Núi Ngự Bình Và Sông An Cựu
Khi nói đến Huế, người ta thường nhớ đến câu ca dao:
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Bài ca dao này nói lên nét đặc thù của 2 địa danh: Núi Ngự Bình và Sông An Cựu. Sau đây là 2 bài giải thích ý nghĩa của nó.
Núi Ngự Bình
Núi Ngự Bình đứng trơ vơ về phía tây nam, cách kinh
thành Huế khoảng 3 km (2 miles) là ngọn núi hình thang,
cao 105 m (315 ft), đỉnh bằng phẳng. Tên cũ của Núi Ngự
là Bằng Sơn.
Cùng với sông Hương núi Ngự Bình, người ta quen gọi Huế
là xứ sở của Sông Hương - Núi Ngự.
Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” của Quốc Sử Quán Triều
Nguyễn viết “Phía Đông bắc Hương Thuỷ, nổi vọt lên ở
quãng đất bằng” như hình bức bình phong làm lớp án thứ
nhất trước kinh thành Huế, tục gọi là núi Bằng, đời Gia
Long đặt cho tên hiện nay (Ngự Bình), đỉnh núi bằng
phẳng, khắp nơi trồng thông"
Núi Ngự Bình cao 105m, dáng cân đối, uy nghi. Hai bên
Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn
và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn được thành lập, quyết
định xây dựng kinh thành Huế, thấy Bằng Sơn như một bức
bình phong án ngữ trước mặt, Gia Long chấp nhận đồ án
của các thầy địa lý: chọn núi này làm tiền án của hệ
thống phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi
này là Ngự Bình.
Một nhánh của sông Hương chảy về Hà Trung, Hà Trữ có tên
là Sông An Cựu hay Lợi Nông
Cầu Tràng Tiền bắc qua Sông Hương
Để có thể hiểu thấu đáo về Sông An Cựu, xin trích bài
khảo luận của Bác Sĩ Hồ Đắc Duy
hph
Sông An Cựu
Hồ Đắc Duy
Ở thành phố Huế có 4 con sông: sông Hương, sông Như Ý,
sông Bạch Yến và sông Gia Hội.
Ngoài sông Hương và Gia Hội chảy qua thành phố, còn lại
là các sông chảy quanh vùng ngoại ô. Tất cả đều là chi
lưu của sông Hương, mỗi con sông có một dáng dấp khác
nhau về hình thể, chiều dài và đặc tính kinh tế cũng như
gắn liền với lịch sử phát triển của vùng đất Thừa Thiên
– Huế từ khi các chúa Nguyễn hùng cứ ở phương Nam.
Sông An Cựu là con sông đào, nhưng lại là con sông dài
nhất với chiều ngang khá khiêm tốn chỉ xấp xỉ 1/15 so
với sông Hương.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Gia Long bắt đầu cho xây
dựng kinh thành và lập ra kế hoạch phát triển vùng phụ
cận Huế, biến vùng đất này trở thành trung tâm quyền lực
chính trị của vương triều mới.
Sau khi quan sát địa lý hình thể và thăm dò ý dân nhà
vua quyết định cho đào sông Lợi Nông.
Sông Lợi Nông nằm bờ nam là thủy lộ nối sông Hương với
đầm Hà Trung là một đầm nằm trong hệ thống đầm phá Tam
Giang – Cầu Hai, thông thương với biển đông bằng hai cửa
Thuận An và Tư Hiền.
Cửa sông An Cựu bắt đầu bên bờ nam sông Hương ngay điểm
cuối cùng của mũi phía đông của cồn Dã Viên ở tọa độ
16°27'33.67" vĩ Bắc 107°34'33.82" kinh Đông sông được
khơi trên một lòng một con suối cũ, chảy theo hướng bắc
nam, bờ phía tây của sông chảy dọc theo dưới chân của gò
Dương Xuân, Bến Ngự, Phủ Cam, Kho Rèn… đến vùng An Cựu
thì chảy thẳng vào đồng bằng càng ngày càng cách xa vùng
núi Ngự Bình – Thiên Thai, Ngũ Phong chảy chừng 17 dặm
thì đến hành cung Thần Phù chảy thêm 28 dặm nữa qua hành
cung Thuận Trực rồi đổ vào phá Hà Trung ở tọa độ 16°21’
vĩ Bắc 107°45' kinh Đông. .
Sông An Cựu có một hệ thống mạng lưới nhận nước khá lớn
từ các khe suối của vùng đồi núi nằm bờ phía tây của
sông như vùng gò Dương Xuân, Phủ Cam, Ngự Bình Thiên
Thai, Ngũ Phong, Thần Phù, Phú Bài kéo dài cho đến, Hà
Trung, Hà Trử.
Hệ thống nhận nước này cách đây 60-70 chục năm còn thấy
rõ bời các khe suối lộ thiên khi chúng đổ vào sông An
Cựu, hiện nay bị che khuất, bị san lấp, bị đô thị hóa,
bị cải tạo… nhất là ở các vùng Nam Giao, Bến Ngự, Phủ
Cam đã bị biến dạng hoàn toàn, dấu tích còn lại của hệ
thống này là cống nằm bên cạnh nhà số 156B đường Phan
Chu Trinh. Hệ thống này là cơ chế để giải thích câu ca :
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong....
Với câu ca này, cách đây gần mười năm khi công trình làm
đập trên nguồn Tả Ngạn của sông Hương hay đường Trường
Sơn đã làm cho nước sông Hương dục ngầu trong một vài
năm, sau khi công trình hoàn thành, các vùng đất đá được
rửa sạch nước sông lại trong như cũ, cũng thế hiện nay
sắc nước của sông An Cựu không còn đúng như các thập
niên 50-60 của thế kỷ trước nữa, thay vào đó là lũ lụt,
ngập úng.
Sông An Cựu dài 45 dặm dài hơn sông Hương 10 dặm, hình
sông được khắc tượng vào Chương Đỉnh. Thời Gia Long sông
mang tên An Cựu đến khi vua Minh Mạng lên ngôi được 2
năm thì đổi tên là sông Lợi Nông.
Khâm Định Đai Nam Hội Điển Sự Lệ, trang 200 quyển 212
cho biết năm Gia Long thứ 13 vua ra lệnh vét sông An Cựu
tứ bờ nam sông Hương đến cửa sông Lê Xá dài 1217 trượng
7 thước. Đến năm 1833 vua Minh Mạng ban sắc cho tiếp tục
vét sông Lợi Nông từ địa phận các xã Thần Phù, Lê Xá,
Lương Xá gồm 17 đoạn với tổng số chiều dài là 447 trượng,
mặt sông rộng 1 trượng 5 thước, dáy sông rộng 1 trượng 3
thước 2 tấc.
Dọc theo hai bên bờ sông cho trồng tre để giữ đất tránh
sạt lở bờ khi lũ lụt, suốt chiều dài 45 dặm của sông An
Cựu các vua triều Nguyên đặt 2 hành cung là hành cung
Thần Phù và hành cung Thuận Trực. Hành cung là nơi nhà
vua nghỉ chân trong các chuyến thăm viếng dân tình.
Lúc khời đầu khi đào sông chỉ vì mục đích lợi nông, biến
hàng ngàn vạn mẫu đất vùng rừng hoang đầm lầy ngập mặn
thuộc khu vực đầm Hà Trung, đầm Thanh Lam, đầm Mỹ Á, An
Truyền, Tô Đà… trở thành đồng ruộng phì nhiêu, khi kinh
tế nông nghiệp phát triển thì kéo theo sự phát triển các
cụm dân cư rải rác dọc theo 2 bên bờ sông như chợ Bến
Ngự, chợ An Cựu… thủy lộ duy nhất và quan trọng số một
đi từ kinh thành về phía nam là con sông An Cưu, từ đầm
Hà Trung - Đá Bạc - Cầu Hai thuyền có thể ra biển đông
bằng cửa biển Tư Hiền có thể theo đường bộ qua Hải Vân
Quan.
Sông An Cựu trở nên con đường thủy huyết mạch của trung
tâm quyền lực cjính trịcủa vương triều nhà Nguyễn ở Huế.
Vào thập kỷ 50 của thế kỷ trước vẫn còn những chuyến đò
dọc từ làng Hà Trung – Hà Trử , từ Lương Điền - Nong –
Phú Bài từ Thần Phù – Giạ Lê về Huế. Những con đò dọc
mang đầy ắp cây trái, lúa khoai, đặc sản tôm cá của vùng
đầm phá Cầu Hai Bạch Mã. Giọng hò đối đáp từ những con
đò dọc này vang lên giữa đêm khuya nhất các đêm trăng
rằm trên sông An Cựu nghe thật lạ lùng, quyến rũ đến
liêu trai, phải là những cư dân sống 2 bên bờ sông hay
những hành khách xuôi đêm mới cảm nhận cái đẹp vô ngần
ấy, tiếng hò trên sông An Cựu êm đềm và ấm cúng hơn trên
sông Hương vì sông Hương quá rộng nên tiếng hò không bay
xa, không ngân vang như trên sông vĩ Dạ, Như Ý, An Cựu.
Thật may mắn cho người viết vì đã có một thời thơ ấu
sống bên giòng sông An Cựu thập niên 40 – 50 của thế kỷ
trước
Bây giờ hình như người ta lãng quên cái thủy lộ một thời
huy hoàng trong quá khứ.
Nay tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng, nước sông
không còn xanh ngọt như xưa mà nó có màu đen và mùi hôi,
nhất là chung quanh khu vực chợ Bến Ngự, An Cựu và một
đám bèo hoa dâu đang phát triển rất nhanh trước măt cung
An Định, mặt sông dày đặc rác và các chất thải thâm chí
cả xác súc vật chết.
Nước thải của những hộ dân sống quanh bờ sông và từ chợ
Bến Ngự, AnCựu… đều được đổ xuống giong sông này mà
không qua xử lý.
Giòng chảy đang bị thu hẹp dần, do mực nuớc xuống thấp
nên đất ở lòng sông trồi lên rải rác từ cầu Nam Giao
xuống cung An Định, trên các bãi bồi này cỏ dại mọc rất
nhanh. Bèo hoa dâu bám vào làm cản trở giòng chảy khiến
cho việc lưu thông giảm đi rất nhiều hậu quả làm khả
năng tự làm sạch cũng bị mất đi.
Một số cư dân đã ra phát cỏ, đắp kè, giãy đất bồi để
trồng rau muống, môn, khoai...
Và kể từ khi hệ thống điều tiết nước ở Cống Phú Cam (Cửa
Khâu) được xây dựng vào năm 1978, tại vị trí đầu sông An
Cựu thì tình trạng ô nhiễm này càng nhiều hơn vì nước
không được rửa sạch từ nguồn nước sông Hương, người phụ
trách điều tiết, quản lý môi trường vệ sinh chưa ý thức
được hết trách nhiệm nên…
Các cây cầu bắc ngang qua sông An Cựu như cầu Ga cách
cửa sông khoảng 500m, cầu Nam Giao, cầu Bến Ngự, cầu Phủ
Cam Phú Ca ) cầu Kho Rèn, cầu An Cựu, những cây cầu này
được xây dựng từ thế kỳ trước chì có thể xử dụng trong
một vài năm nữa mà thôi.
Và hiện nay người ta bắc thêm 3 chiếc cầu chưa đặt tên,
cây cầu cuối cùng ở khu vực Thần Phù gần nơi mà vua Minh
Mạng đã cho xây dựng một hành cung gần 2 thế kỷ trước.
Muốn mang đến một món quà cho những ai yêu Huế và cho
một người muôn năm cũ đã sống bên bờ sông An Cựu của một
thời vàng son thuở trước
Hồ Đắc Duy
Vì sao
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Chắc hẳn những ai đã sống ở Huế đều không thể không biết
đến hai câu ca dao :
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Thế nhưng đã có mấy ai đã từng đặt câu hỏi Vì sao sông
An cựu lại “nắng đục mưa trong” ? Con sông gắn liền với
những địa danh quen thuộc : Bến Ngự, Phủ Cam, An cựu… đã
từng đi vào thi ca, âm nhạc và nó cũng mang trong mình
một truyền thuyết vô cùng thú vị.
Sông An cựu ngày xưa ( đoạn này có tên là Phủ Cam)
Sông An Cựu là chi lưu của sông Hương, chảy qua phía Nam
Thành phố Huế, sông còn có tên là Lợi Nông. Đây là một
con sông đào, được đào vào năm Gia Long 13. Vua Gia Long
cho đào khơi thông sông Hương với sông Đại Giang nhập
vào phá Hà Trung, góp phần thau chua rửa mặn cho cánh
đồng Hương Thuỷ, vì vậy mới có tên là Lợi nông. Ngoài ra,
sông An Cựu còn có tên khác là sông Phủ Cam hay sông
Thanh Thuỷ. Năm 1836, sông Lợi Nông đã được khắc vào
Chương đỉnh trong Cửu đỉnh đặt trong Hoàng Thành.
Ở đoạn đầu của sông có Bến Ngự để thuyền rồng của nhà
vua cập bến mỗi khi đi tế trời ở Đàn Nam Giao. Phía hạ
lưu có các hành cung Thần Phù, Thuận Trực để vua tạm
nghỉ trong những lần về chơi ở phá Hà Trung hoặc về rừng
Đông Lâm săn bắn.
Theo truyền thuyết thì đầu thế kỷ 19, khi sơn hà xã tắc
đã thống nhất, cùng với việc kiến thiết xây dựng kinh đô,
củng cố triều chính, phát triển kinh tế, vua Gia Long đã
sắc cho Bộ Công đào sông An Cựu theo ước nguyện của dân
trong vùng. Lúc đó dòng sông được khơi thông từ vũng eo
dưới mũi cồn Giã Viên. Nhưng do khơi dòng đúng vào nơi
hang động của một con thuồng luồng khổng lồ nhiều năm ẩn
dật dưới lòng sông Hương làm cho hang động của nó bị lộ
ra, do vậy mà mỗi khi trời nắng, thời tiết nóng không
chịu được nó trở nên dữ tợn, vẫy vùng, khuấy đảo phù sa,
làm đục ngầu cả dòng nước nguồn, chính vì vậy mà sông An
Cựu trở nên đục vào những ngày nắng. Còn những ngày mùa
thu, tiết trời mát mẻ, thuồng luồng nằm im trong hang
động, dòng sông không bị khuấy đảo, nước sông An Cựu trở
nên trong vắt như mặt nước Hương Giang.
Sông An Cựu với bờ kè hai bờ sông
Trên thực tế, thì dòng sông này là dòng sông đào nhận
nước từ sông Hương trong xanh chảy về Phá Hà trung và ra
biển nên ngay cả những ngày mưa nước vẫn ít khi đục vì
không có nước nguồn trên núi chảy về. Trái lại, mùa nắng
hạn, nước sông cạn, có khi cạn gần đến đáy sông và lại
có màu vàng đục của lớp phù sa dưới đáy. Ngoài ra còn có
một cách giải thích khác nữa, tôi không biết có chính
xác không những đến bây giờ cái kiến thức này vẫn tôi
vẫn không bao giờ quên. Đó là vào năm tôi học học lớp 9,
thầy Việt Anh ( trường Nguyễn Tri Phương - Huế) dạy
chúng tôi môn hoá học đã đưa ra một cách giải thích khác
hẳn và rất chi là hoá học : sở dĩ sông An Cựu nắng đục
mưa trong là do dưới lòng sông chứa một hàm lượng lớn
nguyên tố sắt, vào mùa nắng sông cạn nước, nhiệt độ lên
cao do đó xảy ra phản ứng khử tạo ra oxit sắt kết tủa có
màu nâu đỏ, chính hàm lượng oxit sắt này lơ lửng trong
dòng nước đã làm cho nước sông có màu đục ngầu. Đến khi
trời lạnh lớp oxit sắt này lắng xuống nên dòng sông lại
trong xanh. Một lời giải thích thú vị mà cho đến bây giờ
tôi vẫn không quên cả câu ca dao lẫn bài học của Thầy.
Cách lý giải này mặc dù chưa được kiểm chứng nhưng có
một chi tiết liên quan đến nó, đó là một trong những cây
cầu bắc qua dòng sông này có tên là cầu Kho rèn (nối
liền đường Trần Phú và đường Lý Thường Kiệt). Phải chăng
theo cách gọi tên cây cầu như vậy thì nơi đây xưa kia đã
có một Kho rèn hoặc một lò rèn lớn hoạt động, như vậy
liệu có phải vùng đất ở đây có sắt hoặc giả sắt từ lò
rèn này mà trôi xuống lòng sông?
Cho đến bây giờ thì dòng sông An Cựu, không chỉ nắng đục
mà mưa nước vẫn đục. Đất đai từ các cống rãnh hàng năm
vẫn đổ xuống dòng sông. Người ta vẫn lén lút đổ rác, đổ
xà bần xây dựng xuống dòng sông làm cho dòng sông đào
vốn đã không sâu bây giờ ngày lại càng cạn dần. Có những
đoạn sông vào mùa nắng hạn mặt nước chỉ còn xâm xấp đáy
sông.
Lực lượng thanh niên và dân phòng vớt bèo trên sông An
cựu
Chính quyền thành phố cũng đã tốn không biết bao nhiêu
tiền để nạo vét dòng sông, dọn rác, xây kè chống xói lở
và vành đai hai bên bờ, tạo cảnh quang cho dòng sông,
vậy mà chính những bờ kè và lề sông ấy lại trở thành
những quán ăn, quán bia, quán giải khát di động và có ai
chắc rằng rác từ đó lại không được xả xuống dòng sông?
Nếu mỗi một người dân không tự ý thức trong việc bảo vệ
môi trường, cứ đà ấy, viễn cảnh của một dòng sông đen
chẳng mấy chốc sẽ trở thành… cận cảnh! Và, hàng chục tỷ
của Nhà nước đã và đang đổ ra để chỉnh trang đôi bờ sông
An Cựu sẽ không còn mấy ý nghĩa. "Sông An Cựu, nắng đục,
mưa trong" câu ca dao xưa đã đi vào tâm thức của người
dân xứ Huế chẳng lẽ bây giờ chỉ là huyền thoại ?
Cung An Định - một công trình di tích lịch sử nằm ngay
sát bờ sông An Cựu
Nguồn: myblog.yahoo.com/ngvliem/
No comments:
Post a Comment