Tổng thống Thiệu năm 1969: Kiên định lập trường giữa thách thức bủa vây
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu bài diễn văn của mình. Ông biết
những điều ông sắp sửa trình bày sẽ khó chấp nhận đối với nhiều người.
Nhưng tình hình cấp bách buộc ông phải đưa ra những biện pháp quyết liệt
nhằm vực dậy đất nước. Rồi giọng ông nghẹn ngào và nước mắt rưng rưng.
Sự kiện này xảy ra 50 năm về trước và nó hé lộ một khía cạnh cảm xúc
ít được biết tới của ông Thiệu. Nó cũng cho thấy phần nào tình thế mà
ông đối diện vào thời điểm này của năm 1969, một năm bước ngoặt nhiều
biến động trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Sử dụng những đoạn phim màu hiếm và nguồn tư liệu lịch sử đa chiều,
VOA khắc họa lại chân dung một tổng thống bị bủa vây bởi những thách
thức từ trong nước đến ngoài nước trong khi ông cố gắng bảo vệ một nền
tự do mong manh mà ông tin đang bị chủ nghĩa cộng sản đe dọa.
Ngày 15 tháng 11 năm 1969, nước Mỹ chứng kiến cuộc biểu tình phản chiến được cho là lớn nhất trong lịch sử của mình. Tới nửa triệu người, phần đông là thanh niên, tụ tập ở thủ đô Washington đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Dù hàng ngàn quân nhân Mỹ vào thời điểm đó đang trên đường trở về
nhà, công chúng ngày càng mất kiên nhẫn trước số lượng binh sĩ tử trận
gia tăng và các cuộc đàm phán hòa bình bế tắc.
Cuộc tập hợp là sự biểu dương lực lượng hùng hậu của phong trào phản
chiến ở Mỹ. Nó tạo ra một cú huých về tinh thần cho phe cộng sản đang
chịu thất bại trên chiến trường, đồng thời tăng thêm áp lực lên Tổng
thống Richard Nixon để thay đổi đường hướng chính sách ở Việt Nam.
Cách đó hàng ngàn dặm, áp lực cũng đè nặng lên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.
Vào thời điểm này 50 năm về trước, ông Thiệu đối mặt với hàng loạt
những thách thức không chỉ đến từ phe cộng sản mà ông đang chiến đấu
chống lại, mà còn từ chính ở nước mà ông lãnh đạo và nước đồng minh sát
cánh cùng ông trong cuộc chiến.
Tình thế của ông cũng cho thấy sự tương phản với giới lãnh đạo Bắc
Việt trong khi hai bên nỗ lực điều hành đất nước của mình và lèo lái các
mối quan hệ quốc tế nhằm hỗ trợ tối đa cho cuộc chiến.
Đầu mùa hè năm 1969, một sự kiện hệ trọng diễn ra trên một hòn đảo
heo hút giữa Thái Bình Dương mà sẽ thay đổi đường hướng của cuộc chiến ở
Việt Nam.
Mỹ dịch chuyển chính sách
Sau một cuộc họp ở Midway vào tháng 6, Tổng thống Thiệu và Tổng thống
Nixon loan báo 25.000 binh sĩ Mỹ sẽ được rút khỏi Việt Nam trước cuối
tháng 8 và quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ đảm nhận thêm trách nhiệm trên
chiến trường.
Quyết định được đưa ra sau khi số lượng binh sĩ Mỹ lên đến đỉnh điểm hơn 540.000 người
vào tháng 4. Nó đánh dấu một giai đoạn mới cho cuộc chiến và một sự
dịch chuyển chính sách quan trọng của Mỹ được biết tới rộng rãi với cái
tên “Vietnamization” (Việt Nam hóa chiến tranh).
Chính quyền Thiệu từ trước hội nghị Midway đã nhận thức rằng những
ngọn gió chính trị ở Mỹ đang đổi chiều và dư luận ngày càng bất mãn về
cuộc chiến kéo dài. Với một tổng thống Mỹ mới lên nắm quyền vào đầu năm
1969, Sài Gòn xác định họ cần phải chủ động trong cách tiếp cận đối với
Washington nhằm định hình chính sách theo hướng phù hợp nhất với lợi ích
của mình.
“Trước khi đi họp chính phía Việt Nam Cộng Hòa đưa ra đề nghị rút
quân,” ông Hoàng Đức Nhã, tham vụ báo chí và bí thư của Tổng thống Thiệu
năm 1967-1973, nói.
“Ông tổng thống tới nói, bây giờ Vùng 4 tôi có thể bình định, tôi có
thể đảm nhận đánh nhau được rồi. Còn ở Vùng 1 tôi có nhảy dù, tôi có
thủy quân lục chiến, mấy ông có thể bắt đầu rút quân”
Ông nói người Mỹ họ “rất ngạc nhiên” với đề xuất này nhưng ”vì họ
muốn thể hiện cái đó như là ý kiến của riêng họ thành ra mới đặt ra cái
chữ 'Việt Nam hóa.'”
Cuộc chiến trên bàn đàm phán
Trong khi Mỹ tiến hành triệt thoái quân đội, các nỗ lực ngoại giao
tiếp tục tại bàn đàm phán để đưa tới một sự dàn xếp chính trị cho cuộc
xung đột. Các cuộc hòa đàm - giữa bốn bên là Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (Bắc Việt), và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam (thường được gọi tắt là Việt Cộng) - lâm vào bế tắc không
lâu sau khi khởi động vào đầu năm 1969.
Trong một nỗ lực được mô tả là nhằm thúc đẩy các cuộc thương thuyết
đình trệ, ông Thiệu đề xuất tổ chức các cuộc bầu cử tự do ở miền nam với
sự tham gia của Việt Cộng dưới sự giám sát của quốc tế. Báo The New
York Times nhận định đó là một trong những nhượng bộ mà Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đưa ra trước một hội nghị vào tháng 7 ở Paris.
Nhưng Việt Cộng thẳng thừng bác bỏ đề xuất đó.
Tờ Times dẫn lời các nhà ngoại giao trung lập nói rằng dù những
nhượng bộ này lẽ ra đã cho hai nước đồng minh một lợi thế quan trọng,
song Bắc Việt và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
(một tổ chức chính trị do Việt Cộng lập ra để đối chọi chính quyền Sài
Gòn tại bàn đàm phán) lại trông cậy vào áp lực của dư luận Mỹ nhằm buộc
chính quyền Nixon nhượng bộ hơn nữa.
Nhận thấy các cuộc hội đàm công khai chẳng đi đến đâu, Tổng thống
Nixon cử Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger tiến hành các cuộc hội
đàm bí mật đầu tiên tại Paris với các đại diện từ Hà Nội.
Thái độ phản chiến dâng cao
Như dự đoán của phe cộng sản, dù chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” vẫn được Quốc hội và người dân Mỹ
ủng hộ, nó không xoa dịu được sự bất mãn ngày càng tăng ở Mỹ. Đến tháng
10, các cuộc biểu tình phản chiến trở nên rầm rộ với sự kiện
Moratorium. Ước tính hai triệu người thuộc mọi tầng lớp tham gia biểu tình ở các thành thị lớn nhỏ khắp nước Mỹ.
Trong khi Bắc Việt và các đồng minh cộng sản ở miền Nam nhận được sự
cảm thông và ủng hộ mà họ tìm kiếm, ông Thiệu đối diện với chỉ trích gay
gắt ở Mỹ và thậm chí từ phe đối lập ở nước ông.
Thượng nghị sĩ Edward Kennedy tuyên bố
ông Thiệu phải “chọn đối diện tương lai của ông ta một mình” nếu từ
chối đưa ra những nhượng bộ cần thiết để đạt được hòa bình. Tại Việt
Nam, những đối thủ của ông Thiệu - một tập hợp manh mún các tổ chức
chính trị và tôn giáo khác nhau - cáo buộc ông không tích cực phá thế bế
tắc ở Paris và không chịu mở rộng sự đại diện chính trị trong chính
phủ.
Ông cũng bị giới báo chí Sài Gòn săm soi và chỉ trích dù chính quyền của ông đáp lại bằng cách đình bản một số tờ báo.
Vụ binh lính Mỹ thảm sát thường dân ở Mỹ Lai được phơi bày trước công
chúng Mỹ vào tháng 11 khơi lên phẫn nộ và càng thổi bùng ngọn lửa phản
chiến. Chính quyền Thiệu bị chỉ trích nặng nề về cách thức ứng phóvụ
việc đó. Cũng trong tháng 11, một phụ tá của ông Thiệu bị tuyên án tù
chung thân vìcáo buộc làm gián điệp cho Việt Cộng. Tổng cộng 43 người
đối diện các cáo buộc trong vụ xét xử gián điệp được nói là lớn nhất của
Việt Nam Cộng Hòa.
Những biến động ở miền Nam tương phản với sự yên tĩnh tương đối ở
miền Bắc. Dưới quyền cai trị của Lê Duẩn, những tiếng nói phản đối chính
sách mở rộng chiến tranh ở miền Nam bị gạt ra ngoài lề, trong đó có Hồ
Chí Minh. Hàng loạt quan chức cao cấp bị gán mác theo “chủ nghĩa xét
lại” và “chống Đảng” bị tống giam. Tự do báo chí gần như không tồn tại
dưới chế độ cộng sản.
Về đối ngoại, Hà Nội khôn khéo đi dây giữa hai đồng minh cộng sản
Liên Xô và Trung Quốc - khi đó đang đối đầu vì chia rẽ ý thức hệ trầm
trọng - để giành được viện trợ tối đa trong khi đồng thời duy trì được
sự độc lập của mình. Cái chết của Hồ Chí Minh cho phép Hà Nội gây sức ép
để hai cường quốc này gác lại lợi ích riêng của mỗi nước trong việc hợp
tác với Mỹ.
Lời kêu gọi khẩn thiết
Nếu ông Thiệu có nỗi ưu phẫn về tình thế mà ông đối diện, dường như
ông không biểu lộ một cách trực tiếp hay công khai. Nhưng một bài diễn
văn nhân dịp lễ Quốc khánh Việt Nam Cộng Hòa vào đầu tháng 11 hé lộ phần
nào tâm tư của ông.
Phát biểu trên radio và truyền hình, tổng thống tha thiết
kêu gọi người dân tích cực tiết kiệm và hi sinh trong bối cảnh thâm hụt
quốc gia tăng vọt và các biện pháp tăng thuế của ông khơi lên một làn
sóng phản đối.
“Chúng ta không thể để cho kẻ thù Cộng sản mạnh hơn bằng cách khai
thác sự yếu hèn của ta và sự nản chí của Đồng minh,” ông được dẫn lời nói.
Báo The Washington Post tường thuật
ông kết thúc bài diễn văn “với giọng nghẹn ngào và nước mắt rưng rưng,”
nói rằng ông sẽ từ chức nếu một ngày nào đó ông cảm thấy mình phải làm
chuyện đúng đắn cho quốc gia nhưng bị người dân phản đối.
Kháng cự những đòi hỏi đưa ra thêm nhượng bộ tại bàn đàm phán, Tổng
thống Thiệu có lẽ nhận thức vai trò của ông như một thành trì chống lại
sự bành trướng của cộng sản, những người mà ông coi là mối đe dọa sống
còn cho tự do ở miền Nam.
Đó một phần là vì ông đã chứng kiến sự tàn bạo của họ đối với thường dân.
“Lần đầu tiên tổng thống khóc, mắt đỏ và chảy nước mắt xuống, là sau
Tết Mậu Thân khi chứng kiến mộ tập thể ở ngoài Huế,” ông Nhã kể lại.
“Gần 4000 người bị Việt Cộng giết và chôn tập thể. Cảnh đó không thể
tưởng tượng được.”
Lời nhắc nhở đẫm máu
Dù cuộc Tổng Tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 thất bại và phe cộng sản bị đánh bật trên chiến trường, hàng ngàn
bộ đội Bắc Việt vẫn xâm nhập miền Nam trong khi Việt Cộng tiếp tục pháo
kích và đánh bom ở Sài Gòn và ở các tỉnh thành khác suốt năm 1969.
Các cơ sở quân sự thường bị nhắm mục tiêu nhưng thường dân cũng gánh
chịu thương vong to lớn trong những vụ tấn công bừa bãi nhắm vào các khu
dân cư, chợ búa, bưu điện và những nơi khác. Báo chí đương thời gọi đó
là những vụ tấn công khủng bố.
Như một lời nhắc nhở ông Thiệu về sự hiện hữu dai dẳng và đẫm máu của
mình, Việt Cộng hạ sát ba viên chức cấp thấp làm việc trong văn phòng
của ông vào cuối tháng 11, Reuters đưa tin.
Cảnh sát nói họ bị bắn chết trong một chuyến đi câu cá cuối tuần ở vùng ngoại ô Bình Chánh.
No comments:
Post a Comment