Chính trị bao dung (inclusive politics) và Chính trị loại trừ (exclusive politics)
Luật Sư Đào Tăng Dực (Danlambao)
- Trong giai đoạn gần đây, liên hệ đến cuộc bầu cử ngày 3 tháng 11 năm
2020 tại Hoa Kỳ, có nhiều sự chia rẽ trầm trọng trong cộng đồng người
Việt tha hương lẫn trong cộng đồng dân tộc tại quốc nội. Dĩ nhiên trong
quá khứ lẫn trong hiện tại chúng ta vốn đã có nhiều ý kiến khác nhau vì
bản chất và suy nghĩ khác nhau giữa những cá nhân sinh hoạt trong môi
trường dân chủ đa nguyên tại hải ngoại. Đó cũng là chuyện bình thường.
Tuy nhiên, hiện trạng chia rẽ giữa những người ủng hộ đương kim tổng
thống Trump thuộc đảng Cộng Hòa và những người Ủng Hộ cựu phó tổng thống
Joe Biden thuộc đảng Dân Chủ đã trở nên vô cùng gay gắt và trong nhiều
trường hợp trở nên trầm trọng, đưa đến tình trạng chửi bới và chụp mũ
lẫn nhau làm suy yếu tiềm năng chống cộng của cộng đồng.
Đã đến lúc, chúng ta phải thực sự bình tâm và nhận định vị trí của chúng
ta như những người tỵ nạn cộng sản và tranh đấu cho một nước Việt Nam
dân chủ chân chánh.
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng tuy chúng ta có thể mang nhiều
quốc tịch khác nhau của nhiều quốc gia sở tại, như Hoa Kỳ, Canada, Úc
Đại Lợi, Pháp, Anh, Đức v.v... nhưng chúng ta luôn là người Việt Nam.
Tất cả các quốc gia sở tại, tất cả các đảng phái chính trị sở tại, dù
chúng ta có tham gia hoạt động hay không, dù có ban bố cho chúng ta bao
nhiêu ân huệ, dù chúng ta có mang ơn họ đến bao nhiêu thì cũng chỉ là
phương tiện để chúng ta học hỏi, trau dồi kinh nghiệm hầu phục vụ cho
một cứu cánh duy nhất tối hậu: đó là dân tộc và tổ quốc Việt Nam.
Khi nhận định như thế, chúng ta sẽ không còn quá xem trọng bất cứ một
khuynh hướng chính trị nào tại hải ngoại, từ bất cứ một chánh đảng sở
tại nào quá nghiêm trọng đến mức độ hủy diệt tình đồng bào tỵ nạn với
nhau.
Tổ quốc của chúng ta không phải là Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Canada, Pháp hoặc
bất cứ một quốc gia sở tại nào. Trách nhiệm của chúng ta là phải vượt
lên trên, học hỏi và xây dựng cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Trừ những trường hợp bị ảnh hưởng của các siêu cường sắp xếp, chia cắt
đất nước như Nam và Bắc Việt Nam, Nam và Bắc Hàn, Đông và Tây Đức, cũng
như Trung Hoa Lục Địa và Đài Loan, thì nguyên nhân của những sự chia rẽ
phát xuất từ một quan điểm chính trị sai lầm của quá khứ.
Đó là một quan điểm sai lầm mà tác giả tạm gọi là quan điểm chính trị loại trừ (exclusive politics).
Trước khi tìm hiểu thêm về những nét chính của quan điểm chính trị này,
cần phải nhắc nhở rằng một nền dân chủ chân chính và hiện đại bao gồm 3
yếu tố nền tảng:
1. Hiến định,
2. Pháp trị và
3. Đa nguyên
(Xem cuốn “Dự Thảo Hiến Pháp Việt Nam Trên Quan Điểm Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị và Đa Nguyên”, cùng tác giả, Xuất Bản 2017).
Trên nguyên tắc, tầm mức quan trọng của 3 yếu tố bằng nhau. Tuy nhiên
khi phân tích kỹ thì yếu tố “đa nguyên” thể hiện đậm nét nhất tinh thần
của thiên niên kỷ mới.
Lý do là vì yếu tố đa nguyên mới trực tiếp đưa tới một nền chính trị bao
dung (inclusive politics) trong đó mọi khuynh hướng đều có chỗ đứng hợp
hiến và hợp pháp trên chính trường.
Trong quá khứ, nền chính trị có tính cách loại trừ (exclusive politics),
trong đó phe nắm được chính quyền, sau khi đã cướp được chính quyền,
tuyệt đối không bao giờ cho phép các phe nhóm khác hiện hữu hoặc sinh
tồn trong vòng luật pháp và hiến pháp.
Trong khi đó, một nền chính trị bao dung đương đại, trên nguyên tắc lẫn
trên thực tế, không cho phép bất cứ một lãnh đạo chính trị, chính đảng
hoặc cá nhân hay phe nhóm nào, lọai trừ và gia hại cho đối thủ của mình.
Chính vì thế, trong nền chính trị của tương lai, những người dấn thân
làm việc cho đất nước, trong bản chất, phải là những người đã mất đi khả
năng hãm hại đối thủ của họ. Lý do đơn giản là vì không phải họ không
có bản lãnh, mà chính vì trong khung cảnh của một nền chính trị bao
dung, không có nhu cầu hãm hại đối thủ.
Một chính đảng nghiêm chỉnh, khi nắm được chính quyền, sẽ phải ra sức
đem lại phúc lợi cho tòan dân, bao gồm mọi cá thể và tập thể, kể cả
những đối thủ của họ.
Chúng ta có thể kết luận một cách chính xác rằng, trong tình huống đó,
một chính quyền chỉ thật sự mạnh, khi có đối lập chính trị mạnh, và
ngược lại. Hậu quả là các lực lượng chính quyền và đối lập phải củng cố
cho nhau như mặt trời cần mặt trăng, ngày cần đêm và dương cần âm trong
cuộc sống nhân sinh.
Chính vì thế, một người thuộc đảng Cộng Hòa tại Hoa Kỳ mà kêu gọi tiêu
diệt đảng Dân Chủ hoặc ngược lại. Một người thuộc đảng Lao Động tại Úc
mà kêu gọi tiêu diệt Lien Đảng Tự Do-Quốc Gia hoặc ngược lại là hoàn
toàn sai lầm và không hiểu thế nào là dân chủ chân chánh cả.
Thật vậy, trong quá khứ lịch sử u mê của nhân loại, quyền lực chính trị
thông thường nằm trong tay một tù trưởng (giai đoạn bộ lạc sơ khai), một
lãnh chúa với những giai cấp xã hội (giai đoạn xã hội phong kiến), một
quân vương chuyên chế (giai đoạn quân chủ chuyên chế), hoặc một đảng
phái chuyên chính (giai đoạn độc tài đảng trị).
Trong hiện tại và tương lai thì khuynh hướng dân chủ đa nguyên
(pluralist) và bao dung (inclusive) ngày càng nổi bật và sẽ đậm nét hơn
trong thế kỷ 21.
Như đã nêu trên, yếu tính đa nguyên đưa đến một nền chính trị bao dung
của tương lai. Đều đó giả định là quyền lực chính trị sẽ phát xuất từ
nhiều tụ điểm khác nhau trong môi trường chính trị (body politic) của
một quốc gia, mà không còn phát xuất từ một tụ điểm duy nhất như một
chính đảng, một cá nhân hoặc một tập thể xã hội (như quân đội).
Tuy nhiên, giả định trên tự nó chưa đủ. Quyền lực chính trị còn phải
được phân chia cho nhiều định chế (institutions), độc lập với nhau, để
hành xử và kiểm soát lẫn nhau. Quan điểm trọng yếu này đã được triết gia
người Pháp Montesquieu đưa ra trong cuốn sách lừng danh Esprit des Lois
(Vạn Lý Tinh Pháp). Quan điểm phân quyền (separation of powers) của ông
theo kiểu Tam Quyền Phân Lập (Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp) đã được
các cha đẻ của hiến pháp Hoa Kỳ long trọng hiến định hóa trong bản hiến
pháp thành văn đầu tiên của nhân loại: Bản Hiến Pháp Hiệp Chủng Quốc Hoa
Kỳ.
Ngay cả tam quyền phân lập, tự nó, cũng chưa biểu hiện trọn vẹn tính bao
dung của của nền chính trị mới. Tam quyền phân lập trên thực tế chỉ là
phân quyền hàng ngang (horizontal separation of powers). Thực tế chính
trị đòi hỏi nhiều hơn tại Hoa Kỳ (vì các tiểu bang hiện hữu trước khi
Liên Bang hiện hữu), tại Âu Châu (vì chế độ phong kiến lưu lại những nét
đặc thù tại các địa phương), tại Ấn Độ (vì các tiểu quốc hiện hữu trước
khi Ấn Độ ra đời) và nhiều quốc gia theo thể chế liên bang với những
điều kiện lịch sử tương tự.
Thật vậy, tại các quốc gia này, khởi xướng một nhu cầu phân quyền mới
làm đậm nét thêm yếu tố bao dung của chính trị. Đó là quan điểm phân
quyền hàng dọc (vertical separation of powers), còn có thể gọi là địa
phương phân quyền (decentralization of powers).
Ngoài Tam Quyền Phân Lập ra, chúng ta cần phân biệt nhiều loại “phân tán quyền lực khác nhau”. Tuy nhiên có hai loại chính yếu:
a. Địa phương phân quyền (Decentralization of powers)
b. Tản quyền (deconcentration of powers) với nhiều hình thức khác nhau,
và dưới nhiều dạng khác nhau như devolution (trao quyền cho các cơ quan
dưới), delegation (trao quyền cho thuộc cấp) hoặc deregulation (giảm bớt
những quy luật trói buộc từ trung ương)...
Khác biệt chính yếu giữa địa phương phân quyền chính thống (orthodox) và
tản quyền là: trong hệ thống địa phương phân quyền thì quyền quyết định
những chính sách (policy-decision-making), trên một số những phương
diện (areas of jurisdiction) minh thị nêu ra, được luật hóa (legalized)
hoặc hiến định hóa (enshrined in the constitution). Chẳng hạn trong
trường hợp của Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi, các quyền lực của chính quyền tiểu
bang được minh thị nêu ra và hiến định hóa trong hiến pháp.
Đi xa hơn nữa, các quyền lực của các thành phố và chính quyền địa phương
khác được luật hóa minh thị trong các sắc luật của quốc hội các tiểu
bang tại Úc. Như thế, khi một quốc hội tiểu bang, hoặc một tòa đô chánh
địa phương, hoặc thành phố, quyết định một chính sách, hoặc một sắc
luật, thì quyền lực của họ phát xuất từ ngay địa phương liên hệ, không
phải do sự chỉ định của cấp cao hơn.
Nước Pháp trước năm 1982 là tiêu biểu cho quan điểm tản quyền. Trên
phương diện hành chánh, nước Pháp là một quốc gia đơn quyền (unitary
system) khác với chế độ liên bang (federal system). Dưới chính quyền
trung ương là các tỉnh (departments) và dưới các tỉnh là các quận
(arrondissements). Chính phủ trung ương bổ nhiệm các tỉnh trưởng giống
như dưới nền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa tại Nam Việt Nam trước 1975. Dĩ
nhiên, trong tình huống này, các viên chức địa phương phần lớn sẽ thi
hành các chính sách do trung ương quyết định, và ngay cả khi họ được
trao rộng quyền để quyết định một vấn đề gì, thì quyền lực đó vẫn phát
xuất từ trung ương và do trung ương hành xử trên nguyên tắc.
Sự hiện hữu của các viên chức tại địa phương chỉ là một hình thức tản
quyền để lắng nghe rõ hơn nguyện vọng địa phương mà thôi. Quyền quyết
định vẫn lưu trữ tại trung ương.
Trong kỷ nguyên mới, nước Pháp đã áp dụng quan điểm địa phương phân
quyền từ 1982. Trên thế giới, chỉ còn những quốc gia hoặc độc tài, hoặc
đang chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ, mới còn sử dụng quan điểm tản
quyền mà thôi. Chính vì thế một nền chính trị bao dung chân chính sẽ áp
dụng quan điểm địa phương phân quyền triệt để.
Kết quả là một chính đảng có thể thất cử trong cuộc bầu cử chính quyền
trung ương, nhưng vẫn có thể đắc cử và nắm quyền hành pháp (như tỉnh
trưởng), hoặc lập pháp, tại một hay nhiều tỉnh hoặc thành phố. Điều này
thực tế củng cố cho quan điểm chính trị bao dung và đa nguyên thực sự.
Trong tình trạng của đất nước chúng ta, các tôn giáo dấn thân như Cao
Đài và Hòa Hảo có những đảng phái chính trị, tuy không có ảnh hưởng mạnh
trên toàn quốc, nhưng trong một số tỉnh miền nam và trung phần, sẽ có
thể nắm quyền hành pháp và lập pháp địa phương, hoặc có tiếng nói quan
trọng, làm đậm nét đa nguyên cho nền chính trị nước nhà.
Những điều trên vẫn còn chưa đủ. Điều kiện kế tiếp để củng cố cho yếu tố
bao dung của chính trị là quan điểm “bầu cử đại diện theo tỷ lệ”
(proportional representation). Một các vắn tắc, phương thức bầu cử này
sẽ đưa đến tình trạng số đại diện trong Hạ Viện, chẳng hạn, luôn tương
xứng với số phiếu một chính đảng đạt được trong cuộc bầu cử, tránh tình
trạng một chánh đảng chỉ đạt được thiểu số phiếu mà có đa số trong Hạ
Viện, cũng như tránh tình trạng một chính đảng có một số phiếu không nhỏ
nhưng bị hoàn toàn gạt bỏ ra khỏi cơ quan quyền lực.
Lập luận phương thức bầu cử đại diện theo tỷ lệ có khuynh hướng dung
túng trong quốc hội quá nhiều phe nhóm và đảng phái nhỏ, gây bất ổn
chính trị, chỉ có giá trị tương đối trong một quốc gia theo quốc hội chế
(parliamentary democracy) còn gọi là đại nghị chế (Westminster
democracy) hoặc nội các chế (cabinet system). Tình trạng này hòan tòan
không xảy ra trong trường hợp một quốc gia theo tổng thống chế
(presidential democracy), vì tính tam quyền phân lập của chế độ này sẽ
đem lại độc lập và ổn định cho hành pháp.
Những biến động, nếu có, về liên minh quyền lực trong quốc hội, nhất là
Hạ Viện, chỉ giới hạn trong lập pháp mà thôi, không ảnh hưởng đến quyền
điều hành quốc gia của hành pháp và sẽ không tạo ra bất ổn chính trị.
Thêm vào đó, ngay cả trong trường hợp quốc hội chế, kinh nghiệm tại Do
Thái và Ý Đại Lợi cho thấy, tính bất ổn tại các quốc gia này, phần lớn
phát xuất từ yếu tố quy định túc số phiếu tối thiểu để có đại diện trong
quốc hội (threshold percentage of votes) quá thấp (2%).
Nếu nâng lên khoảng 5% thì những đảng phái quá nhỏ sẽ bị loại trừ và
những liên minh trong quốc hội, để tạo thành liên minh nắm quyền, sẽ ổn
định hơn. Tuy nhiên tình huống này giảm đi yếu tính bao dung cần thiết
của một nền dân chủ bao dung chính thống.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, phương thức bầu cử đại diện theo tỷ lệ thuần
túy, tuyển chọn dân biểu từ một danh sách của các đảng chính trị, mà
không có đại diện từng đơn vị địa phương, không phù hợp với một quốc gia
đông dân và có những sắc thái địa phương đậm nét như Việt Nam. Chính vì
thế, trong trường hợp bầu cử quốc hội tại Việt Nam, nhất là Hạ Viện
(trong một quốc hội lưỡng viện), chúng ta cần có một phương thức bầu cử
hỗn hợp giữa những dân biểu tuyển chọn từ danh sách đảng phái (part
lists) và những dân biểu ứng cử tại mỗi địa phương, miễn là số dân biểu
tổng hợp (combining party lists and local electorates) đắc cử khi chung
quyết, vẫn tương xứng với tỷ lệ số phiếu một chính đảng đạt được trong
cuộc bầu cử Hạ Viện.
Biện pháp lưỡng toàn cho đất nước Việt Nam trong tương lai là, một mặt,
áp dụng mô hình tổng thống chế để tách rời hành pháp ra khỏi lập pháp,
đồng thời áp dụng triệt để nguyên tắc dân chủ đa nguyên, bao dung cho
những khuynh hướng chính trị thiểu số nhất, dù là 1% hoặc 2 %, để mọi
khuynh hướng chính trị đều có vị trí hợp hiến trong quốc hội. Như thế
chúng ta sẽ có một nền chính trị ổn định qua một hành pháp độc lập, đồng
thời tính bao dung của dân chủ đương đại được áp dụng triệt để qua một
lập pháp đa diện.
Muốn giải quyết tệ nạn chia rẽ, gây bất ổn, ở cấp tổ chức thân hữu, hoặc
cấp cộng đồng, hoặc tổ chức chính trị, hoặc cấp quốc gia, khi một thành
phần lớn của dân tộc tách rời tổ quốc và thành lập một quốc gia khác
như Hồi Quốc và Bangladesh, hoặc có thể Nam Sudan trong tương lai gần,
thì giải pháp duy nhất là định chế hóa (institutionalise) và triệt để áp
dụng quan điểm chính trị bao dung.
Trên bình diện chính trị học, có hai mức độ định chế hóa quan điểm chính tri bao dung.
Cấp thấp hơn là luật hóa (legalize) thức là quốc hội thông qua những sắc luật quy định nguyên tắc chính trị bao dung.
Cấp cao hơn là hiến định hóa (enshrine in the constitution) nguyên tắc
chính trị bao dung để quan điểm này trở thành nền tảng của mọi luật pháp
liên hệ. Tất cả những luật bình thường khác của quốc hội, trong tương
lai, nếu đi ngược với nguyên tắc này, đều trở nên vi hiến và vô hiệu
lực.
Chúng ta phải khẳng định rằng, vì tầm tác hại của quan điểm chính trị
loại trừ, vì tầm quan trọng chiến lược của quan điểm chính trị bao dung,
nguyên tắc chính trị bao dung này cần phải được hiến định hóa và trở
thành luật nền tảng, tránh tình trạng một chính đảng nào đó, sau khi nắm
quyền, muốn thao túng quyền lực chính trị và thay đổi định chế chính
trị bao dung, bằng cách chỉ cần thông qua những sắc luật bình thường
trong quốc hội.
Dĩ nhiên, hiến định hóa không đồng nghĩa với việc biến một định chế trở
nên một nền tảng trường cửu bất di bất dịch. Hiến định hóa một nguyên
tắc chính trị chỉ tạo nên sự bền vững tương đối mà thôi. Một khi ý dân
thay đổi toàn diện thì bất cứ quan điểm chính trị nào, dù là chính trị
bao dung, cũng phải thay đổi theo lòng dân và hiến pháp lúc đó sẽ phải
tu chính. Dĩ nhiên tu chính một các hợp pháp và hợp hiến.
Như thế thì những yếu tố nào cần phải hiến định hóa trong trường hợp Việt Nam để thực thi quan điểm chính trị bao dung?
Câu trả lời là các yếu tố sau đây cần được minh thị hiến định hóa:
a. Yếu tố đa nguyên tuyệt đối trong đó quyền lực chính trị sẽ phát xuất từ nhiều tụ điểm khác nhau
b. Yếu tố tam quyền phân lập (gồm hành pháp, tư pháp và lưỡng viện lập
pháp) cùng với tổng thống chế, sẽ thực thi phân quyền hàng ngang và bảo
đảm ổn định chính trị qua tính ổn định của hành pháp.
c. Yếu tố địa phương phân quyền triệt để bảo đảm tối đa (optimize) khả
năng tham chính của nhiều đảng phái khác nhau ở nhiều cấp chính quyền,
không nhất thiết là chính quyền trung ương
d. Phương thức bầu cử “đại diện theo tỷ lệ” (proportional
representation) dung hợp với nhu cầu đại diện từng địa phương (local
electorates) để bảo đảm khả năng đóng góp vào chính trường của các cá
nhân và tổ chức, dù là những tổ chức đại diện cho những thiểu số khiêm
nhượng và tiếng nói của các địa phương đặc thù. Tuy nhiên khi chung
quyết, tổng số dân biểu đắc của một chính đảng, trong cơ quan dân cử
liên hệ, phải luôn tỷ lệ thuận với số phiếu số phiếu chính đảng đó đạt
được.
Nếu những yếu tố trên được hiến định hóa, thì nhu cầu của những thành
phần dân tộc muốn ly khai, vì bị lọai bỏ khỏi môi trường chính trị, một
khi một phe đa số nắm quyền, dưới quan điểm chính trị lọai trừ
(exclusive politics) nêu trên, sẽ không còn nữa. Ấn Độ và Pakistan lẫn
Bangladesh không biết chừng còn là một quốc gia, Sudan sẽ không trên đà
phân hóa và đã không có cuộc nội chiến tương tàn tại Tích Lan.
Ngay cả trong phạm vi nhỏ hẹp của những đoàn thể ái hữu, những tổ chức
chính trị, những tổ chức cộng đồng, thì xác xuất chia rẽ cũng sẽ giảm
đi. Có thể các tập thể này không phức tạp đến mức độ phải “hiến định
hóa” những nguyên tắc rườm rà. Tuy nhiên những điều căn bản như một nội
quy trong đó, một hội đồng điều hành (executive council) được bầu lên,
theo nguyên tắc đại diện theo tỷ lệ. Liên danh hoặc phe nhóm nào có tỷ
lệ phiếu cao thì được nhiều đại diện hơn. Liên danh hoặc phe nhóm nào có
tỷ lệ thấp thì có ít đại diện hơn. Liên danh nào nắm được đa số đại
diện sẽ thành lập ban chấp hành và người thụ ủy liên danh sẽ là chủ tịch
ban chấp hành. Dĩ nhiên BCH phải làm việc nghiêm chỉnh và bị sự theo
dõi cũng như kiểm sóat thường xuyên của phe thiểu số, như là một đối lập
suốt nhiệm kỳ. Sự hoạt động của hội đồng điều hành này không khác sự h
oạt động của một hội đồng tòa đô chánh địa phương (local government
council) tại Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Hoa Kỳ v.v... Điều này dĩ nhiên
không dễ chịu cho liên danh đắc cử nhưng đây chính là dân chủ.
Có như thế chúng ta mới tránh được tình trạng “winner takes all”, thắng
làm vua, mặc dù đôi khi chỉ thắng với một đa số rất khiêm nhượng. Sau đó
hoàn toàn loại bỏ những phe nhóm khác. Các phe nhóm này bất mãn, đưa
đến tình trạng hoặc chỉ trích và phê phán tiêu cực bên trong, hoặc ly
khai và thành lập những tổ chức, cộng đồng khác, gây thêm nhiều chia rẽ
và mất niềm tin trong quần chúng.
Phương thức một hội đồng điều hành bao dung như trên chỉ là một ví dụ
điểm hình và không phải là phương thức duy nhất hoặc hữu hiệu nhất. Tùy
theo hoàn cảnh đặc thù chúng ta có những biện pháp khác nhau. Tuy nhiên
tinh thần chính trị bao dung thay vì chính trị loại bỏ phải luôn luôn
chủ đạo.
Dĩ nhiên nguyên tắc này cũng phải được minh thị định chế hóa trong một bản nội quy nghiêm chỉnh và thi hành triệt để.
Câu hỏi tiếp theo đặt ra đây là: một khi sự chia rẽ và phân hóa đã xảy
ra, thì quan điểm chính trị bao dung có thể hàn gắn được hay không?
Câu trả lời là có thể, vì chính trị bao dung có tác động hai chiều: một
là ngăn chận những chia rẽ và đổ vỡ có thể xảy ra, hai là một khi đã
chia rẽ và đổ vỡ, thì chính trị bao dung có khả năng hàn gắn.
Dĩ nhiên điều này khó khăn và cần một số điều kiện như sau:
1. Hai bên phải chấp nhận nhìn về tương lai và không chấp nhất quá khứ.
Nam Phi (South Africa) sau khi thực thi dân chủ thực sự, giải phóng cho
người da đen, vẫn giữ được sự phồn thịnh tương đối về kinh tế, thay vì
rơi vào độc tài và nghèo khổ như tại Zimbabwe vì biết nhìn về tương lai
và quên những hận thù quá khứ. Bài học của Truth and Reconciliation
Commission tại Nam Phi là một bài học có thể áp dụng nhiều nơi, kể cả
Việt Nam. Yếu tố bất khả hồi tố của các sắc luật bình thường của quốc
hội cũng phải được minh thị hiến định hóa để tránh tình trạng dùng luật
pháp để trả thù những việc xảy ra trong quá khứ không cần thiết.
2. Phải biết tương kính lẫn nhau vì luôn luôn có xác xuất là những phe
nhóm đối lập đều có thiện chí đóng góp cho tập thể, nhưng chỉ vì thiếu
sự trao đổi nên thiếu thông cảm và dần dần trở nên thù nghịch lẫn nhau.
Cũng có xác xuất là mọi thành phần đều bị một thế lực đệ tam nào đó
lường gạt và xúi dục.
3. Không nên quá khích phân biệt giữa thiện và ác, phải và trái, đồng
thời đồng hóa phe mình với thiện-phải và đồng hóa đối thủ với ác-trái.
Thật sự chưa biết ai thiện ai ác và kẻ thiện vẫn có khả năng ác và kẻ ác
vẫn có khả năng thiện. Phải và trái cũng như thế. Không có quy luật nào
tuyệt đối cả.
4. Phải chấp nhận sự minh bạch (openness) và tính trong suốt
(transparency) tuyệt đối trong tiến trình bầu cử. Nhiều chính quyền quốc
gia độc tài trong quá khứ khẳng khái chấp nhận một thực thể đệ tam nhân
nổi bật như Liên Hiệp Quốc hoặc Liên Hiệp Âu Châu kiểm sóat (monitor)
về kết quả bầu cử. Sau đó họ trở thành những nước dân chủ thực sự. Không
nhất thiết phải vì “danh dự quốc gia” hão mà không dám hoặc thèm nhờ
đến “người ngoài”. Can đảm nhờ đến LHQ mới thật sự bảo đảm sự công minh
và công bằng của tiến trình bầu cử. Một hội đoàn nhỏ cũng nên hành xử
tương tự, và nhờ một thực thể có uy tín bên ng oài hội đoàn mình, kiểm
soát (monitor) tiến trình bầu cử. Không cần “đóng cửa dạy bảo nhau”.
Trên nguyên tắc, nếu các điều kiện trên hội đủ, thì Trung Hoa Cộng Sản
có thể hàn gắn với Đài Loan, Nam Hàn với Bắc Hàn, đảng CSVN với các lực
lượng chính trị phi cộng sản của dân tộc, Do Thái với Palestine, Quân
Phiệt Miến Điện với bà Aung San Suu Kyi, người Sinhalese với người Tamil
tại Tích Lan...
Quan điểm chính trị lọai trừ đã là quan điểm chính trị của quá khứ. Quan
điểm chính trị bao dung mới là quan điểm chính trị của tương lai và sẽ
góp phần xây dựng một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên cho
đất nước Việt Nam trong thiên niên kỷ mới.
Duyệt lại tại Constitution Hill, Sydney ngày 2 tháng 8 năm 2020
No comments:
Post a Comment