Tiến sỹ, phó giáo sư có thẻ đảng, dối hay thâm độc?
Thành Đỗ (Danlambao) - Nhân
câu chuyện rùm beng về đặt tên đường Đà Nẵng mang tên hai giáo sĩ
truyền giáo mà lòi ra cả một lũ tiến sỹ, phó giáo sư, chúng có thẻ đảng
và chúng có một điểm chung là DỐT sử. Nhưng chúng ta cùng nhau tìm hiểu
xem chúng thật sự dốt hay vừa dốt vừa thâm độc trong quá trình sát nhập
và Hán hóa dân tộc chúng ta.
Người miền bắc hay nói: “Một con bò cho qua Nga khi trở về nó cũng có
bằng tiến sỹ”. Đôi khi chỉ có lý lịch của con bò mới lọt qua khâu kiểm
tra lý lịch khi lên đường.
Sau năm 1975, sân chơi trí thức Việt Nam do đó nhường chỗ lại cho lớp
người được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu trở về, mà như nói ở
trên, đa phần chỉ có cái bằng còn kiến thức thì rỗng, đồng nghĩa với
dốt.... nhưng cho dù có bằng tiến sỹ, phó giáo sư thì con bò vẫn là con
bò, những “tiến xỉ” uyên bác này, họ thật là có công xây dựng kho tàng
ngu dốt cho đất nước xinh đẹp này khi chúng cho rằng vị cha đẻ của chữ
quốc ngữ Việt Nam là dọn đường, tiếp tay cho người Pháp sang xâm lược
đất nước xinh đẹp của chúng ta 213 năm sau đó.
Tôi nghĩ chúng không NGU NHƯ BÒ đâu nhưng tôi tin chúng thâm độc trong
việc dọn đường để Hán hóa dân ta, hầu dễ dàng sát nhập Việt Nam vào đại
gia đình Hán tộc theo hiệp ước Thành Đô 1990 mà thôi.
Trước chúng thì chúng ta cũng đã thấy có các phó giáo sư Hồ Ngọc Đại và
Bùi Hiền cũng tìm mọi cách để phá hủy chữ Quốc Ngữ và văn hóa Việt của
chúng ta.
Nhắc lại về lịch sử, năm 1625, cha Alexandre de Rhodes, tên Việt là
A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, đi thuyền tới Việt Nam, không ai ngờ rằng thời điểm
này đã đánh dấu một bước ngoặt lớn lao của ngôn ngữ Việt. Đó là sự bắt
đầu hình thành của chữ Quốc ngữ. Trong 300 năm, chữ Quốc ngữ đã phải
trải qua bao nhiêu sóng gió rồi cuối cùng thay thế hoàn toàn được chữ
Nôm, chữ Hán để trở thành chữ viết của người Việt, các vị vua triều
Nguyễn cũng có công tạo điều kiện dễ dàng trong việc dùng chữ Quốc Ngữ
hầu thoát Trung, tránh bị sát nhập và Trung hoa và cho đến ngày nay, hóa
trình Hán hóa đang được thực hiện ráo riết bởi đảng cộng sản VN, họ tìm
cách hô biến hay xóa đi chữ Quốc ngữ của người Việt.
Sau khi cha Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes) rời Việt Nam năm 1645, ông qua
đời 15 năm sau tại Ba Tư (Iran). Vào năm 1858, nghĩa là 213 năm sau,
người Pháp mới nổ súng vào Việt Nam lần thứ nhất tại bán đảo Sơn Trà –
Đà Nẵng.
Ngày nay, đám “tiến sĩ, phó giáo sư” dốt sử và thâm độc, đánh đồng ngài
Alexandre De Rhodes là người Pháp để cho rằng cho rằng việc cha
Francisco de Pina và cha Đắc Lộ, tạo ra chữ quốc ngữ là cốt để tạo đường
cho Pháp xâm lăng Việt Nam, đúng là bọn cả vú lấp miệng em và chúng chủ
trương Việt Nam quay ngược lại dùng tiếng Hán cho dễ bề việc sát nhập
đất nước Việt Nam vào đại gia đình Hán tộc, như những gì đang xảy ra tại
Tây Tạng, tại Tân Cương.
Bạn biết gì về chữ Quốc Ngữ
Chữ Quốc ngữ được xây dựng theo nguyên tắc ký âm bằng chữ cái Latin (a,
b, c,…), nên tương đối đơn giản, tiện lợi, dễ học, dễ nhớ, đã giúp cho
người Việt dễ dàng hội nhập với các nước dùng chữ Latin hơn so với các
nước theo chữ Hán như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay những nước theo
chữ Ả Rập. Sự hội nhập nhanh chóng này cũng tác động một phần không nhỏ
vào việc nâng cao dân trí của một quốc gia. Như hiện nay trong vấn đề
giao dịch qua Internet, chữ Quốc ngữ đã có rất nhiều lợi thế hơn hẳn so
với các bộ chữ tượng hình như chữ Hán vừa khó đọc, khó viết và lại thêm
khó xử dụng. Cũng từ đấy, người Việt đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa, mặc dù nước ta đã bị phương Bắc đô hộ
1.000 năm. Đây có thể nói là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao.
Trước chữ Quốc Ngữ, người Việt viết chữ gì?
Trước khi có chữ Quốc ngữ, người Việt đã có chữ Khoa đẩu, chữ Hán và chữ Nôm.
Chữ Khoa đẩu: hay còn gọi chữ nòng nọc là chữ Việt cổ xuất hiện trong
nền văn hóa tiền Việt-Mường, được tìm thấy trên các trống đồng, trên đá
hay các di vật cổ xưa để lại. Khoa đẩu có nghĩa là đầu lớn, để chỉ hình
tượng của chữ này: đầu lớn và những nét giống hình con nòng nọc. Đây là
loại chữ tượng thanh, ghép nhiều chữ lại thành từ. Trong một bản Ngọc
phả từ thời vua Trần Thái tông nhắc đến tích là thời vua Nghiêu (2000
năm trước Công Nguyên) nước Việt Thường (vùng Nghệ An, Hà Tỉnh) tặng con
rùa ngàn năm trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu:
"Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu”
(nghĩa là thời vua Nghiêu, nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi,
lưng có chữ Khoa đẩu). (Trích Lương Nguyên Hiền).
Sau khi chiếm được nước Nam Việt của Triệu Đà, nhà Hán thi hành chính
sách Hán hóa dân tộc Việt. Các thái thú như Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp bắt
đốt hết sách vở còn như tướng Mã Viện (năm 43) thì tìm cách tận thu
trống đồng. Người Việt bị bắt buộc phải dùng chữ Hán thay cho chữ Khoa
đẩu và tưởng chừng như chữ Việt cổ đã bị thất truyền. Nhưng gần đây có
ông Đỗ Văn Xuyền đã tuyên bố giải mã được chữ Khoa đẩu sau 50 năm mày mò
tìm kiếm. Ông viết được bằng chữ Khoa đẩu bài Hịch của Hai Bà Trưng kêu
gọi khởi nghĩa (năm 40) [2].
Chữ Hán: còn gọi chữ Nho hay chữ Trung Hoa là chữ tượng hình biểu ý.
Người Việt ngày xưa xử dụng hai thứ tiếng: một là tiếng Hán Việt (đọc
chữ Hán theo âm Việt) dành cho giới quan lại và khoa bảng và hai là
tiếng Việt được xử dụng trong dân gian.
Chữ Nôm được cấu tạo trên cơ sở chữ Hán nhưng lấy âm Hán Việt để ghi âm
tiếng Việt. Chữ Nôm đã được hình thành bằng nhiều cách khác nhau, như
ghép hai chữ Hán với nhau, thí dụ chữ “mắt” ghép từ chữ “mục” (biểu ý)
và “mạt” (biểu âm) hay mượn âm chữ Hán như chữ “tốt” có nghĩa là “binh
lính” (chữ Hán) để ghi từ “tốt” trong “tốt xấu” của chữ Nôm [3]. Có
nhiều giả thuyết cho rằng chữ Nôm đã có từ thế kỷ thứ 3. Cũng có một số
giả thuyết khác cho là chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ thứ 8, thời Phùng
Hưng dấy quân khởi nghĩa dành lại độc lập cho Việt Nam (năm 791). Sau
khi mất, Phùng Hưng được tôn vinh là Bố Cái Đại Vương. Bố Cái viết bằng
chữ Nôm là Cha Mẹ. Nhưng đến thế kỷ 13, chữ Nôm mới được chính thức ghi
nhận là xuất hiện qua bài văn “Tế cá sấu” bằng chữ Nôm do Nguyễn Thuyên
được vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) sai làm để đuổi cá sấu.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm còn được lưu truyền đến ngày hôm nay như
Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Bích Câu Kỳ Ngộ, Lục
vân Tiên, Lục Súc Tranh Công,… cùng những bài thơ của Lê Thánh Tôn,
Nguyễn Thuyên, Bà Huyện Thanh Quan, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần
Tế Xương, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến,...
Trong đó, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm chữ Nôm đặc sắc nhất
mà gần như người Việt nào cũng biết (trích Lương thượng Hiền).
Sau khi chữ Khoa đẩu bị thất truyền, tưởng như thế người Việt sẽ bị hoàn
toàn Hán hóa. Nhưng không, người Việt lại một lần nữa mày mò sáng tạo
ra chữ Nôm để ghi tiếng nói của mình. Cha ông chúng ta ý thức rất rõ
ràng một dân tộc muốn tồn tại phải có chữ viết riêng.
Chữ Quốc Ngữ: Vào thế kỷ 17, các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam để
truyền đạo. Trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, có tên tiếng Việt
là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, thuộc dòng Tên (Jésuite) sinh năm 1591 ở Avignon
miền nam nước Pháp. Năm 1625, ông cập bến Hội An ở Đà Nẵng và bắt đầu
học tiếng Việt của một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Trong vòng 20 năm, ông
đã bị trục xuất 6 lần. Tuy thế ông vẫn tìm cách trở lại Việt Nam, lúc
đến Đàng Trong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên để truyền giáo, lúc đến Đàng
Ngoài của chúa Trịnh Tráng. Cuối cùng vào năm 1645, ông bị chúa Nguyễn
vĩnh viễn trục xuất ra khỏi Việt Nam. Năm 1660, tức là 15 năm sau ông
mất tại Ispahan ở Ba Tư (Iran). Tác phẩm của ông để lại là cuốn Tự Điển
Việt-Bồ-Nha (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et
latinum) đây là cuốn tự điển đầu tiên bằng ba thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha
và Latin. Ông dùng chữ Latin nhưng lấy âm Bồ Đào Nha để ghi âm tiếng
Việt. Ông còn mượn thêm dấu lấy từ tiếng cổ Hy lạp Sắc Huyền Hỏi Ngã.
Thật tuyệt vời.
Các giáo sĩ dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar
d’Amaral, Antonio Barbosa.... là những người đi tiên phong trong công
việc khai sáng ra chữ Quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở trường dạy
tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó có Alexandre de
Rhodes. Trong lời tựa cuốn tự điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes viết
là ông đã dựa trên hai cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách
của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của
Antonio Barbosa.
Các giáo sĩ dòng Tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar
d’Amaral, Antonio Barbosa.... là những người đi tiên phong trong công
việc khai sáng ra chữ Quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở trường dạy
tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó có Alexandre de
Rhodes. Trong lời tựa cuốn tự điển Việt-Bồ-La, Alexandre de Rhodes viết
là ông đã dựa trên hai cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách
của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của
Antonio Barbosa.
Hơn bao giờ hết, đảng cộng sản Việt Nam và tay sai đang tìm mọi cách để Hán hóa dân tộc ta.
Là người Việt, ai ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận và trách nhiệm
phải bảo vệ văn hóa dân tộc và chỉ mặt đặt tên bọn mặt “Việt hồ mà lòng
thì Việt Mao” này hầu bảo tồn một đất nước Việt trọn vẹn, gìn giữ văn
hóa Việt cho con cháu ngàn đời sau không tủi hổ.
Xin mượn câu hát của anh Việt Khang “Cội nguồn ở đâu? Khi thế giới nay
đã không còn Việt Nam” để kêu gọi mọi người dân nước Việt nên cảnh tỉnh
trước âm mưu thâm độc của bọn tay sai hán tộc, tuy sống tại Việt Nam,
tên Việt, mang thẻ đảng nhưng chúng yêu đất nước, văn hóa Trung hoa và
nhất là chúng yêu tiền của anh Tập Cận Bình.
Paris 27/11/2019
Thành Đỗ - Cựu kỹ sư Sagem- Safran, công nghệ quốc phòng Pháp
No comments:
Post a Comment