Nghĩ về quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam
Nhân chuyến công du của Tổng thống Barack Obama tại Việt Nam, chúng
ta thử nghĩ về mối quan hệ (chính trị) giữa hai nước từng là kẻ thù của
nhau trong suốt thời chiến tranh Việt Nam.
Nhắc đến chữ “kẻ thù”, xin lưu ý là, với các chính khách Mỹ, như họ
thường nói, chỉ có những lợi ích quốc gia vĩnh viễn nhưng không có bạn
hay kẻ thù vĩnh viễn. Bạn hay thù có thể thay đổi từng lúc, tuỳ theo
quyền lợi quốc gia của họ. Mà quyền lợi quốc gia của Mỹ, trong giai đoạn
hiện nay cũng như trong vài thập niên tới, chủ yếu nằm ở vùng châu Á –
Thái Bình Dương nơi họ bị thách thức lớn nhất từ một cường quốc mới nổi:
Trung Quốc. Có thể nói toàn bộ chiến lược quay về với châu Á và Thái
Bình Dương của Mỹ đều xuất phát từ những đe doạ đến từ Trung Quốc.
Về phương diện chính trị và quân sự, những đe doạ từ Trung Quốc chủ
yếu diễn ra trên mặt biển. Chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, nếu xảy
ra, chắc chắn sẽ xảy ra trên biển. Có hai vùng biển chính có thể biến
thành chiến trường: Hoa Đông và Biển Đông. Khả năng bùng nổ xung đột lớn
ở biển Hoa Đông tương đối ít vì ở đó Trung Quốc phải đối đầu với một kẻ
thù rất giàu và cũng rất mạnh, hơn nữa, có quan hệ liên minh chiến lược
chặt chẽ với Mỹ: Nhật Bản. Chỉ có ở Biển Đông là Trung Quốc có nhiều ưu
thế nhất. Tất cả các đối thủ của Trung Quốc ở vùng biển ấy đều nhỏ và
yếu hơn Trung Quốc hẳn. Bởi vậy, để bành trướng lãnh hải và lãnh thổ,
chắc chắn Trung Quốc sẽ chọn hướng Biển Đông của Việt Nam. Mà họ đã bắt
đầu tiến trình bành trướng ấy thật. Từ hơn một năm nay, họ đã bồi đắp
các bãi đá thành đảo nhân tạo và biến chúng thành các căn cứ quân sự.
Các nhà bình luận chính trị dự đoán không lâu nữa, Trung Quốc sẽ tuyên
bố vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông.
Đối diện với nguy cơ bành trướng ấy của Trung Quốc, Mỹ tuyên bố chính
sách chuyển trục về châu Á – Thái Bình Dương. Ở vùng này, Mỹ đã có bốn
đồng minh lâu đời và đáng tin cậy nhất: Úc, Nhật, Hàn Quốc và
Philippines. Từ mấy năm nay, Mỹ ra sức tăng cường hợp tác với nhiều quốc
gia khác trong khu vực. Liên quan đến Biển Đông, ngoài Philippines, các
nước được nhắm tới đầu tiên là Malaysia, Singapore và Việt Nam. Trong
số đó, Việt Nam chiếm vị trí quan trọng hàng đầu vì Việt Nam có đảo và
vùng biển bị tranh chấp nhiều nhất. Có thể nói chiến lược đối đầu với
Trung Quốc trên Biển Đông của Mỹ sẽ phụ thuộc khá nhiều vào thái độ của
Việt Nam: Nếu Việt Nam đồng tình với việc xâm lấn của Trung Quốc, Mỹ sẽ
mất đi một chỗ dựa quan trọng. Quan trọng nhưng không phải bất khả thay
thế: Mỹ vẫn còn nhiều đồng minh khác trong khu vực.
Về phía Việt Nam cũng vậy. Trừ phi Việt Nam cam tâm bán đứng Biển
Đông cho Trung Quốc, cách duy nhất để Việt Nam có thể bảo vệ chủ quyền
của mình trên Biển Đông là phải liên kết với Mỹ. Trước hết, cần loại trừ
ngay khả năng Việt Nam có thể một mình bảo vệ được chủ quyền của mình.
Tương quan lực lượng giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay khác hẳn những
năm 1978-79. Để tự vệ, Việt Nam cần có đồng minh. Từ mấy năm nay, Việt
Nam cố sức xây dựng đối tác chiến lược với nhiều quốc gia trên thế giới.
Nhưng những quốc gia thực sự có thể giúp Việt Nam trong thế trận đương
đầu với Trung Quốc rất hiếm. Ngay cả Nga, nước Việt Nam hy vọng nhất,
mới đây cũng tuyên bố ủng hộ Trung Quốc trong chính sách phi quốc tế hoá
các tranh chấp ở Biển Đông. Ấn Độ cũng không phải là nước đáng tin cậy:
Một mặt, Ấn Độ có truyền thống phi liên kết lâu đời; mặt khác, về quân
sự, Ấn Độ cũng không phải là đối thủ của Trung Quốc. Đó là chưa kể, về
quyền lợi, không có lý do gì để Ấn Độ chọn đứng hẳn về phía Việt Nam.
Một số quốc gia khác, như Úc hay Nhật chỉ có thể trở thành hữu dụng khi
Mỹ cũng nhập cuộc. Thành ra Việt Nam chỉ có một đồng minh duy nhất có
động cơ và đủ khả năng để giúp Việt Nam bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông:
Mỹ. Không còn nước nào khác. Tuyệt đối không.
Bởi vậy, có thể nói tuy cả hai có cùng quyền lợi trên Biển Đông nhưng rõ ràng là Việt Nam cần Mỹ hơn là Mỹ cần Việt Nam.
Đó là trên nguyên tắc.
Trên thực tế, cho đến nay, nước bày tỏ nhiều thiện chí nhất là Mỹ chứ
không phải Việt Nam. Để củng cố mối quan hệ song phương, Mỹ có hai
nhượng bộ chính: Một, thừa nhận thể chế chính trị phi dân chủ của Việt
Nam (qua việc tiếp đón Nguyễn Phú Trọng ở Nhà Trắng, và những cam kết
không xâm phạm vào thể chế của nhau) và hai, làm ngơ trước những sự vi
phạm nhân quyền nghiêm trọng tại Việt Nam khi quyết định dỡ bỏ lệnh cấm
bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam vẫn tiếp tục
vi phạm nhân quyền. Thả người này ra, họ lại bắt người khác. Trong nhà
tù của họ, do đó, lúc nào cũng đầy những tù nhân lương tâm, không có tội
nào khác ngoài việc đòi hỏi dân chủ hay chống lại Trung Quốc.
Ở phương diện này, có thể nói Việt Nam đã “thắng” Mỹ.
Có điều, đó chỉ là những cái “thắng” tạm thời. Về lâu về dài, để xây
dựng cái Nguyễn Tấn Dũng gọi là “niềm tin chiến lược”, hai bên cần chia
sẻ với nhau những bảng giá trị chung, trong đó, nổi bật nhất là những
vấn đề liên quan đến nhân quyền. Không có sự chia sẻ ấy, mọi sự hợp tác
đều vẫn bị giới hạn. Chính sự giới hạn đó sẽ làm Việt Nam bị thiệt khi
thực sự đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Nguyễn Hưng Quốc
Nhà
phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ
bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt
Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về
văn học Việt Nam.
No comments:
Post a Comment