Huế là cố đô cho nên có một nền văn chượng đặc thù. Ðến Huế để nhìn lại những cung điện, đền đài, lăng tẩm, ăn các món ăn đặc sản .. chưa đủ , nhưng nếu nghe tiếng hát ru con qua ca dao, các giọng hò trên sông Hương, như vậy mới gọi là thưởng thức trọn vẹn được cái hay, thơ mộng của Huế.
Ca dao Huế là dấu ấn của văn chương Huế và cả Thừa Thiên.
Ru em em thét cho muồi
Để mạ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi Chợ Quán, Chợ Cầu,
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh.
Chợ Dinh bán áo con trai.
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.
-Ai ra xứ Huế thì ra.
Ai về là về Gia Hội ,
Ai về là về Nam Giao
Dốc Nam Giao còn cao mong đợi,
Thuyền Bến Ngự còn đợi câu chờ.
Người tình ơi là người tình ơi!
Thi ca bình dân gợi lại dư âm, cái uy nghi của Kinh đô, Từ cửa Ngọ Môn cao vời vợi có lầu Ngũ phụng uy quyền qua các triều đại đến Ðiện Thái Hòa nơi thiết-đại-triều giờ đây vắng bóng người.. Thời xa xưa người Việt dùng loại đèn chai đốt sáng, đã biến mất theo sự phát triển khoa học, đèn điện sáng tiện lợi, nhưng không tạo được nét huyền ảo trong những đêm trăng non ở Huế .
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng
Ai ơi chớ phụ đèn chai
Thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Người xưa tạo lập để công hầu vô ra.
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh,
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Sinh em ra phận gái, không hỏi chốn kinh thành làm chi !
Huế đất không rộng nhưng có chợ Ðông Ba trước có tên là Ðông Phước thay đổi vài lần , năm 1899 dời ra phố Tràng Tiền cho đến ngày nay, chùa Diệu Ðế ở đông ngạn sông Ðông Ba, Thiên Mụ..... các di tích dù bị tàn phá bởi chiến tranh, thiên tai được trùng tu, những địa danh gắn liền với lịch sử, và phong tục.
-Văn Thánh trồng thông
Võ Thánh trồng bàng
Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u. (1)
-Ðông Ba , Gia Hội hai Cầu
Ngó lên Diệu Ðế trống lầu gác chuông
Bến chợ Ðông Ba, tiếng gà eo óc
Bến chùa Thọ Lộc, tiếng trống sang canh
Giữa sông Hương giợn sóng khuynh thành
Theo tương truyền năm 1601 chúa Nguyễn Hoàng đến đây thấy phần đất thiên, cảnh đẹp, trước có sông sau là hồ, dựng nên chùa Thiên Mụ, mãi đến năm 1710 chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc chuông nặng 3285 cân ta, tiếng chuông ngân vọng ra xa, bên kia sông là làng Long Thọ Xương , có tiếng gà gáy ó o:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Câu này bị cải biến:
Thọ Xương ở Bắc, Long Thọ ở Huế,
Huế đẹp thơ mộng, từ Ðà nẳng ra trước khi đến Huế thấy núi Ngự Bình nhìn phía trước tròn nhưng sau hơi méo, cây cối không cao nhưng có nơi chim cu đứng gáy. Bến đò nằm trên đường Huỳnh Thúc Kháng, dưới cầu Gia Hội những chiếc đò nhỏ có mái cong.. Nếu khách bộ hành đi ngang qua đó sẽ được mời gọi. Muốn thưởng thức vẽ đẹp Hương giang, thuê thuyền đi trên sông, với gió mát, vẽ đẹp của thiên nhiên mây nước..đi vào thế giới yên tĩnh, tâm hồn thỏa mái nghe vọng lại tiếng hát cung đàn của ai đó ?
Thuyền ai lơ lửng trên sông,
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Ðể ta kết ngãi nối duyên
Trai anh hào gặp được thuyền quyên còn gì ?
Thuyền ai trôi trước cho em lướt tới cùng ,
Chiều đã về, trời đất mông lung,
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng đêm sương.
-Núi Ngự Bình mơ màng trăng gió
Niềm tâm sự ai thấu rõ cho mình
Ðoái nhìn sông Hương nước chảy thanh thanh
Sông bao nhiêu nước, dạ sầu bấy nhiêu !
Biến cố của Kinh thành Huế sau khi vua Tự Ðức(1829-1883) băng hà, để lại những rối ren trong nội bộ triều chính, (2) được nhắc lại qua cao dao :
Một nhà sinh được ba vuă (3)
Vua còn, vua mất , vua thua chạy dài
Gẫm xem thế sự mà rầu
Ở giữa Ðồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Nhất giang lưỡng quốc nam phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường (4)
Thực dân Pháp đô hộ, Triều đình Việt Nam mất hết uy quyền chỉ làm vì, thực quyền do thực dân và bọn tay sai cai trị, bóc lột tận xương tủy dân tộc. Các vua quan Việt Nam đều phẩn uất. Thành Thái bị phế, vua Hàm Nghi và Duy tân đều muốn khởi nghĩa dành lại độc lập, nhưng đều thất bại. (5)
Chiều chiều trên (trước) bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu , ai sầu, ai thảm ?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông ?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông ?
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non!
Sông Hương chảy đến chợ Ðông Ba chia làm ba nhánh, không kể sông Ðông Ba chảy dọc theo phía Ðông hoàng thành về Bao Vinh, một nhánh chảy về Gia Hội chợ Dinh, Bãi Dâu , một nhánh chảy dọc theo thôn Vĩ Dạ xuống ngã Ba Sình. Ở giữa hai nhánh nầy là Cồn Hến. Một nhánh khác chảy về Chợ Cống có Ðập Ðá ngăn lại.
Thuyền từ Ðông Ba, thuyền qua Ðập Ðá
Thuyền về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình
Lờ đờ bóng ngả chênh chênh
Giọng hò xa vọng, nhắn tình nước non
Thời thế ngửa nghiêng, Huế đôi lúc trỡ nên u buồn trầm mặc, sầu muộn trong thời tao loạn. những biến đổi của cuộc đời, chỉ để lại cho con người giọt nước mắt thương đau !
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự
Sầu vơi giọt lệ nước sông Hương
Nơi bến Trường Tiền có cây đa bóng mát,
Gần bến Bồ Ðề có bãi phẳng lì
Trời ơi ! sang giặc làm chi ?
Ðể quân Trấn Vũ phải ra đi cơ hàn !
-Ðêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa nghiêng
Tiếng hát ngư ông giữa sông Nhật Lệ,
Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Một mình em ngồi giữa sông Hương,
Tiếng ca theo khúc đoạn trường ai nghe !
Nhiều sĩ phu không cộng tác với chính quyền thuộc địa, một lòng chống lại thực dân, nhưng không thiếu những người vì quyền lợi cá nhân làm tay sai cho giặc, để vinh thân phì gia
Ðất Thừa Thiên trai thanh gái lịch
Non xanh nước biếc, điện ngọc, đền rồng
Tháp bảy tầng, thánh miếu, chùa Ông
Trách ai hai dạ một lòng
Tham đồng bạc trắng phụ lòng dân đen !
Tình yêu với tổ quốc cũng như gia đình được truyền tụng, cao dao chứa đựng được lòng hiếu thảo của con cái đối cha mẹ ông bà.
Ðêm đêm khấn vái Phật ,Trời
Cầu xin cha mẹ sống đời với con
Vô chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành
Con gái lúc trưởng thành lập gia đình, theo chồng đi về một vùng trời nào xa xăm tận Quảng Nam... không quên nhìn mái nhà xưa thân yêu luyến tiếc tuổi thơ , xa gia đình theo quan niệm xưa" xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử"
Ra đi ngó trước ngó sau ,
Ngó nhà mấy cột , ngó cau mấy buồng.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Mỗi địa phương đều có những lời hát ru con, từ thành thị cho tới thôn quê có những nét giống nhau, nhưng âm hưởng tùy theo lời ru à ời ..kéo dài thanh thoát . Chúng ta đã được mẹ hiền, hát ru ngủ lúc còn bé nằm trong nôi, Những trưa hè thanh vắng trong thành nội, vọng lại tiếng hát ru con à ời kéo dài âm thanh như lời dặn dò
Mạ ơi ! chớ đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ!
Ru con con thét cho muồi
Ðể mạ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu
Mua cau Nam phổ, mua trầu chợ Dinh
Cá tôm mua tại chợ Sình
Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường
- Con chim xanh xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu ngành dâu da
Cực lòng em chẳng nói ra,
Chờ trăng trăng lặng chờ hoa hoa tàn...
Nguồn an ủi của tuổi già được sống bên con cháu có lòng hiếu thảo. Chữ hiếu là căn bản đạo đức của văn hóa lâu đời. Người Việt rất thiết tha với mái ấm gia đình. Các món ăn ngon, dâng ba mẹ dùng như gạo vùng An Cựu nổi tiếng thơm ngon. Cha mẹ phải từ giả cõi đời nầy, theo định luật sinh tồn của tạo hóa. Phong tục thờ cúng tổ tiên tưởng nhớ ông bà. Trông lên bàn thờ nhang tàn đèn tắt, cảm thấy nỗi buồn lắng đọng
Ngó lên nhang tắt đèn lờ
Mẫu thân đâu vắng bàn thờ lạnh tanh !
Mẹ Già như chuối ba hương
Như xôi nếp luột (một), như đường mía lau
-Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo lúa de An Cựu mà nuôi mẹ già
Tình yêu là những rung động của hai tầng số tâm hồn gặp nhau, ca dao Huế cho tình ca đó len lỏi vào lòng, vượt thời gian tâm lý cũng như vật lý, tìm đến với tình yêu những phút giây đợi chờ, thương nhơ, hay giận hờn
Ðường vô xứ Huế loanh quanh,
Non sông nước biếc như tranh họa đồ
Thương anh, em cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang (6)
Phá Tam giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm
Lời nguyện ước một lòng thủy chung, đá mòn theo thời gian xâm thực nhưng lòng người, tình yêu phải một lòng một dạ. Hạnh phúc không đánh đổi bằng tiền, không phải ở địa vị cao sang, hạnh phúc chính là ở chổ sống bên nhau, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Khi nào cạn nước Ðồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền !
Tay bưng dĩa nuối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau !
-Núi Ngự Bình trước tròn sau méo,
Sông An Cựu nắng đục mưa trong,
Ðôi ta nguyện kết chữ đồng,
Ðá mòn sông cạn mà lòng thủy chung!
-Dãy dọc tòa ngang, giàu sang có số,
Kim Long, Nam Phổ, nước đổ về Sình
Hai đứa mình gá nghĩa ba sinh,
Dẫu có mần răng đi nữa, hai đứa mình không thể bỏ nhau
Ðôi ta kết nghĩa vợ chồng
Ðá mòn, sông cạn mà lòng thủy chung !
Sông nước thiên nhiên, cô gái chèo đò duyên dáng mái tóc thề dưới chiếc nón bài thơ. Phong cảnh nhân tình như một bức tranh, đủ màu sắc, có sông hồ, có vườn, chùạ.trái cây ngọt ngào ..
Thuyền về Ðại Lược
Duyên ngược Kim Long
Ðây là chỗ rẽ của lòng
Mai kia rồi biết trên sông bến nào?
Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bạch diệp
Ðất Hương Cần ngọt quít thơm cam
-Ai về Cầu ngói Thanh Toàn
Cho anh về với một đoàn cho vui.
Ai về Cầu ngói Dạ Lê,
Cho em về với thăm quê bên chồng.
-Ðố ai biết rít (rết) mấy chân
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người
-Ðông Ba, Gia Hội hai cầu
Có chùa Diệu Ðế bốn lầu hai chuông.
Nhớ nhung nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, những ước mơ thầm kín thuyền tình cập bến yêu đương
Kim Long có gái mỹ miều,
Ta thương ta nhớ, ta liều ta đi!
(Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi! )
-Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn,
Chèo qua Ngọc Trản, đến vạn Kim Long ;
Sương sa gió thổi lạnh lùng ;
Sóng xao trăng lặn , gợi lòng nhớ thương !
Nỗi xót xa khi tình yêu bị chia ly, buồn cuộc đời dâu bể, cảnh vật đổi thay mỗi người một phương trời vô định
Nước chảy xuôi , con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vược lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng trên tay rớt xuống không phiền,
Phiền người bội nghĩa biết mấy niên cho hết sầu!
-Em nói với anh như rìu chém xuống đá,
Như rựa chém, xuống đất, như mật rót vào tai.
Răng chừ em lại nghe ai
Qua cầu nghiêng nón chạm vai không chào ?
Anh nói với em như rìu chém xuống đá
Như rạ chém, xuống đất, như mật rót vào tai.
Bây chừ anh lại nghe ai.
Bỏ em ở chốn non đoài thảm chưa ?
Chia tay nhưng vẫn mơ ngày hội ngộ, với số phận đẩy đưa trong bi thương và gợi cảm
Cầu Trường Tiền sáu vài, mười hai nhịp
Anh qua rồi xin kịp về sau
Kẻo mai tê bóng xế ngang cầu
Bạn còn thương bạn biết gửi sầu nơi mô mà tìm ?
-Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non
Dị bản
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong
Anh đi lên đi xuống đã mòn
Không ghé vô thăm thầy mẹ
Để thầy mẹ trách rể con chi bạc tình
-Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi
Thà rằng không biết thì thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn
Tập tục ngàn xưa dựng sẳn bức từng "môn đăng hộ đối" một chướng ngại lớn lao viễn ảnh đen tối của ái tình !!. Quan niệm hôn nhân, cha mẹ đặt đâu còn ngồi đó, hôn nhân gượng ép, tình yêu đôi khi phải phó mặt cho định mệnh an bài.
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong.
Ðôi ta như chỉ lộn vồng,
Nợ thì có nợ, vợ chồng không duyên !
Bởi vì mẹ thầy lánh đục tìm trong
Cho nên duyên chàng, phận thiếp cứ long đong mãi hoài !
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non
Dị bản
Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi moong
Anh đi lên đi xuống đã mòn
Không ghé vô thăm thầy mẹ
Để thầy mẹ trách rể con chi bạc tình
Sự kỳ diệu của tạo hóa, màu nhiệm của định luật ràng buộc ái tình đưa đến hôn nhân , đàn bà cần các đức tính "công dung ngôn hạnh" nhưng không thể thiếu lòng chung thủy.
Ðôi ta kết nghĩa vợ chồng
Ðá mòn, sông cạn mà lòng thủy chung !
Ði đâu cho thiếp đi cùng
Ðói no thiếp chịu lạnh lùng có đôi !
Lên non em cũng lên theo
Xuống thuyền em cũng đắp đeo mạn thuyền !
Ca dao Huế là kho tàng văn chương bình dân vô giá.Ca dao Huế là biểu thị tâm hồn Huế, lịch sử Huế.
Có kẻ viết:
Sông Hương nước chảy lờ đờ,
Dưới sông có đĩ trên bờ có vua!
Người truyền bá câu này không hiểu gì về Huế và lịch sử Huế. Khi Pháp chiếm Việt Nam, các vua đã anh dũng chiến đấu:
"Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài"
3 vua trên là những vua nào ?
Đó là Đồng Khánh (vua còn); Kiến Phúc (vua mất) và Hàm Nghi (vua thua chạy dài)
Câu ca dao này nói về gia đình Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai - Hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị. Ông có 3 người con làm vua:
- Vua Kiến Phúc: tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ ba của Kiên Thái Vương và bà Bùi Thị Thanh. Vua Tự Đức vì lúc bé bị bệnh đậu mùa, không có con nên đã nhận Ưng Đăng làm con nuôi. Sau này, Ưng Đăng lên ngôi, là vị vua thứ 7 của triều Nguyễn.
- Vua Hàm Nghi: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Nguyễn Phúc Minh, con thứ 5 của Kiên Thái Vương và bà Phan Thị Nhàn. Là vua thứ 8 triều Nguyễn.
- Vua Đồng Khánh: tên huý là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, đồng thời là con nuôi của vua Tự Đức. Là vị vua thứ 9 của triều Nguyễn.
Trong 3 vua này thì vua Kiến Phúc chỉ làm vua được 8 tháng. Vua mất lúc mới 16 tuổi, chưa nạp phi, không có con cái. Vua Hàm Nghi chống lại quân Pháp, ban hịch Cần Vương, tổ chức kháng chiến nhưng thất bại. Vua phải chạy lên vùng núi Quảng Bình, Hà Tĩnh. Sau bị Pháp bắt đầy đi Algérie năm 1888. Vua Đồng Khánh lên ngôi năm 1885. Vua rất được lòng người Pháp nhưng chỉ ở ngôi được hơn 3 năm, mất ngày 28 tháng 1 năm 1889. Khi đó ông 25 tuổi.
Câu ca dao này ra đời khi vua Đồng Khánh vừa lên ngôi. Vua Kiến phúc đã mất. Vua Hàm Nghi đang cùng quân Cần Vương chạy lên vùng núi. Do đó mới gọi là "vua còn, vua mất, vua thua chạy dài".
Có nhà địa lý chê Huế:
Sơn bất cao
Thủy bất thâm.
Nam đa trá,
Nữ đa dâm
Nhưng Lưu Vũ Tích có quan điểm khác trong bài Lậu Thất minh:
Lậu thất minh 陋室銘
(Bài minh về căn nhà quê mùa)
Thơ » Trung Quốc » Trung Đường » Lưu Vũ Tích
陋室銘
山不在高,有仙則名。
水不在深,有龍則靈。
斯是陋室,惟吾德馨。
苔痕上階綠 ,草色入簾青。
談笑有鴻儒,往來無白丁。
可以調素琴,閱金經。
無絲竹之亂耳,無案牘之勞形。
南陽諸葛廬,西蜀子雲亭。
孔子云:「何陋之有?」
Lậu thất minh
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;
Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc linh.
Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.
Ðài ngân thượng giai lục, thảo sắc nhập liêm thanh.
Ðàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh.
Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh.
Vô ty trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình.
Nam Dương Gia Cát lư, Tây Thục Tử Vân đình.
Khổng Tử vân: “Hà lậu chi hữu?”
Nguồn: Cổ văn Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê, Tao Đàn xuất bản, 1966
Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
Núi không tại cao, có tiên thì nổi danh;
Nước không tại sâu, có rồng thì hoá linh.
Ðây là căn nhà quê mùa, chỉ nhờ đức ta mà thơm tho.
Ngấn rêu biếc leo thềm, sắc cỏ xanh chiếu rèm.
Cười nói có đại nho, đi lại không bạch đinh.
Có thể gảy cây đàn mộc mạc, đọc Kim kinh.
Không tiếng tơ tiếng trúc làm loạn tai, không giấy tờ, thư trát làm mệt thân hình.
Thảo lư của Gia Cát ở Nam Dương, nhà mát của Tử Vân ở Tây Thục.
Khổng Tử nói: “Có gì mà quê mùa?”
Bản dịch của Sơn Trung
Núi không cần cao,
Có tiên ắt nổi danh,
Sông không cần sâu,
Có rồng ắt linh.
Căn nhà quê mùa của ta
Nhờ đức thơm của ta mà nổi danh
Rêu biếc leo thềm, cỏ xanh chiếu rèm
Đại nho vui cười, vắng kẻ bạch đinh
Ta gảy cây đàn mộc mạc, đọc Kim kinh
Không tơ trúc loạn tai,
Không thư trát loạn thân mình
Thảo lư của Gia Cát Nam Dương
Nhà mát của Tử Vân ở Tây Thục,
Khổng tử nói:" Đâu có quê mùa!"
SƠN TRUNG
OTTAWA 27VIII 2020
No comments:
Post a Comment