Tiết phụ ngâm 節婦吟 • Khúc ngâm của người tiết phụ
Một số bài cùng tác giả
節婦吟
君知妾有夫
赠妾双明珠
感君缠绵意
系在红罗襦
妾家高楼连
苑起 良人执
戟明光里 知
君用心如日
月 事夫誓拟
同生死 还君
明珠双泪垂
恨不相逢未
嫁时 男人女
人都可用 古
人情操智慧
远胜今人啊
Tiết phụ ngâm
Trương Tịch tự Văn Xương, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường (766-827), đậu Tiến sĩ dưới triều vua Đức Tông. Năm 799, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ, cuối cùng lên đến chức Quốc tử tư nghiệp.
Trong nước lúc bấy giờ lại diễn thành cuộc phiên trấn cát cứ. Mỗi Tiết độ sứ chuyên chế mỗi phương. Trấn nào, Tiết độ sứ tuân mạng triều đình thì cho là thuận đảng. Trái lại, Tiết độ sứ nào đem binh đối kháng lại triều đình thì cho là nghịch đảng. Trương Tịch hiện làm một tân khách trong mạc phủ của một Tiết độ sứ thuộc về thuận đảng. Ông muốn giúp triều đình mong đạt được cuộc thống nhất đất nước.
Bấy giờ có Lý Sư Đạo là một Tiết độ sứ thuộc về nghịch đảng, vốn tay quật cường. Biết Trương là người có tài nên họ Lý ân cần viết thư, đem lễ vật đến đón Trương về giúp mình trong công cuộc xây dựng sự nghiệp.
Trương không dám từ khước ngay. Vì tình thế lúc bấy giờ nguy ngập lắm. Thế lực của Lý thì mạnh, nếu ông không bằng lòng thì chắc chắn hai trấn phải sinh chiến họa to. Do đó, ông phải giả cách cám ơn nhận lễ rồi dần dần tìm cách từ khước. Trong khi hoàn lại lễ vật, Trương Tịch làm một bài thơ kèm theo, nhan đề là "Tiết phụ ngâm":
Em có chồng rồi, chàng đã biết,
Mà chàng còn tặng cặp minh châu.
Cảm lòng yêu mến khăng khăng ấy,
Em giấu đeo trong yếm lụa đào.
Khốn nỗi nhà em kề ngự uyển,
Chồng em cầm kích ở hoàng cung.
Lòng chàng trong sạch như băng tuyết,
Mà đạo tùng phu phải thĩ chung.
Trả ngọc cho chàng em ứa lệ...
Phải chi gặp gỡ lúc chưa chồng.
(Bản dịch của Yã Hạ Nguyễn Vân Trung)
Nguyên văn:
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu
Cảm quân triền miên ý
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh quang lý
Tri quân dụng tâm như nguyệt;
Sự phu thê nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá thì.
Mượn thân phận người con gái đã có chồng cần phải "tùng nhất nhi chung", để nói thân phận mình, một khi đã thờ chúa này rồi thì cần phải trọn đạo làm tôi "trung thần bất sự nhị quân". Ai có thương đến thì xin cám ơn vậy.
Lý Sư Đạo tiếp được bài thơ xem qua, càng sinh lòng cảm mến mà không còn theo đuổi và sinh sự gì cả.
Nước ta cũng có bài ca dao:
Ba
đồng một miếng trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Tương truyền bài ca dao này do Đào Duy Từ làm ra. Nguyên lúc bấy giờ, nước Việt Nam chia làm hai miền. Miền Bắc thuộc chúa Trịnh; miền Nam thuộc chúa Nguyễn. Hai họ tạo thành cuộc Nam Bắc phân tranh. Đào Duy Từ ở miền Bắc, người có tài nhưng không được chúa biết trọng đến và trọng dụng nên trốn vào Nam, được chúa Nguyễn trọng đãi. Rồng đủ vi cánh lại gặp gió to, tài thao lược của họ Đào vang dậy đến Bắc Hà. Chúa Trịnh Tráng bấy giờ lấy làm hối tiếc, con người lén vào Nam, đem lễ vật quý báu dâng cho Đào, yêu cầu Đào trở lại giúp mình. Đào từ chối bằng mấy câu ca dao, mượn lời của một cô gái có chồng đã khéo léo từ khước người yêu mình để nhắn gởi chúa Trịnh, như nhà thơ Trương Tịch ở Trung Hoa.
Tuy vậy, chúa Trịnh không nản, vẫn tiếp tục theo đuổi, dụ dỗ. Đào Duy Từ lại phải gởi nhắn thêm hai câu thơ lục bát về Bắc, ý chí keo sơn kiên quyết của mình: Có lòng xin tạ ơn lòng.
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng, quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Chàng hay thiếp có chồng rồi
Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành.
Cảm lòng quyến luyến không đành
Thiếp đeo vào áo lót mình màu sen
Vườn kia nhà thiếp kề bên,
Lang quân chấp kích trong đền Minh Quang
Biết chàng bụng sáng như gương
Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng sai.
Gạt châu, trả ngọc chàng thôi,
Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son.
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
Còn đem cho thiếp một đôi ngọc lành.
Cảm lòng quyến luyến không đành
Thiếp đeo vào áo lót mình màu sen
Vườn kia nhà thiếp kề bên,
Lang quân chấp kích trong đền Minh Quang
Biết chàng bụng sáng như gương
Thờ chồng thề quyết đá vàng chẳng sai.
Gạt châu, trả ngọc chàng thôi,
Tiếc không gặp gỡ đương thời còn son.
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
Bản dịch của Trần Trọng San
Thiếp có chồng chàng đã hay biết
Đôi minh châu tha thiết còn trao
Tạ lòng vương vấn biết bao
Ngọc này thiếp buộc áo đào thắm tươi
Nhà thiếp ở kề ngoài ngự uyển
Chồng thiếp làm lính điện Minh Quang
Biết chàng lòng sáng như trăng
Thờ chồng thiếp nguyện đá vàng thuỷ chung
Trả minh châu lệ đôi dòng
Hận không gặp lúc chỉ hồng chưa xe.
Đôi minh châu tha thiết còn trao
Tạ lòng vương vấn biết bao
Ngọc này thiếp buộc áo đào thắm tươi
Nhà thiếp ở kề ngoài ngự uyển
Chồng thiếp làm lính điện Minh Quang
Biết chàng lòng sáng như trăng
Thờ chồng thiếp nguyện đá vàng thuỷ chung
Trả minh châu lệ đôi dòng
Hận không gặp lúc chỉ hồng chưa xe.
No comments:
Post a Comment