VIỆT NAM
ĐẠI CÁCH MẠNG.
“CÁCH MẠNG BẰNG
NHƠN NGHĨA”
BIÊN SOẠN
NGUYỄN PHÚC THÀNH.
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
BẢN IN NGÀY 25-01-2014.
II/- NỘI DUNG
CÁCH MẠNG.
Như đã trình bày
rằng cuộc cách mạng của Đạo Cao Đài là thu phục nhân tâm. Sức mạnh tinh thần là
quyết định.
Cuộc tranh thủ độc lập dân tộc Việt Nam kể từ đây còn phải nhờ đến sức mạnh của Quân
Đội Cao Đài rất nhiều. Sức mạnh ấy không phải là võ lực mà là sức mạnh tinh
thần, sức mạnh nhơn đạo và sức mạnh chánh nghĩa. Cái võ lực bạo tàn rồi đây sẽ tàn tạ, để
nhường lại cho một nền VĂN MINH NHƠN ĐẠO xuất hiện.
Mục đích
thành công của Quân Đội Cao Đài là phải
cố làm sao nắm cho kỳ được nhơn tâm dầu phải đem cả xương máu đổi lấy nó cũng
được.
(Lời Đức Hộ Pháp)
@@@
Xương máu gắn
liền với mạng sống con người, mỗi người chỉ có một mạng sống nên nó là vô giá.
Mạng sống, xương máu người công nghĩa chỉ để phụng sự cho lòng nhơn đạo, cho
chánh nghĩa... Chánh nghĩa đó phải thể hiện qua hòa bình, dân chủ, tự do nhìn
thấy được bằng cơ chế rõ ràng chớ không phải là lý thuyết viễn vông hay bánh
vẽ.
Đức Chúa Jésus
chịu đóng đinh trên thánh giá là tấm gương để cho nhơn loại thấy rằng Ngài hy
sinh mạng sống để bảo vệ chính nghĩa: công bằng, bác ái. Chỉ có công bằng và
bác ái mới đáng để người công nghĩa hy sinh mạng sống. Mạng sống, xương máu chỉ
được phép dùng khi phụng sự cho công bằng và bác ái. Môn đệ của Chúa cũng theo
gương chúa để phụng sự cho nhân loại nên lịch sử tồn tại và phát triễn Thiên
Chúa Giáo gắn liền với mạng sống và xương máu người công nghĩa.
Chiến sĩ Cao Đài
hy sinh mạng sống và xương máu để đòi Pháp phải đưa Giáo Chủ Phạm Công Tắc đang
bị Pháp đày bên Phi Châu về Tòa Thánh. Đức Hộ Pháp về nước thấy dân lành đang bị
Việt Minh và thực dân Pháp tàn sát Ngài buộc lòng phải xô chiến sĩ Cao Đài ra
để bảo vệ mạng sống lương dân; bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng nhơn nghĩa
đã được thực thi từ năm 1926. Chính là theo gương Chúa hy sinh tánh mạng và
xương máu để bảo tồn chánh giáo.
Nếu vùng Châu
Thành Thánh Địa bị phá tan Tòa Thánh Tây Ninh thành bình địa thì Đạo Cao Đài là
bánh vẽ không dùng được. Bởi vì là bánh vẽ nên chẳng hề thu phục được nhân tâm,
chẳng hề đắc nhân tâm nên nhân loại bỏ mặc cho nó chết. Nhưng nó là bánh thật
và người đạo đã được dùng bánh thật nên họ biết giá trị của nó mà tự nguyện hy
sinh mạng sống để bảo tồn cho mai sau. Nhờ vậy mà hậu tấn có chứng cứ cụ thể để
trình chánh cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa trước nhơn loại.
Nếu ĐĐTKPĐ bị
tiêu vong thì cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa của Thượng Đế bày ra cho môn đệ
thực hiện chỉ còn là một phế tích để hoài niệm chớ chẳng còn giá trị trong thực
tế. Nó hay và đúng tại sao không đi vào lòng người mà mới nở đã tàn? Đạo tồn
tại và phát triễn ngay trước họng súng, lưỡi lê, mã tấu của Pháp, Việt Minh rồi
Ngô Triều và cộng sản sau 30/4/1975 là chứng cứ mạnh mẽ nhất, hùng hồn nhất cho
giá trị cuộc cách mạng bằng nhơn nghĩa. Dù ai có quyền phép tiêu diệt càn khôn
đi nữa cũng không thể hủy hoại được cuộc cách mạng nhơn nghĩa do môn đệ Thượng
Đế thực hiện.
Đức Hộ Pháp
không chấp nhận án tử hình. Ngài nhận định rằng kẻ sát nhân kia chỉ giết có một
người mà pháp luật còn đem nó ra trừng trị vậy mà kẻ sát nhân hàng loạt được
gắn huy chương đầy ngực, được tung hô thì đó chưa phải là xã hội của loài
người. Như vậy việc Đức Hộ Pháp xô chiến sĩ Cao Đài ra mặt trận bằng súng ống
có phải là sát nhân hay không? Đây là một câu hỏi rất sòng phẳng và người đạo
cũng cần cầu chứng với chính mình chớ chẳng nên né tránh.
Một tôn giáo hoàn
cầu dành cho cả nhân loại thì bất cứ câu hỏi nào của nhân loại đưa đến cũng
phải đem ra trả lời minh bạch để hóa giải những điều u ám, mơ hồ dẫn đến chia
rẽ trong nhân loại. Nhứt vi u ám tất
giai văn chẳng phải là công thức mà người Đạo tụng niệm hằng ngày đó
hay sao?
Chúng tôi xin
thưa rằng đúng là Đức Hộ Pháp có dùng đến xương máu và sanh mạng của người công
nghĩa. Ngài dùng nó không phải để phục vụ cho cá nhân hay riêng cho Đạo Cao Đài
mà dùng nó cho nhân loại thấy được sức mạnh của Bác Ái, Công Bằng. Sức mạnh của
hạt giống nhơn nghĩa. Nghĩa là Ngài dùng sinh mạng, xương máu của chiến sĩ Cao
Đài để hiến dâng cho toàn nhân loại như Đức Chúa Jésus đã hiến dâng mạng sống
của Ngài để làm gương cho người công nghĩa.
./- Chúng tôi
xin cung cấp 02 sự kiện làm bằng chứng cho việc Đức Hộ Pháp không lợi dụng
xương máu người công nghĩa.
./-
Bằng cớ thứ nhất: Năm 1953 Quốc Trưởng Bảo Đại và thực dân Pháp đã rất muốn
Đức Hộ Pháp làm Thủ Tướng nhưng Ngài đã từ chối. (Vi bằng phiên họp bất
thường số 19/VP/HP tại Giáo Tông Đường ngày 26-11-1953 “20-10-Quí Tỵ”). Ngài
nhất định làm Hộ Pháp cho toàn nhân loại (mặc đạo phục) chớ không làm Thủ
Tướng (phải thay đổi nghi trang).
./-
Bằng cớ thứ hai: Ngày 05-7-1954 phái đoàn Ông Phạm Văn Đồng và phái đoàn Đức
Hộ Pháp (cố vấn cho Quốc Trưởng Bảo Đại) gặp nhau tại Génève:
Ông
Phạm-Văn-Đồng xây qua nói với ĐỨC HỘ-PHÁP như vầy:
'ĐỨC
HỘ-PHÁP thử nghĩ coi biểu tôi phải nhìn nhận Ngô-Đình-Diệm . . . thì làm sao
đặng, vì họ không có đại-diện cho một thực-lực, cho một ai hết, chớ như Đạo Cao-Đài đây, có một
thực-lực hơn mấy triệu tín-đồ và một quân-đội mấy chục ngàn người, thì chúng
tôi sẵn-sàng tiếp đón và thảo-luận tất cả mọi vấn-đề'.
ĐÂY LÀ MỘT
ĐOẠN ĐỐI THOẠI NỮA GIỮA ĐỨC HỘ PHÁP VỚI ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG.
Ông
Phạm-Văn-Đồng cười và nói rằng: 'họ đã
sợ mà còn có người hù nữa' và day qua ĐỨC HỘ-PHÁP, hỏi ĐỨC NGÀI bị ai hù có
sợ hay không?
ĐỨC
NGÀI nói rằng: 'nếu tôi sợ thì tôi
không có đến đây'. Chúng tôi có nhắc cho Anh em Việt-Minh biết rằng cái công
kháng-chiến của họ, quốc-dân không quên, nhưng
họ phải làm thế nào cho cuộc giải-phóng dân-tộc cho trọn vẹn chớ đừng gở ách
này rồi mang cái gông khác hay là đuổi cậu Pháp rồi rước chú Tàu về thì không
ăn thua gì và quốc-dân sẽ phán-đoán việc đó. Anh em Việt-Minh nói
rằng họ biết việc đó và không để xảy ra đâu.
|
Thủ Tướng Phạm
Văn Đồng năm 1958 ký công hàm chúc mừng Tàu cộng công bố lãnh hãi (trong đó có
cả Hoàng Sa và Trường Sa) và cái hiểm họa phương Bắc đang lù lù hiện ra. Cách
dùng xương máu người công nghĩa của cộng sản và của Đức Hộ Pháp khác nhau là
như vậy. Điều nầy đúng với qui luật: đại hùng, đại lực và đại từ bi của tôn
giáo và đại hùng, đại lực, đại ác mà chúng tôi nêu ra bên trên.
Cuộc cách mạng
nào cũng có hy sinh cho dù là cách mạng bằng nhơn nghĩa. Huống chi cuộc cách
mạng nhơn nghĩa của Đạo Cao Đài diễn ra trong xã hội đầy bạo lực, trong xã hội
quen với khái niệm cách mạng phải có bạo lực thì sự hy sinh của người công
nghĩa không sao tránh khỏi. Vấn đề là sự hy sinh của người công nghĩa đưa đến
kết quả như thế nào cho nhân quần xã hội, cho giống nòi và tổ quốc cùng nhân
loại. Nếu không có sự hy sinh của chiến sĩ Cao Đài (1943-1955), chiến binh hòa
bình chung sống (1956) thì Đạo Cao Đài chỉ là một cái bánh vẽ to tướng. Nhìn
ngắm thì đẹp nhưng chẳng thể no lòng.
Sự hy sinh của
chiến sĩ Cao Đài chính là câu trả lời là thước đo cho sự thu phục nhân tâm. Là
quả ngọt đầu mùa trong vườn Bác Ái, Công Bằng mà hạt giống NHƠN NGHĨA đã gieo
trong biển trần khổ.
Thời đại
internet thì không có sự dối trá nào tồn tại được nên chúng tôi trình ra đây
một đường lối cách mạng bằng vũ lực điển hình là phong trào cộng sản.
Người cộng sản
dùng dối trá và bạo lực áp bức hàng chục triệu người đem xương máu và mạng sống
cống nạp cho chủ nghĩa cộng sản. Họ liên tiếp bày ra cảnh thiên đường cộng
sản... để dân tộc giết nhau. Họ thống nhất đất nước gần 40 năm mà ngày nay xã
hội nghèo nàn và thối nát vì tham nhũng. Dân oan từ Nam chí Bắc...Từ 1930 đến
2013 là đã 83 năm mà Tổng Bí Thư cộng sản Nguyễn Phú Trọng xác định rằng đến
hết thế kỷ nầy chưa biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. Đó
là họ đã đem xương máu người dân phụng sự cho mấy triệu đảng viên chớ dân tộc
hưởng được gì trong đó. Ngày 07/01/2014 Dương Chí Dũng cựu chủ tịch Hội
đồng quản trị Vinalines khai hối lộ cho thứ trưởng công an Phạm Quý Ngọ
500.000 USD... và ông Dương Chí Dũng còn khai nhận liên quan đến dự án di dời
chuyển đổi công năng cảng Sài Gòn, ông Dũng đã nhận của bà Lan (chủ của Tập
đoàn Vạn Thịnh Phát, TP.HCM) 1 triệu USD để chuyển cho ông Phạm Quý Ngọ. Các quan
chức cộng sản ngày nay lộng hành như vậy là vì họ đã thực thi thành công chánh
sách ngu dân và bần cùng hóa dân chúng. Thật ác độc.
Muốn chinh phục
nhơn tâm phải theo cách Thượng Đế đã chỉ dạy: dân mạnh, lập quyền dân và xây
dựng bộ máy thực thi. Chỉ có lòng
nhơn đạo mới thu phục được nhơn tâm.
Nội dung thực
thi là điều nhìn thấy được trong cuộc sống. Chúng tôi xin trình bày ngắn gọn 05
chương trình: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo. Từ 05 chương trình đó dân đức, dân trí, dân
sinh được nâng cao.
1/- Năm chương trình.
1.1/- Gia cư.
Mỗi gia đình
chọn Châu Thành Thánh Địa làm nơi cư ngụ được Hội Thánh cấp cho một lô đất cất
nhà. Lúc đầu thường là 25m x 30m = 750 m2. Sau đó có một số nơi diện
tích được tăng lên. Hội Thánh không cho phép đầu cơ đất dưới mọi hình thức; nên
ra qui định rõ rằng nếu quá một tháng mà không cất nhà ở thì Hội Thánh thu hồi
lại giao cho người khác. Song song đó là nghiêm cấm việc một người xin nhiều
phần đất (kể cả việc xin cho người thân rồi để đó không cất nhà, nếu vi phạm
vào điều nầy thì bị nghiêm trị bất kể người đó là đạo hữu, chức việc, hay chức
sắc trong tôn giáo.
./- Chức sắc của
Đạo vi phạm bị nghiêm trị để làm gương.
Tờ của Thái
Chánh Phối Sư. V/V. Giáo Sư Đài choán đất.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho Bộ Pháp
Chánh đòi Giáo Sư Đài đến minh tra sự gian lận choán đất của Đạo cho cha ruột
và cha vợ nó mà bỏ hoang không cất nhà cửa từ lâu rồi. Đài bị án gian lận của Đạo, pháp luật định chia đất chung cho cả Tín
Đồ của Đạo.
Lập bản án
thâu đất đã cho cha nó, cha vợ nó và cho nó lại rồi cho kẻ khác liền. Tội
gian tham ấy không còn đặng chung sống cùng Đạo nơi Thánh Địa, nên lên án nó
đuổi ra khỏi Thánh Địa.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký)
|
Khi cấp đất Hội
Thánh có căn dặn trồng cây ăn trái lâu năm phải cách ranh đất của mình bao
nhiêu cho khỏi phiền hàng xóm.
@@@
./- Nghiêm cấm
tham lam và cho biết sẽ nghiêm trị.
Về việc cho
đất phố tại Long Hoa Thị.
LỜI CĂN DẶN: Mỗi gia đình ghi đặng một căn phố, nếu
gia đình nào nhiều con cái mà đứng ra choán cho nhiều thì cả các phần đất của
gia đình tham lam ấy sẽ bị lấy lại hết. Những người có phần đất gia
cư lập nghiệp rồi không được hưởng một phần bên phố nữa.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký)
|
1.2/- Mưu sinh.
Hội Thánh đưa ra
chương trình sản xuất lương thực và cây công nghiệp. Mỗi gia đình đều phải canh
tác trên một diện tích theo qui định tùy vào việc làm ruộng hay rẫy. Nhà nào
góa bụa, khó khăn thì làm phân nữa và Bàn Trị Sự địa phương phải giúp đở, đôn
đốc, kiểm tra.
./- Phước Thiện
tổ chức công ăn việc làm cho người đạo.
Về việc lập Sở ngánh Lương Điền, Công Nghệ Phước
Thiện.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Chiếu theo chơn pháp thì cả sở Lương Điền, Công Nghệ
chỉ có hàng Chức Sắc phẩm Hành Thiện mới được lập mà thôi, vì họ phải nuôi
sống và bảo vệ lập nghiệp cho 12 gia đình. Còn hạng Minh Đức, Tân Dân, Thính
Thiện thì làm công quả trong các cơ sở của Hội Thánh đặng nhơn thời gian tùng
sự với một chức sắc thiên phong hàng Giáo Thiện mà học hỏi đạo lý và tu tâm
dưỡng tánh kiên cố tâm đạo. Vậy hễ trọn hiến thân cho Đạo thì họ không còn
gia đình nữa; hay là gia đình họ cũng thuộc về Đạo dưới quyền của một vị Giáo
Thiện giáo huấn bảo bọc do cơ sở của Hội Thánh.
Do đó chư vị Giáo Thiện là riêng biệt nạp trọn vẹn
huê lợi công ích cho Hội Thánh. Còn các sở của Hành Thiện là thuộc quyền của
gia tộc họ đào tạo, phải tùng khuôn luật đặng sửa đương. Hội Thánh Phước
Thiện trong kỳ Đại Hội nầy Bần Đạo nhứt định không cho qua khỏi mặt luật ấy
nữa.
05-9- Tân Mão.
HỘ PHÁP
(Ấn Ký)
|
@@@
./- Con trai
trước khi lập gia đình phải có nghề nghiệp. Con gái phải biết khoa dưỡng
dục....
Thơ số 1.503
ngày 09/06-Ất Mùi. Tiếp Pháp thỉnh cầu Đức Hộ Pháp đình đãi Thánh Lịnh số
1.503 đề ngày 01-06-Ất Mùi buộc trẻ gái trước ngày giá thú phải biết khoa
dưỡng dục, nên Bộ Pháp Chánh xin đình lại 06 tháng sẽ thi hành.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Số 1.525/HP.
Thánh Lịnh ban
hành kể từ ngày ký tên thì không thể không thi hành. Thánh Lịnh trai phải có
một nghề gì mới được; còn gái phải có giấy chứng nhận biết khoa sanh dục,
phải triệt để thi hành.
Bộ Pháp Chánh
không xin như vậy nữa, vì Pháp Chánh chỉ biết thi hành mà thôi nên nhớ.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký).
|
1.3/- Giáo huấn.
ĐĐTKPĐ thực thi
Bảo Sanh - Nhơn Nghĩa - Đại Đồng thể hiện qua: Trường Học, Dưỡng Lão Ấu và Tịnh
Thất. Thượng Đế dạy năm 1926: hằng
ngày góp nhóp để lập Trường học.
Tân Luật ban
hành ngày 01-6-1927 phần Đạo Pháp Chương VI qui định về Giáo Huấn.
Điều 23: Trong
Đạo sẽ lập trường để dạy chữ và dạy Đạo.
Phần Thế Luật
Điều 13: Buộc cha mẹ con nít từ 6 tuổi, chí 12 tuổi phải cho con vào trường học
chữ hay là học đạo.
Thực tế cho thấy
năm 1927 Hội Thánh dời về Nội Ô Tòa Thánh hiện nay. Khi ấy Đạo còn rất nghèo.
Nhưng Hội Thánh đã mở ngay trường ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG.
./- Ngày
14-07- Kỷ Tỵ (dl. 18-8-1929) đã có lễ phát thưởng và Ngài Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt đã đến dự:
... nên mấy vị Giáo Hữu, mấy em học
sinh, cùng nhi nữ. Trong mấy năm dư Ðạo nghèo, nên mấy em chịu phần hui hút,
còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè, cũng không săn sóc mấy em trẻ dại,
để mấy em chiu chít như gà kia mất mẹ.
Ít người xét cổ suy kim, mới biết rằng
Tôn Giáo nào cũng nhờ học thức mà thìn mối Ðạo, truyền Chánh Giáo mới đặng
tròn câu phổ độ. Ðạo nghèo đồng tiền eo hẹp, còn thầy giáo huấn không một
đồng lương, lại thêm ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công quả vui cùng sanh
chúng, học sinh Ðồng nhi Nam Nữ tập viết bằng lá buông, chỗ ngủ lấy ván sạp
làm giường, bề ăn uống tương rau hẫm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thì giờ,
mấy anh đây mới lập trường mà phát thưởng, lễ đơn sơ để dạ yêu thương, giục
mấy cháu hết lòng lo đạo đức.
THƯỢNG
TRUNG NHỰT.
|
@@@
./- Vi Bằng Hội
Vạn Linh năm Đinh Sửu “1937” định rõ là các địa phương phải lo việc giáo dục
Tiểu Học và Trung Học để Hội Thánh rãnh tay lo Đại Học Đường.
./- Năm 1938 Đạo
Luật Mậu Dần đã đưa trường học đi kèm với Thánh Thất. ĐIỀU THỨ BẢY: Phương Diện
Giáo Dục, Cất Hạnh Đường và Học Đường Các Thánh Thất. LUẬT
Phải lập Hạnh Đường nơi Tòa Thánh và
Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức Sắc Thiên Phong và Chức Việc, cùng
lập Học Đường đặng dạy dỗ trẻ em cho rõ thông chữ nghĩa và kinh kệ. Các Thánh
Thất đều phải có Học Đường. Mỗi năm mở khoa mục khảo dượt một lần đặng ban cấp
bằng hay là giấy chứng nhận cho những vị thi đỗ.
PHƯƠNG
PHÁP THẬT HÀNH
I.- HẠNH ĐƯỜNG: .....
II.-
HỌC ĐƯỜNG
Nhà trường
Đạo Đức phải chỉnh đốn lại cho hoàn toàn, mở thêm cho rộng lớn. Phải mở thêm
một Nữ Học Đường cho Nữ Phái.
Tu bổ nhà
trường cho có đủ lớp học, nhà ngủ giáo viên, nhà ngủ học sinh, nhà ăn, bàn ghế
và các vật dụng trong trường (fournitures classiques). Mộ thêm giáo viên nam nữ
và định phần châu cấp mỗi tháng.
Con nhà
Đạo từ 6 tuổi đổ lên phải cho vào nhập học, bất luận là nhà trường nào; nếu để cho con dốt thì sẽ bị Hội Thánh
định tội.
Một hạng
được hưởng học bổng (boursiers) là con của Chức Sắc Thiên Phong đương quyền
hành chánh, những trẻ em mồ côi, hoặc con của Đạo hiến thân trọn vẹn.
Cha mẹ có
của cải và có bề thế làm ăn đủ thì phải đóng tiền học phí (payant) mỗi tháng
theo thể lệ nhà trường nhứt định.
Ty giáo
huấn nên lập cuốn sổ lạc quyên (caisse de charité) dưới quyền của Thượng Chánh
Phối Sư, để nhờ nơi lòng từ thiện của nhơn sanh trợ giúp cho các trẻ em mồ côi
ăn học.
Chư Đầu
Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải kiếm những Đạo Hữu thanh niên có cấp bằng tốt
nghiệp đặng xin Chánh Phủ mở Học Đường trong toàn cả Thánh Thất.
&&&
./- Triết lý và
quan điểm giáo dục: ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG.
Vi bằng số
590/VB ngày 27-7-Nhâm Thìn (1952).
Nhóm cử vị Lễ
Sanh Ngọc Lương Thanh thừa quyền Phụ Thống Học Viện và Lễ Sanh Hài, Lễ Sanh
Cảnh phụ trách.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ
PHÁP.
Phê và cho lập
Thánh Lịnh.
Về vụ đặc tên
các trường không cần ích, vì ta còn phải ngừa sẳn ngày kia Đạo tức là Hội
Thánh còn phải giải quyết về quyền giáo huấn cùng chánh phủ nữa. Đừng để
trong trường tranh chấp mà đem tên của mấy vị Tiên Thánh của Đạo ra không
hay.
Hộ Pháp.
(Ấn Ký).
|
@@@
Đạo đức học
đường với công thức đặc trưng.
Ðạo Ðức lưu
truyền hậu tấn hiếu trung phò xã tắc.
Học đường giáo
hóa thư sinh nhơn nghĩa lập giang sơn.
Căn cứ theo đây
thì toàn bộ các trường Tiểu Học, Trung Học của Đạo đều lấy tên là Đạo Đức Học
Đường.
Đạo có ba không
là: Không chống chánh quyền, không
theo chánh quyền và không tranh với chánh quyền.
Đã không tranh
với chánh quyền thì đến cái tên trường cũng không tranh. Danh hiệu Đạo Đức Học
Đường đã cho thấy triết lý và quan điểm của Đạo trong giáo huấn.
1.4/- Kiến thiết.
Lãnh đạo là tiên
liệu. Hội Thánh tiên liệu sự phát triễn vùng Thánh Địa ngay từ đầu nên tỷ lệ
đất ở Thánh Địa dành cho đường giao thông rất lớn. Nhà nào cũng có đường đi (03
mặt: trước nhà, bên hông và sau hậu) không phải đi nhờ đường người khác. Con
đường sau nhà là đường cứu hỏa và để rác chờ xe lấy. Đây là điều rất văn minh
vì thường thường ta thấy ở các thành phố rác để ở trước nhà. Khi chánh quyền
cộng sản lãnh đạo đất nước thì con đường cứu hỏa và để rác nầy bị xóa. Ngay cả
nơi an táng người mãn phần cũng có qui hoạch để phục vụ hoàn toàn miễn phí. Không
có dịch vụ kinh doanh trên xác chết nơi Châu Thánh Thánh Địa mới đáng là cuộc
cách mạng nhơn nghĩa.
Hội Thánh đóng
vai trò bộ não để thiết kế. Người cư ngụ nơi Thánh Địa phải ra công xây dựng
đường xá... cho dù gia đình chức sắc cũng phải tham gia như mọi người.
./- Cái đẹp của
quê hương anh phải do chính anh xây dựng mà có.
Đơn xin đấp lộ
của Ông Giám Đốc trường Qui Thiện (20-11- Mậu Tý-1949)
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Lịnh cho toàn
thể bổn đạo từ Giang Tân, Bến Kéo, Cây Chò, Trường Hoà, Qui Thiện, Thánh Địa Toà
Thánh chung sức nhau làm cho thành con đường chung quanh Châu Thành Tây Ninh;
từ chợ Thái Hiệp Thạnh ra Bến Kéo xuống Trường Hoà vô Qui Thiện lên Toà Thánh
thẳng vào Núi trở ra Châu Thành. Con đường ấy khi hoàn thành sẽ có tay Chính
phủ tráng đá, phải làm lề rộng mương to cho nước đủ chảy, nơi nào phải đặt
cống thì làm cống, cây cầu bắt ngang từ Qui Thiện qua suối đi nhà Tịnh phải
làm tạm bằng cây và đường đủ rộng cho xe Camion chạy đặng.
Bất kỳ đất của
ai hể phóng hoa tiêu con đường đi qua thì cũng không đặng phép ngăn cản.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký).
|
./- Khi chỉnh
sữa đường cho vào khuôn khổ cũng không vị nễ.
Phúc trình của
Kinh Lý Khán Đạt thỉnh giáo về thể thức phóng lại Lộ Thánh Vệ.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Lộ Thánh Vệ
phải để tám thước (08 m) phải phóng theo bản đồ của Sở Kinh Lý đã vẽ. Những
nơi phóng đường đào kinh bao giờ cũng làm cho khổ tâm chủ đất, ngoài đời cũng
thế mà trong đạo cũng thế. Nếu cả thảy mấy em toàn đạo đều biết ý định của
Bần Đạo là mọi việc phải thi hành cho có mực thước, khuôn luật hầu sau nầy
mấy đứa nhỏ thừa tự không ai có phương nào tranh tụng cướp giựt của nó. Nếu
cả mấy em biết làm phận sự cha mẹ thì thà mình chịu khổ tâm hơn là dành sự
rắc rối hậu lai lại cho con cháu.
Sở Kinh Lý cứ
định phải lý thi hành phận sự thì cứ làm, còn mấy em bị sự cực trí khổ tâm có
rên siết đi nữa bây giờ mà thôi, chớ xa sau kia chúng thấy rõ lợi ích là
đủ.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký).
|
./- Đất để thờ
tự... cũng phải theo qui định chung.
Ông Phan Tấn
Sĩ cầu xin phần đất mở Phan Phủ Từ.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Chợ Long Hoa
và Châu Thành của Chợ nầy sau kia sẽ lan rộng ra cho tới Bến Kéo mà đất nầy
lại ngay hàng thẳng lối mở rộng của nó. Vậy nên tìm nơi khác cho an vững phủ
thờ buổi mai, hầu khỏi bị dời dạt.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký)
|
./- Nghĩa địa
cho người mãn phần: không kinh doanh trên xác chết.
ĐỨC HỘ PHÁP
hành pháp độ thăng Cố Giáo Hữu Thượng Sanh Thanh.
Tại Đền Thánh ngày 19-7 - Canh Dần hồi 9 giờ
sáng.
LỜI
PHỦ GIÁO:
ĐỨC HỘ PHÁP căn dặn một điều là nên để ý là
làm sao ngày qui liễu gởi thánh cốt tại đất Thánh địa; vì trái địa cầu 68 nầy
không còn có chỗ đất nào quí hoá hơn đất Thánh địa. Nếu để hài cốt nơi đây
rồi thì rất hạnh phúc cho tương lai con cháu.
Dù cực lạc cũ
hay là đất mới cùng là nghĩa địa đất 50 mẫu ở Long Thành cũng vậy. Bần Đạo đã
biết bên nước Tàu hễ cha mẹ họ có qui họ quàng lại để chọn ngày hoặc chọn chỗ
đất tốt có hàm rồng cho dù 5-3 năm họ cũng đợi kiếm được mới làm lễ an táng,
vì bên nước Tàu có nhiều nhà biết thiên văn hay khoa coi bói họ giỏi.
Phần nhiều các
nhà giàu có hay chọn lựa, ngày nay dân tộc Việt Nam có phước Chí Tôn đã tiền
định cho dòng giống Lạc Hồng hưởng điều phúc hậu tương lai, ai có duyên mà về
đây gởi cốt hài là có phước lắm vậy.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký)
|
Khi Hội Thánh
cầm quyền hành chánh tôn giáo bất cứ người đạo nào mất cũng được cấp đất an
táng (miễn phí). Ngày nay chánh phủ hổ trợ chi phái Hội Đồng Chưởng Quản chiếm
cơ ngơi của Đạo mỗi huyệt mộ chi phái cắt giá ăn tiền. Đó là kinh doanh trên
xác chết. Tiền kinh doanh trên xác chết có đem chia cho chánh phủ hay không?
Nếu không ăn
chia trên xác chết thì vì lý do gì Ban Tôn Giáo im lặng trước cảnh vô đạo đức
như vậy?
Thực tế năm 2014
ghi nhận:
./- Chương trình
kiến thiết của Hội Thánh tuyệt vời đến độ chính quyền cộng sản nâng cấp Tây
Ninh lên cấp thành phố nên mở đường lớn ra và khui những con đường có trong qui
hoạch kiến thiết của Hội Thánh mà không phải bồi thường cho dân chi hết. Chính
phủ chỉ hổ trợ di dời mà thôi. Lý do chính phủ tuyên bố làm theo qui hoạch Hội
Thánh để lại là mọi người chấp hành. Trong ý thức cư dân Thánh Địa cho thấy họ tôn
trọng qui hoạch của Hội Thánh rất cao.
./- Lộ chánh môn
trước Đền Thánh theo bản đồ là đường LIÊN Á, đường rộng 80m. Hội Thánh đã mở từ
thập niên 60 của thế kỷ 20. Sau 30-4-1975 chánh phủ thấy ngon xơi nên lấy cấp
cho cán bộ đảng viên hết cả con đường.
./- Động Đình Hồ
(đi trong Đền Thánh ra vừa qua cổng Chánh Môn bên tay trái) nằm trong kế hoạch
rất quan trọng của Hội Thánh thì chính quyền lấy bán cho tư nhân.
Một chương trình
kiến thiết mà chính quyền cộng sản dùng hai đối sách khác nhau. Vì sao như vậy?
Vì bản chất cộng
sản là như thế.
1.5/- Tôn giáo.
Đức Chí Tôn cho
phép mỗi người đều có quyền thượng tượng để thờ Ngài tại tư gia. Bàn thờ Đức
Chí Tôn tại tư gia được gọi là thiên bàn.
Thiên bàn tại tư
gia có nhiều ý nghĩa về đạo lý.
Do yêu cầu của
đề tài nên chúng tôi trình bày vắn tắc về mặt xã hội, cụ thể là tác dụng khi
thường nhật và khi có biến sự:
a./- Khi thường nhật:
./- Thể hiện sự
bình quyền trong tôn giáo. Giàu nghèo, chức sắc hay đạo hữu đều có quyền thờ tự
như nhau.
./- Tạo tình
tương thân tương ái.
Hội Thánh sắp
xếp 12 nhà thì tạo thành một liên gia. Mỗi liên gia tổ chức cúng liên gia. Mỗi
nhà cử một người, cứ chiều thì đến cúng nơi tư gia một người, cứ 12 ngày là đủ
một vòng và bắt đầu vòng mới. Đó là cách thức tạo tình thân ái trong cộng đồng
rất hữu hiệu.
Tổ tiên ta nhận
xét: nhứt cận thân, nhì cận lân.
Thập nhị liên
gia chính là thừa kế tinh hoa cận lân
để sẳn sàng tương trợ nhau trong mọi tình huống.
Do tờ số: 511 của Ngài Bảo Thế T.K C.T.Đ. đề ngày
03-9 Tân Mão yêu cầu tổ chức Thập Nhị Liên Gia để giúp đở mỗi Phận Đạo trong sự sanh sống.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tổ chức Thập Nhị Liên Gia nơi các Phận Đạo còn thiếu
và Hành Chánh Phước Thiện phải định cho mỗi bên một vị Thiên Phong giáo đạo
nơi mỗi Phận Đạo thường xuyên.
Phải lựa người đủ tài lực và đầy đủ đạo đức rồi cho
Bần Đạo biết tên trước khi thuyên bổ.
HỘ PHÁP
(Ấn Ký).
|
b/- Khi biến sự:
Đạo sinh hoạt ngay
trong xã hội thì có khi biến, có khi thường. Lo khi thường mà khi gặp biến vẫn
hữu dụng là DIỆU DỤNG.
Việc thờ thiên
bàn tại tư gia là diệu dụng khi có biến sự... Khi đạo bị cường quyền khống chế
hay chiếm Tòa Thánh, Thánh Thất... người đủ đức tin sẽ có đủ điều kiện để không
bị lệ thuộc vào tà quyền.
Chứng minh cụ
thể là từ năm 1997 chánh phủ Việt Nam giúp cho chi phái Hội Đồng Chưởng Quản
chiếm cơ ngơi của Đạo từ địa phương đến trung ương. Người đạo không chấp nhận
chi phái, không theo chi phái có thiên bàn tại tư gia nên vẫn có phương tiện
thực hành tín ngưỡng thường ngày lẫn quan hôn tang lễ mà không phải bị lệ thuộc
vào chi phái là bàn môn tả đạo.
@@@
2/- Ba phương diện: Dân Đức, Dân Trí và Dân Sinh.
Cả ba phương
diện nầy đều có đặc tính riêng, nhưng chúng tương liên tương tiếp nhau rất chặc
chẽ. Muốn đào tạo, rèn luyện những đức tính tốt trong cộng đồng thì phải nâng
cao dân trí. Muốn nâng cao dân trí thì phải nâng cao cuộc sống vật chất và tinh
thần của dân chúng.
Vinh quang của
cá nhân và xã hội được xây dựng từ tấm lòng thương dân yêu nước nâng cao dân
đức, dân trí, dân sinh lập quyền cho dân thì Ý DÂN LÀ Ý TRỜI. Người biết làm
cách mạng là kiến tạo điều kiện để dân tự quyết định lấy vận mạng của mình chớ
không phải đem súng ống buộc dân phải thi hành.
Muốn làm được
những điều trên thì thượng tầng phải có công thức đúng và gương mẫu trong việc
thực hiện. Phải minh bạch mọi chuyện từ cái ưu, cái nhược phải được nhìn đúng
mức chẳng tô hồng mà cũng chẳng bôi đen. Phải quan tâm đến dân để giúp đở, an
ủi và bênh vực dân chớ chẳng phải đi sát với dân để tìm cách đe dọa dân hay
giết dân.
./- Lo cho người
có công bị yểm tài, sửa chữa khiếm khuyết, chỉ ra người vô đức và làm việc phải
công tâm.
MẬT PHÁI CỦA
ĐỨC HỘ PHÁP: Cho mấy em Lễ Sanh và Giáo Thiện, mấy vị Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài.
Mấy em phải đi
quan sát tình hình của Đạo khắp địa phương- hành chánh của mấy em cho cùng
tận, nhứt là để tâm xem xét những hạng Tín Đồ Nam Nữ lưỡng phái đã dày công
nghiệp cùng Đạo mà bị phe đảng của những tay chấp chánh yểm tài, biếm vị rồi
tức cấp hồi phúc mật phái cho Bần Đạo;
đặng Bần Đạo dâng lên cho Đức
Lý Giáo Tông cầu phong cho họ kịp rằm tháng 10 nầy.
Mấy em phải dụng công tâm kiểm điểm cho kỷ
càng đừng bỏ sót một ai tất cả hầu chữa nổi bất bình họ đã chịu sầu thảm từ
thử.
Sự nầy có đặng
kết quả tốt đẹp và Thánh Thể của Thầy nên giá trị cùng chăng, Bần Đạo cậy
giao cho lòng công chánh của mấy em.
Luôn vào những
tay đã dự vào danh thể Hội Thánh nghĩa là những Chức Sắc Thiên Phong đương
quyền mà không xứng đáng; vụ tấc danh lợi hơn trung nghĩa với Chí Tôn thì mấy
em cũng cho Bần Đạo hay đặng Bần Đạo
liệu phương trừ khử.
KHÁ KÍN-
|
2.1/- Dân Đức.
Thế nào là đức?
thế nào là dân đức?
Theo Đạo Đức
Kinh thì đức có thượng đức và hạ đức. Về lý thuyết thì thật là khó mà bàn cho
cùng tận. Nếu như bàn cho cùng tận đặng thì các nhà nghiên cứu đã chẳng hiểu
khác nhau (hay cãi nhau) đến ngày nay.
Vậy xin trình
bày chữ dân đức theo nghĩa đơn giản: dân đức là những đức tính tốt của cá nhân
cần có trong cộng đồng tôn giáo hay xã hội. Những tính tốt đó do giáo dục đào
tạo hay do quan sát mà có.
Thế nào là đức
tính tốt?
Nhân loại bước
vào thời kỳ năm châu chung chợ bốn biển chung nhà nên chúng ta tiếp xúc với
nhiều nên văn hóa khác nhau. Đức tính tốt của nền văn hóa nầy chưa hẳn đã là
đức tính tốt của nền văn hóa kia.
Luân lý ở bên
đây chân núi chưa hẳn là luân lý bên kia chân núi.
Đức tính tốt của
nhà Phật tựu trung ở ngũ giới cấm và tứ đại điều qui. Nhân sự tôn giáo thực
hiện được ngũ giới cấm và tứ đại điều qui thì đã là một nhân tố hoàn toàn trong
xã hội.
Đức tính tốt của
Nho Giáo là tam cang ngũ thường.
Nhưng cho dù có khác nhau thì cũng phải có điểm
chung là: Công Bằng và Bác Ái.
Công bằng là
điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Mình không muốn tù đày,
gông cùm hay bị giết vô cớ thì đừng giam cầm đừng giết hại người khác.
Bác
ái là lòng thương yêu rộng lớn. Thương ông bà, cha mẹ, vợ con, thân tộc họ hàng
rồi thương rộng ra cho đến cả nhơn loại... và còn phải thương rộng ra cho tới
cả loài sanh vật khác nữa.
ĐĐTKPĐ dạy mình
muốn làm nên cho mình thì phải làm nên cho người trước. Mình muốn thành Thần,
Thánh, Tiên, Phật thì phải làm cho người khác trước.
Một nền giáo dục
chân chính là giáo dục cho con người biết lắng nghe người khác, biết tôn trọng
người khác, biết vì người khác trong lẽ bác ái công bằng.
./- Thừa kế và
phát huy tinh hoa của ông cha. Tiếp thu cái mới để dung hòa với văn hiến dân
tộc. Không mù quáng chạy theo chạy theo chủ nghĩa ngoại lai vong bản rồi hò reo
là tiến bộ là cách mạng,
Đức Hộ Pháp ban huấn từ nhân lễ bãi trường và
phát thưởng cho học sinh trường Lê Văn Trung (1946)
Về nhiệm vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự,
một điều quan trọng mà tất cả các thanh niên học sinh cần phải biết, đó là
quốc thể của một nước, tức là sự tập hợp của một khối cá thể của những cá
nhân nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân một nước phải có một cá thể đã. Cá thể
của một người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá
thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chữ vô cùng quí báu ấy
là TU THÂN vậy.
HỘ PHÁP.
|
Đường hướng tu
thân trong ĐĐTKPĐ có 04 công thức: cần mẫn, thanh liêm, tín nghĩa và chí nhẫn
(thể hiện qua 04 bức tranh ở Bao Lơn Đài bên ông Thiện).
Nâng cao dân đức
là tạo điều kiện để công bằng và bác ái nẫy nở và phát triễn. Cách đứng đắn hơn
hết là bộ máy thượng tầng phải gương mẫu thi hành thì dân mới tin và làm theo.
Còn như thượng tầng tham nhũng, bất minh, tàn bạo thì có rao giảng đạo đức cũng
chẳng ai tin.
./- Chỉ rõ lòng
lành của Đại Từ Phụ để an ủi người lầm lỗi.
Đạo Núi Trần
Ngọc Dương bịnh nặng làm Tờ Yêu Cầu Đức Hộ Pháp xá tội cho hết căn bịnh
chướng.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Đức Chí Tôn là
Đại Từ Phụ, khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo
có hỏi về phương tận độ các vong linh thì có nói quả quyết như vầy:
Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt
đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh ta thì cũng đặng siêu thoát.
Dương gắng nhớ
và trông cậy nơi Đại Từ Phụ, vì Dương đã biết ăn năn sám hối.
Bần Đạo ban ơn
lành cho Dương.
Ngày
16-06-Ất Mùi.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký).
|
./- Phải thương yêu
đồng loại và vững tin nơi Đức Chí Tôn góp phần xây dựng thế giới mới.
. Loài người
là anh em với nhau chung một nguồn gốc thiêng liêng, buột phải thương yêu và
hiểu biết lẫn nhau không phân biệt màu da tôn giáo nào cả.
. Ngày nào
trên mặt thế nầy đặng công lý và nhơn đạo đánh đổ đặng cường quyền và bạo ác
thì chúng ta đã làm tròn sứ mạng.
. Đức Chí Tôn
đến đặng khai nguơn và tạo Tân Dân, Chư Thần Thánh Tiên Phật cũng đến ở cùng
ta để gầy dựng tinh thần nhân loại theo Thiên ý.
|
@@@
Tổng thống
Abraham Lincoln: .Dưới sự che chở của Chúa, dân tộc này sẽ có một nền
tự do mới. 19/11/1863.
...Tại đây
chúng ta quả quyết rằng sự hy sinh này sẽ không hề vô ích - rằng dân tộc này,
ơn Chúa, sẽ có nền tự do mới - rằng một chính phủ của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân sẽ không bị tiêu diệt trên trái đất này. 19/9/1863
|
Đức
Hộ Pháp:
Chung hiệp tinh thần đạo đức quốc dân thành
một khối cứng rắn làm căn bản vững chắc cho lập trường tranh đấu bằng đạo đức
tinh thần của ta. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn; Chí Tôn là Đại Từ Phụ sẽ giúp đở chúng ta thắng nổi tà quyền.
Ngày
03/02/1957. (Thư gởi TT Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu.
|
@@@
2.2/- Dân Trí.
Nâng cao dân trí
hẳn nhiên gắn liền với giáo huấn. Nhưng nâng cao dân trí rộng lớn hơn, đa dạng
hơn giáo huấn. Nói rõ ra thì giáo huấn chỉ là một phần trong công cuộc nâng cao
dân trí.
Nâng cao dân trí
là từ những điều cơ bản hay nguyên tắc được đem ra ứng dụng nghiêm túc trong
sinh hoạt xã hội.
Từ đó người dân
biết mình có quyền gì để thực hiện mà không cho chánh quyền phạm đến và biết
chánh quyền có những quyền gì để người dân không phạm đến.
Việc nâng cao
dân trí đòi hỏi sự minh bạch từ thượng tầng và sự mạnh mẽ từ dân chúng. Luật
pháp phải được áp dụng công minh không vị nễ. Nghĩa là chánh quyền hay dân cũng
phải chấp hành chung một bộ luật chớ không thể có thứ luật hà khắc với dân và
bao che cho quan chức.
./- Bác bỏ việc
thâu tiền bất chánh với mọi lý do.
Bác bỏ ngay từ
đầu thì làm sao có bài đồng ca: chúng tôi sẽ xem xét lại việc thu phí nầy của
cộng sản.
Do tờ huấn thị số 7 của Tổng Tư Lệnh Bộ.
Cấm việc thâu
tiền ủng hộ của Đạo hữu.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho Q. Ngọc Chánh Phối Sư thông tri huấn thị
nầy.
Phải rãi nhiều bổn trong Thánh Địa cho toàn đạo đều
biết và ra lệnh cho Thánh Vệ bắt kẻ nào còn bốc lột trong dân chúng với đủ
tang án nạp cho Pháp Chánh xữ định.
HỘ PHÁP. (Ấn Ký).
|
./- Cho phép người dân đánh trả kẻ áp bức.
Người có quyền thường hay lạm quyền. Mượn tiếng thi
hành công vụ để áp bức dân. Đức Hộ Pháp coi đó như côn đồ nên cho phép dân đánh
lại bọn đó tại chổ rồi cho Ngài hay...
Do tờ phúc số 158 của Thánh Vệ Trưởng báo cáo tình hình của Đại Đội 5 còn bắt Đạo
Hữu đi làm xâu.
.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Q. Ngọc Chánh Phối Sư viết thơ cho Tổng Tư Lệnh Quân đội y lời phê của Bần Đạo .
Viết thơ cho Tổng Tư
Lệnh tìm ra coi ai đã còn bắt làm xâu. Phải do Trung Tá Tý vi lịnh.
Bần Đạo cấm
mà chúng chẳng kể.
Phải tìm cho ra tên lính đã bắn xe của tên Có.
Một phương pháp là dặn toàn đạo hể còn bị
bắt xâu thì đánh lại lính bắt rồi cho Bần Đạo
hay liền.
HỘ PHÁP.
(Ấn Ký).
|
./- Thượng tầng quyết liệt không liên hiệp hay khoan
nhượng.
Sẳn sàng dời cả Phận Đạo đi nơi khác đủ thấy Đức Hộ
Pháp quyết liệt với cường quyền và áp bức...tới mức nào.
Phúc trình ngày 09-09-Nhâm Thìn của Đầu Phận Đệ XI
tường trình nơi căn cứ Phận, Đạo Hữu vẫn còn bị Quân Đội bắt xâu.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho Thánh Vệ Trưởng can thiệp cùng Quân Đội từ đây
để quyền hành chánh điều khiển Tín Đồ và Bần Đạo xin đừng dùng quyền áp bức
nữa. Nếu Bần Đạo còn nghe thì sẽ ra
lịnh cho toàn đạo nơi Phận dời đi nơi khác hết.
HỘ PHÁP.
(Ấn Ký).
|
./- Loại trừ mọi hình thức lợi dụng...vật chất hay
tinh thần.
Công văn Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương dâng lên
Đức Hộ Pháp nói về vụ Ông Bữu Phước yêu cầu Ngài giới thiệu Ông cùng Chánh
Phủ hiện hữu để dể bề hành sự .
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Các Cơ Quan Chánh Trị Đạo thì nghĩ sao. Chẳng lẽ
phải có làm quan đặng mới truyền giáo
Đức Hộ Pháp
phê tiếp: Tư cho Thiếu Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài xem và cho ý định.
Còn Bần Đạo cho đó cũng là một phương lợi dụng mà
thôi.
HỘ PHÁP. (Ấn Ký).
|
3.3/ Dân Sinh.
Dân sinh là cuộc
sống của người dân về vật chất lẫn tinh thần.
Năm 1927 thì Tòa
Thánh và chung quanh là rừng. Theo Đạo Sử của bà Nữ Đầu Sư ghi lại thì sơn lam
chướng khí đã làm cho nhiều người công quả bị bệnh. Đức Chí Tôn mới dạy Cao
Thượng Phẩm múc nước ở giếng cạnh bên Đền Thánh ngày nay (bên phái nữ) múc nước
đem để trên thiên bàn cầu nguyện xong rồi đem cho người bệnh uống.
Nhờ vậy mà qua
khỏi bệnh tật tiếng lành đồn xa nên thiên hạ mới rũ nhau về làm công quả rầm
rầm. Cái giếng huyền diệu ấy ngày nay bị chi phái lấp mất.
Đạo sử cũng ghi
Trảng Tròn cách Tòa Thánh chưa đầy 01km cọp thường hay xuất hiện...
Hội Thánh nghèo, người công quả cũng nghèo.
Đến những năm loạn lạc sau đó người chạy loạn về Thánh Địa càng nghèo.
Nhưng chẳng bao
lâu sau thì cuộc sống người dân qua khỏi cảnh nghèo đói và phát triễn.
Trước ngày
30-04-1975 Tây Ninh dẫn đầu miền Nam Việt Nam về sản xuất bột mì. Kết quả đó
chính là nhờ sự nhìn xa trông rộng của Đức Hộ Pháp (lập ra Hợp Tác Xã Dân
Sanh).
Đức Hộ Pháp triệt tiêu sự móc túi của người có
quyền với dân chúng dưới mọi hình thức. Và cách nào cũng quyết liệt. Ngài luôn
luôn đứng về phía dân chúng, phía những người lao động. Thực thi việc thu phục
nhơn tâm bằng nhơn nghĩa.
./- Trả lương
cho giáo viên
Phúc trình số 434 ngày 09-05-Nhâm Thìn của Thượng
Chánh Phối Sư dâng lên Đức Hộ Pháp tường trình sự thâu lợi tức và học phí không đủ trả lương cho Giáo Chức,
hiện còn thiếu 38.316$.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Hội Thánh phải chạy trả số lương cho các Giáo Viên
cho đủ.
Khi đã qua kỳ
thi Tiểu Học rồi Bần Đạo sẽ nhóm hợp các cơ quan Chánh Trị Đạo đặng quyết
định giải tán cả lớp Tiểu học (Cycle Primaire) đem về các Châu, các Tộc cùng
các Đầu Phận lo về phần Tiểu Học. Hội Thánh sẽ tổ chức lại các lớp Đại Học
(Cycle Supérieur) từ 1 ère Annés đến 4 ère Annés đặng thi Diplome rồi đi lần
lên Tú Tài Cử Nhân và các khoá trên nữa.
Hộ Viện
Hành Chánh phải lo cho đủ số tiền đặng trả cho các Giáo Viên Tiểu Học trước
khi giải tán Tiểu Học. Chính
mình Bần Đạo sẽ trù tính phương pháp
cất Đại Học Đường.
Đức Hộ Pháp phê thêm:
Phối Sư Cố
Vấn đòi cho đặng số tiền bột mì đặng cho mượn trả tiền học phí nầy rồi sau sẽ
trả lại.
HỘ
PHÁP. (Ấn Ký).
|
Số tiền bột mì
đây chính là số tiền của Hợp Tác Xã bột mì DÂN SANH đóng góp lại cho Hội Thánh.
Đạo không dùng cách giải thể để lưu nợ dây dưa hay xóa nợ...
@@@
./- Nhìn nhận sự
yếu kém để vươn lên, không chạy theo thành tích để cho dân phải khổ. Người nào
làm cho đời sống người dân khá lên đều đáng được tôn trọng.
Phúc trình số
43/PC ngày 02-05 Nhuần- Nhâm Thìn của Luật Sự
Pháp Chánh Thủ Dầu Một.
Vâng lịnh Ngài
Khai Pháp tỏ tình hình hiện hữu nơi căn cứ Dầu Tiếng. Tộc Đạo Bến Cát (Thủ
Dầu Một).
Đạo Hữu ở căn
cứ nầy về Tòa Thánh đến sở cao su làm ăn rất đông đảo vì chánh sách mua chuộc
lòng dân của chủ hảng nầy rất hay
khéo. Ai đến sở nầy làm là được ưu đãi bảo bộc cho không gạo đủ nuôi dưỡng
người trong gia đình nữa.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Vụ trốn Quân
Đội mà đi nơi khác đã rõ rệt không cần luận đến chi nữa. Bần Đạo đã bị áp bức đôi đàng:
Một bên là Thế.
Một bên là
Thành.
Ở giữa chẳng
khác chi chịu trên viên đe mà dưới cái búa.
Lớp tù tội
giết chóc; lớp cướp trộm; lớp xâu thuế hỏi cảnh tượng ấy ai chịu nổi không
đi.
Lại nữa hảng
cao su Dầu Tiếng (MICHELIN) là của vị De Beaumont là người lãnh đạo đại
nghiệp giàu có lớn nhứt ở Việt Nam thì hơn nhứt của dân Việt.
Nay tới cảnh
tượng nầy thì thi ân đôi chút đặng trả lại. Còn chính sách dụ dân của họ là
hay là khéo hơn điều hành động dốt nát của Quân Đội thì là thua trí và sẽ
thất đạo đã rồi không cần nghị luận. Các Cơ Quan Chánh Trị Đạo kiếm mưu chước
đặng chữa ngay bệnh của Quân Đội coi thử.
HỘ
PHÁP.
(Ấn
Ký).
|
./- Nghiêm khắc
với người làm thất nhơn tâm, qui trách nhiệm về người lãnh đạo để chỉnh đốn.
Đạo tối kỵ việc bao che...
Do Tờ Trả Lời
về vụ Lễ Sanh Chót (Thượng).
Góp tiền chợ
Long Hoa .
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Quyền Ngọc
Chánh Phối Sư là người chủ quyền của Thiên Phong Chức Sắc tức phải chịu trách nhiệm dụng
nhơn. Thoảng kẻ vô quyền hành mà người đem để trách nhiệm yếu trọng làm cho
hư cả thanh danh và năng lực của Hành Chánh thì thử hỏi tội người thể nào?
Ra Tòa Tam
Giáo và mất quyền chức là chắc, thuyên bổ Chức Sắc không có quyền trên phê
chuẩn là phạm tội quá quyền, đáng thâu quyền Chánh Phối Sư lại. Nhưng vì nhục
lây cho quyền Hành Chánh nên phạt 10 hương tại Điện mỗi ngày 3 nhang .
Phải đem Chót
ra khỏi Long Hoa Thị liền.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký).
|
./- Không chấp
nhận ra nhiều loại thuế, phí. Coi đó là mầm móng và hang ổ của tham nhũng. Điều
nầy hoàn toàn đối nghịch với chánh quyền cộng sản hiện nay. Nên cộng sản không
cho ĐĐTKPĐ được hành đạo là đáng.
Do công văn số
109 ngày 22-02-Qúi Tỵ.
Của Ban Quản
Trị Long Hoa Thị xin thâu thuế hàng hóa xuất nhập nơi Châu Thành Thánh Địa.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Càng
bày thêm sắc thuế là càng làm cho nhơn tâm toàn đạo thêm rắc rối, cứ tăng
thêm tiền chỗ của chợ là đủ.
Tiếng tục ngữ
Pháp nói: Paris ne se fait pas en um seul jour”
Thuế chi cũng
vậy, duy để hại là tay thâu nhám nhúa nạp thiểu thâu đa. Chẳng nên đưa quyền
lợi cho cá nhân hưởng, mà Đạo phải mang tiếng.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký).
|
./- Bác bỏ việc
dùng quyền bắt dân đóng góp.
Q. Ngọc Chánh
Phối Sư gởi cho Khâm Thành.
V.V: Bác đơn góp tiền lập ngân quỹ nuôi lính
Bảo An.
SỐ 10- NGÀY
23-03-1953.
LỜI
PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Không thể đặng
vì bổn đạo quá nghèo! Ta nên làm của cho họ chớ không nên lấy của họ.
HỘ
PHÁP
(Ấn
Ký)
|
./- Binh vực
người dân bị áp bức; khiển trách kẻ cầm quyền bất lực rồi ép dân để chạy tội.
Đơn yêu cầu của Khâm Thành đề ngày 04-04-Quí Tỵ xin
xá tội cho hai vị Đạo Hửu đã bị phạm về vụ đi chà lúa bị cướp mất.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho Bộ Tư lệnh Quân Đội thả hai tên Phần và Thị
Sắng ra liền. Đã bị ăn cướp rồi còn
bị đánh khảo nửa là vô lý và bất công. Bần Đạo không muốn thấy một
lần như thế nữa.
Đáng lẽ
Quân đội phải rượt theo kẻ cướp đặng lấy cho đặng gạo lại mà bất lực không
làm được rồi lại còn tra khảo và đánh đập nạn nhân, cử chỉ rất nên tủi
hổ.
HỘ PHÁP
(Ấn Ký).
|
./- Tôn trọng
nguyện vọng chánh đáng của dân, nhận trách nhiệm không thối thoát... phải chỉnh
đốn để thuận chiều dân vọng.
Nhóm dân ở SaĐéc trạng tỏ về việc ăn ở trước kia
dưới sự kiểm soát của Việt Minh. Nay Quân Đội Cao Đài đến giữ trật tự an ninh
nhưng vẫn còn nhiều người thắc mắc nhóm nầy đòi tự do, hạnh phúc.
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho các Cơ Quan Chánh trị Đạo xem rồi trả lời.
Thời bình đã tạm có Quốc Dân Việt đều tưởng tượng
như thế mà quyền đời cũng dối gạt họ như thế.
Ta đã biết rõ hòa bình nầy là thế nào. Trong bổn đạo
họ đâu hiểu như ta đã hiểu.
Họ đòi tự do,
hạnh phúc là quyền sở hữu của họ. Quá 9 năm đau khổ với bức bách đủ mọi điều,
hết giặc tới giả.
Ta đã gọi là phần tử Thánh Thể đừng để chúng sanh
chê ta vô đạo đức và hung bạo theo đời.
Các Cơ Quan Chính Trị Đạo chỉnh đốn nội dung cho
thuận chiều dân vọng.
HỘ PHÁP.(Ấn Ký).
|
./- Trao quyền cho dân.
Đức Hộ Pháp ra
đề tài thuyết đạo. Sau đó cho các vị chức sắc trình bày. Có một vị người Miên
lên trình bày vắn tắc: Tôi ít học chỉ biết nói thật, ăn thật, làm thật rồi
xuống. Khi bình chọn Đức Hộ Pháp khen vị đó nói đúng và rất hay... Hội Thánh
mời dân ăn bánh thật, tiệc thật chớ không phải bánh vẽ, tiệc vẽ...
Tờ của Thiếu Uý Nguyên
Nói v/v bỏ thăm Hội Đồng Thánh Địa ở Đệ Ngủ
LỜI PHÊ ĐỨC HỘ PHÁP:
Tư cho Q.
Ngọc Chánh Phối Sư phải viết bố cáo dán khắp Thánh địa cho biết rằng: Chức
sắc Hội Thánh dầu Hành Chánh hay Phước
Thiện là kể như kẻ cầm quyền.
Hội
Đồng Thánh Địa cốt là mượn quyền sở hữu cho kẻ Tín Đồ bảo vệ binh vực quyền
lợi của mình đối cùng pháp luật tức là đối với kẻ cầm quyền.
Đã là
một cơ quan đối chọi với nhà cầm quyền mà đưa lại nơi tay người ấy thì là cho
nhơn sanh quyền gì nói thử?
Bôi tên là phải, lỗi nơi Khâm Thành là không cho
quần chúng biết trước mà thôi.
HỘ PHÁP.(Ấn Ký).
|
@@@
Tóm lại: Hội
Thánh thực hiện 05 chương trình: gia cư, mưu sinh, kiến thiết, giáo huấn và tôn
giáo để nâng cao dân đức, dân trí và dân sinh người dân đã ĐƯỢC nếm trãi nên họ
biết giá trị của nó và sẳn sàng hy sinh để bảo tồn nó cho hậu tấn. Nhân tâm là thước đo để định giá trị công
thức, đường lối, chánh sách của Đạo hay Đời.
Có được kết quả
như vậy là do công thức đúng và bộ máy hành chánh có năng lực, thực thi nghiêm
chỉnh. Nên tiếp đây chúng tôi xin trình bày ngắn gọn về bộ máy hành chánh tôn
giáo.
@@@
LÀM TRAI CHO VẸN PHẬN
Nợ non sông muốn gánh, phải lo tròn,
Giữa bể khơi lắc lẽo chiếc thuyền con. Cơn sóng gió liệu còn hay để mất, Khóc nước loạn rừng con quốc quốc. Máu thành sông thây chất ví non cao, Kiếp ngựa trâu Việt chủng vẫn kêu gào, Đá tinh vệ chừ bao cho lấp bễ. Vận hội đến đã xây thời thế, Bởi hung tàn chưa thoát lệ nô. Bốn ngàn năm một gánh cơ đồ, Chia rẽ mãi điểm tô không kịp bước. Đời lấn Đạo dời xa cội phước, Đạo dìu đời vận nước mới an. Đức lập quyền dân được châu toàn, Quyền xa đức nhơn gian thống khổ. Lấy chí Thánh dìu Đời giác ngộ, Dụng bạo tàn đâu phải chỗ an bang. Trị theo Đời dân chúng vẫn lầm than, Đó là dìu chúng đến con đường tự diệt. Do bốn chữ Minh, Cang, Liêm, Khiết, Đạo hay Đời trăm việc cũng thành. Gắng đề phòng bã lợi đua tranh, Cầm bạc giữ đạm thanh khi sớm tối. Chậm rãi bước đường xa chớ vội, Góp ý hay mở lối cang thường, Thương đời cho trọn chữ thương.
Thảo xá Hiền Cung. Ngày 15-11- Tân Mùi (23/12/1931). Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng ban cho
ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch. Thủ Tướng Nam Kỳ Quốc.
|
III/- BỘ MÁY HÀNH CHÁNH.
Hành là làm.
Chánh là ngay
thẳng, sáng suốt, chơn chánh là chân lý.
Hành chánh là
làm việc một cách ngay thẳng, sáng suốt để thi hành các luật lịnh của đạo. Nhân
sự hay cơ quan đều phải tuân y pháp luật để cùng nhau xây dựng xã hội công
bằng, bác ái. Hành chánh tôn giáo là thể pháp đưa xã hội đi đến thế giới đại
đồng, đồng tiến.
@@@
Bộ máy công
quyền các quốc gia theo chế độ Quân Chủ lập hiến, Dân Chủ, Cộng Hòa, Tư Bản,
Cộng Sản, Trung Lập... cũng như bộ máy công quyền tổ chức theo Tổng thống chế,
Nội các chế.... đều là phương tiện để xây dựng hạnh phúc cho dân và bảo vệ đất
nước.
Thực tiễn chỉ ra
rằng vấn đề không phải là ý thức hệ, chế độ hay cách tổ chức chánh quyền mà vấn
đề chính nằm ở cách thức giải quyết 05 vấn đề chủ yếu là: kế hoạch, tổ chức,
kiểm tra, lãnh đạo và sự hài lòng của dân chúng (hiệu quả) phải minh bạch. Bằng
cớ những quốc gia theo quân chủ vẫn là quốc gia hàng đầu thế giới (Anh Quốc,
Thụy Sĩ, Nhật Bản...) rồi những quốc gia cho rằng thể chế của mình là tiên
tiến, là ưu việt như Việt Nam mà dân chúng chán gấy đang hiệp nhau xô ngã...
Tổng thống chế
hay Nội các chế cũng đều có thể làm cho đất nước phát triễn. Tổng Thống Mỹ và
Tổng Thống Pháp có quyền hạn khác nhau rồi Anh Quốc không có Tổng Thống thì đã
sao? Đó chỉ là những quan điểm riêng còn thực chất nằm ở 05 vần đề vừa đề cập
đến... .
./- Pháp luật, chương trình, kế hoạch lấy dân làm
gốc hay phe nhóm làm gốc, an dân hay mị dân?
./- Dân chúng có quyền gì trong tổ chức đó hay
chỉ bù nhìn trên giấy để đối phó với dân và công luận quốc tế (như cộng sản VN hiện nay là một thí dụ diển
hình).
./- Kiểm soát,
giám sát, thanh tra... giao cho ai? Nếu giao độc quyền cho chánh quyền kiểm
soát thì là giao trứng cho ác. Quan chức vừa thực thi vừa kiểm tra vừa đánh giá
thì dân còn quyền gì? Chánh quyền có bộ phận kiểm soát của chính quyền và dân
có cơ chế kiểm soát của dân thì mới là dân chủ ngó thấy được (mục).
./- Lãnh đạo có
đức và tài hay không? Dân có được tham gia chọn người lãnh đạo mình hay không?
./- Lòng dân có
tín nhiệm hay không? Hiệu quả chính là thước đo cả 04 khâu trên.
Tóm lại chế độ
hay tổ chức bộ máy hành chánh chỉ là phương tiện là hình thức mà quan trọng 05
vấn đề trên.
Người cộng sản
đã đánh lừa dân chúng bằng cách phô trương, quãng bá ý thức hệ, thể chế... là
những điều không thực tế... làm cho dân
bị quay cuồng trong đó để ngu dân. Dân ngu thì dễ bần cùng hóa đó là 02 thanh
thép trên đường ray cộng sản để đưa xã hội vào thảm họa.
@@@
Về xã hội học có
thể nói rằng Đạo Cao Đài theo QUÂN CHỦ DÂN QUYỀN. Quân là vị Giáo Tông làm chủ
nền đạo còn nhơn sanh là dân trong tôn giáo được lập quyền để cùng nhau thực hiện
cuộc cách mạng xây dựng xã hội đại đồng, đồng tiến.
Công thức thực
hiện cách mạng nhơn nghĩa là dân mạnh và lập quyền dân. Nội dung là 05 chương
trình và 03 phương diện như chúng tôi đã trình bày. Có công thức đúng, nội dung
phù hợp kết hợp với nhân sự có năng lực và được tổ chức hợp lý mới hội đủ yếu
tố: Thiên thời, địa lợi và nhơn hòa để đi đến thành công.
Thiên thời là
ngay từ đầu thượng từng phải đưa ra công thức đúng để tạo thời THÁI. Địa lợi là
phải chọn vùng đất phù hợp. Nhơn hòa là trên dưới phải đủ tin với nhau và đồng
tâm hiệp lực thi hành. Lấy nhơn tâm làm chuẩn mực. Ý dân là ý trời; thuận nhơn
tâm ắt thuận trời.
Dân là tập thể
đông nhất nhiều ý kiến nhất vậy làm sao biết ý dân? Làm sao biết lòng dân? Phải
có cơ chế cho dân bày tỏ minh bạch. Bảo đảm cho mọi ý kiến phải được đưa ra
phân tích tranh luận cho ngã ngũ rồi dân quyết định thi hành. Đó là cơ chế Đại
Hội Nhơn Sanh đã trình bày.
Đó là cơ chế dân
chủ nhìn thấy được (dân chủ mục). Bộ máy hành chánh của ĐĐTKPĐ rất đơn giản
nhưng cũng rất tinh vi. Tùy vào nhu cầu của người tìm hiểu mà phát hiện.
Trọng tâm của đề
tài là giới thiệu cuộc cách mạng nhơn nghĩa nên chúng tôi trình bày bộ máy
trong phạm vi gọn nhẹ để hình dung ra được những nét cơ bản nhất (Cửu Trùng Đài
Nam Phái) có thể áp dụng cho bộ máy hành chánh quốc gia hay những tổ chức khác.
Chính yếu nhất
là giới thiệu được:
./- Quyền hành
pháp. Quyền tư pháp. Quyền lập luật (lập pháp).
./- Nhân sự cấp
trung ương và cấp địa phương. Đây là điểm hoàn toàn khác cách tổ chức chánh phủ
hiện nay.
./- Sự phân
quyền giữa trung ương và địa phương.
./- Qui định
chung về Luật và Quyền.
@@@
Về nguyên tắc
chế độ nào cũng có thể đem lại hạnh phúc cho muôn dân, quốc gia tiến bộ. Nhưng
xem trên thực tế chúng ta chưa hề thấy một quốc gia nào theo chế độ cộng sản mà
được dân chúng yêu thích. Sự sụp đổ của Liên xô và các quốc gia ở Đông Âu là
bằng chứng. Như vậy lý luận rằng chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt là bịp bợm,
láo khoét xa rời thực tế. Nói lấy được để gạt dân chung vào cái chai rồi họ
đóng nút lại để thao túng. Họ dùng cơ chế để bao che cho sự vô đạo đức của cán
bộ.
Điển hình như
thủy điện ở Việt Nam. Các ông lớn trong chính phủ và địa phương ăn chia với lợi
ích nhóm rồi phê duyệt cho xây đập thủy điện tràn lan thành những quả bom nước
đe dọa sinh mạng dân chúng. Khi quả các bom nước chưa bùng nổ thì đã có thảm
họa xã lũ ĐÚNG QUI TRÌNH. Mỗi lần xã lũ chỉ cần báo trước hai giờ đồng hồ là
đúng qui trình. Như vậy dân làm sao sống được với cái qui trình ác ôn đó?
Mỗi khi có thảm
họa xã lũ gây ra chết dân, hư hại mùa màng tài sản của dân thì Ban Quản Lý và
các quan chức đồng ca bài ĐÚNG QUI TRÌNH để che chắn nhau. Bởi vì lôi ra thì
cái lỗi bắt nguồn từ nơi phê duyệt, từ nơi lợi ích nhóm.
Cơ chế dù minh
bạch đến đâu cũng không thể gọi là hoàn hảo. Luật pháp dù chi tiết đến đâu vẫn
còn sơ hở. Mà việc thi hành có kết quả tốt hay không là do con người thực hiện
nó.
Anh Quốc và hàng
loạt nước khác theo quân chủ lập hiến mà dân vẫn hạnh phúc nước vẫn hùng cường
ngày một nhân văn. Hiến pháp là quan trọng nhưng Anh Quốc không có hiến pháp
(hiến pháp Anh Quốc chỉ là một số tập tục không thành văn). Nhưng do con người tự ý thức nên vẫn văn minh
tiến bộ. Nhiều quốc gia cứ nay hiến pháp nầy mai hiến pháp kia mà đất nước vẫn
trì trệ. Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu. Một tổ chức hay quốc gia được
điều hành bởi những người đầy đủ đạo đức và trí tuệ (hiền tài) thì cho dù cơ
chế, luật pháp có thiếu xót (chưa tiên liệu hết) thì cũng không đến nỗi hổn
loạn.
Hoa kỳ là một
quốc gia non trẻ nhưng nhờ đâu mà họ hùng cường và nhân văn như vậy? Mỗi người
đều có nhận định riêng. Nhưng chúng tôi ghi nhận rằng trong tiêu ngữ quốc gia
của họ, trong những tác phẩm văn học nghệ thuật, trong biểu tượng quốc gia,
trong luật pháp đều có bóng dáng rõ ràng của sự tín ngưỡng vào Đức Chúa Trời.
Tổng thống Mỹ khi tuyên thệ nhậm chức tay phải cầm Hiến Pháp và tay trái đặt
trên thánh kinh. Mà tin vào chúa Trời chính là tin vào dân chúng vì ý dân là ý
trời.
Tổng Thống thứ
16 của Mỹ ông Abraham Lincoln là một luật sư và là một trong ba vị tổng thổng
vĩ đại của Mỹ nhận định rằng: Tôi
luôn luôn thấy rằng một tấm lòng thương xót kết quả nhiều hơn một nền công lý
nghiêm nhặt. Như vậy rõ ràng là
ông chủ trương dùng nhân đạo, dùng tình thương hơn luật pháp.
Chỉ có những
người cuồng tín vì chủ nghĩa cộng sản mới dùng luật pháp cực đoan đến độ có một
rừng luật để rồi lấy luật rừng ra xài.
Chánh án tòa án
tối cao phát biểu công khai rằng: Luật ở Việt Nam xữ thắng cũng đúng, xữ thua
cũng đúng, xữ hòa cũng đúng như vậy còn gì là đất nước có văn hiến còn gì là pháp
quyền. Nó chỉ còn lại TIỀN QUYỀN, và BẠO LỰC QUYỀN.
Thủ Tướng Dũng
vừa ký lịnh cho phép công an bắn thẳng vào dân. Rồi đầu năm 2014 ông Dũng đọc
thông điệp hô hào chính phủ chỉ được làm những gì luật cho phép (là tự do bắn
dân). Mỗi người dân là một mục tiêu trong họng súng chánh quyền. Bản chất chế
độ độc tài mọi thời đại giống nhau ở chổ coi sinh mạng người dân như cỏ rác.
Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, bắt dân sống như súc vật. Cộng sản Việt
Nam cũng đốt sách, dẹp trường học tôn giáo, tàn sát hàng loạt sinh mạng trong
chiến tranh và sau chiến tranh. Đến 2014 là tự do bắn dân... Nhiều nhà trí thức
mừng rỡ bình luận là ông Dũng đổi mới thế nầy thế nọ (do họ có nguồn tin
riêng...sic).
Nhưng chúng tôi
tin rằng hàng loạt người công nghĩa chiến đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền và
tự do tôn giáo sẽ bị giết chết dưới họng súng của cộng sản bởi vì luật pháp đã
cho phép họ bắn thẳng vào dân. Họ sẽ bắn người công nghĩa đúng qui trình. Cộng
sản GIẾT NGƯỜI CÔNG NGHĨA ĐÚNG QUI TRÌNH cũng như thảm họa xã lũ là đúng qui
trình. Đức Chí Tôn dạy:
Nhơn là đầu hết các hành tàng,
Cũng bởi vì nhơn dân hóa quan.
Dân chúng có nhơn nhà nước trị,
Nước nhà nhơn thiệt một cơ quan.
1/- Tam quyền phân lập.
Tóm lại không có
một cơ chế, một luật pháp nào là hoàn bị mà chính con người sẽ làm cho nó có ý
nghĩa nhân văn hơn mà thôi.
Trong ĐĐTKPĐ có
sự phân biệt giữa Pháp và Luật rất rõ ràng. Pháp trên luật, luật phải tùng theo
pháp. Luật không tùng pháp là phạm pháp. Quyền lập pháp thuộc về thiêng liêng
(Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng có trách nhiệm trong ĐĐTKPĐ) và thiêng
liêng kết hợp với Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài. Do vậy trong phạm vi (xã hội học)
của đề tài nầy quyền lập pháp được hiểu như quyền lập luật.
TƯ PHÁP.
Hiệp
Thiên Đài.
Hộ
Pháp Chưởng Quản.
(Coi
về luật pháp)
|
HÀNH PHÁP.
Cửu
Trùng Đài.
Giáo
Tông Chưởng Quản.
(Coi
về giáo hóa)
|
LẬP PHÁP (LUẬT).
.
03 Hội Lập Quyền Vạn Linh (Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội).
|
@@@
2/- Phân cấp nhân sự: trung ương và địa phương.
Nhân sự tôn giáo
có 02 nhiệm vụ:
./- Nhiệm vụ hành
chánh tôn giáo là thực thi những điều đã được thống nhất và Hội Thánh ra văn
bản thực thi. Nó như diễn viên lên sân khấu phải biểu diễn theo bài bản đã tập
dượt... (là hành chánh đạo).
./- Nhiệm vụ bàn
luận để đi đến thống nhất nội dung công việc từ luật lệ, giáo lý, nhân sự...
(gọi là chánh trị đạo). Nó như soạn ra kịch bản cho một tuồng hát.
./- Có kịch bản,
có diễn viên thì sàn diễn (sân khấu) chính là xã hội mà dân chúng là khán giả.
Sự hài lòng của dân chúng (khán giả) là thước đo 02 công việc trên (kịch bản,
diễn viên).
2.1/- Nhân sự trung ương.
Nhân sự trung
ương gọi là chức sắc. Hàng phẩm chức sắc phân phái để thực thi nhiệm vụ khi cầm
quyền hành chánh; khi tham gia lập chương trình để hành chánh và kiểm tra...
Phần nầy đã trình bày chi tiết tại 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh (chương hai, tiết
hai).
Chức sắc chia
làm 02 diện:
a/- Diện còn phải đi địa phương: từ Lễ Sanh
(Quận Đạo), Giáo Hữu (Tỉnh Đạo), Giáo Sư (nhiều Tỉnh Đạo gọi là Trấn Đạo).
b/- Diện ở tại trung ương.
Phối Sư, Đầu Sư,
Chưởng Pháp và Giáo Tông.
Chức sắc 02 diện
nầy thuộc quyền điều động của Hội Thánh thuyên bổ. Nghiêm cấm thuyên bổ về nới
quê quán hay trú quán. Toàn bộ nhân sự 02 diện nầy mỗi khi thăng phẩm (do thâm
niên và công nghiệp) đều phải qua khâu xét duyệt của 03 Hội Lập Quyền Vạn Linh.
Phẩm Lễ Sanh
không hạn chế số lượng. Từ Giáo Hữu trở lên có định số nhân sự cho mỗi phẩm
(tuyệt đối cấm phát sinh ngoài số đã định, còn như thiếu thì được phép).
2.2/- Nhân sự địa phương gọi là chức việc.
Gồm có 03 phẩm:
Chánh Trị Sự (làm đầu một Xã Đạo). Phó Trị Sự làm đầu một Ấp Đạo coi về giáo
hóa - chánh trị. Thông Sự làm đầu một Ấp Đạo cùng với Phó Trị Sự nhưng coi về
luật pháp.
Chức việc là
người nơi địa phương. Do địa phương tự bầu theo luật định và Hội Thánh chỉ ra
văn bản công nhận. Phải làm Phó Trị Sự hay Thông Sự rồi mới được ứng cử Chánh
Trị Sự. Trường hợp địa phương mới thành lập thì đồng đạo kết hợp với Lễ Sanh
Đầu Quận Đạo chọn lần đầu. Sau đó phải theo luật định
Chức việc nơi
địa phương nào bầu lên thì làm việc theo địa phương đó. Hội Thánh không điều
động chức việc.
Một xã có nhiều
Ấp. Thí dụ xã A có Ấp 1, Ấp 2, Ấp 3, Ấp 4...
Chánh Trị Sự (xã
A) kết hợp với Phó Trị Sự (Ấp Một) và Thông Sự (Ấp Một) gọi là Bàn Trị Sự Hương
Đạo Ấp Một.
Chánh Trị Sự (xã
A) kết hợp với một vị Phó Trị Sự (Ấp Hai) và Thông Sự (Ấp Hai) gọi là Bàn Trị
Sự Ấp Hai.
Trừ những quyền
đã qui định cho mỗi phẩm... còn những việc chi khác trong Ấp phải có đủ Bàn Trị
Sự mới đủ pháp lý.
2.3/- Sự thăng phẩm.
Chúng tôi chia
sự thăng phẩm theo hàng chức việc và từ chức việc lên chức sắc.
Người đã nhập
môn gọi là tín đồ. Trong tín đồ chưa có chức phẩm gọi là đạo hữu.
a/- Thăng phẩm theo hàng chức việc.
Đạo hữu có quyền
ra ứng cử Phó Trị Sự và Thông Sự. Phó Trị Sự và Thông Sự do đạo hữu trực tiếp
bầu ra.
Đủ thâm niên và
hành đạo có kết quả thì Phó Trị Sự, Thông Sự được ứng cử Chánh Trị Sự. Các vị
Phó Trị Sự và Thông Sự bỏ phiếu bầu ra một vị Chánh Trị Sự
b/- Thăng phẩm theo hàng chức sắc.
Vào Phẩm Lễ
Sanh: Do phẩm Lễ Sanh không hạn chế số lượng nên có nhiều con đường vào hàng
phẩm Lễ Sanh: Chánh Trị Sự 05 năm, Phó Trị Sự... Thông Sự, Công quả...
Nhưng muốn được
công nhận Lễ Sanh phải qua 03 Hội Lập Quyền và sau đó ra cơ bút nơi cung Đạo.
Từ Lễ Sanh lên
Giáo Hữu: Phẩm Giáo Hữu chỉ có 3000 người (mỗi phái 1000) nên việc tuyển chọn
rất gắt gao.
Từ 3000 Giáo Hữu
lên Giáo Sư chỉ tuyển chọn có 72 vị.
Từ Giáo Sư lên
Phối Sư chỉ tuyển chọn có 36 vị.
Từ Phối Sư lên
Đầu Sư chỉ tuyển chọn có 03 vị.
Đầu Sư có quyền công cử nhau lên Chưởng Pháp.
Việc tuyển chọn
các phẩm trên cũng đều phải qua 03 Hội Lập Quyền và cơ bút.
Riêng Phẩm Giáo
Tông thì 03 phẩm Đầu Sư và 03 phẩm Chưởng Pháp có quyền ra tranh cử.
@@@
3/- Phân cấp hành chánh.
Phần nầy chúng
tôi trình bày từ thấp lên cao.
Đạo phân quyền
mà không tản quyền. Phân quyền là phân định quyền hạn theo địa bàn. Nhân sự hay
cơ quan trong địa bàn được phân công hành chánh có đầy đủ quyền như Hội Thánh
trung ương.
Có 05 cấp hành
chánh là Hương đạo, Tộc Đạo (Quận), Châu Đạo (Tỉnh), Trấn Đạo (nhiều Tỉnh) và
Trung Ương.
Phần chức việc
nằm ở Hương Đạo. Trong địa bàn được phân công thì Bàn Trị Sự (Hội Thánh Em) có
đủ quyền hạn y như Hội Thánh (Anh) ở Trung Ương song chỉ giới hạn trong địa
phương mình được bầu.
Phần chức sắc
cầm quyền hành chánh từ Tộc Đạo đến Trấn Đạo thay mặt Hội Thánh nơi địa phương
được bổ nhiệm.
Phần chức sắc từ
Phối Sư trở lên hành đạo tại Tòa Thánh nơi Cửu Viện hay cơ quan trung ương....
4/- Cửu Viện.
Trong phần trước
chúng tôi đã trình bày rằng năm 1911 Taylor đã đưa ra phương pháp sản xuất làm
thay đổi kinh tế Hoa Kỳ và thế giới.
Năm 1927 lý
thuyết sản xuất của Taylor chưa được biết đến ở Việt Nam. Nhưng trong ĐĐTKPĐ
Đức Thượng Đế đã dùng phương pháp phân chia khối công việc tổng thể ra thành
nhiều phân khúc hay công đoạn đơn giản cho môn sinh thực hiện cuộc cách mạng
nhơn nghĩa.
Cửu viện là 09
viện nghiên cứu và đưa ra phương án thực thi cho phù hợp. Cửu viện được phân bổ
như sau:
a/- Phái Ngọc phụ trách 03 viện: Hòa, Lại, Lễ.
Hòa viện có 02
nhiệm vụ chính: phụ trách hòa giải, xữ kiện (tư pháp) và nghiên cứu luật pháp
và ra văn bản rõ ràng để có chủ trương chung cho toàn đạo.
Lại viện chịu
trách nhiệm thuyên bổ và điều động nhân sự (nội vụ). Đây là nơi nghiên cứu để
nắm rõ năng lực nhân sự tôn giáo và phân bổ đến nơi thích hợp.
Lễ viện chịu
trách nhiệm về nghi thức của đạo và giao thiệp với xã hội (ngoại giao). Đây còn
là nơi kết hợp với giáo huấn nghiên cứu triết lý Đông Tây, giáo lý, kinh điển,
đạo đức thể hiện bằng hành động để đưa vào chương trình giáo huấn chung
Phái Ngọc chịu
trách nhiệm về ổn định nội bộ.
b/- Phái Thượng phụ trách 03 viện: Học, Y, Nông.
Học viện phụ
trách giáo huấn. Tất cả những công việc liên quan đến giáo huấn học đường hay
hạnh đường như nội dung, đường lối... đều thuộc trách nhiệm Học Viện. Cái dốt
đạo hay dốt chữ đều cần được xóa bỏ. Còn một cái dốt rất nguy hiểm là dốt với
chính lương tâm mình. Nó là nguyên nhân dẫn đến những cái dốt khác của thường
nhân và đặc biệt nguy hiểm với người có uy quyền và địa vị. Lương tâm là tiểu
linh quang xuất từ đại linh quang nên nó luôn sáng suốt. Mà con người thiếu
hiểu (dốt) nên không đến được với chính lương tâm của mình rồi gây họa cho
chính mình và đồng loại (Mặt Trận Tổ
Quốc Tỉnh Tây Ninh ra BẢN ÁN CAO ĐÀI. Bí thư Tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn Rốp ra kế
hoạch 01 tiêu diệt Đạo Cao Đài là những bằng chứng điển hình). Lương tâm con
người rất mạnh mẽ nên nó đóng lại thì không ai mở ra được cũng như khi đã mở ra
thì không ai đóng lại được. Nên cứu cánh của giáo huấn là xóa bỏ cái dốt với
chính lương tâm mình. Thầy dạy:
Dạy
trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.
Y viện lo điều
trị bệnh tật, chăm sóc sức khỏe, hướng dẫn môi trường sống, kết hợp với Nông
Viện để nghiên cứu dược liệu...tạo ra nguồn thực phẩm phù hợp với mùa tiết...
Nông viện phụ
trách về nông nghiệp trồng cây lương thực, cây công nghiệp hay kết hợp với Y
Viện trồng cây cỏ dược liệu, tạo điều kiện cho ngành giáo huấn tham quan thực
tế sản xuất bổ xung cho giáo án...
Cách bố trí 03
viện nầy vào một cụm liên quan nhau là đã nhìn sâu vào mối quan hệ hữu cơ của
các viện.
Phái thượng chịu
trách nhiệm về đường hướng nghiên cứu xây dựng xã hội qua ba phương án trên.
c/- Phái Thái phụ trách 03 viện: Hộ, Lương, Công.
Hộ viện gìn giử,
bảo tồn tiền bạc, tài sản... và là nơi nghiên cứu về tiền tệ, ngân khố, ngân
sách trong tôn giáo. Chi dụng thế nào có lợi, thế nào có hại... Lo về ngân hàng
tôn giáo để cung ứng tiền nong cho các viện hay nhân sự tôn giáo. Điều quan
trọng nữa là lo vốn cho Phước Thiện theo kế hoạch...
Lương viện lo về
vật thực trong cuộc sống. Chịu trách nhiệm nghiên cứu về kinh tế tôn giáo. Kinh
tế quan trọng như máu để nuôi cơ thể. Cơ thể mạnh khỏe hay đau yếu là do nguồn
máu. Tôn giáo phát triễn hay lụn bại phần lớn là do bộ máy kinh thương mà ra.
Kinh tế thế nào để tạo ra cuộc sống vật chất trong tình thương. Kinh tế thế nào
sẽ dẫn đến hỗn loạn và giết nhau để sống (thương trường là chiến trường...).
Công viện lo về
xây dựng, giao thông, thiết kế nhà máy, cụm công nghiệp... chịu trách nhiệm
nghiên cứu khoa học, kỷ thuật, xây dựng qui trình sản xuất như thế nào phù hợp
với kỷ thuật, mỹ thuật... để đưa toa tàu nhân thế vào con đường công bằng, bác
ái.
Tóm lại 06 giáo
án của phái Thượng và phái Thái thiên giáo huấn, đào tạo, mở mang, phát triễn
cho cá nhân hay xã hội. 03 giáo án của phái Ngọc thiên về khuôn thước. Tất cả
nhằm đưa cá nhân và xã hội đi vào con đường chân, thiện, mỹ.
Cửu Viện như một
cơ thể sống. Cơ thể thống nhất và hoàn chỉnh như thế nào thì cửu viện cũng như
thế đó. Mắt để nhìn nhưng cũng là bước đầu để suy nghĩ hay giử thăng bằng cơ
thể.... tách rời mắt ra là để hiểu nhưng không gắn kết mắt với tổng thể thì
thật là thiếu hiểu...Cửu viện phải phân ra để đạt hiệu quả cụ thể và có sự phối
hợp để phục vụ theo đường lối chung chớ chẳng phải phân ra rồi mạnh ai nấy làm.
Phải ý thức rằng chung và riêng chỉ là tương đối. Một cánh tay có thể dùng để
xách, để nâng, để đẩy, để kéo... chớ chẳng riêng một mặt nào.
Trong phương
pháp của Taylor mỗi người thợ hoàn thành công việc của mình trong dây chuyền sản
xuất để cuối cùng tạo ra sản phẩm chung cho nhà máy. Cửu viện cũng phải hiểu
theo tinh thần riêng và chung đó.
Nhân sự phục vụ
trong tôn giáo dù ở diện nào cũng đều phải thực thi tam lập (lập công, lập đức
và lập ngôn) để phụng sự vạn linh sanh chúng. Cửu viện là 09 phương án nhưng
thống nhất nhau trong một bộ luật. Luật đó là phụng sự vạn linh.
Phải hiểu nhu
cầu, mục đích chung của đạo hay xã hội (Khai Cửu) rồi hiểu sản phẩm nhà máy tạo
ra (Đại Tường) và làm tròn công việc được giao (Tiểu Tường). Đó là căn bản để
hiểu được cửu viện.
5/- Qui định chung về Luật và Quyền.
Tôn giáo là một
tổ chức trong xã hội. Đã là tổ chức thì phải có luật pháp để điều hành. Người
điều hành phải có quyền lực. Vậy luật của Đạo là gì? Quyền người hành đạo là
gì?.
Luật của Đạo là
thương yêu.
Quyền người hành
đạo là công chánh.
Bộ máy hành
chánh dù cấp nào thì cũng thực hiện chung một chương trình của Hội Thánh ban
hành không có quyền tự ý sửa cải. Nhân sự tôn giáo từ Đạo Hữu đến phẩm cao nhất
là Giáo Tông cũng đều chịu chung một khuôn luật, không có một ngoại lệ nào cho
bất cứ cấp nào.
Chúng tôi giới
thiệu những nét điển hình nhất của bộ máy hành
pháp mà không đi sâu vào chi tiết để không bị lệch trọng tâm của đề tài.
Vì mục đích
thiên nầy là làm nhịp cầu để phát họa bộ máy hành pháp của quốc gia.
@@@
IV/- NHỮNG NGUỒN NHÂN LỰC HỔ TRỢ.
Nhiệm vụ của đạo
là xây dựng một thế giới mới. Địa bàn là cả địa cầu mà bộ máy hành chánh chưa
đầy 3.200 người thì làm sao quán xuyến nổi. Cho nên đạo phải có những nguồn lực
phụ phù hợp với hiến pháp.
Tại sao không
đưa vào hiến pháp mà lại để ngoài?
Xin thưa rằng do
nguyên tắc lập quyền dân để làm cho dân mạnh hay quan điểm triết lý Cao Đài
Giáo về xã hội học: Hiến pháp, pháp luật đơn giản minh bạch để dân trong tôn
giáo ai cũng biết mới làm chủ được. Đặc pháp luật nhiều mà dân không biết thì
dân sẽ thờ ơ. Đó là cố ý ngu dân. Còn như thật lòng phụng sự thì đó là thất bại
của nhà làm luật.
Tôi hỏi rất
nhiều em sinh viên rằng nước ta (2013) có bao nhiêu bộ? Hơn 90% các em không
biết. Tôi hỏi các con cháu tôi (đã tốt nghiệp đại học) chúng cũng không biết.
Còn như bạn hỏi
người theo Đạo Cao Đài thì hầu như tất cả đều biết Đạo có Cửu Viện và phân công
như thế nào? Tổng cộng nhân sự có bao nhiêu? Số lượng mỗi cấp bao nhiêu họ đọc
vanh vách.
Cách làm pháp
luật để cho đại đa số biết và cách làm pháp luật cho đại đa số không biết cái
nào hay hơn? Có đem ra bắn thì người có
lý tưởng cũng chọn cách pháp luật đơn giản cho đại đa số hiểu biết.
./- Hội Thánh
Anh là thượng tầng, là bộ não. Nhân sự phải là người có đầy đủ đức tài để thiết
kế và lãnh đạo. Qui định số lượng và trách nhiệm rõ ràng để không cho thượng
tầng áp chế hạ tầng.
./- Hội Thánh Em
không giới hạn. Mỗi Bàn Trị Sự vẫn là 03 người nhưng số lượng Bàn Trị Sự không
giới hạn đó là làm cho hạ tầng mạnh mẽ trước thượng tầng.
Xã hội là một
môi trường linh hoạt, tổ chức đạo cũng phải linh hoạt mới đáp ứng được môi
trường linh hoạt mới chu toàn được nhiệm vụ.
Những nguồn lực
hổ trợ rất quan trọng nhưng vẫn chủ yếu là để thực thi đường lối chớ không tham
gia vào việc vạch ra đường lối. Quyền hành chánh lãnh đạo chung và chịu trách
nhiệm trước nhơn sanh. (Vạch ra đường lối, bài bản là phần đóng góp bên 03 Hội
Lập Quyền như đã trình bày).
Những nguồn hổ
trợ trong thời kỳ lập quốc gia Cao Đài hạt nhân chủ yếu: Phước Thiện, Phổ Tế,
Ban Thế Đạo và Hàn Lâm Viện.
1/- Phước Thiện.
Phước Thiện là
bộ máy kinh thương của tôn giáo. Một quốc gia hay một tôn giáo mà không có
nguồn máy kinh thương thì ví như cơ thể không có máu. Nó sẽ chết.
Phước Thiện kết
hợp với Cửu Viện để làm ra của cải vật chất tạo nền nhân, cội nghĩa cho tôn
giáo. Những người tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, khố rách áo ôm nơi đầu
đường xó chợ đều là đối tượng mà Phước Thiện phải lo. Phước Thiện để cho họ
phải tủi thân là có tội với Đức Chí Tôn. Vậy Phước Thiện lấy gì để lo?
Phải tổ chức sở
lương điền, công nghệ, nhà máy, buôn bán... để tạo ra huê lợi. Xã hội Việt Nam
hiện nay là môi trường rất tốt cho Phước Thiện thi thố.
Xin đơn cử với
nạn buôn bán phân bón giả tràn lan trên thị trường... Nếu Phước Thiện lập cửa
hàng bán phân bón thì dứt khoát không có hàng giả lọt vào, không có hàng kém
chất lượng lọt vào, giá cả hoàn toàn cạnh tranh...và nếu cần Phước Thiện cử
người đến trợ giúp kỷ thuật... cho nông dân. Tổ chức như vậy thì nông dân có
thích không?
Lấy gì bảo đảm
rằng nhân sự Phước Thiện không tham nhũng?
Xin thưa PHƯỚC
THIỆN có hẳn một bộ máy để kiểm soát nó là ĐẠI HỘI PHƯỚC THIỆN tổ chức liền sau
03 Hội Lập Quyền Vạn Linh của Hành Chánh. Cách kiểm soát nhân sự (khi thăng
phẩm và trong công việc) cũng như đề ra chương trình... y như bên hành chánh
thì tham nhũng, móc ngoặc đã bị diệt từ gốc. Kháng sinh chống tham nhũng là dân
mạnh và lập quyền dân có trong cơ thể Phước Thiện thì làm sao có tham nhũng?
Cái gốc đã không phát sinh ra tham nhũng thì tham nhũng đâu ra?
Thậm chí nghèo
mà đi làm mướn lấy công đi nữa thì Phước Thiện cũng một địa chỉ mà người làm
mướn lẫn người mướn đều hài lòng. Phước Thiện dung hòa được cả hai là nhờ ở
chính thương hiệu của nó đã thể hiện đạo đức.
Qua đó chúng ta
thấy đạo đức là căn bản giải quyết mọi sự. Nếu kêu gọi dân giàu là dễ xa với
đạo đức bởi cứ nghĩ cách làm giàu ắt sẽ bị ám ảnh rồi sanh ra lắm chuyện không
hay. Còn như làm cho dân mạnh thì chắc chắn cái giàu sẽ đến cùng lúc với đạo
đức. Giàu có cả về vật chất và tinh thần đó là điều chánh đáng.
Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đầu năm 2014 nói: phải làm cho người ta sợ mà không dám tham
nhũng nữa.
Xin thưa rằng
Đảng đang chơi màn nuôi lăng quăng rồi sản xuất thuốc trừ muỗi. Dân chúng cứ
phải xuất tiền dài dài để mua thuốc CHỐNG muỗi. Cho nên câu trên đáng lý phải
thêm chữ CHỐNG mới hay: phải làm cho người ta sợ mà không dám CHỐNG tham nhũng nữa. Bởi vì Đảng
độc quyền mọi thứ nên dân không còn quyền gì hết. Dân không còn quyền chi hết
(công an tự do bắn dân) thì phải sợ không dám CHỐNG tham nhũng nữa mới đúng với
thực tế.
Tổ tiên ta
thường nói 02 chữ nuôi dạy đi đôi với nhau. Dạy mà không nuôi thì nhỡ như đói
quá làm sao học? Nuôi mà không dạy thì sanh tệ. Đạo Cao Đài lập quốc gia trong
quốc gia thì nuôi và dạy đi đôi.
Bộ máy hành
chánh là dạy cho khôn.
Phước Thiện là
nuôi cho lớn.
Nhân tố trong
tôn giáo vừa lớn vừa khôn nên rất tín nhiệm người đưa ra chương trình như
vậy... nên thực dân Pháp bắt Đức Hộ Pháp đày sang Phi Châu thì họ nhứt định đòi
lại. Pháp sợ phải đem về trả ... chúng tôi đã trình chánh ở thiên thứ ba.
Phước Thiện quan
trọng như thế nên Thầy dạy lập Quốc Đạo từ năm 1925 mà mãi đến khi Phước Thiện
nên hình Đức Hộ Pháp mới công bố Quốc Đạo đã nên hình.
2/- Phổ Tế.
Phổ là bày ra.
Tế là giúp đở,
tương trợ...
Phể tế là cơ
quan đem chân lý, ánh sáng đạo đến với những người chưa biết đạo. Với những
người đạo đã sa ngã với bất kỳ lý do gì thì Phổ Tế có nhiệm vụ an ủi, khuyên
lơn cho họ vơi đi niềm thống khổ và góp phần thức tỉnh họ. Trong bất cứ hoàn
cảnh nào Phổ Tế cũng phải giúp đở tương trợ.
Theo luật đạo
Hội Thánh công cử chức sắc Phổ Tế về nơi Tộc Đạo và mỗi làng đạo được công cử
chức việc Phổ Tế. Các vị nầy có trách nhiệm hổ trợ cho hành chánh đạo và chịu
sự điều động của hành chánh đạo. Những công việc của địa phương như trường học,
dưỡng lão ấu... đều có nhân sự Phổ Tế bám sát giúp đở.
3/- Ban Thế Đạo.
Hiền tài là
nguyên khí của quốc gia. Trí thức là cầu nối tôn giáo với xã hội. Bất cứ tổ
chức nào cũng cần đến trí thức thì tôn giáo cũng không là ngoại lệ. Hội Thánh
đào tạo trí thức để phụng sự tôn giáo và xã hội là nhiệm vụ đương nhiên. Song
song đó Hội Thánh cũng mở cửa cầu hiền để tiếp đón những hiền tài trong xã hội
đến với tôn giáo.
Trí thức khoa
bảng, công thương kỷ nghệ gia, quân nhân, công chức, sinh viên... muốn hợp tác
với đạo để phụng sự nhân loại theo luật bác ái, công bằng thực thi tam lập (lập
công, lập đức, lập ngôn) đều được Hội Thánh đón nhận vào Ban Thế Đạo theo qui
định.
Ban Thế Đạo có
04 phẩm: Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu và Phu Tử.
Theo nghi lễ đạo
phẩm Hiền Tài trên bậc Lễ Sanh nhưng dưới Giáo Hữu nhưng không phải phế đời
hành đạo như chức sắc.
Trong hiện tình
của đất nước hay xã hội bị suy thoái vì đạo đức thì sự biến chất của trí thức
là điều không tránh khỏi. Nên con đường của Ban Thế Đạo cực kỳ cần thiết để góp
phần chấn hưng đạo đức.
Nó như một
thương hiệu có đầy đủ đạo đức trước xã hội vì chịu sự giám sát của hành chánh
đạo địa phương về đạo đức. Mọi sự sai trái về đạo đức hay chuyên môn sẽ được
những hiền tài khác hổ trợ giúp đở để sửa chữa... tiên giáo hậu trị... nhưng
nếu tái phạm nhiều lần và hành chánh đạo xét thấy đã đủ bằng cớ là không thể
sửa đổi được thì đề nghị lên Hội Thánh rút phẩm Hiền Tài lại. Khi bị Hội Thánh
rút phẩm hiền tài thì đó chính là bản án tuyên bố trước xã hội rằng người nầy
có tài mà bất đức, không sửa chữa được...
Những đối tác
của người bất đức liệu có muốn tiếp tục hợp tác với anh ta hay không họ sẽ phải
cân nhắc do cái nhìn của cả xã hội: Ngưu tầm ngưu mã tầm mã...
Tóm lại Ban Thế
Đạo có nhiệm vụ giúp đạo trợ đời nên vừa làm công việc chuyên môn trong xã hội
và giúp cho đạo tùy điều kiện.
4/- Hàn Lâm Viện.
Hàn Lâm Viện do
Thập Nhị Bảo Quân đảm nhiệm để trợ giúp cho Cửu Viện... các vị nầy không nằm
trong hành chánh đạo mà làm việc thẳng với Thượng Hội, dưới quyền chỉ huy của
Giáo Tông và Hộ Pháp.
Thập Nhị Bảo
Quân gồm: 1/- Bảo Huyền linh Quân. 2/- Bảo Thiên văn Quân. 3/- Bảo Địa Lý Quân
. 4/- Bảo Học Quân. 5/- Bảo Cô Quân. 6/-
Bảo Sanh Quân. 7/- Bảo Phong hoá Quân.
8/- Bảo Văn Pháp Quân. 9/- Bảo Y Quân. 10/- Bảo Nông Quân. 11/- Bảo Công
Quân. 12/- Bảo Thương Quân.
Mỗi vị có sở
thức sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như Huyền Linh Quân nghĩa là
Thần Linh Hồn khác với Bảo Học Quân thuộc về khoa học hay là thực tế học.
Đây là nguồn lực
hổ trợ cho thượng tầng rất quan trọng trên đường xây dựng một nền văn minh nhơn
đạo cho nhân loại.
@@@
Một triết thuyết tối yếu tối trọng của
Đạo Cao Đài là: TRỜI NGƯỜI HIỆP MỘT (Thiên Thượng Thiên Hạ đồng trị). Bởi vậy
nên nơi cửa Đạo phân ra rõ rệt hai quyền: Quyền Chí Tôn và Quyền Vạn Linh.
|
THIÊN THỨ TƯ.
ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM.
“Phổ biến sâu rộng tiêu ngữ: Lập Quyền Dân – Dân
Mạnh”
Trong thiên nầy
chúng tôi trình bày một số điểm căn bản có thể áp dụng vào xã hội Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung.
Theo công pháp
quốc tế hiện hành một quốc gia bao gồm 03 thành tố: dân tộc, lãnh thổ, chánh
quyền.
Trong đó thành
tố chánh quyền là dễ biến động, dễ thay đổi và là tác nhân quan trọng đem đến
hạnh phúc hay tai họa cho dân tộc. Nó có thể thúc đẩy xã hội phát triễn hay kềm
hãm cả một dân tộc.
Với xã hội đương
đại thì tổ chức và quyền lực của chính quyền là do Hiến Pháp qui định.
Hiến pháp là
quan trọng nhất. Dù rằng quan trọng nhưng cũng có rất nhiều quan điểm và hình
thức hiến pháp khác nhau. Từ những hình thức khác nhau dẫn đến những định nghĩa
khác nhau. Chúng ta có thể nêu tổng quát như sau:
./- Về định nghĩa:
Có hiến pháp
thực chất và hiến pháp hình thức.
Hiến pháp thực
chất chú trọng vào mục tiêu, đối tượng, nội dung và quyền hành của nhân sự lẫn
bộ máy công quyền.
Hiến pháp hình thức chú trọng về thủ tục, cũng như những cơ quan liên quan đến nhân sự hay bộ máy công quyền.
./- Về hình thức:
Có hiến pháp bất
thành văn và hiến pháp thành văn.
Hiến bất thành
văn là hiến pháp theo phong tục, tập quán (thuần phong mỹ tục) được cộng đồng
chấp nhận tự giác thi hành mà không cần phải ghi thành văn bản. Anh Quốc đang
dùng hiến pháp bất thành văn. Cho nên nói Anh Quốc không có hiến pháp vẫn đúng.
Hiến pháp thành
văn là một văn kiện được biên soạn tùy theo qui định mỗi quốc gia (không có
khuôn mẫu chung). Nó được cấp có thẩm quyền biên soạn tùy theo quan điểm thực
chất hay hình thức đã trình bày bên trên. Dù theo quan điểm nào nó cũng là văn
kiện quan trọng hàng đầu trong quốc gia. Khi nó đã ra đời thì đó là khuôn thước
để tổ chức xã hội.
./- Về tính chất của hiến pháp.
Có hiến pháp nhu
tính và hiến pháp cương tính.
Hiến pháp nhu
tính nói chung là cho phép sửa đổi. Muốn sửa phải theo qui định trong chính bản
hiến pháp đó. Trong hiến pháp nhu tính có trường hợp cấm hẳn việc thay đổi một
số điều (có vùng cấm). Nghĩa là chỉ được sửa những điều hiến pháp KHÔNG CẤM
sửa.
Hiến pháp cương
tính cấm sửa đổi trong mọi trường hợp.
Quyền trong hiến
pháp cương tính là quyền hiến định (tôn giáo gọi là pháp), nó trên các quyền
thiết định (tôn giáo gọi là luật). Quyền hay
luật trong thiết định phải phù hợp với quyền hiến định (tôn giáo gọi là
luật phải tùng theo pháp).
Xã hội hiện nay
cho rằng Hiến Pháp quốc gia là quan trọng.
Quan sát thực tế
chúng ta thấy rằng hiến pháp theo cách nào cũng có thể đem lại hạnh phúc cho
dân; và cũng có thể bị dân biểu tình phản đối. Anh, Pháp, Mỹ, Nhật... thỉnh
thoảng vẫn có sự xung đột bắt nguồn từ hiến pháp. Điều đó cho thấy chưa có một
hiến pháp nào là hoàn hảo.
Bởi vì tất cả
các hiến pháp đều có điểm chung là chưa lập quyền cho dân, chưa có cơ chế cho
dân thể hiện ý chí, quyền lực của dân đối với nhân sự cầm quyền và bộ máy cầm
quyền. Dân có quyền dùng lá phiếu của mình để chọn đại diện, và người đại diện
hòa nhập vào thượng tầng, hạ tầng đã bầu ra họ mất quyền kiểm soát, điều chỉnh.
Các dân biểu có tiếp xúc với cử tri là để nghe cử tri nói gì chớ chưa phải căn
cứ vào ý kiến cử tri để thực thi trong nghị viện. Dân cũng chưa có quyền gì đối
với việc thăng chức của công chức ngành hành pháp. Nhìn chung các hiến pháp
thiếu cơ chế để dân trực tiếp giám sát người đại diện cho mình và giám sát
chính quyền.
Dân chủ như vậy
nó giống như mũi tên bắn ra khỏi cây cung thì người bắn tên mất quyền điều
khiển. Cơ chế lập quyền dân như một tên lửa hành trình, tên lửa ra khỏi nòng
súng nhưng người bắn vẫn còn quyền điều chỉnh tên lửa khi cần. Dân chủ ban phát
thời sơ khai không còn thích ứng với thời toàn cầu hóa. Phải có công thức mới
theo luật cung cầu.
Trong phạm vi đề
tài chúng tôi xin nêu ra 04 phần mà tổ chức tôn giáo có thể đóng góp cho xã
hội: hiến pháp và bộ máy công quyền, cơ chế dân quyền và cơ chế kiểm tra, giám
sát.
Từ đó đưa ra đề
nghị việc cần làm ngay cho Việt Nam.
@@@
I/-
ĐƯỜNG HƯỚNG KIẾN THIẾT HIẾN PHÁP.
Hiến pháp kiến
thiết theo đường hướng: Lấy dân làm gốc. Ý dân là ý trời. Dân có quyền kiểm
soát chính phủ như tên lửa hành trình dù được bắn ra nhưng dân vẫn còn quyền
kiểm soát để điều chỉnh thậm chí ra lịnh cho nó tự tiêu hủy nếu cần.
1/- Phân
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nguyên tắc của
Taylor phải được áp dụng triệt để giữa 03 quyền nầy và trong từng ngành.
Áp dụng nguyên
tắc Taylor để phân quyền (không phải tản quyền) thì khi xãy ra trục trặc biết
ngay ở khâu nào và giải quyết ra sao. Một hệ thống tốt cách mấy cũng phải có
lúc phát sinh ngoài ý muốn. Cái hay là từ trong hệ thống đó có nguồn lực phát
hiện và giải quyết ngay lúc nó mới phát sinh.
2/- Bộ máy hành pháp là quan trọng nhất nên phải rõ
ràng cho người dân biết và kiểm soát:
a./- Ấn định rõ cần có bao nhiêu cấp.
Chính quyền không
được tự ý đẻ ra thêm cấp bậc. Muốn thêm hay bới phải trình cho dân có ý kiến.
b/- Mỗi cấp cần có bao nhiêu người.
Chánh quyền
không thể đem những người bất đức, bất tài vào để ăn lương và đục khoét công
quỷ.
c/- Quyền hạn của mỗi cấp.
Để khỏi dẫm chân
lên nhau. Khi xẫy ra sự bất đồng thì có khuôn thước sẳn để kết luận đúng sai.
Cấp càng cao thì sự kiểm soát càng nghiêm nhặc.
d/- Phân cấp hành chánh minh bạch.
Cấp nào làm ở
Ấp, Xã, Huyện, Tỉnh, Vùng và Trung Ương. Điều nầy triệt tiêu bè phái. Không thể
đưa người chức phẩm thấp nhưng thân với chính quyền vào. Cũng không thể loại bỏ
người có chức phẩm cao ra vì trái ý chính quyền. Dân chúng đã đồng ý cho viên
chức đó vào hàng phẩm đó thì họ đủ quyền hành sự mà không lệ thuộc vào người
đứng đầu bộ máy hành pháp.
Nhân sự và các
cơ quan chính của thượng tầng có sự giới hạn để tránh sự lạm quyền. Thành phần
nhân sự do trung ương quản lý không được bổ họ về quê quán hay trú quán để
tránh nạn một người làm quan cả họ được nhờ. Phải ấn định nhiệm kỳ rõ ràng
không để một người làm quá lâu ở một vị trí vì lâu ngày sẽ sanh tệ.
Còn các đơn vị
hành chánh địa phương (Ấp, Xã) thì không giới hạn nên nhân sự hạ tầng cũng
không định số lượng. Đó là làm cho hạ tầng mạnh mẽ trước thượng tầng.
đ/- Nhân sự thăng phẩm: trong bộ máy
hành pháp mỗi khi thăng chức phải được sự chấp thuận của dân. Đây là thước đo
sự tín nhiệm của dân. Nó bắt buộc người hành chánh lúc nào cũng đứng về phía
dân mà không phải lo sợ vì trái với ý cấp trên.
3/- Quyền lập pháp: Tất cả công dân
hay quan chức đều có quyền tham gia vào việc lập pháp trong những cơ chế cụ
thể. Điều nầy thể hiện sự bình quyền trong xã hội. Luật theo chiều hướng giới
hạn, hay làm rõ quyền của quan chức và bộ máy công quyền được làm gì. Cấm hẳn
những thứ luật vớ vẫn hạn chế quyền của dân hay gây khó cho dân. Chấm dứt luật
kiểu một người đau cả làng phải uống thuốc. Sa thảy lập tức những quan chức lập
luật kiểu: Muốn chụp ảnh công an giao
thông phải xin phép. Bộ máy công quyền không có chổ cho não trạng quái
gỡ như thế. Để những kẻ ấy trong bộ máy công quyền là tội ác vì đã đem thuế của
dân trả cho kẻ bất tài, thiếu đức, thối rữa.
Vậy mà mấy
tháng sau Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký lịnh khen thưởng ông quan nầy rất đúng
qui trình.
Điều nầy cho
thấy nghệ sĩ Kim Chi rất tỉnh táo khi từ chối bằng khen thủ tướng, trong nhà
không có chổ treo bằng khen của ông Dũng.
Xa chút ông
Trịnh Công Sơn có tâm sự rằng trong xã hội bạo lực thì vinh quang chỉ là điều
dối trá.
Xa thêm nữa
thì Đạo Đức Kinh chương 58 viết rằng:
....kỳ vô chính, (trên mà không ngay
thẳng)
Chính phục vị kỳ, (thì ngay trở thành ngụy)
Thiện phục vị yêu, (thiện trở
thành tà)
Nhơn chi mê, (cái mê của con người)
Kỳ nhật cố cửu...(có lâu rồi...)...
Thôi không xa thêm nữa kẻo quí vị
cười...
|
Bên trên chúng
tôi có ghi nhận rằng bất cứ hiến pháp hay thể chế nào cũng có thể đem đến hạnh
phúc hay tai họa cho dân. Vậy thì vấn
đề then chốt nằm ở chổ chất lượng của đội ngũ nhân sự. Một đội ngũ có
đầy đủ đạo đức và trí tuệ thì bố trí trong đội hình nào (Tổng thống chế hay Nội
các chế; Cộng hòa hay dân chủ...) cũng phát huy hiệu quả tốt. Vậy làm sao để
tuyển chọn một đội ngũ nhân sự như vậy?
Xin thưa rằng
giao quyền tuyển chọn trực tiếp cho dân thì sẽ có đội ngũ nhân sự như vậy. Dân
đã chọn ai thì không bao giờ lầm và ai được dân tin, dân cử ra thì họ càng sợ
sệt và phục vụ cho dân tốt hơn nữa.
Cộng đồng nào
cũng có nhiều thành phần với những căn trí khác nhau, thụ hưởng nhiều quan điểm
giáo dục khác nhau. Nên khó có một vấn đề nào đạt được sự đồng tình, đồng thuận
100% trong xã hội. Việc nhận định đúng hay sai của một đường lối, một tổ chức
về mặt lý thuyết chưa phải là điều tiên quyết (vì đó là chủ kiến của cá nhân);
mà tiên quyết chính là người sống trong thời đại đó có chấp nhận nó hay không.
Cho nên đường
hướng kiến thiết hiến pháp cho các quốc gia phải nhắm vào mục tiêu: lập quyền
dân, dân mạnh.
Một câu hỏi cần
được nêu ra: Sống trong một chế độ độc tài (như kiểu cộng sản) thì làm sao xây
dựng được hiến pháp với những tính chất như vậy?
Xin thưa rằng
sau năm 1975 thì chế độ cộng sản đang teo lại và sắp tới chế độ cộng sản sẽ bị
tiêu diệt. Ai sẽ tiêu diệt cộng sản?
Xin thưa dân
chúng sẽ tiêu diệt cộng sản. Bởi vì ý dân là ý trời. Dân chúng trong lúc đau
khổ vì thực dân Pháp nên cộng sản lừa được dân chúng, chính dân đã chọn cộng
sản và dân phải chịu trả giá cho sai lầm của dân. Giờ sống với cộng sản thì đã
rõ. Nên dân sẽ làm cho chủ nghĩa cộng sản bị tiêu diệt.
Nên chúng ta cần
chuẩn bị cho việc xây dựng lại đất nước thời hậu cộng sản bằng việc truyền bá
một bản hiến pháp được kiến thiết theo đường hướng lập quyền dân để dân mạnh.
Những cuộc cách mạng ở Đông Âu, Bắc Phi...sau khi xô ngã chế độ độc tài thì
không kiến thiết hiến pháp theo hướng lập quyền dân, không làm cho dân mạnh.
Nên người công nghĩa lại phải tiếp tục hy sinh xương máu và tính mạng.
@@@
Là người Đạo Cao Đài chúng tôi còn
biết tiên tri:
Rồi đây cả Chức Sắc, các con phải chịu
thúc phược dưới quyền cộng sản một thời gian nữa …
“Các em sẽ còn gặp cộng sản nhưng các
em đừng sợ vì lúc đó họ sẽ thay đổi hẳn chính sách. Ngày cộng sản chiếm được miền Nam Việt Nam nói riêng và khối Quốc
Tế cộng sản nói chung là thời cực thịnh của cộng sản …
Nam
Vang 3-6-1957. (06-05- Đinh Dậu). Hộ Pháp.
NHẬN XÉT:
...Ngày cộng
sản chiếm được miền Nam Việt Nam nói riêng và khối Quốc Tế cộng sản nói chung
là thời cực thịnh của cộng sản…
Ghi nhận diễn
tiến cộng sản thế giới sau ngày 30-4-1975:
. Cộng sản
Việt Nam đánh với cộng sản Campuchia 1975-1989 và cộng sản Việt Nam sa lầy ở
đó đến 1990.
. Cộng sản
Việt Nam đánh với cộng sản Tàu (1979-1989).
. Sự kiện
Thiên An Môn: Ngày 20-5-1989 cộng sản Tàu tuyên bố thiết quân luật. Đêm 3-6 rạng
sáng ngày 4-6-1989 xe
tăng và bộ binh tàn sát hơn 5.000 (năm ngàn) người và gây thương tích hơn
10.000 người biểu tình.
. Phong trào
Công Đoàn Đoàn Kết thắng cử ngày 4-6-1989 người dân Ba Lan xô ngã Đảng cộng
sản Ba Lan. Chính phủ không cộng sản lần đầu tiên ra mắt tại Đông Âu vào
tháng 9-1989.
. Thành trì xã
hội chủ nghĩa Liên Xô tan rã ngày 26-12- 1991.
. Ngày nay cộng sản thế giới đang phập phù như đèn trước cơn bão của
tự do, dân chủ...
Tóm lại: Lời tiên tri của giáo chủ Đạo Cao Đài đã diễn ra đúng cho
cộng sản Việt Nam và cộng sản thế giới...
(Theo Hòa Bình Chung Sống Biên Niên. Trang 115)
|
@@@
II/- BỘ MÁY CÔNG QUYỀN.
Phân định rõ cấp
cơ sở và trung ương.
1/- Cấp cơ sở là Xã, Ấp.
Đây là cấp cực
kỳ quan trọng. Bộ phận nầy vận hành tốt thì công việc đã xong hết 90%.
Mỗi Xã có một vị
Xã Trưởng (cầm quyền thống nhứt quyền hành chánh và an ninh). Xã có nhiều Ấp.
Mỗi ấp có 02
Trưởng Ấp. Một vị đặc trách hành chánh (dân sự). Một vị đặc trách về an ninh
trật tự (luật pháp).
Xã Trưởng kết hợp
với 02 vị trưởng ấp A1 gọi là Ban đại diện xã Ấp A1. Xã Trưởng kết hợp với 02
vị trưởng ấp A2 gọi là Ban đại diện Xã Ấp A2....
Hai vị Trưởng Ấp
hành chánh và an ninh do dân bầu theo phép phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và
kín. Công dân Nam, Nữ đều có quyền ứng cử theo luật định chung.
Điều kiện để ứng
cử Xã Trưởng là hàng Trưởng Ấp hành chánh và an ninh. Xã Trưởng do các vị
Trưởng Ấp hành chánh và an ninh bầu. Bởi vì trong quá trình làm việc các vị nầy
biết rõ năng lực nhau. Quan trọng là nó phải diễn ra công khai có sự giám sát
của dân. Sản phẩm đã qua công đoạn khác nhưng chủ sản phẩm vẫn để trăm nghìn
con mắt nhìn vào.
Thập mục sở thị, thập thủ sở chi, kỳ nghiêm hồ?
(Mười mắt nhìn
vào, mười tay chỉ vào, phải hết sức cẩn thận).
Chúng tôi có đề
nghị rằng phân quyền theo nguyên tắc Taylor. Theo nguyên tắc Taylor thì mỗi
công nhân phụ trách một việc, xong rồi thì sản phẩm qua tay thợ khác. Cách bầu
nhân sự ấp xã chính là áp dụng nguyên tắc Taylor. Nếu để người dân bầu Xã
Trưởng là dây chuyền công nghệ thiết kế sai nên sản phẩm lại quay về vị trí củ.
Chánh phủ không
điều động các thành phần nhân sự Xã, Ấp mà chỉ ra Quyết Định công nhận
2/- Cấp trung ương quản lý.
Cấp trung ương
chia làm 02 diện. Một diện còn phải đi địa phương từ Quận trở lên. Một diện ở
tại Trung ương. Nhân sự cấp Quận trở lên phải được sự chấp thuận của Hạ viện và
Thượng viện thông qua rồi chính phủ mới được bổ dụng.
2.1/- Nhân sự Trung ương bổ đi địa phương.
Nhân sự đứng đầu
Quận (thị trấn), Tỉnh (thành phố), Vùng (miền) do chính phủ bổ nhiệm. Cấp nào
đứng đầu một Quận, Tỉnh... phải qui định rõ ràng. Thành phần nầy không được bổ
về quê quán hay trú quán.
2.2/- Nhân sự ở tại trung ương.
Đây là thành
phần cực giỏi đã qua hành chánh các cấp. Các vị được phân bổ vào các Bộ, Cục,
Vụ...
3/- Cơ quan trung ương.
Hành pháp phải
công khai có bao nhiêu bộ, tên gì, nhiệm vụ là gì, nhân sự mỗi bộ bao nhiêu
người... nói chung là phải ra văn bản rõ ràng. muốn thay đổi phải trình cho
lưỡng viện quyết định. Sự phân quyền phải theo nguyên tắc Taylor sản phẩm công
đoạn nào thì phải hoàn thành tại công đoạn đó, không một chi tiết nào bị lỗi,
không một bộ phận nào thừa... Để cuối cùng có được sản phẩm xuất xưởng đúng
theo thiết kế.
Tóm lại chúng
tôi chỉ phát họa những nét chính thể hiện ý chí lập quyền dân để dân mạnh.
Trong
tôn giáo có một cánh cửa riêng cho bậc hiền tài.
Thiễn
nghĩ ngành hành pháp cũng phải có một cánh cửa riêng cho bậc hiền tài tham
gia vào hành pháp. Chánh phủ có quyền thâu nhận hiền tài theo chuyên môn...
Nhưng
trước khi phân bổ họ vào hệ thống hành chánh phải qua ý kiến của hạ viện...
|
@@@
BỘ QUỐC PHÒNG & CẢNH SÁT.
Đây là hai bộ mà
quốc gia nào cũng phải có để bảo vệ lãnh thổ và giử vững trị an. Nhân sự hai bộ
nầy cũng phải công khai như ngành hành pháp. Một số vị trí quan trọng cũng phải
được lưỡng viện phê chuẩn. Việc chi tiêu tiền thuế của dân cũng phải minh bạch.
Nhân sự hai bộ nầy có chuyên môn riêng, không tham gia vào bộ máy hành chánh
quốc gia.
Tất cả thanh
niên nam nữ trong nước đều phải tham gia quân dịch. Nếu bận học văn hóa hay chuyên
môn thì có quyền chọn thời gian quân dịch thích hợp. Nhân sự tham gia quân dịch
chia làm hai diện: Quân sự hay chuyên môn. Mỗi diện có qui chế đãi ngộ và đào
tạo riêng.
Tùy theo nguyện
vọng của đương sự mà phân bổ.
Với diện chọn
quân dịch chuyên môn thì sẽ có hàng loạt binh đoàn phục vụ xã hội ra đời. Việc
xây dựng điện, đường, trường, trạm, khu dân cư hay đường giao thông... do quân
dịch chuyên môn thực hiện.
Sau khi xong
quân dịch xuất ngũ sẽ được cấp nhà, kèm theo tiện nghi và phương tiện khác theo
qui định chung. Diện nầy cũng có thể tình nguyện hợp tác tiếp tục sau thời gian
quân dịch...
Với diện quân
dịch quân sự đương nhiên có qui chế đãi ngộ cao hơn...
Chế độ quân dịch
như một giấy thông hành vào đời. Người hoàn thành nghĩa vụ quân dịch được đãi
ngộ xứng đáng tạo ra sự ổn định xã hội về mọi mặt.
Không hoàn thành
chế độ quân dịch đương nhiên có một số cửa bị khép lại tùy luật định.
Lãnh đạo mà
kêu gào hay bắt buộc dân chúng hạn chế sinh đẻ là bất tài và vô dụng. Hạng
lãnh đạo đó là một tai họa cho dân tộc. Con người là vốn quí nhất trong hoàn
vũ tại sao không biết lên kế hoạch đào tạo để họ trở thành những cánh tay xây
dựng, những bộ não biết định hướng phụng sự. Tại sao có những quốc gia khen
thưởng cho người phụ nữ khi họ đóng góp cho xã hội một công dân mà quốc gia
mình lại buộc phải hạn chế sanh đẻ. Chính phủ dòm ngó, can thiệp đến chuyện
phòng the của công dân mà hô hào là tự do thật là khó nghe.
Lãnh đạo là
tiên liệu. Biết tiên liệu thì cái vốn quí nhất là con người sao lại không
biết đề ra phương án đào tạo, sử dụng cho có hiệu quả lại đi cấm sinh đẻ? Một
chính phủ biết tiên liệu thì đem tất cả trẻ em lang thang cơ nhỡ về nuôi nấng
dạy dỗ, đào tạo nghề nghiệp... để bù đấp những mất mát, thiệt thòi của chúng.
Biến những mãnh đời bất hạnh thành sức mạnh của quốc gia là điều trong tầm
tay. Chỉ có hạng lãnh đạo bất tài, thiếu đức chủ trương ngu dân mới bỏ mặc
những sanh linh bé bỏng.
Ngày nào Hội
Thánh ĐĐTKPĐ được quyền hành chánh trở lại chúng ta sẽ đón tất cả trẻ em cơ
nhỡ trên thế gian nầy về nuôi dạy các em nên người hữu ích, vì chúng chính là
con cái của Thầy. Học trò của Thầy mà bỏ mặc con cái Thầy khổ sở là bất
nghĩa.
Giải quyết
trong vòng 10 (mười) năm là đã ổn định. Tiếp theo 10 (mười) năm nữa là chẳng
còn có trẻ bụi đời hay đi bán vé số dạo, mà toàn là công dân tràn đầy năng
lượng... Làm như vậy mới đáng mặt là tôn giáo của Thượng Đế đến lập cho nhơn
loại.
|
@@@
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
III/- CƠ CHẾ LẬP QUYỀN DÂN.
Các quốc gia
ngày nay thường có lưỡng viện với những tên gọi khác nhau. Như vậy về danh từ
cũng chỉ là tương đối, nên chúng tôi xin gọi quyền của dân chúng là Hạ Viện
(Hội Nhơn Sanh).
1/- Hạ viện.
Quyền hạn của Hạ
Viện cũng giống như quyền hạn của Hội Nhơn Sanh.
Tối thiểu phải
có 06 quyền:
1.1/- Góp ý và
đề xuất về quốc kế dân sinh. Kiểm tra ngân sách, thông qua ngân sách và góp ý
phân bổ ngân sách hàng năm.
1.2/- Vận dụng
mọi nguồn lực trong nước ngoài nước, các thành phần lương, giáo... để xây dựng
xã hội về các mặt.
1.3/- Đề xuất
các công việc cụ thể về các mặt giáo dục, y tế, giao thông, khoa học kỷ
thuật... để chính quyền biết nguyện vọng của dân mà thực thi cho thuận chiều
dân vọng.
1.4/- Tham gia
vào việc sửa cải thêm bớt hay huỷ bỏ những luật lệ không còn phù hợp. Được
quyền đệ trình luật mới cho đại hội xem xét và quyết định.
1.5/- Đủ quyền
công nhận, kiểm soát, giám sát, thanh tra các nhân sự hay cơ quan chính phủ
(không có vùng cấm). Công chức ngành hành pháp do trung ương quản lý muốn thăng
chức thì chính phủ làm hồ sơ cho hạ viện có ý kiến chấp nhận hay bác bỏ.
Có một hệ thống
thanh tra, kiểm soát độc lập với hệ thống của chính quyền. Các Bộ Trưởng và
người đứng đầu ngành hành pháp phải có mặt theo yêu cầu của Hạ Viện để trả lời
các chất vấn liền để nghị viên quyết định. Không được hẹn trả lời sau, trả lời
riêng.
1.6/- Quyền đối
ngoại.
Có đủ quyền
thanh tra các hiệp định thương mại của chính phủ với nước ngoài. Đề xuất hay
góp ý vào các chính sách đối ngoại.
Đặc biệt là
quyền tuyên bố chiến tranh hay hòa bình với một hay nhiều nước.
2/- Cách chọn nghị viên Hạ viện.
Hội viên Hạ Viện
gồm có: Quận Trưởng, Xã Trưởng, Trưởng Ấp hành chánh, Trưởng Ấp an ninh và đại diện dân.
Quận là đơn vị
tham gia hạ viện.
Quận trưởng là
hội viên hạ viện.
Toàn bộ xã
trưởng trong Quận cử một đại diện.
Toàn bộ Trưởng
ấp Hành Chánh trong Quận cử một đại diện.
Toàn bộ Trưởng
ấp An ninh trong Quận cử một đại diện.
Cứ 400 dân thì
cử hai đại diện một Nam, một Nữ.
Quận Trưởng là
trưởng đoàn.
Nhân sự trong
đoàn là nghị viên hạ viện.
Trước khi đi hội
thì mỗi đơn vị đều có biên bản đúc kết những nguyện vọng của dân chúng trong
địa phương và những điều cần đề xuất.
3/- Nơi Hội.
Hội theo luật
định.
Điều quan trọng
là nơi hội phải có khu vực dành cho những hội viên không đắc cử nghị viên Hạ
viện đến dự thính hay quan sát. Song song đó phải có khu vực cho dân chúng muốn
đến quan sát cũng đủ quyền vào và không ai có quyền cản trở. Tất nhiên việc
quay phim, chụp ảnh...là tự do... vì đây là khu vực riêng.
Điều dự thính và
quan sát nầy trọng hệ ở chổ triệt tiêu nghị gật và nghị nổ. Nó chính là nguồn
lực quan trọng để không ai dám rún ép nghị viên và tự nghị viên cũng khép mình
vào khuôn thước.
Sản phẩm lúc nào
cũng có sự giám sát của dân chúng thì khó có hàng kém chất lượng còn như hàng
nhái, hàng dỏm thì bị triệt tiêu hẳn.
Nghị trường càng
sôi nổi, tranh luận càng quyết liệt thì cuộc sống người dân càng thanh bình,
con thuyền xã hội tiến băng băng về bến bờ hạnh phúc mà không phải qua sóng to
gió lớn.
***: Thời gian
hội: Hội đến khi hết việc (không hạn chế thời gian).
@@@
IV/- HỆ THỐNG GIÁM SÁT & THANH TRA.
Nhiệm kỳ của các
vị nghị viên là 03 năm.
Sau khi họp
phiên đầu tiên của nhiệm kỳ thì các vị nghị viên Hạ Viện trực tiếp bầu ra Ủy
Ban Thường Trực của Đại Hội Nhân Dân. (Gồm có Tổng Thư Ký và nhân sự các ban
ngành... chú ý phân bổ đều theo vùng...)
Vị Tổng Thư Ký
của Ủy Ban Thường Trực sẽ cầm quyền Tổng Thanh Tra trong cả nước. Các vị còn
lại cũng sẽ được phân công làm việc ở Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương.
. Các vị nghị
viên không đắc cử trong Ủy Ban Thường Trực về địa phương mình là thành viên của Ban Thanh Tra tại các địa
phương.
. Các vị hội
viên không đắc cử nghị viên ở các quận là thành viên của Ủy Ban thường trực.
Như vậy bộ máy
giám sát, thanh tra của hạ viện còn hùng hậu hơn cả số nghị viên tham dự đại
hội. Lực lượng hùng hậu được bố trí từ các bộ ngành ở trung ương cho đến các
đụa phương.... Các thành viên giám sát, thanh tra có mặt khắp nơi thì viên chức
hành pháp, lập pháp, tư pháp nào cũng thấy mình bị giám sát họ có dám tham
nhũng không? Có dám lạm quyền không?
Một quyết sách
sáng suốt sẽ tạo ra thời kỳ THÁI trong xã hội.
Tổ chức hay cá
nhân nào không chấp nhận những qui định trên khi kiến thiết hiến pháp sẽ bị tẩy
chay.
@@@
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
V/- NHỮNG CUỘC CÁCH MẠNG CÒN DANG DỠ.
Những cuộc cách
mạng ở Đông Âu và Bắc Phi đã xô ngã được chế độ độc tài nhưng chưa xây dựng
được xã hội dân chủ, tự do (do hiến pháp chưa lập quyền dân...) nên xương máu và tánh mạng người công nghĩa
lại phải tổn hại. Gần với Việt Nam hơn là Thái Lan trong 81 năm đã có 18 cuộc
đảo chánh.
Nguyên nhân gốc
các sự kiện trên là gì? Đó là hiến pháp thiết kế theo cách bố trí thượng từng
ban phát dân chủ, tự do cho dân. Ban tới đâu dân hưởng tới đó... Hiến pháp
không thiết kế theo cách lập quyền dân.
1/- Đông Âu.
Xin chọn Ukraine
như một điển hình cho thời hậu cộng sản.
Năm 1922 Ukraine
đồng sáng lập Liên bang Xô viết và trở thành một nước theo cộng sản nằm
trong Liên Xô.
Năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Ukraina trở thành một quốc gia độc lập. Từ đó
đến nay, Ukraina đã tiến hành mở cửa và xây dựng nền kinh tế thị trường. Nhưng người dân
không hài lòng với chính phủ nên đang biểu tình rất quyết liệt.
Một người biểu tình đối mặt với lực lượng an ninh Bộ Nội
Vụ. Ảnh Reuters
|
Ngày 21-01-2014
Thủ tướng Ukraine Mykola Azarov cảnh báo lực lượng an ninh nước này có thể
sẽ dùng đến vũ lực để giải tán đám đông biểu tình sau hai ngày đụng độ khiến
hàng trăm người bị thương.
Những người biểu
tình đã xuống đường từ cuối tháng 11/2013 để bày tỏ thái độ giận dữ trước quyết
định của chính phủ từ chối hiệp ước với Liên minh châu Âu nhằm chọn lấy quan hệ
với Moscow.
Trong một thông
cáo báo chí vào tối thứ Hai ngày 20/1, Tổng thống Yanukovych nói
‘giờ đây khi mà các hành động ôn hòa trở thành bạo loạn đông người
đi kèm với đốt phá và bạo lực, tôi tin rằng điều này không chỉ là
mối đe dọa đối với Kiev mà còn là toàn thể đất nước Ukraine’....
Bạo lực xảy
ra sau nhiều tuần biểu tình ôn hòa phản đối quyết định của Chính
phủ Ukraine quay lưng lại với một thỏa thuận liên hiệp với Liên minh
châu Âu và tiếp đó là thêm các điều luật hạn chế biểu tình.
Chính phủ
ra "Những điều luật (mới của Ukraine)
để hạn chế đáng kể những quyền tự do cơ bản của người dân Ukraine như
quyền lập hội, quyền tự do báo chí và hạn chế nghiêm trọng hoạt
động của các tổ chức dân sự xã hội. ". Chính quyền đã phản lại tiến trình dân
chủ...
Rất nhiều người
biểu tình đội mũ bảo hiểm đỏ, nhằm chống đối lại luật mới cấm đội mũ bảo hiểm
và mặt nạ trong các cuộc biểu tình. (não trạng độc tài kiểu cộng sản mới ra
lệnh cấm quái gỡ như vậy...).
Tóm lại sau khi
xô ngã chế độ cộng sản. Hiến pháp mới không thể hiện được việc lập quyền dân và
dân mạnh nên các thế lực chính trị mới có cơ hội tìm cách phản lại nguyện vọng
quần chúng.
2/- Bắc Phi:
Ba năm về trước
mùa xuân Tân Mão (2011) khi người Việt Nam còn đang vui xuân thì nhân dân
Tunisia và Ai Cập đã đứng lên xô ngã 02 chế độ độc tài làm cho cả thế giới khâm
phục (không ai đoán trước được).
Người thanh niên
tên Mohamed Bouazizi 26 tuổi trong cơn phẩn nộ tột cùng đã chọn cách hiến dâng
mạng sống của mình cho dân tộc đang bị áp bức. Anh đã châm lửa biến mình thành ngọn đuốc sống bùng
cháy trên đường phố Sidi Bouzid ở Tunisia. Ngọn lửa phẩn nộ đã thiêu trụi chính
thể Ben Ali sau 23 năm cầm quyền.
Ngọn lửa cháy
sang Ai Cập lật nhào Tổng thống Ai Cập Mubarak sau 30 năm tại vị.
Sự thành công của Tunisia và Ai Cập đã thổi bùng lên
ngọn lửa đấu tranh của nhân dân ở cả vùng Bắc Phi như Algéria, Sudan, Maroc và
Lybia rồi lan đến các quốc gia khác như Yemen, Barhain, Mauritania, Ảrập Xê-út, Oman, Syria,
Iraq, Morocco và Iran. Sự kiện kinh thiên động địa như vậy đã làm rung chuyển
thế giới Ả Rập. Cho nên nó tất nhiên phải lan tỏa đến các quốc gia khác có tham
nhũng, bất công, nghèo đói và vi phạm nhân quyền trên cả thế giới.
Tại Ai Cập sau
khi ông Mubarak bị lật đổ hiến pháp mới lại dẫn đến xáo trộn.. Tổng thống Morsi
lại bị lật đổ và đầu năm 2014 lại có hiến pháp mới lần nữa và lại có biểu tình
rất ác liệt...
Nguyên nhân nào
dẫn đến kết quả như thế?
Đó chính là việc
kiến thiết hiến pháp chưa thể hiện được việc lập quyền dân để làm cho dân mạnh
(sau khi lật đổ chế độ độc tài).
@@@
3/- Thái Lan: Dân chủ nhờ ban phát.
Thái Lan là một
vương quốc trong vùng Đông Nam Á. Khi triều đình nhà Nguyễn quyết liệt trừng
phạt người theo Thiên Chúa giáo và bế môn tỏa cảng dẫn đến việc bị Pháp xâm
lăng thì Thái Lan khôn khéo hơn.
Hàng
ngàn bác sĩ, y tá, điều dưỡng viên,...của toàn bộ bệnh viện tại thủ đô
Bangkok Thái Lan biểu tình yêu cầu thủ tướng lâm thời Yingluck từ chức
|
Họ dùng chính
sách ngoại giao uyển chuyển để các cường quốc kềm chế lẫn nhau... nên không bị
mất chủ quyền. Ngày nay Thái Lan theo chế độ Quân chủ lập hiến.
Trước năm 1975
Thái Lan không hơn Việt Nam Cộng Hòa, nhưng sau 1975 do sự sai lầm của cộng sản
dẫn đến việc phá hủy hạ tầng kinh tế miền Nam và đem quân vào Campuchia làm cho
đất nước bị cấm vận và Thái Lan vượt lên rất xa.
Chính trường
Thái Lan trong 81 năm nay ghi nhận 18 cuộc đảo chánh. Cuộc đảo chánh sau cùng
là lật đổ thủ tướng Thaksin. Lý do bị lật đổ: tham nhũng.
Thủ Tướng
Thaksin tham nhũng tài sản quốc gia nhưng khôn ngoan phân bổ ngân sách về các
tỉnh nông nghiệp phía Nam làm cho đời sống họ khá lên. Người dân được lợi thì
thích mà không hiểu rằng đáng lẽ họ còn phải được nhiều hơn như thế nếu thủ
tướng Thaksin không tham nhũng để đem lại tài sản khổng lồ cho dòng họ
Shinawatra của ông.
Thủ tướng
Yingluck là em gái ông Thaksin. Bà muốn soạn luật ân xá cho tham nhũng trong đó
người hưởng lợi nhiều nhất là người anh trai đang sống lưu vong. Luật ân xá
tham nhũng không thành nhưng đã gây phẩn nộ trong xã hội. Người dân đã biểu
tình phản đối rất quyết liệt, bà thủ tướng phải từ chức chuyển sang làm thủ
tướng lâm thời.
Người biểu tình
không chấp nhận họ yêu cầu bà phải từ chức thủ tướng lâm thời... cuộc biểu tình
đã làm thiệt hại cho nền kinh tế Thái Lan và hao tốn ngân sách để bầu cử lại...
Tất cả những
điều trên xãy ra trong chế độ dân chủ là do đâu?
Do nơi hiến pháp
chưa thể hiện được cách lập quyền dân nên mới xãy ra chính sách DÂN TÚY của anh
em bà thủ tướng.
Tự do, dân chủ
như món quà trong tay chính quyền ban phát chứ chưa phải do tự tay người dân
tạo lập mà có. Đúng là có việc lá phiếu người dân đã quyết định ai nắm quyền.
Nhưng sau khi trao quyền cho người đó rồi thì dân mất quyền kiểm soát họ và họ
nhãy múa trên đầu của dân. Họ bổ nhiệm ai để cai trị dân cũng do quyền họ, dân
không có cơ chế giám sát, thanh tra riêng...
Qua 03 trường
hợp trên chúng ta đã thấy tầm quan trọng của việc kiến thiết hiến pháp phải lập
quyền dân để dân mạnh.
@@@
IV/- VIỆT NAM CẦN LÀM NGAY.
Con đường tranh
đấu cho dân chủ, tự do, nhân quyền ở Việt Nam càng gay go thì người dân càng có
nhiều sáng kiến thể hiện ý chí và sức mạnh. Người yêu nước đã mặc áo NO-U,
thành lập đội bóng dá NO – U. Mặc áo kẻ chữ Hoàng Sa, Trường Sa. Áo của dân oan
các nơi... công an và côn đồ có thể giật nón, băngron... nhưng không thể lột áo
của dân...
Áp dụng sáng
kiến trên chúng tôi đề nghị viết tiêu ngữ: LẬP QUYỀN DÂN (hình bán nguyệt bên
trên) và DÂN MẠNH (thẳng hàng bên dưới) để bày tỏ nguyện vọng (trên áo và nón).
Chúng ta cũng có
thể viết tiêu ngữ đó trên tranh, trên một số quà lưu niệm để biếu tặng hay bán
cho những người ủng hộ. Số tiền lãi một phần để trả thù lao cho người lo việc
kinh doanh nầy. Phần còn lại làm quỷ để góp phần chăm sóc tù nhân lương tâm,
dân oan... Chúng ta mở những cuộc tọa đàm lập quyền dân, dân mạnh và bán sản
phẩm để gây quỷ... Cách quản lý quỷ nầy ở Việt Nam nếu ông Nguyễn Tường Thụy
nhận thì chúng ta sát nhập chung với Hội Bầu Bí Tương Thân....
Những người có
học về quản lý kinh doanh chắc chắn còn nhiều cách hay hơn nữa để tổ chức và mở
rộng chương trình nầy như lập ra chi nhánh đến các Thành Phố, Tỉnh, Huyện, Xã,
Ấp. Từ đó TỰ LÀM cho phong trào đấu tranh cho dân chủ, tự do, nhân quyền ở Việt
Nam thấm sâu vào lòng dân và mạnh mẽ lên...
Ở Việt Nam nếu
tiêu ngữ đó viết trên nón chắc chắn là chính quyền sẽ cho côn đồ giật hết.
Nhưng đồng bào ở nước ngoài hoàn toàn có thể làm được việc nầy cũng như áp dụng
nhiều cách khác để gây quỷ...
Tin trang web
BBC ngày 20-01-2014. Ông Hồ Văn Kỳ Thoại là Cựu Phó Đề đốc quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nguyên Tư lệnh Hải quân Vùng 1
Duyên hải. Ông là một trong các chỉ huy trận Hải chiến Hoàng Sa 40 năm trước
nhận định: ...“Riêng về phần Việt
Nam thì người Việt hiện tại hay mai sau nếu còn muốn có một quê hương và muốn
giữ mảnh đất mồ mả ông cha mình thì nên sớm thức tỉnh và thấy rõ sự nguy hiểm
tột cùng của sự lấn chiếm mỗi ngày một thêm của Trung Cộng.
“Cùng nhau có hành động thích ứng và khẩn cấp trước
khi quá trễ.
Tôi cầu xin đồng
đạo và đồng bào ở nước ngoài vì tương lai dân tộc, vì hiểm họa của tổ quốc...
vì cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ trong nước đang dằn co quyết liệt nên rất
cần thêm sức mạnh, cần thêm phương tiện đấu tranh trong ôn hòa hưởng ứng đề
nghị nầy.
Tiêu ngữ LẬP
QUYỀN DÂN – DÂN MẠNH cần được phổ biến rộng rãi đến mọi nơi để người dân hiểu
biết và hưởng ứng.
Đây là tiêu ngữ
rất hòa bình, phù hợp đạo đức xã hội, không vi phạm pháp luật. Phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân mọi từng lớp (nhất là dân oan). Chính quyền không
thích đi nữa cũng không có quyền cấm đoán.
Ngày 28-03-2013
giáo sư Nguyễn Huệ Chi viết trong thư trả lời cho ông Nguyễn Đắc Kiên có đoạn:
“Một
phong trào muốn tiến lên thì phải có những người có tầm nhìn, biết tạo sự đồng
tâm, gây niềm tin cho quần chúng, chấp nhận mọi khác biệt và tìm được
mẫu số chung giữa những khác biệt, chứ nếu khăng khăng đưa ra một tiêu chí cứng
nhắc theo ý riêng nào đấy thì chưa họp đã tan ngay thôi”.
Chúng tôi kính
mong các nhà đấu tranh cho dân chủ, tự do, nhân quyền và tự do tôn giáo cân
nhắc và vận dụng tiêu ngữ nầy. Nó có tác dụng tức thời và lâu dài:
./- Ngay trước
mắt nó tạo ý thức và niềm tin cho người dân, khi dân ý thức thì sẽ có sự đồng
tâm hiệp lực, chính nghĩa có thêm sức mạnh. Đó chính là những chiến binh xung
trận xô ngã chế độ độc tài bằng phương pháp hòa bình phù hợp với xu thế chung.
./- Sau khi chế
độ độc tài cộng sản bị sụp đổ thì những người có trách nhiệm sẽ kiến thiết hiến
pháp theo nguyện vọng đó.
./- Trong thời
đại internet thì tiêu ngữ trên cũng tác động đến cuộc đấu tranh của các dân tộc
khác.
Năm 2011 ngọn
đuốc sống của người thanh niên Tunisia đã làm bùng lên ngọn lửa cách mạng ở Bắc
Phi và toàn thế giới... tiêu ngữ lập quyền dân, dân mạnh sẽ cung cấp thêm năng
lượng cho cuộc cách mạng vì dân chủ, tự do, nhân quyền của nhân loại đi đến
thành công.
Tóm lại: Cộng
sản là ách nạn cuối cùng của dân tộc Việt Nam. Những người thương dân yêu nước
nhìn vào Ukraine, Ai Cập, Thái Lan... để rút ra bài học cho Việt Nam: kiến thiết hiến pháp phải có phương án
lập quyền dân để dân mạnh.
LỜI THỈNH CẦU
ĐỒNG ĐẠO.
“Xin phổ biến công thức của đạo”
Kính quí đồng
đạo.
Đức Chí Tôn
dạy rằng: “Ngày nào còn tồn tại một lẽ
bất công nơi mặt thế nầy thì Đạo Cao Đài chưa thành Đạo”.
Đức Hộ Pháp
dạy: ...Đạo Cao Đài có mục phiêu chánh
đáng là chúng ta phải làm cho kỳ được bác ái, công bằng, vị tha, ưu nhơn ái
vật, cải thiện dân sinh, làm cho đại đồng thiên hạ. Ta đã hy sinh không biết
bao nhiêu xương máu từ thử đến giờ cũng vì muốn đạt cho được cái mục phiêu
ấy. Muốn cho Đạo Cao Đài có giá trị nơi mặt thế nầy mà đi chưa đến mục đích
ấy tức công trình của ta cấy lúa trên đá...
... Mục phiêu chánh của Đạo Cao Đài là lo cho toàn
thiên hạ đặng tự do hạnh phúc. Có lẽ vì lý do đó mà chúng ta phải hy sinh
trọn kiếp sống đặng giải ách lệ thuộc cho các chủng tộc lạc hậu...
Dân tộc và tổ
quốc đang chịu ách nạn độc tài và hiểm họa xâm lăng từ phương Bắc. Là người
đạo chúng ta còn chịu thêm một nổi đau đớn nữa là cộng sản đã đóng cửa Tòa
Thánh không cho Hội Thánh cầm quyền hành chánh tôn giáo. Con thuyền đạo không
thể xông pha nơi khổ hải để giúp đở
người yếu thế, binh quyền cho kẻ mồ côi, độ rỗi nhơn sanh xây đời mới như Đức
Chí Tôn dạy là một sự thật.
Tòa Thánh ngày
nay đã bị cộng sản chiếm rồi giao cho chi phái Hội Đồng Chưởng Quản lập năm 1997 tại Nội Ô Tòa Thánh sử dụng để lừa
dối nhơn sanh và công luận. Báo Xa Lộ Pháp Luật số 36 ra ngày
17/8/2013 trang 16 cột bốn dòng 26 viết:
...Hiện
nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công nhận là một trong chín chi phái Cao
Đài hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.
Đức
Chí Tôn có tiên tri: Thầy để một lời nầy cho các con yên dạ, dầu
cho ai có quyền phép tiêu diệt Càn Khôn đi nữa cũng khó ngăn đặng Ðạo Thầy.
Như ai buộc các con đóng cửa chùa thì cứ tuân mạng, đợi chừng nào các sắc con
cái Thầy đến mở cửa sẽ hay.
Các sắc con cái Thầy ĐANG đến
mở cửa
bằng nhận định rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo... Thiễn nghĩ người đạo
phải tích cực trong việc mở cửa Tòa Thánh, phục hồi cơ đạo.
Thầy cũng có
dạy: Việc đạo là công lý mà công lý
đánh đổ cường quyền mới phải đạo.
Cộng sản Việt
Nam đã dụng cường quyền để đóng cửa chùa, không cho Hội Thánh hành chánh vậy
thì chúng ta phải hiệp lực với những người công nghĩa xô ngã nó đem lại công
lý cho dân tộc, tổ quốc và phục hồi cơ đạo. Chúng ta cần góp phần làm cho vũ
lực, bạo tàn phải tàn tạ, để cho nền VĂN MINH NHƠN ĐẠO được thực thi.
Xin quí đồng
đạo tích cực phổ biến công thức: lập
quyền dân, dân mạnh, đồng tâm hiệp lực xô ngã cường quyền xây dựng
một xã hội mới hòa bình, dân chủ, tự do...
Nay
kính.
|
THIÊN THỨ NĂM.
HÒA BÌNH, DÂN
CHỦ & TỰ DO.
Như đã thưa
trước rằng cuốn sách nầy chủ yếu là trình chánh về cuộc cách mạng nhơn nghĩa
của Đạo Cao Đài.
Hiện tại chứa
đầy quá khứ và cũng nặng gánh tương lai.
Chúng tôi xin
trình bày 03 phần: Sấm ký và thực tế; Luật bù trừ của tạo hóa và Hòa Bình Chung
Sống là tương lai nhân loại.
I/- SẤM KÝ VÀ THỰC TẾ.
Tiên tri cho
biết việc THẦY TĂNG mở nước đã lưu truyền trong xã hội. Chúng tôi xin trình dẫn
tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Trạng Bùng Phùng Khác Khoan có
liên quan đến việc Đạo Cao Đài mở nước và nhiệm vụ của nước đó trong xã hội.
1/- Sấm Trạng Trình về Đạo lập nước và địa cầu 67.
Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585)
được biết đến như
một người thông minh xuất chúng, một ông quan thanh liêm, một vị lương sư, một
bậc danh nhân văn hóa... nhưng với người bình dân ông được mến mộ qua tài bói
toán và sấm ký bằng nhiều chuyện kể trong dân gian. Nó góp phần làm cho đời
sống tinh thần dân tộc thêm phong phú và mạnh mẽ.
Đặc biệt hơn hết
là trong ĐĐTKPĐ ông cùng với văn hào Victor Hugo và nhà cách mạng Tôn Trung Sơn
được Đức Chí Tôn phong thánh. Bích họa Tam Thánh đại diện cho nhân loại ký hòa
ước với Đức Chí Tôn được bố trí tại Tịnh Tâm Điện Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông sinh năm 1491 vào đời vua Lê Thánh Tông (Hồng Đức thứ 22) tại làng
Trung Am huyện Vĩnh Lại,
Hải Dương. Nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đến
năm 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng Nguyên (vua Mạc
Đăng Doanh). Ông đắc phong Tả Thị Lang Đông
Các Học Sĩ tước Trình Tuyền Hầu (Trạng Trình). Làm quan được bảy
năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần, vua không nghe nên ông xin từ quan (1542).
Ông về
quê dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học (cạnh sông Tuyết nên còn được
gọi là Tuyết Giang Phu Tử), mở quán Trung Tân để cùng tao nhân mặc khách luận
bàn đạo đức và thế sự... Ngoài thi văn ông còn để lại nhiều lời tiên tri hay
sấm được gọi là Sấm Trạng Trình. Sấm Trạng Trình hầu như xuyên suốt trong xã
hội từ bình dân cho đến trí thức. Cứ mỗi lần xã hội có biến động là người đời
lại lục xem có trong Sấm Trạng Trình không hay sấm viết thế nào. Nó kích thích
sự tò mò của nhiều thế hệ... Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là
"An Nam lý số hữu Trình Tuyền".
Tương truyền, khi Nguyễn Hoàng sợ
anh rể là
Trịnh Kiểm giết nên cho người đến cầu kế. Ông trả lời "Hoành Sơn
nhất đái, vạn đại dung thân" (Một dải Hoành Sơn
có thể dung thân lâu dài). Nguyễn Hoàng nghe theo nên bảo toàn được tánh mạng và làm nên nghiệp lớn...
Lúc nhà Mạc suy vi sai người đến vấn
kế, ông
đáp: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể"
(Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất
Cao Bằng gần 80 năm nữa.
Trịnh Kiểm muốn soán ngôi nhà Lê sai người đến hỏi. Ông nói: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn
oản". Trịnh Kiểm hiểu ý nên thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự...
Ngày nay trên hệ
thống truyền thanh, truyền hình thỉnh thoảng chính phủ cho phát sóng bài liên
quan đến Sấm Trạng Trình qua câu:
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
Theo chính phủ Việt Nam câu
trên ứng với việc bộ đội cụ Hồ chiếm thủ đô Hà Nội. Chúng tôi nhận thấy câu
trên trong các bản đều có (đặc biệt là bản in năm 1930 là năm Đảng mới thành
lập). Như vậy câu trên đúng là Sấm gốc (không phải do thêm vào) và nó đúng với
sự thật. Ly kỳ như thế mới là đúng là Sấm Trạng Trình. Trong dân gian
lưu truyền chuyện cụ bói về cây quạt...và nhiều lời sấm khác...
1.1/- Sấm Trạng Trình về Cao Đài lập quốc.
Ông Nguyễn Thiên
Thụ sưu tập rất nhiều bản Sấm Trạng Trình và đăng trên trang web vietnamvanhien.net,
sontrungthutrang, và một số trang web
khác cũng có đăng. Trong quá trình sưu tập, nghiên cứu, đối chiếu Ông Thụ nhận
xét: Nhiều người sau này sửa sấm ký
hoặc bóp méo văn nghĩa cho vừa khuôn khổ quyền lợi của phe nhóm họ. Chúng
tôi thấy ông nhận xét rất đúng. Điều đó chắc chắn có xẩy ra. Nhất là
những nhà làm chính trị muốn lợi dụng sấm ký để lôi kéo quần chúng. Việc tạo ra
sấm ký là có thật. Chứng cớ là sau ngày 30-4-1975 một số chi phái Cao Đài xác
nhận rằng họ do chính quyền cộng sản dựng lên để hoạt động chính trị. Thí dụ
như Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý 171b Cống Quỳnh Sài Gòn đã tự khai ra khi dâng
công lên Đảng là một điển hình.
Do vậy mỗi khi
muốn nhận xét tìm hiểu một câu hay đoạn nào đó chúng ta CẦN đối chiếu nhiều bản
khác nhau để xác định xem câu sấm đó đáng tin không. Phải xác định được đó là
Sấm gốc rồi mới bàn luận. Trong khi bàn luận nếu thấy không đáng tin, có dấu
hiệu bị sửa hay thêm vào thì nêu ra cho công luận biết. Nếu không cẩn thận sẽ
rơi vào cảnh xây nhà trên cái nền ảo. Như những người kết án Bà Thị Kính là tác
giả cái thai trong bụng Thị Mầu, là cha của đứa bé...
Chúng tôi nghĩ
rằng sấm Trạng Trình là có thực. Nhưng do nạn tam sao thất bổn và trường hợp cố
ý thêm vào nên ngày nay khó xác định câu nào là của Trạng Trình (gốc), câu nào
của người sau thêm vào. Trong hoàn cảnh phức tạp và dễ mắc lừa như thế thiết
tưởng đối chiếu nhiều bản với nhau và đối chiếu với nội dung khác (đoạn khác)
trong cùng một bản sẽ giúp chúng ta đến gần với câu gốc hơn.
@@@
Ngày
18-09-1926 Đức Chí Tôn dạy:
“Từ đây trong nước Nam duy có một Đạo chơn thật là
Đạo Thầy đã đến lập cho các con, gọi là “QUỐC ĐẠO” hiểu à!
Ngày 19-11-1926
ĐĐTKPĐ tổ chức Lễ Khai Đạo tại chùa Gò Kén làng Long Thành Tỉnh Tây Ninh. Nam
phần Việt Nam.
Năm 1930 chánh
quyền thực dân Pháp (Thanh tra chánh trị sự vụ và hành chánh Nam Kỳ La Laurette, và Tham Biện Tỉnh Trưởng Tây
Ninh Vilmont) nhận định:
Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một
quốc gia.
Trong Sấm Trạng
Trình có đề cập đến việc người đạo lập quốc
hay không? Chúng tôi xin trích văn
từ quyển Sấm Trạng Trình Toàn Tập của ông Nguyễn Thiên Thụ trên trang
web vietnamvanhien.net:
Bài
số X trang 53. Bản Hương Sơn. 1950
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không
hào ?
Câu
239- 242. Bản Trịnh Văn Thanh. 1966.
Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
Trang
101. Bản Nguyễn Văn Sâm
Nói
đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?/
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?/
@@@
Những bản khác
cũng có nội dung tương tự, nó rõ với người trong cuộc nhưng cần trình bày chi
tiết hơn nên chúng tôi không chọn. Như vậy câu: Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
đã có thể tin là câu gốc trong Sấm Trạng Trình (còn câu nhì là đánh hay đám
chúng tôi không bàn đến trong đề tài nầy mà sẽ phân tích trong đề tài khác).
Hồi tôi học
Trung Học Đệ Nhất Cấp khi giảng về cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm Thầy cầm đồng tiền kim
loại thời Ngô Đình Diệm có in bụi trúc
và nói Sấm Trạng Trình:
Chừng nào trúc
mọc trên chì,
Voi đi trên giấy
thầy Tăng mới về.
Thầy giải thích
Thầy Tăng là thằng Tây là Pháp đó mấy em.
Năm 2013 khi
phát hiện câu Nói đến độ Thầy Tăng mở nước tôi đem bàn
luận với mấy anh em bạn đạo, các anh cũng nói Thầy Tăng là Thằng Tây (Pháp).
Điều thú vị là Tôi và anh bạn hồi học Trung học ở xa nhau hơn 200km, có anh còn
học tận ngoài Bắc (con cán bộ tập kết) cũng hiểu Thầy Tăng là Pháp... Chứng tỏ
Sấm Trạng Trình rất phổ biến và cách hiểu chữ Thầy Tăng giống nhau không phải
là ngẫu nhiên mà do giáo dục tạo ra và có thể chưa có một cách hiểu nào khác...
Chúng tôi bàn
luận và xin trình bày ý nghĩa chữ Thầy Tăng khác với cách nói lái. Chúng tôi
không định thuyết phục những vị đã hiểu chữ Thầy Tăng như Thầy Tôi đã giảng (và
xưa tôi cũng hiểu vậy), mà chỉ muốn hiệp tác với những người quan tâm để tiến
đến một sự thật khác hơn mà thôi. Đến đây tôi nhớ đến người viết Blog cung cấp
một góc nhìn khác và Blog viết về văn chương, thế sự và tâm linh.
Bloger Trương
Duy Nhất: cung cấp một cái nhìn khác
và Blog Phạm Viết Đào: văn chương,
thế sự và tâm linh cả hai vị anh
hùng hiện đang bị bắt giam.... giờ nầy trong nhà giam các anh chắc bị lạnh lắm.
Tôi ở miền Nam mà còn phải mặc áo ấm... các anh ở trại tù miền Bắc còn rét đến
cỡ nào. Mỗi khi nghĩ tới các anh, tới những tù nhân lương tâm khác... nhớ tới
cái lạnh của Thầy Thích Thiện Minh, của Cha Đinh Hữu Lễ, cái lạnh của những
người thân bị đày đọa ở miền Bắc sau ngày 30-4-1975 kể lại... lòng tôi chua xót
ngẫn ngơ...tê dại. Đảng cộng sản thật là tài tình và sáng tạo trong cách thức
đày đọa đồng bào...
Vì lòng thương
dân, yêu nước các vị chấp nhận tù tội... Tôi tin rằng một ngày gần đây dân tộc
ta sẽ biến tất cả những nhà tù thành trường học, nhà dưỡng lão ấu, thành nơi
cầu nguyện cho mọi người...ngày đó phải tới. Đó là ngày dân ta mạnh lên và tự
lập quyền dân để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do... Thượng Đế đã hứa,
đã dạy nên chúng tôi tin rằng việc đó sẽ đến. Cộng sản bắt người công nghĩa vào
nhà tù là để người công nghĩa đóng cửa nhà tù vĩnh viễn.
Chúng tôi hiểu
chữ Thầy Tăng theo hai cách.
a/- Tách riêng chữ Thầy và Tăng.
Thầy: là Đức Chí
Tôn (Ngài xưng Thầy gọi môn đệ là các con).
Tăng là môn đệ
(là người, là nhơn loại).
Vậy Thầy Tăng có
nghĩa là Thầy dạy môn đệ (hay nhơn loại) mở ra nước mới tại địa cầu chúng ta
đang sống. Địa cầu đó tên là địa cầu 67.
b/- Chữ Thầy Tăng ghép chung.
Thầy Tăng là
người tu trong các tôn giáo (Thầy Tu là Tăng...).
Nhưng trong câu
nầy còn có một điều kiện kèm theo đó là những người tu mở nước. Nghĩa là chữ
Thầy Tăng được dùng chỉ một tập hợp nhỏ (Thầy Tăng mở nước) trong tập hợp lớn
(Thầy Tăng nói chung).
Hiểu sát nghĩa
theo câu sấm thì cần 02 yếu tố chính: người
tu và có mở nước. Đủ 02 yếu tố đó mới phù hợp với sấm.
Người tu theo
Đạo Cao Đài đã lập QUỐC ĐẠO (Đạo có tổ chức chặc chẽ, rõ ràng như một quốc
gia). Cho nên chính quyền Pháp đã nhận xét: Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong
một quốc gia.
Như vậy Sấm Ký, lời Đức Chí Tôn dạy,
việc làm của người đạo Cao Đài và sự nhận xét của chánh quyền Pháp đã hội tụ
nhau.
Chính phủ Pháp
nhận xét Đạo Cao Đài lập một quốc gia trong một quốc gia là để diệt đạo. Họ
hoàn toàn không ngờ nhận xét của họ lại làm sáng tỏ mối đạo của Thượng Đế đích
thân làm chủ trước nhơn loại. Đạo của Thầy đầy đủ năng lượng để chuyển họa vi phước rất rõ ràng.
Từ cái họa của thực dân gán cho ngày nay nó thành phương tiện để nhân loại hiểu
được giá trị của Đạo là xây dựng một thế giới mới trong bác ái công bằng. Bốn
yếu tố: Sấm ký, lời Thầy dạy, môn đệ thực hành và nhận xét của chính quyền
đương thời hội tụ để chuyển họa vi phước. Đạo pháp hiện hữu rõ ràng ngay trước
mắt nhơn loại.
Nó cũng giống
như Đức Chúa Jesus bị đóng đinh đầu quay lên. Đến Thánh Piere bị đóng đinh thì
đầu quay xuống. (Mấy tên lính bày trò ác độc để đầu của Ngài quay xuống. Kẻ
hành hình kia muốn làm tội nhơn đau đớn hơn chúng mới thích. Đâu dè như thế mới
đủ 02 chiều âm dương nên đạo Chúa (Công Giáo) phát triễn mạnh mẽ.
Nhận xét của Pháp là để diệt Đạo không ngờ ngày nay
nó trở lại vinh danh đạo trước nhân loại.
Tóm lại chữ Thầy
Tăng dù tách ra làm hai hay là nhập lại làm một chúng ta VẪN đủ điều kiện để
xác định rằng Sấm Trạng Trình tiên tri về việc ĐĐTKPĐ hay Đạo Cao Đài lập ra
một tân thế giới.
Tân thế giới đó
tên gì? Ở đâu? Thành lập năm nào? Chúng tôi xin trình bày phần tiếp đây: Tân
thế giới đó có tên là địa cầu 67, tại Tòa Thánh Tây Ninh khởi từ năm 1925 như
trong Sấm Ký đề cập đến.
1.2/- Sấm ký Trạng Trình về địa cầu 67.
Ghi nhận về chữ
lục thất gian cho thấy hầu như trong từng bản sấm ký của Trạng Trình đều có và
được lập lại nhiều lần về lục thất gian. Điều thú vị nữa là chữ lục thất gian
trong Sấm Ký của Trạng Bùng (Phùng Khắc Khoan) cũng có đề cập đến rất nhiều
lần.
Xin trích văn từ
Sấm Trạng Trình như sau:
1.2.1/- Bản cụ Nghè Bân. (có lâu đời,
đưa lên net năm 2011).
Câu 03 & 04
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi dời chí lục thất gian.
Từ Ðinh đổi dời chí lục thất gian.
Câu 60 đến 64:
Ngu dân đâu biết chân tình đế
vương.
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Thế gian ai chẳng biết tường,
Thánh thời ở tại khảm phương tuần này.
Ấy là lục thất gian nay,
Tuần hoàn đã định đến ngày hưng vương.
Câu
115- 118.
Cõi
tiên thế giới đất ta,
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Mông lung bốn bể ắt là giao lân.
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Câu
221-224.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
Lục thất dư ngũ vạn xuân,
Bây giờ trời lại xoay vần chốn nao.
Đây là bản chữ
lục thất gian xuất hiện sớm nhất, ngay từ câu thứ tư và được lập lại nhiều lần
(theo chúng tôi ghi nhận có 04 lần).
1.2.2/- Bản Sở
Cuồng 1930.
Câu
117-118
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Câu 337-338.
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương.
Thời vận đã định thời nầy hưng vương.
1.2.3/- Bản
Hương Sơn. 1950.
XI (trang 54)
Thơ rằng:
1- Di lặc giáng sinh
2- Sa phù dĩ chỉ
3- Lục thất dĩ thành
4- Kiến long sào kinh
5- Nhật xuất điện thượng (tr.54)
6- Thiên hạ thái bình
1- Di lặc giáng sinh
2- Sa phù dĩ chỉ
3- Lục thất dĩ thành
4- Kiến long sào kinh
5- Nhật xuất điện thượng (tr.54)
6- Thiên hạ thái bình
XIII (Trang 55).
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
XVII (trang 59).
Sông Bảo Giang
thiên định ai hay
Lục thất cho
biết ngày rày.
1.2.4/- Bản Anh
Phương. 1960.
Câu 69-70:
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Câu 205-206:
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
1.2.5/- Bản
Trịnh Văn Thanh. 1966.
Câu 83-84.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Câu 219- 220:
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
1.2.6/- Bản
Nguyễn Văn Sâm.
Bài số X trang 99.
1/- Di lặc giáng sinh
2/- Sa phù dĩ chỉ
3/- Lục thất dĩ thành
4/- Kiến long sào kinh
5/- Nhật xuất điện thượng (tr.54)
6/- Thiên hạ thái bình
2/- Sa phù dĩ chỉ
3/- Lục thất dĩ thành
4/- Kiến long sào kinh
5/- Nhật xuất điện thượng (tr.54)
6/- Thiên hạ thái bình
Trang 102.
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
@@@
Qua các trích
đoạn trên thì đã đủ để xác định chữ lục thất gian là câu sấm gốc. Hơn nữa Sấm
của Trạng Bùng cũng có lục thất gian.
Thiễn nghĩ muốn
giải lời sấm về (lục thất gian) có thể chấp nhận được phải đáp ứng 03 việc:
v.1/- Lục thất
gian là gì?
v.2/- Đặc tính
nó thế nào?
v.3/- Lời giải
có phù hợp với thực tế không? (nếu nó là quá khứ). Còn như là hiện tại và tương
lai thì căn cứ vào đâu?
a/- Tiền nhân giải thích.
a.1./- Nguyên bản lục thất 六 七 (lục thất nguyệt gian, lục
thất niên gian) có lẽ cổ nhân
dùng để chỉ lục thất 陸 室 nhà Nguyễn vì trong chữ lục có
chữ Nguyễn 阮).
a.2./- Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất
có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ
lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì
giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình
Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây.
@@@
Theo 02 cách giải thích trên đây chữ lục thất gian
đều chỉ nhà Nguyễn. Giải thích theo cách chiết tự hay đồng âm là cách rất phổ
biến và hữu hiệu khi trả lời cho câu đố chữ nho. Thế nhưng Sấm ký thì kỳ bí
(cao cấp) hơn câu đố, nên cách chiết tự lắm khi không thỏa đáng. Câu đố có thể
hiểu như phép cộng, phép trừ hay phương trình bậc nhất (bài toán đơn giản). Còn
sấm ký nó như phép nhân, chia, lũy thừa, rút căn hay phương trình bậc hai, bậc
ba...(bài toán phức tạp cần có sự phối hợp...).
Áp dụng khung
tiêu chuẩn để xét:
Xét v.1/- Lục
thất gian là gì? Đáp án là triều đình nhà Nguyễn.
Xét v.2/- Đặc
tính nó thế nào?
Theo nghĩa chữ
lục thất gian trong lời sấm thì lục thất gian có 03 đặc điểm lớn: Một: Trường
cửu. Hai: Thay đổi cả thế giới tốt hơn. Ba: Tạo ra những người hiền. Sấm viết:
Trời xui thiên tử vạn dân,
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Rắp hết xa gần triều lục thất gian.
Hay:
Bao nhiêu ngụy đảng loài gian
lại hiền.
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Đời ấy những Phật cùng tiên,
Sinh những người hiền trợ giúp
trị dân.
Đây là điều mà
triều đình nhà Nguyễn hoàn toàn không thể đáp ứng được.
Xét v.3/- Nhà
Nguyễn đã là quá khứ. Nghĩa là cái đáp số (kết cuộc) của nhà Nguyễn đã có và
đem nó so với lời sấm không phù hợp nhau.
Kết luận: Nếu
hiểu chữ lục thất gian theo 02 nghĩa trên thì chưa phù hợp với nội dung lời sấm
và thực tế diễn ra.
b/- Hậu học tham gia.
Chúng tôi không
chọn cách chiết tự hay đồng âm mà trình bày chữ lục thất gian theo nghĩa đen và
thực tế từ giáo lý, thể pháp ĐĐTKPĐ.
Chữ lục nghĩa là
6. Chữ thất là 7. Ghép 02 chữ nầy lại ta được số 67. Tại sao phải ghép?
Thứ nhất vì văn
vần bị giới hạn số chữ và vần điệu nên nhiều lúc không thể chi tiết như văn
xuôi.
Thứ hai do đặc
tính của sấm ký, bởi vì nói thẳng băng ra thì không phải là sấm ký. Thí dụ như
câu: Chừng nào hai bảy mười ba, Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. Khi xãy ra việc
Toàn quyền Đông Dương Pasquier bị tai nạn máy bay người ta lục sấm ra để giải
thích...mới là sấm.
Toàn
quyền Pasquier tử nạn trong chuyến bay từ
Việt Nam về Pháp bị rớt ở Corbigny, Nièvre, (Pháp) ngày 15-01-1934. Tương truyền Sấm ký của Trang
Trình đã đoán trước với hai câu lục bát:
Giữa năm hai bảy
mười ba
Lửa đâu mà đốt
tám gà trên mây
Ngày 15-01-1934 (01-12-Quí
Dậu). Năm đó nhuận vào tháng 07 âm lịch nên có 13 tháng. Pasquier được phiên âm là "Bát Kê” tức là "tám gà". Hồi tôi học Đệ Ngũ Thầy dạy
Việt Văn giảng rằng Pasquier đem tài liệu liên quan đến Đạo Cao Đài về Pháp
để xin mẫu quốc diệt đạo nên bị quả báo...
|
Chữ gian là
không gian, thời gian và nhân gian.
Ba chữ đó ghép
lại là chỉ một vùng đất, một không gian, một thời đại có con người sinh sống. Tạm
gọi đó là địa cầu 67.
Xét v.1/- Lục
thất gian là gì?
Đáp án: Lục thất
gian là địa cầu số 67.
Địa cầu 67 chính
là quốc gia mà Đạo Cao Đài dùng nhơn nghĩa tạo ra như đã trình chánh và chính
phủ đương quyền thời Pháp đã kết luận.
Chúng tôi xin
trưng ra những bằng cớ từ giáo lý và kiến trúc.
(Xin lưu ý rằng
chúng tôi chỉ muốn chứng minh danh từ địa cầu 67 chính là tôn giáo Cao Đài để
làm rõ chữ lục thất gian mà không đi sâu vào giáo lý. Quí vị quan tâm có thể
vào trang web tusachdaidao xem quyển ĐỊA CẦU 67 QUA THỂ PHÁP thì tường tận
hơn).
./- Từ Pháp Chánh Truyền:
Nó đặng phép thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu và
Thập Điện Diêm Cung, đặng cầu rỗi cho các con.
./- Từ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
. Thầy dạy: Nhơn
phẩm nơi thế gian nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Ðứng bực Ðế Vương nơi
trái địa cầu nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn
loại cũng phân ra đẵng cấp dường ấy.
./- Từ kiến trúc: Cửa Hòa Viện.
Đây là cửa đi
vào Tòa Thánh gần nhất.
Cửa Hòa Viện:Đông 06 bông sen, Tây 07 bông sen. Tượng trưng
cho địa cầu 67. (ĐĐTKPĐ).
|
Đi vào Tòa Thánh
bằng cửa Hòa viện là đi theo hướng Bắc - Nam.
Khi vừa tới cửa tam quan có bố trí 06 bông sen ở hướng Đông (bên tay
trái) và 07 bông sen ở hướng Tây (bên tay phải). Mặt trời mọc phương Đông và
lặn ở phương Tây nên ghép lại ta được số 67.
Vừa bước vào cửa
Hòa Viện bên tay phải có trống báo giờ. Bên trái có căn nhà tương tự. Bên trên
nóc 02 căn nhà có bố trí 02 đồng hồ bằng xi măng tượng trưng cho thời gian.
Về hình thể cửa
bố trí theo một đoạn cung trên một vòng tròn thể hiện cho khung trời của địa
cầu 67.
Ảnh vòng cung
cửa Hòa Viện bên trái và bên phải:
Cửa
Hòa Viện Hướng Đông có 06 bông sen
|
Cửa Hòa Viện hướng Tây có 07 bông sen.
|
Khi đã vào cổng
là bước vào Nội Ô Tòa Thánh là đã bước vào kinh đô địa cầu 67 (về cảnh giới).
Đó là Tân Thế Giới lập từ năm 1925.
Xét v.2/- Đặc
tính nó thế nào?
./- Lấy đạo đức
để lập quốc nên thực hiện cuộc cách mạng nhơn nghĩa lập ra quốc gia Cao Đài
trong một quốc gia như đã trình chánh.
./- Thực thi Bảo
Sanh – Nhơn Nghĩa – Đại Đồng. Thiên Thượng, Thiên Hạ. Bác Ái – Công Bằng.
./- Thực thi lập
quyền dân để dân mạnh và tự quyết lấy số phận mình. Đó là cách mạng theo đường
lối ôn hòa: đại hùng, đại lực, đại từ bi.
. Với xã hội
thực thi:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
. Với tôn giáo
thực thi:
Hiệp Nhập Cao Đài Bá Tánh Thập Phương Qui Chánh Quả.
Thiên Khai Huỳnh Đạo Ngũ Chi Tam Giáo Hội Long Hoa.
. Truyền hiền
không truyền tử.
Nhân sự là yếu tố quyết định
cho sự thành bại của mọi đường lối chính sách. Cũng như một kịch bản hay mà đào
kép quá kém thì cũng chẳng thể thu hút được khán giả.
Một trong những đặc điểm quan
trọng của địa cầu 67 là truyền hiền không truyền tử. Việc truyền hiền nầy diễn
ra công khai (trong Đại Hội Nhơn Sanh) nên không ai có thể bưng bít được người
hiền và nâng đở người yếu kém. Như vậy mới có những người hiền tài ra giúp đạo,
trợ đời và phù hợp với lời sấm: Sinh những người hiền trợ giúp trị dân.
. Luật thương
yêu, quyền công chánh.
Đã là tổ chức
thì phải có pháp luật để thưởng và phạt. Thưởng phạt của tôn giáo theo nguyên
tắc tiên giáo hậu trị. Khi trị thì phải áp dụng luật pháp. Mà pháp luật của
Đạo. Pháp là công bình, luật là thương yêu và quyền là công chánh. Từ người Đạo
Hữu cho đến bậc Giáo Tông cũng chung một khuôn luật đó.
Nhiệm vụ của đạo
là giáo dân vi thiện và Tạo Đời cải dữ ra
hiền (Kinh Đại Tường câu 11). Câu kinh nầy đáp ứng cho câu sấm: Bao nhiêu ngụy đảng loài gian lại
hiền.
Theo Thượng Đế
dạy thì địa cầu 67 sẽ kéo dài trong thất ức niên.
Với những đặc
tính trên thì địa cầu 67 đáp ứng được nội dung sấm ký ở mục v.2. (trường cửu)
Xét v.3/- Lời
giải có phù hợp với thực tế không?
. Năm 1925 khai
sáng.
. Ngày
19-11-1926 công khai trước nhân loại và bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng nhơn
nghĩa qua 05 chương trình và 03 phương án.
. Năm 1941 giá
trị cuộc cách mạng nhơn nghĩa đã được chứng minh lần nhứt (nhơn sanh đòi Pháp
phải trả tự do cho Đức Hộ Pháp).
. Năm 1956 từ
chiến dịch khủng bố của chính phủ Ngô Đình Diệm Đức Hộ Pháp đã lưu vong sang
Campuchia. Ngày 26-03-1956 công bố chính sách Hòa Bình Chung Sống gởi tới cụ
Hồ, cụ Ngô, các cường quốc liên đới và Liên Hiệp Quốc.
. Trương cờ Hòa
Bình Chung Sống tại cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải năm 1956.
. Năm 1957 công
bố chánh sách Hòa Bình Chung Sống trước sứ thần các nước và toàn đạo tại Tòa
Thánh.
. Năm 1978 chánh
phủ cộng sản ban hành Bản Án Cao Đài
. Năm 1979 chánh
phủ buộc Hội Thánh Cao Đài ký Đạo Lịnh 01 xóa bỏ hành chánh 05 cấp tái lập hành
chánh 02 cấp. Sau đó tráo bài nên cấm không cho ĐĐTKPĐ sinh hoạt tôn giáo.
. Năm 2006 Bản
Án lên án Đức Hộ Pháp còn đó mà chính phủ phải lo rước liên đài Đức Hộ Pháp ở
Campuchia về Tòa Thánh (Việt Nam).
. Hội Thánh Anh
bị cốt thì Hội Thánh Em nẫy nỡ khắp thế giới đúng như tiên liệu của Đức Hộ Pháp
thì làm sao cộng sản diệt nổi. Đây là sự biến hóa mà người cộng sản không lường
hết được. Hội Thánh Em vẫn đủ quyền gìn giữ và phát triển đạo khi Hội Thánh Anh
bị cốt.
. Đức
Chí Tôn có tiên tri: Thầy để một lời
nầy cho các con yên dạ, dầu cho ai có quyền phép tiêu diệt Càn Khôn đi nữa cũng
khó ngăn đặng Ðạo Thầy. Như ai buộc các con đóng cửa chùa thì cứ tuân mạng, đợi
chừng nào các sắc con cái Thầy đến mở cửa sẽ hay.
Cộng sản không
cho Hội Thánh hành đạo là đã đóng cửa chùa... nhân loại đang lên án cộng sản
không có nhân quyền và tự do tôn giáo... Vậy cộng sản còn đóng cửa chùa được
bao lâu nữa??? Câu:
Kể từ đời Lạc Long Quân,
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian.
Cho thấy lục
thất gian là một bước chuyển rất quan trọng.
Như vậy xét v.3
thì địa cầu 67 đã đáp ứng được.
Kết luận: địa
cầu 67 đáp ứng được 03 chuẩn: v.1; v.2; v.3 đã đề ra.
Vậy lời sấm lục
thất gian chính là tiên tri về địa cầu 67 của Thầy dạy người đạo lập ra.
@@@
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
2/- Sấm Ký Trạng Bùng về địa cầu 67.
Cụ Phùng Khắc
Khoan được gọi Trạng Bùng cũng có Bản sấm ký ông Trương Quang Gia phiên âm, ông
Nguyễn Thiên Thụ chú giải. Đăng trên trang web vietnamvanhien.net (chung một
quyển).
a/- Tiểu Sử Trạng Bùng.
Cụ Phùng Khắc
Khoan (1528-1613) sinh tại Phùng thôn (làng Bùng), xã Phùng Xá - huyện Thạch
Thất - tỉnh Hà Tây. Thân phụ ông làm quan thời Lê Sơ, và tinh thông thuật phong
thủy. Ông học với cha đến năm 16 tuổi sang Hải Dương theo học với cụ Nguyễn
Bỉnh Khiêm.
Năm 1552, ông đi
thi đỗ Tam Trường (nhà Mạc). Năm 25 tuổi (1553), ông vào Thanh Hoá, giúp nhà Lê
trung hưng. Năm 1557, ông thi Hương ở triều Lê và đỗ đầu. Ông giữ nhiều chức vụ
quan trọng trong triều Lê -Trịnh.
Năm 1597, ông
được cử làm chánh sứ dẫn đầu một sứ bộ sang triều Minh. Vua nhà Minh đặc cách
phong làm Trạng nguyên. Sau đó, ông xin về trí sĩ tại quê nhà. Ông mất năm
1613, thọ 86 tuổi. Ngoài sự nghiệp văn chương ông còn để lại bản sấm ký.
b/- Sấm ký.
Không nổi tiếng
như Sấm Trạng Trình nhưng Sấm Trạng Bùng với 887 câu vẫn lưu hành trong đời
sống Việt Thường.
Xin liệt kê một
số câu viết về lục thất gian như sau:
Câu 47-48:
Lục thất nguyệt gian
Thiên hạ thái bình.
Câu 186- 187:
Chữ thiên cơ Trời tỏ định.
Đến câu lục thất thị thái bình.
Câu 301-302:
Sấm (chữ) rằng lục thất nguyệt gian.
Ai mà nghĩ được mới gan thánh (anh) tài.
Câu 657:
Thế thường lục thất nguyệt niên gia.
Câu 684:
Niên gian lục thất tuần.
Như vậy lục thất
gian rất đặc biệt. Theo nội dung sấm ký thì nó mở ra một trang sử mới cho dân
tộc và có khả năng đem lại thái bình cho cả hoàn vũ... nên cả hai quyển Sấm Ký
đều có đề cập đến. Địa cầu 67 của ĐĐTKPĐ mới đáp ứng được (lục thất gian) của
cả 02 bản sấm.
3/- MỞ RỘNG:
a/- Ông Nguyễn Thiên Thụ viết trong Sấm
Trạng Trình Toàn Tập - www.vietnamvanhien.net
trang 142:....Theo cách tính của Phùng Khắc Khoan, năm Canh Tí (1540) là khởi
đầu trung nguyên.
Ngoài Tam nguyên
còn có Tam Kỳ. Nhiều số gia, đạo gia, trong đó có Cao Đài Giáo cho rằng từ
trước đến nay có ba thời kỳ, là nhất kỳ, nhị kỳ và tam kỳ (Tam kỳ phổ độ). Nay
nhân loại đang ở tam kỳ là thời kỳ cuối cùng.
Nhứt Kỳ Phổ Độ:
Là thời kỳ hình
thành nên các tôn giáo trên thế giới. Thượng đế đã hình thành các tôn giáo khác
nhau để phù hợp với đặc điểm đó và đã mặc khải cho các đệ tử đầu tiên thay mặt
Thượng đế để truyền đạo. Các đệ tử đó là: Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật giáo ở Ấn
Độ. Thái Thượng Đạo Tổ mở Tiên giáo ở Trung Hoa. Phục Hy khởi đầu Nho giáo ở
Trung Hoa; Thánh Moise mở Do Thái giáo ở nước Do Thái.
Nhị Kỳ Phổ Độ :
Cao Đài giáo cho
rằng sau một thời gian, các giáo lý được Thượng đế truyền dạy đã bị các tín đồ
diễn giải sai lạc. Vì vậy, Thượng đế một lần nữa đã truyền dạy cho các đệ tử
của mình ở các nơi trên thế giới, thực hiện hiện vụ chấn hưng nền đạo: Các đệ
tử đó là: Phật Thích Ca, Thái Thượng Lão Quân ,Khổng Tử , Chúa Jesus Christ ..
.
Tam kỳ Phổ độ:
Với sự phát
triển, xu hướng tất cả các tôn giáo đều hợp thành một tôn giáo duy nhất dưới
quyền cai quản Thượng đế, được Thượng đế điều hành, truyền giảng trực tiếp cho
các tín đồ thông qua hình thức cơ bút. Đó chính là đạo Cao Đài. (hết trích).
@@@
Chúng tôi xin
góp phần để mở rộng chữ lục thất gian theo nghĩa cách tính thời gian theo
ĐĐTKPĐ.
b/- Niên lịch theo Cao Đài Giáo:
Lục thất gian
còn có nghĩa là cách tính thời gian theo địa cầu 67.
Tính thời gian
theo địa cầu 67 có gì đặc biệt?
b.1/- Dương Lịch hiện nay:
Quan niệm thời
gian theo đường thẳng nên cứ tính tới.
Dương lịch đang
định một thế kỷ là 100 năm. Nhưng căn cứ vào đâu mà cho con số 100 năm? Đó chỉ
là MỘT QUI ƯỚC. Trên thực tế qui ước trên ngày nay không còn phù hợp nên Liên
Hiệp Quốc đang có dự tính làm lại lịch cho phù hợp.
b.2/- Âm Lịch hiện nay:
Quan niệm thời
gian theo chu kỳ nên lập đi lập lại theo hoa giáp. Một hoa giáp là 60 năm thì
bắt đầu một chu kỳ mới.
b.3/ Cách tính thế kỷ theo Cao Đài Giáo.
Một thế kỷ là
120 năm.
Cơ sở nào để
định vị là 120 năm?
120 là bội số
chung nhỏ nhất của Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi (10x12= 120). Cách nầy
dung hòa được hai quan điểm về thời gian của Âm lịch và Dương lịch (Đông và Tây).
Công thức tính,
đường kinh tuyến gốc, đường vĩ tuyến để định vị thế kỷ 120 đã có bố trí tại Tòa
Thánh Tây Ninh.
Quí vị quan tâm
có thể tham khảo cách tính thời gian của ĐĐTKPĐ trong quyển Huệ Kiếm Gươm Thần
Trong Nhân Thế tại trang web caodaivn.com và sắp tới là trang web tusachdaidao.
II/-
LUẬT BÙ TRỪ CỦA TẠO HÓA.
Ngày 08-12-1926
Thượng Đế dạy rằng: ...Đạo Trời mở
cho một nước tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn.
Ách nạn của dân
tộc Việt Nam lúc đó là chịu 80 năm chịu ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau 1954
đất nước bị chia đôi tạo ra cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt 20 năm. Sau ngày
30-4-1975 cả nước thành một nhà tù khổng lồ hàng mấy triệu người bỏ nước ra đi.
Hằng hà sa số thuyền nhân Việt Nam không đến đất liền được phải bỏ mình dưới
lòng đại dương. Cả dân tộc điêu đứng vì cộng sản. Kèm theo đó là cuộc chiến
tranh mười năm ở Campuchia, chiến tranh 10 năm với Tàu cộng ở biên giới phía
Bắc. Hiện nay đang bị cai trị bởi chính quyền thối nát về mọi mặt. Hèn với giặc
ác với dân... Căn cứ vào:
./- Lời dạy của
Thượng Đế.
./- Đối chiếu
với sấm ký của Trạng Trình và Trạng Bùng.
./- Lời phổ giáo
của Đức Hộ Pháp.
./- Những tù
nhân lương tâm đang bị cộng sản đày đọa...
./- Những người
thương dân, yêu nước thật sự từ Nam chí Bắc, từ trong nước đến ngoài nước đều ý
thức được hiểm họa của đất nước và đang hành động...
Chúng tôi tin
chắc rằng dân tộc sẽ vượt qua ách nạn cộng sản; cũng là ách nạn sau cùng của nòi giống lạc hồng để
bước vào thời kỳ mới.
Cộng sản ngày
nay như ngọn đèn phập phù trước những làn sóng dân chủ nhân quyền, tự do tôn
giáo ngày một mạnh mẽ. Thời đại internet
đã đem đến sức mạnh vô song cho người công nghĩa thì chủ nghĩa cộng sản bị tiêu
diệt là điều tất nhiên.
Thượng đế chọn
một nước có hoàn cảnh khó khăn và khắc nghiệt để dạy cho nước đó thực hành được
thì những nước khác thực hành được. ĐĐTKPĐ chính là phòng thí nghiệm để xác
định giá trị công thức. Việt Nam là nơi để kiểm chứng công thức của Thượng Đế.
Việt Nam thực thi được thì bất cứ môi trường nào cũng thực thi được.
Từ trong vòng nô
lệ người Mỹ đã tin vào Thượng Đế, đấu tranh để có được độc lập rồi bị nội
chiến... họ chiến đấu để vượt qua và xây dựng nên quốc gia hùng cường. Chỉ có
lòng tin thôi họ đã thành công như vậy.
Nhà bác học
Einstein viết rằng: Chúa trời không chơi
trò may rủi với thế giới này. (God does not play dice with the Universe.).
Chúng ta được
Thượng Đế chỉ dạy cách thức lập quyền dân để dân mạnh thì chắc chắn sẽ thực
hiện cuộc cách mạng: dân đức, dân trí, dân sinh thành công.
Công thức lập
quyền dân để dân mạnh là tiền đề tạo lập một thế giới mới sống trong tình
thương và công chánh... đó là nền hòa bình mà Thượng Đế đã hứa với tổ tiên nhân
loại.
Đó là luật bù trừ của tạo hóa.
...Đạo trước khi gieo truyền cho ngoại quốc
phải dìu dắt kết chặc dân sanh noi vùng Nam nầy đặng cúng nhau chung hợp trên
con đường hòa bình.... (Chơn Cực Lão Sư 18-7-1928).
|
III/- TINH THẦN HÒA BÌNH CHUNG SỐNG.
Ngày 20-7-1954
đất nước bị chia đôi, cái nạn chiến tranh nồi da xáo thịt đã bày ra trước mắt.
Ngày 26-03-1956
Đức Hộ Pháp công bố chánh sách Hòa Bình Chung Sống kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Tổng thống Ngô Đình Diệm thương lấy nòi giống thi đua nhơn nghĩa...
I/- Thống nhất
lãnh thổ và dân tộc bằng biện pháp ôn hòa.
II/- Tránh mọi
xâm phạm nội quyền Việt Nam.
III/ Xây dựng
hòa bình, hạnh phúc và tự do cho toàn dân.
|
Ngày 18-05-1956
trương cờ Hòa Bình Chung Sống ở cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải.
Ngày 08-02-1957
Hòa Bình Chung Sống đã công khai hóa trước chính phủ Ngô Đình Diệm, sứ thần
nhiều quốc gia trong buổi lễ long trọng tại Đại Đồng Xã. Chính quyền Ngô Đình
Diệm đã bắt hơn 500 người (năm trăm) sau buổi lễ.
@@@
Chúng tôi theo
tinh thần hòa bình chung sống dùng phương pháp ôn hòa để góp phần xây dựng xã
hội công bằng, bác ái. Chủ yếu là trình bày điều đúng, có thể thực hiện được để
loại trừ cái xấu, cái ác gây đau khổ cho dân lành vô tội.
Trong quá trình
tranh đấu chúng tôi chỉ ra cái ác hại của cộng sản để mọi người thấy rõ và góp
phần tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản không có nghĩa
là phải giết người theo cộng sản.
Thượng đế dạy người đạo đánh đổ cường quyền để thực
thi công lý NHƯNG Thượng Đế không có dạy giết người để thực thi công lý. Đánh đổ cường
quyền là tiêu diệt cái ác hành để xây dựng xã hội công bằng, bác ái mà không
cần phải giết người. Dùng cái ác để trị cái ác thì cái ác không bao giờ chấm
dứt. Bao nhiêu triều đại, bao nhiêu chế độ trong lịch sử đã chứng minh điều đó.
Xây dựng xã hội minh bạch, dân có đầy đủ quyền hành thì cái ác sẽ lùi dần vào
dĩ vãng.
Người làm ác
cũng là con cái Thượng Đế. Thượng Đế muốn họ sửa đổi thành người tốt chớ không
dạy giết họ cho người khác ghê sợ.
Thượng đế dạy
phụng sự nhân loại bằng tình thương, công chánh.
Hiệp đồng với
những người công nghĩa để xây dựng xã hội công bằng, nhân văn là điều phù hợp
với chủ trương xây dựng thế giới đại đồng. Người đạo trong hoàn cảnh nào cũng
thực thi tinh thần hòa bình chung sống: đem
tình thương xóa bỏ hận thù.
Kinh thánh tiên
tri rằng Sa tăng được thả ra rồi phải
chịu thua đời đời là điều có thật. Khi chúng ta xây dựng xã hội dân
mạnh, lập quyền dân. Bởi ý dân là ý
Trời mà Trời thắng Sa tăng là lẽ đương nhiên./.
HẾT.
Email: thanh.minh96@yahoo.com
MỤC
LỤC.
VIỆT
NAM ĐẠI CÁCH MẠNG.
“Cuộc
cách mạng nhơn nghĩa”.
LỜI THƯA TRƯỚC.
LỜI
TRÌNH CHÁNH VỀ TỰA CUỐN SÁCH.
THIÊN
THỨ NHẤT.
TỔNG
QUÁT VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI...
I/-
BA CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG.
1/-
Tham nhũng và lợi ích nhóm đi đến thối nát.
a/-
Những tập đoàn thua lỗ làm dân nghèo.
b/- Những tập đoàn có lời khủng khiếp làm nghèo dân.
c/-
Kinh tế lệ thuộc.
2/-
Nông dân nắm đằng lưỡi.
3/-
Chánh phủ nắm độc quyền vàng....
4./-
Chánh phủ độc quyền buôn sức lao động.
5/- Độc quyền về
đất đai.
6/-
Giáo dục.
7/-
Y tế.
8/-
Về tôn giáo.
9/- Kết quả: Xã hội bất an
II/-
HIỂM HỌA TỪ PHƯƠNG BẮC.
1/-
Lã bất Vi buôn vua.
1.1/-
Cụ Nguyễn Đình Chiểu.
1.2/-
Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên.
a/-
Tần Thủy Hoàng bản kỷ:
b/-
Truyện Lã Bất Vi.
2/-
Lã Bất Vi thế kỷ 20 hay Mao Trạch Đông nuôi Hồ Chí Minh.
3/-
Mao Bất Vi thu lời Hồ Dị Nhơn bán nước (thực tế).
4/-
Sấm Trạng Trình.
a/- Truyền thống trọng ơn.
b/- Thể hiện tính tự chủ, độc lập.
5/- Thượng Đế gọi tên nước Việt là gì?
THIÊN
THỨ HAI:
TRÌNH
BÀY HAI CÔNG THỨC
“Dân
Mạnh & Lập Quyền Dân”.
I/- CÔNG THỨC
NƯỚC GIÀU DÂN MẠNH.
1/-
Xuất xứ:
2/-
Phân tích.
2.1/-
Công thức dân giàu:
a/-
Nước Mạnh Dân Giàu:
b/-
Dân Giàu Nước Mạnh.
2.2/-
Dân Mạnh.
3/-
Kết quả của Dân Mạnh: Nước giàu.
4/-
Chứng cứ và triễn vọng.
4.1/-
Chứng cứ: Đạo đã thực hiện thành công.
a/-
Giai đoạn 1941 - 1946.
b/-
1979 đến 2014....và đủ sức đến ngày thành công.
4.2/-
Cho dân tộc Việt Nam.
4.3/-
Trên phạm vi toàn cầu.
II/-
PHƯƠNG THỨC LẬP QUYỀN DÂN.
TIẾT
MỘT: KHỞI TỪ HIẾN PHÁP.
1/-
Nhân sự trong bộ máy hành pháp.
1.1/-
Nghiêm cấm sửa đổi
1.2/-
Hiến pháp ngắn, gọn
1.3/-
Hiến pháp thì đương nhiên có giá trị thi hành.
1.4/-
Qui định rõ có bao nhiêu bậc phẩm trong bộ máy hành chánh.
1.5/- Nhiệm vụ mỗi bậc phẩm là gì. Hành sự ở đâu.
1.6/-
Mỗi bậc phẩm có bao nhiêu người.
1.7/-
Đạo phục các bậc phẩm.
1.8/-
Điều kiện thăng phẩm (phải do vạn linh công cử).
1.9/-
Pháp là công bằng, Luật là thương yêu, Quyền là công chánh.
2/-
Phân cấp hành chánh.
3/-
Nhận định chung.
TIẾT HAI: CƠ
CHẾ 03 HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH.
PHẦN MỘT: Luật
Lệ Chung Các Hội.
Ðiều
Thứ Nhì: Mở Hội.
Ðiều
Thứ Ba: Phận sự Nghị trưởng.
Ðiều
Thứ Sáu: Cách bỏ thăm.
Ðiều
Thứ Bảy: Số Nghị viên.
Ðiều
Thứ Tám: Những việc Nghị viên muốn đem ra hội.
Ðiều
Thứ Chín: Quyền bàn tính.
Ðiều
Thứ Mười: Buổi nhóm.
Ðiều
Thứ Mười Hai: Hỏi ý kiến Nghị viên.
Ðiều
Thứ Mười Bốn: Ban Uỷ Viên.
Phương
pháp Taylor.
PHẦN HAI. NỘI
LUẬT HỘI NHƠN SANH.
Ðiều
Thứ Nhất:
Ðiều
Thứ Hai:
Ðiều
Thứ Ba:
Ðiều
Thứ Tư:
Ðiều
Thứ Sáu:
Ðiều
Thứ Tám:
Ðiều
Thứ Mười Ba:
Ðiều
Thứ Mười Bốn:
THIÊN
THỨ BA:
THỰC
HIỆN CUỘC CÁCH MẠNG NHƠN NGHĨA.
I/-
HAI ĐƯỜNG HƯỚNG CÁCH MẠNG:
CHÚ
THÍCH (i)/- Đức Hộ Pháp bị đày đi Madagascar.
a/-
Cơ thử thách cuộc cách mạng NHƠN NGHĨA.
b/-
Sự khác biệt trong cách mạng ôn hòa và cách mạng vũ lực.
c/-
Sự tráo trở của Bản Án Cao Đài năm 1978.
II/- NỘI DUNG
CÁCH MẠNG.
1/-
Năm chương trình.
1.1/-
Gia cư.
1.2/-
Mưu sinh.
1.3/-
Giáo huấn.
1.4/-
Kiến thiết.
1.5/-
Tôn giáo.
a./-
Khi thường nhật:
b/-
Khi biến sự:
2/-
Ba phương diện: Dân Đức, Dân Trí và Dân Sinh.
2.1/-
Dân Đức.
2.2/-
Dân Trí.
3.3/
Dân Sinh.
III/-
BỘ MÁY HÀNH CHÁNH.
1/-
Tam quyền phân lập.
2/-
Phân cấp nhân sự: trung ương và địa phương.
2.1/-
Nhân sự trung ương.
a/-
Diện còn phải đi địa phương
b/-
Diện ở tại trung ương.
2.2/-
Nhân sự địa phương (chức việc).
2.3/-
Sự thăng phẩm.
a/-
Thăng phẩm theo hàng chức việc.
b/-
Thăng phẩm theo hàng chức sắc.
3/-
Phân cấp hành chánh.
4/-
Cửu Viện.
a/-
Phái Ngọc phụ trách 03 viện: Hòa, Lại, Lễ.
b/-
Phái Thượng phụ trách 03 viện: Học, Y, Nông.
c/-
Phái Thái phụ trách 03 viện: Hộ, Lương, Công.
5/-
Qui định chung về Luật và Quyền.
IV/-
NHỮNG NGUỒN NHÂN LỰC HỔ TRỢ.
1/-
Phước Thiện.
2/-
Phổ Tế.
3/-
Ban Thế Đạo.
4/-
Hàn Lâm Viện.
@@@
THIÊN
THỨ TƯ.
ÁP
DỤNG CHO VIỆT NAM.
“Phổ
biến sâu rộng tiêu ngữ:
Lập
Quyền Dân – Dân Mạnh”
Tổng
quát về hiến pháp.
./-
Về định nghĩa.
./-
Về hình thức.
./-
Về tính chất của hiến pháp.
Hiến
pháp nhu tính và hiến pháp cương tính.
I/-
ĐƯỜNG HƯỚNG KIẾN THIẾT HIẾN PHÁP.
1/- Phân quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2/-
Bộ máy hành pháp là quan trọng nhất...
a./-
Ấn định rõ cần có bao nhiêu cấp.
b/-
Mỗi cấp cần có bao nhiêu người.
c/-
Quyền hạn của mỗi cấp.
d/-
Phân cấp hành chánh minh bạch.
đ/-
Nhân sự trong bộ máy hành pháp.
3/-
Quyền lập pháp (của mọi công dân).
@@@
II/-
BỘ MÁY CÔNG QUYỀN.
1/-
Cấp cơ sở là Xã, Ấp.
2/-
Cấp trung ương quản lý.
2.1/-
Nhân sự Trung ương bổ đi địa phương.
2.2/-
Nhân sự ở tại trung ương.
3/-
Cơ quan trung ương.
BỘ
QUỐC PHÒNG & CẢNH SÁT.
Chế
độ quân dịch...
III/-
CƠ CHẾ LẬP QUYỀN DÂN.
1/-
Hạ viện.
Tối
thiểu phải có 06 quyền...
2/-
Cách chọn nghị viên Hạ viện.
3/-
Nơi Hội.
IV/-
HỆ THỐNG GIÁM SÁT & THANH TRA.
V/-
NHỮNG CUỘC CÁCH MẠNG CÒN DANG DỠ.
1/- Đông Âu.
2/-
Bắc Phi.
3/-
Thái Lan: Dân chủ nhờ ban phát.
IV/-
VIỆT NAM CẦN LÀM NGAY.
Phổ
biến tiêu ngữ LẬP QUYỀN DÂN – DÂN MẠNH...
LỜI
THỈNH CẦU ĐỒNG ĐẠO.
@@@
THIÊN
THỨ NĂM.
HÒA
BÌNH, DÂN CHỦ & TỰ DO.
I/-
SẤM KÝ VÀ THỰC TẾ.
1/-
Sấm Trạng Trình về Đạo lập nước và địa cầu 67.
1.1/-
Sấm Trạng Trình về Cao Đài lập quốc.
a/-
Tách riêng chữ Thầy và Tăng.
b/-
Chữ Thầy Tăng ghép chung.
1.2/-
Sấm ký Trạng Trình về địa cầu 67.
1.2.1/-
Bản cụ Nghè Bân. (có lâu đời, đưa lên net năm 2011).
1.2.2/- Bản Sở Cuồng 1930.
1.2.3/- Bản
Hương Sơn. 1950.
1.2.4/- Bản
Anh Phương. 1960.
1.2.5/- Bản
Trịnh Văn Thanh. 1966.
1.2.6/- Bản
Nguyễn Văn Sâm.
a/-
Tiền nhân giải thích.
b/-
Hậu học tham gia.
2/-
Sấm ký Trạng Bùng về địa cầu 67.
a/-
Tiểu sử Trạng Bùng.
b/-
Sấm ký.
3/-
MỞ RỘNG:
a/-
Ông Nguyễn Thiên Thụ...
b/-
Niên lịch theo Cao Đài Giáo:
b.1/-
Dương Lịch hiện nay:
b.2/-
Âm Lịch hiện nay:
b.3/
Cách tính thế kỷ theo Cao Đài Giáo.
II/- LUẬT BÙ
TRỪ CỦA TẠO HÓA.
III/-
TINH THẦN HÒA BÌNH CHUNG SỐNG.
MỤC
LỤC.
|
01
05
07
07
09
10
11
12
13
13
13
14
16
16
17
17
20
20
23
23
23
34
34
42
42
43
43
45
46
53
55
56
58
62
74
80
83
84
85
87
89
90
93
95
100
103
103
105
105
107
107
108
109
109
110
111
112
112
112
113
115
115
116
116
116
118
118
118
119
119
120
120
121
121
122
124
125
125
126
129
131
132
136
136
138.
139.
140.
|
LỜI CẢM ƠN.
Tập thể Nguyễn
Phúc Thành xin thành thật cảm ơn quí đồng đạo, quí hiền nhân quân tử góp ý và gởi tặng tài
liệu giúp chúng tôi biên soạn đề tài: VIỆT NAM ĐẠI CÁCH MẠNG.
Email:
thanh.minh96@yahoo.com
|
No comments:
Post a Comment