Trong nền văn học hiện đại có nhiểu truyện ngắn rất hay, nổi bật nhất là ba truyện
-Saigon giải phóng tôi của Nguyễn Quang Lập.
-Nợ cút của Phạm Thế Ruyệt -
-Linh nghiệm của Trần Huy Quang
I .SAIGON GIẢI PHÓNG TÔI -* NGUYỄN QUANG LẬP
Mãi tới ngày 30 Tháng Tư năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh
nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái
gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc
đến mỗi kỳ chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc
tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Ðúng ngày “non sông thu về
một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho
hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến
độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày
trọng đại.” Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi.
Sau ngày 30 Tháng Tư cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của
tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của
ông và các con ông hai chữ “đã chết,” giờ đây là triệu phú số một Sài
Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú
số một Sài Gòn.” Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn
nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản.” Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước
mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi
nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi
nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba
vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng
lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm
lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút
nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực
đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng
tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất
được cái bút tài tình thế kia.
Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương
khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một
mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào
đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước
bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ
ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được
ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành vũ trụ, người thường
không bao giờ có.
Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ.
Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là
tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973, quê tôi lần đầu xuất
hiện một cái cassette của một người du học Ðông Ðức trở về. Cả làng
chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động
tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm
rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và
thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi
thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình
nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá
hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả.
Tôi bĩu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm
cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc
Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7.
Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên,
đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới
Sài Gòn. Kỳ nghỉ Hè năm sau, Tháng Tám năm 1976, tôi mới được vào Sài
Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế,”
nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất
yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi
được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác
tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh ,ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và
bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy
cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm
rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin
kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường
thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng
tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi
ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách
hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười
khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt
vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh
của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ.
Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các
mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên
dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lý.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun
bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói
hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả
những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi
nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc
hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi
hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu đần. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài
Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng
sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh
cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn
không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn
đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần
đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng
sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã
bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi
xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng
sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để
biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè
chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ
nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan (cho anh phát
súng tim anh nát/nhưng anh tin số phận anh còn), tự thấy mình lên hẳn
mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình
sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ
lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy
tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một
ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng
sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm
đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay
không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum suê, hai vỉa hè đầy
sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi
không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe
tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác-Lê.
Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành Trình Trí Thức của Karl Marx
của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ
Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm
sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách
Mác-Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả
Mác-Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật
khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được
đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng
nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi
bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi.
Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
29 Tháng Tư 2016Ký của Nguyễn Quang Lập cho ta thấy trước 1975, Saigon và Quảng Bình là hai thế giới,Người Quảng Bình tự hào là cái rốn của Xuống Hố Cả Nút! Vào Saigion, ở nhà ông chú tư sản, Nguyễn Quang Lập như sống trong mơ! Saigon là xứ thần thiên. Hà Nội, Quảng Bình là nơi rừng rú cho dù cộng sản miệt thị đất và con người miền Nam là đồi truy, phải được đem đi cải tạo bằng khổ sai chung thân ở các nông trường!
Tôi tự hào là người Quảng Bình
Mỗi
lần nhắc tới Quảng Bình, du khách vẫn quen gọi với những cụm từ thân
thương: “vùng đất gió lào, cát trắng”, “quê hương hai giỏi”. Cùng với
Quảng Trị, Quảng Bình trong chiến tranh là trọng điểm bắn phá vô cùng ác
liệt của quân thù. Từ những thiếu thốn, khó khăn về vật chất, về tinh
thần cộng với lòng căm thù giặc mãnh liệt, tinh thần chiến đấu sắt thép
đã giúp con người Quảng Bình đứng vững trên mưa bom bão đạn. Tất cả,
cùng với những nỗ lực phi thường của con người nơi đây đã giúp Quảng
Bình vượt qua được giai đoạn khó khăn, gian khổ nhất trong thời kì chiến
đấu chống giặc ngoại xâm, góp phần bảo vệ hòa bình dân tộc.
Những hình ảnh về con người Quảng Bình
đi vào huyền thoại bằng sự gan dạ, quả cảm của mình như hình ảnh mẹ
Suốt chèo đò đưa bộ đội qua sông dù trên đầu bom đạn của kẻ thù vẫn bắn
phá rất ác liệt. Nhà thơ Tố Hữu đã có những câu thơ rất xúc động về mẹ
Suốt:
“Gan chi gan rứa mẹ nờMẹ rằng: cứu nước mình chờ chi ai
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa. “
Cùng với hình ảnh mẹ Suốt là người anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế trên
tuyến đường 12A thông đường trong mưa bom bão đạn. Đinh Thị Thu Hiệp
trên đèo Đá Đẽo,rồi đại đội pháo binh Ngư Thủy bắn cháy tàu trục của đế
quốc,là những TNXP bom dội liên tục nhưng vẫn bám đường cho xe thông
tuyến. Tám thanh niên xung phong mở đường bị lấp trong hầm đá tạo thành
huyền thoại “hang Tám Cô”.Rồi mẹ Choàng tháo nhà lát đường cho xe qua
với câu nói nổi tiếng: “Xe chưa qua nhà không tiếc”…
Quảng
Bình còn là quê hương của người anh hùng dân tộc – Đại tướng Võ Nguyên
Giáp – là nhà chỉ huy quân sự nổi bật nhất bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Là người học trò xuất sắc nhất
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bằng tài thao lược xuất chúng của mình,
cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ ” lững lẫy năm châu, chấn động địa
cầu” được cả thế giới biết đến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần lớn
trong việc giải phóng miền Bắc, qua đó tạo tiền đề cho việc giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.
Bên
cạnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Quảng Bình còn là quê hương của nhiều
danh nhân dân tộc. Có thể kể đến như Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh –
người mở đầu cho công cuộc khai hoang, mở mang bờ cõi phía Nam. Trung
tướng Đồng Sĩ Nguyên – tư lệnh lâu đời nhất trong thời điểm khó khăn ác
liệt nhất của cuộc chiến tranh chống xâm lược. Bên cạnh đó, Quảng Bình
còn đóng góp cho Đất nước nhiều nhà văn, nhà thơ lớn, là Hàn Mặc Tử,là
Lưu Trọng Lư…
Đến với Quảng Bình, Quý khách có thể
tìm hiểu một hệ thống di tích lịch sử rất phong phú và đa dạng. Những
di tích còn sót lại là chứng tích về một thời khói lửa đạn bom, là nhân
chứng đau thương về sự hy sinh của con người Quảng Bình. Di tích Thành
Đồng Hới là di chỉ kiến trúc, là nghệ thuật xây dựng thành lũy và là
chứng tích của hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, in dấu ý chí kiên
cường quật khởi của quân và dân Quảng Bình. Di tích Lũy Thầy ( Lũy Nhật
Lệ ) là một công trình lũy quân sự, do Đào Duy Từ theo lệnh chúa Nguyễn
chỉ huy xây dựng nhằm mục đích bảo vệ Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công
của chúa Trịnh Đàng Ngoài. Di tích Quảng Bình Quan trước kia là công sự
chiến đấu, có nhiệm vụ kiểm soát con đường vào dinh Quảng Bình xưa.
Quảng Bình Quan hiện nay đang là hình ảnh của đại diện của Quảng Bình.
Di tích tháp chuông nhà thờ Tam Tòa với chi chít những vết đạn bom và bị
phá hủy phân nửa là minh chứng rõ nét nhất cho sự tàn ác của bọn đế
quốc. Đèo Ngang là ranh giới Đất nước thời Đại Việt và Chiêm Thành. Sông
Gianh là ranh giới của đất nước thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, chia
cắt giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài
Bên cạnh những
trang sử hào hùng ấy,Quý khách đến với Quảng Bình không thể không đến
với rừng quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng bao gốm quần thể rừng nguyên sinh
và hang động hùng vĩ. Hệ thống hang động Phong Nha với động Khô và Động
nước kì bí và ngoạn mục, hấp dần lạ thường ở trong lòng núi. Rừng nguyên
sinh Kẻ Bàng với hệ thống rừng cây cao, nổi tiếng: cây xanh, nước mát
trong vắt. Đây là cái nôi của thú rừng sinh sống: hươu, nai, bò tót,
hổ…. Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên Thế
giới năm 2003, là một khu du lịch sinh thái lí tưởng. Năm 2010,Quảng
Bình tiếp tục khai thác động Thiên Đường, một động được tạo hóa ban
tặng những tuyệt tác kỳ vĩ và tráng lệ…đã làm tăng thêm giá trị của
Quảng Bình.
Sau khi “vượt Trường Sơn” về lại với
Đồng Hới, Quý khách sẽ được đắm mình giữa vẻ đẹp hoang sơ của biển Nhật
Lệ – trong nắng chiều vàng khi hoàng hôn buông xuống, biển Nhật Lệ như
đang chìm trong giấc ngủ cuối ngày, khung cảnh trầm tư mà lãng mạn, ồn
ào mà tĩnh lặng. Khi đêm về, cửa biển Nhật Lệ sáng rực như một thành phố
lung linh, đứng xa xa nhìn về cửa biển ta thấy như hàng ngàn ánh sao.
Khi
đã no nê với những bãi cái vàng cùng những cơn sóng của biển Nhật Lệ,
Quý khách tự cho cho mình những món hải sản mà chỉ có ở Quảng Bình mới
ngon, mới ngọt đến thế, một du khách đã thôt lên rằng: “những ngao, sò,
ốc, cua ghẹ…cũng giống như các vùng biển khác mà sao ở đây có vị lạ
thường…”!
Và trên tất cả, có lẻ ấn tượng đẹp nhất,
đáng tự hào nhất là những con người Quảng Bình hiện tại, những con
người hiền lành, thật thà, chịu thương chịu khó… đã kết hợp với tất cả
những gì Quảng Bình có để mang lại cảm giác bình yên, đáng nhớ nhất cho
những du khách đến với Du lịch Quảng Bình…Một
du khách người Hà Nội sau khi kết thúc một chuyến tham quan đã thốt lên
rằng : “ Tuyệt vời, cảm ơn các bạn, cảm ơn tất cả thuộc về Quảng Bình,
thực sự những ngày ở đây đã cho cá nhân tôi và cả đoàn có những trải
nghiệm rất thú vị và chúng tôi cảm thấy yêu cuộc sống này hơn”…
Ngọc Hoành- NETIN
( Du lịch Quảng Bình – www.quangbinhtravel.vn)
II. NỢ CÚT của PHAM THẾ RUYỆT
Ngày đó hợp tác xã ra một chiến dịch thu gom phân bắc
(cứt người), mỗi gia đình một tháng phải đóng đủ mười cân, nếu không
đóng đủ thì bị cắt gạo. Thật là một chiến dịch có một không hai trong xã
hội loài người. Vậy nên, khi chiến dịch ra đời, cái cầu tiêu trở nên vô
cùng quan trọng và cấp thiết. Người người, nhà nhà mua xi măng mua gạch
về xây cầu tiêu. Cầu tiêu phải làm bằng xi măng thì cứt mới không bị
phân huỷ, chứ ỉa xuống đất vài ngày là bọ hung ăn hết, lấy gì mà đóng
cho nhà nước. Vậy nên, cái cầu tiêu quan trọng hơn cái nhà. Chuyện ỉa
đái lúc này cũng cực kỳ quan trọng, dù ai đó có bị tào tháo rượt ở đâu
thì cũng phải nhanh nhanh ba chân bốn cẳng chạy thẳng về cầu tiêu nhà
mình mà giải quyết chứ để mất đi một cục là mất đi lon gạo chứ chẳng
chơi. Nhiều người đi làm ngoài đồng, ngày trước, khi mắc ỉa thì chạy vô
bờ, vô bụi làm đại cho xong, nhưng bây giờ, làm như vậy có mà đói chết.
Vậy nên, phải tìm cách, có người làm đại vào bao ni lông, có người cuộn
trong lá chuối, có người cẩn thận hơn đi vào trong cái càmèn đựng cơm để
mang về cho an toàn mà đổ xuống cầu. Có nhiều chuyện dở khóc dở cười
trong chiến dịch này lắm, ai sống thời đó chắc biết. Khi chiến dịch ra
đời thì cũng là lúc không biết bao nhiêu con chó phải chết.
Chó chết vì
đói, cơm khoai đã không có ăn, đến cục cứt cũng bị nhà nước dành mất thì
lấy gì mà sống. Nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa con nít,
cố gắng lắm không để thất thoát cục nào, vậy mà đến tháng vẫn không đủ
cân nộp, má tôi sai anh em chúng tôi đi tìm đá sỏi bỏ vào cho đủ. Khi
mang lên cân người ta kiểm tra và phát hiện nhà tôi gian lận nên lập
biên bản và làm kiểm điểm. Họ còn ghi rõ ràng trong biên bản gian lận
như thế nào, có bao nhiêu cục cứt và bao nhiêu cục đá sỏi. Quả đúng
không sai, cái đời người nông dân u tối làm sao mà lừa được mấy ông nhà
nước, mấy ông tinh vi vô cùng. Kết quả là nhà tôi bị cấm không cho nhận
gạo một tháng. Trong một buổi họp người ta đưa tên má tôi ra kiểm điểm
trước dân về việc gian lận lấy đá sỏi trộn với cứt để nộp cho nhà nước.
Họ không cho má tôi phân bua gì hết. Nhưng không đành lòng nhìn cảnh con
đói, bà đứng dậy thẳng thừng, dứt khoát. Bà nói: Việc tôi làm gian lận
tôi chịu trách nhiệm trước toàn thể mọi người, nhưng các người nhìn đi
thì cũng phải nhìn lại, nhìn ngược thì cũng phải nhìn xuôi, các người có
nhìn vào nhà tôi không, nhà tôi có bốn người, một người lớn và ba đứa
con nít, tôi thì suốt ngày đi làm ngoài hợp tác xã, có cục nào tôi đã ỉa
ngoài hợp tác xã hết rồi, còn con tôi ở nhà, nó là con nít nó ăn bao
nhiêu, ỉa bao nhiêu, nó ỉa ra cục nào chó lủm cục đó thì lấy đâu đủ cứt
để mà nộp cho mấy ông. Vậy mà bây giờ mấy ông kiểm điểm tôi, cắt gạo thì
lấy gì tôi nuôi con, lấy gì ăn để mà ỉa mà đem cứt nộp cho mấy ông. Nói
gì thì nói, la gì thì la, nhà tôi vẫn bị cắt gạo tháng đó. Không còn gì
khốn nạn hơn thế. Nói thiệt, đến bây giờ trong hồ sơ giấy tờ ở kho lưu
trữ quốc gia thì nhà tôi vẫn còn một món nợ lớn với nhà nước mà không
thể nào trả nổi, đó là nợ cứt.
TRUYỆN : Linh Nghiệm
Trần Huy Quang, Hà
Nội 1992, Internet 2005
LTS. Nhân Ngày Lễ Mẹ, trong khi khắp thế giới vinh danh hình ảnh
phụ nữ với vai trò người mẹ, nhiều nhà nghiên cứu bùi ngùi vì thấy tội
nghiệp cho các phụ nữ bị Ông Hồ vùi dập, bỏ rơi, như quý bà Nguyễn Thị
Minh Khai, Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Thị Xuân, Irene… Truyện ngắn “Linh
Nghiệm” của nhà văn Trần Huy Quang đã được lưu hành trên các trang web
trong dịp Lễ Mẹ này. Truyện viết về ông Hồ Chí Minh, gọi tắt là HINH, đã
từng đăng nhiều năm trứơc trên báo quốc nội và tức khắc, cả báo và nhà
văn cùng bị kỷ luật. Truyện cho mùa Lễ Mẹ này như một bản tiểu sử HCM
cực ngắn mà rất đầy đủ như sau.
Linh Nghiệm
Hinh là con trai thứ ba trong một gia
đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì lắm. Cha anh ta
có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố
nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh
kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí
chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão
tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt,
bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí,
học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô,
Mông-tét-ski-ơ…bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một
dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường
học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực
tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hằng ngày Hinh sống như người nuốt phải
quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng
lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng
một tiểu thư khuê các. Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao
giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn ! Chiếm mười trái
tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng
dương. Hinh ngước cái đầu mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một
con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi
Thiên hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh.
Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao
khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc
Chí Thánh và nói :"Ơn người. Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng
con…Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người…"
Thế rồi, như sự linh nghiệm của lời
nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng đất trời như trong cơn đau sinh
nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm,
toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang
không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện
ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
- Kính thưa…Hinh bàng hoàng thốt lên.
- Không phải ! – cô gái mỉm cười độ
lượng – Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp
lắm không ? Người đang bận, việc hành đạo chỉ ở bước khởi đầu.
- Kính thưa, tôi là người của xứ Nhọc
nhằn tăm tối…
- Thôi, anh không cần phải nói, chàng
trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới
càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm được
chân lý.
Vị sứ giả trao cho Hinh Đạo thư quý giá
ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa
vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước
trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run
dở ra đọc :
"Hãy đi về phía Nam theo con đường một
bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt
chó ; đừng nhìn vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có
người hỏi :"Có đi không ?" thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ
không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp, sẽ gặp một
ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh
phải khom người xuống, đi chậm bước từng bước một, mắt nhìn xuống mặt
đất để "tìm cái này". Cứ thế…chỉ cần một lúc sau,anh sẽ có được thiên
hạ."
Hinh ấp cuốn Đạo thư vào ngực tức tưởi :
"Trời ơi,bảo bối, bảo bối…". Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh
vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ.
Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay
lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt
giàn giụa. "Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ
soi sáng đường chúng ta đi…"
Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị
lên đường. Quần áo tươm tất ,mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một
đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi.
Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng một bên biển. Anh cứ đi,
qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng con đường men theo cái
hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn
vào đó. Ôi sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo,
lui cui mấy chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các
hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô
gái điếm vật vờ.
- Có đi không ?
Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc
mơ mà thấy lạnh xương sống ; trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh
thấy một ki-ốt sách báo thật ; chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ
diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách ? Đi
tiếp gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt là vườn hoa nhỏ. Hinh
liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa
Xuân.
Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi
tới giữa vườn hoa, lòng ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa
trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết
con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại..."Tìm
cái này" là tìm cái gì , anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời
vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng
hoa, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng
và một tốp học sinh cấp ba đi học sắp qua. Bây giờ anh phải khom người
xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất… Hinh vừa cúi lom
khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không
biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ gíáo,
người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm rãi.
Những người đang qua đường lấy làm lạ.
Bắt đầu là nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ đi đến và
tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ ? Chúng không thể tự giải đáp
được.
- Anh ơi, anh tìm cái gì đấy ?
Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột
miệng trả lời :
- Tìm cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa
ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó
thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một
đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm
kiếm thì sự lạ càng tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không
bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố
kiếm cơm…đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này
đi đến và không thể không hỏi:
- Tìm cái gì đấy ?
Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả
lời :
- Tìm cái này !
Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy
đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường.
Rồi tiếp đến... Bây giờ là dân xích-lô,
ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi
nghe tin cũng tìm đến.
- Tìm cái gì đấy ?
- Tìm cái này.
Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt.
Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua tụi đào đá đỏ qua đây đánh
nhau đổ ra một bị đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông
rào lại, ông đuổi tất. Ông kia được một viên rồi hả , bắt nộp phạt,
chúng mày !
Cứ thế...
Và số người hy vọng có một chút no ấm bò
lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông
và anh ngạc nhiên đứng nhìn họ. Hoá ra thiên hạ đang bu lại xung quanh
mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm
nước mắt và mãn nguyện ra về.
Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong
lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước,
người đến sau thất vọng ra về sau. "Tìm cái này" là cái gì thì không ai
biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn
lắm, để họ trở thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và... vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn
hoa Mùa Xuân.
v
Trần Huy Quang
(Truyện ngắn này được đăng trên tuần
báo Văn Nghệ, số 27 ra ngày 04.7.1992. Bị thu hồi và có lệnh hủy sau khi
phát hành 4 ngày, nhưng càng được tìm đọc. Tác giả Trần Huy Quang bị
treo bút 3 năm. Tổng biên tập lúc ấy là Hữu Thỉnh, tuy đi vắng, vẫn bị
nghiêm khắc khiển trách. Tác giả cho biết phải suy nghĩ hơn 10 năm mới
viết được truyện ngắn cô đọng này ; anh phải suy nghĩ chọn từng câu,
từng chữ, từng ý, từng hình ảnh...)
(Từ Internet 2005)
v
VẠN MỘC CƯ SĨ luận
Ký của Nguyễn Quang lập là tiếng nói chân thật của một dân cộng sản Bắc Việt khi vào Saigon, anh ta ngạc nhiên và thán phục văn minh Saigon, văn minh Mỹ Ngụy. Anh ta không có cái giọng chính ủy ngoài Bắc ta cái gì cũng to, cũng nhiều, cà rem ăn không hết phải phơi khô xuất cảng sang Mỹ, còn TV chạy đầy đường, vợ chồng, con cái mỗi người lái một chiếc để đi làm, đi chợ, đi học!
Truyện Nợ Cứt làm ta ngữi thấy mùi thối của Xã hội chủ nghĩa!Theo các đấng tiên tri, Việt Nam phải trăm năm nữa không biết có tiến tới Cộng sản chủ nghĩa hay không. Còn bây giờ thì xơi tạm chủ nghĩa xã hội!
Truyện Linh nghiệm cho ta thấy các vua quan cộng sản cũng duy tâm nặng! Mọi người kể cả lãnh tụ cũng bò quanh tìm cái mà họ không biết là cái gì. Phải chăng họ tìm thiên đường Cộng sản?
Truyện Nợ Cứt làm ta ngữi thấy mùi thối của Xã hội chủ nghĩa!Theo các đấng tiên tri, Việt Nam phải trăm năm nữa không biết có tiến tới Cộng sản chủ nghĩa hay không. Còn bây giờ thì xơi tạm chủ nghĩa xã hội!
Truyện Linh nghiệm cho ta thấy các vua quan cộng sản cũng duy tâm nặng! Mọi người kể cả lãnh tụ cũng bò quanh tìm cái mà họ không biết là cái gì. Phải chăng họ tìm thiên đường Cộng sản?
No comments:
Post a Comment