2
白花
一春天向夕
庭中落白花
歸圖真難覓
拍琴我狂歌
Bạch Hoa
Nhất xuân thiên hƣớng tịch
Đình trung lạc bạch hoa
Quy đồ chân nan mịch
Phách cầm ngã cuồng ca.
Hoa Trắng
Ngày xuân bóng ngả nghiêng chiều
Sân tù hoa trắng tiêu điều rụng rơi
Về quê đƣờng quá xa xôi
Vỗ đàn mà hát những lời ngang ngang.
3
白花又落
小池死水我思洋
春意消亡長恨終
衣色故人今賣了
白花又落滿庭中
Bạch Hoa Hựu Lạc
Tiểu trì tử thủy ngã tƣ dƣơng
Xuân ý tiêu vong trƣờng hận chung
Y sắc cố nhân kim mại liễu
Bạch hoa hựu lạc mãn đình trung.
Hoa Trắng Lại Rơi
Ao nhỏ nƣớc tù xui nhớ biển
Xuân tàn tình hận có tan chƣa
Áo xƣa màu cũ ngƣời rao bán
Hoa trắng sân ngoài lại đổ mƣa.
4
憶故人
誰把金杯分兩段
半沉水底半浮空
古詩
深山荒野寞孤單
面璧黃昏憶故人
不見光芒新日到
此生不妥寸丹心
遠客遠客情不斷
相思又起不能停
距離已把誰能算
中古時長溺這生
5
Ức Cố Nhân
Thùy bả kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Cổ thi
Thâm sơn hoang dã mịch cô đơn
Diện bích hoàng hôn ức cố nhân
Bất kiến quang mang tân nhật đáo
Thử sinh bất thỏa thốn đan tâm
Viễn khách! Viễn Khách! Tình bất đoạn
Tƣơng tƣ hựu khởi bất năng đình
Cự ly dĩ bả thùy năng toán
Trung cồ thời trƣờng nịch giá sinh.
Nhớ Người Xưa
Chén vàng ai xẻ làm đôi
Nửa chìm đáy nước nửa trôi chân trời
Cổ thi
Rừng sâu hoang vắng lắng cô đơn
Tựa vách hoàng hôn nhớ cố nhân
Chẳng thấy ánh hồng ngày mới đến
Kiếp nầy không thỏa tấm lòng son
6
Viễn khách! Viễn khách! Tình chẳng dứt
Tƣơng tƣ cuồn cuộn chẳng phƣơng dừng
Ai ngƣời tính hộ tầm xa cách
Trung cổ dài đêm kiếp lạnh lùng.
7
聞舊曲
牢中舊曲何人唱
外野黃光落滿山
心記太憂飛上向
懷南天有定家溫
Văn Cựu Khúc
Lao trung cựu khúc hà nhân xƣớng
Ngoại dã huỳnh quang lạc mãn sơn
Tâm ký thái ƣu phi thƣợng hƣớng
Hoài nam thiên hữu định gia ôn
Nghe Khúc Xưa
Khúc xƣa trong ngục ai vừa hát
Nắng vàng hiu hắt rụng đầy non
Sầu kia nhƣ đá, hồn bay bổng
Nhà ấm trời nam không phút quên.
8
斷腸門
生吾的父母
養育功無窮
使吾知新苦
的是斷腸門
一次入此門
知盡苦斷腸
步步更辛苦
日日接黃昏
生離和死別
此心不可容
今苦新意識
吾頭已發狂
9
新日新春日
吾識見輝光
何由還慢到
解竹部上籠
Đoạn Trường Môn
Sinh ngô đích phụ mẫu
Dƣỡng dục công vô cùng
Sử ngô tri tân khổ
Đích thị đoạn trƣờng môn
Nhất thứ nhập thử môn
Tri tận khổ đoạn trƣờng
Bộ bộ cánh tân khổ
Nhật nhật tiếp hoàng hôn
Sinh ly hòa tử biệt
Thử tâm bất khả dung
10
Kim khổ tân ý thức
Ngô đầu dĩ phát cuồng
Tân nhật tân xuân nhật
Ngô thức kiến huy quang
Hà do hoàn mạn đáo
Giải trúc bộ thƣợng lung.
Cửa Đứt Ruột
Sinh con là mẹ là cha
Dạy nuôi công ấy hiểu ra vô cùng
Khiến cho cay đắng tận tƣờng
Cõi trần chỉ có đoạn trƣờng mà thôi
Một lần đến cửa này rồi
Trăm cay ngàn đắng cảnh đời nát tan
Bƣớc từng bƣớc đau từng cơn
Ngày ngày đau tiếp hoàng hôn tiếp sầu
Ngƣời thân sống chết xa nhau
Lòng này không chứa nổi đau đớn này
11
Càng thêm khổ mới hôm nay
Đôi bờ ý thức nhƣ ngây nhƣ cuồng
Mùa xuân rực rỡ ngày xuân
Rành rành trong trí hàng hàng xuân huy
Cớ sao còn chậm trì trì
Không mau tới giải trúc vi cửa tù.
12
孝字
知盡義孝字
頭人有白絲
千里遠父母
回家不及時
老上子為下
才到意古人
遇逆境之也
朝暮心紛紛
Hiếu Tự
Tri tận nghĩa hiếu tự
Đầu nhân hữu bạch ty
Thiên lý viễn phụ mẫu
Hồi gia bất cập thì
13
Lão thƣợng tử vi hạ
Tài đáo ý cổ nhân
Ngộ nghịch cảnh chi dã
Triêu mộ tâm phân phân.
Chữ Hiếu
Hiếu kia khi hiểu nghĩa rồi
Mái đầu đã bạc qua thời thanh xuân
Mẹ cha khuất nẽo dặm ngàn
Ngày về xa quá trễ tràng dƣỡng chăm
Phận con kẻ dƣới thờ trên
Rành rành nghĩa chữ cố nhân sẵn bày
Thân này nghịch cảnh hôm nay
Sớm hôm lòng vẫn tơi bời ngổn ngang.
14
除夕感作
除夕牢中望酒樓
百方不可使忘愁
近圍朋友懷歸日
故事了終留白頭
Trừ Tịch Cảm Tác
Trừ tịch lao trung vọng tửu lâu
Bách phƣơng bất khả sử vong sầu
Cận vi bằng hữu hoài quy nhật
Cố sự liễu chung lƣu bạch đầu
Thơ Đêm Cuối Năm
Đêm cuối năm trong tù nhớ rƣợu
Trăm phƣơng không cách khiến quên sầu
Ngày về bè bạn đều mong ngóng
Chuyện cũ rồi qua để bạc đầu.
15
雨中
重山又重山
世人有野心
雨中寒飛燕
鳥憶舊巢南
Vũ Trung
Trùng san hựu trùng san
Thế nhân hữu dã tâm
Vũ trung hàn phi yến
Điểu ức cựu sào nam
Trong Mưa
Núi non cách trở chập chùng
Ngƣời đời vẫn giữ thói thƣờng dã tâm
Trong mƣa con én lạnh căm
Vẫn bay vì nhớ trời nam quê nhà.
16
Tát ao
Trời rét đậm, có gió và mƣa lất phất. Có lệnh từ K5 (K trung ƣơng)
hôm nay không lao động. Một lát sau, trại tôi đƣợc lệnh ra tát ao trƣớc
trại. Ao nầy, tôi nghĩ có là do đào đất để đắp sân trại của trại viên và sân
của cán bộ khung.
Ao khá lớn. Cũng theo tôi nghĩ, tát ao chỉ để tát ao. Để chân tay có
dịp nhúng vào nƣớc giá buốt. Hiệu quả thật, bàn tay tê cóng, đƣa tay hơ
vào lửa không còn cảm giác nóng.
Sau buổi tát ao tôi viết Vũ Trung. Cũng chính ao nầy gợi ý cho
nhiều bài thơ khác.
17
忘情
青春如風水
不送別難追
年年愁遠處
莫問由人衰
舊衣已走色
去掉篇悲哀
何人有遠覺
忘情春又來
Vong Tình
Thanh xuân nhƣ phong thủy
Bất tống biệt nan truy
Niên niên sầu viễn xứ
Mạc vấn do nhân suy
Cựu y dĩ tẩu sắc
18
Khứ điệu thiên bi ai
Hà nhân hữu viễn giác
Vong tình xuân hựu lai
Quên Tình
Tuổi xanh nƣớc cuốn gió bay
Chƣa lời từ biệt đã ngoài xa xăm
Sầu xa xứ chất thêm năm
Thôi đừng hỏi đến điêu tàn héo hon
Áo xƣa phai nhạt màu son
Bỏ đi tiếng hát nửa hồn đau thƣơng
Hỡi ai dõi mắt dặm trƣờng
Hãy quên tình cũ xuân sang nửa kìa.
19
懷江
前江和後江
狂思如情人
早午夛不盡
懷白浪東風
Hoài Giang
Tiền giang hòa Hậu giang
Cuồng tƣ nhƣ tình nhân
Tảo ngọ dạ bất tận
Hoài bạch lãng đông phong
Nhớ Sông
Ơi! Tiền giang. Hỡi! Hậu giang
Nhớ! Nhớ sao nhƣ nhớ tình nhân
Sớm trƣa chiều tối khôn nguôi nhớ
Nhớ sóng bạc đầu nhƣ gió đông.
20
白浮雲
天上白浮雲
到流何處是
故鄉時萬理
謫地望回音
天上白浮雲
到流何處是
我夙興夛寐
不明解丹心
Bạch Phù Vân
Thiên thƣợng bạch phù vân
Đáo lƣu hà xứ thị
Cố hƣơng thời vạn lý
Trích địa vọng hồi âm
21
Thiên thƣợng bạch phù vân
Đáo lƣu hà xứ thị
Ngã túc hƣng dạ mỵ
Bất minh giải đan tâm
Mây Trắng
Mây trắng trôi trời cao
Lênh đênh về xứ nao
Quê hƣơng giờ xa lắc
Đất trích ngóng tin nhau
Mây trắng trôi trời cao
Xô dạt tận phƣơng nào
Dẫu suốt đêm dài mộng
Lòng son sắt thêm đau.
22
人和鼠
人鼠同生下一家
人當受難鼠歡誇
相鄰不愛飢同二
長夛人眠鼠齒磨
Nhân Hòa Thử
Nhân thử đồng sinh hạ nhất gia
Nhân đƣơng thọ nạn thử hoan khoa
Tƣơng lân bất ái cơ đồng nhị
Trƣờng dạ nhân miên thử xỉ ma
Người Và Chuột
Ngƣời chuột sống chung một mái nhà
Ngƣời đang thọ nạn chuột vui khoe
Gần nhau chẳng thích tuy cùng đói
Đêm tối ngƣời ngơi răng chuột nhe.
23
昔江長恨
昔江風水情茫茫
此地晨昏懷望江
世事不如今日忝
長江長恨不消亡
Tích Giang Trường Hận
Tích giang phong thủy tình mang mang
Thử địa thần hôn hoài vọng giang
Thế sự bất nhƣ kim nhật thiểm
Trƣờng giang trƣờng hận bất tiêu vong
Sông xƣa gió nƣớc mênh mông
Tình xƣa dằng dặc nhƣ dòng trƣờng giang
Đất nầy khuya sớm nhớ sông
Cảnh đời bất trắc thẹn lòng riêng tây
Cuộn dòng trƣờng hận khôn nguôi.
24
寸心
世人辛苦由寒飯
一日牢中萬事難
我有寸心恒夛擾
不能明說未能行
Thốn Tâm
Thế nhân tân khổ do hàn phạn
Nhất nhật lao trung vạn sự nan
Ngã hữu thốn tâm hằng dạ nhiễu
Bất năng minh thuyết vị năng hành
Tấc Lòng
Ngƣời đời cay đắng vì cơm áo
Chỉ một ngày tù lắm khổ đau
Vƣơng vấn đêm đêm điều khó tỏ
Hẹn hò còn hẹn với mai sau.
25
讀翹傳感作
墨筆難描美麗營
翹翹招阮朱先生
同歡杯酒在心我
酒幻杯虛珍信誠
飲飲同飲真醉甚
眠眠同倚萬愁枕
夢中不見斷腸天
新日春風吹衣錦
Độc Kiều Truyện Cảm Tác
Mặc bút ban miêu mỹ lệ dinh
Kiều Kiều chiêu Nguyễn, Chu tiên sinh
Đồng hoan bôi tửu tại tâm ngã
Tửu ảo bôi hƣ trân tín thành
26
Ẩm ẩm đồng ẩm chân túy thậm
Miên miên đồng ỷ vạn sầu chẩm
Mộng trung bất kiến đoạn trƣờng thiên
Tân nhật xuân phong xuy y cẩm.
Đọc Truyện Kiều Cảm Tác
Bút trơ khó dựng cảnh lầu vàng
Kiều ơi vẫy gọi Nguyễn, Chu lang
Cùng vui chén rƣợu trong lòng nhé
Rƣợu ảo chén hƣ mồi sắt son.
Hãy rót cho nhau uống thật say
Ngủ cùng tựa gối vạn sầu đây
Trong mơ chẳng thấy đời ngang trái
Chỉ thấy ngày xuân theo gió mới
Áo gấm nhân gian phất phới bay.
__________
Nguyễn: Nguyễn Du 阮攸, tác giả truyện Kiều, chiếu thƣợng văn đàn Việt Nam.
Chu: Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh 進士朱孟楨, ông quan tài hoa, vịnh Kiều tha thiết nhất là trong
Thanh Tâm Tài Nhân Tập Tự.
27
永富舊地
前編舊地四天餘
開國雄王造基圖
故事已存中正史
幾回興廢眼前留
青山寒石白雲悠
Vĩnh Phú Cựu Địa
Tiền biên cựu địa tứ thiên dƣ
Khai quốc Hùng Vƣơng tạo cơ đồ
Cố sự dĩ tồn trung chính sử
Kỷ hồi hƣng phế nhãn tiền lƣu
Thanh sơn hàn thạch bạch vân du.
Vĩnh Phú Đất Xưa
Sách xƣa ghi chép đất này
Vua Hùng mở nƣớc dựng xây cơ đồ
Bốn ngàn năm lẻ điểm tô
Thịnh suy chính sử nƣớc nhà còn ghi
Rạch ròi trƣớc mắt còn gì
Nƣớc xanh đá lạnh mây thì trắng bay.
28
同歸
英魂俊傑萬年古
終夛同歸一此頭
天一方兮狂望酒
勞煙不可使忘愁
Đồng Quy
Anh hồn tuấn kiệt vạn niên cổ
Chung dạ đồng quy nhất thử đầu
Thiên nhất phƣơng hề cuồng vọng tửu
Lao yên bất khả sử vong sầu.
Cùng Về
Còn đây tuấn kiệt ngàn năm
Đêm nay trở lại viếng thăm đầu n
29
折字
一廾入門門自開
籠無竹上必龍來
愁心朝暮愁相發
工水長江風雨懷
Chiết Tự
Nhất củng nhập môn môn tự khai
Lung vô trúc thƣợng tất long lai
Thu tâm triêu mộ sầu tƣơng phát
Công thủy trƣờng giang phong vũ hoài
一 + 廾 + 門 = 開
籠 - 竹 = 龍
心 + 秋 = 愁
工 + 水 (氵) = 江
Chữ Phân Ra
Đƣa tay mở cửa thông rồi
Chiếc lồng không nóc bên trời rồng bay
Ý thu sầu nhớ đêm ngày
Sông dài công nƣớc vẫn hoài là sông.
30
禪
風雨掃昏天
靜坐後孤眠
得失心空外
心空不積緣
THIỀN
Phong vũ tảo hôn thiên
Tĩnh tọa hậu cô miên
Đắc thất tâm không ngoại
Tâm không bất tích duyên.
白花
一春天向夕
庭中落白花
歸圖真難覓
拍琴我狂歌
Bạch Hoa
Nhất xuân thiên hƣớng tịch
Đình trung lạc bạch hoa
Quy đồ chân nan mịch
Phách cầm ngã cuồng ca.
Hoa Trắng
Ngày xuân bóng ngả nghiêng chiều
Sân tù hoa trắng tiêu điều rụng rơi
Về quê đƣờng quá xa xôi
Vỗ đàn mà hát những lời ngang ngang.
3
白花又落
小池死水我思洋
春意消亡長恨終
衣色故人今賣了
白花又落滿庭中
Bạch Hoa Hựu Lạc
Tiểu trì tử thủy ngã tƣ dƣơng
Xuân ý tiêu vong trƣờng hận chung
Y sắc cố nhân kim mại liễu
Bạch hoa hựu lạc mãn đình trung.
Hoa Trắng Lại Rơi
Ao nhỏ nƣớc tù xui nhớ biển
Xuân tàn tình hận có tan chƣa
Áo xƣa màu cũ ngƣời rao bán
Hoa trắng sân ngoài lại đổ mƣa.
4
憶故人
誰把金杯分兩段
半沉水底半浮空
古詩
深山荒野寞孤單
面璧黃昏憶故人
不見光芒新日到
此生不妥寸丹心
遠客遠客情不斷
相思又起不能停
距離已把誰能算
中古時長溺這生
5
Ức Cố Nhân
Thùy bả kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Cổ thi
Thâm sơn hoang dã mịch cô đơn
Diện bích hoàng hôn ức cố nhân
Bất kiến quang mang tân nhật đáo
Thử sinh bất thỏa thốn đan tâm
Viễn khách! Viễn Khách! Tình bất đoạn
Tƣơng tƣ hựu khởi bất năng đình
Cự ly dĩ bả thùy năng toán
Trung cồ thời trƣờng nịch giá sinh.
Nhớ Người Xưa
Chén vàng ai xẻ làm đôi
Nửa chìm đáy nước nửa trôi chân trời
Cổ thi
Rừng sâu hoang vắng lắng cô đơn
Tựa vách hoàng hôn nhớ cố nhân
Chẳng thấy ánh hồng ngày mới đến
Kiếp nầy không thỏa tấm lòng son
6
Viễn khách! Viễn khách! Tình chẳng dứt
Tƣơng tƣ cuồn cuộn chẳng phƣơng dừng
Ai ngƣời tính hộ tầm xa cách
Trung cổ dài đêm kiếp lạnh lùng.
7
聞舊曲
牢中舊曲何人唱
外野黃光落滿山
心記太憂飛上向
懷南天有定家溫
Văn Cựu Khúc
Lao trung cựu khúc hà nhân xƣớng
Ngoại dã huỳnh quang lạc mãn sơn
Tâm ký thái ƣu phi thƣợng hƣớng
Hoài nam thiên hữu định gia ôn
Nghe Khúc Xưa
Khúc xƣa trong ngục ai vừa hát
Nắng vàng hiu hắt rụng đầy non
Sầu kia nhƣ đá, hồn bay bổng
Nhà ấm trời nam không phút quên.
8
斷腸門
生吾的父母
養育功無窮
使吾知新苦
的是斷腸門
一次入此門
知盡苦斷腸
步步更辛苦
日日接黃昏
生離和死別
此心不可容
今苦新意識
吾頭已發狂
9
新日新春日
吾識見輝光
何由還慢到
解竹部上籠
Đoạn Trường Môn
Sinh ngô đích phụ mẫu
Dƣỡng dục công vô cùng
Sử ngô tri tân khổ
Đích thị đoạn trƣờng môn
Nhất thứ nhập thử môn
Tri tận khổ đoạn trƣờng
Bộ bộ cánh tân khổ
Nhật nhật tiếp hoàng hôn
Sinh ly hòa tử biệt
Thử tâm bất khả dung
10
Kim khổ tân ý thức
Ngô đầu dĩ phát cuồng
Tân nhật tân xuân nhật
Ngô thức kiến huy quang
Hà do hoàn mạn đáo
Giải trúc bộ thƣợng lung.
Cửa Đứt Ruột
Sinh con là mẹ là cha
Dạy nuôi công ấy hiểu ra vô cùng
Khiến cho cay đắng tận tƣờng
Cõi trần chỉ có đoạn trƣờng mà thôi
Một lần đến cửa này rồi
Trăm cay ngàn đắng cảnh đời nát tan
Bƣớc từng bƣớc đau từng cơn
Ngày ngày đau tiếp hoàng hôn tiếp sầu
Ngƣời thân sống chết xa nhau
Lòng này không chứa nổi đau đớn này
11
Càng thêm khổ mới hôm nay
Đôi bờ ý thức nhƣ ngây nhƣ cuồng
Mùa xuân rực rỡ ngày xuân
Rành rành trong trí hàng hàng xuân huy
Cớ sao còn chậm trì trì
Không mau tới giải trúc vi cửa tù.
12
孝字
知盡義孝字
頭人有白絲
千里遠父母
回家不及時
老上子為下
才到意古人
遇逆境之也
朝暮心紛紛
Hiếu Tự
Tri tận nghĩa hiếu tự
Đầu nhân hữu bạch ty
Thiên lý viễn phụ mẫu
Hồi gia bất cập thì
13
Lão thƣợng tử vi hạ
Tài đáo ý cổ nhân
Ngộ nghịch cảnh chi dã
Triêu mộ tâm phân phân.
Chữ Hiếu
Hiếu kia khi hiểu nghĩa rồi
Mái đầu đã bạc qua thời thanh xuân
Mẹ cha khuất nẽo dặm ngàn
Ngày về xa quá trễ tràng dƣỡng chăm
Phận con kẻ dƣới thờ trên
Rành rành nghĩa chữ cố nhân sẵn bày
Thân này nghịch cảnh hôm nay
Sớm hôm lòng vẫn tơi bời ngổn ngang.
14
除夕感作
除夕牢中望酒樓
百方不可使忘愁
近圍朋友懷歸日
故事了終留白頭
Trừ Tịch Cảm Tác
Trừ tịch lao trung vọng tửu lâu
Bách phƣơng bất khả sử vong sầu
Cận vi bằng hữu hoài quy nhật
Cố sự liễu chung lƣu bạch đầu
Thơ Đêm Cuối Năm
Đêm cuối năm trong tù nhớ rƣợu
Trăm phƣơng không cách khiến quên sầu
Ngày về bè bạn đều mong ngóng
Chuyện cũ rồi qua để bạc đầu.
15
雨中
重山又重山
世人有野心
雨中寒飛燕
鳥憶舊巢南
Vũ Trung
Trùng san hựu trùng san
Thế nhân hữu dã tâm
Vũ trung hàn phi yến
Điểu ức cựu sào nam
Trong Mưa
Núi non cách trở chập chùng
Ngƣời đời vẫn giữ thói thƣờng dã tâm
Trong mƣa con én lạnh căm
Vẫn bay vì nhớ trời nam quê nhà.
16
Tát ao
Trời rét đậm, có gió và mƣa lất phất. Có lệnh từ K5 (K trung ƣơng)
hôm nay không lao động. Một lát sau, trại tôi đƣợc lệnh ra tát ao trƣớc
trại. Ao nầy, tôi nghĩ có là do đào đất để đắp sân trại của trại viên và sân
của cán bộ khung.
Ao khá lớn. Cũng theo tôi nghĩ, tát ao chỉ để tát ao. Để chân tay có
dịp nhúng vào nƣớc giá buốt. Hiệu quả thật, bàn tay tê cóng, đƣa tay hơ
vào lửa không còn cảm giác nóng.
Sau buổi tát ao tôi viết Vũ Trung. Cũng chính ao nầy gợi ý cho
nhiều bài thơ khác.
17
忘情
青春如風水
不送別難追
年年愁遠處
莫問由人衰
舊衣已走色
去掉篇悲哀
何人有遠覺
忘情春又來
Vong Tình
Thanh xuân nhƣ phong thủy
Bất tống biệt nan truy
Niên niên sầu viễn xứ
Mạc vấn do nhân suy
Cựu y dĩ tẩu sắc
18
Khứ điệu thiên bi ai
Hà nhân hữu viễn giác
Vong tình xuân hựu lai
Quên Tình
Tuổi xanh nƣớc cuốn gió bay
Chƣa lời từ biệt đã ngoài xa xăm
Sầu xa xứ chất thêm năm
Thôi đừng hỏi đến điêu tàn héo hon
Áo xƣa phai nhạt màu son
Bỏ đi tiếng hát nửa hồn đau thƣơng
Hỡi ai dõi mắt dặm trƣờng
Hãy quên tình cũ xuân sang nửa kìa.
19
懷江
前江和後江
狂思如情人
早午夛不盡
懷白浪東風
Hoài Giang
Tiền giang hòa Hậu giang
Cuồng tƣ nhƣ tình nhân
Tảo ngọ dạ bất tận
Hoài bạch lãng đông phong
Nhớ Sông
Ơi! Tiền giang. Hỡi! Hậu giang
Nhớ! Nhớ sao nhƣ nhớ tình nhân
Sớm trƣa chiều tối khôn nguôi nhớ
Nhớ sóng bạc đầu nhƣ gió đông.
20
白浮雲
天上白浮雲
到流何處是
故鄉時萬理
謫地望回音
天上白浮雲
到流何處是
我夙興夛寐
不明解丹心
Bạch Phù Vân
Thiên thƣợng bạch phù vân
Đáo lƣu hà xứ thị
Cố hƣơng thời vạn lý
Trích địa vọng hồi âm
21
Thiên thƣợng bạch phù vân
Đáo lƣu hà xứ thị
Ngã túc hƣng dạ mỵ
Bất minh giải đan tâm
Mây Trắng
Mây trắng trôi trời cao
Lênh đênh về xứ nao
Quê hƣơng giờ xa lắc
Đất trích ngóng tin nhau
Mây trắng trôi trời cao
Xô dạt tận phƣơng nào
Dẫu suốt đêm dài mộng
Lòng son sắt thêm đau.
22
人和鼠
人鼠同生下一家
人當受難鼠歡誇
相鄰不愛飢同二
長夛人眠鼠齒磨
Nhân Hòa Thử
Nhân thử đồng sinh hạ nhất gia
Nhân đƣơng thọ nạn thử hoan khoa
Tƣơng lân bất ái cơ đồng nhị
Trƣờng dạ nhân miên thử xỉ ma
Người Và Chuột
Ngƣời chuột sống chung một mái nhà
Ngƣời đang thọ nạn chuột vui khoe
Gần nhau chẳng thích tuy cùng đói
Đêm tối ngƣời ngơi răng chuột nhe.
23
昔江長恨
昔江風水情茫茫
此地晨昏懷望江
世事不如今日忝
長江長恨不消亡
Tích Giang Trường Hận
Tích giang phong thủy tình mang mang
Thử địa thần hôn hoài vọng giang
Thế sự bất nhƣ kim nhật thiểm
Trƣờng giang trƣờng hận bất tiêu vong
Sông xƣa gió nƣớc mênh mông
Tình xƣa dằng dặc nhƣ dòng trƣờng giang
Đất nầy khuya sớm nhớ sông
Cảnh đời bất trắc thẹn lòng riêng tây
Cuộn dòng trƣờng hận khôn nguôi.
24
寸心
世人辛苦由寒飯
一日牢中萬事難
我有寸心恒夛擾
不能明說未能行
Thốn Tâm
Thế nhân tân khổ do hàn phạn
Nhất nhật lao trung vạn sự nan
Ngã hữu thốn tâm hằng dạ nhiễu
Bất năng minh thuyết vị năng hành
Tấc Lòng
Ngƣời đời cay đắng vì cơm áo
Chỉ một ngày tù lắm khổ đau
Vƣơng vấn đêm đêm điều khó tỏ
Hẹn hò còn hẹn với mai sau.
25
讀翹傳感作
墨筆難描美麗營
翹翹招阮朱先生
同歡杯酒在心我
酒幻杯虛珍信誠
飲飲同飲真醉甚
眠眠同倚萬愁枕
夢中不見斷腸天
新日春風吹衣錦
Độc Kiều Truyện Cảm Tác
Mặc bút ban miêu mỹ lệ dinh
Kiều Kiều chiêu Nguyễn, Chu tiên sinh
Đồng hoan bôi tửu tại tâm ngã
Tửu ảo bôi hƣ trân tín thành
26
Ẩm ẩm đồng ẩm chân túy thậm
Miên miên đồng ỷ vạn sầu chẩm
Mộng trung bất kiến đoạn trƣờng thiên
Tân nhật xuân phong xuy y cẩm.
Đọc Truyện Kiều Cảm Tác
Bút trơ khó dựng cảnh lầu vàng
Kiều ơi vẫy gọi Nguyễn, Chu lang
Cùng vui chén rƣợu trong lòng nhé
Rƣợu ảo chén hƣ mồi sắt son.
Hãy rót cho nhau uống thật say
Ngủ cùng tựa gối vạn sầu đây
Trong mơ chẳng thấy đời ngang trái
Chỉ thấy ngày xuân theo gió mới
Áo gấm nhân gian phất phới bay.
__________
Nguyễn: Nguyễn Du 阮攸, tác giả truyện Kiều, chiếu thƣợng văn đàn Việt Nam.
Chu: Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh 進士朱孟楨, ông quan tài hoa, vịnh Kiều tha thiết nhất là trong
Thanh Tâm Tài Nhân Tập Tự.
27
永富舊地
前編舊地四天餘
開國雄王造基圖
故事已存中正史
幾回興廢眼前留
青山寒石白雲悠
Vĩnh Phú Cựu Địa
Tiền biên cựu địa tứ thiên dƣ
Khai quốc Hùng Vƣơng tạo cơ đồ
Cố sự dĩ tồn trung chính sử
Kỷ hồi hƣng phế nhãn tiền lƣu
Thanh sơn hàn thạch bạch vân du.
Vĩnh Phú Đất Xưa
Sách xƣa ghi chép đất này
Vua Hùng mở nƣớc dựng xây cơ đồ
Bốn ngàn năm lẻ điểm tô
Thịnh suy chính sử nƣớc nhà còn ghi
Rạch ròi trƣớc mắt còn gì
Nƣớc xanh đá lạnh mây thì trắng bay.
28
同歸
英魂俊傑萬年古
終夛同歸一此頭
天一方兮狂望酒
勞煙不可使忘愁
Đồng Quy
Anh hồn tuấn kiệt vạn niên cổ
Chung dạ đồng quy nhất thử đầu
Thiên nhất phƣơng hề cuồng vọng tửu
Lao yên bất khả sử vong sầu.
Cùng Về
Còn đây tuấn kiệt ngàn năm
Đêm nay trở lại viếng thăm đầu nầy
Một phƣơng nhớ rƣợu cần say
Thuốc lào không thể mảy may quên sầu.
29
折字
一廾入門門自開
籠無竹上必龍來
愁心朝暮愁相發
工水長江風雨懷
Chiết Tự
Nhất củng nhập môn môn tự khai
Lung vô trúc thƣợng tất long lai
Thu tâm triêu mộ sầu tƣơng phát
Công thủy trƣờng giang phong vũ hoài
一 + 廾 + 門 = 開
籠 - 竹 = 龍
心 + 秋 = 愁
工 + 水 (氵) = 江
Chữ Phân Ra
Đƣa tay mở cửa thông rồi
Chiếc lồng không nóc bên trời rồng bay
Ý thu sầu nhớ đêm ngày
Sông dài công nƣớc vẫn hoài là sông.
30
禪
風雨掃昏天
靜坐後孤眠
得失心空外
心空不積緣
THIỀN
Phong vũ tảo hôn thiên
Tĩnh tọa hậu cô miên
Đắc thất tâm không ngoại
Tâm không bất tích duyên.
THIỀN
Mƣa gió qua rồi trời mới tạnh
Ngồi yên lòng yên sau giấc yên
Đƣợc mất có không, không vƣớng bận,
Lòng không, không chứa cả không duyên.
31
問花
春春又春林有花
牢中遠處使懷家
春風得意蓮相笑
改造長天情恨多
Vấn Hoa
Xuân xuân hựu xuân lâm hữu hoa
Lao trung viễn xứ sử hoài gia
Xuân phong đắc ý liên tƣơng tiếu
Cải tạo trƣờng thiên tình hận đa
Hỏi Hoa
Mùa xuân rồi lại mùa xuân
Cây rừng xanh lá thêm lần trổ hoa
Tù xa nhung nhớ mái nhà
Gió xuân đắc ý sen cƣời gió xuân
Chuyện tình cải tạo gian truân.
32
志
今時身獄中
志恒在天里
誰人知騏驥
誰人知鵠鴻
CHÍ
Kim thời thân ngục trung
Chí hằng tại thiên lý
Thùy nhân tri kỳ ký
Thùy nhân tri hộc hồng
CHÍ
Tấm thân giam hảm trong tù
Chí còn vƣơng vấn tít mù xa khơi
Hộc hồng bay chín tầng trời
Còn Kỳ con Ký ai ngƣời biết cho.
33
相應
家中有英雄
前門豪傑到
今時身獄中
夛見故朋友
Tương Ứng
Gia trung hữu anh hùng
Tiền môn hào kiệt đáo
Kim thời thân ngục trung
Dạ kiến cố bằng hữu
Tương Ứng
Trong nhà có chủ anh hùng
Ngoài sân hào kiệt bốn phƣơng đến tìm
Thân dù giam hãm xà lim
Đêm từng đêm vẫn từng đêm bạn về.
34
贈黎桂林
百折千磨不擾心
雍容桂樹立中林
青青木葉如松柏
人世病多的桂尋
Tặng Lê Quế Lâm
Bách chiết thiên ma bất nhiễu tâm
Ung dung quế thụ lập trung lâm
Thanh thanh mộc diệp nhƣ tùng bách
Nhân thế bệnh đa đích quế tầm.
Tặng Lê Quế Lâm
Trăm đắng ngàn cay không đổi tâm
Giữa rừng cây quế dáng ung dung
Xanh xanh thân lá nhƣ tùng bách
Lắm bệnh ngƣời ơi cứ quế tầm.
35
贈阮尋先生
西貢昔年聞你名
牢中永富我知兄
山河舊地同心事
經緯丹青將作成
Tặng Nguyễn Tầm Tiên Sinh
Tây Cống tích niên văn nễ danh
Lao trung Vĩnh Phú ngã tri huynh
Sơn hà cựu địa đồng tâm sự
Kinh vĩ đan tâm tƣơng tác thành.
Tặng Nguyễn Tầm Tiên Sinh
Sài gòn ngày trƣớc đã nghe danh
Vĩnh Phú tù chung tôi gặp anh
Ôn chuyện núi sông càng đắc ý
Hẹn cùng chung sức góp thêm lòng.
36
贈黃河先生
語義分明的老詩
人人仰慕已多時
文章會試皆元唱
海外黃河名不疑
Tặng Hoàng Hà Tiên Sinh
Ngữ nghĩa phân minh đích lão thi
Nhân nhân ngƣỡng mộ dĩ đa thì
Văn chƣơng hội thí giai nguyên xƣớng
Hải ngoại Hoàng Hà danh bất nghi.
Tặng Hoàng Hà Tiên Sinh
Rạch ròi ngữ nghĩa vốn thơ ông
Ngƣỡng mộ hào hùng dọi sáng gƣơng
Góp tiếng văn chƣơng đều giải nhất
Hoàng Hà hải ngoại tiếng vang lừng.
Seattle 2017
37
颱
窗外忽落雪
白色滿目中
窗內相思起
內外已相同
Đài
Song ngoại hốt lạc tuyết
Bạch sắc mãn mục trung
Song nội tƣơng tƣ khởi
Nội ngoại dĩ tƣơng đồng
Bão
Ngoài kia bão tuyết rơi mau
Đất trời trắng xóa một màu nở hoa
Nhớ nhung chất ngất trong ta
Trong ngoài cũng bão cao xa mịt mùng.
Seattle, 01/01/2004
閣夛
歲暮陰陽催短景
天涯霜雪霽寒宵
五更鼓角聲悲壯
三峽星河影動搖
野哭幾家聞戰伐
夷歌數處起漁樵
臥龍躍馬終黃土
人事依依漫寂寥
Các Dạ
Tuế mộ âm dƣơng thôi đoản cảnh
Thiên nhai sƣơng tuyết tế hàn tiêu
Ngũ canh cổ giốc thanh bi tráng
Tam Giáp tinh hà ảnh động diêu
Dã khốc kỷ gia văn chiến phạt
Di ca sổ xứ khởi ngƣ tiều
Ngoạ long dƣợc mã chung hoàng thổ
Nhân sự y y mạn tịch liêu
61
Đêm Trên Gác
Năm tận tháng cùng ngày giục giã
Chân trời tuyết nhuộm bớt hơi sƣơng
Năm canh kèn trống vang bi tráng
Ba kẽm sao hà động bóng rung
Tiếng khóc thôn quê chinh chiến vọng
Lời ca hoang dã ngƣ tiều chung
Rồng nằm ngựa nhảy trơ vàng đất
Thế sự tăm hơi vắng bặt cùng.
62
晚情
村晚驚風度
庭幽過雨沾
夕陽薰細草
江色映疏簾
書亂誰能帙
杯幹可自添
時聞有餘論
未怪老夫潛
Vãn Tình
Thôn vãn kinh phong độ,
Đình u quá vũ triêm.
Tịch dƣơng huân tế thảo,
Giang sắc ánh sơ liêm.
Thƣ loạn thùy năng trật,
Bôi can tự khả thiêm.
Thì văn hữu dƣ luận,
Vị quái lão phu tiềm.
63
Chiều Tạnh
Gió tạt chiều thôn quạnh
Mƣa lênh láng sân tênh
Nắng nghiêng hong mịn cỏ
Sông hắt ánh thƣa mành
Sách loạn ai thu vén
Ly vơi mình chuốc mình
Lời bên tai loáng thoáng
Ông cả quỷnh dơ hình.
64
Càn Nguyên Trung Ngụ Cư Đồng Cốc Huyện Tác Ca
乾元中寓居同谷縣作歌
其一
有客有客字子美
白頭亂髮垂過耳
歲拾橡慄隨狙公
天寒日暮山谷裏
中原無書歸不得
手腳凍皴皮肉死
嗚呼一歌兮歌已哀
悲風為我從天來
Hữu khách hữu khách tự Tử Mỹ
Bạch đầu loạn phát thùy quá nhĩ
Tuế thập tƣợng lật tùy thƣ công
Thiên hàn nhật mộ sơn cốc lý
Trung nguyên vô thƣ quy bất đắc
Thủ cƣớc đống thuân bì nhục tử
Ô hô! Nhất ca hề ca dĩ ai
Bi phong vị ngã tòng thiên lai
65
Có khách. Có khách tên Tử Mỹ
Tóc phủ quá tai, sợi bạc rũ
Theo ngƣời nuôi vƣợn lƣợm dẻ quanh
Trời rét chiều tà vào hang nghỉ
Trung Nguyên tin vắng không về đƣợc
Da thịt tê, tay chân cóng buốt
Ôi! Hát một bài giọng xót xa
Gió trời buồn thổi cảm lòng ta.
其二
長鑱長鑱白木柄
我生托子以為命
黃精無苗山雪盛
短衣數挽不掩脛
此時與子空歸來
男呻女吟四壁靜
嗚呼二歌兮歌始放
鄰里為我色惆悵
66
II
Trƣờng sàm, trƣờng sàm bạch mộc bính
Ngã sinh thác tử dĩ vi mệnh
Hoàng tinh vô miêu, sơn tuyết thịnh
Đoản y sác vãn bất yểm hĩnh
Thử thì dữ tử không quy lai
Nam thân nữ ngâm tứ bích tĩnh
Ô hô! Nhị ca hề, ca thuỷ phóng
Lân lý vị ngã sắc trù trƣớng.
Thuổng dài. Thuổng dài cán gỗ thẳng
Ta cậy nhờ mi mà sống đặng
Khoai núi lụi mầm tuyết núi lan
Kéo hoài áo cộc không kín chân
Cùng mi về lại hai tay trắng
Trai gái đói rên bên vách lặng
Ôi, hát bài hai, vừa mới hát
Làng xóm vì ta mặt tẻ ngắt.
67
其三
有弟有弟在遠方
三人各瘦何人強
生別展轉不相見
胡塵暗天道路長
前飛鴐鵝後鶖鶬
安得送我置汝旁
嗚呼三歌兮歌三發
汝歸何處收兄骨
III
Hữu đệ, hữu đệ tại viễn phƣơng
Tam nhân các sấu, hà nhân cƣờng
Sinh biệt triển chuyển bất tƣơng kiến
Hồ trần ám thiên đạo lộ trƣờng
Tiền phi giá nga, hậu thu thƣơng
An đắc tống ngã tại nhữ bàng
Ô hô! Tam ca hề, ca tam phát
Nhữ quy hà xứ thu huynh cốt.
68
Em trai, em trai ở chốn xa
Mạnh khỏe gì đâu gầy cả ba
Biệt ly trằn trọc không lần gặp
Bụi hồ mù mịt khuất nẻo ra
Rong ruổi chim trời cùng nhạn qua
Có đƣa ta tới với em ta
Ôi hát bài ba, ba lần hát
Các em về. Biết đâu nhặt xƣơng anh nát.
其四
有妹有妹在鐘離
良人早沒諸孤痴
長淮浪高蛟龍怒
十年不見來何時
扁舟欲往箭滿眼
杳杳南國多旌旗
嗚呼四歌兮歌四奏
林猿為我啼清晝
69
IV
Hữu muội, hữu muội tại Chung Ly
Lƣơng nhân tảo một, chƣ cô si
Trƣờng Hoài lãng cao, giao long nộ
Thập niên bất kiến lai hà thì?
Biên chu dục vãng, tiễn mãn nhãn
Diễu diểu Nam quốc đa tinh kỳ
Ô hô! Tứ ca hề, tứ ca tấu,
Lâm viên vị ngã đề thanh trú.
Em gái, em gái ở Chung Ly
Chồng mất sớm, con thơ biết chi
Sông Hoài sóng cả thuồng luồng dữ
Mƣời năm biền biệt bóng em đi
Muốn vƣợt thuyền thăm, tên đạn khắp
Cõi nam rầm rập bóng tinh kỳ
Ôi hát bốn bài, bốn phen hát
Vƣợn núi vì ta trỗi giọng bi.
70
其五
四山多風溪水急
寒雨颯颯枯樹濕
黃蒿古城雲不開
白狐跳梁黃狐立
我生何為在窮谷
中夛起坐萬感集
嗚呼五歌兮歌正長
魂招不來歸故鄉
V
Tứ sơn đa phong, khê thuỷ cấp
Hàn vũ táp táp, khô thụ thấp
Hoàng cao cổ thành vân bất khai
Bạch hồ khiêu lƣơng, hoàng hồ lập
Ngã sinh hà vi tại cùng cốc
Trung dạ khởi toạ, vạn cảm tập
Ô hô! Ngũ ca hề, ca chính trƣờng
Hồn chiêu bất lai, quy cố hƣơng.
71
Gió núi bốn bề khe nƣớc dập
Cây khô ƣớt đẫm, mƣa sầm sập
Thành xƣa rợp cỏ mịt mù mây
Chồn trắng nhảy cầu chồn vàng nấp
Đời ta sao ở chốn hang nầy
Nửa đêm ngồi dậy ý dồn dập
Ôi hát năm bài, lời lê thê
Hồn gửi quê xa, gọi chẳng về.
其六
南有龍兮在山湫
古木巃嵸枝相樛
木葉黃落龍正蟄
蝮蛇東來水上遊
我行怪此安敢出
拔劍欲斬且復休
嗚呼六歌兮歌思遲
溪壑為我回春姿
72
VI
Nam hữu long hề tại sơn thu
Cổ mộc lung tung chi tƣơng cù
Mộc diệp hoàng lạc long chính trập
Phục xà đông lai thuỷ thƣợng du
Ngã hàng quái thử, an cảm xuất
Bạt kiếm dục trảm thả phục hƣu
Ô hô! Lục ca hề, ca tứ trì
Khê hác vị ngã hồi xuân tƣ.
Cõi nam rồng nấp núi đầm cao
Cổ thụ ngất trời cành nhánh giao
Lá cây úa rụng rồng cuộn khúc
Lƣợn lờ mặt nƣớc rắn đông xao
Đến xứ lạ lùng, ta chịu lép
Rút dao toan chém, ta buông dao
Ôi hát sáu bài, hát chậm dần
Khe suối vì ta gợi nét xuân.
73
其七
男兒生不成名身已老
三年飢走荒山道
長安卿相多少年
富貴應須致身早
山中儒生舊相識
但話宿昔傷懷抱
嗚呼七歌兮悄終曲
仰視皇天白日速
VII
Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão
Tam niên cơ tẩu hoang sơn đạo
Trƣờng An khanh tƣớng đa thiếu niên
Phú quý ƣng tu trí thân tảo
Sơn trung nho sinh cựu tƣơng thức
Đãn thoại túc tích thƣơng hoài bão
Ô hô! Thất ca hề, tiễu chung khúc
Ngƣỡng thị hoàng thiên bạch nhật tốc.
74
Danh trai chƣa thỏa thân đà lão
Ba năm ở núi thiếu cơm áo
Trƣờng An khanh tƣớng bọn trẻ trung
Vì sang giàu sớm đem thân chen
Bọn nho xƣa nay ở núi cùng
Chuyện cũ từng bàn thƣơng hoài bão
Ô hát bảy bài, khúc sầu dứt
Ngẩng trông trời rộng, ngày trôi vút.
75
Bạch Cư Dị
白居易
(772-846)
Bạch Cƣ Dị tự Lạc Thiên, hiệu Hƣơng Sơn Cƣ Sĩ, sinh năm Đại
Lịch thứ 7 (772), tại Huỳnh Dƣơng, huyện Tân Trịnh (Hà Nam).
Thông minh từ nhỏ. Năm 802 thi đỗ Tiến sĩ. Năm sau cùng
Nguyên Chẩn thi đỗ Bạt Tụy Giáp Khoa. Hai ông thƣờng cùng nhau
xƣớng họa. Tính trung thực, gặp chuyện dám nói thẳng, không ngại
mếch lòng vua và các quan đại thần. Do đó ông bị biếm làm Tƣ mã
Giang Châu trong thời gian từ năm 815 đến 818.
Bài thơ trƣờng thiên Tỳ Bà Hành đƣợc viết trong thời gian nầy.
Ông về hƣu với hàm Hình Bộ Thƣợng Thƣ năm 845 và mất năm
846.
76
春題湖上
湖上春來似畫圖
亂峰圍繞水平鋪
鬆排山面千重翠
月點波心一顆珠
碧毯線頭抽早稻
青羅裙帶展新蒲
未能拋得杭州去
一半勾留是此湖
Xuân Đề Hồ Thượng
Hồ thƣợng xuân lai tự họa đồ
Loạn phong vi nhiễu thủy bình phô
Tùng bài sơn diện thiên trùng thúy
Nguyệt điểm ba tâm nhất khỏa châu
Bích thảm tuyến đầu trừu tảo đạo
Thanh la quần đái triển tân bồ
Vị năng phao đắc Hàng Châu khứ
Nhất bán câu lƣu thị thử hồ
77
Mùa Xuân Đề Thơ Trên Hồ
Hồ xuân phong cảnh tựa tranh tô
Nƣớc phẳng núi quanh in lố nhô
Ngàn lớp thông bày sƣờn núi biếc
Hòn châu ánh dọi sóng trăng xô
Tơ nhung lúa mới chen nền thắm
Lộc nhú lau trồi dải lụa phô
Chƣa dứt Hàng Châu dời chân bƣớc
Nửa phần níu giữ chính do hồ.
Xuân vẽ mặt hồ tựa bức tranh
Núi vây lởm chởm nƣớc gƣơng in
Thông bày ngàn lớp sƣờn non biếc
Trăng dọi sóng đầu chuỗi ngọc lanh
Lúa mới phô nhung dằn thảm thắm
Lau tƣơi nẩy lộc dải tơ thanh
Hàng Châu chƣa dứt dời chân bƣớc
Phân nửa vƣơng hồ nấn níu quanh.
78
池上
小娃撐小艇
偷採白蓮回
不解藏蹤跡
浮萍一道開
Trì Thượng
Tiểu oa sanh tiểu đỉnh,
Thâu thái bạch liên hồi.
Bất giải tàng tung tích,
Phù bình nhất đạo khai.
Trên Ao
Thuyền con gái nhỏ chống
Sen trắng trộm mang về
Dấu hớ hênh không lấp
Mặt bèo rẽ lối đi.
79
池畔
結構池西廊
疏理池東樹
此意人不知
欲為待月處
Trì Bạn
Kết cấu trì tây lang
Sơ lý trì đông thụ
Thử ý nhân bất tri
Dục vi đãi nguyệt xứ.
Bên Bờ Ao
Bờ tây ao dựng nhà
Bờ đông trồng cây thƣa
Ý ấy nào ai biết
Dành chỗ đợi trăng mà.
80
夛雨
早蛩啼複歇
殘燈滅又明
隔窗知夛雨
芭蕉先有聲
Dạ Vũ
Tảo cung đề phục yết,
Tàn đăng diệt hựu minh.
Cách song tri dạ vũ,
Ba tiêu tiên hữu thanh.
Mưa Đêm
Dế sớm kêu rồi lặng
Đèn mờ lóe chợt lên
Biết mƣa đêm lộp độp
Trên lá chuối đầu tiên.
81
早秋獨夛
井梧涼葉動
鄰杵秋聲發
獨向檐下眠
覺來半床月
Tảo Thu Độc Dạ
Tỉnh ngô lƣơng diệp động
Lân chử thu thanh phát
Độc hƣớng thiềm hạ miên
Giác lai bán sàng nguyệt.
Đêm Cô Đơn Đầu Thu
Lá hạnh rung bên giếng
Chày thu vang vọng tiếng
Ra hiên ngủ một mình
Tỉnh, nửa giƣờng trăng chiếm.
82
長安正月十五日
喧喧車騎帝王州
羈病無心逐勝遊
明月春風三五夛
萬人行樂一人愁
Trường An Chính Nguyệt Thập Ngũ Nhật
Huyên huyên xa kỵ đế vƣơng châu,
Ky bệnh vô tâm trục thắng du.
Minh nguyệt xuân phong tam ngũ dạ,
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.
Trường An Ngày Rằm Tháng Giêng
Rộn ràng xe ngựa chốn vƣơng châu
Nào thiết rong chơi, đất khách đau
Gió mát đêm rằm trăng sáng tỏ
Muôn ngƣời vui vẻ, lẻ loi sầu.
83
曲江憶元九
春來無伴閒遊少
行樂三分減二分
何況今朝杏園裡
閒人逢盡不逢君
Khúc Giang Ức Nguyên Cửu
Xuân lai vô bạn nhàn du thiểu ,
Hành lạc tam phân giảm nhị phân.
Hà huống kim triêu hạnh viên lý,
Nhàn nhân phùng tận bất phùng quân.
Ở Sông Khúc Nhớ Nguyên Cửu
Xuân về không bạn dong chơi ít
Vui thú ba phần giảm bớt hai
Huống nữa sớm này trong ngõ hạnh
Bạn thời chẳng gặp, gặp ai ai.
84
白雲泉
天平山上白雲泉
雲自無心水自閑
何必奔衝山下去
更添波浪向人間
Bạch Vân Tuyền
Thiên Bình sơn thƣợng Bạch Vân tuyền
Vân tự vô tâm thủy tự nhàn
Hà tất bôn xung sơn hạ khứ
Cánh thiêm ba lãng hƣớng nhân gian.
Suối Bạch Vân
Núi Thiên Bình có suối Bạch Vân
Mây vốn vô tâm, nƣớc vốn nhàn
Hà cớ lao nhanh từ núi xuống
Dồn thêm sóng dội cõi nhân gian.
85
秋思
夕照紅于燒
晴空碧勝藍
獸形雲不一
弓勢月初三
雁思來天北
砧愁滿水南
蕭條秋氣味
未老已深諳
Thu Tứ
Tịch dƣơng hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất nhất
Cung thế nguyệt sơ tam
Nhạn tứ lai thiên bắc
Châm sầu mãn thuỷ nam
Tiêu điều thu khí vị
Vị lão dĩ thâm am
Ý Thu
Ánh chiều hồng hơn lửa
Trời trong, biếc lấn lam
Mây thay hình đổi dạng
Trăng mới dáng cánh cung
Nhạn nhớ nhung trời bắc
Chày buồn vang sông nam
Não nùng thu chứ nhỉ
Chƣa lão đã lao lung.
重陽蓆上賦白菊
滿園花菊鬱金黃
中有孤叢色白霜
還似今朝歌舞席
白頭翁入少年場
Trùng Dương Tịch Thượng Phú Bạch Cúc
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng
Trung hữu cô tùng sắc bạch sƣơng
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trƣờng.
Trên Bàn Tiệc Ngày Trùng Dương Vịnh Cúc Trắng
Giữa vƣờn cúc rực sắc hoa vàng
Nỗi khóm lẻ loi trắng tợ sƣơng
Nào khác sáng nay trong tiệc rƣợu
Đầu xanh rộn đám, trắng riêng ông.
87
邯鄲冬至夛思家
邯鄲驛裡逢冬至
抱膝燈前影伴身
想得家中深夛坐
還應說著遠行人
Hàm Đan Đông Chí Dạ Tư Gia
Hàm Đan dịch lý phùng đông chí
Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân
Tƣởng đắc gia trung thâm dạ tọa
Hoàn ƣng thuyết trƣớc viễn hành nhân.
Đêm Đông Chí Ở Hàm Đan Nhớ Nhà
Hàm Đan trạm, tiết đông chí
Bó gối ngồi, bóng ví với ta
Tƣởng đêm xum họp cả nhà
Còn đang nhắc nhở kẻ xa dặm ngàn.
88
思婦眉
春風搖蕩自東來
折盡櫻桃綻盡梅
唯餘思婦愁眉結
無限春風吹不開
Tư Phụ My
Xuân phong dao đãng tự đông lai
Chiết tận anh đào trán tận mai
Duy dƣ tƣ phụ sầu mi kết
Vô hạn xuân phong xuy bất khai
Từ đông phơi phới gió xuân bay
Ngắt sạch anh đào, nở rộ mai
Riêng nàng nhíu nhớ sầu mi kết
Thổi bấy xuân ơi mày chẳng lay.
89
臨江送夏瞻
悲君老別淚沾巾
七十無家萬里身
愁見舟行風又起
白頭浪裡白頭人
Lâm Giang Tống Hạ Tiêm
Bi quân lão biệt lệ triêm cân
Thất thập vô gia vạn lý thân
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân
Ra Sông Đưa Tiễn Hạ Tiêm
Thƣơng ngùi giả biệt lệ dầm khăn
Bảy chục lênh đênh nhà cửa không
Dõi mắt thuyền tung sầu cuộn gió
Bạc đầu sóng dập bạc đầu ông.
90
Phân Tích Bài Khúc Giang
Khúc giang gồm 2 bài:
Bài 1:
Câu 1 và 2 (mở), tuổi trẻ nhƣ chiếc hoa nở, tàn lụi nhanh chóng.
Câu 3 và 4 (thực): Hãy tận hƣởng cuộc đời bằng cách cứ uống
rƣợu và xem hoa cho đến khi no chán.
Cần phân biệt, hoa ở câu (1) là hoa tàn lụi, Hoa ở câu (3) là hoa
tƣơi thắm.
Câu 5 và 6 (luận), đời ngƣời rốt cuộc dẫu cho nghèo hay giàu cũng
đều ra nằm với muông thú.
“Tiểu đƣờng” phải hiểu là mả nhỏ,
Câu 7 và 8 (kết) cuộc đời nên vui thú, chớ màng danh hão.
Đại ý của bài (1): Sống ở đời nên hành lạc 行樂.
Dàn ý rất chặt chẽ, chữ và nghĩa biến hóa. Chữ “Hoa” ở câu 1 khác
với “Hoa” ở câu 3. Chữ “Vạn” biến thành nhiều vạn vì chiếc hoa có
nhiều cánh. Đƣờng nhà biến thành mả.
Bài 2:
Câu 1 và 2 (mở), sau mỗi buổi chầu vua tan thì đem áo xuân (áo
quý) cầm cố ngay để lấy tiền mua rƣợu uống cho đến khi lƣớt khƣớt say.
Câu 3 và 4 (thực); Cuộc đời ngắn ngủi.
Câu 5 và 6 (luận), câu 5 đề cập chuyện bƣớm hoa. Trong văn
chƣơng khi nói đến bƣớm hoa là ngụ ý nói đến phong tình. Câu 6 dem
đuôi chuồn chuồn chấm chấm…mặt nƣớc để nói chuyện phong tình (chỉ
có ở Đỗ Phủ).
91
Tác giả dùng cặp đôi Bƣớm + Hoa, Đuôi chuồn + Mặt nƣớc, để ám
chỉ chuyện phong tình của động vật.
Câu 7 và 8 (kết) là 2 câu khó dịch nhất của bài “Khúc Giang”.
“Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi”
傳語風光兯流轉
暫時相賞莫相違
Truyền ngữ: lời nhắn
Phong quang: quang cảnh, phong cảnh
Cộng: với
Lƣu chuyển: di chuyển, lƣu động
Phong quang là danh từ, còn lƣu chuyển là danh từ hay động từ?
Bản dịch của Tản Đà:
“Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi”
Thay đổi là động từ của chủ từ thay đổi.
Bản dịch của Nhƣợng Tống
“Phong quang nhắn bảo cùng trôi chuyển”
Trôi chuyển có vẻ nhƣ là 1 danh từ.
Bản dịch của Khƣơng Hữu Dụng:
“Quang cảnh nhắn cho thường biến đổi”
Biến đổi là động từ.
92
Bản dịch của Lê Nguyễn Lƣu:
“Xin nhắc: tháng năm trôi mãi mãi”
Phong quang và lƣu chuyển biến mất, chỉ giữ lại ý.
Nếu hiểu “lƣu chuyển” là động từ, câu thơ chuyển sang Việt ngữ
suông sẻ, dễ hiểu hơn.
Câu 8 là câu kết của Khúc Giang kỳ 2 cũng là kết của toàn bài
Khúc Giang 1 và Khúc Giang 2.
“Tạm thời tương thưởng mạc tương vi”
Tóm lại đai ý bài Khúc Giang 1 là hành lạc 行樂,
Đại ý bài Khúc Giang 2 là Tƣơng thƣởng mạc tƣơng vi 相賞,莫
相違
Bài 1 đại ý là hành lạc, bài 2 kết tƣơng thƣởng, mạc tƣơng vi, năm
chữ nầy đã giải nghĩa rõ ràng chữ “hành lạc”.
Cách hành văn có trên hô dƣới ứng. Trong phong tình của con
ngƣời thƣờng liên quan đến nam nữ. Để bao gồm ái nam, ái nữ, ta quy là
A và B.
Tƣơng thƣởng: A thƣởng cho B
B thƣởng cho A,
hay enjoy each other
“mạc tương vi”
Ví có 3 nghĩa:
(1) Trái ngƣợc,
(2) Xa cách, xa lìa
93
(3) Lầm lỗi
Vậy “mạc tương vi”:
A không trái, không xa cách, không lầm lỗi với B,
B không trái, không xa cách, không lầm lỗi với A,
Có nghĩa là A không nói và hành động trái B,
B không nói và hành động trái A,
Ngắn gọn:
A không say no với B
B không say no với A.
Nhƣ thế “ tƣơng thƣởng, mạc tƣơng vi” có nghĩa là enjoy each
other, don’t say no each other.
“Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển”
Trƣớc câu 7 nầy, ở câu 5 và 6 (luận), tác giả dùng cặp đôi bƣớm
hoa và cặp đôi đuôi chuồn, mặt nƣớc để nói chuyện phong tình, cho nên
theo thiển ý của ngƣời viết bài nầy, tác giả Đỗ Phủ dùng cặp đôi phong
quang và lƣu chuyển để cho biết tác giả vẫn nói chuyện phong tình. Chủ
ngữ ở phía trƣớc cho biết chuyện phong tình đề cập ở đây là chuyện
phong tình của con ngƣời.
Phong quang, lƣu chuyển là tác giả lƣu ý ngƣời đọc xem lại phong
quang và lƣu chuyển mà tác giả đã viết trong 2 bài Khúc Giang.
Bây giờ hãy xem qua cách hành văn:
Chữ “cộng” làm cho hơi thơ bị ngắt, bị dừng đột ngột. Chữ “lƣu”
thất niêm.
94
Bằng cách này tác giả muốn ngƣời đọc chú ý đến điểm quan trọng
sắp trình bày, điểm quan trọng đó là gì? Nhƣ đã phân tích trên, chủ ngữ
và cặp đôi phong quang và lƣu chuyển cho biết tác giả nói đến chuyện
phong tình của con ngƣời.
Sau khi đƣa sự chú ý của ngƣời đọc lên cao, tiếp theo tác giả hạ hai
chữ “tạm thời” làm cho bao nhiêu căng thằng, tò mò của độc giả đƣợc hạ
xuống nhƣ quả bóng bị xì hơi, để rồi tiếp theo tác giả nhẹ nhàng nêu ý
chính của toàn bài 1 và 2.
Đọc thơ mà có cảm hứng nhƣ đƣợc xem kịch.
Tóm lại, đại ý của bài Khúc Giang 1 là hành lạc, và đại ý của bài
Khúc Giang 2 là tƣơng thƣởng, mạc tƣơng vi.
Ở bài 1, nêu ý chính, bài 2 giảng rõ ý chính của bài 1, nghĩa là thơ
trên có “hô”, thơ dƣới có “ứng”.
Quan điểm sống “tƣơng thƣởng” và “mạc tƣơng vi” (enjoy each
other and don’t say no each other) rất gần với quan điểm của phái hiện
sinh, hay phong trào hippy hiện nay.
Cách đây 1300 năm, với ảnh hƣởng nặng nề của Khổng giáo và
với một xã hội có chế độ phong kiến toàn trị thì quả thật đây là một ý
kiến táo bạo, mới mẻ.
Có phải 2 chữ “tạm thời” đã tránh cho tác giả hệ lụy của sự quy
chụp là phản động không? Hơn nữa, tác giả là một nhà thơ nổi tiếng
nhƣng nghèo và không thế lực.
Thử tƣởng tƣợng, lúc bây giờ mà tác giả nêu ý kiến nam nữ hãy
enjoy each other và don’t say no each other rất dễ bị cho là phản động,
phá rối trật tự xã hội.
95
Các Bản Dịch Của Các Tác Giả:
Bản Dịch Tản Đà
II.
Khỏi bệ vua ra cố áo hoài
Bến sông say khƣớt, tối lần mai
Nợ tiền mua rƣợu đâu không thế ?
Sống bảy mƣơi năm đã mấy ngƣời ?
Bƣơm bƣớm luồn hoa phơ phất lƣợn
Chuồn chuồn rỡn nƣớc lửng lơ chơi
Nhắn cho quang cảnh thƣờng thay đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.
Bản Dịch Nhượng Tống
I
Trông xuân buồn thấy vẻ xuân gầy
Muôn cánh hồng theo trận gió bay
Qua mắt, hoa nhìn đi kẻo hết
Mềm môi, rƣợu uống ngại gì say
Mồ cao bên uyển, lân nằm khểnh
Nhà nhỏ trên sông, trả họp bầy
Ngẫm kỹ lẽ đời chơi hóa phải
Cần chi tiếng hão bận thân nầy.
II
Mỗi buổi chầu về thế áo xuân
Đầu sông ngất ngƣởng uống say lăn
Sống đời bảy chục xƣa nay hiếm
96
Nợ rƣợu đầy nơi khất khứa dần
Cánh bƣớm luồn hoa nhìn thấp thoáng
Đuôi chuồn điểm nƣớc gợn lăn tăn
Phong quang nhắn bảo cùng trôi chuyển
Tạm chút làm vui, chớ lữa lần.
Bản Dịch Khương Hữu Dụng
I
Một chiếc hoa bay xuân kém đi
Gió tung muôn cánh não ngƣời ghê
Hẵng nhìn thoả mắt hoa chƣa rụng
Chớ nệ mềm môi rƣợu chén lỳ
Trên bến, nhà con xây tổ trả
Bên vƣờn, mộ lớn quẹp mình nghê
Gẫm xem lẽ vật chơi cho hả
Tiếng hão thân ta bận nỗi gì.
II
Áo chầu tan buổi cởi cầm tay
Hằng bữa đầu sông về khƣớt say
Nợ rƣợu tầm thƣờng đâu chẳng có
Ngƣời đời bảy chục mấy xƣa nay
Luồn hoa bƣơm bƣớm chen chen lƣợn
Điểm nƣớc chuồn chuồn thoáng thoáng bay
Quang cảnh, nhắn cho thƣờng biến đổi
Tạm vui xuân với, kẻo e hoài.
97
Bản Dịch Lê Nguyễn Lưu
I
Một mảnh hoa rơi kém vẻ xuân
Buồn trông muôn điểm gió xoay vần
Hoa bay qua mắt chừng tan tác
Rƣợu uống mềm môi chớ ngại ngần
Nhà nhỏ bên sông kìa phí thuý
Mộ cao góc ruộng nọ kỳ lân
Lẽ đời nghĩ kỹ nên hành lạc
Danh hão đừng cho bận tấm thân.
II
Chầu ra, cởi áo cố ngày ngày
Mỗi buổi đi về phải thật say
Nợ rƣợu bình thƣờng đâu chẳng có
Đời ngƣời bảy chục hiếm xƣa nay
Châm hoa, bƣơm bƣớm chờn vờn liệng
Rỡn nƣớc, chuồn chuồn thấp thoáng bay
Xin nhắc: tháng năm trôi mãi mãi
Chớ hoài, cứ tạm hƣởng vui ngay.
Bản Dịch Tuyết Sơn
I
Mỗi cánh hoa bay giảm nét xuân
Gió tung muôn chiếc dội tim dần
Hãy xem no chán hoa vờn mắt
98
Chớ ủ buồn thƣơng rƣợu cứ nâng
Nhà nhỏ bên sông chƣờng ổ trả
Mộ cao cạnh uyển choán kỳ lân
Lẽ đời ngẫm kỹ nên vui thú
Danh hão mà chi bận tấm thân.
II.
Chầu tan áo quý đem cầm ngay
Về lại đầu sông lƣớt khƣớt say
Nợ rƣợu tầm thƣờng đâu chẳng có
Đời ngƣời bảy chục hiếm xƣa nay
Châm hoa cánh bƣớm chờn vờn lƣợn
Giỡn nƣớc đuôi chuồn thấp thoáng bay
Lời nhắn cảnh quan và biến đổi
Tạm cùng nhau thƣởng, hƣởng liền tay.
99
Tào Đường
曹唐
Tào Đƣờng tự Nghiêu Tân (堯賓), ngƣời Quế Châu (桂州, nay
thuộc Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây).
Lúc đầu ông làm đạo sĩ. Trong niên hiệu Đại Trung (847-859) ông
đi thi Tiến sĩ, nhƣng không đỗ.
Qua thời Hàm Thông (860-873), ông tòng sự tại các phủ, có làm
bài Bệnh mã thi tả nỗi bất đắc chí của mình, ông để lại thi tập gồm 3
quyển, trong đó Đại du tiên thi (50 bài) và Tiểu du tiên thi là những tác
phẩm rất đƣợc truyền tụng.
100
I. Lưu Nguyễn Du Thiên Thai
劉阮游天台
樹入天台石路新
雲和草靜迥無塵
煙霞不省生前事
水木空疑夢後身
往往雞鳴岩下月
時時犬吠洞中春
不知此地歸何處
須就桃源問主人
Thụ nhập thiên thai thạch lộ tân,
Vân hoà thảo tĩnh quýnh vô thần.
Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự,
Thuỷ mộc không nghì mộng hậu thân.
Vãng vãng kê minh nham hạ nguyệt,
Thời thời khuyển phệ động trung xuân.
Bất tri thử địa quy hà xứ,
Tu tựu Đào Nguyên vấn chủ nhân.
Đƣờng núi Thiên Thai cây đá lần
Mây êm không bụi cỏ lâng lâng
Khói mù quên lãng trôi đời trƣớc
Cây nƣớc ngờ dâng tỉnh giấc trần
Gà thoảng gáy dồn trăng dọi nƣớc
Chó chồm sủa dội động ƣơm xuân
Nào hay chốn ấy về đâu nhỉ
Hãy đến nguồn đào hỏi chủ nhân.
101
II. Lưu Nguyễn Động Trung Ngộ Tiên Tử
劉阮洞中遇仙子
天和樹色靄蒼蒼
霞重嵐深路渺茫
雲實滿山無鳥雀
水聲沿澗有笙簧
碧沙洞裏乾坤別
紅樹枝前日月長
願得花間有人出
免令仙犬吠劉郎
Thiên hoà thụ sắc ái thang thang
Hà trọng lam thâm lộ diễu mang
Vân đậu mãn sơn vô điểu tƣớc
Thuỷ thanh duyên giản hữu sinh hoàng
Bích sa động lý càn khôn biệt
Hồng thụ chi biên nhật nguyệt trƣờng
Nguyệt đắc hoa gian, hữu nhân xuất
Miễn linh tiên khiển phệ Lƣu Lang.
Bát ngát cây xanh lẫn sắc trời
Hơi mù ráng dội lối chơi vơi
Mây giăng núi kín chim hoang vắng
Sáo lẫn dòng tuôn suối cuộn vời
Cát biếc vùi hoang trời đất cách
Hồng tƣơi phơi nhánh tháng năm trôi
102
Giữa hoa mong ƣớc ai ra đón
Tránh chó nhà tiên rộn sủa ngƣời.
III. Tiên Tử Tống Lưu Nguyễn Xuất Động
仙子送劉阮出洞
殷勤相送出天台
仙境那能卻再來
雲液既歸須強飲
玉書無事莫頻開
花當洞口應長在
水到人間定不迴
惆悵溪頭從此別
碧山明月照蒼苔
Ân cần tƣơng tống xuất Thiên Thai,
Tiên cảnh na năng khƣớc tái lai.
Vân dịch ký quy tu cƣỡng ẩm,
Ngọc thƣ vô sự mạc tần khai.
Hoa đƣơng động khẩu ƣng trƣờng tại,
Thuỷ đáo nhân gian định bất hồi.
Trù trƣớng khê đầu tòng thử biệt,
Bích sơn minh nguyệt chiếu thƣơng đài.
Ân cần đƣa tiễn lối Thiên Thai
103
Tiên cảnh khôn bề trở lại đây
Rƣợu thánh ai về xin gƣợng chén
Thơ tiên việc rỗi chớ mân tay
Hoa tƣơi cửa động hoa ƣng thắm
Nƣớc chạm hơi ngƣời nƣớc khó quay
Xao xuyến đầy nguồn khe tiễn biệt
Trăng soi núi biếc hiện rêu đài.
IV. Tiên Tử Động Trung Hữu Hoài Lưu Nguyễn
仙子洞中有懷劉阮
不將清瑟理霓裳
塵夢那知鶴夢長
洞裏有天春寂寂
人間無路月茫茫
玉沙瑤草連溪碧
流水桃花滿澗香
曉露風燈零落盡
此生無處訪劉郎
Bất tƣơng thanh sắt lý "Nghê thƣờng",
Trần mộng na tri hạc mộng trƣờng.
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch,
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang.
Ngọc sa dao thảo liên khê bích,
104
Lƣu thuỷ đào hoa mãn giản hƣơng.
Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận,
Thử sinh vô xứ vấn Lƣu lang!
Không đàn sao gẩy khúc Nghê Thƣờng
Trần mộng đâu hay hạc mộng trƣờng
Trong động trời mây xuân man mác
Đƣờng về lối khuất nguyệt mênh mang
Cỏ tiên bãi ngọc xanh khe biếc
Nƣớc chảy hoa trôi tỏa suối hƣơng
Đèn gió sƣơng mai tàn lụi chóng
Kiếp nầy đâu chốn hỏi thăm chàng.
V. Lưu Nguyễn Tái Đáo Thiên Thai Bất Phục Kiến Chư Tiên Tử
劉阮再到天台不復見諸仙子
No comments:
Post a Comment