Nguyễn Tất Nhiên - Một trường thiên kịch bản bi ai
Đỗ Trường (Danlambao) - Khi
ngôi sao mai Nguyễn Nho Sa Mạc chợt vụt tắt, khoảng trống để
lại tưởng như khó có thể bù lấp, thì may mắn thay, trên vòm
trời thi ca xuất hiện một Nguyễn Tất Nhiên. Tuy còn tuổi học
trò, và khác nhau về thi pháp sáng tạo, nhưng có thể nói,
Nguyễn Nho Sa Mạc và Nguyễn Tất Nhiên là hai thi sĩ đích thực.
Sự xuất hiện của họ góp phần làm dịu mát, và giải tỏa sự
bế tắc của văn thơ, cũng như âm nhạc miền Nam trong giai đoạn
chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc.
Đọc và đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, thi sĩ Nguyễn
Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh năm 1952 tại Biên
Hòa. Ông là hiện tượng rất đặc biệt của văn học miền Nam. Cái
đặc biệt ấy, không chỉ ở tài năng chín sớm, mà ta còn thấy
rõ ý tưởng, cũng như hình tượng và ngôn ngữ mới lạ trong thơ
Nguyễn Tất Nhiên.
Thật vậy, 14 tuổi (năm 1966) cùng với Đinh Thiên Phương, cậu học
trò Nguyễn Hoàng Hải với bút danh Hoài Thi Yên Thi đã cho xuất
bản tập thơ đầu tay Nàng Thơ Trong Mắt. Năm 16 tuổi, Hoài Thi Yên
Thi in chung tập thơ thứ hai Dấu Mưa Qua Đất cùng với bút đoàn Tiếng
Tâm Tình. Và sau khi đổi bút danh thành Nguyễn Tất Nhiên, ông cho
xuất bản Thiên Tai vào năm 1970. Thi tập này là thẻ thông hành,
đã đưa Nguyễn Tất Nhiên thẳng vào làng văn. Đây là dấu mốc
quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Tất Nhiên.
Dù lúc đó ông vẫn còn ngồi trên ghế trung học Ngô Quyền, Biên
Hòa. Ngay sau đó, một loạt thi phẩm của Nguyễn Tất Nhiên được
các nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy phổ nhạc, tên tuổi ông
càng đóng đinh vào lòng người đọc nhiều hơn, nhất là giới sinh
viên, học sinh. Năm 1978, Nguyễn Tất Nhiên vượt biên, và tị nạn
tại Pháp. Và ở đó, nhà xuất bản Nam Á đã ấn hành thi tập
"Thơ Nguyễn Tất Nhiên" vào năm 1980. Khi đến định cư tại Hoa kỳ,
Nguyễn Tất Nhiên cho in ấn và phát hành Chuông Mơ (1987) Tâm Dung
(1989) cùng thi tập Minh Khúc. Đặc biệt tập nhạc Những Năm Tình
Lận Đận của ông sáng tác từ khi còn ở trong nước cho đến ra hải
ngoại, do nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ ấn hành, vào năm
1984. Nếu đọc, và nghiên cứu đầy đủ, ta có thể thấy, ba khía
cạnh chính làm nên chân dung nhà thơ tài hoa Nguyễn Tất Nhiên:
Tình yêu, ý tưởng và những hình tượng trong thơ, cũng như chiến
tranh, sự phân ly tác động đến tư tưởng, cùng cuộc sống bế
tắc với nỗi đau tuyệt vọng của ông.
Năm 1992, bước vào tuổi bốn mươi, có lẽ trái tim mong manh, dễ
vỡ của người nghệ sĩ Nguyễn Tất Nhiên, không vượt qua được cái
bế tắc của cuộc sống, cũng như tâm hồn, nên ông đã tự kết
thúc cuộc đời mình. Sự ra đi đang ở độ chín, và sung sức nhất
của Nguyễn Tất Nhiên, làm cho rất nhiều người ngơ ngác và
tiếc nuối. Và khoảng trống ông để lại không hề nhỏ, suốt mấy
chục năm qua, chưa người (thi sĩ học trò) nào có thể thay thế,
bù lấp.
Tình yêu, ý tưởng và hình tượng mới lạ trong thơ.
Tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng
tạo của Nguyễn Tất Nhiên. Đọc ông, làm tôi nhớ đến thi sĩ Đinh
Hùng. Bởi, cái chất cuồng nhiệt đến tận cùng, với những
hành động mà người đời cho là điên điên khùng khùng, tỉnh tỉnh
say say ấy trong tình yêu của hai thi sĩ quyện chặt vào nhau
đến vậy. Không rõ, Nguyễn Tất Nhiên có đọc, hoặc chịu ảnh
hưởng tí ti nào từ Đinh Hùng hay không? Bởi, khi đọc ông sự ám
ảnh cứ vẩn vơ đeo bám tôi, y như đọc thơ Đinh Hùng vậy. Tuy
nhiên, một chừng mực nào đó, tôi nghĩ, Nguyễn Tất Nhiên có
chịu ảnh hưởng ý tưởng, xây dựng hình tượng từ Du Tử Lê, ở
một số bài viết vào khoảng năm 1970- 1971. Ta có thể thấy,
cùng viết nỗi đau của tình yêu: "Tình yêu như dao nhọn/ Anh đâm mình, lút cán" và "Về như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm"
hai hình tượng so sánh trong Khúc Thụy Du của Du Tử Lê, và
Khúc Tình Buồn của Nguyễn Tất Nhiên khá tương đồng. Và tất
nhiên, Khúc Thụy Du đã ra đời sớm hơn Khúc Tình Buồn của
Nguyễn Tất Nhiên hai năm.
Cái Tôi, cái nghệ thuật vị nghệ thuật là nền tảng, xương sống
để làm nên khung thơ Nguyễn Tất Nhiên. Mỗi bài thơ được vắt ra
từ cảm xúc của những mối tình đơn độc, nghiệt ngã trong ông.
Và thủ thuật đưa tên tuổi thật của người yêu vào thơ, để gõ
vào tâm lý (tò mò) của người đọc, nhằm đào sâu vào giá trị
chân thực. Tuy nhiên, thủ pháp này, không phải là mới. Bởi,
trước Nguyễn Tất Nhiên có Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng hay Du Tử
Lê… đã sử dụng nghệ thuật này. Nhưng ở lứa tuổi học trò dám
sử dụng, và sử dụng hay như Nguyễn Tất Nhiên, không phải nhà
thơ nào cũng làm được. Do những đặc tính trên, nên những bài
thơ này, thường có sức sống rất lâu dài. Hoặc trở thành những
giai thoại, hay câu chuyện tình sử để lại cho hậu thế:
"…nếu vì em mà ta phải điên tình
cơn giận dữ đã tận cùng mê muội
thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài yếu đuối
tay tre khô mối mọt ăn luồn
dễ gãy dòn miểng vụn tả tơi xương
khi tàn bạo siết cổ người yêu dấu!
em chẳng bao giờ rung động cũ
ta năm năm nghiệt ngã với tình đầu…"
(Duyên của tình ta con gái Bắc)
Thơ và tình yêu, hai thứ đam mê, cuồng nhiệt nhất đối với
Nguyễn Tất Nhiên. Thất bại tình yêu đầu đời như một nhát dao
chém tâm hồn ông. Để rồi, mang theo những vết thương bốn mùa
luôn mưng mủ ấy, cùng nỗi thất vọng và cô đơn, Nguyễn Tất Nhiên
cuộn mình vào trong thơ. Và tưởng chừng thơ ca sẽ làm giảm
bớt nỗi đau, giải thoát linh hồn người thi sĩ. Nhưng không phải
vậy, bởi cái thất vọng ấy, nỗi đau ấy ủ trong thơ còn nhức
nhối, và day dứt hơn sức chịu đựng của con người. Chỗ Tôi, là
một bài thơ đã bật ra từ cái ung ủ như vậy của Nguyễn Tất
Nhiên. Xét về nghệ thuật, đây là một bài thơ dở của ông, nhưng
đọc, ta thấy được sự đắng cay, ê chề, như một lời tự thú của
thi nhân vậy:
"Tôi có chỉ cho gia đình
Người tôi yêu
Là một nàng con gái Bắc
Mẹ tôi hai lần nhìn
Dáng em đi
Và nói nó còn nhỏ dại
Không hiểu nó thương mày chỗ nào
Tôi trả lời chỗ con làm thi sĩ
Tuy nhiên tôi vừa đau nhói trái tim
Vì hiểu rằng
Muôn đời
Em vẫn ngó tôi nửa mắt
Có gì đâu
Thiên hạ lâu nay cứ nhạo báng tôi khùng!"
Cũng như Lục bát, thơ Ngũ ngôn rất dễ làm, song khó hay. Bởi,
từ thơ đến vè có khoảng cách rất gần, nếu nhà thơ không thực
tài. Tuy nhiên, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Nguyễn
Tất Nhiên thường thuộc về thể thơ này. Ngũ ngôn thơ Nguyễn Tất
Nhiên hay, không phải chỉ ở tài năng sử dụng từ ngữ, mà còn ở
sự hình tượng hóa, cũng như ý tưởng mới lạ. Nhìn lại văn
học sử, dường như chưa ai dám cả gan đưa những hình tượng thánh
thiện nơi Thánh đường, cửa Phật để ẩn dụ, so sánh với những
cái được cho là kỵ húy như Nguyễn Tất Nhiên. Sự so sánh, tưởng
chừng như bất nhã ấy, nhưng thật kỳ lạ, hình ảnh trong thơ
Nguyễn Tất Nhiên hiện lên rất độc đáo và tinh tế, đẹp một
cách trong sáng và hồn nhiên. Và Ma Soeur là một trong những
bài thơ như vậy. Vâng, dù bao nhiêu hạt mưa rơi cũng chưa đủ, chưa
thấm bằng tình của người thi sĩ rụng xuống linh hồn thánh
thiện ấy: "vai em tròn dưới mưa/ ướt bao nhiêu cũng vừa/ cũng chưa hơn tình rụng/ thấm linh hồn ma-sơ".
Một hình tượng so sánh ẩn dụ, dường như, thi nhân muốn khỏa
lấp nỗi đắng cay, bất lực, cùng thủ thuật nhân cách hóa, (hay
tưởng tượng) để tự ru hồn mình vậy. Đây là bài thơ rất hay
của Nguyễn Tất Nhiên. Và Phạm Duy phổ thành ca khúc: Em hiền như
Ma Soeur, được nhiều người ưa thích từ gần nửa thế kỷ qua:
"…em hiền như ma-sơ
vết thương ta bốn mùa
trái tim ta làm mủ
ma-sơ này ma-sơ
có dịu dàng ánh mắt
có êm đềm cánh môi
ru ta người bệnh hoạn
ru ta suốt cuộc đời
cuộc đời tên vô đạo
vết thương hành liệt tim!..."
Có thể nói, Nguyễn Tất Nhiên là nhà thơ giàu trí tưởng tượng.
Tài năng sáng tạo từ mới, cụm từ mới để tạo nên những hình
tượng độc đáo, táo bạo gây sửng sốt, thú vị cho người đọc,
xuất hiện ngay từ ngày đầu cầm bút của ông. Nếu ở bài Ma
Soeur, Nguyễn Tất Nhiên đã dùng thủ pháp so sánh hình tượng hóa
sự thánh thiện của người tình, thì đến với Linh Mục, ông hóa
thân cho chính mình, để tìm dĩ vãng, đi đến tận cùng sự thật
của cái địa ngục tình yêu ấy: "Vì tôi là linh mục/ giảng
lời tình nhân gian/…tín đồ là người tình/ người tình là ác
quỷ/ ác quỷ là quyền năng". Thật vậy, những cụm từ so
sánh ẩn dụ cũ kỹ và dân dã này, đã được thi sĩ đặt đúng văn
cảnh trong cái ý tưởng độc đáo của mình, nó trở thành nghĩa
mới, hình tượng mới. Bởi vậy, nó gây cảm hứng cho nhạc sĩ
Nguyễn Đức Quang chuyển thành ca khúc Vì Tôi Là Linh Mục, được
mọi tầng lớp đón nhận, yêu thích, nhất là giới trẻ. Đây là
một trong những đặc tính làm nên hồn thơ đặc trưng riêng Nguyễn
Tất Nhiên. Đặc tính này xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của ông:
“dĩ vãng là địa ngục
giam hãm đời muôn năm
tôi - người yêu dĩ vãng
nên sống gần Satan
ngày kia nghe lời quỉ
giáng thế thêm một lần
trong kiếp người linh mục
xao gầy cơn điên trăng!
---
vì tôi là linh mục
giảng lời tình nhân gian
nên không có thánh kinh
nên không có bổn đạo
nên không có giáo đường
một tín đồ duy nhất
vừa thiêu huỷ lầu chuông!..."
Tôi không cân đong, đo đếm kỹ lắm, nhưng dường như thơ Nguyễn Tất
Nhiên nằm trong Top được phổ nhạc nhiều nhất từ trước đến nay?
Bởi, ngoài ngôn ngữ giầu nhạc tính, thanh âm, thì ý tưởng mới
lạ trong thơ của ông tạo ra rất nhiều cảm hứng cho các nhạc sĩ
sáng tạo. Và cái ý tưởng ấy, như một luồng gió mới thổi
vào cái không khí âm nhạc thời chiến lúc đó. Thật vậy, một
loạt các ca khúc của Phạm Duy ra đời từ thơ Nguyễn Tất Nhiên.
Đặc biệt có ca khúc Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Phạm Duy đã mượn ý
tưởng bài thơ Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ và cảm hứng từ Đám Đông để
viết nên. Có thể nói, đây là bài thơ điển hình về tài năng
trí tuệ liên tưởng của Nguyễn Tất Nhiên, đã giúp cho Phạm Duy
chuyển thành một ca khúc hay đến vậy. Và hơn thế nữa, với tài
năng của mình, Phạm Duy vẫn giữ nguyên được sự nhẹ nhàng,
tính vui nhộn cùng từ ngữ mộc mạc của bài thơ: “cô Bắc Kỳ
nho nhỏ/ tóc “demi-garçon”/ chiều đạp xe vô chợ/ mắt như trời bao dung/
đời chia muôn nhánh khổ/ anh tận gốc gian nan/ cửa chùa tuy rộng mở/ tà
đạo khó nương thân/…qua giáo đường kiếm Chúa/ xin được làm chiên ngoan/
Chúa cười rung thánh giá/ bảo: đầu ngươi có sừng!". Vẫn mang tâm
trạng oán trách buồn đau, khắc khoải của Hai Năm Tình Lận Đận, do
Phạm Duy phổ nhạc, Anh Bằng đã đưa bài lục bát Trúc Đào vào
âm nhạc mượt mà, và nhẹ nhàng hơn. Song nó vẫn giữ nguyên được
hồn vía của bài thơ. Với tôi, Trúc Đào là một bài thơ hay
nhất ở thể lụt bát của Nguyễn Tất Nhiên. Nó không chỉ hay về
nội dung tư tưởng, mà có lời thơ rất mượt mà: "Chiều xưa có ngọn trúc đào/ Mùa thu lá rụng bay vào sân em…"
Tuy nhiên, Khúc Tình Buồn được Phạm Duy phổ nhạc với lời tựa
Thà Như Giọt Mưa, cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Khúc Tình Buồn
thuộc thể tứ ngôn, là một trong những bài thơ hay nhất của
Nguyễn Tất Nhiên. Bài thơ, ông viết khi đang là học sinh năm cuối
trung học. Vẫn thủ pháp so sánh ẩn dụ, Nguyễn Tất Nhiên đã
mượn hiện tượng của tự nhiên giãi bày nỗi lòng đớn đau, sự
bất lực của kẻ si tình, của một tình yêu đơn phương: "thà như giọt mưa/ vỡ trên tượng đá/ thà như giọt mưa/ khô trên tượng đá/ có còn hơn không".
Để rồi, từ trong nỗi bất lực, và tình si ấy, người đọc mới
chợt nhận ra, cái giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu của tình
yêu. Tuy nhiên, bác nào đang bị tình phụ, hay tình đơn phương, tim
mạch yếu kém, thì chớ nên đọc bài thơ này:
“người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân".
Nếu trước đó, văn học sử Việt không có những thi sĩ thiếu niên
Chế Lan Viên với Điêu Tàn, Tế Hanh với Nghẹn Ngào, hay Nguyễn
Nho Sa Mạc với Trăng Lạnh, thì có lẽ không ai tin thi phẩm Thiên
Tai là do người học trò trung học Nguyễn Tất Nhiên viết ra.
Bởi, sự già dặn của bút pháp cũng như tư tưởng, với những câu
thơ được ủ chín tâm hồn thi nhân. Tôi không biết chính xác, bài
thơ Oanh được Nguyễn Tất Nhiên viết từ khi nào. Nhưng chắc
chắn, nó được viết trước tập Thiên Tai, lúc đó ông đang học
lớp 10 hoặc lớp 11. Một bài thơ già dặn, và lời thơ tuyệt
đẹp: “Hãy yêu chàng, yêu chàng như yêu cánh gió/ Chơi giỡn tung tăng
hai vạt áo dài/ Gió đưa mây về, trời mưa, bong bóng vỡ/ Chàng đưa tình
về, xót ngọn cỏ may". Bài Thiên Thu viết năm Nguyễn Tất Nhiên 18
tuổi. Với bài thơ này, Nguyễn Tất Nhiên có thể ngồi cùng mâm
nhấc lên đặt xuống với các cụ Đinh Hùng, Bùi Giáng…Du Tử Lê
rồi. Với tôi, đây là bài thơ toàn bích nhất của Nguyễn Tất
Nhiên. Đọc nó, tôi bị ám ảnh, mộng mị hết mấy đêm liền. Cả
bài thơ là một câu hỏi tu từ. Không một lời giải đáp, buộc
Nguyễn Tất Nhiên lìa hồn mình ra khỏi của cái thế giới hiện
thực. Ông co giò chạy trốn quá khứ. Nhưng chạy đâu cũng thấy
"chạy vòng vòng" đang "chạy mòn chân" rồi quay về với cái hiện
hữu của chính mình. Vâng, đó cũng như một trường thiên kịch
bản bi ai, vận vào chính cuộc sống cũng như tâm hồn Nguyễn Tất
Nhiên vậy: "…sao thiên thu không là thiên thu?/ nên những người yêu
là những ngôi mồ/ tôi đứng một mình trong nghĩa địa/ và chắc không đành
quên khổ đau!".
Đang định viết lời kết cho giai đoạn này, cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự thành công rất sớm của Nguyễn Tất Nhiên, chợt làm
tôi nhớ đến câu chuyện. Hôm rồi, tân gia nhà một người bạn,
trong lúc khật khừ, tôi buột miệng nói với một bác nhà thơ
cộng đồng đến từ Berlin: Với tôi, kể từ sau 1954 đến nay (2019)
văn học Việt Nam ở tuổi học trò, có hai thi sĩ tài năng nhất.
Đó là Nguyễn Nho Sa Mạc, người xứ Quảng, với tập thơ Vàng
Lạnh, và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên người xứ Nam, với tập thơ
Thiên Tai. Bác nhà thơ này, goặc lại tôi: Ông nói thế chó nào
ấy chứ, xứ Bắc có không ít các thần đồng thơ, chả lẽ không
đáng nói đến sao. Tôi bảo bác ấy: Đây là ý kiến chủ quan của
cá nhân tôi, có thể là sai. Nhưng ta có thể thấy, trong giai
đoạn đó ở miền Bắc cũng xuất những tài năng thi phú trẻ, và
được gắn mác mỏ thần đồng như: Hoàng Hiếu Nhân, hay Trần Đăng
Khoa… Tuy nhiên, các thần đồng thi ca này, được các nhà thơ tên
tuổi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Trần Nhuận Minh… chăm sóc, định
hướng tư tưởng rất kỹ càng. Do vậy, có những câu thơ của họ
đọc lên cứ tưởng của Diệu, của Chế, của Minh. Hơn nữa, mấy
“thần đồng“ này chỉ làm được thơ thiếu niên, nhi đồng. Sau này,
Hoàng Hiếu Nhân bị tịt ngòi không viết lách được nữa. Còn
Trần Đăng Khoa viết lay lắt, với những dấu ấn mờ nhạt. Thành
thật mà nói, nếu ngoa ngôn dùng danh từ thần đồng để đo lường
tài năng thi phú, thì với tôi, kể từ khi xuất hiện thơ mới đến
nay, chỉ xảy ra một lần duy nhất. Đó là cậu bé thần đồng
Chế Lan Viên với thi tập Điêu Tàn. Một tập thơ vừa ra đời đã
trở thành cổ thi.
Kinh hơn nữa, thời gian gần đây chẳng hiểu ăn phải cái bả gì,
mà ông Giáo sư Phong Lê, ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam
"cựu thần đồng" Trần Đăng Khoa cùng một số nhà thơ, nhân vật
tên tuổi phát động cuộc thi “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du”.
Một việc làm hoặc ấu trĩ, hoặc của chùa cùng nhau chia oản.
Quả thực, xa Việt Nam đến quá nửa đời người, vậy mà nghe cái
từ phát động, với phong trào tôi sởn hết cả người.
Nghệ thuật Lục bát, tài năng thi phú của cụ Nguyễn Du đã được
khẳng định từ mấy trăm năm qua cùng với Kiều Truyện. Không còn
bàn cãi. Tuy nhiên, hồn vía của tác phẩm này thuộc về anh ba
Tàu phương bắc. Do vậy, với tôi những tác phẩm Việt thuần
chủng (Việt tính) đi vào lòng người hơn, từ mấy trăm năm qua
phải là: Đặng Trần Côn với Chinh Phụ Ngâm, hay Nguyễn Gia Thiều
với Cung Oán Ngâm Khúc.
Dài dòng một chút về vấn đề này để cho thấy, miền Bắc không
phải, không có những tài năng trẻ, từ khi còn ngồi trên ghế
nhà trường. Nhưng với sự dẫn dắt, tư tưởng đến nay vẫn còn như
thế này, thì tài năng nào không thui chột, hoặc biến dạng mới
là chuyện lạ. Cũng may, Nguyễn Tất Nhiên sinh trưởng ở miền
Nam, bằng không cũng mất hút con mẹ hàng lươn như “thần đồng
thơ“ Hoàng Hiếu Nhân trên thi đàn là cái chắc.
Chiến tranh, cùng nỗi thống khổ sau cuộc chiến.
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn tang thương nhất của đất nước,
tuy không phải là người lính, song Nguyễn Tất Nhiên cũng không
thể bước ra khỏi cuộc chiến ấy. Tuy nhiên, cứ tưởng, thơ văn thi
phú của ông chỉ ngắc ngư với giăng hoa, ong bướm, Oanh, Duyên,
Minh Thủy. Nhưng tôi đã lầm. Mảng viết về thế sự, xã hội tình
người của Nguyễn Tất Nhiên không hề nhỏ. Viết về chiến tranh,
dường như bút pháp, cũng như nội dung hiện thực ông đào sâu vào
khía cạnh rất khác so với các thi sĩ cùng thời. Bởi, đọc
ông, tôi không hề thấy tiếng bom rơi, đạn nổ, vậy mà khói lửa,
chết chóc thương đau trải dài trên trang thơ của ông. Thật vậy,
vừa rời ghế nhà trường, (19 tuổi) Nguyễn Tất Nhiên đã viết
“Chiều Mệnh Danh Tổ-Quốc”. Một bài thơ, không chỉ người lính, hoặc
những người trải qua chiến tranh, mà tôi, kẻ chưa hề biết đến
súng đạn, vậy mà ngồi đọc, và viết cũng phải rưng rưng:
"…Chiều quân đội nghĩa trang
Chiều mệnh danh tổ quốc
Có muôn ngàn câu kinh
Có muôn ngàn tiếng khóc
*
Có chuyến xe nhà binh
Đưa "Thiên Thần" xuống đất
Còn ai, còn ai chăng?..."
Có thể nói, từ thơ tình đến thơ thế sự của Nguyễn Tất Nhiên
bài nào cũng vậy, rất nhẹ nhàng, không hề lên gân, song đã gieo
vào lòng người đọc nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vào giai đoạn
cuối của cuộc chiến, thân phận người lính càng bi đát hơn. Sự
kiên cường của họ trước sự hèn nhát, tháo chạy của những cấp
lãnh đạo cao nhất, làm cho Nguyễn Tất Nhiên xúc động: “Về trên nạng gỗ mà trông/ Lô nhô lãnh đạo cong lưng bôn đào".
Thật vậy, sự đồng cảm đối người lính trong thơ ông, không chỉ
trong chiến tranh, mà ngay sau cuộc chiến, ta càng thấy đậm nét
hơn. Chiến tranh qua đi, nỗi đau về thể xác lẫn tâm hồn của
người lính thương phế binh, và những hệ lụy cho gia đình, cháu
con còn bi thương, rách nát hơn gấp nhiều lần. Về Trên Lạng Gỗ
là một bài thơ như vậy. Nó là một trong những bài thơ thế sự
hay nhất, từ trước đến nay, mà tôi đã được đọc. Tính hiện
thực như một bản cáo trạng đối với chế độ xã hội đương thời
của nhà thơ, cùng lời cảm thông sâu sắc, xoa dịu nỗi đau của
con người. Đọc xong bài thơ này, tôi không còn biết đây là thơ,
hay là lời ru nỗi đau của Nguyễn Tất Nhiên. Các bạn đọc lại
đoạn trích dưới đây, xem có cảm giác như tôi không:
“…Về trên nạng gỗ mà trông
Chín năm chinh chiến đeo tròng nguỵ quân
Con thơ nhục nhã đến trường
Ê a phỉ báng máu xương cha mình
Cha "lính nguỵ" - con tự nhiên
Thành phần không được ngóc lên làm người
Học vừa đủ biết đọc thôi
Đủ làm gia súc hiểu lời Đảng sai
Hãy cười đi phế binh ơi
Một tay cũng rán mà... moi củ mì
Từ đây dỗ đói thường khi
Ru con tôi hát não nề ca dao"
Cái đau của người thi sĩ là ru được người chứ không thể ru
được chính mình, tâm hồn mình. Do vậy, trong cái bi đát đó,
Nguyễn Tất Nhiên buộc phải trốn chạy, hay tìm đến: “Ta mời ta viếng mộ/ Lìa thảm cảnh dương gian".
Và cầu Nại Hà cũng đã bị gãy nhịp, người thi sĩ quay về nơi
địa ngục. Không nghe lời sám hối, mà vọng lên tiếng kêu than
thỉnh cầu của thi nhân: “Phải sống nơi địa ngục/ Mới hiểu thấu thân ta". Dường như không có lời đáp vọng lại. Bởi, sự bất lực, hấp hối tro tàn ấy, đâu chỉ riêng thi sĩ:
"…Ta mời ta viếng mộ
Lìa thảm cảnh dương gian
Chúc Phật còn lui chân
Trước bạo quyền chế độ
Huống hồ chút hư danh
Nguyễn Tất Nhiên thống khổ
Ôi chữ nghĩa văn chương
Bất lực, càng bất lực
Phải sống nơi địa ngục
Mới hiểu thấu thân ta
Đôi mắt người ngây thơ
Không hề vương vấn tội
Có chở tình ta theo
Tới cõi nào diệu vợi?
Lửa đời ta đã lụn
Đang hấp hối tro tàn" (Tháng 11, Thơ Mưa)
Thành thật mà nói, chỉ khi đi sâu vào đọc, tôi mới nhận ra thơ
văn Nguyễn Tất Nhiên luôn gắn liền với xã hội và đời sống của
con người. Thơ của ông có tính thời sự cao. Tôi nghĩ, mảng đề
tài này góp phần không nhỏ làm nên sự nghiệp sáng tạo của
ông. Nhưng dường như, bấy lâu nay chúng ta đã quên hẳn nó. Do
vậy, văn học sử Việt Nam rất cần những nhà nghiên cứu khai
quật, đánh giá cho thật đầy đủ, và khách quan về thơ văn Nguyễn
Tất Nhiên.
Chia ly, với cuộc sống bế tắc, cùng những nỗi đau tuyệt vọng.
Ra đi là con đường duy nhất để giải thoát Nguyễn Tất Nhiên ra
khỏi nơi địa ngục. Con thuyền lá tre kia vừa cập bến tự do,
thì linh hồn ông đã chết ngay khi đặt chân lên miền đất lạ: "kẻ vượt biển đã tới bến mạnh lành/ nhưng chết ngay khi đặt chân lên bờ đất".
Những mâu thuẫn nội tâm, và bi kịch của người thi sĩ bắt đầu
từ đó. Để rồi, cuộc sống và thi ca Nguyễn Tất Nhiên luẩn quẩn
trong cái vòng tròn định mệnh ấy. Có thể nói, đây là tâm lý
chung của tất cả các văn nghệ sỹ trốn chạy sau biến cố 1975,
chứ không riêng Nguyễn Tất Nhiên. Tuy nhiên, sự hòa nhập, nghị lực
và khát vọng tự do, khát vọng sống của mỗi con người khác
nhau. Bài thơ Paris, Khúc Tháng Chín được Nguyễn Tất Nhiên viết
trong tâm trạng, và hoàn cảnh như vậy. Đây là bài thơ hay, một
lần nữa chứng minh cho ta thấy, sự liên tưởng, trí tưởng tượng
phong phú của ông:
“…kẻ leo rào đã chụp được Tự Do
nhưng tức thời buông tay bổ ngửa
là ta
---
phải, ta đánh rơi ta
nát vụn
sau khi đánh rơi Việt Nam
bên kia bờ biển mịt
---
cây cối sẽ phục sinh vào đầu tháng tư năm tới
phần ta
cách gì tươi tắn lại
khi đời đã sang thu
cộng với lần bứng gốc…"
Những năm tháng ly hương, cuộc sống Nguyễn Tất Nhiên, dường như
hồn đã lìa khỏi thân xác. Với ông, đó là những nỗi đau và cô
đơn không có thể bù lấp: “Quê hương đã lìa/ Người tình đã xa/ Bạn bè đã tàn/ Mọi thứ đã rã tan cùng đại dương xanh”. Do vậy, với tâm hồn, nghị lực mong manh yếu đuối luôn làm cho người thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên chán nản bi ai: “Có lẽ em không hay/ Đôi cách chàng đã gãy".
Tuy vậy, cùng nỗi nhớ thường trực, trái tim mẫn cảm của
người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương, đất nước. Nhớ Nội, là
một bài thơ thất ngôn như vậy. Một bài thơ hay và cảm động,
tiêu biểu cho tâm trạng của Nguyễn Tất Nhiên trong giai đoạn
này:
"…từ lúc giặc về, con biệt xứ
nát lòng chim quốc nhớ quê hương
mấy thu vàng úa đời xa cội
chẳng biết mộ phần nội có yên?"
Bi kịch gia đình, bi kịch xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến tư
tưởng, và thi pháp sáng tác của Nguyễn Tất Nhiên. Đây là giai
đoạn nặng nề, cùng cực, cô đơn nhất của ông. Do vậy, những bi
ai, u uất đã trải dài từ thi tập Tâm Khúc cho đến Minh Khúc.
Sự chia ly, đổ vỡ của tình yêu và gia đình “…như dao nhọn/ ngọt ngào vết đâm" tan nát trái tim Nguyễn Tất Nhiên. Ông bất lực trong nỗi bơ vơ, và trống trải: “bây giờ em đã xa tôi/ hay là sông núi xa đời lãng du…chim đêm hót tiếng đau tình/ đau tim tôi chở lòng thành kiếm em...".
Giai đoạn này, dường như ông hòa toàn quay về với thể thơ lục
bát. Những câu thơ của ông đọc lên như có tiếng ru đời và ru
mình vậy. Vâng, hai tập thơ lục bát, cũng không thể cứu rỗi
được hồn người thi sĩ. Đoạn trích về nỗi đau, và cô đơn trên
con đường mịt mù sương khói trong bài Minh Khúc 90 đã báo hiệu
số phận của Nguyễn Tất Nhiên:
“đường không gian – đã phân ly
đường thời gian- đã một đi không về
những con đường mịt sương che
tôi vô định lái chuyến xe mù đời
cu tí ngủ gục đâu rồi?
băng sau, ngoái lại, bời bời nhớ con..."
Có thể nói, nghị lực, và trái tim đa cảm của thi sĩ Nguyễn
Tất Nhiên không thể vượt qua được nghịch cảnh ở nơi miền đất
lạ. Nó làm cho ông khủng khoảng tinh thần trong nỗi cô đơn đến
tuyệt vọng. Nếu nói, cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên là một bi
kịch, thì diễn viên là ông, và đạo diễn cũng là ông. Và kịch
bản ông viết từ hai mươi năm trước đã vận vào đúng cuộc đời,
cái chết của diễn viên Nguyễn Tất Nhiên vậy:
“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định".
Tôi thuộc thế hệ sau Nguyễn Tất Nhiên khá xa, và cũng chưa một
lần gặp gỡ, hoặc được quen biết ông. Tuy nhiên, tên tuổi Nguyễn
Tất Nhiên, tôi đã biết khá lâu, khi đọc, hoặc viết về một số
nhà văn gốc miền Nam khác. Đôi lúc tâm trạng buồn, vui tôi
thường đàn hát những bản nhạc phổ từ thơ của ông, hoặc do ông
sáng tác. Và Không hiểu tại sao, vài tuần nay như có một sợi
dây tâm linh nào đó thôi thúc, buộc tôi tìm đọc, rồi viết về
Nguyễn Tất Nhiên. Dù tôi cũng là "tên vô đạo" như ông. Đọc và
viết trong vài tuần, sau giờ làm việc, do vậy, tôi nghĩ, không
tránh khỏi những thiếu sót, hoặc sai lệch. Nhưng đã đọc, mà
không viết, cứ để ứ hự ở trong lòng thì quả thật, có lỗi
với Nguyễn Tất Nhiên thi sĩ.
No comments:
Post a Comment