Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp, Hồ Hữu Tường
in Tuyển Văn
Tags: short story, Truyện ngắn
Truyện ngắn của Hồ Hữu Tường
Hồ Hữu Tường (1910-1980), tác giả của rất nhiều loại tác
phẩm như Chính trị, Kinh tế, Triết học, Văn học sử, Tiểu thuyết, có thể
kể sơ lược như Tương lai kinh tế Việt-nam , Tương lai văn hóa Việt-nam , Lịch sử văn chương Việt-nam (biên khảo) , Thu Hương và Chị Tập , Gái nước Nam làm gì? Diễm Hồng xuất giá (tiểu thuyết), Phi Lạc sang Tàu, Phi Lạc náo Hoa Kỳ, Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Truyện trào phúng chính trị), Kế thế (tiểu thuyết dã sử) ..v…v…
Năm 1926 Hồ Hữu Tường sang Pháp du học và tham gia hoạt động chính
trị với những nhà ái quốc lưu vong như Tạ Thu Thâu và Phan văn Hùm. Năm
1940-1944 ông bị chính phủ thuộc địa Pháp đày ra Côn Đảo cùng với các
nhà cách mạng chống Pháp khác như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu
Thâu…. Năm 1953, Ông ấn hành tờ tuần báo Phương Đông nêu giải pháp Trung
lập chế (Neutrality). Năm sau ông sang dự hội nghị Genève, ra sức vận
động cho giải pháp trung lập Việt Nam nhưng không thành công.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, ông làm cố vấn cho Mặt trận Thống Nhất
gồm các tôn giáo Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên chống lại chính quyền
đương nhiệm.
Năm 1957, ông bị đưa ra tòa và bị kết án tử hình, nhưng sau chỉ bị
đày ra Côn Đảo, ở đó cho tới .tháng Giêng năm 1964 thì được trả tự do
sau khi chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sụp đổ.
Năm 1965, ông làm Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, năm 1967
trúng cử dân biểu Hạ Viện Đệ nhị Cộng Hòa. Thời gian này ông cũng tham
gia viết bài cho các tờ báo: Tiếng Nói Dân tộc, Quyết Tiến, Đuốc Nhà
Nam, Tin Sáng, Sài gòn Mới, Điện Tín v.v…Ông cũng là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch
của Trung Tâm Văn Bút VN thời kỳ trước 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông bị CS bắt đưa đi học tập cải tạo.
Ông mất ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn. (xin xem bài tường thuật
của tác giả Phan Sinh ở phần cuối)
Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp
1.
Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà,
ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi.
Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được
ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn,
vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc
chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
– Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây. Mong
nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
– Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
– Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng.
Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân.
Âu cũng là duyên trước….
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
– Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
– Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng
khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra…. Và từ ấy, tôi chỉ tụng
kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
– Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?
– Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời? Vậy
tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách,
thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về
sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống
trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn.
Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy
tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y,
ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
– Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
– Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ còn lần thứ
một nghìn; lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm
nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy….
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn
dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn
dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào
không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng
mõ dài đăng đẳng….
2.
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:
– Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không
giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao
cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải
lo tài bồi, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ;
rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền
đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
– Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: Nếu bây giờ
có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp
cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay.
Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước
cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng
phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm
nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng
lên, và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng
người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã
giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là
hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu….
Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu
thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng
để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay?
Rồi con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong
lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa
đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không
thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ
trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn: bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi.
Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hai người khách là kẻ phàm tục,
không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh,
nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại
tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng
nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên
không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc
nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ
mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng:
– Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh.
Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần
kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
3.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
– Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng
của pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc
đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được
thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi
tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ
được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ
Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời,
cũng chưa bù được.
Tội ngươi lớn lắm, phải rán tu luyện thật nhiều mới mong chuộc được.
Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi
thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột
tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám
chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi
sẽ đến đây mà thành chánh quả.
Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
– Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi.
Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là
mười.
Con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
– Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
– Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh
của người? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín,
nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự
tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao
cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự
do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:
– Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng
phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị
Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
– Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
– Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?
Phật đáp:
– Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh.
Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.
4
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để
có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông
người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa
hề có lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế…..
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong
hai người khách đã đến am thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên
cho mình mấy năm đau khổ.
Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:
– Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang
cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
– Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám
đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ
gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì
phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:
– Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý
hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người
làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu phải
mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì
tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của
người….
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
– Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một
chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng
triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh,
thì cố gắng trau giồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có
thể cảm hoá triệu triệu người….Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn
ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng.
Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng
lên….
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:
– Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng
đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin cố gắng.
(Nguồn: Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, nhà xuất bản Sóng, Saigon, 1974)
[Sau này tác giả Hồ Hữu Tường viết lại đoạn cuối như sau:]
Người đáp:
– Cái khổ của ngươi là ngươi đã phát tâm cứu độ muôn vàn chúng sinh
do những hạt tro mà đầu thai nên. Tâm ấy là lửa thiêng. Nó đốt lòng
ngươi, cưỡng lại mà cãi, sao cho được? Âu là, ngươi nghe theo nó mà hành
cái hạnh ấy đi!
– Nhưng mà, làm sao bây giờ?
– Bấy lâu nay, ngươi đã nghe tụng kinh. Kinh dạy bài học căn bản là Bi. Ngươi phải có lòng Bi, mà thương muôn vàn hột tro ấy!
– Tôi vốn thương nhà sư, mới dại dột mà làm cho nhà sư phát nộ. Thì
tôi cũng sẵn lòng thương những ai mà những hạt tro ấy đầu thai nên.
– Tốt lắm! Tốt lắm. Đã có Đại Bi, phải thêm có Đại Trí. Muốn cứu độ
muôn vàn hột tro ấy, ngươi hãy lấy Trí mà tìm biện pháp nào để cứu độ
chúng. Chớ tình thương mà không có thêm phương pháp để thực hiện tình
thương ấy, thì tình thương chỉ là một sự than khóc sướt mướt và vô bổ mà
thôi.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ một lần nữa. Nó phóng
quang mà nhìn khắp trần gian, để kiếm xem hiện nay, những hạt tro do các
vị Kim Cang, La Hán tung rải đang đầu thai nên gì. Lạ thay, những hạt
tro này, bởi tiền kiếp mắc tội Tham Sân Si nên chẳng được đầu thai làm
người, lại đầu thai là lũ chuột. Chúng không được sống dưới thanh thiên
bạch nhật; ngày chúng phải chui rúc trong hang; tối lén bò ra ăn vụng,
ăn vặt. Thế mà chẳng được yên thân, chúng bị một lão mèo to tướng, mắt
sáng như sao, nhìn thấy rõ trong đêm tối, vuốt bén như gươm, tay lẹ như
chớp, thêm thèm thịt chuột ăn bao nhiêu cũng không đã, lão mèo ngày lừ
đừ ngủ, để ban đêm rình chụp chuột mà ăn tươi nuốt sống. Đời của chuột
đã khổ rồi, mà bị lão mèo càng thêm khổ não, lòng phập phồng lo sợ. Rút
vào hang cả ngày lẫn đêm, thì đói. Ló ra, thì sợ mèo chụp ăn. Hồn con
thằn lằn, thấy chúng chuột như vậy, thương cảm vô cùng.
5
Bỗng nhiên nó thấy lũ chuột tìm chỗ an toàn mà khai đại hội. Nó bèn
vận thần thông nhĩ, mà nghe lũ chuột nói với nhau những gì. Nó nghe một
con chuột cống khởi nói như thế này:
– Hỡi đồng loại chúng chuột! Đời của chúng ta khổ não lắm rồi. Ngày ở
hang để tránh người đập giết, tối mới dám ló ra mà ăn vụng. Thế mà
chồng lên cái khổ ấy, chúng chuột ta còn gặp cái đại họa là lão mèo. Vì
lẽ đó mà tôi triệu tập tất cả lại, để bàn tính coi có cách nào để thoát
cái đại họa ấy chăng?
Một chuột con, còn hăng tiết, hùng biện hỏi:
– Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Chúng ta phải hiệp bầy lại, một
lượt tiến tới mà cắn mèo. Một mình mèo làm sao cự lại cả bầy chuột?
Một chuột già, mình đầy thẹo, kêu chít chít nói:
– Đừng có dại! Đừng có dại! Thuở tôi còn trẻ, tôi có nghe theo luận
điệu ấy. Chúng tôi có tổ chứa một bộ đội chuột, đến mấy trăm con, xông
tới mà toan cắn mèo. Thế mà mèo chỉ quơ tay một cái, là ngủm một chuột.
Mấy trăm con chuột của bộ đội chết sạch. May mà tôi rán được, đầy mình
thương tích, thoát chết chạy về, cả tháng mới lành. Kinh nghiệm của
chuột già này, xin các thanh niên chuột nên gẫm cho kỹ. Chớ liều lĩnh mà
thiệt mạng, lại không có chút kết quả nào!
Lời của chuột già như gáo nước lạnh làm dập tắt lửa hăng của chuột
con. Các chuột im lặng khá lâu, thì có một con chuột nhỏ nhẹ nói:
– Chuột mà tranh đấu với mèo, thật là không nổi. Ta tránh nó thì hơn.
– Đúng vậy!
– Phải lắm!
– Hay lắm!
Chuột kia nói tiếp:
– Muốn tránh mèo, ta phải nghĩ cách nào báo cho ta biết sự hiện diện
của mèo. Để ta tránh trước, khỏi sợ bị mèo chụp. Cách ấy, tôi nghĩ rằng
ta nên treo một cái lục lạc nơi cổ của lão mèo. Lão đi đến đâu, lục lạc
rung vang báo tin cho chuột ta hay, mà lánh trước.
Hồn cho thằn lằn nghe kế ấy, thuật lại cho người nghe. Và phê bình:
– Quả là Đại Trí!
Nhưng hồn con thằn lằn nhìn mãi, thấy lũ chuột im phăng phắc, chẳng
có chuột nào động đậy, chẳng chuột nào thốt một lời, mà cũng chẳng chịu
giải tán, cho chuột nào trở về hang nấy. Hồn con thằn lằn hỏi người:
– Sao lũ chuột lại như vậy?
Người đáp rằng:
– Bởi lũ chuột hèn nhát. Tuy kế là hay, song chẳng có chuột nào có
cái Dũng, dám đeo lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, để tự cứu, mà cũng để
cứu đồng loại. Có Bi mà không Trí, là vô bổ. Có Bi và Trí mà thiếu Dũng,
là vô hiệu. Bi, Trí, Dũng là ba cái chân vạc, thiếu một chân ấy là vạc
nghiêng đổ đi.
– Làm sao bây giờ?
– Ngươi muốn cứu chuột, ngươi phải làm chuột. Ngươi phải đầu thai làm
con chuột có Đại Bi mà biết thương đồng loại, có Đại Trí mà biết đem
lục lạc mang vào cổ của lão mèo, có Đại Dũng mà dám hi sinh, liều mình,
chẳng sợ mèo ăn tươi nuốt sống, mang lục lạc xông đến gần lão mèo.
Lời của người làm cho hồn con thằn lằn đại ngộ lần nữa. Muốn cứu độ
hạng nào, phải hoà mình vào hạng ấỵ Thích Ca đã từ chối ngôi báu, vì
Thích Ca muốn hòa mình vào chúng dân, để cứu độ chúng dân. Hồn con thằn
lằn muốn cứu độ lũ chuột thì hồn con thằn lằn phải hòa mình vào lũ
chuột, đầu thai làm con chuột, về muôn vàn cạnh khía, thảy đều không
khác gì với giống chuột. Chỉ khác có một chút xíu là trong tâm hồn của
con chuột này có Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng mà thôi. Có được đại ngộ
ấy, thằn lằn ta bèn đầu thai làm chuột.
6
Bởi là do con thằn lằn đâu thai, nên khi chuột ta sanh ra, thì hình
vóc còn mang máng giống con thằn lằn. Mẹ nó lầm tưởng là rồng. Bèn đặt
tên cho nó là Long Thử.
Long Thử lớn lên, có vẻ trầm ngâm, đạo mạo. Lời nó kêu chít chít nào,
nghe cũng có ý nghĩa u thời mẫn thế. Một hôm nó gọi một bạn chuột lực
lưỡng theo nó. Té ra, nó đã gặp được nơi góc tàu ngựa, một cái lục lạc
to bằng quả trứng, nên về gọi bạn theo nó. Đến nơi, nó nằm ngửa ra, ôm
lục lạc vào lòng, và bảo bạn cắn đuôi mà kéo, như là kéo xe vậy. Kéo nó
tới đâu, thì tiếng lục lạc kêu lên rổn rảng. Mà bạn nó, vì cắn đuôi nó
mà kéo đi chỉ nghe theo lịnh nó chít chít điều khiển, nên chẳng biết
trước sẽ hướng vào đâu, thành ra không sợ sệt chi. Long Thử ra lịnh cho
kéo đến lão mèo, tính đem lục lạc mà mang vào cổ lão mèo, như trước kia,
lúc nó còn là hồn con thằn lằn, nó đã nghe nói vậy.
Nằm một góc, lừ đừ, lão mèo nghe vang tiếng lục lạc. Bèn giương mắt
nhìn, chẳng biết con gì, đầu chẳng thấy mặt mũi chi, chỉ thấy một cái
vòi quơ qua quơ lại, để tìm phương hướng, lại có đến tám chân lại chổng
lên mà nghỉ, mà kêu rống chẳng ngơi. Lão mèo quá sợ, nhảy phóc lên nóc
nhà, kêu “miao!” rất là kinh hãi.
Lũ chuột núp trong hang, nãy giờ thấy mèo rình, không dám ra. Con nào
đói thì mau mau đi tìm mà ăn vụng. Một số đông lại bu quanh Long Thử,
lên tiếng chê bai:
– Việc này có gì là khó? Ai mà nằm ngửa ôm lục lạc chẳng được? Vì lối
ăn cắp trứng ấy, chuột nào mà chẳng biết? Chỉ vì mèo dại, thấy hai con
chuột cắn đuôi nhau, lầm tưởng là con quái gì, mà sanh ra sợ thôi!
Chẳng dè, nằm trên mái nhà, lão mèo nghe và hiểu tiếng chuột, lão
nhìn xuống, thấy quả là Long Thử ôm lục lạc, nằm ngửa cho một chuột khác
cắn đuôi; và cái mà lão lúc nãy tưởng đâu là cái vòi quơ qua quơ lại,
thật sự, chỉ là cái đuôi chuột! Lão vừa thẹn cho lão, vừa phục Long Thử
đa mưu, vừa phát ghét lũ chuột vô ân, đã buông lời chê bai kẻ mới cứu
mình khỏi nạn. Từ trên mái nhà, lão mèo phóng xuống, mỗi một tay hay
chân, sè vuốt mà móc họng một chuột.
7
Tất cả các chuột khác hoảng chạy tứ tán. Long Thử và bạn nó cũng giựt
mình, hoảng hốt chạy theo, chun vào hang mà trốn. Chừng tinh thần định
tỉnh lại lũ chuột bèn lập tòa án chuột để mà xử Long Thử. Long Thử bị
buộc tội là Thử gian, làm chuột mà lãnh lịnh của mèo, hại loài chuột của
mình. Bằng cớ là bấy lâu nay, lão mèo mỗi lượt chỉ móc họng được một
chuột mà thôi; còn bây giờ, mèo và Long Thử toa rập, để cho mèo giết một
lần đến 4 trự chuột. Nếu không nhờ Thử gian đồng lõa mà giúp, dễ gì mèo
chụp một lượt đến 4 chuột? Lời buộc tội quá hữu lý như vậy, đủ bằng cớ
thiết thực như vậy, dễ gì Long Thử đem tâm tình của mình, một tâm tình
vô hình, không biết tựa vào đâu mà chứng minh, để nói rằng mình chỉ có
lòng cứu độ loài chuột, chớ chẳng có dạ phụng sự cho mèo để hại chuột?
Long Thử bị kết án tử hình. Điều này nó dễ chấp nhận, nếu nó phải đem
cái chết của nó làm điều kiện, để cứu độ loài chuột, mà nó quá thương
yêu. Song cái bản án của nó, “tội Thử gian”, làm cho nó đau khổ vô cùng;
vì nó mang một cái oan vô tận, không ai giải cho được.
8
Lòng oan của nó xung lên, thành một vùng trở lực, tận đến cõi trời
Đâu Suất. Ở cõi trần không thấy chi cả. Còn ở trên kia, trở lực ngăn cho
Thần Tiên không lui tới được làm cho lưu thông phải nghẽn. Thần Tiên
phải hội nhau lại, tính làm sao cho việc đại bất công này được giải, thì
vũ trụ mới tuần hoàn theo trật tự. Bàn cãi rất lâu, Thần Tiên tìm ra
được một biện pháp, là bấy lâu nay, người ta đếm mười hai chi (tí, sửu,
dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi), thì mỗi chữ này vốn
là trừu tượng, không có nghĩa gì; nhưng bắt đầu từ bây giờ, phải cho
loài người hiểu rằng chữ đứng đầu tất cả, là chữ Tí, phải dành để cho
Long Thử tượng trưng.
Những đức tánh quý báu của nó, mà đặt ra làm chủ tể cho luân lý, thì vũ trụ mới vận hành điều hòa được.
Từ ấy, hỏi đứa trẻ nào, nó cũng biết “tí là con chuột”. Nhưng từ ấy
nhẫn nay, loạn lạc vẫn kéo dài hoài; bởi loài người chưa giác ngộ, cứ
lầm tưởng chuột ấy là thứ “chuột tham, sân, si” kia. Chừng nào, đứng đầu
cho cuộc vận hành của vũ trụ là con Long Thử, con chuột học được, và
hành được theo Bi, Trí, Dũng thì may ra, nguồn Thanh Bình mới khai được.
Hồ Hữu Tường
****
Hồ Hữu Tường – Những ngày cuối đời
Bài của Phan Chính
Hồ Hữu Tường với tư thế một đại thụ trên lĩnh vực báo chí và văn học
còn là một nhà chính trị độc lập nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975.
Cuộc đời ông có cái duyên nợ với mảnh đất La Gi – Hàm Tân (Bình Thuận)
như một tình cờ, nhưng với tôi lại có những điều đáng nhớ. Tập Kể chuyện
(Huệ Minh xuất bản 1965) gồm 9 câu chuyện kể, viết cùng Nguiễn Ngu Í,
một nhà văn nhiều giai thoại và cách tân chữ viết, quê ở Hàm Tân. Như
một định mệnh, Hồ Hữu Tường có những ngày cuối đời sau 70 năm thăng trầm
khổ ải rồi dừng lại ở đây.
Trên một số website ở nước ngoài đều ghi rằng sau những năm cải tạo,
Hồ Hữu Tường được trả tự do và mất tại Gia Định. Có trang viết một cách
mập mờ là “Hồ Hữu Tường – một người chết u uẩn”, có gì đó ám chỉ về chế
độ lao tù. Nhưng đều chính xác ngày mất của Hồ Hữu Tường là ngày
26.6.1980. Thời gian này tôi đang làm việc tại Bệnh viện huyện Hàm Tân
(tỉnh Thuận Hải, năm 1992 trở lại tên Bình Thuận) phụ trách Phòng Y vụ,
một bộ phận trực tiếp với Giám đốc về chuyên môn. Đây là cơ sở cũ, trước
ngày giải phóng 23/4/1975 là Bệnh viện Phối hợp Dân Quân y tỉnh Bình
Tuy mà tôi cũng từng làm việc ở đây dưới lớp áo Quân y Việt Nam Cộng
hoà.
Năm 1980, bệnh viện này là tuyến huyện với 120 giường, tình trạng
trang thiết bị hầu như tận dụng lại những gì đã có, tiếp tục hư hỏng
ngày càng nhanh và nhếch nhác. Số bác sĩ cũ không còn, một số có trình
độ trung cấp, sơ học được sử dụng lại, gọi là lưu dụng, nhưng lần lượt
bị loại dần do lý lịch… bù vào số cán bộ từ khu về, từ miền Bắc chi
viện. Ngoài năm hay sáu bác sĩ còn lại, rất nhiều chức danh y sĩ (xếp
ngang trình độ trung cấp y tế sau này), được quyền mang ống nghe khám
bệnh kê đơn, giữ các chức vụ Bệnh viện phó, Trưởng khoa, nhưng các tên
thuốc Tây trên toa thuốc chỉ viết bằng phiên âm theo cách đọc. Trong khi
đó cán sự điều dưỡng học 4 năm chỉ xếp là y tá trung cấp, thực hiện chỉ
định của y sĩ. Có lúc chiếc máy X-quang làm chức năng chụp phim chẩn
đoán rất hiện đại, đặt trong phòng có vách chì cản tia phóng xạ độc hại
cho người, lại bị đập bỏ cho rộng và chỉ dùng bộ phận rọi (gọi là rọi
kiếng), tức xem trực tiếp theo kiểu cũ cách đó trên 20 năm. Kết quả thế
nào tùy thuộc do nét bút vẽ mô tả của y sĩ đứng máy, thay vì có phim như
trước đây. Thuốc men thì cũng rất khó khăn, phải phát động phong trào
Đông Tây y kết hợp. Loại thuốc xuyên tâm liên trị bá bệnh, tức bệnh nào
cũng uống được, mỗi lần hàng chục viên, đắng đến nỗi… hết bệnh. Trị sốt
xuất huyết thì có cây cỏ mực sao tẩm nấu thành xi-rô, trị sốt rét có lá
mãng cầu ta sao sắc uống… Các loại vitamine tiêm thì cao cấp hơn như B1,
B6, B12 được mua hoá chất từng ký, về hòa nước cất, sản xuất tại chỗ,
vào ampule hoặc lọ pénicillin đã dùng… Dịch truyền loại 5%, 10% cũng
vậy. Dây truyền, kim tiêm phải luộc đi luộc lại nhiều lần để tiết kiệm,
được coi là có sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Không có băng keo cố định
kim tiêm dịch truyền cho bệnh nhân được thay bằng sợi dây nang lá buông.
Bệnh dù có nặng mấy đi nữa cũng phải đi theo hệ thống tuyến xã, huyện,
tỉnh, trung ương… cơ quan, đơn vị ở địa bàn nào cũng theo con đường đó.
Từ bệnh viện huyện muốn chuyển bệnh nhân lên bệnh viện tỉnh phải có biên
bản tập thể do y bác sĩ các khoa hội chẩn, cho nên có truờng hợp bệnh
sản đẻ khó mà bác sĩ, y sĩ khoa Nhi hoặc Đông y cũng được tham dự và cho
ý kiến. Có khi phải xin ý kiến Bí thư Chi bộ, dù anh ta chỉ là cán bộ
chính trị. Có sự ràng buộc đó cũng vì sự khắt khe quái ác của các chỉ
tiêu tử vong, chuyển viện… Nhiều quá thì mất điểm thi đua. Như vậy thì
không thể nào có bệnh nhân được chuyển thẳng về các Bệnh viện ở Sài Gòn,
dù biết bệnh tình có ra Phan Thiết cũng chào thua.
Trước đó không lâu, tôi là một trong những người trực tiếp tiếp xúc
với trường hợp đại sứ Đinh Bá Thi, là đại sứ đại diện Chính phủ CHXHCNVN
tại Liên hợp quốc (tại Mỹ) về nước công tác tại Bộ Ngoại giao. Chuyến
xe đi mua hàng thực phẩm mỗi sáng sớm của Trại giam Z30C chở 4 nạn nhân
và 1 trẻ em đến bệnh viện. Ông Thi bị vết thương ở đầu, lột cả mảng da
tóc khá rộng, còn người vợ bị nhiều chấn thương đã hôn mê. Người chị vợ,
anh lái xe và đứa cháu ngoại của ông Thi chỉ xây xát nhẹ. Lúc vào viện,
ông Thi còn tỉnh táo và bảo cố gắng chăm sóc người khác, ông không tự
giới thiệu mình là ai! May mà anh lái xe còn tỉnh táo, mới cho biết đó
là ông Đinh Bá Thi trên đường công tác sau đêm ngủ tại nhà khách Uỷ ban
Tỉnh ở Phan Thiết, sáng đi Thành phố Hồ Chí Minh, đến căn cứ 8 thì bị
một chiếc xe tải cùng chiều ép, làm cho chiếc Comanca lật nhào mấy vòng.
Tôi nhận ra đây là một yếu nhân, biết tiếng ông từng là người cùng bà
Nguyễn Thị Bình đại diện cho Chính phủ Cộng hoà miền Nam Việt Nam tại
bàn hoà đàm Paris. Sau này biết thêm, ông trên đường đi truyền đạt chỉ
thị quan trọng trước sự đe dọa can thiệp của Trung Quốc dưới chiêu bài
cứu nạn kiều Sài Gòn trong chiến tranh biên giới vừa nổ ra. Sau mấy giờ
cấp cứu chờ xe 05 của Bệnh viện Tỉnh đưa đội phẫu thuật vào thì ông Đinh
Bá Thi tắt thở, xác quàn tạm ngay trong phòng mổ chờ ý kiến của tỉnh.
Huyện giao cho Xí nghiệp Cơ khí gấp rút làm chiếc hòm kẽm có thêm một
lớp chứa được đá lạnh để giữ tươi thi hài, đem đặt tại hội trường Ủy ban
Huyện. Khuya đêm đó xe của Văn phòng Đại diện Bộ Ngoại giao phía Nam ra
và chuyển vào áo quan, đem về Sài Gòn. Nhắc đến sự kiện này để thấy
tình trạng nghèo nàn của hệ thống y tế dù đã gần 6 năm giải phóng. Nhiều
người so sánh, nếu có máy bay cấp thời chở ông Thi về Chợ Rẫy, có khả
năng ông qua khỏi. Cách bệnh viện chừng 300 mét, phía sau nhà bưu điện
bây giờ, trước giải phóng có một sân bay trực thăng, bất cứ đêm ngày có
bệnh nặng cần chuyển cấp cứu đều đáp xuống chở ra Hạm đội 7 hoặc Bệnh
viện Long Bình.
Trở lại trường hợp Hồ Hữu Tường, khoảng đầu tháng 6 năm 1980, xe của
Trại giam Z30C chở đến với yêu cầu điều trị. Trên địa bàn Hàm Tân, xã
Tân Minh lúc này có 2 trại giam Z30C và Z30D nằm liền kề, còn gọi là
trại Thủ Đức, rộng hàng ngàn hec-ta đất rừng tiếp giáp Núi Bể và cặp
đường quốc lộ I, giáp ranh đất tỉnh Đồng Nai. Tù nhân cải tạo hầu hết là
thành phần quan chức, sĩ quan tướng tá chế độ cũ và mắc tội chính trị
chống đối sau này. Nay nhập một gọi là Trại Z30D thuộc Cục Quản lý Trại
giam (V26) Bộ Công an, xe chạy Bắc – Nam ngang qua thấy trạm xăng Đức
Khải rất bề thế với màu sắc đỏ mà chủ nhân là người có tên Anh Lâm,
trước đây bị án chung thân về tội buôn lậu, cũng là tù nhân “đặc biệt”
của trại này. Trước khi đến Trại giam Z30C, từ năm 1977 Hồ Hữu Tường đã
vào tù, từng qua các trại giam Phan Đăng Lưu, Chí Hoà và Long Bình… Theo
cán bộ canh giữ, ông được giao chăm sóc vườn thuốc nam thuộc bệnh xá
của Trại. Hồ Hữu Tường cao lớn, cặp vành tai của tướng mạo trường thọ,
tóc đậm sắc muối tiêu, còn đi đứng được. Trong hồ sơ có ghi đến chức vụ
của ông tham gia tổ chức phản động là Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Trung
lập Phục quốc Việt Nam gì đó, tôi nhớ chưa đầy đủ lắm! Chẩn đoán là xơ
gan cổ chướng, bụng ông to độn lên áo trông thấy rõ. Nhập vào Khoa Nội
2, bác sĩ Nguyễn Văn Thảo phụ trách. Tên tuổi của Hồ Hữu Tường từng
khuấy động sân khấu chính trị miền Nam từ thời Diệm đến thời Thiệu… Mới
đó, với danh nghĩa dân biểu Hạ nghị viện, ông đã cùng giới báo chí làm
cuộc biểu tình “Ngày ký giả ăn mày” (10/1974) đòi tự do báo chí. Năm
1926 sang Pháp học Đại học Marseille, đậu thạc sĩ toán Đại học Lyon… rồi
làm chính trị, làm báo, viết văn…, rồi thời Pháp thuộc, đến lúc Mỹ sang
và sau cùng là NVThiệu, tù tội với ông đều có, NĐDiệm từng kêu án tử
hình và có văn hào Pháp Albert Camus viết thư can thiệp. Trong hàng chục
tác phẩm của Hồ Hữu Tường, tôi chỉ nhớ được một ít tựa sách và chỉ đọc
đôi quyển như Phi lạc sang Tàu, Phi lạc đại náo Hoa Kỳ, Kể chuyện, Luận
lâm, Người Mỹ ưu tư… Trong bài tựa của tập Kể chuyện, ông viết: ”Mục
đích của tôi là lập một cuộc tạ ơn những vị giáo sư đã dạy tôi viết văn
nhà quê, hoang đường, trào lộng và châm biếm, đặc biệt của nông dân miền
Tây Nam bộ vào đầu thế kỷ XX này…”
Sinh ra ở Cái Răng, Cần Thơ, thấm đậm cái chân chất Nam bộ, nhưng ông
là con người có tư tưởng xuất chúng hiếm hoi. Ông thật lòng nói, “thầy
dạy là những người bạn có lúc đồng chí hướng như Phan Văn Hùm khuyến
khích và chịu khó năn nỉ dạy không công cho tôi viết văn, tôi lại lười
biếng“! Nhiều chính khách nhận xét về Hồ Hữu Tường, rằng ông là con
người của chủ nghĩa dân tộc, người đề xướng giải pháp trung lập chế v.v…
Với những điều đó tôi hiểu rất lờ mờ, đơn giản chỉ thấy lay động trước
tên tuổi một Hồ Hữu Tường.
Ngay chiều ấy tôi ghé nhà cậu ĐĐC – Châu Anh báo tin này vì Châu Anh
là bạn Nguiễn Ngu Í, biết Hồ Hữu Tường khi làm báo ở Sài Gòn, nhưng cậu
ngại không đến thăm. Là tù nhân chính trị nên trại cử một anh công an
theo canh giữ, không ai dám đến gần bắt chuyện, dù là nhân viên y tá
trong khoa. Tôi có lợi thế là làm công tác y vụ, tức bộ phận quản lý
điều hành chuyên môn ở bệnh viện, nên có lý do tiếp xúc với ông công
khai mà không bị ai dòm ngó. Ông than với tôi rằng chiếc mùng vải xô của
bệnh viện phát bị thủng rách nhiều chỗ quá, muỗi chui vào cắn không ngủ
được. Thêm nữa, tôi hỏi ông thèm ăn gì. Ông nói cá, cá… Nhà tôi ở xóm
Phò Trì, cách bệnh viện 2 cây số, đi làm bằng chiếc xe đạp cọc cạch
thường tuột xên, nhà chỉ có một chiếc xe này, may là vợ tôi đi dạy học ở
một trường nhỏ gần nhà. Vợ tôi mua mấy lát cá thu, chỉ tẩm một ít gia
vị, chút nước mắm nhạt vì bệnh ông không được ăn mặn. Hai lát cá thu vừa
đủ trong một hộp nhựa để mang đi kín đáo. Ông ăn một cách ngon lành và
trông ông hiền từ như ông Phật. Tôi gói mấy đoạn chỉ và kim may để ông
vá lại các lỗ thủng chiếc mùng. Ông cứ loay hoay vá, lại vá, tôi hỏi bác
làm gì nhọc vậy. Ông cười, quen rồi đời tôi cũng thế, phải vá mãi!
Trong cái túi đồ dùng của ông có nhiều thuốc Tây ngoại và ma-gi (xì dầu)
cũng ngoại, ông nói nhờ các con ở nước ngoài gởi về. Khi ông có chút
tin tôi, ông mới nhờ tôi nhắn tin cho gia đình. Lúc ấy chỉ có viết thư
điện tín ở bưu điện, chuyển bằng moọc tích tích te te. Hai ngày sau vợ
ông, bà Nguyễn Huệ Minh, đi xe than từ Sài Gòn ra đến bệnh viện gần cuối
chiều. Hai ông bà ôm chầm lấy nhau một cách tự nhiên ở ngay hiên khoa
nội, làm ai cũng thấy lạ nhưng thật bùi ngùi. Tôi lén lút đưa bà về nhà
tôi để tắm rửa và bàn chuyện bệnh tình của ông vì sau mấy ngày nhập viện
bệnh ông có triệu chứng nặng hơn, theo chuyên môn phải chuyển viện, mỗi
ngày phải dùng bơm tiêm lớn chọc dò, rút ra cả lít dịch axit từ màng
bụng ông mới dễ thở. Chỉ báo lại trại Z30C, họ sẽ mang ông ra bệnh viện
Phan Thiết thôi, là xong. Nhưng ra đó là chết và coi như chết trong tù,
chôn cất theo tù… Tôi nghĩ đến điều đó phải xảy ra. Tôi không có một xu
hướng chính trị nào, trước đây cũng vậy, dù cộng sản hay quốc gia, chỉ
mong đợi hoà bình, bên nào cũng được… Hồi năm 1974, thiếu tướng Nguyễn
Xuân Trang, Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà ký
lệnh thuyên chuyển số 11075 đẩy tôi về Bệnh viện Tiểu khu An Xuyên (Cà
Mau) với lý do ghi rõ: “Có tư tưởng hành động chống chánh phủ cũng như
chánh quyền địa phương”, cho đến sau ngày giải phóng tuy còn tiếp tục
làm việc với ngành y nhưng không phải yên ổn gì, mỗi năm không ít hơn ba
bốn lần khai lại lý lịch. Những câu hỏi của cơ quan an ninh từ một hồ
sơ nào đó trong tàng thư của cơ quan Cảnh sát Việt Nam Cộng hoà để lại
(sau này tôi biết có phiếu điều tra lý lịch của Ty Cảnh sát Quốc gia
Bình Tuy lập 5/5/1974) ghi về mối quan hệ anh em giữa tôi với dân biểu
Trần Ngọc Châu và điệp báo cộng sản Trần Ngọc Hiền (Trần Ngọc Hiền vào
Nam hoạt động lúc Trần Ngọc Châu làm tỉnh trưởng Kiến Hoà tức Bến Tre và
Hiền bị bắt lúc Châu là dân biểu Tổng thư ký Hạ viện). Sự thực Trần
Ngọc Châu với tôi là anh em cùng mẹ khác cha, còn Trần Ngọc Hiền với
Châu là anh em cùng cha khác mẹ. Nhưng lúc này Trần Ngọc Châu đã bị Tổng
thống Thiệu bỏ tù, không liên quan gì. Với Hồ Hữu Tường, tôi ngưỡng mộ
ông ở văn tài, con người minh triết, chứ tôi không mê ông ở phương pháp
hành động. Truyện ngắn “Con thằn lằn chọn nghiệp” trong tập Những
truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta (NXB Sóng, Sài Gòn 1974),
theo bà Huệ Minh là truyện ông tâm đắc nhất. Phải chăng kiếp con
thằn lằn có gì đó là hình ảnh của kiếp người ông đang cưu mang? Suốt đời
lầm lũi tìm đủ phương kế ngăn chặn kẻ cuồng tín, u mê, tự hủy hoại,
giết hại nhau… vì một mục đích hão huyền, lại cho đó là thiên đường!
Chuyện kể trong tù, một hôm có người tù trẻ cùng phòng hỏi Hồ Hữu Tường:
“Bác Tường ơi, bác biết tại sao từ thời Pháp đến Mỹ, rồi cả bây giờ bác
cứ ở tù dài dài không?” – Ông nói, “Mày trả lời giùm tao đi!” Anh ta
nhanh nhẩu: “Dễ quá, Bác có tên là Hữu Tường nên bác ‘hưởng tù’ dài dài
thôi!” Ông trầm ngâm, “Có thể thằng này nói đúng.”
Như có cùng một suy nghĩ, bác sĩ Thảo làm rất đầy đủ bệnh án của một
bệnh nhân bị đe dọa tử vong bất cứ lúc nào. Bác sĩ Thảo học y khoa Huế
trước giải phóng và sau giải phóng mới tốt nghiệp, rồi xin về Hàm Tân.
Sau này lấy vợ cùng ngành rồi đi theo đường bảo lãnh qua Mỹ. Tôi nhanh
chóng hoàn tất hồ sơ cho Giám đốc bệnh viện Vương Xuân Long ký với yêu
cầu Z30C sớm đưa về chữa trị ở Sài Gòn, đây là một ngoại lệ. Có sự bàn
bạc thế nào đó ở trại giam và họ báo với bà Huệ Minh phải làm đơn bảo
lãnh xin đưa về Sài Gòn. Sau đó bà Minh về lại Sài Gòn và thay bà là
người em gái của ông. Mấy ngày sau, Z30C có văn bản của Bộ Công an quyết
định tạm tha Hồ Hữu Tường để đi điều trị. Có lẽ ai cũng tiên lượng được
tình trạng bệnh tật của ông đã liền kề cái chết và cũng tránh dư luận
xấu về cách đối xử với một nhân vật nổi tiếng nên dễ dàng có một quyết
định như thế. Được biết trước khi ông chuyển về trại Z30C, có phái đoàn
Ân xá Quốc tế đến thăm hỏi và can thiệp.
Có được giấy tạm tha, nhưng người em gái của ông, tuổi ngoài 60 chân
quê, không tính toán được gì và tôi phải làm một cái gì giúp ông. Tôi
gặp người bạn Nguyễn Phát Minh, anh có chiếc xe tải Daihatsu chở cá ướp
đá chạy đường quốc lộ 46 – La Gi, giá xăng xe 200 đồng, để gấp rút chở
ông về Sài Gòn. Xe ghé nhà tôi lấy chiếc nệm giường cá nhân, lót lên sàn
xe và lên bệnh viện nhận bệnh. Lúc ấy bác sĩ Nguyễn Văn Khánh, chuyên
khoa răng – muốn về thăm nhà, tôi can thiệp để bác sĩ Khánh nhận làm y
tá chuyển bệnh. Tôi báo lại cơ quan có việc nhà xin nghỉ phép, về nhà
dắt con gái Bảo Vy 6 tuổi lên đầu dốc Tân An đón xe chở ông lên. Xe đến
Tân Minh thì trời mưa tầm tã, phải dừng lại để kiểm tra khi qua mấy trạm
quản lý thị trường, vì đây là loại xe thường chở hàng hải sản. Chai
dịch truyền đong đưa dưới mui xe cạn dần và tôi phải tiêm cho ông mấy
mũi campho… Xe đến Gia Định khoảng 5 giờ chiều, hướng về nhà ông ở Đa
Kao vì trước đây bà Huệ Minh nói nếu đưa được ông về Sài Gòn thì có mấy
người bạn thân là bác sĩ Lương Phán, bác sĩ Nguyễn Thị Lợi chăm lo. Theo
giấy chuyển viện, chỉ được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy thôi, nhưng tôi
chuẩn bị thêm một giấy chuyển viện ký khống để dự phòng, với ý định ghé
nhà để hỏi ý kiến vợ ông quyết định.
Chỉ còn khoảng 100 mét quanh qua góc đường Trần Quang Khải là đến
nhà, thì Hồ Hữu Tường tắt thở trên xe. Lúc này cảnh nhà trống vắng không
có ai, mới biết bà Huệ Minh vừa ra Hàm Tân hồi sáng nay. Người em gái
ông loay hoay cùng tôi và Minh khiêng xác ông vào nhà. Tôi chỉ kịp thấy
căn nhà lầu bề thế, phòng khách có một bức tranh rất rộng treo trên
tuờng. Chuyện tiền xe lúc này tôi không dám hỏi để trả cho Minh đổ xăng
vòng về, nhưng có hỏi thì biết ai. Chúng tôi về Phú Thọ ngủ đêm ở nhà em
tôi và sáng ghé qua nhà ông, bà Huệ Minh chưa thể về kịp, người em gái
ông gởi lại tiền xăng cho Phát Minh…
Từ ngày đó tôi không còn liên lạc gì, dù nhiều lần về Sài Gòn, vì
không muốn vương víu đến chuyện nghĩa ơn. Sau này bà Huệ Minh cho tôi
biết, khi bà từ Hàm Tân về nhà thì tin dữ đến với gia đình. Hồ Xích Tú,
người con trai đầu của ông bà, bị bắt tại Bến Tre do vượt biên. Trước
giải phóng, Tú là giám đốc Nha nhân viên Hàng không, nhưng trong những
ngày cuối cùng Sài Gòn sụp đổ, Tú chần chờ cùng với cha ra đi, nhưng Hồ
Hữu Tường tin rằng mình là người yêu nước, quyết định ở lại. Sau này
nghe nhà báo Lê Phương Chi nói, đám ma Hồ Hữu Tường đông lắm, có nhiều
người không dám nhập vào đám đưa tang mà âm thầm đi trên lề đường đưa
tiễn. Anh còn gợi ý tôi viết lại chi tiết những ngày cuối của Hồ Hữu
Tường, đó là một nhân vật đặc biệt kỳ tài.
Khoảng tháng sau, tôi nhận được vài dòng thư của bà Huệ Minh: “Chú
Chính, không biết lời nào để nói hết được lòng biết ơn của gia đình tôi
đối với chú” kèm theo 30 đồng. Tôi mới nhớ lại, hôm bà ra chăm sóc ông,
đến ngày phải về Sài Gòn bà lúng túng bảo rằng không còn tiền và tôi vét
được 30 đồng đưa cho bà. Lương tôi lúc đó là 47 đồng, tiêu chuẩn gạo
tháng 13 kg nhưng trên 60% là độn bột mì hoặc bo bo… Nói đến chuyện cơm
áo thời đó, có khi kể lại thì thế hệ trẻ bây giờ cho là cổ tích, hoang
đường. Không đâu, có một gia đình, anh chồng làm nhân viên đưa thư, vợ
nấu bếp cho cửa hàng thương nghiệp mà phải nuôi 6 đứa con. Tiêu chuẩn
mỗi gia đình chỉ được 2 nhân khẩu lương thực ăn theo. Hai vợ chồng phải
đưa nhau ra tòa ly dị (tất nhiên là giả) để có thêm tiêu chuẩn lương
thực ăn theo! Thời ấy còn khổ lắm, những người trước đây sống bằng đồng
lương công chức, làm lính chế độ cũ đối mặt với sự thay đổi, bị hụt hẫng
nên rất sợ lao động ruộng rẫy và không có một việc làm nào để sống, lại
phải đi vùng kinh tế mới âm u. Mà bám vào một tập thể cỡ hợp tác xã hay
cơ quan nhà nước thì coi như một cái phao cứu sinh. Anh bạn Đỗ Hồng
Hùng là dược sĩ Đại học Y Sài Gòn, bị động viên mang lon trung úy, nay
xin làm xã viên hợp tác xã phân hữu cơ, ngày 4 tiếng đồng hồ phải gầm
mình xuống Bưng Ngang, đỉa bám vào da, anh trân mình móc từng vốc bùn
trộn tro rơm rạ chế biến phân bón. Mãi sau này bệnh viện mới nhận anh
vào để “pha chế” thuốc Đông y. Trong bản lý lịch cá nhân luôn có phần kê
khai hai, ba người bạn thân nhất, bóp bụng và dẹp sĩ diện lục tìm trong
trí nhớ cho được người bạn nào đó có thành tích cách mạng, nếu đương
chức quyền uy thì càng hay. Nói đến điều này, tôi lại tự hỏi mình, có
những quan hệ với Hồ Hữu Tường trong tình cảnh đó có phải là “liều” lắm
không? Trong lòng tôi khi ấy không có gì lưỡng lự và thật sự thấy rất
nhẹ nhàng. Khi ghi lại những dòng này thì câu chuyện tưởng mới đây mà đã
trôi qua 28 năm rồi, nghe đâu bà Nguyễn Huệ Minh cũng đã mất. Đời người
sao ngắn ngủi quá!
La Gi 10/2008
© 2008 talawas
No comments:
Post a Comment