渭城曲-送元二使安西
渭城朝雨浥輕塵,
客舍青青柳色新。
勸君更盡一杯酒,
西出陽關無故人。
Vị Thành khúc - Tống Nguyên nhị sứ An Tây
Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Dịch nghĩa
Tại Vị Thành, mưa ban sáng làm ướt đám bụi mỏng
Quán khách có liễu màu sắc mới mẻ xanh tươi
Xin anh hãy uống cạn chén rượu
Ra khỏi Dương Quan về phía tây e không còn có bạn nữa
Vị Thành nay ở phía tây bắc An Huy, tỉnh Thiểm Tây, xưa là thành Hàm Dương của nước Tần.
VƯƠNG DUY
TỐNG NGUYÊN NHỊ SỨ TÂY AN
Vị thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liểu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương quan vô cố nhân.
Bản dịch của SƠN TRUNG
Bình minh mưa ướt Vị thành
Rặng liễu sắc thêm xanh.
Xin anh cạn chén ly biệt,
Dương Quan ra khỏi ai cố nhân!
25VIII 2020
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa
Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.
(Năm 756)
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Bản dich của Sơn Trung
Quạ kêu , trăng lặn, sương đầy trời,
Đêm lạnh nằm co với lửa chài.
Thành ngoại Cô Tô Hàn Sơn Tự,
Nửa đêm nghe tiếng chuông đổ hồi!
25VIII 2020
HOÀNG HẠC LÂU
|
|
|
- Tích nhân[1] dĩ thừa hoàng hạc khứ,
- Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
- Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
- Bạch vân thiên tải không du du.
- Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
- Phương thảo thê thê Anh Vũ[2] châu.
- Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
- Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
- 昔人已乘黃鶴去,
- 此地空餘黃鶴樓。
- 黃鶴一去不復返,
- 白雲千載空悠悠。
- 晴川歷歷漢陽樹,
- 芳草萋萋鸚鵡洲。
- 日暮鄉關何處是,
- 煙波江上使人愁。
- Dịch nghĩa
- Lầu Hoàng Hạc
- Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
- Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc
- Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
- Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
- Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
- Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
- Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
- Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!
THÔI HẠO
HOÀNG HẠC LÂU
Bản dịch của Sơn Trung
Người xưa cỡi hạc từ lâu,
Đến nay còn lại cái lầu chơ vơ.
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương bãi lạnh cây bày,
Bãi xưa Anh Vũ xanh đầy cỏ non,
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Ottawa 20 VIII 2020
靜夜思
床前明月光,
Tĩnh dạ tư
Lý Bạch
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Đầu giường trăng sáng soi,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng,
Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.
Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà
Dịch nghĩaĐầu tường trăng sáng soi, Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông đã xa quê và xa mãi. Bởi vậy, cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà. |
Sơn Trung dịch
LÝ BẠCH
TĨNH DẠ TƯ
Đầu giường nhìn bóng trăng
Ẳn hiện như mù sương.
Ngẫng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê hương.
20VIII 2020
No comments:
Post a Comment