65 năm sau Hiệp định Genève
Bùi Văn Phú
Trưa Chủ Nhật 21 tháng Bảy vừa qua tại nhà hàng Phú Lâm ở San Jose, California đã có buổi họp mặt với hơn ba trăm người dự để nhớ về một biến cố lịch sử cách đây 65 năm.
Người Việt ngày nay chỉ ít người còn nhớ ngày 20 tháng Bảy 1954 khi
Hiệp định Genève được ký kết tại Genève, Thụy Sĩ để tạm chia đôi đất
nước Việt Nam tại vĩ tuyến 17, nơi có dấu mốc là cầu Hiền Lương bắc
ngang con sông Bến Hải ở phiá bắc tỉnh Quảng Trị.
Những ai trong ký ức còn đọng lại hình ảnh của biến cố này thì người trẻ nhất bây giờ cũng ở tuổi ngoài 70 tuổi.
Ngày lịch sử đó, ở miền Nam gọi là “Ngày Quốc Hận” và cuộc chia ly
vào năm 1954 tưởng như tạm thời nhưng đã kéo dài 21 năm. Với một số gia
đình người Việt chia ly còn tiếp tục lâu hơn, vì sau khi rời quê bắc lại
một lần nữa phải cất bước ra đi tìm tự do nơi xứ lạ vào năm 1975.
Tại sao gọi 20 tháng Bảy là “Ngày Quốc Hận”? Vì Pháp cùng với Liên
Bang Sô Viết và Trung Cộng đã ký kết với nhau để chia đôi đất nước Việt
Nam, miền Bắc theo chế độ cộng sản, miền Nam theo chế độ tự do.
Ngày đó cùng với biến cố 30 tháng Tư 1975, mà ở hải ngoại cũng có
người gọi là “Ngày Quốc Hận”, vì cả hai dấu mốc lịch sử đã được ghi lại
bằng những cuộc di cư chạy trốn cộng sản của người Việt, năm 1954 gần
triệu người di cư từ bắc vào nam; năm 1975 hàng trăm nghìn người Việt di
tản ra nước ngoài, theo sau là làn sóng thuyền nhân với cả triệu người
từ bỏ chế độ cộng sản ra đi, bất chấp hiểm nguy.
Lịch sử cận đại của Việt Nam, nếu nhắc lại với những hiệp định chỉ là
những ký kết đã không đem lại cho dân tộc Việt một nền hoà bình, hay
một đời sống hạnh phúc ấm no mà là những chia lìa, khổ đau.
Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước, một nửa lãnh thổ với 20
triệu người phải sống dưới chế độ cộng sản. Hiệp định Paris 1973 dọn
đường cho việc thống nhất đất nước bằng quân sự vào năm 1975, đưa đất
nước và 50 triệu dân vào con đường chủ nghĩa cộng sản từ đó đến nay.
Buổi gặp mặt ở San Jose cuối tuần qua có lẽ là sinh hoạt duy nhất của người Việt ở Hoa Kỳ để tưởng nhớ ngày 20 tháng Bảy.
Cơ quan IRCC, do cựu Đại tá Vũ Văn Lộc làm giám đốc, đứng ra tổ chức
bữa cơm thân mật tạo cơ hội cho những người di cư, con cháu của họ và
những người Việt hải ngoại còn nhớ về quê hương chia sẻ với nhau câu
chuyện của 65 về trước. Bản thân gia đình ông Lộc cũng là người di cư.
Ông Phạm Phú Nam phụ trách Dân Sinh Media điều hợp chương trình. Mở
đầu, sau nghi thức chào quốc kỳ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà là phần
chiếu phim giới thiệu các hoạt động của cơ quan IRCC trong hơn 40 năm
qua, từ giai đoạn đầu giúp người tị nạn học Anh ngữ, học nghề để hội
nhập, cùng lúc bảo tồn lịch sử và phát huy văn hoá Việt, cho đến chương
trình “Thực đơn Thân ái” giúp kẻ không nhà, chương trình trùng tu Nghĩa
trang Quân đội Biên Hoà, dự án Bảo tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng hoà
cũng như Dân Sinh Media đã thực hiện nhiều bộ phim về quân đội Việt Nam
Cộng hoà.
Gợi lại hình ảnh của 65 năm về trước, cạnh sân khấu là biển chữ
“Passage to Freedom” mà những người di cư đã nhìn thấy khi bước chân lên
tàu ở cảng Hải Phòng để giã từ quê bắc. Đó là tên của chiến dịch đưa
gần một triệu người từ bắc vào nam tìm tự do.
Ra đi nhưng lòng luôn nhớ về quê cũ nên thời đó đã có những ca khúc
gợi lại hình ảnh và hồi tưởng về quê xưa. Những lời ca đã một thời vang
vang trên làn sóng phát thanh ở miền Nam và hôm nay được các ca sĩ vườn
nhà San Jose trình diễn.
Cô Trương Thu Thuỷ, con của bố mẹ bắc kỳ di cư, đã giới thiệu những
ca khúc nhớ về Hà Nội. Cô cũng kể lại chuyện tình của người chú của mẹ
cô với một thiếu nữ Hà Thành.
Bài hát đầu tiên là “Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội” do Phạm Đình Chương phổ
nhạc từ thơ của thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, được trình bày tam ca với Văn
Quân, Đồng Thảo và Diệu Linh.
Mưa hoàng hôn,
Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hòa
Thương màu áo ngà thương mắt kiêu sa
Hiền ngoan thiết tha…
Mưa ngày nay, như lệ khóc phần đất quê hương tù đày
Em ngoài ấy còn nhớ hẹn xưa miệt mài
Giăng mắt heo may
Sầu rơi ướt vai, hồn quê tê tái...
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hòa
Thương màu áo ngà thương mắt kiêu sa
Hiền ngoan thiết tha…
Mưa ngày nay, như lệ khóc phần đất quê hương tù đày
Em ngoài ấy còn nhớ hẹn xưa miệt mài
Giăng mắt heo may
Sầu rơi ướt vai, hồn quê tê tái...
Có một bài hát, mà mấy năm trước đây dư luận xôn xao về tác giả, với
những lời ca không chỉ làm rung động con tim người Hà Nội đã bỏ đi vào
sống trong Nam, mà cho đến bây giờ vẫn làm thổn thức người nghe dù ở quê
nhà hay nơi hải ngoại. Đó là ca khúc “Nỗi lòng người đi” của Anh Bằng,
do Lê Minh hát.
Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa…
Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều
Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ
Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa…
Giờ đây biết ngày nào gặp nhau
Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu
Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời
Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ…
Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ…
Hà Nội có cảnh đẹp nên thơ, có người yêu duyên dáng, nhưng ông chú
của mẹ cô Thuỷ đã bỏ đi để sang Pháp du học. Rồi thời cuộc với bao
chuyển biến không cho hai người gặp lại nhau, mà lòng ông vẫn luôn nhớ
về hình bóng xưa. Từ phương trời Pháp quốc, ông mơ có một ngày về, như
tâm tình của nhạc sĩ Hoàng Giác mà Diệu Linh đã thể hiện.
Tung cánh chim tìm về tổ ấm
Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
Nhớ phút chia ly ngại ngùng bước chân đi
Luyến tiếc bao ngày xanh
Tha thiết mong tìm về bạn cũ
Nhưng cánh chim mịt mùng bạt gió…
Mấy chục năm sau, khi biết tin người thiếu nữ Hà Thành vẫn chưa lập
gia đình và một dịp về Hà Nội ông đã đến tận đầu ngõ muốn tìm lại người
xưa. Nhưng rồi ông quyết định trở ra vì sợ phải đối mặt với hiện thực.
Ông không muốn thấy hình ảnh một bà già, tóc bạc, da nhăn mà chỉ muốn
giữ mãi hình ảnh đẹp của người yêu xưa trong ký ức những năm 1950. Ông
không muốn giết người trong mộng. Cô Thuỷ kể chuyện tình của người trong
gia đình lắm éo le như thế.
Ông Nguyễn Đức Cường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị IRCC, lên phát biểu
có nói ông di cư từ bắc vào nam bằng máy bay DC-3 và hàng trăm nghìn
người đã đi tầu há mồm vào nam để từ đó khai sinh ra nền cộng hoà trên
nước Việt. Sau đó ông có cơ hội du học tại Đại học MIT ở Hoa Kỳ, trở về
tham gia việc xây dựng đất nước trong nhiều công tác, sau cùng với chức
vụ tổng trưởng thương mại và kỹ nghệ của Việt Nam Cộng hoà.
Ông nói so sánh với nhiều giai đoạn lịch sử thì 20 năm của nền cộng
hòa là thể chế tốt nhất mà Việt Nam đã có. Dù không bảo vệ được Việt Nam
Cộng hoà, nhưng tinh thần tự do, dân chủ của thời điểm lịch sử đó sẽ
sống mãi trong lòng người dân Việt.
Sau đó ông Vũ Văn Lộc giới thiệu khách tham dự kỷ niệm 20 tháng Bảy.
Có mấy cụ trên 90, cao nhất là 98 tuổi. Có vị năm 1954 từng chỉ huy cuộc
rút lui vào nam của Quân đội Quốc gia. Có học giả Đỗ Thông Minh đến từ
Nhật. Hưng Ca với anh Huỳnh Lương Thiện. Hội Cao niên với cụ Ngọc Bích
là hội trưởng. Thi văn đoàn Lạc Việt với nhà thơ Chinh Nguyên là trưởng
đoàn, có phu nhân là một trong những người đầu tiên tốt nghiệp ESL từ
IRCC.
Có cựu học sinh Hồ Ngọc Cẩn, cựu sinh viên Đại học Berkeley. Có anh
thương phế binh dù, lấy vợ gốc Miên và được cô đưa đi vượt biên. Có gia
đình cố Trung tá Đỗ Đình Tá đã đóng góp 100 nghìn đôla cho việc xây dựng
Bảo tàng Thuyền Nhân VNCH.
Có những cựu sĩ quan hải quân, có hoa hậu áo dài, có luật sư Hoàng Cơ
Long, bà Trương-gia Vy. Có người đến Mỹ năm 1975 định cư ở tiểu bang
Illinois và một năm sau cùng với ông Lộc tây tiến về California.
Người viết bài còn ghi nhận có sự hiện diện của nhà báo Thanh Thương
Hoàng, cựu thẩm phán di trú Phan Quang Tuệ, cựu Trung tá Bùi Đức Lạc,
các giáo sư Lê Thức Lân, Nguyễn Bá Liệu, nhà văn Thái NC, thi sĩ Nguyễn
Đình Tạo, hoạ sĩ Phạm Bách Phi, luật sư Đinh Ngọc Tấn.
Về những sinh hoạt của Bảo tàng Thuyền nhân VNCH, ông Vũ Văn Lộc cho
biết mỗi năm có nhiều nghìn học sinh từ các trường đến tìm hiểu và học
hỏi về lịch sử cộng đồng người Việt. Sau hơn mười năm bảo tàng được hình
thành, nay ông đang vận động để trong tương lai có thêm trung tâm văn
hoá được xây dựng như ngôi đình làng của Việt Nam trên đất San Jose
No comments:
Post a Comment