộng Hòa trường Luật Khoa, Văn Khoa ai có bằng Tú Tài Toàn Phần thì cứ ghi danh
vào học chẳng hề phân biệt lý lịch. Sau 30-4-1975 hai trường nầy bị đóng cửa.
Ai muốn học đại học phải có lý lịch tốt. Chánh phủ cộng sản thực hiện chính
sách ngu dân.
Mấy lần đổi tiền
thực chất là dùng chánh sách móc túi người dân.
Nhà văn Dương
Thu Hương khi theo đoàn quân chiến thắng vào đến Sài Gòn, nhìn đường phố và
cuộc sống người dân rồi bàng hoàng nhận ra rằng bà và bao nhiêu người khác đã
chết trên dãy Trường Sơn, chết trên chiến trường miền Nam là do bị gạt gẫm bởi
chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Rồi ngồi bệt xuống đường khóc lóc một cách thảm
thiết rằng: ...Văn minh đã thua sự
man rợ. Trong khi nhiều nhà văn, nhà báo, nhiều học giả, nhạc sĩ, ca
sĩ, nhiều người tu hành, nhiều sinh viên học sinh... được sống trong bầu khí tự do, tiến bộ của
miền Nam lại ra sức ủng hộ, cổ vũ cho miền Bắc, phụng thờ miền Bắc. Họ chống
Việt Nam Cộng Hòa để xây dựng xã hội tiến bộ hơn thì hiểu được. Còn họ chống để
hiến dâng miền Nam cho cộng sản miền Bắc thì cái hiểu biết thực tế của họ mới
thế nào?
Ngày 21-12-2013
Thông Tính Viên Ngành Mai trang web RFA cung cấp thông tin trong bài: Chuyện về
vở hát Tây Thi gái nước Việt:
...năm 1969 lúc Hòa Đàm Ba Lê đang diễn ra, cả
hai miền Nam, Bắc đã đưa các đoàn văn nghệ sang nước Pháp làm công tác văn hóa,
thu phục kiều bào. Riêng miền Nam thì trước tiên là đoàn Thanh Minh Thanh Nga
như tôi đã từng trình bày với thính giả trên làn sóng phát thanh này. Kế đó thì
các đoàn văn nghệ khác cũng được đưa sang, trong số có đoàn của Năm Châu, Phùng
Há.
Thời gian công tác cho đoàn văn nghệ miền Nam tại Ba
Lê, hai nghệ sĩ Năm Châu, Phùng Há đã bí mật gặp ông Đại Sứ Mai Văn Bộ của miền
Bắc. Giáo sư Trần Văn Khê dùng xe riêng đưa 2 người đến gặp ông Bộ tại nhà của
Bác Sĩ Nguyễn Ngọc Hà.
@@@
Ăn cơm quốc gia
thờ ma cộng sản điển hình là 02 nghệ sĩ Năm Châu và Phùng Há. Nghệ sĩ Năm Châu
và Phùng Há đi Pháp bằng tiền của VNCH để phản lại VNCH ai có lương tâm thì tự
nghĩ xem cử chỉ ấy đáng giá thế nào? Chúng tôi không tán thành chiến tranh
nhưng hành vi đâm sau lưng chiến sĩ của 02 người nầy thật là buồn nôn.
Ông GS Trần Văn
Khê được may mắn không phải sống chiến tranh kinh hoàng, không biết sự hy sinh
của chiến sĩ VNCH, sự khốn khổ của dân chúng do cộng sản tạo ra nên móc nối
đoàn công tác của VNCH để lập công với cộng sản... đó là quyền tự do của ông
Khê.
Cái công ông
Trần Văn Khê được phơi bày trước công luận là như vậy; còn những cái công khác
để dâng lên Bác và Đảng của ông Khê thì chúng ta chưa biết. Song chúng ta biết
chắc rằng nó rất lớn nên khi ông về Việt Nam để gởi nắm xương già được chánh
phủ đền đáp bằng căn nhà rất đẹp; trước nhà có vườn trồng cau, sau nhà có vườn
chuối ngay tại TP HCM. Thỉnh thoảng đưa ông Khê lên báo chí, tivi để ông nói về
đờn ca hát xướng mà chẳng bao giờ ông GS Khê nói về một vấn đề nào liên quan
đến thảm trạng dân oan, hay tù nhân lương tâm trong xã hội mà chính ông đã góp
phần tạo ra. Cái nghệ thuật của ông Khê trình bày theo chỉ đạo của cộng sản là
một thứ nghệ thuật xa rời đau khổ của dân oan trên khắp miền đất nước; để góp
phần làm ngu dân và tàn nhẫn hơn nữa là đầu độc cho người bị đầu độc vui chịu
việc bị đầu độc.
Nếu trước đây
ông Khê không chê bai Việt Nam Cộng Hòa ủng hộ cộng sản cứ làm nghệ thuật thì
OK, cũng chẳng có gì để nói. Đàng nầy trước kia ông ủng hộ cộng sản, lôi kéo
nhiều người theo cộng sản, ngày nay cộng sản đem lại điều tồi tệ như thế cho
giống nòi và tổ quốc thì ông im lặng để thụ hưởng. Cái trá ngụy của Ông Trần
Văn Khê là như thế đó.
Ông Phạm Đình
Trọng là nhà văn, là Đại Tá của chế độ cộng sản trong dịp kỷ niệm 40 năm Tàu
Cộng dùng vũ lực sát hại 74 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa để chiếm Hoàng Sa
(19-01-1974).
Ông bày tỏ tâm
tư trên trang web RFA ngày 08-01-2014:
TQ thực hiện
được âm mưu chiếm Hoàng Sa của VN. Đây chính là sự mặc cả, buôn bán nhau giữa 2
nước lớn, và họ đã hy sinh quyền lợi của nước nhỏ là VN. Nếu không có cuộc
chiến tranh ý thức hệ thì TQ không khi nào có thể chiếm được Hòang Sa. Công Hàm
Phạm Văn Đồng thể hiện rõ nhất cái ý thức hệ đó. Lúc đó, ông Phạm Văn Đồng hòan
tòan đứng về ý thức hệ CS, ý thức hệ gọi là đấu tranh giai cấp để ủng hộ TQ.
Lúc ấy, ông hòan tòan không đứng về phía dân tộc; ông ta không đứng ở tư thế
của người VN để nhìn nhận và bảo vệ quyền lợi của đất nước mà ông ta đứng về
phía ý thức hệ của CS để ủng hộ ý đồ của Tàu cộng.
Sự tỏ thật của
Ông Phạm Đình Trọng chứng minh rằng trong thời internet mọi việc trong bóng tối
sẽ được lôi ra ánh sáng. Nhận thức nhân
loại ngày một nâng cao nên họ sẽ nhận xét tinh tế hơn. Cái hay, cái tốt
sẽ được mọi người biết đến cái che đậy và trá ngụy sẽ được phơi bày.
Chúng tôi nêu
trường hợp RẤT KÍN ĐÁO của ông Trần Văn Khê với đầy đủ bằng cớ, ngày giờ để
thức tỉnh những bậc trí thức khác... suy gẫm để sống có trách nhiệm hơn, nhân
văn hơn. Chúng tôi thành thật mong các vị cẩn thận đừng bước vào vết xe đổ của
đàn anh. Chúng tôi tin chắc rằng xã hội sẽ nhìn ra cái chân tướng mọi sự việc.
Với con người thì lầm lẫn là qui luật mà chân lý là
ngoại lệ.
Ai trong đời cũng có vấp phạm, ai xét mình thấy vấp thì tự giác chỉnh đốn khi
mình còn sống để xã hội có thêm người tốt.
Người hiểu biết
sẽ thông cảm với ông Lê Hiếu Đằng cả đời theo cộng sản giờ gần cuối đời mới
thức tỉnh từ bỏ Đảng và góp sức với nhiều người khác để xây dựng xã hội tự do,
dân chủ. Người đời có quyền chê ông Đằng khi ông cung phụng cho Đảng nhưng
không có quyền chê ông Đằng khi ông công khai nhìn nhận cái sai và thay đổi để
phụng sự cho dân chủ, tự do của dân tộc. (Ngày 23/01/14 ông Đằng tạ thế).
Đức Khổng Tử nói
rằng buổi sáng biết đạo, buổi chiều chết cũng vui. Những người biết mình lầm
lẫn quay về với lẽ thật là lòng họ rất vui... cớ gì ta không chia xẽ niềm vui
với bạn đồng sanh?
Kinh Thánh có
chuyện ông Saulơ chuyên bắt bớ những người theo Chúa Jésus... sau ông thức tỉnh
quay lại phụng sự đạo và được tôn vinh là Thánh Phao Lồ.
Trong ĐĐTKPĐ có
ông mật thám Trần Văn Tạ vâng lịnh chánh quyền thực dân Pháp theo dõi các vị
môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn để tìm cách bắt. Sau ông được Đức Chí Tôn dạy
cho thức tỉnh rồi thành người đạo và được phong Hộ Đàn Pháp Quân... mọi người kính mến.
Vậy Ai trong đời
mình không từng lầm lẫn thì có đủ quyền để trách ông Đằng, ông Trọng (Phạm
Đình).... Còn như tự xét rằng kiếp sanh mình cũng từng nhầm lẫn thì nên thông
cảm và tạo cơ hội cho người bạn đồng sanh phụng sự. Phải kiến tạo tinh thần hòa
bình để chung sống với nhau từ phạm vi nhỏ đến lớn.
Nhìn Tây Đức và
Đông Đức cũng như Nam và Bắc Hàn là biết độc tài hay dân chủ sẽ thắng nếu không
có chiến tranh. Người cộng sản lấy chiến tranh để che lấp sự yếu kém về một xã
hội dân chủ, tự do, tiến bộ.
Sau khi giết
chết mấy triệu thanh niên Nam Nữ ưu tú của dân tộc trong cuộc chiến tranh nồi
da xáo thịt thì Đảng đưa ra chiêu bài: Nghĩa vụ quốc tế. Máu xương của dân tộc
đổ ra trên đất Campuchia hơn 10 năm. Mỹ
đem quân đến Việt Nam thì bảo là Mỹ xâm lược, Việt Nam đem quân sang Campuchia
thì bảo là làm nghĩa vụ quốc tế.
Người Việt Nam
bỏ nước ra đi tìm tự do ở Châu Âu, Châu Mỹ bị bắt lại thì bảo là phản quốc. Đi
lọt ra nước ngoài được thì bảo là Việt Kiều yêu nước, là khúc ruột ngàn dặm...
Hiến pháp năm 1980 viết rành mạch: ... phải
đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở
Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành
được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn
phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở
biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của mình.
Chánh phủ Trung
Quốc vẫn kế tiếp nhau rất rõ ràng (không có một cuộc đảo chánh nào hết) thì họ
vẫn là BỌN BÁ QUYỀN TRUNG QUỐC.. nhưng vì sao đến hiến pháp 1992 thì bỏ đoạn
đó. Vì sao chánh phủ Việt Nam lại trở cờ thân thiết và lệ thuộc vào bọn bá
quyền?
Thêm bao nhiêu
cái chết trên biên giới Việt Trung giữa hai nước cộng sản với nhau mà ngày nay
Đảng còn rất sợ hãi nên không dám công khai cuộc chiến 10 năm với Tàu Cộng là
cuộc chiến gì? Những người chết trong cuộc chiến Việt Trung và trên đảo Trường
Sa có danh phận gì?
Dân giàu là liều thuốc độc cực mạnh nhưng thơm tho
nên Đảng đã gạt được dân tộc ta trong bao nhiêu năm nay. Đó là con đường
đi không đến nên Đảng rất thích khi nghe dân mơ ước được giàu.
Dân mạnh là điều cộng sản sợ hơn hết
trong mọi nổi sợ.
Ông Bùi Tín
trong bài viết Họ đang sợ những gì? đăng trên VOA blog ngày 23-12-2013. Ông
nhận định rằng nổi sợ đã đổi ngôi từ dân sang Đảng... và ông nêu câu hỏi:
Nhưng họ sợ gì hơn cả? Thật khó trả lời. Vì càng
ngày họ càng sợ nhiều thứ, kể ra không sao hết. Họ sợ quần chúng đông đảo xuống
đường đòi tự do, ruộng đất, nhân phẩm. Họ sợ sự thật.
Ông Bùi Tín kết
luận:
Họ sợ sự thật, sợ sự minh bạch, sợ thức tỉnh của
nhân dân, sợ dư luận, vậy thì Trung tâm dân sự điều tra dư luận có thể sẽ là
một vũ khí hòa bình, phi bạo lực rất sắc bén, có hiệu quả cao vậy.
Chúng tôi tôn
trọng ý kiến của ông.
Nhưng chúng tôi
xin trả lời rất ngắn gọn và rõ ràng: Đảng
sợ nhất là DÂN MẠNH. Dân mạnh thì Đảng
bị tiêu vong.
Tóm lại: hô hào,
kêu gọi dân giàu là một thủ đoạn rất gian manh của chánh phủ độc tài (trong đó
có cộng sản). Nó mãi mãi là ảo vọng trong xã hội độc tài hay cộng sản. Nó tuyên
truyền rằng có một ốc đảo trên sa mạc để khi đoàn lữ hành đi đến đó và biết
rằng ỐC ĐẢO ẢO thì kiệt sức và chết trong ảo ảnh. Ngay trong những nước là
những siêu cường quốc về kinh tế như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật... mà vẫn có một
phần lớn dân chúng không giàu. Dân chúng ở những quốc gia nầy vẫn có những đợt
biểu tình rất lớn để thể hiện sức mạnh của dân chớ không phải thể hiện sự giàu
có bao giờ.
Công thức dân giàu là sai.
Công thức dân mạnh mới đúng.
@@@
3/- Kết quả của Dân Mạnh: Nước giàu.
Phòng cháy hơn
chữa cháy. Phòng bệnh hơn trị bịnh.
Dân mạnh chính
là phương thuốc ngăn ngừa và đặc trị tham nhũng. Nó luân lưu để giết chết từng
tế bào tham nhũng trong cơ thể xã hội. Nó cũng có tác dụng phòng ngừa và nâng
cao thể trạng chống tham nhũng trong cơ thể xã hội đến cực đại.
Dân
mạnh thì cái tài nguyên lớn nhất, quan trọng nhất là con người, là hiền tài của
quốc gia dân tộc sẽ được tôn trọng.
Dân
mạnh thể hiện qua 03 phương diện:
.
Dân được tự do dùng lá phiếu của mình để chọn mặt gởi vàng, giao phó tương lai
cho bậc hiền tài.
.
Dân có cơ chế rõ ràng, minh bạch để tham gia góp ý vào đường lối và công việc
quốc gia.
.
Dân có cơ chế rõ ràng và đủ quyền để kiểm soát nhân sự trong bộ máy công quyền.
Ai làm cho ích nước lợi dân thì họ nâng ai làm khổ dân họ xô xuống. Những người
do dân chọn lên họ sẽ sợ sệt mà giử mình hơn nữa. Dân mạnh thì xã hội sẽ truyền
hiền chớ không truyền tử lưu tôn. Nạn cô chiêu cậu ấm, con ông cháu cha, con
cháu các cụ cả... bị triệt tiêu.
@@@
Tài
nguyên của đất nước từ trong lòng đất, từ trong rừng sâu núi thẩm, từ biển cả
bao la, từ cõi không gian vô tận, từ những cánh đồng mênh mông, từ vàng trắng
(cao su) vàng đen (dầu thô) từ những bộ não thông thái sẽ chảy vào ngân khố
quốc gia chớ không rò rĩ, không chảy vào túi, vào tài khoản của các quan chức
tham nhũng hay các thế lực cấu kết với tham nhũng.
Dân mạnh thì dân
kiểm soát được chánh quyền. Đã kiểm soát được chánh quyền thì nước giàu là điều
tất yếu. Không có một thời đại nào, một quốc gia nào người dân mạnh mà quốc gia
lại nghèo nàn và yếu hèn bao giờ.
4/- Chứng cứ và triễn vọng.
4.1/- Chứng cứ: Đạo đã thực hiện thành công.
Chúng tôi xin
trình chánh tác dụng của công thức dân mạnh và lập quyền dân trong ĐĐTKPĐ theo
quan điểm xã hội học.
a/- Giai đoạn 1941 - 1946.
Đạo khai năm 1926 và rất nghèo vậy thì tiền đâu mà xây dựng nên cơ ngơi
tôn giáo và còn giúp đở tài chánh cho các nhà cách mạng chống thực dân Pháp như
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để...
Xin thưa rằng vì Đạo đã thực thi công thức dân mạnh và lập quyền cho
nhơn sanh để những người thua thiệt, nghèo hèn, bị áp bức khắp nơi thấy được
con đường đưa họ ra khỏi cảnh đời tối tăm khốn khó. Họ thấy rằng đạo nầy là của
họ vì nó làm cho họ được mạnh mẽ oai quyền thực sự không còn phải sống trong bế
tắc và sợ hãi. Đạo dạy cho họ biết sống đời sống có ý nghĩa cho bản thân, gia
đình và xã hội nên họ đoàn kết nhau dưới bóng cờ cứu khổ của tôn giáo.
Ngọn cờ nhơn nghĩa phất lên, tiếp đó dân chúng hưởng ứng. Đó chính là thước đo giá trị của các công thức,
phương pháp tiến hành cũng như tư cách và năng lực người hành đạo.
Đạo đã thực thi
05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng
cao dân đức, dân trí, dân sinh trên căn bản dân mạnh, lập quyền dân. Lúc đầu
dân chúng chưa thấu hiểu lẽ sâu xa, chưa nhận ra cái hương vị của đạo nên 03
lần trước khởi công xây Đền Thánh đều thất bại.
Năm 1936 Đức Hộ
Pháp nhận trách nhiệm tái khởi công xây dựng Đền Thánh trong tủ chỉ có 01$46 (tương
đương 100kg gạo) và thế giới đang bị khủng hoảng kinh tế nên đến 1939 thì nỗ ra
đệ nhị thế chiến... Điều cực kỳ nguy hiểm nữa là Pháp đã kết luận Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một
quốc gia nên họ sẳn sàng tiêu diệt đạo.
Chỉ với 01$46 và
hoàn cảnh như vậy mà đến 1941 thì Đền Thánh đã xong phần cơ bản. Tiền đâu mà
mua vật liệu, lương thực đâu mà ăn và nhân công đâu mà làm?
Tiền, lương thực
và nhân công nằm trong lòng dân, nằm trong đường lối đắc nhân tâm của Đạo. Cụ
thể là hàng trăm, hàng nghìn người từ khắp nơi, nam phụ lão ấu đều hưởng ứng.
Trí thức hay bình dân tham gia đều tự nguyện xã thân cho đạo.
Đặc biệt là số
500 công quả căn bản trực tiếp xây dựng Đền Thánh phải lập nguyện thủ trinh
trong suốt thời gian xây dựng Đền Thánh.
Các vị khác lớp
thì làm công quả tại nội ô, lớp thì làm lò gạch, ngói, lớp thì xay vỏ ô dướt
trộn với vôi, mật rĩ để trộn với xi măng... lớp đi tìm tầm vông hay tre thật
già về làm cốt đổ bê tông thay cho sắt...
Lớp thì trồng
hoa màu ở các sở chung quanh để đem về cho công quả dùng. Lớp thì mướn hàng mấy
trăm mẫu ruộng ở miền Tây và ở các nơi khác canh tác để đem lúa thóc về cho Hội
Thánh... một phần lớn trong số công quả nầy là nhân sự của Phước Thiện. Nhân sự
Phước Thiện đóng vai trò nồng cốt trong công cuộc xây dựng nên Đền Thánh.
Những người
nghèo khó đi làm thuê kiếm sống đến giờ nghĩ trưa đi hái rau rừng rữa sạch bó
lại chiều về hiến cho lương viện...
Năm 1936 tái
khởi công xây Đền Thánh.
Năm 1937 tổ chức
mở 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Năm 1938 đem
nguyện ước của vạn linh thành lập Đạo Luật Mậu Dần. Đạo Luật Mậu Dần là chứng
cứ cho nhơn sanh thấy rằng Hội Thánh sẽ còn lo lắng, nâng đở cho họ nhiều hơn,
mạnh mẽ hơn qua học đường (nơi nào có Thánh Thất là có trường học), nhà thương,
công ăn việc làm (các sở lương điền công nghệ của Phước Thiện)... nghĩa là
tương lai tươi sáng đang đến trong tầm tay và ngay trước mắt. Họ tắm mình trong
nguồn sống vô tận đó. Một thế giới bình yên, thịnh vượng trong đạo đức đến với
họ ngay trong một đất nước còn bị dày xéo dưới gót giày xâm lược của thực dân
Pháp. Dân trong đất nước nô lệ mà tạo được cuộc sống như vậy thì làm sao thực
dân Pháp tồn tại? Đó chính là một
cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa mà dân chúng đã hưởng được.
Đường lối cách
mạng đấu tranh ôn hòa như phong trào duy tân của cụ Phan Châu Trinh, Nguyễn An
Khương, Ngô Đức Kế... cũng chủ trương nâng cao dân trí, dân sinh... để dân mạnh
thì sẽ đuổi được thực dân Pháp. Vậy đường lối ôn hòa, duy tân của các cụ có
khác chi với các công việc mà Đạo đã làm được chăng?
Đường lối chủ trương cách mạng bằng vũ lực như
Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Cộng Sản .... cũng nhằm đi
đến việc tạo cơm no áo ấm cho dân, xã hội dân chủ, tự do...
Trình chánh như
vậy để thấy rằng Đạo Cao Đài đã âm thầm làm cuộc cách mạng và đã làm thành
công. Nó như một công thức, một phát minh đã cho kết quả chắc chắn trong phòng
thí nghiệm. Từ đó đem ra áp dụng đại trà.
Từ công thức dân
mạnh, lập quyền dân thực thi năm chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn,
kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí, dân sinh mà không được
nhìn nhận là một cuộc cách mạng nhơn nghĩa thì thế nào mới gọi là cách mạng?
Đức tin là sự
nhận thức về chân lý. Dân đã thấy được tương lai của mình gắn liền với tôn giáo
nên họ tích cực hợp tác để tạo nên vùng Thánh Địa đẩy lùi được nghèo khó đói
khát...
Năm 1941 Pháp
bắt giáo chủ Phạm Công Tắc và một số vị chức sắc khác đày sang Madagascar (Phi
Châu). Một số nữa bị bắt và bị đày di khắp các nhà tù trong nước... Pháp tịch
thu hầu hết cơ sở của Đạo ở Thánh Địa và toàn cõi Đông Dương.
Dân đã nếm được
hương vị của 05 chương trình và 03 diện nên họ hằng nhớ ơn và hoài vọng. Lòng
nhớ ơn và mong muốn đền ơn ngày đêm thôi thúc họ tìm cách đưa giáo chủ trở về.
Khi Ngài Cao Tiếp Đạo cầu cơ xin được thiêng liêng chỉ dẫn phải làm gì... và
được dạy rằng phải hiệp tác với Nhựt đảo chánh Pháp thì nhơn sanh, chức việc,
chức sắc nhiệt liệt hưởng ứng để lập ra Nội Ứng Nghĩa Binh. Họ như thùng thuốc
súng chỉ cần một mồi lửa là bùng nổ như sấm sét không kịp bưng tai, như cuồng
phong cuốn phăng đi mọi chướng ngại. Họ đã biết được giá trị của đạo biết rằng
đây chính là phương thuốc hòa bình... những ngày chung lưng xây cật xây dựng
nên mối đạo đã giúp cho họ thấy điều rất rõ ràng và giản dị rằng: đạo là
hiện tại là tương lai của họ, con cháu họ và nhân loại.
Nhân tâm đã vậy
thì đâu còn ngại gì khó khăn, họ tự nguyện hy sinh coi đó như khoản đầu tư cho
hiện tại và tương lai nên hợp tác với số chức sắc còn lại quyết chí đòi lại
Giáo Chủ từ tay thực dân Pháp.
Kết quả là ngày
09-03-1945 Nội Ứng Nghĩa Binh đảo chánh Pháp.
Những diễn biến
tiếp theo sau khi Nhựt bị bom nguyên tử đầu hàng đồng minh vô điều kiện... sau
đó Pháp trở lại Đông Dương và thấy được sự sức mạnh của nhơn sanh. Họ đủ khôn
ngoam để nhận định rằng nếu không trả Giáo Chủ lại cho người đạo Cao Đài thì
rất nguy hiểm nên họ chấp nhận đem Đức Hộ Pháp từ Madagascar về Tòa Thánh.
Trọng tâm của
vấn đề là đưa ra chứng cứ để trình chánh về hiệu quả của công thức dân mạnh,
lập quyền dân đắc nhân tâm như thế nào nên chúng tôi không đi sâu vào các sự
kiện quan trọng khác.
b/- 1979 đến 2014....và đủ sức đến ngày thành công.
Công thức: Nước giàu dân mạnh và lập quyền dân được ĐĐTKPĐ thực thi và
đã thành công. Người tín đồ ĐĐTKPĐ hành xữ theo pháp luật đạo chớ không theo
một vị chức sắc nào hết. Trong ĐĐTKPĐ có cơ chế cho người tín đồ thể hiện quyền
của mình lên từng vị chức sắc mỗi khi họ thăng phẩm và giám sát với đầy đủ
quyền hành.
Đạo khai năm 1926 và rất nghèo vậy mà Đạo xây dựng nên cơ ngơi khang
trang, rộng rãi trong nội ô Tòa Thánh. Song song với đó là thực thi phương án
nâng cao dân đức, dân trí và dân sinh qua 05 chương trình: gia cư, mưu sinh,
giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo đều xuất phát từ công thức dân mạnh mà ra.
Thượng tầng giữ vai trò bộ não nên đề xuất và hướng dẫn. Hạ Tầng (nhơn sanh) là
sức mạnh để thực thi và kiểm soát nên hiệu quả rất cao và chắc chắn. Bộ não
tinh anh hiệp với sức mạnh nhơn sanh để thực hiện 03 điều và 05 điểm làm cho
vùng đất hoang vu hẻo lánh thành nơi thị tứ, văn minh. Châu Thành Thánh Địa có
những nếp sống văn hóa rất đẹp mà không nơi nào trên thế giới nầy sánh kịp:
. Tập trung số người ăn chay nhiều nhất trên thế giới.
. Tinh thần nghĩa hiệp không nơi nào sánh kịp. Nhìn vào một đám tang
của người đạo từ A đến Z ta thấy rất trang nghiêm, rất thân thiết và được tiến
hành trong tinh thần công quả hoàn toàn.
Chánh phủ Việt Nam hiện nay cấm không cho Hội Thánh ĐĐTKPĐ được sinh
hoạt tôn giáo. Buộc chức sắc phải về nhà không được hành đạo. Từ năm 1979 đến
nay Hội Thánh không cầm quyền hành chánh tôn giáo. Trong 34 năm đã qua đa số
chức sắc đã tạ thế. Một số khác chạy theo chánh phủ để lập ra chi phái. Chánh
phủ muốn dùng chi phái để tiêu diệt ĐĐTKPĐ.
Trong hoàn cảnh khó khăn đến vậy mà Tín đồ vẫn đứng vững và đủ quyền
vạch trần những âm mưu, những thủ đoạn của tà quyền. Tín đồ vẫn hiên ngang đối
đầu với chánh quyền và chi phái chính là nhờ sự hiểu biết của nhơn sanh. Chánh
quyền và chi phái có đầy đủ phương tiện để đàn áp, hành hạ và giam giữ nhơn
sanh nhưng khi đối mặt là họ đuối lý và chạy dài. Bởi sự hiểu biết của nhơn
sanh về chánh giáo rất có căn bản và có chiều sâu. Từ sự hiểu biết như vậy nên
Tín đồ trong và ngoài nước đủ quyền lập ra những trang web, những văn bút để
thể hiện sức mạnh của nhơn sanh trên bước đường bảo tồn và phát triễn chơn
truyền chánh giáo. Họ đã được lập quyền nên mạnh mẽ và đủ tự tin đến trụ sở
Liên Hiệp Quốc để trình bày về mưu toan tiêu diệt ĐĐTKPĐ của cộng sản.
Quyền lực của
nhơn sanh trong tôn giáo chính là phát minh mới của ĐĐTKPĐ cống hiến cho nhân
loại.
Nhờ có quyền hành nên nhơn sanh (dân trong tôn giáo) mới đủ sức mạnh và
thao lược đối phó với tà quyền trong cơn đại biến. Công thức dân mạnh đã được
thực hành và phát huy tác dụng trong tôn giáo lúc bình thường và khi ngộ biến
cực kỳ hiệu quả.
Bốn tôn giáo lớn ở miền Nam là Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hòa Hảo và
ĐĐTKPĐ sau ngày 30-4-1975 bị chánh quyền cộng sản triệt phá bằng nhiều cách. Dĩ
nhiên người trong tôn giáo muốn bảo vệ chân truyền chánh giáo của mình phải
tranh đấu chống lại tà quyền. Ba tôn giáo Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hòa Hão
đều do những vị chức sắc cao cấp trong tôn giáo đứng mũi chịu sào cho cuộc đấu
tranh vì chính nghĩa. ĐĐTKPĐ chức sắc, chức việc, nhơn sanh căn cứ vào văn bản
của chánh giáo chơn truyền đấu tranh trực diện với cộng sản và họ chịu thua nên
lập ra chi phái Hội Đồng Chưởng Quản năm 1997 tại Nội Ô Tòa Thánh. Báo Xa Lộ Pháp
Luật số 36 ra ngày 17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết:
...Hiện
nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao
Đài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
Đó chính là hiệu quả của công thức dân mạnh.
Công thức đã thực thi cho một tổ chức được thì thực thi cho một quốc
gia được. Thực thi cho một quốc gia được thì nhiều quốc gia khác cũng thực thi
được. Cuối cùng là dân chúng cả thế giới đều thực thi dân mạnh. Khi đó thế giới
sẽ có nền hòa bình vĩnh viễn mà Thượng Đế hứa ban cho loài người.
4.2/- Cho dân tộc Việt Nam.
Chứng cớ từ lịch
sử dân tộc ta là cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên. Triều đình muốn dân mạnh
nên mở Hội Nghị Diên Hồng để hỏi ý dân xem trước họa xâm lăng của giặc Nguyên
Mông nên hòa hay nên đánh. Dân trả lời: ĐÁNH. Do vậy mới có chiến công oanh
liệt của nhà Trần trước kẻ xâm lăng mạnh hơn nhiều lần.
Dân mạnh thì
Tổng Bí Thư không dám đưa chuyện Đường Tăng thỉnh kinh còn phải hối lộ nơi đất
Phật ra để biện minh cho tham nhũng.
Dân mạnh thì Chủ
Tịch nước Trương Tấn Sang phải chỉ đích danh kẻ tham nhũng chớ không thể gọi
là đồng chí X.
Dân mạnh thì ông
Nguyễn Sinh Hùng không thể nói: Kỷ luật hết những người làm sai thì người đâu
mà làm việc.
Dân mạnh thì Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng không thể tại vị sau hằng loạt tham nhũng như PMU 18,
Vinashin, Vinalines...
Dân mạnh mà
chánh phủ để xăng tăng, điện tăng, gas tăng... mà lương không tăng thì họ xô
ngã liền.
Dân mạnh thì xã
hội không nhiều tiến sĩ dõm như ngày nay.
Dân Mạnh thì Đại
Sứ Nguyễn Thế Cường ở Thổ Nhĩ Kỳ không dám làm mất thể diện quốc gia bằng cách
cầm 20.000 euro vào nước Đức rồi bị nghi là rữa tiền ngày 22-12-2013.
Dân mạnh thì
không có việc bệnh viện liên kết với các công ty dược phẩm nâng giá thuốc. Dân
mạnh thì báo Đại Đoàn Kết không dám ra 02 số trong cùng một ngày, cùng đánh một
số thứ tự mà nội dung khác nhau... Dân mạnh thì không quan chức nào dám đọc câu
thần chú: Chờ điều tra xong sai đến đâu
xữ lý đến đó. Cũng không có chuyện: Lực
lượng chúng tôi còn mỏng nên mới không biết thực phẩm độc hại đang tràn lan
hủy hoại của sức khỏe xã hội, đe dọa tương lai nòi giống bằng đủ thứ sản phẩm
bẩn từ trong nước và ngoại nhập.
Dân đã mạnh lên
nên trước áp lực của dân Đảng phải để
cho Dương Chí Dũng chủ tịch tập toàn Vinalines khai rằng đã hối lộ cho Thứ
Trưởng công an Phạm Quý Ngọ 500.000 ngàn USD và tập đoàn Vạn Thịnh Phát ở Sài
gòn đã nhờ y hối lộ cho ông Ngọ 1.000.000 USD. Việc hối lộ một triệu USD nầy có
cả Bộ Trưởng Bộ Công An Trần Đại Quang dính vào.
Tóm lại: Ngay
như nước Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Nhật... là những siêu cường quốc về kinh tế mà vẫn
có một phần lớn dân chúng không giàu. Vĩnh viễn sẽ có tỷ lệ rất lớn người dân
không giàu.
Chính phủ độc
tài đưa ra công thức dân giàu là để lừa phỉnh người dân. Chúng ta cần làm rõ và
thực thi công thức dân mạnh.
Dân là gốc của nước.
Dân mạnh thì nước giàu có cả về vật chất lẫn
tinh thần. Giải quyết được bài toán gốc là giải quyết được cái ngọn.
4.3/- Trên phạm vi toàn cầu.
Quan sát cuộc
sống của người dân ở các vùng biên giới 02 quốc gia khác nhau chúng ta thấy họ
rất thân thiện nhau. Họ sống hòa thuận với nhau, khi hữu sự họ vẫn chia vui,
chia buồn với nhau. Buôn bán ở biên giới cũng rất bình thường. Con chó bên đây
chạy qua, con gà bên kia chạy lại. Tiếng gà bên đây gáy trong buổi trưa hay lúc
sang canh bên kia cũng nghe và họ đều chia xẽ với nhau. Dân bên đây có cưới gã,
mời dân bên kia chén tạc chén thù là một sự thật. Ai có đến sống chung với họ
hay tìm hiểu thì biết. Họ sống thân thiện với nhau theo tình ý tự nhiên của tạo
hóa. Tạo hóa tạo ra đất đai, sông núi làm môi trường sống cho nhân loại chớ đâu
phải tạo ra để chia cắt nhân loại. Tạo hóa ban cho để sống các nhà chính trị
mới phân chia nhiều loại đất để đánh thuế. Tiền thuế đó dùng để tạo ra bạo lực
đàn áp lại dân hay gây chiến tranh với nước khác và đẩy dân vào chổ chết.
Chánh trị xen
vào thúc đẩy họ ghét lẫn nhau. Việc xâm lấn về đất đai hay những quyền lợi khác
trên phạm vi quốc gia do chánh phủ điều hành 02 quốc gia tạo ra những ngôn luận
bất hòa rồi lôi cuốn người dân vào đó để sanh ra sự ghét lẫn, khinh khi và đi
đến thù hận cuối cùng là tìm cách giết nhau. Các nhà chánh trị là thủ phạm đẩy
dân chúng giết nhau để họ mặc cả quyền lợi.
Trong lịch sử La
Mã hoàng đế Néro đốt thành La Mã rồi đổ thừa cho người theo Đạo Thiên Chúa và
đem hàng ngàn người công giáo ra giết với những hình thức dã man.
Việt Nam ngày 01-12-1952 Thiếu
Tướng Bondis Tổng Tư Lệnh Quân Đội thực dân Pháp tại Nam Phần Việt Nam gởi thư
mật đến Tổng Đốc Toàn Quyền Gautier đề nghị ám sát Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
rồi đổ thừa lực lượng khác như người Anh tổ chức giết Gandhi... để gây chia rẽ
và thù hận trong cộng đồng...
Trong cuộc chiến tranh nồi da xáo
thịt từ 1954 đến 1975. Người Mỹ từng dựng đứng ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ để đánh
bom miền Bắc. Mấy ngàn người dân vô tội ở Huế bị cộng sản giết trong tết Mậu
Thân năm 1968 rồi đổ thừa Việt Nam Cộng Hòa còn rành rành ra đó. Tạo ra mâu
thuẫn NGAO, SÒ, ỐC, HẾN là nghề của quan chức xưa nay.
Chánh quyền từng
làm những chuyện tày đình như vậy thì chuyện giết dân của họ rồi đổ thừa là do
nước láng giềng, tạo cớ để gây thù hận trong dân chúng hai nước cũng là điều dễ
hiểu.
Người dân bao
giờ cũng muốn an cư lạc nghiệp, chẳng có người dân nước nào muốn có chiến
tranh. Bởi vì có chiến tranh thì dân là tầng lớp bị thiệt thòi nhất. Chồng vợ
lìa xa, cha con xa cách, ruộng vườn hoang phế... không một người dân nào muốn.
Vậy thì vì sao
lịch sử nhân loại gắn liền với chiến tranh và bạo lực?
Bởi vì người dân
bị tầng lớp thống trị kết hợp với trí thức lưu manh gạt gẫm. Dân bị đầu độc rồi
thành nạn nhân của triều đình hay chế độ. Thượng tầng đã kiến trúc để biến
người dân thành công cụ phục vụ cho tham vọng bất chánh của họ.
Họ có quyền và
dùng chánh sách ngu dân để lừa dân vào chổ chết hầu tạo ngôi vị cho họ. Họ mang
quân đến xâm lăng nước khác để mở rộng biên cương và cướp bóc. Dân bị họ lừa
phỉnh bằng những mỹ từ rồi đem cái chết ra trả giá cho sự lầm lẫn của mình.
Càng ra sức phụng sự cho chánh quyền đi xâm lăng nước khác là làm cho gánh nặng
của dân nặng lên chớ dân được hưởng gì trong những cuộc xâm lăng đó.
Dân dưới phép
tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
(Ngụ Đời).
Lớp thì chết
trên chiến trường, lớp thì tàn tật về sống nhờ người thân chớ chánh quyền nào
lo cho xuễ. Họ có đủ cách để xô dân vào cảnh bất hạnh chớ đâu đủ sức bù đấp nổi
bất hạnh do chính họ gây ra.
Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc mỡ dành làng ăn.
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc mỡ dành làng ăn.
(Ngụ Đời)
Nếu người dân có được sự hiểu biết thì họ không bị gạt nữa. Họ biết họ
có những quyền gì và thể hiện như thế nào thì họ mạnh lên. Tự họ sẽ thanh toán
những chế độ độc tài đã thực hiện chánh sách bần cùng hóa để ngu dân và xây
dựng tương lai.
Dân từng nước mạnh lên thì chiến tranh giữa hai quốc gia rất khó xãy
ra. Người dân không chịu chết cho tham vọng bất chánh của chánh quyền của chế
độ nữa thì lửa chiến tranh sẽ dần dần tàn lụi và lui hẳn vào dĩ vãng. Một địa cầu mới sẽ mọc lên... Chánh quyền
nào không đáp ứng nguyện vọng hòa bình họ sẽ xô xuống.
Những vấn đề biên giới Việt Nam với Campuchia; Việt Nam với Lào; Việt
Nam với Trung Quốc sẽ được chính người dân đứng ra có ý kiến để chánh quyền
phải căn cứ vào đó mà giải quyết.
Hoàng Sa, Trường Sa sẽ được nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc
buộc chánh phủ hai nước giải quyết theo công bình chánh phủ nào không đáp ứng
họ xô xuống.
Ý dân là ý trời. Mà
Thượng Đế lòng lành nên lòng dân cũng lành. Tính
bản thiện trong mỗi người thức dậy thì tinh thần hòa bình nẫy nở và cảnh sống
chung sẽ không còn chiến đấu và tranh chấp.
Chúng tôi cũng tin tưởng và mơ ước như Nhạc sĩ Bảo Thu từng mơ ước
trong bài hát Cho Tôi Được Một Lần: ...Cho tôi được một lần nhìn quê hương
ngời sáng. Một lần nhận nghĩa sống lên ngôi. Người người cùng chung vui một
lối. Đời thôi không lừa dối vì đã yêu thương rồi./.
Tình thương yêu chính là điều kỳ diệu, là phép mầu nhiệm mà tạo hóa đã
ban cho con người. Phép mầu nhiệm nầy bị đánh cắp và đánh tráo mà không hay nên
con người phải chịu u mê trong vòng ghét lẫn làm tôi tớ cho đau khổ, buồn sầu.
Phép mầu bị đánh cấp bằng cách nào?
Phép mầu bị đánh cấp bằng nền giáo dục của tà giáo. Nó dạy con người
tranh đấu với nhau bằng đủ hình thức như: khinh khi nhau, ghét nhau, thù hận
nhau rồi đi đến giết nhau... từ tấm bé đã dạy rằng: ...đường vinh quang xây
xác quân thù... là dạy cho trẻ thơ khát máu, giết người không gớm tay. Các
nhà tôn giáo kêu gọi con người phải thương yêu và công bằng với nhau chính là
nhắc nhỡ con người nắm lấy phép mầu của mỗi người để đem hạnh phúc cho mình và
tha nhân.
Con người là sản phẩm của giáo dục, thì nền giáo dục chân chính phải
dạy cho đứa trẻ biết yêu thương ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Người xưa gọi đó
là thời kỳ thai giáo. Nhân cách con người đã hình thành ngay từ đó. Bậc làm cha
mẹ biết dạy con mình thương yêu qua thai giáo đó là đã trao phép mầu cho nó
vậy.
Trên đây là luận về ý nghĩa và thực tế của công thức.
Nhưng nếu luận ý nghĩa và chỉ ra thành quả mà không trình chánh được
cách thức thực thi thì công thức cũng chỉ là bánh vẽ. Nói cho vui, nhìn để ao
ước chớ chẳng thể no lòng. Bánh vẽ là chuyện của bọn bất nhân thất đức còn
Thượng Đế lòng lành. Ngài đã hứa với tổ tiên loài người là ban hòa bình cho
nhân loại thì Ngài chỉ dẫn từ A đến Z không dấu diếm điều gì (...thời kỳ dấu diếm thiên thơ đã qua rồi...).
Muốn dân mạnh thì phải LẬP QUYỀN DÂN.
Làm sao để thực hành việc
Lập Quyền Dân?
Chúng tôi xin trình bày trong phần tiếp theo.
@@@
...Ngày nào
còn tồn tại một lẽ bất công nơi mặt thế nầy thì Đạo Cao Đài chưa thành Đạo...
|
@@@
II/- PHƯƠNG THỨC
LẬP QUYỀN DÂN.
“Khởi nguồn từ Hiến Pháp và có cơ chế rõ ràng”.
Chúng tôi xin
thưa rằng cơ chế Lập Quyền Dân đã được thực thi trong tôn giáo từ đầu. Năm 1956
Đức Hộ Pháp đưa công thức Lập Quyền Dân vào Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống. Nhờ
vậy nên chúng tôi mới đủ điều kiện trình chánh tôn giáo áp dụng cụ thể thế nào
để quí vị tham khảo. Phần ứng dụng để xây dựng cho Việt Nam chúng tôi sẽ có ý
kiến đề xuất ở thiên thứ tư.
Vấn đề là muốn dân mạnh phải LẬP QUYỀN DÂN.
Chúng tôi xin cố
gắng tổng hợp và trình chánh theo tinh thần khoa học. Nếu có chỗ nào không rõ
là do khả năng bị giới hạn xin quí vị vui lòng chỉ giáo qua email: thanh.minh96@yahoo.com chúng tôi rất
cảm ơn.
Thiễn nghĩ Lập
Quyền Dân cần có 02 điều kiện:
. Khởi nguồn từ
hiến pháp.
. Thiết lập cơ
chế rõ ràng.
@@@
TIẾT MỘT:
KHỞI TỪ HIẾN PHÁP.
Trong ĐĐTKPĐ
Pháp Chánh Truyền có vị trí quan trọng như hiến pháp của một quốc gia. Để tiện
bề nhận xét chúng tôi gọi là hiến pháp.
Điều cần nói rõ
nữa là chúng tôi chỉ trình bày hiến pháp của hành pháp (vì đây là phần quan
trọng nhất) đáp ứng cho trọng tâm của đề tài. Nghĩa là giới thiệu phần có thể
áp dụng cho hiến pháp quốc gia chớ không trình bày hết hiến pháp của đạo e rằng
làm cho quí vị ngoài tôn giáo khó theo dõi (đường lớn nhiều ngõ mất dê).
Trọng tâm cuốn
sách là trình bày những điều tôn giáo đã áp dụng để xây dựng một quốc gia Cao
Đài trong xã hội từ đó ứng dụng được gì cho xã hội (không thiên về giáo lý).
Phần khởi từ
Hiến Pháp xin trình bày 02 điểm chính: nhân sự hành chánh và phân cấp hành
chánh (trung ương, địa phương).
@@@
1/- Nhân sự trong bộ máy hành pháp.
ĐĐTKPĐ phân biệt
rõ pháp và luật. Pháp đứng trên luật, luật phải tùng theo pháp. Hành chánh là
làm theo qui định có sẳn bằng văn bản chớ không thể tự ý ra văn bản luật. Có
quyền ra văn bản giải thích, nhưng nếu giải thích trái luật thì văn bản đó bị
hủy bỏ. Người ra văn bản bị phạt...
Hiến pháp là căn
bản nhất và cao nhất tất cả các luật, đạo luật, nghị định... đều tùng theo hiến
pháp.
Hiến pháp có
những đặc điểm lớn như sau:
1.1/- Nghiêm cấm sửa đổi trong mọi
trường hợp (Hiến pháp thành văn và cương tánh).
1.2/- Hiến pháp ngắn, gọn để dân hiểu
được đại thể. Điều nào trong hiến pháp cần làm rõ do liên quan đến phần khác,
ngành khác hay mở rộng thì ghi: CHÚ GIẢI và nội dung chú giải đi liền theo điều
luật đó.
1.3/- Những qui
định trong hiến pháp thì đương nhiên có giá trị thi hành, không cần chờ luật
hay nghị định nào hướng dẫn. Không một điều luật nào được quyền cản trở việc
thi hành hiến pháp, hay có nội dung trái với hiến pháp. Văn từ rõ ràng, không
gây ra lầm lẫn.
1.4/- Qui định
rõ có bao nhiêu bậc phẩm trong bộ máy hành chánh.
1.5/- Nhiệm vụ mỗi bậc phẩm là gì. Hành sự ở đâu.
1.6/- Mỗi bậc
phẩm có bao nhiêu người.
1.7/- Đạo phục
các bậc phẩm.
1.8/- Điều kiện
thăng phẩm (phải do vạn linh công cử).
1.9/- Pháp là
công bằng, Luật là thương yêu, Quyền là công chánh. Công bằng, thương yêu và
công chánh mới lập quyền dân, xác định rõ ràng quyền của chức sắc hay bộ máy
cai trị. Luật đạo rất dễ hiểu và có nơi chịu trách nhiệm rõ ràng.
@@@
2/- Phân cấp hành chánh.
Quan trọng nhất
là ngành hành pháp thì ngành nầy phải định rõ được bộ máy công quyền cấp trung
ương (thượng tầng) và địa phương (hạ tầng). Hành chánh theo nguyên tắc PHÂN
QUYỀN, quyền hạn và trách nhiệm Trung Ương thế nào thì địa phương thế đó trong
địa phận được giao. Trên không lấn dưới, dưới không phạm trên và chỉ được quyền
hành chánh trong địa phận được giao.
Có 05 cấp hành
chánh: Trung Ương, Trấn Đạo (nhiều Tỉnh), Châu Đạo (Tỉnh), Tộc Đạo (Quận) và
Hương Đạo (Xã).
Nhân sự đứng đầu
từ Tộc Đạo trở lên là chức sắc. Chức sắc chịu sự thuyên bổ của Hội Thánh.
Cấp Hương Đạo do
chức việc điều hành. Chức việc do địa phương tự bầu và hành chánh tại địa
phương đó theo qui định. Hội Thánh ra Đạo Cấp công nhận.
Mối liên quan về
tổ chức và nhân sự qui định rõ khi hành sự để khi vướng mắc thì xác định ngay
chổ khó để tháo gở cũng như xác định trách nhiệm không chối qua, chối lại.
Đây là đại nét
để bài viết có cấu trúc liền lạc đến thiên thứ ba chúng tôi sẽ trình bày bộ máy
hành chánh chi tiết hơn.
3/- Nhận định chung.
Hiến pháp và
pháp luật nói chung phải rõ ràng và DỄ HIỂU để người dân biết. Dân biết thì dân
mới kiểm tra từ cái gốc xem có đúng hay không? Coi người thực thi pháp luật có
làm đúng hay không? Ra văn bản pháp luật rối rắm, bí hiểm rồi phải giải
thích... là điều tối kỵ. Chính quyền ra văn bản pháp luật như đánh đố làm cho
người dân tối tăm mù mịt không hiểu được là muốn làm cho dân dốt, là thực thi
chánh sách ngu dân. Là tạo ra thời BĨ.
Dân hiểu biết
pháp luật thì họ có đủ tự tin trước chánh quyền, dân không quì gối trước chánh
quyền. Dân hiểu biết để không phạm luật, không phạm đến chánh quyền. Chánh
quyền muốn ban hành văn bản tước đoạt quyền của dân hay ngang nhiên tước đoạt
cũng không được. Chánh quyền có quyền của chánh quyền, dân có quyền của dân,
hai bên đều hiểu và tôn trọng quyền hạn của nhau để chung lưng đâu cật xây dựng
xã hội đó là tượng của quẻ THÁI trong kinh dịch.
Thời Bĩ hay Thái
là do chính con người tạo ra. Bộ não thật lòng thương dân yêu nước sẽ tạo ra
thời THÁI bằng quyết sách từ đầu. Quyết sách đúng thì dân thấy có họ trong đó,
làm đây là làm cho họ và con cháu họ. Người nghèo khổ, người bị áp bức, yếu
hèn, dốt nát cũng thấy con đường nầy sẽ giúp họ ra khỏi cảnh tối tăm, đem đến
tương lai tươi sáng thì chính họ là sức
mạnh để thực hiện. Nói cho cùng nước họ có hy sinh đi nữa thì họ cũng vui mà hy
sinh cho đại nghĩa. Sự hy sinh của họ sẽ đem lại tương lai chắc chắn và tươi
sáng thì sự hy sinh ấy họ cũng vui làm. Ngay thế cờ đầu tiên đã thể hiện ra
được đại thế đi đến cảnh thái bình thịnh vượng thì dân TỰ NGUYỆN thực thi để
xoay trở càn khôn từ BĨ sang THÁI.
Những cá nhân
hay đảng phái dùng chiêu bài ái quốc để hy sinh tài sản, quyền hạn và tính mạng
người dân, với khẩu hiệu cách mạng cần hy sinh nầy nọ rồi đem súng ống, lưỡi
lê, mã tấu ép buộc dân phải theo đều là tà đạo, là đại ác. Họ có thể nhất thời
thành công bằng vũ lực nhưng sau đó sẽ tiêu vong. Vũ lực, dối trá có thể chiếm
được chính quyền nhưng nó không đủ để đem lại hạnh phúc cho dân chúng nên nó sẽ
bị tẩy chay. Thời phong kiến những bậc thức giả đã nhận định rằng: có thể ngồi
trên lưng ngựa để thâu chiếm đất đai, nhưng không thể ngồi trên lưng ngựa để
trị vì thiên hạ. Phương Tây cũng nhận xét rằng: Vũ lực không thể chinh phục
được lòng người. Lưỡi gươm sẽ bị khuất phục bởi lòng nhân ái.
Mao Trạch Đông
chủ trương súng tạo ra chánh quyền và thực hiện cách mạng cộng sản Trung Quốc
theo đường lối đó, cộng sản Việt Nam cũng bắt chước y như vậy. Chúng tôi tin
chắc rằng họ sẽ sụp đổ và tiêu vong. Chính họ đã tạo ra thời BĨ thì dân còn
trông mong gì được hưởng thái bình? Và kết quả là cái BĨ sẽ đến với kẻ tạo ra
nó.
Hiến Pháp là
luật căn bản nhất của một quốc gia pháp quyền mà người dân không biết nội dung
hiến pháp có gì trong đó thì nói dân chủ là nói dối dân. Dân không biết hiến pháp hay pháp luật qui định thế nào thì làm chủ cái
nổi gì? Dân chủ không có thì đừng mong gì dân mạnh. Pháp luật như rừng là
cố ý ngu dân, đẩy dân vào đường dốt và bần cùng hóa để dễ dàng thống trị bằng
luật rừng mà thôi.
@@@
Gánh đời đã tự
cất lên vai,
Trau chuốt sao cho đủ trí tài. Tấn thối dè chừng mưu kế hiểm, Thiệt hư gìn nhẹm chước phương hay. Dụng quyền hơn Đức quyền tan nát, Tạo thế kém nhân thế đọa đày. Ví biết giống nòi đương thống khổ, Trở đương cho vẹn phận làm trai. |
@@@
TIẾT HAI:
CƠ CHẾ 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH.
Ba Hội Lập Quyền
Vạn Linh trong ĐĐTKPĐ là: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.
Chúng tôi xin
trình bày chủ yếu là Hội Nhơn Sanh là phần chính yếu nhất để Lập Quyền Nhơn
Sanh trong tôn giáo. Luật liên quan đến Đại Hội Nhơn Sanh có 02 phần: Luật Lệ
Chung Các Hội và Nội Luật Hội Nhơn Sanh. Chúng tôi cũng chỉ chọn giới thiệu
những điều thật cần thiết để hiểu được quyền và cách lập quyền nhơn sanh.
Nhơn Sanh là
phần đông nhất trong tôn giáo tương ứng với dân trong quốc gia nên trong đề tài
nầy nhơn sanh và dân xin được hiểu là một. Khi trích dẫn xong từng điều nếu
thấy chữ PHÂN TÍCH, chữ nghiêng và trong
khuôn thì đó là phần nhận xét của chúng tôi.
@@@
PHẦN MỘT:
Luật Lệ Chung Các Hội.
Ban hành ngày
22-12-1934.
Chủ yếu là giới
thiệu những điều cần thiết để hiểu về cách thức sinh hoạt Đại Hội Nhơn Sanh.
Ðiều Thứ Nhì: Mở Hội.
... Nghị trưởng
mở hội bảo Từ Hàng đọc tờ vi bằng nhóm kỳ trước.
Thoãn như cả
Nghị viên có đọc tờ vi bằng ấy rồi thì Nghị trưởng hỏi Nghị viên tờ vi bằng ấy
đặt ra có y theo lời đã bàn định chăng và cả Nghị viên đều công nhận hết
chăng?.
Nếu có điều chi
mà cả Hội định phải sửa đổi vì không y theo lời đã bàn định thì Nghị trưởng cho
lịnh Từ hàng lập tức sửa lại liền và cho biết luôn sự kết quả các lời bàn định
trong tờ vi bằng ấy.
Kế đó đem các
vấn đề trong chương trình bửa nhóm mà bàn định.
Ðiều Thứ Ba: Phận sự Nghị trưởng.
... Nghị trưởng
khi xướng đề ra nói rành rẽ cho chư Nghị viên thông hiểu rồi để cho Nghị viên tự do bàn luận chẳng
nên cải lẫy điều chi với Nghị viên và chờ khi bàn cải rồi thì kết luận
những ý kiến của chư Nghị viên và cho hiểu rõ mà công nhận hay là huỷ bỏ.
PHÂN TÍCH: Luật định rõ Nghị trưởng
thiên về điều hành mà chẳng nên cãi lẫy... Điều nầy cốt tránh sự lạm quyền
của Nghị Trưởng...
chúng ta sẽ thấy quyền càng cao thì
càng phải bị YẾU, càng nhỏ nhoi thì càng mạnh
|
Ðiều Thứ Sáu: Cách bỏ thăm.
Việc bỏ thăm có
hai cách:
a- Khi việc cần
yếu trọng hệ thì phải bỏ thăm kín.
b- Khi việc
thường thì bỏ thăm dơ tay.
Những việc chi
bàn tính nếu được phân nữa số thăm của cả Nghị viên hiện diện thêm một lá nữa
thì việc ấy được công nhận. Thoản như số thăm đồng nhau Nghị trưởng bỏ thăm bên
nào thì lời bàn định bên ấy được công nhận. Nếu một phần năm (1/5) Nghị viên
hiện diện xin bỏ thăm kín thì Nghị trưởng cho lịnh y theo.
PHÂN TÍCH: Luật định bỏ thăm quá bán
là xong. Nghị trưởng không có quyền bỏ thăm. Chỉ khi nào số thăm hai bên bằng
nhau thì Nghị Trưởng mới bỏ thăm. Qui định như vậy chỉ bỏ thăm một lần là
xong.
(Nghị Trưởng chỉ có một nữa quyền bỏ
thăm so với nghị viên. Trên hành tinh nầy chúng tôi thật tình mới biết đây là
lần thứ nhứt).
Chúng tôi tin rằng điều nầy và tinh
thần nầy rất nên áp dụng cho mọi tổ chức hay xã hội để lập quyền cho dân.
|
Ðiều Thứ Bảy: Số Nghị viên.
Kỳ nhóm lệ: Dầu
số Nghị viên hiện diện bao nhiêu hội cũng cứ nhóm và lời bàn định cũng có giá
trị như khi nhóm đều đủ vậy.
Kỳ nhóm ngoại
lệ: Số Nghị viên phải được phân nữa cái số chung và thêm một vị nữa nếu chẳng
đủ số định trên đây thì Nghị trưởng đình lại và cho Quyền Chí Tôn hay hoặc là
huỷ bỏ quyền hội hay là trừng trị cách nào tuỳ ý. Còn Hội cũng cứ việc hội như
số Hội viên đều đủ.
PHÂN TÍCH: Nghị viên vắng mặt bao nhiêu đi nữa thì
Hội vẫn tiến hành và có đầy đủ giá trị. Những người vắng vô cớ có thể bị hủy
bỏ quyền hội trong cả nhiệm kỳ vì phế phận. Điều nầy triệt tiêu việc tẩy chay
bằng cách không hội (thể hiện sự vô trách nhiệm). Hội cho quyền bàn luận tại
sao không đến bàn luận mà tẩy chay?
Quốc hội một số nước bị bế tắc khi không đủ số
người họp là cực kỳ vô lý, vì xã hội đã giao nhiệm vụ cho nghị viên đi họp để
bàn luận ý mình ra sao thì cứ đến đó trình bày. Cớ sao không đến mà vẫn ăn
lương của dân??? Nguyên do là dân chưa được lập quyền nên mới như vậy.
|
Ðiều Thứ Tám: Những việc Nghị viên muốn đem ra hội.
Nghị viên nào
muốn xin canh cải, thêm bớt huỷ bỏ điều chi trong Luật đạo hoặc nói khác xin
hạch hỏi, kích trách tại giữa hội thì phải gởi tờ xin trước ngày nhóm y theo
hạng lệ đã định trong nội luật mỗi Hội nhóm.
PHÂN TÍCH: Luật cho phép bàn luận mọi
công việc trong tôn giáo. Nghị viên muốn trình bày chi tiết thì cứ báo Hội sẽ
bố trí cho trình bày; không ai đặng phép từ chối quyền trình bày theo điều 08
định. Đó là thể hiện việc lập quyền cho dân rất cụ thể. Đến phần nội luật Hội
Nhơn Sanh (Điều thứ tư) chúng ta sẽ thấy nội dung cụ thể nó rộng rãi và rõ
ràng như thế nào.
|
Ðiều Thứ Chín: Quyền bàn tính.
Mỗi khi muốn nói
phải đưa tay xin phép rồi chờ Nghị trưởng phân theo thứ tự cho phép mới được
nói. Chừng được phép nói, khi nhóm Ðại Hội nếu số Nghị viên trên hai mươi người
thì phải đứng dậy nói. Trong một cái vấn đề đem ra bàn luận thì Nghị viên được
phép nói ba lần mà thôi, mỗi lần chẳng đặng quá 5 phút. Nghị viên nào có xin
trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn xin sửa
cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nữa giờ; khi phải minh triết
thêm nữa thì được nói thêm hai lần nữa, mỗi lần 10 phút đồng hồ.
Khi hai hoặc
nhiều Nghị viên đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho
người chức lớn hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế
cho đến hết người xin một lược.
PHÂN TÍCH. Luật đạo ban hành năm 1934.
Hiến Pháp ngày 01-04-1967 của chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa qui định về diễn tiến các phiên họp như sau:
3. Diễn tiến các phiên họp
Hạ
Nghị viện họp hợp lệ, nếu có
sự hiện diện của quá bán tổng số dân biểu lúc khai mạc. Nếu không đủ túc số,
viện sẽ họp 24 giờ sau, bất luận số dân biểu hiện diện là bao nhiêu.
Nội quy ấn định một
số điều kiện liên hệ đến việc phát biểu ý kiến của dân biểu, và trao một số quyền đặc biệt cho Chủ tọa hầu đảm bảo cho việc thảo luận được hữu
hiệu. Dân biểu phát biểu ý kiến theo thứ tự
ghi tên trước, chỉ được phát
biểu tối đa 3 lần về một vấn đề và
mỗi lần không quá 10 phút, không được
nói ra ngoài đề và công kích cá nhân.
Nếu không ghi tên trước, trong khi thảo luận dân biểu muốn phát biểu ý kiến
phải giơ tay và sau khi có lời mời Chủ tọa, chỉ được phép phát biểu trong 5
phút.
Việc
hạn chế này không áp dụng cho Chủ tịch Ủy ban, Thuyết trình viên và tác giả
đề án. Các vị này có thể lên diễn đàn
bất cứ lúc nào và thời gian phát biểu không hạn chế. Trong khi thảo luận, chủ tọa điều khiển phiên họp có thể cho phép diễn giả nói thêm 2 phút để làm sáng tỏ
vấn đề, nhắc và nếu cần cảnh cáo và mời về chỗ
vị dân biểu nào nói ra ngoài
đề, bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp.
(Theo
Luật Hiến Pháp và Chính Trị Học của GS Nguyễn Văn Bông trang 243 bản pdf).
@@@
Quí
vị đối chiếu rồi phân tích xem qui định luật Đạo (1934) và Đời (1967) điều
nào hay hơn nghĩa là dân sẽ thích hơn???
Chúng tôi nhận thấy Đạo nói sao thì
làm vậy còn Đời thì nói vầy làm khác; việc nầy thể hiện ngay trong luật. Đạo
lập quyền cho tập thể; Đời làm cho nghị viên LÙN LẠI để ông chủ tịch cao hơn.
.đc1/- Quyền của Nghị Trưởng và Chủ
Tịch.
Đạo lấy nhơn sanh làm gốc nên mở rộng
quyền cho cấp dưới mà hạn chế quyền của Nghị Trưởng (Chủ Tịch Hạ Viện). Nên
luật đạo định rõ về Nghị Trưởng: để
cho Nghị viên tự do bàn luận chẳng nên cải lẫy điều chi với Nghị viên
Đời nói lấy dân làm gốc mà khi vào hội
thì ban cho Chủ Tịch quyền muốn nói
lúc nào thì nói và nói không hạn chế thời gian nên qui định: ...Việc hạn chế
này không áp dụng cho Chủ tịch Ủy ban...
Như vậy chỉ cần ông chủ tịch khác ý
với các nghị viên thì ông chủ tịch hoàn toàn chiếm ưu thế. Nghị viên thành
người lùn trước ông chủ tịch cao lêu khêu dễ thấy nên chỉ cần nắm được chủ
tịch...
&&&: Nhìn sâu vào qui định
nầy ta có đủ quyền nhận xét luật mở đường cho hối lộ, tham nhũng. Bởi vì khi
ban cho một người quyền lớn hơn người khác như vậy thì một nhóm nào đó hoàn
toàn có thể tung tiền ra mua chuộc người đó là xong. Còn ban quyền cho tập
thể mà giới hạn quyền người đứng đầu thì xét từ cái gốc nó đã triệt tham
nhũng.
Đời
tạo điều kiện cho tham nhũng xuất hiện rồi lo chống tham nhũng là vô lý là
cấu kết với tham nhũng ngay từ đầu
rồi còn chống cái gì? Nó cũng giống như kêu gọi dân chúng diệt muỗi mà chính
phủ thì nuôi lăng quăng...thật là buồn cười.
Luật đạo định vậy thì bọn lợi ích nhóm
thấy có tung tiền mua được ông chủ tịch cũng chẳng giải quyết được gì. Còn
như mua hơn cả phân nữa các nghị viên thì quá nguy hiểm... tốt hơn hết là tập
trung để cạnh tranh lành mạnh.
.đc2/- Quyền của Thuyết trình viên và
tác giả đề án:
Luật đạo định: Nghị viên nào
có xin trước y theo điều thứ tám đã buộc thì được quyền đem việc mình muốn
xin sửa cải, hoặc mình muốn tra vấn, ra nói một lần trong nửa giờ; khi phải
minh triết thêm nửa thì được nói thêm hai lần nửa, mỗi lần 10 phút đồng hồ.
Luật đời định: Thuyết trình
viên và tác giả đề án. Các vị này có
thể lên diễn đàn bất cứ lúc nào và thời gian phát biểu không hạn chế...
So sánh chúng ta thấy luật đạo buộc
người đưa ra đề án phải chuẩn bị chu đáo và được phát biểu, bảo vệ tổng cộng
trong 50 phút. So với 15 phút của nghị viên khác thì đã hơn 03 lần. Như vậy
mà tác giả không thuyết phục được nghị trường thì chứng tỏ là đề tài không
hay hoặc đức tài anh kém không làm cho người khác hiểu được và chấp thuận...
vậy thì nên về bổ túc thêm chờ phiên sau trình tiếp.
Luật đời cho phép chủ đề án không hạn
chế thời gian phát biểu vậy họ phát biểu hoài rồi cả hội ngồi nghe đến hết
giờ à? Ngày sau anh ta cũng làm tiếp như thế và ngày nào cũng thế VẪN ĐÚNG
LUẬT. Trong lịch sử quốc hội có khi nào xãy ra như vậy chưa? Xin thưa rõ là
đã từng xãy ra ở Anh Quốc. (i)
Còn thuyết trình viên (không phải chủ
đề án) cũng có cái quyền lớn như vậy thì các nghị viên khác còn cái quyền gì
khi thảo luận?
Rõ ràng là các nhà làm luật đời ngay
từ đầu đã cố ý tạo ra tham nhũng bảo sao dân chúng không khổ sở và mất nước.
Trước sau họ cũng chỉ tập trung quyền
hạn cho một nhóm người rồi cấu kết với nhóm có quyền lực là ĐÚNG THEO LUẬT
THAM NHŨNG TỪ GỐC nên Ông Trần Văn Hương mới than: trừ hết tham nhũng lấy ai
làm việc giống y như ông cộng sản Nguyễn Sinh Hùng.
.đc 3/- Quyền ngưng họp.
Luật
đạo: Nếu vị nào làm mất cách lịch sự giữa Hội thì Nghị trưởng rung chuông,
xin vị ấy giử phép lịch sự. Khi Nghị viên đương nói mà nổi giận, làm điều vô
lễ thì Nghị trưởng rung chuông ngăn lại đặng khuyên giải.
Nếu
chẳng khứng nghe thì Nghị trưởng hỏi ý kiến của cả Nghị viên khác, như phần
đông đồng ý kiến thì Nghị trưởng mời ra khỏi hội.
Thoảng
như cường ngạnh thì Nghị trưởng rung chuông ngưng bàn tính chừng 5 phút trở
lại; đệ vị ấy ra ban nội trị; chừng yên rồi thì rung chuông nhóm lại. (Điều
11 LLCCH)
Luật
đời: Trong khi thảo luận, chủ tọa điều
khiển phiên họp có thể cho phép diễn
giả nói thêm 2 phút để làm sáng tỏ
vấn đề, nhắc và nếu cần cảnh cáo và mời về chỗ vị
dân biểu nào nói ra ngoài đề, bất cứ lúc nào cũng có thể tuyên bố tạm
ngưng buổi họp.
Như đã nhận xét rằng luật đời ban
quyền cho cá nhân hay một vài cá nhân quyền rất lớn và rất mơ hồ muốn hiểu
sao cũng được rốt lại là nhằm tước cái quyền của đa số (làm cho đa số lùn
lại) dọn đường cho tham nhũng từ trong trứng nước.
Cái khác biệt giữa đời và đạo ở đây
rất rõ ràng giữa công bằng và mạo danh công bằng để tạo ra bất công và đi đến
cho hỗn loạn:
. Đạo căn cứ vào hành vi: làm mất cách lịch sự; ... đương nói mà
nổi giận, làm điều vô lễ... là
những biểu lộ dễ nhận thấy... vậy mà
Nghị Trưởng chỉ được rung chuông khuyên giải. Nếu không nghe mới hỏi cả hội
xem Nghị Trưởng nhận xét có đúng hay không? Rồi nghị trường cho ý kiến (theo
luật quá bán)... và Nghị Trưởng thi hành ý kiến của nghị trường. Hành vi là điều dễ nhận ra mà luật còn
đề phòng Nghị Trưởng lạm quyền...
Khi phải ngưng hội thì chỉ được ngưng trong 05 phút chớ không đặng lâu hơn.
Nghị Trưởng hoàn toàn không có quyền ngưng vô thời hạn. Đạo theo nguyên tắc tiên giáo hậu trị thì nơi nào,
giai đoạn nào cũng tùng nguyên tắc đó.
. Đời căn cứ vào nội dung phát biểu là cái rất mơ hồ và tùy tiện: ...mời
về chỗ
vị dân biểu nào nói ra ngoài
đề,.
Như thế nào gọi là nói ngoài đề
tài? Nó thuộc về cảm tính của ông Chủ Tịch. Ông không thích thì
bảo nó ngoài đề tài và cảnh cáo mà KHÔNG CẦN HỎI AI thế thì các nghị viên
khác muốn yên thân phải a dua với ông chủ tịch. Nghị viên đã bị tước đoạt
quyền nghị luận và trói buộc đến thế rồi mà còn chưa chắc ăn nên cho phép ông
chủ tịch bất cứ lúc nào
cũng có thể tuyên bố tạm ngưng buổi họp. Luật
đời treo chữ dân chủ mà chạm vào đã thấy độc tài vô lý.
Luật như vậy nhưng cũng không làm rõ
được nếu vị dân biểu đó không phục cứ nói tiếp thì ông chủ tọa làm gì? Chứng
tỏ luật để tạo ngôi vị cho ông chủ tịch chớ không nhằm phục vụ xã hội. Trong
khi Luật đạo thì có sẳn biện pháp.
Thứ nữa nếu có một nhóm lợi ích nào cố
ý phá rối cuộc họp thì họ diễn đi diễn lại màn đó mới tính sao?
Điều nầy cho thấy sự mù mờ từ căn bản
để tạo cảnh đục nước béo cò. Chính họ đã tạo thời BĨ rồi thì dân chúng sống
sao yên.
Đây là một qui định cực kỳ nguy hiểm
một xã hội văn minh hoàn toàn không thể xây dựng luật vô lý như vậy. Qui định
quyền ông chủ tịch như vậy là phản lại văn minh; là dọn đường cho tham nhũng.
Treo chữ dân chủ cho dân thích mà bên trong là độc tài và tham nhũng từ trong
dự tính. Những kiểu nầy sẽ không thể tồn tại.
Luật cũng không qui định ngưng bao lâu
nên ông Chủ tịch có quyền ngưng dài dài mà VẪN ĐÚNG LUẬT. Cả nước phải chịu
LÀM ĂN MÀY chờ ông chủ tịch ban bố ân huệ để mở lại cuộc họp. Họp quốc hội mà
như thế khác nào trao một trò chơi cho ông chủ tịch. Dân chủ gì trong những
qui định bắt dân làm ăn mày như vậy?
Tổ chức nào cũng có thượng tầng và hạ
tầng. Đất nước đang có chiến tranh những chiến sĩ ngày đêm chiến đấu, chịu
gian lao hy sinh xương máu và tính mạng để bảo vệ một thượng tầng như thế thì
họ có cam tâm không? Một thượng tầng bất xứng như thế thật là một tập đoàn
tội ác với xương máu chiến sĩ và đồng bào. Mượn tiếng yêu nước để tham nhũng.
Dân
Việt thật là bất phước một đàng thì cộng sản như dịch hạch một đàng thì tiếng
là quốc gia tự do mà cái thượng tầng bên trên thối nát. Chính những qui định phản dân chủ như thế nầy là
phản lại xương máu chiến sĩ, phản lại lý tưởng tự do dân chủ, là góp phần
dâng miền Nam cho cộng sản.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trách người Mỹ cắt viện trợ, bán đứng
VNCH một thì phải trách thượng tầng VNCH đến trăm nghìn lần. Từ 1956
Mỹ đã đổ viện trợ cho miền Nam đến 1971 Mỹ mới giảm viện trợ. Trong 15 năm đó
nếu VNCH có một thượng tầng thật tâm vì giống nòi thì đủ sức để xây dựng miền
Nam giàu mạnh và dân chủ thật sự song song với chiến tranh chống cộng sản. Thượng tầng
minh bạch để xây dựng xã hội dân chủ thật sự thì lòng dân tin tưởng. Lòng dân
tin tưởng thì đất ở đâu mà cộng sản cặm dùi. Lòng dân tin tưởng vào chính
nghĩa quốc gia thì cộng sản làm sao tuyên truyền? Lòng dân tin tưởng còn mạnh
hơn trăm ngàn lần vũ khí tối tân, xe tăng hay trọng pháo, mạnh hơn phi cơ
B52... Cái tạo được trong tầm tay là lòng dân thì lại không tạo để cậy vào vũ
khí là hạ sách. Mãi lo chống cộng bằng vũ khí mà không biết làm cho dân tin
bằng cách lập quyền dân thì là đi vào hạ sách. Nói tóm một lời chính phủ VNCH
nếu biết THỰC THI NHƠN NGHĨA thì không thể bại trận trước cộng sản.
Dân
chán VNCH và rơi vào bẫy của cộng sản là có lỗi rất nặng của thượng tầng
VNCH. Đó mới là lỗi
chánh chớ đừng đổ hết cho người Mỹ. Những người cố ý đổ hết cho Mỹ là cố ý
bao che cho tệ hại của thượng tầng VNCH hay là thiếu công bình; câu tiên
trách kỷ, hậu trách nhân luôn luôn đúng. Thượng tầng chỉ biết tính toán cho
cá nhân và bè phái để đẻ ra những qui định như vậy thì Mỹ có viện trợ bao
nhiêu đi nữa cũng thất bại mà thôi. Đem binh thư và luật công bình ra xét thử
xem có đúng vậy không?
Bao nhiêu tướng lãnh, bao nhiêu trí
thức có lòng với dân tộc hẳn biết binh thư Tôn Tử viết: Công tâm vi thượng
công thành vi hạ. Không thu phục lòng
dân được thì mọi vũ khí đều vô dụng. Người cộng sản giỏi tuyên truyền nên
họ che đậy sự thật tồi tệ trong chế độ cộng sản và xúi giục những người bất
mãn với tham nhũng, bất công làm rùm beng
cái yếu, cái nhơ bẩn của thượng tầng VNCH ra cho dân chán ghét và chạy
vào rọ cộng sản. Những điều tốt đẹp
trong thời VNCH là do hạ tầng gầy dựng nên mà có. Thượng tầng đeo bám
vào đó để ăn hưởng trên xương máu hạ tầng. Những vụ buôn bán gạo, xăng dầu và
vũ khí cho cộng sản đều do thượng tầng VNCH thực hiện là bằng cớ rõ ràng.
Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản
có chê nhau thì cũng như lươn chê lịch. Một đàng như dịch hạch và một đàng
như thổ tả đều là bệnh cả. Đem bệnh tật về làm cho dân tộc đau khổ như thế
chưa đủ hay sao mà còn muốn gây bệnh tiếp? Muốn cho dân tộc bị một trong hai
thứ bệnh trên thì thật là chẳng biết thương dân. Chỉ biết có chủ nghĩa của
mình mà không biết rằng cần phải có chủ nghĩa NHƠN NGHĨA để xây dựng một nền
văn minh NHƠN ĐẠO cho giống nòi.
Chúng tôi vì tương lai dân tộc mà minh
bạch như thế để xây dựng xã hội hòa bình TRUNG LẬP VĨNH VIỄN cho đất nước
không làm tôi mọi cho chủ nghĩa nào hết.
Trung
lập để thi đua NHƠN NGHĨA xây dựng một xã hội hòa bình thì chủ nghĩa nào, tổ
chức nào, cá nhân nào cũng đầy đủ quyền tham gia. Không một đảng phái nào, một công dân nào có
quyền cấm đảng phái khác, tổ chức khác hay công dân khác tham gia thi đua
nhơn nghĩa. Cấm họ tham gia là độc tài, là như họ rồi còn chống cái gì?
Cấm đoán là con đường của đại ác, mở
rộng cho tất cả tham gia thi đua nhơn
nghĩa là con đường đại từ bi.
Hiến pháp VNCH mở đầu là chống cộng và
đã thất bại. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không nhượng một tất đất
cho cộng sản nhưng đã dâng cả miền Nam cho cộng sản là một sự thật.
Hiến pháp cộng sản điều 04 rồi cũng sẽ
bị chôn vùi theo Đảng (lòng dân không tin, dân oan khắp nơi thì Đảng làm sao
tồn tại?).
Hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản đều
thất bại trên mãnh đất hình chữ S thì có gì hay để theo nữa. Kêu gọi quay lại
theo chủ nghĩa tư bản cũng chỉ là gà què ăn quẩn cối xay, là lấy dân tộc ra
đi làm ăn mày đi xin tiền của về để tiếp tục tham nhũng.
Kinh dịch quẻ SƠN PHONG CỔ ngay lời
kinh đầu tiên: Cổ nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên, tiên giáp tam nhật, hậu
giáp tam nhật.
Cổ có nghĩa là củ kỷ, là nát loạn (sâu
tham nhũng lúc nhúc cả bầy) là tan vỡ thành từng mãnh (dân và chính quyền
không tin nhau), là hư hoại là rối loạn (công nhân và dân oan khắp nơi đòi sự
công bằng)... Muốn sửa sang tình cảnh đó phải dứt khoát với cái củ và tìm ra
được cái mới (lợi thiệp đại xuyên). Người cán đáng công việc phải học được
bài học của quá khứ (tiên giáp tam nhật) để lấy cái tinh hoa của nó mà đề ra
phương án thích hợp, tiến bộ (hậu giáp tam nhật) trong chỉnh lý, canh tân
phải có tầm nhìn xuyên suốt, phải cẩn thận như đi trên băng tuyết... không
thể sáng xây chiều đập, ngày nay làm ngày mai sửa sai... làm được những điều
đó mới là cách mạng thật sự.
Sang sông lớn chính là cuộc cách mạng
lớn lao đưa xã hội vào thời kỳ mới. Lãnh đạo dốt nát không biết đưa dân tộc
về đâu cứ nay thay mai đổi thì làm sao thành công? Không tiên liệu, phòng xa kết quả tất yếu là công
việc chưa đâu vào đâu tệ nạn tham nhũng đã phát sinh vô phương cứu chữa thì
làm sao đưa thiên hạ từ Bĩ sự sang Thái sự?
Tóm lại: Phải thấy được cái tinh hoa,
cái thành tựu của hạ tầng ở cả hai miền, hai chủ nghĩa để làm động năng thi
đua NHƠN NGHĨA tiến tới nền VĂN MINH
NHƠN ĐẠO đem hạnh phúc cho giống nòi
và đền ơn cho nhân loại đã giúp đở cho dân chúng Việt Nam không bị chết đói
do chủ nghĩa cộng sản gây ra và đang hổ trợ Việt Nam xây dựng một xã hội tự
do, dân chủ...
Chúng ta đã mang nợ những người tốt (những
tổ chức tốt) trên thế giới. Dân tộc ta có truyền thống trọng ơn vậy chúng ta
phải đem gì trả lại chớ chẳng lẽ làm thinh (dù rằng họ thi ân bất cầu báo).
Đem thi đua NHƠN NGHĨA đem VĂN MINH NHƠN ĐẠO
ra thực thi trên đất nước để nhân loại còn đang đau khổ, còn đang bị đọa đày vì họa độc
tài, tham nhũng thấy được rằng dân tộc Việt từng chịu thảm họa của thực dân,
rồi nội chiến nồi da xáo thịt 20 năm (của hai chủ nghĩa tư bản và cộng sản),
chịu chiến tranh giữa cộng sản với cộng sản (là chiến tranh biên giới Miên
Việt và Việt Trung) và quốc nạn tham nhũng do cái gông xiềng độc ác nhất là
cộng sản mà thoát ra được thì họ cũng thoát ra được. Nhìn ra thế giới xem có
dân tộc nào chịu liên tiếp những thảm họa như Việt Tộc chăng?
Từ 1884 đến 2014 là 130 năm.
130 năm sống trong 05 thảm họa mà Việt
Tộc đứng lên được thì hà cớ gì họ không đứng lên được? Đó là nghĩa vụ phải
trả.
Ngày nay người dân đã nếm mùi cộng sản. Dân
càng đau khổ và kinh hãi hơn cả thời VNCH. Vậy thì những người thật sự biết
thương dân nên tìm cách nâng cao dân trí, trình bày QUYẾT SÁCH DÂN MẠNH và
LẬP QUYỀN DÂN thì chính người dân sẽ đứng lên quyết định số phận của chính
mình. Đó là chuyển họa vi phước.
Đó là diễn tiến hòa bình mà Đảng đang
run sợ.
Làm cho dân thấy rằng sau màn cộng sản
là công thức DÂN MẠNH và LẬP QUYỀN DÂN được thực thi nghiêm chỉnh đó là chìa
khóa, là năng lực để xây dựng một xã hội mới.
Người Mỹ tin vào Thượng Đế mà đã xây
dựng được quốc gia hùng mạnh như vậy. Còn hai công thức trên được Thượng Đế
chỉ dạy thì nhất định nó phải thành công trên mãnh đất hình chữ S nầy.
@@@
(i)/- Luật Hiến Pháp và Chánh Trị Học
của GS Nguyễn Văn Bông trang 81. bản pdf viết:
...Kinh nghiệm đã chứng tỏ một sự
lạm dụng khét tiếng tại Anh Quốc: trong thế kỉ thứ 19 tại Hạ Nghị viện Ái Nhĩ
Lan, những nghị sĩ phe đối lập đã dùng những bài diễn văn rất dài để cản trở
không cho Quốc hội biểu quyết những
đạo luật mà họ không bằng lòng. (Họ thay phiên nhau nói giờ này đến giờ nọ,
luôn cả buổi ăn, nói sáng đêm; các dân biểu chán quá bỏ ra về rốt cuộc không
đủ số không thể biểu quyết được).
|
Ðiều Thứ Mười: Buổi nhóm.
Mỗi buổi nhóm
không nên quá 4 giờ đồng hồ; Chư Nghị viên phải đến cho đúng giờ nhóm chớ nên
vô cớ mà bê trể.
Như Nghị trưởng
định nhóm giờ nào khi quá giờ ấy 15 phút đồng hồ phải mở Hội không kể số Nghị
viên nhiều ít.
Thoảng như Nghị
trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì Phó Nghị trưởng thay thế, một Nghị viên chức
lớn hoặc lâu củ hơn hết hoặc tuổi tác lớn hơn hết ngồi ghế Phó Nghị trưởng.
Chừng Nghị
trưởng đến thì ngồi chỗ Nghị viên.
Còn như Nghị
trưởng và Phó Nghị trưởng vắng mặt hoặc đến trể thì hai Nghị viên chức lớn,
hoặc lâu củ hơn hết ngồi Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng. Chừng Nghị trưởng và
Phó Nghị trưởng đến thì ngồi chổ Nghị viên. Nếu vô cớ mà không đến nhóm Hội thì
phải bị phần phạt có định trong các nội luật.
PHÂN TÍCH: Luật tạo ra là để phục vụ chớ không
phải để tạo quyền uy cho cá nhân rồi trở lại xin họ bố thí.
Luật định thay thế tức thời như vậy có 04 tác dụng
chính:
a/- Thể hiện tính nhất quán: Lấy nhơn sanh làm gốc
để phục vụ. Tổ chức ổn định trong mọi hoàn cảnh chủ quan lẫn khách quan.
b/- Triệt tiêu tư tưởng bất khả xâm phạm vốn là
suy nghĩ quen thuộc của người có chức quyền xưa nay.
c/- Tà quyền muốn mua chuộc, khống chế, khủng bố
người đứng đầu cũng chẳng thay đổi được bước tiến của đại hội. Như vậy đây
chính là cách bảo vệ Nghị Trưởng rất hay.
d/- Nhơn sanh thấy rõ rằng nói thật và làm thật (từ kế hoạch cho đến thực thi đều nhìn thấy và
kiểm soát được) nên họ tin.
Đó là chiếm được lòng dân.
Đó là tạo thời THÁI theo dịch lý.
|
@@@
Ðiều Thứ Mười Hai: Hỏi ý kiến Nghị viên.
Khi có điều chi
cần phải hỏi ý kiến từ Nghị viên thì Nghị trưởng phải hỏi trước hết vị nào nhỏ
chức hơn, hoặc khi đồng chức thì vị nào nhỏ tuổi hơn hết, cứ như vậy cho đến
Phó Nghị trưởng.
PHÂN TÍCH: Đối chiếu điều thứ 09 về
quyền phát biểu và điều 12 về hỏi ý kiến chúng ta thấy rất thú vị:
Điều 09: Khi hai hoặc nhiều Nghị viên
đưa tay lên một lược xin phép nói thì Nghị trưởng định cho người chức lớn
hoặc như đồng chức nhau thì người tuổi tác lớn nói trước rồi kế cho đến hết
người xin một lược.
Điều 12: Khi phải hỏi ý kiến thì qui
định ngược lại.
Tại sao qui định như vậy? Phân tích chúng ta thấy
rằng phát biểu là tự nguyện; không phát biểu cũng chẳng sao. Trật tự phát
biểu khi dơ tay một lượt thể hiện “kính lão đắc thọ” hay “Gừng càng già càng
cay” đàn em nên cần nghe ý bậc lão luyện trước. Người sau cũng được phát biểu
nhưng có điều kiện kiểm tra lại xem có trùng ý hay cần điều chỉnh gì không
cho ý kiến có chất lượng... đó là trẻ học già.
Còn khi hỏi ý kiến thì mỗi nghị viên dự hội đều
phải có ý kiến rõ ràng do vậy để cho đàn em có ý kiến trước tránh việc chịu
áp lực nếu chọn ý ngược với đàn anh. Đó để người già (lớn) hiểu được ý chí
người trẻ. Già trẻ hiểu nhau, trên dưới biết nhau đó là Thái.
Thiễn nghĩ cái hay cái khéo vừa đúng đạo lý vừa là
bài học về tôn ti lễ nghĩa vừa được việc mà không xô bồ là như vậy. Bình
quyền cho đàn em tự chủ mà vẫn rất lễ nghĩa.
Đời có luật nào đơn giản mà thú vị như thế không
nhĩ?
|
Ðiều Thứ Mười Bốn: Ban Uỷ Viên.
Ngánh: Khi Nghị
trưởng và cả thảy đều trở lại chổ ngồi yên rồi thì Hội chọn cử bốn Ban Uỷ viên
Ngánh:
1- Phái Thái. 2-
Phái Thượng. 3- Phái Ngọc. 4- Phái Nữ.
Ðặng chia các
việc đã đem vào chương trình hầu bàn tính ít người cho dễ dàng thấu đáo mọi
việc.
Mỗi ban Uỷ viên
có chừng 5 hoặc 7 nghị viên :
. Một Nghị
trưởng. . Một phúc sự viên. . Mấy vị kia làm Nghị viên.
Mỗi khi bàn định
điều chi rồi thì phúc sự viên tóm tắc lại lập một tờ phúc để đệ ra Ðại Hội nghị
quyết.
Chư Nghị viên
Ban uỷ viên khi nhóm thì mặc đạo phục dùng hằng ngày.
PHÂN TÍCH:
ĐĐTKPĐ có Cửu Viện và phân rõ như sau:
. Phái Thượng lo về Học Viện, Y Viện, Nông Viện.
.Phái Thái lo về Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện.
.Phái Ngọc lo về Hòa Viện, Lại Viện, Lễ Viện.
Ngay trong lần họp đầu của nhiệm kỳ mỗi phái đã có
sự phân công theo chuyên môn. Còn số chức việc và Đạo Hữu chưa có phái (do
chưa là chức sắc) tùy vào khả năng mà phân bổ vào các ngánh trên.
Sau phần thủ tục khai hội thì lập Ban Ủy Viên
Ngánh theo qui định. Ngánh tương đương như các tiểu ban. Nhưng thời kỳ đó
không thể dùng chữ tiểu ban là do Pháp xác định Đạo Cao Đài lập một quốc gia
trong một quốc gia nên luôn luôn chĩa sẳn họng súng vào để diệt đạo nên phải
dùng chữ NGÁNH.
Các Ngánh làm việc theo chuyên môn xong thì nhóm
đại hội để trình bày phần của mình làm việc. Đại hội nghe rồi chất vấn, bổ
sung làm rõ hơn nữa để biểu quyết theo luật quá bán. Khi đã biểu quyết điều
nào thì điều đó đã thành của đại hội.
Phương pháp chia nhỏ công việc của Đại Hội, phân
ra cho các Ngánh để giải quyết ngày nay thấy rất bình thường nhưng năm 1934
mà định trong luật như thế là rất tiến bộ.
Năm 1934 Việt Nam còn bị Pháp đô hộ, văn hóa Hoa
Kỳ chưa ảnh hưởng đến Việt Nam. Người
Việt Nam chưa biết đến phương pháp Taylor, nhưng cách bố trí, sắp xếp trong luật đem phân tích ra
cũng có nguyên tắc (chia nhỏ ra) tương đồng với phương pháp của Taylor. Một đàng là dùng
trong sinh hoạt xã hội tôn giáo, một đàng là dùng trong sản xuất hàng hóa cho
nên không thể y chang nhau nhưng về nguyên tắc thì tương đồng.
Nguyên tắc chia nhỏ ra được áp dụng nên Quyền Vạn
Linh phân ra làm 03 Hội. Trong Hội lại phân ra thành ngánh. Nhờ vậy công việc
kiểm tra, bàn tính của nghị viên dễ dàng và hiệu quả. (i.1)
Những tư tưởng lớn gặp nhau là như vậy.
@@@
(i.1)/- Ông Frederick Winslow Taylor (1856 - 1916) đã trình bày
phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền năm 1911. Ông chia công việc ra
làm nhiều phần nhỏ vừa với khả năng của người thợ. Công việc trở nên đơn giản
hơn nên công nhân bớt căng thẳng và năng suất tăng rất cao. Năng suất lao động
tăng vọt đã làm cho nền kinh tế của Mỹ phát triễn vượt bậc. Hàng hóa nhiều
hơn, chất lượng đồng đều nhau và đặc biệt là rẽ hơn. Hãng xe hơi Henry Ford
lập ra hệ thống sản xuất theo dây chuyền dài 24km đạt công suất 7000 xe mỗi
ngày (là kỷ lục thế giới thời đó).
|
Phương pháp Taylor đã làm thay
đổi diện mạo sản xuất của nước Mỹ và thế giới. Phương pháp tổ chức 03 Hội Lập
Quyền Vạn Linh của ĐĐTKPĐ đã góp phần xây nên quốc gia Cao Đài bằng nhơn nghĩa
và không biên giới ngay trong quốc gia Việt Nam thời Pháp thuộc và lan tỏa ra
phần còn lại của thế giới là điều rất thú vị.
PHẦN HAI.
NỘI LUẬT HỘI
NHƠN SANH.
Ðiều Thứ Nhất:
... Hội Nhơn
Sanh sắp đặc như sau nầy:
I/-Thượng Chánh
Phối Sư … Nghị Trưởng.
II/- Nữ Chánh
Phối Sư … Phó Nghị Trưởng.
III/- Lễ Sanh,
Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự,Thông Sự, Phái Viên:….. Nghị Viên.
VI/- Một Nghị
Viên Nam ; và một Nghị Viên Nữ … Từ Hàng.
V/- Hai Nghị
Viên Nam và hai Nghị Viên Nữ …. Phó Từ Hàng.
PHÂN TÍCH: Thượng Chánh Phối Sư chịu
trách nhiệm 03 viện (Học Viện, Y Viện, Nông Viện). Trách nhiệm đó như Liên Bộ
Trưởng và là chức sắc cao cấp làm Nghị Trưởng Hội Nhơn Sanh. Điều nầy sẽ làm
cho trí thức nêu câu hỏi: Để Chức Sắc cao cấp làm Nghị Trưởng như vậy có hạn
chế quyền của nhơn sanh hay không?
Xin thưa rằng theo qui định thì Nghị Trưởng
chỉ nắm quyền điều hành còn quyền thảo luận (Điều 03 LLCCH) và biểu quyết
(Điều 06 LLCCH) Nghị Trưởng đều phải kém hơn nghị viên. Điều 10 LLCCH qui
định Nghị Trưởng đến trễ 15 phút thì có người thay thế liền...
Như vậy Nghị Trưởng cũng chỉ có quyền
điều hành theo pháp luật (phải hỏi ý nghị trường) chớ không nắm toàn quyền tự
quyết định như chủ tịch của đời. Bố trí như vậy làm cho Hội mạnh lên và được
kiêng nễ hơn chớ không lấn áp quyền nào của nhơn sanh.
|
Ðiều Thứ Hai:
Thái và Ngọc
Chánh Phối Sư và các Quản lý Toà Nội Chánh đều đến dự Hội hoặc trả lời những
điều nào nghị viên không rõ mà xin bày tỏ hoặc minh triết những vấn đề nghị
viên hạch hỏi. Nếu một vấn đề nào bị
công kích thì Chánh Phối Sư hay là Quản lý thuộc về vấn đề ấy phải trả lời hay
là bày tỏ cho khỏi sanh điều khó khăn cho việc bàn cải.
PHÂN TÍCH: Đây là một qui định rất
tiến bộ từ 1934 mà 80 năm sau 2014
quốc hội cộng sản theo không kịp.
Nghĩa là khi mở Đại Hội Nhơn Sanh thì
Bộ Trưởng và Liên Bộ Trưởng phải có mặt và TRẢ LỜI LẬP TỨC các chất vấn.
Không chấp nhận kiểu XIN TRẢ LỜI SAU BẰNG VĂN BẢN.
Kiểu xin trả lời sau bằng văn bản là
kiểu để lâu cứt trâu hóa bùn. Bởi vì khi họp Đại Hội Nhơn Sanh thì có
khu vực cho nhơn sanh giám sát trực tiếp phiên họp (điều 13 NLHNS). Nhơn sanh
sẽ ghi nhận mà để cho Bộ Trưởng và Liên Bộ Trưởng (là cả nội các) trả lời sau
thì sẽ tạo ra tiếng thị phi làm trên dưới không còn tin tưởng nhau. Đó là đưa
nhau vào bế tắc (BĨ). Chưa kể đến tác động của báo chí đưa tin giật gân kiểu
... nghị viên A hỏi Bộ Trưởng nông nghiệp vì sao sản lượng năm nay kém hơn
năm trước? Vì sao sâu rầy phá hại mùa màng không giảm... Biện pháp khắc phục
thế nào? Tại sao có phân bón giá trên trời so với khu vực...? Bộ Trưởng xin
trả lời sau bằng văn bản...thì còn uy tín gì trước nhơn sanh? Nó chứng tỏ
người có trách nhiệm không nắm vững tình hình và khộng chịu nhìn nhận khuyết
điểm là do kém cõi chưa làm hết trách nhiệm...
Nếu ban quyền cho chủ tịch (Hạ Viện)
có quyền ngưng họp bất cứ lúc nào và không cần hỏi ý kiến ai hết thì đây chính
là lúc ông chủ tịch CỨU BỒ vì đều là quan chức với nhau thì toàn dân phải LÀM
ĐƠN XIN chờ cứu xét à? Thượng tầng thả le le vịt trời ra rồi bảo dân chúng
(hạ tầng) rượt theo bắt là như vậy.
|
Ðiều Thứ Ba:
Một Chức Sắc
Hiệp Thiên Ðài đến chứng kiến và bảo thủ Luật Lệ không cho Hội phạm đến.
PHÂN TÍCH: Vị chức sắc Hiệp Thiên Đài
nầy không có quyền thảo luận và cũng không có quyền biểu quyết. Chỉ quan sát
xem luật có được thi hành đúng hay không? Nếu có vấn đề gì VI PHẠM LUÂT PHÁP
thì trình cho hội biết.
|
Ðiều Thứ Tư:
Hội Nhơn Sanh để
bàn tính những việc sau nầy:
1/- Giáo hoá
Nhơn Sanh.
2/- Lo liệu
phương hay cho Ðạo với Ðời khỏi điều phản khắc và nâng cao tinh thần trí thức
của Nhơn Sanh.
3/- Phổ Ðộ Nhơn
Sanh vào cửa Ðạo dìu dắt Tín đồ cho khỏi trái bước và trọn vâng các luật lệ của
Ðạo.
4/- Xin sửa cải
thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ của Ðạo không phù hợp với trình độ trí thức
tinh thần của Nhơn Sanh.
5/- Lo cho nền
Ðạo được trong ấm ngoài êm, và đủ phương liệu đặng phổ thông nền chơn giáo.
6/- Xem xét và
công nhận phương diện chánh trị của Ðạo quan sát sổ thâu xuất tài sản và nghị
sổ phỏng định năm tới.
PHÂN TÍCH: Với 06 quyền trên đây thì
rõ ràng là không có một vùng cấm nào hết. Nó nhất quán ở chổ tất cả nhân sự
tôn giáo, tổ chức tôn giáo từ thấp nhất đến cao nhất đều chịu chung một khuôn
luật.
Mục thứ sáu bao gồm việc khi bước vào
hàng phẩm chức sức và khi thăng phẩm đều phải được sự chấp thuận của Đại Hội
Nhơn Sanh.
Cụ thể là vị đó phải trình diện trước
đại hội để nghị trường nhận xét về tánh hạnh, khả năng, công nghiệp... Nghị
viên có quyền chất vấn trên hồ sơ và những việc vị đó đã làm kể cả đời tư có
gì thiếu đạo đức hay không... nghĩa là không có vùng cấm nào hết. Muốn làm
chức sắc là phải TU THÂN mà tu thân thì phải để nhơn sanh nhận xét... chất
vấn rõ ràng... và đi đến quyết định là
đồng ý hay không theo phép quá bán.
Chính điều nầy là cách LẬP QUYỀN NHƠN
SANH rất mạnh. Quan chức không dám làm sai luật, không dám làm mất lòng dân
và luôn luôn giử mình trong sạch trước sự giám sát của toàn dân.
Đây là điều làm cho nhơn sanh thấy
được Đạo là của họ. Đạo để phục vụ họ chớ không phải thêm một tầng áp bức nữa
mà họ phải bái lạy. Nhờ vậy mà Đạo chinh phục được nhơn tâm. Chinh phục được
nhơn tâm nên mới lập được quốc gia Cao Đài ngay trong thời Pháp thuộc. Đảng
phái chánh trị nào biết vận dụng điều nầy thì bộ máy công quyền sẽ không còn
tham nhũng. Bộ máy hành chánh không tham nhũng thì làm được mọi việc thuận
chiều dân vọng.
|
Ðiều Thứ Sáu:
Mỗi năm mùng một
tháng chạp thì Nghị trưởng gởi chương trình những vấn đề sẽ đem ra bàn cải cho
các Ðầu Tỉnh Ðạo lúc Hội Nhơn Sanh nơi Tỉnh Ðạo nhóm ngày rằm tháng nầy đem ra
bàn cải xem xét trước cho kỷ lưỡng.
PHÂN TÍCH: điều qui định đại hội nhóm
ngày 15-01- hằng năm.
Trước đó 45 ngày nghị trưởng phải báo
nội dung cho nghị viên biết. Để từ địa phương đem ra bàn thảo và có ý kiến
chung trong địa phương mình. Qua đó xét thấy cần thì có quyền thực hiện quyền
trình bày bằng cách gởi TỜ XIN TRƯỚC khi hội 20 ngày theo điều số 08 LLCCH và
điều thứ 08 NLHNS. Đại Hội làm việc đến khi hết việc nên tất cả mọi Tờ Xin
Trước đều được trình bày.
Việc đem chương trình ra bàn thảo
chính là nâng cao dân trí để lập quyền cho dân. Nghị viên đến nghị trường là
để thể hiện ý chí của dân nơi địa phương mình chớ chẳng phải tùy tiện đặng.
|
Ðiều Thứ Tám:
Nghị Viên muốn
xin canh cải thêm bớt, huỷ bỏ điều chi trong luật Ðạo hay là điều chi khác nữa
thì phải gởi tờ xin 20 ngày trước bửa Hội nhóm. Cũng phải chỉ rõ mình xin sửa
cải thêm bớt hay là huỷ bỏ việc gì.
PHÂN TÍCH: như đã đề cập đến ở điều 08
LLCCH và điều thứ 06 NLHNS. Điều thứ 08 cho thấy tự do, dân chủ trong đạo
không có vùng cấm. điều nầy mở đường cho dân đủ quyền có ý về tất cả công
việc cả đạo từ nhân sự, bộ máy hành chánh và đường lối hành đạo...
|
CHƯƠNG THỨ HAI.
VỀ SỰ CHỌN CỬ
PHÁI VIÊN.
Ðiều Thứ Mười Ba:
Lễ Sanh, Chánh
PhóTrị Sự và Thông Sự đều có quyền đến dự nhóm Hội Nhơn Sanh nhưng bửa ấy mà cả
thảy đều đến Toà Thánh thì nơi Làng nơi Quận không còn Chức Sắc, Chức Việc;
phận sự phải bỏ bê e xảy ra điều khó khăn vậy định như sau đây rất tiện:
Sau khi nhóm tại
Tỉnh đặng bàn cải quyết định và lập vi bằng các vấn đề trong chương trình của
Thượng Chánh Phối Sư gởi đến thì mỗi phẩm chọn cử một Hội Viên đặng thay mặt
cho Tỉnh mình hầu đến Toà Thánh mà dự Ðại Hội.
Còn Phái Viên
thì cũng một vị như mấy phẩm đã kể trên đây.
Việc chọn cử nầy
phải tuân y Ðạo Nghị Ðịnh thứ 20 của Ðức Quyền Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp.
Tại Tỉnh Thành
Tây Ninh là Tỉnh THÁNH ÐỊA cũng tuỳ y một luật ấy.
Nghị viên Hội
Nhơn Sanh lãnh trách nhiệm một hạn kỳ là ba năm.
Phái viên đắc cử
Nghị Viên Hội Nhơn Sanh chụp ba tấm hình giao cho Ðầu Tỉnh Ðạo gởi cho Nội
Chánh (Lại Viện) đặng gắn vào giấy chứng nhận và sổ bộ cùng vô khuôn treo tại
nhà Hội .
Cả Lễ Sanh Chức Việc và Phái Viên không đắc
cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thông thả đến Toà Thánh nhập hội nhưng được dự
thính mà thôi, nơi Hội có sắp đặc chổ ngồi cho chư vị được dự thính.
Muốn tỏ ý kiến chi cho Hội thì do nơi
Chư Nghị viên ở Tỉnh Ðạo của mình mà thôi.
&&&
PHÂN TÍCH: Hội Nhơn Sanh dành cho
những người trực tiếp hành chánh với dân là nghị viên (Lễ Sanh mà không cầm
quyền hành chánh là không có nhơn sanh nên không được là nghị viên). Đơn vị
dự hội là Tộc Đạo (Quận). Mỗi Tộc Đạo bầu ra hai phái đoàn Nam riêng Nữ
riêng.
Một Lễ Sanh (Đầu Tộc), một Chánh Trị
Sự, một Phó Trị Sự, một Thông Sự và 01 Đạo Hữu. (Nam, Nữ bằng nhau).
Một điều rất quan trọng mà chúng tôi
muốn giới thiệu đến quí vị là: Lễ Sanh Chức Việc và Phái Viên không
đắc cử Nghị viên Hội Nhơn Sanh được thông thả đến Toà Thánh nhập hội nhưng
được dự thính mà thôi, nơi Hội có sắp đặc chổ ngồi cho chư vị được dự thính.
Muốn tỏ ý kiến chi cho Hội thì do nơi Chư Nghị viên ở Tỉnh Ðạo của mình mà
thôi.
Đây là lực lượng giám sát và cung ứng
tư liệu, thông tin cho các vị nghị viên trong nghị trường. Lực lượng nầy giám
sát công khai năng lực mọi nhân sự trong đại hội. Tổ chức như vậy thì chưa có
một quốc hội nào của VNCH lẫn CHXHCNVN dám công khai đến vậy. Điều nầy nó làm
cho các nghị viên trong nghị trường càng mạnh mẽ hơn vì cái phải, cái hay của
mình không ai dám hiếp đáp. Dân được tự do chọn lựa, phê phán thì chẳng lầm
bao giờ.
Dám công khai như vậy là vì đạo có
quyết sách đúng, cần một bộ máy thực thi có năng lực và tốt hơn hết là giao
phó nó toàn dân chọn lựa và giám sát. (((Lưu ý là chi phái 1997 ở Nội Ô Tòa
Thánh ngày nay được chính phủ đở đầu để dìm chết ĐĐTKPĐ cũng mạo danh mở hội
nhơn sanh mà KHÔNG CHO AI DỰ THÍNH. Tức nhiên họ là tà quái nên đâu dám công
khai cho dự thính như thời Hội Thánh. Thậm chí chi phái nầy còn cấm đường
không cho đi ngang nơi hội. Cộng sản đẻ ra chi phái 1997 độc đoán và khiếp sợ
dân chúng y như họ)))
Một chính phủ chưa dám thực hiện những
điều như thế tất nhiên do họ có vấn đề về đường lối, về quyền lợi phe nhóm
nên không dám minh bạch, không dám trao quyền cho dân để LẬP QUYỀN DÂN. Cộng
sản mà cho dân giám sát như thế nầy thì dân biểu của họ chạy trốn vì xấu
hổ...và sự phẩn nộ của dân.
Sau màn cộng sản quốc dân ta nhất
quyết phải đòi hỏi những nhà làm luật đưa những điều như vậy vào luật. Còn
như họ không chịu chúng ta phải tẩy chay ngay. Đó là bọn lợi dụng xương máu
nhân dân chớ chẳng có thật tâm làm cách mạng gì cả. Xô họ xuống để con đường
xây dựng xã hội tự do, dân chủ và đạo đức không bị chướng ngại.
Ngày nào những điều luật tiến bộ thế nầy được đưa vào luật thì dân
chúng mới bớt lầm than, quan chức mới bớt tham nhũng và sau đó là chẳng có
quan chức nào dám tham nhũng trước sự giám sát như vậy cả. LẬP QUYỀN DÂN là
như vậy.
|
CHƯƠNG THỨ BA.
HỘI NGÁNH THƯỜNG
XUYÊN.
Ðiều Thứ Mười Bốn:
Lập một Hội
Ngánh thường xuyên đặng bàn tính các điều thường ngoại chương trình với việc
trọng hệ cần yếu xãy ra thình lình nhứt là việc Thượng Chánh Phối Sư hoặc Chức
Sắc nào mà Hội Thánh cho quyền thông công với Chánh Phủ. Thượng và Nữ Chánh
Phối Sư cũng làm Chánh Phó Nghị Trưởng.
Từ hàng Chánh
Phó cũng lãnh y phận sự. Nghị viên thì sắp đặc y như sau đây:
Cũng có mặt một
hoặc vài Chức Sắc Nội Chánh tuỳ theo việc bàn tính và một Chức Sắc Hiệp Thiên
Ðài.
Một năm nhóm ba
kỳ (4 tháng một kỳ).
Nhóm kỳ thứ
nhất: Mùng 06-4 .
Nhóm kỳ nhì :
13- 8. Phải đến trước.
Nhóm Kỳ ba :
13-11 bửa Hội 01 ngày.
Khi có việc
trọng hệ gấp rút thì Nghị trưởng được quyền gởi điện tín mời nhóm nhưng mà một
năm không quá hai lần. Ðiện tín mời nhóm gởi ba ngày trước bửa nhóm.
Nội trong 10
ngày sau khi nhóm Hội thì lập vi bằng và làm y như nhóm Ðại Hội.
Chánh Phó Nghị
trưởng, Từ Hàng Nam Nữ với một Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài ký tên tờ vi bằng.
Lúc Ðại Hội Nhơn
Sanh thường lệ trước khi giải tán thì chư Nghị viên các Tỉnh Nam kỳ (Nam và Nữ
riêng nhau) phải phái mỗi Tỉnh một vị đặng thay mặt nơi Hội thường xuyên cho
Tỉnh của mình.
Toàn các nước
Lân Bang cũng đồng quyền y như phép công cử nơi Việt Quốc mà sắp đặc những Phái
viên về nhập Ðại Hội Nhơn Sanh và Thượng Hội theo như Luật Lệ sở định nầy:
Nghị Viên Nam và
Nữ phải đồng một số.
Toà Thánh sẽ lập
Khách đình để cho chư phái viên ngoại bang đến cư ngụ nhứt là sẽ cấp đất Toà
Thánh đặng chia cho mỗi Tỉnh Ðạo cất nhà cửa cùng cơ sở vỉnh cửu đặng người
thay mặt mình ở thường xuyên gần Toà Thánh.
PHÂN TÍCH: mỗi nghị viên có nhiệm kỳ
là 03 năm. Sau khi họp đại hội lần thứ
nhất trong nhiệm kỳ xong thì đại hội bầu ra Hội Ngánh thường xuyên. Ngánh
thường xuyên nầy chính là thường trực của ĐHNS. (Khác với Ngánh 04 phái theo
chuyên môn trong Đại Hội).
Các vị trong Ngánh thường xuyên là đầu
mối liên lạc với các nghị viên đồng khóa và thành phần dự thính để theo dõi
đạo sự về mọi vấn đề....đó là tai mắt, là sức mạnh, là phương tiện hiệu
nghiệm của nhơn sanh xây dựng đạo nghiệp mà cũng là xây dựng cho chính họ.
Như thế chính là đắc nhân tâm. Đắc
nhân tâm được thì lập quốc được là chuyện đương nhiên.
|
@@@
Quyền kiểm tra
và giám sát là 02 công cụ quan trọng để làm cho dân mạnh. Quyền đó được xuyên
suốt trong LLCCH & NLHNS. Đó là lập quyền cho dân.
Ông bà ta có dạy
rằng: Một người biết lo bằng một kho
người làm hay câu Một người tính bằng
chín mươi chín người làm. Người tính là bộ não; người làm là sức mạnh. Có
bộ não tinh anh và có dân ủng hộ thì đó là một thân thể khỏe mạnh trong một
tinh thần minh mẫn.
Hội Thánh ĐĐTKPĐ đã dụng NHƠN
NGHĨA lập một quốc gia trong một quốc gia thành công là vì ở tất cả các khâu
như kế hoạch, tổ chức, kiểm soát và lãnh đạo đều lấy công thức dân mạnh và lập
quyền dân làm căn bản. Nhờ đó mà dân tin và chính dân thực hiện.
GS Nguyễn Văn Trung viết trong
Lục Châu Học chương 5: Cao Đài: Đạo ở vùng đất mới: Ý thức hệ Cao Đài trong
chức năng "hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp ứng được
những đòi hỏi lớn lao kể trên. Xin thưa rằng bảo thủ hay cấp tiến là suy
đoán chủ quan của từng người cũng như ông chủ tịch Hạ Viện có quyền nhận xét
rằng dân biểu phát biểu ngoài nội dung rồi mời về chổ vậy. Nhưng qua cách tổ
chức ĐHNS như chúng tôi trình bày chúng tôi nghĩ là GS sẽ nhìn lại ý kiến của
mình và quí vị quan tâm đến vấn đề thấy được đóng góp cho xã hội bằng những
công thức và nội dung trên chính là mở
đường dân tiến xây dựng một xã hội mới: Bác ái – Công Bằng.
THIÊN THỨ BA:
THỰC HIỆN CUỘC
CÁCH MẠNG NHƠN NGHĨA.
ĐĐTKPĐ tổ chức
Lễ Khai Đạo năm 1926 tại Chùa Gò Kén, Làng Long Thành, Tỉnh Tây Ninh, Nam phần
Việt Nam. Khi đó thực dân pháp đang cai trị miền Nam. Các quan chức Pháp là
những người am hiểu về tam quyền phân lập và cách tổ chức xã hội theo khuôn mẫu
phân lập quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Họ đã nhìn và đánh giá Đạo Cao
Đài theo quan điểm đó.
Họ kết luận rõ
ràng: Đạo Cao Đài lập một quốc gia
trong một quốc gia. Đó không phải là tình cờ hay ác cảm mà căn cứ trên
pháp luật đạo và những việc làm thiết thực của Hội Thánh. Ngày nay áp lực đã
qua đi chúng tôi học đạo và trình chánh cuộc cách mạng Hội Thánh đã làm.
Thiên nầy chúng
tôi trình bày 03 phần:
. Khái niệm về
hai đường hướng cách mạng.
. Nội dung thực
hiện.
. Công thức và
bộ máy thực hiện.
@@@
I/- HAI ĐƯỜNG HƯỚNG CÁCH MẠNG: vũ lực &
nhơn nghĩa.
Trong quyển Lục
Châu Học xuất bản năm 1994 của Giáo Sư Nguyễn Văn Trung (theo bản chúng tôi có
được từ internet thì sách dày 432 trang theo khổ giấy A4. Font chữ Times New
Roman, Size 14).
Chương năm có
tên CAO ĐÀI: ĐẠO Ở VÙNG ĐẤT MỚI từ trang 214 đến trang 272 Giáo Sư cho một số thông tin sau.
Tổng hợp trang
238 và trang 258:
Hai viên chức cao cấp thực dân Pháp hợp soạn trong
báo cáo có tựa đề: LE CAODAISME PAR LA LAURETTE ET VILMONT. Cả hai cáo buộc: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một
quốc gia.
- Ông LA LAURETTE là
thanh tra chính trị sự vụ và hành chánh Nam Kỳ (L'inspecteur des Affaires
politiques et Administratives de la Cochinchine). Ông viết phần đầu, khoảng 39
trang đánh máy khổ lớn. Ngày viết xong là ler Janvier 1932: Như vậy tác giả đã
soạn từ 1931 trở về trước.
- Ông VILMONT, Tham Biện chủ Tỉnh Tây Ninh
(L'Administrateur des Services Civils - Chef de Province de Tây Ninh), viết
phần còn lại, dài 93 trang tổng số 132 trang của cuốn "Le Caodaisme".
Vilmont đề ngày và nơi hoàn tất là: Tây Ninh, Le Ler Avril 1933. Đề như vậy có
nghĩa ông ta còn đang tại chức ở Tây Ninh khi viết xong.
Do đâu mà 02
viên chức cao cấp thực dân Pháp viết như vậy?
Trang 258 có 02
đoạn sau:
Qua bản phân tách nghiên cứu của La Laurette và
Vilmont, chúng tôi ghi nhận mấy điểm sau đây:
I. Về nguồn gốc:
1/. Tài
liệu cho thấy Cao Đài không phải do Pháp tạo ra hay xúi giục, chỉ đạo chủ động
như một dư luận giải thích quen thuộc dựa vào sự kiện nhiều người lập ra Cao
Đài là viên chức Pháp, thậm chí viên chức phòng nhì rồi suy diễn là Pháp chủ
động.(ct.1). Trong bài, hai tác giả đã vạch ra rất nhiều thủ đoạn của
những người cầm đầu Cao Đài luôn luôn đặt nhà cầm quyền Pháp vào thế kẹt, bị
động (đứng trước sự việc đã rồi) hoặc bắt buộc phải dè dặt vì biết rõ những móc
nối liên hệ của Cao Đài với nhiều nhân vật có uy tín quyền thế trong Hành Pháp
và Lập Pháp, với các tổ chức bảo vệ nhân quyền ở Pháp...
... Do đó,
dựa vào tài liệu của La Laurette và Vilmont, có thể nói Cao Đài là một đạo do
người Việt Nam ở miền Nam sáng lập ra
và chủ động trong việc điều hành tổ chức thời kỳ đầu.
Ct.1/-
Hai quan chức cao cấp của thực dân Pháp nhận định:
. Cao
Đài là đạo do người Việt Nam
ở miền Nam
sáng lập ra.
Bản án Cao Đài
năm 1978 do chính quyền cộng sản Việt Nam ban hành thì viết:
Sự ra đời của giáo phái Cao Đài có một
quá trình chuẩn bị và đạo diễn của bọn thực dân Pháp, mà trực tiếp chỉ đạo là
những tên tình báo Pháp Bomet, Latapie, thống đốc Nam kỳ LeFol. Ý đồ của Pháp dùng mê tín thần quyền (thuật chiêu
hồn của Ngô Văn Chiêu chủ trương, sau này gọi là cơ bút) để ru ngủ hướng dẫn
khối nông dân yêu nước đi vào con đường thủ tiêu đấu tranh cách mạng, đồng
thời ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản xâm nhập vào khối nông dân
Việt Nam.).
So sánh 02 tài
liệu của người Pháp (1933) và cộng sản (1978) thì giáo sư Trung tin vào tài
liệu của Pháp. Chúng tôi cũng không tin vào Bản Án Cao Đài của cộng sản....Bộ
máy nghiên cứu của cộng sản cũng không phân biệt được pháp môn của Ngài Chiêu
và ĐĐTKPĐ độc lập nhau.
|
Đoạn cùng trang
258:
II/. Về ý nghĩa:
Bản nghiên cứu đưa ra hai ý nghĩa chính:
1/. Về xã hội: Đạo Cao Đài ra đời nhằm đáp lại những khát vọng xã
hội (tìm cho đời sống một ý nghĩa do các ý thức hệ hay tôn giáo thỏa mãn; và
một hội nhập xã hội theo một nếp sống cộng đồng nào đó) từ một hoàn cảnh trống
rỗng hay thiếu xót mà các tôn giáo, ý thức hệ hiện có không đáp ứng được đầy
đủ.
2/. Về chính
trị: Đạo Cao Đài
cũng nhằm đáp lại những khát vọng quốc gia (độc lập dân tộc, làm chủ về mọi mặt
cuộc đời của mình trên đất nước mình). Trong
hoàn cảnh thuộc địa Cao Đài nhằm tạo ra "một quốc gia trong một quốc
gia," dựa vào Tây mà chống Tây. Hai tác giả cho thấy những biểu lộ
của Cao Đài về mặt này có nhiều xu hướng, nhiều mức độ. Từ xu hướng âm mưu chống Pháp rõ rệt và quyết liệt như của Phạm Công
Tắc, (ct.2) đến những biểu lộ nhẹ nhàng, mang tính chất thỏa mãn tâm lý
của kẻ muốn có quyền hay làm chủ trong hoàn cảnh lệ thuộc người ngoài.
Ct.2/- Hai quan chức cao cấp của thực dân
Pháp nhận định:
. Hộ Pháp Phạm Công Tắc chống Pháp quyết
liệt.
Bản án Cao Đài lại nhận định rằng: Đức Hộ Pháp là tay sai của Pháp là phản bội
tổ quốc... giáo phái Cao Đài Tây Ninh
do những người cầm đầu dẫn dắt trong nửa thế kỷ qua, là một quá trình liên
tục lợi dụng khối quần chúng tín đồ và những người cầm đầu nối tiếp nhau làm
tay sai cho các đế quốc xâm lược nước ta, đã làm hoen ố thanh danh Đạo.
Vậy sự thật
thế nào?
Năm 1978 cộng
sản lên án Đức Hộ Pháp để tịch thâu tài sản tôn giáo và cấm ĐĐTKPĐ không cho
hành đạo.
Năm 2006 cộng
sản đạo diễn cho chi phái Hội Đồng Chưởng Quản rước liên đài Đức Hộ Pháp từ
Nam Vang (campuchia) về Tòa Thánh Tây Ninh (Việt Nam). Việc nầy góp phần đưa
cộng sản ra khỏi danh sách CPC (là những quốc gia cần theo dõi đặc biệt về
nhân quyền và tự do tôn giáo) để vào WTO.
Qua 02 sự việc
trên cho thấy bản chất thật của cộng sản.
|
Trang 270: Đạo Cao Đài không trực tiếp chủ trương tranh
đấu chính trị hay đề ra một cải cách xã hội nào, nhưng lại tạo được một chỗ
đứng cho nhiều tầng lớp trong một tổ chức, cơ chế riêng coi như của mình bên
cạnh khuôn khổ cơ chế xã hội do người Pháp áp đặt mà ít nhiều họ đều bất mãn,
chống đối.
Nói cách khác, Cao Đài phục hồi được phần nào nề
nếp tự trị của làng xã ở một qui mô rộng lớn hơn, trong đó người có vai trò
lãnh đạo được làm lãnh đạo, người cần được lãnh đạo có người lãnh đạo, thực
hiện được điều mà người Pháp (La Laurette, Vilmont) gọi là "một quốc gia
trong một quốc gia." Đây là một tổ chức quần chúng đông đảo và sớm hơn cả.
Những người theo Cao Đài nghĩa là vào một tổ chức quần chúng có lãnh đạo,
nghi thức tương trợ xã hội, cảm thấy như "được hội nhập về mặt xã
hội." Nhưng chỉ sau một thời gian, những yêu cầu lớn lao về chính trị xã
hội của cả nước đòi hỏi những thay đổi triệt để, những hình thức tranh đấu trực
diện để thực hiện những thay đổi đó. Ý thức hệ Cao Đài trong chức năng
"hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp ứng được những đòi
hỏi lớn lao kể trên.
@@@
Chúng tôi xin
cảm ơn Giáo Sư Trung đã có công giới thiệu Đạo Cao Đài trong tác phẩm nghiên
cứu rất đồ sộ. Những đánh giá về Đạo Cao Đài của vị giáo sư khả kính từng tham
gia giảng dạy tại Đại Học Cao Đài rất đáng để người đạo suy nghĩ và làm rõ.
Chúng tôi xin phép thưa rằng: những nhận định trên cho thấy rằng Giáo Sư cũng
như những nguời trước đây nghiên cứu về Đạo Cao Đài chưa nhìn ra cuộc cách mạng
NHƠN NGHĨA của Đạo Cao Đài đã thực hiện để tạo lập và xây dựng nên vùng Châu
Thành Thánh Địa.
Cuộc cách mạng
nhơn nghĩa có 03 bước: đại hùng, đại lực và đại từ bi. Giáo sư thấy được 02
bước đại hùng và đại lực nhưng không thấy bước đại từ bi nên kết luận: không
đáp ứng được yêu cầu lớn lao của cả nước. Tại sao không thấy được bước đại từ
bi?
Bởi vì các cuộc
cách mạng bằng giáo gươm, súng ống trong xã hội đi đôi với bạo lực cũng có 03
bước: đại hùng, đại lực và đại ác. Hai bước đầu thì giống nhau nên giáo sư thấy
còn bước thứ ba thì giáo sư quen thấy diện đại ác nên chỉ nghĩ có một diện đó,
vì vậy không thấy diện đại từ bi.
Đại ác là nó tự
cho là đúng rồi trình bày và dùng vũ lực bắt buộc mọi người phải tuân theo nó.
Cộng sản là bậc thầy của chữ nghĩa nên gọi đó là bạo lực cách mạng để đánh lừa
công luận.
Còn đại từ bi
cũng tự cho là đúng và trình bày với mọi người rồi để cho họ tự do lựa chọn,
không ép buộc ai phải làm theo dưới mọi hình thức. Đại từ bi cho biết cái đúng,
cái sai rõ ràng nhưng tôn trọng sự lựa chọn của từng người.
Cách mạng nhơn
nghĩa: Lành dữ hai đường vừa ý chọn. Đó là đại từ bi. Cách mạng vũ lực: Không
theo ta là kẻ thù của ta. Đó là đại ác.
Giáo sư quen
thấy đường đại ác mà không nhận thấy đường đại từ bi cũng như bao nhiêu người
khác cũng là lẽ thường tình. Hơn nữa Đạo Cao Đài là một tôn giáo hoàn cầu nên
từ suy nghĩ đến hành động phải đáp ứng được cả hai diện: quốc gia và thế giới.
Chính do nơi
thấm nhuần quan điểm cách mạng bằng BẠO LỰC và phương tiện tiến hành cách mạng
đi liền với vũ khí nên các vị tưởng rằng đó là phương pháp duy nhất chớ không
ngờ rằng phương pháp cách mạng của Đạo Cao Đài hoàn toàn khác. Đó là thực thi
NHƠN NGHĨA để tiến hành cách mạng. Nếu không có quan điểm cách mạng bằng nhơn
nghĩa thì làm sao Đạo Cao Đài qui nhơn loại về một mối theo ý chỉ của Thượng
Đế?
Thượng Đế không
làm việc theo kiểu đề ra cứu cánh rồi khoán trắng cho môn sinh. Ngài chỉ dạy
công thức và phương pháp tiến hành để đạt được cứu cánh. Thượng Đế không phó
thác cuộc cách mạng do Ngài bày ra cho sự may rũi, con đường Ngài vạch ra có
khi nhơn loại không thấy đặng nhưng chắc chắn là nhơn loại đến đặng. Bằng cớ là
cuộc cách mạng đã làm xong mà một phần lớn trí thức hiền nhân trong và ngoài
tôn giáo chưa nhận ra. Rất nhiều người tin theo đạo đã tham gia thực hiện cuộc
cách mạng nhơn nghĩa mà chưa cảm nhận rõ được. Đó là do nơi áp lực của thực dân
Pháp và gia đình trị Ngô Đình Diệm... mà ra.
Đạo Cao Đài đã lập một quốc gia trong
một quốc gia ngay trước mắt thực dân Pháp. Người Pháp cũng như các trí
thức khác vốn đã quen với quan niệm làm cách mạng là phải có lực lượng vũ trang
và mục đích cuối cùng là phải nắm lấy chánh quyền. Các vị không thể hình dung
rằng cuộc cách mạng bằng NHƠN NGHĨA của Đạo Cao Đài không nhằm chiếm lấy chánh
quyền mà nhằm chiếm lấy LÒNG DÂN.
Chiếm lấy lòng
dân bằng cách nào?
Đạo thực hiện 05
chương trình: Gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao
dân đức, dân trí và dân sinh. Hội Thánh kiến tạo, thiết kế rồi phổ biến cho
nhơn sanh thực thi trong tinh thần tự giác, tự nguyện. Hội Thánh chinh phục
nhân tâm bằng chân lý. Khi chân lý đã gieo vào lòng dân, người dân đã được nếm
mùi vị của nhơn nghĩa, của chân lý thì không một thế lực nào có thể tiêu diệt
được. Phân tích các việc làm của Hội Thánh Cao Đài bằng quan điểm cách mạng
nhơn nghĩa sẽ hiểu và thấy sự thật như vậy.
Còn nếu hiểu
cách mạng theo cách dùng bạo lực để xô ngã bạo lực rồi nắm lấy chánh quyền và
tiếp tục dùng bạo lực cai trị đất nước thì sẽ đi đến kết luận như Giáo Sư đã
viết:
. Ý thức hệ
Cao Đài trong chức năng "hội nhập" mang tính chất bảo thủ không thể đáp
ứng được những đòi hỏi lớn lao kể trên.
Tại trang 260.
Trong một hoàn cảnh bị ngoại bang cai trị dưới chế
độ thuộc địa, tạo ra được một tổ chức quần chúng đông đảo, tương đối riêng biệt
chắc không phải là một điều mà ai cũng làm được. Lê Văn Trung chỉ thiếu có một điều, và là điều cốt yếu nhất của một
lãnh tụ: Ý thức chính trị để đưa tới một chủ thuyết đường lối chính trị nào đó.
@@@
Thưa giáo sư.
Thật lòng chúng
tôi rất hân hoan khi đọc những dòng trên. Những nhận xét của giáo sư ngày đêm
thôi thúc chúng tôi tìm tòi, suy nghĩ để làm rõ vấn đề giáo sư cho là còn
thiếu.
Là một người
theo công giáo. Giáo sư từng nhận định rằng: Vatican đánh rắm cũng thơm làm cho nhiều người khó chịu là
đương nhiên. Nhưng các sự thật đã xãy ra và đang xãy ra trong Tòa Thánh Vatican
cho thấy cái nhìn nghiêm túc của giáo sư về giáo hội. Vụ lạm dụng tình dục hàng
ngàn trẽ em dẫn đến bê bối tài chánh...làm cho Liên Hiệp Quốc lên tiếng đề nghị
Vatican cung cấp hồ sơ chắc là vẫn còn thơm với nhiều người.
Còn với Đạo Cao
Đài Giáo sư mở hướng tìm hiểu Đạo Cao Đài theo quan điểm xã hội học là xem xét
nguồn gốc xã hội nào đã thúc đẩy nó nên hình và khi ra đời nó đóng góp được gì
cho xã hội (mà không lấy học thuyết, giáo lý tôn giáo làm trọng tâm) nên nhiều
người cho rằng giáo sư ám sát tôn giáo nhưng với chúng tôi thì không nghĩ vậy.
Giáo lý, tín
điều là việc quan trọng với người đạo. Còn Đạo đó đóng góp được gì cho đời, cho
quốc gia xã hội chính là thước đo giá trị của tôn giáo đó. Cái giá trị tôn giáo
(cũng như con người) không phải ở lời nói là ở việc làm.
May thay Đức Hộ
Pháp đã lo điều đó nên năm 1956 sau khi đất nước bị chia đôi Nam Bắc Ngài cực
lực phản đối việc cụ Hồ và cụ Ngô cậy vào ngoại bang để gây cảnh chiến tranh
nồi da xáo thịt. Ngô Đình Diệm đã khủng bố quan điểm đó và Ngài đã phải lưu
vong sang Campuchia... từ đó đưa ra Chính Sách Hòa Bình Chung Sống (26-03-1956)
kêu gọi hai bên thi đua nhơn nghĩa, không cậy vào ngoại bang để giải quyết...
đường lối Hòa Bình Chung Sống từng bước đi vào xã hội. Bốn chữ HÒA BÌNH CHUNG
SỐNG đã được thực hiện mà Neson Mandela ở Nam Phi là một điển hình.
Cộng sản nói rất
hay nên mới lôi cuốn được quần chúng, lôi cuốn được trí thức. Nhưng qua sự mà
sát của thời gian, sự kiểm tra từ thực tế nhân loại đã đúc kết rằng: Chưa có đảng phái nào hứa nhiều mà thực
hiện KHÔNG CÓ GÌ như cộng sản.
Tôn giáo mà sống
trong tháp ngà rồi dùng mỹ từ tu hành thuần túy để sống ký sinh vào xã hội thì
chưa đáng là tôn giáo chân chính. Tôn giáo phải có đóng góp cho xã hội tiến bộ
cũng như chia vui sớt nhọc với nhân quần xã hội mới đáng mặt là tôn giáo chân
chính.
Sự đóng góp của
Đạo Cao Đài từ khi nó hiện sinh chính là CÁI GÁNH ĐỜI mà Đức Hộ Pháp phải gánh,
Hội Thánh phải gánh. Cái gánh đời của Đức Hộ Pháp phải gánh là từ chánh giáo
của Đức Chí Tôn dạy Hội Thánh thực hiện cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa tạo lập
ra một quốc gia trong một quốc gia để làm khuôn mẫu cho nhân loại.
Đến năm 1956
Ngài công bố Cương Lĩnh Hòa Bình Chung Sống với công thức: Do Dân – Phục Vụ Dân
– Lập Quyền Dân. Cương lĩnh thể hiện dùng tinh thần HÒA BÌNH để thiết kế việc
CHUNG SỐNG. Nó chỉnh lý chánh sách Chung Sống Hòa Bình... vì thiết kế từ vật
chất CHUNG SỐNG để kiến tạo tinh thần HÒA BÌNH. Thực tế cuộc sống đã chứng minh
rằng: từ khi con người hiện sinh và biết hiệp đồng nhau thành quần thể thì đã
chung sống với nhau nhưng chẳng hề có hòa bình. Nghĩa là công thức chung sống
hòa bình đã thất bại từ lâu rồi nay có muốn làm mới để xài cũng không thể chi
thành công.
Một điều quan
trọng nữa là công thức LẬP QUYỀN DÂN. Đây là công thức mà Đạo đã thực hiện
thành công nên đem đóng góp cho nhân quần xã hội.
Tóm lại: Hòa
Bình Chung Sống hay Lập Quyền Dân chính là giải pháp của Đạo xây đời rất thực
tế. Đó chính là thước đo giá trị Đạo Cao Đài theo hướng xã hội học giáo sư đề
ra. Đó là việc rất nghiêm túc và chánh đáng. Tôn giáo chân chính phải đủ sức và
đủ sáng để tạo lập giá trị của mình và để quyền nhìn nhận cho nhân loại. Cho
nên chúng tôi không tin rằng giáo sư ám sát tôn giáo mà nghĩ rằng giáo sư muốn
tôn giáo phải chứng tỏ giá trị mình là làm được gì trước khổ cảnh của nhân
loại.
Người chơi cờ
nào cũng biết rằng có lúc phải lùi một nước cờ hay nhiều nước cờ để thắng cả
bàn cờ. Việc chơi mà còn có thể rút ra được bài học như thế huống chi việc Đạo
là việc quan hệ đến vận mạng nhân loại lẽ nào lại được phép háo thắng hay khinh
xuất. Người lãnh đạo tôn giáo chắc chắn là phải tự thắng tánh háo thắng và
khinh xuất. Trong bàn cờ thế sự có khi phải chấp nhận lùi một bước để tiến lên
rất nhiều bước và thực hiện cho xong cứu cánh.
Cũng như Thị
Kính nếu quyết chí tranh phải quấy với Thị Mầu, với quan chức hương thôn, tranh
thắng tức khắc với thị phi của người đời... thì bà sẽ thắng, chắc chắn thắng.
Bà chỉ cần phơi bày sự thật rằng bà là nữ nhân thì làm sao là cha đứa trẻ trong
bụng Thị Mầu... cái tất thắng đến tức khắc. Nếu bà thắng khi còn sống thì chỉ
thắng có một lần và nhân loại không có Đức Quan Thế Âm. Bà chọn cái thắng nhiều
lần là thắng khi xa rời cõi thế để nhân loại có Đức Quan Thế Âm. Nhân loại có
Đấng thiêng liêng là hiện thân cho công thức: từ hòa và nhẫn nhục rất cao cả.
Những người trí
thức đương thời có làm việc với Ông Lê Văn Trung đều có chung nhận xét rằng ông
là người thâm trầm kín đáo, thoạt nhìn có khi thấy như hờ hửng mà kỳ thực là
rất ý vị, sâu xa... Ông biết rằng người Pháp đã nhận định Đạo Cao Đài lập quốc
gia trong quốc gia thì họ cũng đã định được cái tinh thần của quốc gia đó hoàn
toàn không có lợi cho công cuộc thực dân của họ. Đạo kêu gọi đoàn kết, thương
yêu để phát triễn là đại kỵ với thực dân hay độc tài. Lúc nào họ cũng muốn gây
chia rẽ, ghét lẫn và oán thù đặng dân chúng tự suy yếu, dân chúng suy yếu thì
dễ bề cho độc tài hay thực dân cai trị. Ông biết rằng Đạo Cao Đài chỉ cần một
sơ hở nhỏ là thực dân Pháp sẽ tiêu diệt tức khắc.
Ông Lê Văn Trung
khi còn là Nghị Viên Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ đã làm cho thực dân Pháp thất bại
khi muốn đánh thuế đất theo lục hạng điền. Ông cũng là người đứng ra cổ xúy cho
việc thành lập trường Nữ Học Đường đầu tiên ở Việt Nam.
Nhà
báo Diệp Văn Kỳ nhận định việc lập Nữ Học Đường:
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh
phủ lúc bấy giờ, cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong
tục cũ kỹ của Annam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất
công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên,
góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở
đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài
trong nữ giới.
|
Sau đó ông còn
hiên ngang đọc một bài diễn văn yêu cầu chánh phủ, lấy một phần số tiền công
nho phụ trội của tất cả các làng khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh, đặng lập ra tại Saigon
một cái Hội Quán gọi là "La Grande Maison Commune Annamite" - Nhà Ðại
Ðồng Của Người An Nam...
Khi còn ở chốn
quan trường Ngài đã ý thức về giống nòi như vậy... nhưng thấy sức mình như thằn
lằn xô cột đá nên chán nãn lao vào con đường ăn chơi phóng túng nghiện cả á
phiện... thế mà khi biết được ý nghĩa mối đạo Ngài bỏ tất cả (trong 24 giờ) để
cống hiến. Cái ý thức về đạo, về trách nhiệm được Thượng Đế giao phải mạnh mẽ thế
nào mới có hành động dứt khoát đến thế. Như vậy người Pháp cân nhắc ắt hẳn hiểu
rằng tổ chức lập quốc của Ông Trung không có lợi cho họ.
Binh pháp dạy:
Biết người, biết ta trăm trận trăm thắng. Ông Lê Văn Trung biết Đạo, biết trách
nhiệm và biết thực dân Pháp... Ngài từng than thở với bổn đạo rằng: "Em
ôi! Thân của Qua mất còn bao quản, luật Ðời chỉ cản ngăn xác thịt, chớ không
buộc trói được tinh thần. Qua lo là
lo gánh nặng đường xa, không người đồng chí, Qua còn đây thì chẳng nói gì, chớ
mai kia mốt nọ Qua mất rồi thì thương cho con cái của Thầy phải chịu liu chiu
lít chít".
Là một người
từng đối đầu với thực dân Pháp để binh vực cho dân chúng, ông Lê Văn Trung từng
biết áp lực khủng khiếp của Pháp. Giờ Thượng Đế giao trọng trách cho ông đứng
ra để mở mang nền QUỐC ĐẠO ông biết nó quan trọng hơn tất cả các việc ông trãi
qua rất nhiều lần. Ông biết giá trị của đạo với phần nhân loại đang bị đày đọa,
đang bị nghèo nàn dốt nát bao vây cuộc sống, nếu sơ sẩy là hậu quả không thể
lường hết được và ông thành tội nhân thiên cổ. Ông Ý THỨC ĐẦY ĐỦ trọng trách
nên che bớt cái sáng của mình đi.
Đạo
Đức Kinh chương 28 viết:
Tri kỳ hùng, Thủ
kỳ thư. Vi thiên hạ khê...
(Biết
như con trống, sống như con mái, làm khe nước cho thiên hạ).
Tri kỳ bạch, Thủ
kỷ hắc, Vi thiên hạ thức...
(Biết
trắng, giử đen, làm khuôn mẫu cho thiên hạ...)
Tri kỳ vinh, Thủ
kỳ nhục, Vi thiên hạ cốc...
(Biết
vinh, giữ nhục làm hang sâu cho thiên hạ)
Chương
41 viết:
...Cố kiến ngôn hữu chi, (người xưa nói)
Minh Đạo nhược
muội, (sáng
về đạo dường như tối tăm,)
Tiến Đạo nhược
thối...:
(tiến về Đạo thì dường như thối lui...)
Chương
52 viết:
Kiến tiểu viết
minh,
(Thấy được chổ tế vi là sáng)
Thủ nhu viết
cường,
(Giữ được mềm yếu là mạnh)
Dụng kỳ quang, (Dùng cái sáng
của Đạo)
Phục quy kỳ
minh,
(Trở về cõi sáng của mình)
Vô di thân ương, (thân không sợ
tai ương)
Thị vi tập
thường.
(Đó gọi là sáng gấp hai)
Ông Trung có học
Đạo Đức Kinh hay không mà sống như thế?
Tóm lại ông biết
rõ hết và phải giả dại qua ải chớ tranh hơn thua với thực dân Pháp để họ diệt
Đạo hay sao? Nhịn thua một nước cờ chưa phải là thua bàn cờ. Bằng cớ là sau đó
Đạo vẫn thực thi được chánh giáo và phát triễn đến ngày nay.
Giáo sư đã nhìn
vào nước cờ nhịn thua mà viết rằng:
...Lê Văn Trung chỉ thiếu có một điều, và là điều
cốt yếu nhất của một lãnh tụ: Ý thức chính trị để đưa tới một chủ thuyết đường
lối chính trị nào đó. Cũng là điều hiểu được. OK.
Ông Lê Văn Trung
tranh thắng một nước cờ mà thua cả bàn cờ thì thắng nước cờ ấy có nghĩa gì đâu
(mà còn là một tội đồ nữa là khác). Ông chịu lép một nước cờ mà Đạo thực hiện
được chương trình theo chánh giáo của Đức Chí Tôn thì người đời có nhìn vào
nước cờ nhịn thua mà chê bai cũng là lẽ thường. Còn với người đem Đạo Đức Kinh
(là một hệ thống giá trị khác hệ giá trị của Mác, Lê- Nin, Hồ Chí Minh...) ra
soi chiếu người ta sẽ kính trọng khí tiết của Ngài hơn.
Đó là nói về lý
thuyết.
Còn trên thực tế
khi ông Lê Văn Trung mất nhìn số người than khóc, tiếc thương và tình nguyện để
tang cho ông chính là thước đo giá trị của ông trước nhân quần xã hội. Dân tự
nguyện thờ ai thì đó là người được lòng dân. Dân thờ ai thì đó là chân lý.
Nhà
báo Diệp Văn Kỳ viết:
Ông Lê Văn Trung đã làm được cái gì?
Ðiều đó chưa biết. Chúng tôi chỉ biết
rằng từ hôm ông chết đến nay, ở Tòa Thánh Cao Ðài Tây Ninh, số người mỗi ngày
đến chịu tang, lấy muôn mà kể. Già trẻ, bé lớn, đàn ông, đàn bà ở Lục Tỉnh, ở
Nam Vang, ở Lèo, thảy đều thương tiếc, khóc than, chẳng khác nào con mất cha
mẹ. Nếu như có thể lấy những "Chuôn" vải trắng bịt trên đầu để làm
thước đặng đo sự nghiệp, công đức của một người quá vãng, thì ta có thể nói
rằng sự nghiệp, công đức của Ông Lê Văn Trung là lớn nhất ở Nam Kỳ nầy vậy.
Trái lại, dầu cho có ai bảo rằng sự
nghiệp ngưỡng mộ ấy đều do ở điều mê tín tàm vơ mà sanh ra, thì họ cũng phải
công nhận rằng đó là một cái tâm lý quần chúng cần phải nghiên cứu, là một
"việc xã hội" cần phải điều tra.
Muốn nghiên cứu tâm lý ấy, muốn điều
tra "việc xã hội" ấy, thì tôi tưởng chẳng chi hay hơn là xét cho rõ
lai lịch của người đã đào tạo ra tâm lý ấy và "việc xã hội" ấy.
|
Hằng năm lễ kỷ
niệm ngày ông bỏ xác phàm được tổ chức long trọng và người đạo lẫn đời nhiều
nơi về dự đó chính là công nghiệp của ông. Nếu ông thiếu ý thức như giáo sư
viết thì chẳng lẽ nhân loại lầm lẫn mà tôn vinh “ông thiếu ý thức” đông và lâu
đến vậy.
Chúng tôi không
tin ông Diệp Văn Kỳ lầm và một phần nhân loại như thế lầm lẫn nên mạo muội nghĩ
rằng do giáo sư chưa hiểu đúng hành tàng của Ông Lê Văn Trung nói riêng và cuộc
cách mạng nhơn nghĩa nói chung. Nghĩa là giáo sư đã đem một hệ thống giá trị
khác để hiểu về ông Lê Văn Trung cũng là chuyện thường tình.
Ông Lê Văn Trung
làm chưa xong thì đã mãn phần nên đã có Đức Hộ Pháp kế nghiệp. Đức Hộ Pháp có
đầy đủ hiểu biết để thực hiện việc LẬP MỘT QUỐC GIA THEO KHUÔN MẪU CAO ĐÀI và
Ngài cũng không cần rao hàng. Bởi vì Ngài không chủ trương dùng súng đạn để
giải quyết bất đồng nên cũng không muốn thực dân Pháp hay Ngô Đình Diệm dùng
súng ống diệt Đạo. Ngài thực thi xong đường hướng lập quốc bằng nhơn nghĩa của
Đức Chí Tôn chỉ dạy xong thì để đó. Cái gốc đã vững bền thì cái ngọn tươi tốt
chỉ còn là thời gian. Rừng xanh đã nên hình lo chi thiếu củi. Trong cuộc đời
cách mạng của ông Phạm Công Tắc có lắm khi ông phải đem mục tiêu phụ lên che
chắn cho mục tiêu chính để tồn tại (thư gởi Bắc Tông Đạo năm 1958).
Đức Chí Tôn gánh
cả Đạo và Đời. Vậy mối đạo do chính Ngài làm chủ cũng phải gánh hai cái gánh
Đời và Đạo. Đức Hộ Pháp là Giáo chủ tại thế và Hội Thánh thay thân cho Thầy
Trời cũng phải gánh cả 02 gánh Đạo và Đời. Thư gởi Bắc Tông Đạo ngày 29-4-1958.
Đức Hộ Pháp nói rõ: Trước áp lực của Pháp Ngài phải đánh tiếng Đạo Cao Đài là
Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi...
Đại Từ Phụ, lại chỉ dạy rõ rằng: Đạo Cao Đài là Nho
Tông chuyển thế, nên nói rõ Đạo Cao Đài là Quốc Đạo của ta thì hiển nhiên mình
đã cố tâm khai trước thiên hạ rằng mình muốn phục cựu, rõ ràng còn chối cãi với
ai đặng nữa. Vì vậy mà Pháp mưu toan tiêu diệt mình là đúng lý...
.... Chính mình phải tự hiểu
lấy mình rằng: Đứng trước một kẻ thù nghịch của mình đủ quyền năng, đủ thế lực
mưu hại lại mình mà dám vỗ ngực xưng tên rằng mình là kẻ thù địch của họ... thì
họ tìm phương hại lại mình là đúng, còn than thở trách móc mà làm gì.
Dầu rằng mình biết lẽ ấy; nên đã đề xướng ra thuyết:
QUI TAM GIÁO, HIỆP NGŨ CHI đặng làm cho dịu bớt tình thế. Nhưng cũng không đủ
phương bào chữa. Và cũng vì nơi đó mà chính Qua đủ đức tin chịu nổi khổ hạnh
đặng tranh đấu vượt qua các trở lực.
Lịch sử nhân
loại chứng minh rằng khi Võ Vương tiến binh chiếm nhà Thương thì Bá Di và Thúc
Tề nhận xét rằng: kẻ bạo thay cho kẻ
bạo nên hai người rũ nhau đi ở ẩn.
Hai người hiền
sĩ ấy muốn rằng nhân nghĩa thay cho bạo cường mới đáng là cách mạng. Những văn
bút đời sau chê trách 02 vị cũng nhiều và khen tặng, kính phục hai vị hiền sĩ
cũng lắm. Chê cũng có lý để chê, khen cũng có lý để khen. Nhưng điều quan trọng
là những người cùng tâm tư: muốn đem nhân nghĩa thay cho bạo cường chưa có công
thức để thực hiện. Điều thiếu đó lâu dài đến độ nhân loại gần như quên hẳn ước
muốn của 02 vị, không còn tin rằng có công thức xây đời bằng nhơn nghĩa.
Con người là sản
phẩm của giáo dục. Giáo án học đường và xã hội dạy cho nhân loại rằng cách mạng
đi đôi với vũ khí và bạo lực sát nhơn và coi đó là con đường duy nhất. Giáo dục
nhồi nhét thét rồi không nghĩ rằng có cách mạng không cần vũ khí và bạo lực.
Nền giáo dục mù lòa đã tạo ra hàng hàng lớp lớp người từ thế hệ nầy sang thế hệ
khác thành những người khiếm khuyết kiến thức mãn tính. Giáo dục mù lòa tạo nên
những người khiếm thị bẩm sinh thì không thế nào biết đến màu sắc cỏ cây...cũng
như không thể hình dung rằng có cách mạng bằng nhơn nghĩa.
Nhà Châu được
tiếng là nhơn nghĩa nhưng cũng phải dùng đến bạo lực và chiến tranh để thực
hiện.
Trong Bình Ngô
Đại Cáo Nguyễn Trãi tiên sinh viết:
Lấy nhơn nghĩa
thắng hung tàn,
Đem chí nhân
thay cho cường bạo...
Về nguyên tắc là
chí lý.
Còn thực tế chế
độ nhà hậu Lê vẫn không thể hiện cho nhơn nghĩa và chí nhân nên mới tiêu vong.
Ngay từ khi Bình Định Vương Lê Lợi còn sống Ngài đã giết hại những công thần
từng chung vai sát cánh với Ngài khi chiến đấu. Giáo gươm giết kẻ thù giờ quay
lại giết người bạn cùng chiến đấu ai dám nói rằng đó là nhân nghĩa?
Đó là vong ơn,
bội nghĩa và tàn nhẫn với người cộng sự. Vụ án Lệ Chi Viên đầy oan trái thì
nhơn nghĩa chổ nào? chí nhân ở đâu?
Cụ Nguyễn Trãi
muốn có triều đình nhơn nghĩa, chí nhơn rồi thành nạn nhơn phải chịu án tru di
tam tộc thể hiện sự bế tắc trong việc tìm kiếm một xã hội nhơn nghĩa.
Nhưng ý tưởng
dùng nhân nghĩa để thay đổi xã hội có chăng là từ trong tôn giáo mà thôi. Phật
Giáo, Tiên Giáo, Nho Giáo, Công Giáo... đều là những tôn giáo muốn dùng nhơn
nghĩa để xây dựng xã hội. Xét về phương diện xã hội thì các tôn giáo đó đã góp
phần xây dựng nên bác ái và công bằng trong xã hội. Nhưng do trình độ của nhân
loại nên các vì giáo chủ chưa thể đưa ra công thức xây dựng thế giới đại đồng.
Chưa thể tạo lập MỘT QUỐC GIA TRONG MỘT QUỐC GIA để làm mẫu mực cho nhân loại.
Từ ngày hiện
sinh nhân loại ăn lông ở lổ, rồi tiến đến văn minh nông nghiệp, văn minh công
nghiệp, điện và điện tử rồi ngày nay là thời đại internet. Mỗi thời kỳ văn minh
đều có nền tảng sức mạnh khác nhau. Khởi thủy dùng sức mạnh của cơ bắp của con
người, rồi tiến lên biết dùng đến sức mạnh của gia súc. Tiến đến dùng sức mạnh
của vật chất là các động cơ đốt ngoài (máy chạy bằng hơi nước hay than...) rồi
động cơ đốt trong đến sức mạnh của dòng điện, đến nguyên tử, hạt nhân...và ngày
nay con người làm việc hay liên lạc nhau qua vi tính (internet).
Internet không
cần đến súng đạn mà cần đến sự hiểu biết, cần tri thức. Như vậy chân lý có
phương tiện phổ biến rất nhanh. Khi chân lý đã được chứng minh và đưa lên net
thì không ai có thể tiêu diệt nó được.
Đến Tam Kỳ Phổ
Độ thì nhân loại đã tiến đến năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà nên Thượng
Đế giáng trần chỉ dẫn công thức và dạy lập ra bộ máy thực hiện cuộc cách mạng
nhơn nghĩa.
Lẽ ra câu hỏi cách mạng là gì phải được nêu ra trước
tiên nhưng vì tính chất trực diện của bài viết nên đến đây xin được nêu ra.
Cách mạng có 02
diện cách mạng bản thân và cách mạng xã hội.
Bản thân mỗi
người có thân và tâm nên cách mạng bản thân còn được gọi là cách mạng thân tâm.
Cách mạng thân tâm diễn ra trong mỗi con người nên tùy vào đức tin, hiểu biết
mà thực hiện.
Thế nào là xã
hội? Quan niệm thế nào là xã hội vẫn không ngừng thay đổi. Chúng tôi gọi chung
xã hội lớn hay nhỏ cho đến cả thế giới đều là xã hội.
Có nhiều cách
giải thích hay định nghĩa thế nào là cách mạng xã hội. Chúng tôi chọn định
nghĩa của ông Nghiêm Xuân Hồng:
Cách mạng là sự
thay đổi lớn lao có sự tham gia của quần chúng. Hiểu như vậy thì
trong lịch sử nhân loại luôn luôn có 02 đường lối cách mạng diễn ra cùng một
lúc. Đó là cách mạng theo đường lối ôn hòa và cách mạng theo đường lối vũ lực.
Cách mạng ôn hòa
thường do các nhà tôn giáo thực hiện bằng nhơn nghĩa. Các nhà chánh trị, quân
sự thực hiện cách mạng bằng vũ khí và bạo lực. Cuộc cách mạng của các nhà tôn
giáo theo con đường đại hùng, đại lực và đại
từ bi. Cách mạng của các nhà chánh trị và quân sự theo con đường: đại
hùng, đại lực và đại ác. Hai
bước đầu giống nhau chỉ khác ở bước thứ ba. (i)
Ông Huỳnh Ngọc
Chênh trong năm 2013 có đăng trên blog một bài tìm hiểu về Sĩ Đạt Ta và Hồ Chí
Minh. Khi so sánh hai nhân vật nầy với nhau ông có e ngại rằng mình sẽ bị ném
đá (may mắn là ông không bị ném đá)....
Nhưng điều đó cho thấy giữa đạo và đời còn rất nhiều khoản cách nên các trí
thức trong xã hội còn e dè như thế cũng là thường.
Con đường đại từ
bi gần như vô hình vô ảnh mà đa số khách trần chỉ thấy con đường đại ác. Những
vị không hài lòng với cách mạng bằng đại ác cũng có nhiều người chủ tâm quan
sát tìm hiểu cách mạng tôn giáo nhưng không làm rõ được bước đại từ bi.
Trong Đạo Đức
Kinh của Lão Tử ông phân tích rằng có 02 cách trị an thiên hạ: Trị bằng vô vi
và trị bằng hữu vi. Ông cũng nói rõ vô vi thì khó làm, hữu vi thì dễ làm.
Theo chúng tôi
hiểu con đường vô vi chính là con đường cách mạng của các nhà tôn giáo. Con
đường hữu vi chính là con đường của các nhà chính trị, quân sự. Nhân loại
chuộng cái dễ nên nhân loại phải trả giá. Cái giá đó là cần thiết cho sự tấn
hóa. Ngày nay sự trả giá sắp đủ (đến hồi kết) nên Đại Từ Phụ đến chỉ dẫn cho
nhân loại thực hiện cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa được viên mãn.
Cái thành tựu
của nhơn nghĩa thì dường như là chổ mà thiên hạ thấy là khiếm khuyết. Đạo Đức
Kinh chương 45 viết:
Đại thành nhược
khuyết,
(Thành tựu mỹ mãn dường như dở dang,)
Kỳ dụng bất tệ. (Thì chổ dùng
của nó không hư được)
Đại doanh nhược
xung,
(Đầy tràn mà dường như trống không)
Kỳ dụng bất
cùng.
(Thì chổ dùng của nó vô cùng,)
Đại trực nhược
khuất, (Rất
ngay thẳng dường như cong queo,)
Đại xảo nhược
chuyết,
(Rất khéo léo dường như vụng về,)
Đại biện nhược
nột....(
Rất hùng biện dường như ấp úng...)
(Trang 221 &222. Bản in năm 1992 nhà xuất
bản Văn Học. Ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú)
Không phải ngẫu
nhiên mà các nhà nghiên cứu Phương Tây tôn vinh Đạo Đức Kinh là túi khôn của
loài người. Chúng tôi xin trích lại đoạn trên để quí trí thức đạo tâm quan sát
xem cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA có phải là như vậy hay chăng?
Khi người da đen
ở Châu Phi còn bị kỳ thị họ bị miệt thị bằng mấy chữ LỤC ĐỊA ĐEN. Họ đã nhặc
lại mấy chữ bị ném để vươn lên. Kết quả là ngày nay mấy chữ Lục Địa Đen đã được
nhân loại kính trọng.
Các vị cách mạng
tiền bối chống ách thực dân lúc đầu phản đối chữ quốc ngữ (vì nhận ra ý đồ
không tốt của thực dân Pháp). Nhưng sau đó các vị thấy chữ quốc ngữ là một công
cụ lợi hại để nâng cao dân trí nên ra sức truyền bá chữ quốc ngữ và Pháp phải
sợ trở lại. Chính cách suy nghĩ của các cụ đã làm cho nổi sợ đổi chổ.
Buổi sơ khai
Pháp nhận định: Đạo Cao Đài lập một
quốc gia trong một quốc gia để diệt Đạo. Ngày nay đạo đã đủ mạnh để hậu
tấn nhận ra bài học lập ra một quốc gia nhơn nghĩa của Hội Thánh rồi đem ra
trình chánh.
Tóm lại: Công thức
cách mạng bằng nhơn nghĩa là do Thượng Đế chỉ dạy. Hội Thánh Cao Đài tiếp nhận
công thức và truyền bá cho nhơn sanh hiểu. Công cuộc cách mạng thực hiện đã
xong. Phần nhân loại đón nhận và chấp nhận nó như thế nào là do nhân loại tự
quyết.
Đó là con đường
đại hùng, đại lực và đại từ bi.
@@@
CHÚ THÍCH (i)/-
Đức Hộ Pháp bị đày đi Madagascar.
Đức Hộ Pháp
nhiều lần cho biết rằng năm 1941 một số người cho biết rằng thực dân Pháp định
bắt Đức Hộ Pháp và thỉnh cầu Ngài lánh mặt nhưng Đức Hộ Pháp từ chối.... và
Pháp đã bắt Ngài đày sang Madagascar (Phi Châu). Chúng ta tin Đức Hộ Pháp nói
thật nhưng những người không tin sẽ chất vấn có gì khác nữa không?
Xin thưa thư
ngày 02-02-1955 của nhà báo Nam Đình (Nguyễn Thế Phương) có đoạn: .... Kịp đến lúc thực
dân tấn công Đạo triệt để, Tôi đã không ngại về Tòa Thánh nhiều đêm để cùng
Ngài dự bị đối phó việc “vây Tòa Thánh” và “khám xét giấy tờ” (1936).
Việc phải đến đã đến.
Vài hôm sau, Ngài xuống Thánh Thất
Chợ Lớn. Chính tôi đã khẩn khoản với Ngài suốt 02 đêm trường, để yêu cầu Ngài
lánh mặt đừng để bị bắt, bị đày. Ngài cương quyết với khẩu hiệu “tử vì đạo” nên
không đi, (riêng một ông Giáo Sư Thái…và Tôi trốn ở lại nên không bị đưa đi
dưới chiếc Lamette Picquet).
Thưa Ngài,
Trở về Tòa Thánh, Tôi lên yết kiến
Ngài nhiều lần: trong một bửa tiệc chay Ngài cầm ly nâng lên cao để nói với Tôi
mấy lời rất cảm động…
Kịp đến khi Thống Đốc không cho Ngài
tiếp tục cất Thánh Điện...
Chúng tôi xin
phân tích theo xã hội học một vài điểm trong việc chấp nhận tù đày của nhà cách
mạng ÁI DÂN (Phạm Công Tắc).
a/- Cơ thử thách cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA.
Đức Quyền Giáo
Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên năm 1934, ngay trong ngày đưa liên đài nhập
bữu tháp Hội Thánh đã công cử Đức Hộ Pháp nắm luôn quyền Chưởng Quản Cửu Trùng
Đài.
Đức Hộ Pháp đã
cầm quyền Chí Tôn tại thế nên là giáo chủ Đạo Cao Đài. Liền đó Ngài ký hàng
loạt luật lịnh để làm rõ quyền của nhơn sanh, rõ hơn nữa về cơ chế 03 Hội Lập
Quyền Vạn Linh.
Năm 1931, 1932
đã có mở Hội Nhơn Sanh nhưng chưa ban hành luật đầy đủ. Đức Hộ Pháp ban hành
liên tiếp 03 bộ luật: Luật Lệ Chung Các Hội, Nội Luật Hội Nhơn Sanh, Nội Luật
Hội Thánh. Song song đó hằng loạt công việc khác được tiến hành. Khó khăn nhất
là đối phó với các chi phái phản đạo.... tất cả đều thành công.
Năm 1936 cuộc
tái khởi công xây dựng Đền Thánh bắt đầu, với số tiền ban đầu là 01$46 (tương
đương 100kg gạo). Đến năm 1941 là đã tiến hành được 05 năm. Đền Thánh đã tạm
xong phần cơ bản.
Năm 1937 mở 03
Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Năm 1938 những
nguyện ước 03 của vạn linh được đưa vào Đạo Luật Mậu Dần (1938). Đạo luật đã
thể hiện Bảo Sanh, Nhơn Nghĩa, Đại Đồng của Đạo qua các chương trình: trường
học, nhà thương, nhà dưỡng lão ấu, mưu sinh... rất chi tiết và rõ ràng.
Một cuộc cách
mạng để lập quốc gia trong quốc gia rất âm thầm nhưng có thật đã diễn ra trong
đất nước nô lệ đúng như Sấm Trạng Trình viết: Thầy Tăng mở nước ai thời có hay.
Đạo Cao Đài đã
thực thi 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo
để nâng cao dân dức, dân trí và dân sinh.
Người dân đã
hưởng được mùi vị của cuộc cách mạng nhơn nghĩa.
Nếu cuộc cách
mạng đó chưa đủ mạnh thì người đạo sẽ chẳng tha thiết đến việc phải tìm cách
đưa Đức Hộ Pháp trở về Tòa Thánh.
Sự thật đã trả
lời rằng cuộc cách mạng nhơn nghĩa đã thành máu thịt trong lòng cư dân thánh
địa. Nên họ nung nấu ý chí tranh đấu để đưa Đức Hộ Pháp trở về... họ đang khổ
sở nhưng vẫn muốn đền ơn người đã làm cho cuộc sống họ có ý nghĩa hơn và muốn
thoát ra khổ cảnh. Họ muốn cuộc cách mạng nhơn nghĩa có người lãnh đạo để đưa
họ đi xa hơn nữa, cuộc sống của họ tươi sáng hơn nữa...
Người Nhật đã
nhìn ra thùng thuốc súng khổng lồ đó nên họ tìm cách châm lửa vào đó. Họ tìm
đến Ngài Cao Tiếp Đạo, Ngài Trần Quang Vinh... và các vị nầy đã dẫn lửa vào
khối thuốc súng khổng lồ có tên: Lòng
Yêu Ái Đức Hộ Pháp.
Khối thuốc súng
đó bùng lên long trời lỡ đất thổi bay thực dân Pháp ngày 09-03-1945. Sau đó
Pháp trở lại Đông Dương và đến năm 1946 họ phải đưa Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh.
Đó là ý nghĩa xã hội học về mức độ thành công
của cuộc cách mạng nhơn nghĩa từ năm 1926 đến 1941. Ngày trở về của Đức Hộ Pháp
năm 1946 đã chứng minh như vậy.
b/- Sự khác biệt trong cách mạng ôn hòa và cách mạng
vũ lực.
Ngay từ khi thực
dân Pháp xâm lăng nước ta thì đã có những phong trào Cần Vương nổi lên chống
Pháp từ Nam chí Bắc. Số lính trong quân đội Pháp thì ít nhưng vũ khí tối tân
nên những cuộc chống Pháp đều thất bại. Lòng yêu nước, ý chí hy sinh đã thất
bại trước vũ khí tối tân và sự tàn bạo. Những người yêu nước biết đến sức mạnh
của khoa học kỷ thuật nên song song đó họ nghiên cứu cách cải tiến vũ khí...
(Cụ Phan đình Phùng và Cụ Cao Thắng là bằng cớ).
Những người yêu
nước cũng nghĩ ra một đường hướng đấu tranh khác nữa là cách mạng bằng phương
pháp ôn hòa. Các cụ chủ trương nâng cao dân trí bằng cách truyền bá khoa học kỷ
thuật song song với tinh thần yêu nước làm cho dân chúng có cuộc sống khá giả
hơn, mạnh hơn rồi trên cơ sở đó buộc Pháp phải trả độc lập lại cho dân tộc.
Điển hình cho đường lối ôn hòa là cụ Phan Chu Trinh. Các phong trào Đông Du,
Đông Kinh Nghĩa Thục...ra đời đều nhằm mở mang kiến thức người tham gia cách
mạng...nâng cao dân trí...
Về ý thức: Cuộc cách mạng chống Pháp lúc đầu là
Cần Vương sau đó xuất hiện thêm một khuynh hướng mới chủ trương xây dựng xã hội
theo mô hình dân chủ không có vua của Pháp. (Văn Thân).
Về phương pháp: Bước đầu là phương pháp vũ lực
dùng súng ống, gươm giáo... làm phương tiện. Sau đó thêm phương pháp cách mạng
ôn hòa dùng hiểu biết, dùng báo chí, truyền đơn nâng cao dân trí, cổ vũ công
bằng, bình quyền...song song với cách mạng vũ lực.
Cả hai phương
pháp cách mạng ôn hòa hay vũ lực cũng đều do những người yêu nước tiến hành và
có mục đích vì độc lập dân tộc. Phân tích sâu vào sở hành ta thấy 02 phương
pháp khác nhau mấy điểm:
./- Cách mạng ôn
hòa tiết kiệm xương máu, sinh mạng người công nghĩa (và đối phương) hơn cách
mạng vũ lực. Cách mạng ôn hòa chống cái ác, chống việc làm ác nhưng KHÔNG chủ
trương phải giết chết người làm điều ác. Đây là điều khác nhau rất hệ trọng.
./- Phương tiện
của cách mạng ôn hòa là chất xám thể hiện qua văn bút hay đối thoại trực tiếp
với thực dân Pháp. Phương tiện của cách mạng vũ lực là súng ống gươm giáo và
không thể đối thoại (mới hồ nghi hay giáp mặt nhau đã bắn giết...)
./- Người lãnh
đạo cuộc cách mạng ôn hòa đối diện trực tiếp với thực dân Pháp để đối thoại. Họ
đi đầu trong các cuộc đấu tranh với Pháp, xung phong đi trước quần chúng. Còn
cách mạng bằng vũ lực thì không thể giáp mặt với thực dân Pháp. Người lãnh đạo
cách mạng vũ lực thì đi sau và thường là ở hậu phương. Nếu có ra mặt trận họ vẫn
đi sau chiến sĩ và khi rút lui họ rút lui trước.
Một thực tế hiện
nay (2014).
Những nhà tôn
giáo, những trí thức, những bloger hay những trang web có lòng với tự do, dân
chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và độc lập của tổ quốc trước hiểm họa giặc
Tàu... nên chỉ ra những khiếm khuyết, tệ hại của độc tài, cai trị xã hội bằng
bạo lực, hèn với giặc ác với dân... và phản bội dân tộc của cộng sản. Những
người dùng chất xám thể hiện qua văn bút hay xuống đường...đều có địa chỉ rõ
ràng... chính quyền có thể bắt họ bất cứ lúc nào... và một số đã bị bắt... là
những bằng chứng điển hình cho phương pháp cách mạng ôn hòa...
Qua đó chúng ta
thấy cùng là cách mạng nhưng phương pháp khác nhau nên hành động cũng khác
nhau. Xin nói rõ là chúng tôi phân tích sự khác nhau mà ai có lưu ý cũng nhận
ra chớ không có ý khen chê trong đó. Bởi vì thời cuộc lúc đó là như thế chúng
tôi không có ý xúc phạm tiền nhân. Cũng như ngày nay cày máy thì khác với cày
bằng gia súc, song không có chê việc cày bằng gia súc thời đó. (((Đôi khi chúng
tôi viết vài chi tiết rõ ra cũng vì muốn được hiểu đúng ý; không muốn bị chụp
mũ thế nầy thế nọ trong một bầu khí thường xãy ra chụp mũ và hậu quả là làm suy
yếu những người có tâm huyết xây dựng xã hội thời hậu cộng sản))).
c/- Sự tráo trở của Bản Án Cao Đài năm 1978.
Ngày
19-11-1926, ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo.
Xét về xã hội
học đó là ngày công khai hóa cuộc cách mạng nhơn nghĩa trước xã hội. Các vị
tiền bối đã vận dụng khéo léo mọi khả năng có được để tiến hành mà không phải
xin phép thực dân Pháp. Kết quả 05 chương trình và 03 phương diện đã tạo nên
quốc gia Cao Đài ngay trong thời Pháp thuộc. Chính quyền Pháp nhận định: Đạo
Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia là họ đã nhìn sâu vào nội dung và
nguồn máy hành chánh của đạo. Vậy tại sao họ không tiêu diệt ngay? Bởi phương
pháp cách mạng của đạo là ôn hòa và người lãnh đạo có đầy đủ ý thức nên tạo
nhiều mối quan hệ ngoài tầm của thực dân Pháp nên họ phải e dè.
Năm 1930 Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng chọn cách mạng bằng vũ lực nên không thể đối diện
trực tiếp với chính quyền thực dân Pháp như người đạo (do nơi tính chất hai
phương pháp ôn hòa và vũ lực khác nhau). Nước mặn có sở dụng của nước mặn, nước
ngọt có công dụng của nước ngọt. Cách mạng ôn hòa khác với cách mạng vũ lực.
Người cộng sản là tay bài tráo thượng thặng nên đã đánh tráo hai phương pháp
cách mạng. Cộng sản đem cách làm cách mạng vũ lực áp đặc lên cách mạng ôn hòa
cho nên Bản án Cao Đài 1978 viết:
c.1/- Sự ra đời của giáo phái Cao Đài có một quá
trình chuẩn bị và đạo diễn của bọn thực dân Pháp, mà trực tiếp chỉ đạo là những
tên tình báo Pháp Bomet, Latapie, thống đốc Nam kỳ LeFol.
Khoản
c.1 đã có nhiều văn bút bác bỏ (trong đó có GS Nguyễn Văn Trung viết ở Lục
Châu Học chương 05 trang 258:
Về
nguồn gốc: Tài liệu cho thấy Cao Đài không
phải do Pháp tạo ra hay xúi giục, chỉ đạo chủ động như một dư luận giải
thích quen thuộc dựa vào sự kiện nhiều người lập ra Cao Đài là viên chức
Pháp, thậm chí viên chức phòng nhì rồi suy diễn là Pháp chủ động.
|
@@@
c.2/- Trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến,
mọi người dân Việt Nam đều không có một chút quyền tự do dân chủ. Thế nhưng,
tập đoàn cầm đầu tôn giáo Cao Đài nói chung và giáo phái Cao Đài Tây Ninh nói
riêng được công khai thành lập và hoạt động, được nhà cầm quyền Pháp đương thời
công nhận. Điều đó nói lên rõ ràng rằng tập đoàn cầm đầu Cao Đài chỉ là những
người thực sự làm tay sai đứng ra thực hiện một âm mưu có lợi cho thực dân
Pháp.
Khoản c.2 như
ở nhận định chung chữ b thì cách mạng ôn hòa là đối diện trực tiếp với chính
quyền thực dân Pháp, vận dụng luật pháp, thông tin... nghĩa là dùng chất xám
để tiến hành... các vị tiền bối của đạo đã thành công (BÁO CHO BIẾT- KHÔNG
PHẢI XIN PHÉP & chánh quyền Pháp buộc phải công nhận) thì cộng sản tức
bực nên viết: được công khai thành
lập và hoạt động, được nhà cầm quyền Pháp đương thời công nhận và cho
rằng phản quốc... nghĩa là họ thiếu hiểu hoặc cố ý chụp mủ. Cả hai trường hợp
đều bất chánh.
|
@@@
c.3./-
Trong quá trình lâu dài làm tay sai cho
các đế quốc, những người lãnh đạo Cao Đài Tây Ninh đã dựa vào thế lực đế quốc
chiếm đất, nhận hiến của tín đồ bao chiếm khai hoang ở tỉnh Tây Ninh và trong
28 tỉnh cũ là hàng ngàn Ha. Riêng ở Tây Ninh Hội Thánh đã chiếm làm chủ gần 3
ngàn ha, họ đã lập sở ruộng, sở cao su, vườn cây ăn trái và xây cất dinh thự
nhà cửa cho tôn giáo. Ngoài ra, những người lãnh đạo giáo phái này còn lập ra
một số xí nghiệp cơ khí tiểu công nghệ và thủ công nghiệp để kinh doanh bóc lột
nhân công của người công quả hoặc hiến thân. Đại bộ phận các cơ sở này đều nằm
trong huyện Phú Khương Tây Ninh.
(Xem Biên bản Hội nghị Nhân Sinh năm 1974).
Khoản
c.3 đó là bằng chứng cho thấy từ vùng
đất hoang, dân chúng chạy về Thánh Địa với hai bàn tay trắng mà trong thời
gian ngắn đã có cuộc sống vật chất sung túc và cuộc sống tinh thần phong phú.
Đặc biệt là xây dựng cuộc sống vật chất sung túc trong tinh thần đạo đức.
|
@@@
c.4./- Vì có tham vọng chánh trị, tham vọng cầm
quyền, nên những người cầm đầu tổ chức Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh và hệ thống
của nó là Bộ máy nhà nước và hệ thống Hành chánh của nhà nước trá hình, để khi
nắm được chánh quyền thì biến nó trở thành hệ thống nhà nước. Thể hiện ý đồ này
khá trung thực trong ý kiến của Lại Viện về vấn đề phân bố tín đồ các địa
phương, mẫu Sớ Cầu Đạo giống như thẻ căn cước
Khoản
c.4. Cộng sản căm thù đạo Cao Đài nhưng qua đó cho thấy bộ máy hành chánh tôn
giáo thể hiện quốc đạo. Nghĩa là Đạo được tổ chức chặc chẽ như một quốc gia.
Có luật pháp, có bộ máy kinh thương, có giáo huấn, có khoa học kỷ thuật, có
đường lối, có lý tưởng và có bộ máy nhân sự hữu hiệu để thực thi cuộc cách
mạng nhơn nghĩa. Những giá trị mà kẻ thù ghét đạo phải công nhận đó là sự
thành công của đạo.
|
@@@
c.5./-Vì vậy, tài sản, dinh thự, các cơ sở kinh
doanh của Hội Thánh không phải là của riêng ai, mà là tài sản của đế quốc đã
rút chạy để lại, là của nhân dân lao động đóng góp. Nhân dân lao động cần phải quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải tước đoạt những phần tài sản của
chức sắc do tham ô, ăn cắp, và dựa thế lực đế quốc tạo ra.
Khoản
c.5. Tịch thâu tài sản là đặc trưng của người cộng sản.
Nói
gì thì cũng đi tới kết luận là tịch thâu tải sản tôn giáo hay cá nhân. Tịch
thâu tài sản là chánh sách căn bản của Đảng.
Đảng
viết: Nhân dân lao động cần phải quản lý sử dụng đẩy mạnh sản xuất xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Nguyên
tắc của Đảng là nhân dân làm chủ, nhà
nước quản lý và Đảng lãnh đạo. Cán bộ năm 1978 chỉ có cái khăn rằng
quấn cổ, thấy khối tài sản của Đạo lớn quá, nên bản án viết nhân dân quản lý. Nhân dân đâu không thấy mà chỉ thấy tải sản
tịch thâu chạy vào túi cán bộ. Nó mang lợi ích cho các Đảng viên nên họ rất
hăng hái kết án. Mỗi lần kết án là mỗi lần Đảng viên giàu lên. Từ kết án,
đánh tư sản, đổi tiền... đều nằm trong chủ trương lớn là bần cùng hóa người
dân (hay tổ chức ngoài đảng) có bần cùng hóa thì mới dễ làm cho dân ngu. Ngu
dân và bần cùng hóa là hai đầu của một sợi dây độc tài xiếc họng cả dân tộc.
|
@@@
Đạo Đức Kinh
trang 104 bản in năm 1992 của nhà xuất bản Văn Học viết: Văn Trung Tử cũng có nói:
Cường quốc chiến
binh,(
Cường quốc thì dùng binh khí mà tranh;)
Bá quốc chiến
trí,
(Bá quốc thì dùng đến trí thuật mà tranh;)
Vương quốc chiến
nghĩa,
(Vương quốc dùng nhơn nghĩa mà tranh)
Đế quốc chiến
đức,(
Đế quốc thì dùng ân đức mà tranh)
Hoàng quốc chiến
vô vi...(
Hoàng quốc thì dùng vô vi mà tranh)
...bậc Thánh
nhơn trị nước thì “làm mà không nói”, khi công việc thành rồi thì lánh mặt ra
đi...
Đạo Đức Kinh mà
sai thì Tây Phương đã chẳng thốt lên rằng:
Nó là túi khôn của loài người...
No comments:
Post a Comment