Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Sunday 29 March 2020

Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Hồ Hữu Tường


Truyện ngắn của Hồ Hữu Tường                                                
HO HUU TUONG 3 (3)
          
            Hồ Hữu Tường (1910-1980), tác giả của rất nhiều loại tác phẩm như Chính trị, Kinh tế, Triết học, Văn học sử, Tiểu thuyết, có thể kể sơ lược như Tương lai kinh tế Việt-nam , Tương lai văn hóa Việt-nam , Lịch sử văn chương Việt-nam (biên khảo) , Thu Hương và Chị Tập , Gái nước Nam làm gì?  Diễm Hồng xuất giá  (tiểu thuyết), Phi Lạc sang Tàu,   Phi Lạc náo Hoa Kỳ, Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Truyện trào phúng chính trị), Kế thế (tiểu thuyết dã sử) ..v…v…
Năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp du học và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong như Tạ Thu Thâu và Phan văn Hùm. Năm 1940-1944 ông bị chính phủ thuộc địa Pháp đày ra Côn Đảo cùng với các nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…. Năm 1953, Ông ấn hành tờ tuần báo Phương Đông nêu giải pháp Trung lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông làm cố vấn cho Mặt trận Thống Nhất gồm các tôn giáo Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên chống lại chính quyền đương nhiệm.
Năm 1957, ông bị đưa ra tòa và bị kết án tử hình, nhưng sau chỉ bị đày ra Côn Đảo, ở đó cho tới .tháng Giêng năm 1964 thì  được trả tự do sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sụp đổ.
Năm 1965, ông làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, năm 1967 trúng cử dân biểu  Hạ Viện Đệ nhị Cộng Hòa. Thời gian này ông cũng tham gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…Ông cũng là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch của Trung Tâm Văn Bút VN thời kỳ trước 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông bị CS bắt đưa đi học tập cải tạo. Ông mất ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn.  (xin xem bài tường thuật của tác giả Phan Sinh ở phần cuối)

Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp

 1.
Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
– Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
– Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
– Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước….
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
– Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
– Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra…. Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
– Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
– Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
– Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
– Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy….
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng….
2.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:
– Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
– Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu…. Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay?
Rồi con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn: bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng:
– Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
3.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
– Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được.
Tội ngươi lớn lắm, phải rán tu luyện thật nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả.
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
– Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là mười.
Con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
– Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
– Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
– Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
– Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
– Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật đáp:
– Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
4
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề có lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế…..
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong hai người khách đã đến am thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm đau khổ.
Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
– Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
– Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
– Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người….
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
– Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau giồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hoá triệu triệu người….Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên….
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
– Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
(Nguồn: Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, nhà xuất bản Sóng, Saigon, 1974)
[Sau này tác giả Hồ Hữu Tường viết lại đoạn cuối như sau:]
 Người đáp:
– Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu độ muôn vàn chúng sinh do những hạt tro mà đầu thai nên. Tâm ấy là lửa thiêng. Nó đốt lòng ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho được? Âu là, ngươi nghe theo nó mà hành cái hạnh ấy đi!
– Nhưng mà, làm sao bây giờ?
– Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh. Kinh dạy bài học căn bản là Bi. Ngươi phải có lòng Bi, mà thương muôn vàn hột tro ấy!
– Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm cho nhà sư phát nộ. Thì tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà những hạt tro ấy đầu thai nên.
– Tốt lắm! Tốt lắm. Đã có Đại Bi, phải thêm có Đại Trí. Muốn cứu độ muôn vàn hột tro ấy, ngươi hãy lấy Trí mà tìm biện pháp nào để cứu độ chúng. Chớ tình thương mà không có thêm phương pháp để thực hiện tình thương ấy, thì tình thương chỉ là một sự than khóc sướt mướt và vô bổ mà thôi.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ một lần nữa. Nó phóng quang mà nhìn khắp trần gian, để kiếm xem hiện nay, những hạt tro do các vị Kim Cang, La Hán tung rải đang đầu thai nên gì. Lạ thay, những hạt tro này, bởi tiền kiếp mắc tội Tham Sân Si nên chẳng được đầu thai làm người, lại đầu thai là lũ chuột. Chúng không được sống dưới thanh thiên bạch nhật; ngày chúng phải chui rúc trong hang; tối lén bò ra ăn vụng, ăn vặt. Thế mà chẳng được yên thân, chúng bị một lão mèo to tướng, mắt sáng như sao, nhìn thấy rõ trong đêm tối, vuốt bén như gươm, tay lẹ như chớp, thêm thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão mèo ngày lừ đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột mà ăn tươi nuốt sống. Đời của chuột đã khổ rồi, mà bị lão mèo càng thêm khổ não, lòng phập phồng lo sợ. Rút vào hang cả ngày lẫn đêm, thì đói. Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn. Hồn con thằn lằn, thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng.
5
Bỗng nhiên nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn mà khai đại hội. Nó bèn vận thần thông nhĩ, mà nghe lũ chuột nói với nhau những gì. Nó nghe một con chuột cống khởi nói như thế này:
– Hỡi đồng loại chúng chuột! Đời của chúng ta khổ não lắm rồi. Ngày ở hang để tránh người đập giết, tối mới dám ló ra mà ăn vụng. Thế mà chồng lên cái khổ ấy, chúng chuột ta còn gặp cái đại họa là lão mèo. Vì lẽ đó mà tôi triệu tập tất cả lại, để bàn tính coi có cách nào để thoát cái đại họa ấy chăng?
Một chuột con, còn hăng tiết, hùng biện hỏi:
– Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Chúng ta phải hiệp bầy lại, một lượt tiến tới mà cắn mèo. Một mình mèo làm sao cự lại cả bầy chuột?
Một chuột già, mình đầy thẹo, kêu chít chít nói:
– Đừng có dại! Đừng có dại! Thuở tôi còn trẻ, tôi có nghe theo luận điệu ấy. Chúng tôi có tổ chứa một bộ đội chuột, đến mấy trăm con, xông tới mà toan cắn mèo. Thế mà mèo chỉ quơ tay một cái, là ngủm một chuột. Mấy trăm con chuột của bộ đội chết sạch. May mà tôi rán được, đầy mình thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới lành. Kinh nghiệm của chuột già này, xin các thanh niên chuột nên gẫm cho kỹ. Chớ liều lĩnh mà thiệt mạng, lại không có chút kết quả nào!
Lời của chuột già như gáo nước lạnh làm dập tắt lửa hăng của chuột con. Các chuột im lặng khá lâu, thì có một con chuột nhỏ nhẹ nói:
– Chuột mà tranh đấu với mèo, thật là không nổi. Ta tránh nó thì hơn.
– Đúng vậy!
– Phải lắm!
– Hay lắm!
Chuột kia nói tiếp:
– Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo cho ta biết sự hiện diện của mèo. Để ta tránh trước, khỏi sợ bị mèo chụp. Cách ấy, tôi nghĩ rằng ta nên treo một cái lục lạc nơi cổ của lão mèo. Lão đi đến đâu, lục lạc rung vang báo tin cho chuột ta hay, mà lánh trước.
Hồn cho thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho người nghe. Và phê bình:
– Quả là Đại Trí!
Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột im phăng phắc, chẳng có chuột nào động đậy, chẳng chuột nào thốt một lời, mà cũng chẳng chịu giải tán, cho chuột nào trở về hang nấy. Hồn con thằn lằn hỏi người:
– Sao lũ chuột lại như vậy?
Người đáp rằng:
– Bởi lũ chuột hèn nhát. Tuy kế là hay, song chẳng có chuột nào có cái Dũng, dám đeo lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, để tự cứu, mà cũng để cứu đồng loại. Có Bi mà không Trí, là vô bổ. Có Bi và Trí mà thiếu Dũng, là vô hiệu. Bi, Trí, Dũng là ba cái chân vạc, thiếu một chân ấy là vạc nghiêng đổ đi.
– Làm sao bây giờ?
– Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột. Ngươi phải đầu thai làm con chuột có Đại Bi mà biết thương đồng loại, có Đại Trí mà biết đem lục lạc mang vào cổ của lão mèo, có Đại Dũng mà dám hi sinh, liều mình, chẳng sợ mèo ăn tươi nuốt sống, mang lục lạc xông đến gần lão mèo.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ lần nữa. Muốn cứu độ hạng nào, phải hoà mình vào hạng ấỵ Thích Ca đã từ chối ngôi báu, vì Thích Ca muốn hòa mình vào chúng dân, để cứu độ chúng dân. Hồn con thằn lằn muốn cứu độ lũ chuột thì hồn con thằn lằn phải hòa mình vào lũ chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn vàn cạnh khía, thảy đều không khác gì với giống chuột. Chỉ khác có một chút xíu là trong tâm hồn của con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng mà thôi. Có được đại ngộ ấy, thằn lằn ta bèn đầu thai làm chuột.
6
Bởi là do con thằn lằn đâu thai, nên khi chuột ta sanh ra, thì hình vóc còn mang máng giống con thằn lằn. Mẹ nó lầm tưởng là rồng. Bèn đặt tên cho nó là Long Thử.
Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo. Lời nó kêu chít chít nào, nghe cũng có ý nghĩa u thời mẫn thế. Một hôm nó gọi một bạn chuột lực lưỡng theo nó. Té ra, nó đã gặp được nơi góc tàu ngựa, một cái lục lạc to bằng quả trứng, nên về gọi bạn theo nó. Đến nơi, nó nằm ngửa ra, ôm lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi mà kéo, như là kéo xe vậy. Kéo nó tới đâu, thì tiếng lục lạc kêu lên rổn rảng. Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó mà kéo đi chỉ nghe theo lịnh nó chít chít điều khiển, nên chẳng biết trước sẽ hướng vào đâu, thành ra không sợ sệt chi. Long Thử ra lịnh cho kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, như trước kia, lúc nó còn là hồn con thằn lằn, nó đã nghe nói vậy.
Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng lục lạc. Bèn giương mắt nhìn, chẳng biết con gì, đầu chẳng thấy mặt mũi chi, chỉ thấy một cái vòi quơ qua quơ lại, để tìm phương hướng, lại có đến tám chân lại chổng lên mà nghỉ, mà kêu rống chẳng ngơi. Lão mèo quá sợ, nhảy phóc lên nóc nhà, kêu “miao!” rất là kinh hãi.
Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo rình, không dám ra. Con nào đói thì mau mau đi tìm mà ăn vụng. Một số đông lại bu quanh Long Thử, lên tiếng chê bai:
– Việc này có gì là khó? Ai mà nằm ngửa ôm lục lạc chẳng được? Vì lối ăn cắp trứng ấy, chuột nào mà chẳng biết? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con chuột cắn đuôi nhau, lầm tưởng là con quái gì, mà sanh ra sợ thôi!
Chẳng dè, nằm trên mái nhà, lão mèo nghe và hiểu tiếng chuột, lão nhìn xuống, thấy quả là Long Thử ôm lục lạc, nằm ngửa cho một chuột khác cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy tưởng đâu là cái vòi quơ qua quơ lại, thật sự, chỉ là cái đuôi chuột! Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử đa mưu, vừa phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ mới cứu mình khỏi nạn. Từ trên mái nhà, lão mèo phóng xuống, mỗi một tay hay chân, sè vuốt mà móc họng một chuột.
7
Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán. Long Thử và bạn nó cũng giựt mình, hoảng hốt chạy theo, chun vào hang mà trốn. Chừng tinh thần định tỉnh lại lũ chuột bèn lập tòa án chuột để mà xử Long Thử. Long Thử bị buộc tội là Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của mình. Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ móc họng được một chuột mà thôi; còn bây giờ, mèo và Long Thử toa rập, để cho mèo giết một lần đến 4 trự chuột. Nếu không nhờ Thử gian đồng lõa mà giúp, dễ gì mèo chụp một lượt đến 4 chuột? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy, đủ bằng cớ thiết thực như vậy, dễ gì Long Thử đem tâm tình của mình, một tâm tình vô hình, không biết tựa vào đâu mà chứng minh, để nói rằng mình chỉ có lòng cứu độ loài chuột, chớ chẳng có dạ phụng sự cho mèo để hại chuột? Long Thử bị kết án tử hình. Điều này nó dễ chấp nhận, nếu nó phải đem cái chết của nó làm điều kiện, để cứu độ loài chuột, mà nó quá thương yêu. Song cái bản án của nó, “tội Thử gian”, làm cho nó đau khổ vô cùng; vì nó mang một cái oan vô tận, không ai giải cho được.
8
Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở lực, tận đến cõi trời Đâu Suất. Ở cõi trần không thấy chi cả. Còn ở trên kia, trở lực ngăn cho Thần Tiên không lui tới được làm cho lưu thông phải nghẽn. Thần Tiên phải hội nhau lại, tính làm sao cho việc đại bất công này được giải, thì vũ trụ mới tuần hoàn theo trật tự. Bàn cãi rất lâu, Thần Tiên tìm ra được một biện pháp, là bấy lâu nay, người ta đếm mười hai chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi), thì mỗi chữ này vốn là trừu tượng, không có nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải cho loài người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ Tí, phải dành để cho Long Thử tượng trưng.
Những đức tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm chủ tể cho luân lý, thì vũ trụ mới vận hành điều hòa được.
Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết “tí là con chuột”. Nhưng từ ấy nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ lầm tưởng chuột ấy là thứ “chuột tham, sân, si” kia. Chừng nào, đứng đầu cho cuộc vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra, nguồn Thanh Bình mới khai được.
Hồ Hữu Tường
****
HO HUU TUONG 2 (3)

Hồ Hữu Tường – Những ngày cuối đời

Bài của Phan Chính
Hồ Hữu Tường với tư thế một đại thụ trên lĩnh vực báo chí và văn học còn là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975. Cuộc đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi – Hàm Tân (Bình Thuận) như một tình cờ, nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập Kể chuyện (Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể, viết cùng Nguiễn Ngu Í, một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm khổ ải rồi dừng lại ở đây.
Trên một số website ở nước ngoài đều ghi rằng sau những năm cải tạo, Hồ Hữu Tường được trả tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách mập mờ là “Hồ Hữu Tường – một người chết u uẩn”, có gì đó ám chỉ về chế độ lao tù. Nhưng đều chính xác ngày mất của Hồ Hữu Tường là ngày 26.6.1980. Thời gian này tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân (tỉnh Thuận Hải, năm 1992 trở lại tên Bình Thuận) phụ trách Phòng Y vụ, một bộ phận trực tiếp với Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ, trước ngày giải phóng 23/4/1975 là Bệnh viện Phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình Tuy mà tôi cũng từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y Việt Nam Cộng hoà.
Năm 1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng trang thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng ngày càng nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình độ trung cấp, sơ học được sử dụng lại, gọi là lưu dụng, nhưng lần lượt bị loại dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ miền Bắc chi viện. Ngoài năm hay sáu bác sĩ còn lại, rất nhiều chức danh y sĩ (xếp ngang trình độ trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám bệnh kê đơn, giữ các chức vụ Bệnh viện phó, Trưởng khoa, nhưng các tên thuốc Tây trên toa thuốc chỉ viết bằng phiên âm theo cách đọc. Trong khi đó cán sự điều dưỡng học 4 năm chỉ xếp là y tá trung cấp, thực hiện chỉ định của y sĩ. Có lúc chiếc máy X-quang làm chức năng chụp phim chẩn đoán rất hiện đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại cho người, lại bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi (gọi là rọi kiếng), tức xem trực tiếp theo kiểu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế nào tùy thuộc do nét bút vẽ mô tả của y sĩ đứng máy, thay vì có phim như trước đây. Thuốc men thì cũng rất khó khăn, phải phát động phong trào Đông Tây y kết hợp. Loại thuốc xuyên tâm liên trị bá bệnh, tức bệnh nào cũng uống được, mỗi lần hàng chục viên, đắng đến nỗi… hết bệnh. Trị sốt xuất huyết thì có cây cỏ mực sao tẩm nấu thành xi-rô, trị sốt rét có lá mãng cầu ta sao sắc uống… Các loại vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1, B6, B12 được mua hoá chất từng ký, về hòa nước cất, sản xuất tại chỗ, vào ampule hoặc lọ pénicillin đã dùng… Dịch truyền loại 5%, 10% cũng vậy. Dây truyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm, được coi là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định kim tiêm dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông. Bệnh dù có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện, tỉnh, trung ương… cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó. Từ bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên bản tập thể do y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có truờng hợp bệnh sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho ý kiến. Có khi phải xin ý kiến Bí thư Chi bộ, dù anh ta chỉ là cán bộ chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ tiêu tử vong, chuyển viện… Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn, dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua.
Trước đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp tiếp xúc với trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN tại Liên hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến xe đi mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân và 1 trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương ở đầu, lột cả mảng da tóc khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ, anh lái xe và đứa cháu ngoại của ông Thi chỉ xây xát nhẹ. Lúc vào viện, ông Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự giới thiệu mình là ai! May mà anh lái xe còn tỉnh táo, mới cho biết đó là ông Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban Tỉnh ở Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh, đến căn cứ 8 thì bị một chiếc xe tải cùng chiều ép, làm cho chiếc Comanca lật nhào mấy vòng. Tôi nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc dưới chiêu bài cứu nạn kiều Sài Gòn trong chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẫu thuật vào thì ông Đinh Bá Thi tắt thở, xác quàn tạm ngay trong phòng mổ chờ ý kiến của tỉnh. Huyện giao cho Xí nghiệp Cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài, đem đặt tại hội trường Ủy ban Huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng Đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra và chuyển vào áo quan, đem về Sài Gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều người so sánh, nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẫy, có khả năng ông qua khỏi. Cách bệnh viện chừng 300 mét, phía sau nhà bưu điện bây giờ, trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc Bệnh viện Long Bình.
Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường, khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C và Z30D nằm liền kề, còn gọi là trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec-ta đất rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá chế độ cũ và mắc tội chính trị chống đối sau này. Nay nhập một gọi là Trại Z30D thuộc Cục Quản lý Trại giam (V26) Bộ Công an, xe chạy Bắc – Nam ngang qua thấy trạm xăng Đức Khải rất bề thế với màu sắc đỏ mà chủ nhân là người có tên Anh Lâm, trước đây bị án chung thân về tội buôn lậu, cũng là tù nhân “đặc biệt” của trại này. Trước khi đến Trại giam Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã vào tù, từng qua các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình… Theo cán bộ canh giữ, ông được giao chăm sóc vườn thuốc nam thuộc bệnh xá của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp vành tai của tướng mạo trường thọ, tóc đậm sắc muối tiêu, còn đi đứng được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ của ông tham gia tổ chức phản động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Trung lập Phục quốc Việt Nam gì đó, tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là xơ gan cổ chướng, bụng ông to độn lên áo trông thấy rõ. Nhập vào Khoa Nội 2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ trách. Tên tuổi của Hồ Hữu Tường từng khuấy động sân khấu chính trị miền Nam từ thời Diệm đến thời Thiệu… Mới đó, với danh nghĩa dân biểu Hạ nghị viện, ông đã cùng giới báo chí làm cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Năm 1926 sang Pháp học Đại học Marseille, đậu thạc sĩ toán Đại học Lyon… rồi làm chính trị, làm báo, viết văn…, rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang và sau cùng là NVThiệu, tù tội với ông đều có, NĐDiệm từng kêu án tử hình và có văn hào Pháp Albert Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục tác phẩm của Hồ Hữu Tường, tôi chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận lâm, Người Mỹ ưu tư… Trong bài tựa của tập Kể chuyện, ông viết: ”Mục đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biếm, đặc biệt của nông dân miền Tây Nam bộ vào đầu thế kỷ XX này…”
Sinh ra ở Cái Răng, Cần Thơ, thấm đậm cái chân chất Nam bộ, nhưng ông là con người có tư tưởng xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy dạy là những người bạn có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm khuyến khích và chịu khó năn nỉ dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười biếng“! Nhiều chính khách nhận xét về Hồ Hữu Tường, rằng ông là con người của chủ nghĩa dân tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v… Với những điều đó tôi hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước tên tuổi một Hồ Hữu Tường.
Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC – Châu Anh báo tin này vì Châu Anh là bạn Nguiễn Ngu Í, biết Hồ Hữu Tường khi làm báo ở Sài Gòn, nhưng cậu ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị nên trại cử một anh công an theo canh giữ, không ai dám đến gần bắt chuyện, dù là nhân viên y tá trong khoa. Tôi có lợi thế là làm công tác y vụ, tức bộ phận quản lý điều hành chuyên môn ở bệnh viện, nên có lý do tiếp xúc với ông công khai mà không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi rằng chiếc mùng vải xô của bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi chui vào cắn không ngủ được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì. Ông nói cá, cá… Nhà tôi ở xóm Phò Trì, cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này, may là vợ tôi đi dạy học ở một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá thu, chỉ tẩm một ít gia vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn mặn. Hai lát cá thu vừa đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông ăn một cách ngon lành và trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy đoạn chỉ và kim may để ông vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi cũng thế, phải vá mãi! Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây ngoại và ma-gi (xì dầu) cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài gởi về. Khi ông có chút tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình. Lúc ấy chỉ có viết thư điện tín ở bưu điện, chuyển bằng moọc tích tích te te. Hai ngày sau vợ ông, bà Nguyễn Huệ Minh, đi xe than từ Sài Gòn ra đến bệnh viện gần cuối chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự nhiên ở ngay hiên khoa nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi lén lút đưa bà về nhà tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì sau mấy ngày nhập viện bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên môn phải chuyển viện, mỗi ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò, rút ra cả lít dịch axit từ màng bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C, họ sẽ mang ông ra bệnh viện Phan Thiết thôi, là xong. Nhưng ra đó là chết và coi như chết trong tù, chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy ra. Tôi không có một xu hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy, dù cộng sản hay quốc gia, chỉ mong đợi hoà bình, bên nào cũng được… Hồi năm 1974, thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà ký lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh viện Tiểu khu An Xuyên (Cà Mau) với lý do ghi rõ: “Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như chánh quyền địa phương”, cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục làm việc với ngành y nhưng không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít hơn ba bốn lần khai lại lý lịch. Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ sơ nào đó trong tàng thư của cơ quan Cảnh sát Việt Nam Cộng hoà để lại (sau này tôi biết có phiếu điều tra lý lịch của Ty Cảnh sát Quốc gia Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về mối quan hệ anh em giữa tôi với dân biểu Trần Ngọc Châu và điệp báo cộng sản Trần Ngọc Hiền (Trần Ngọc Hiền vào Nam hoạt động lúc Trần Ngọc Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và Hiền bị bắt lúc Châu là dân biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần Ngọc Châu với tôi là anh em cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với Châu là anh em cùng cha khác mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng thống Thiệu bỏ tù, không liên quan gì. Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ ông ở văn tài, con người minh triết, chứ tôi không mê ông ở phương pháp hành động. Truyện ngắn “Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta (NXB Sóng, Sài Gòn 1974), theo bà Huệ Minh là truyện ông tâm đắc nhất. Phải chăng kiếp con thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu mang? Suốt đời lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại, giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường! Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường: “Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác cứ ở tù dài dài không?” – Ông nói, “Mày trả lời giùm tao đi!” Anh ta nhanh nhẩu: “Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác ‘hưởng tù’ dài dài thôi!” Ông trầm ngâm, “Có thể thằng này nói đúng.”
Như có cùng một suy nghĩ, bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một bệnh nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế trước giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp, rồi xin về Hàm Tân. Sau này lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh chóng hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu cầu Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài Gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn bạc thế nào đó ở trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo lãnh xin đưa về Sài Gòn. Sau đó bà Minh về lại Sài Gòn và thay bà là người em gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công an quyết định tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị. Có lẽ ai cũng tiên lượng được tình trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận xấu về cách đối xử với  một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết định như thế. Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn Ân xá Quốc tế đến thăm hỏi và can thiệp.
Có được giấy tạm tha, nhưng người em gái của ông, tuổi ngoài 60 chân quê, không tính toán được gì và tôi phải làm một cái gì giúp ông. Tôi gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp đá chạy đường quốc lộ 46 – La Gi, giá xăng xe 200 đồng, để gấp rút chở ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn xe và lên bệnh viện nhận bệnh. Lúc ấy bác sĩ Nguyễn Văn Khánh, chuyên khoa răng – muốn về thăm nhà, tôi can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan có việc nhà xin nghỉ phép, về nhà dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc Tân An đón xe chở ông lên. Xe đến Tân Minh thì trời mưa tầm tã, phải dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm quản lý thị trường, vì đây là loại xe thường chở hàng hải sản. Chai dịch truyền đong đưa dưới mui xe cạn dần và tôi phải tiêm cho ông mấy mũi campho… Xe đến Gia Định khoảng 5 giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa Kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu đưa được ông về Sài Gòn thì có mấy người bạn thân là bác sĩ Lương Phán, bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo. Theo giấy chuyển viện, chỉ được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy thôi, nhưng tôi chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện ký khống để dự phòng, với ý định ghé nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết định.
Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên tuờng. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ đêm ở nhà em tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh…
Từ ngày đó tôi không còn liên lạc gì, dù nhiều lần về Sài Gòn, vì không muốn vương víu đến chuyện nghĩa ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú, người con trai đầu của ông bà, bị bắt tại Bến Tre do vượt biên. Trước giải phóng, Tú là giám đốc Nha nhân viên Hàng không, nhưng trong những ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đổ, Tú chần chờ cùng với cha ra đi, nhưng Hồ Hữu Tường tin rằng mình là người yêu nước, quyết định ở lại. Sau này nghe nhà báo Lê Phương Chi nói, đám ma Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều người không dám nhập vào đám đưa tang mà âm thầm đi trên lề đường đưa tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết những ngày cuối của Hồ Hữu Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài.
Khoảng tháng sau, tôi nhận được vài dòng thư của bà Huệ Minh: “Chú Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi đối với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại, hôm bà ra chăm sóc ông, đến ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo… Nói đến chuyện cơm áo thời đó, có khi kể lại thì thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang đường. Không đâu, có một gia đình, anh chồng làm nhân viên đưa thư, vợ nấu bếp cho cửa hàng thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn mỗi gia đình chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải đưa nhau ra tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương thực ăn theo! Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng lương công chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng nên rất sợ lao động ruộng rẫy và không có một việc làm nào để sống, lại phải đi vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ hợp tác xã hay cơ quan nhà nước thì coi như một cái phao cứu sinh. Anh bạn Đỗ Hồng Hùng là dược sĩ Đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, nay xin làm xã viên hợp tác xã phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải gầm mình xuống Bưng Ngang, đỉa bám vào da, anh trân mình móc từng vốc bùn trộn tro rơm rạ chế biến phân bón. Mãi sau này bệnh viện mới nhận anh vào để “pha chế” thuốc Đông y. Trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê khai hai, ba người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong trí nhớ cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương chức quyền uy thì càng hay. Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình, có những quan hệ với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm không? Trong lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất nhẹ nhàng. Khi ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã trôi qua 28 năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã mất. Đời người sao ngắn ngủi quá!
La Gi 10/2008
© 2008 talawas

No comments:

Post a Comment