MINH THỊ
Dân tộc Việt Nam không cần thắp đuốc đi tìm tự do, dân chủ, nhân quyền ở
Washington, Moscow, Paris, London, Péking, Tokyo. Đó là con đường của bọn nô
lệ vọng ngoại, làm nhục dân tộc, phản bội tổ quốc, đã đưa đến kết thúc đau
thương vào ngày 30 – 4- 1975 và để lại một xã hội thảm hại, đói nghèo lạc
hậu ở Việt Nam gần nửa thế kỷ nay..Đã đến lúc quốc dân Việt Nam phải dũng
cảm, kiên quyết đứng lên dành lại quyền quyết định vận mạng của đất nước.
Kim Âu
Email:
kimau48@yahoo.com or kimau48@gmail.com. Cell: 404-593-4036. Facebook: Kim Âu
Ngày
30-4 Và Thuyền Nhân
Trần
Khải. Viet Bao Online
Sau
3 triệu người chết, cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30-4-1975. Những ngày
hòa bình buồn bã và sợ hãi bắt đầu
Sau
3 triệu người chết, cuộc chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30-4-1975. Những ngày
hòa bình buồn bã và sợ hãi bắt đầu. Không êm thắm tí nào, xã hội Việt Nam ở cả
hai miền lúc nào cũng sôi động, kể cả cho tới bây giờ, vừa đúng 29 năm sau.
Những giá trị lớn nhất mà nhân loại tìm kiếm vẫn còn vắng mặt ở quê nhà: tự do
và dân chủ luôn luôn là điều cấm kỵ.
Một
chương sử mới của dân tộc cũng hốt hoảng mở ra, khi người cộng sản tàn bạo tràn
vào Nam tìm đủ phương kế để đánh cho kiệt quệ tiềm lực người dân, để không bao
giờ có thể kháng cự lại nữa: bắt cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền, xiết hộ khẩu,
bán gạo theo khẩu phần, đẩy đi kinh tế mới, con chaú ba đời liên hệ bị xua đuổi
khỏi trường, cả nước đói tới xanh mặt... Những cuộc kháng cự địa phương liên tục
bị trấn áp tàn bạo. Người người nhìn nhau ngờ vực. Nhà nhà soi mói vào bếp của
nhau. Cả nước trở thành một nhà tù khổng lồ. Ngay cả nhiều người một thời vui
mừng trước tình hình thống nhất, cũng tỉnh ngộ với cái giá phải trả quá lớn.
Lịch
sử thuyền nhân bắt đầu, khi đồng bào chấp nhận liều thân ngoài biển để tìm một
đường sống mong manh; chuyện y hệt như trong sách cổ từng ghi rằng dân chúng
nhìn thấy nhà nước hà khắc còn hung ác đáng sợ hơn là cọp dữ.
Trước đó, thực sự, đã có hơn 130,000 người Việt rời nước trong các giây phút
cuối cùng của cuộc chiến. Trong đó, khoảng 65,000 viên chức chính phủ và quân
đội VNCH và các nhân viên người Việt của Hoa Kỳ và gia đình của họ được xem là
"có cơ nguy bị trả thù" và được di tản trực tiếp bởi quân đội Mỹ; với thêm
65,000 người Việt tự rời nước bằng tàu chiến, phi cơ quân sự và tàu bè. Hầu hết
được đưa về Guam trước, và sau đó vào định cư ở Hoa Kỳ.
Tính cho tới 25 năm sau ngày Sài Gòn thất thủ, đã có khoảng 3 triệu người tị
nạn từ các nước Việt Nam, Lào và Cam Bốt - trong đó có tới 1.75 triệu người Việt
Nam tị nạn qua đường bộ và đường biển. Họ đã được định cư hầu hết ở các nước Tây
Phương và Uùc Châu. Trong đó, riêng chương trình United States East Asian
Refugee.
Admissions Program (Chương Trình Tiếp Nhận Tị Nạn Đông Á Của Hoa Kỳ) đã định cư
hơn 1.4 triệu người tị nạn Đông Dương, với khoảng 900,000 người từ Việt Nam. Và
còn nhiều ngàn người khác đã chết trên đường rời bỏ Việt Nam trên các tàu bè
mong manh - số người kém may mắn này không thể chính xác ước tính được.
Vào
tháng 5-1975, với sự thúc giục của chính phủ Mỹ, Cao Ũy Tị Nạn LHQ - cơ quan
quốc tế trực tiếp trách nhiệm bảo vệ người tị nạn và trợ giúp các chính phủ tìm
giải pháp cho nhu cầu người tị nạn, kể cả định cư - đưa ra lời kêu gọi toàn cầu
để nhận định cư người tị nạn Đông Dương. Đáp ứng lời kêu gọi đó, khoảng 25 nước
nhận lời giúp, và chương trình đầu tiên này đã tiếp nhận định cư khoảng 11,000
tới 12,000 người Việt.
Trong các năm kế ngay sau 1975, chỉ có một số người Việt rời nước bằng tàu
thuyền. Họ đi tới nhiều nơi trong khu vực: tới Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, Hồng
Kông và Phi Luật Tân.
Nhưng từ năm 1977, số thuyền nhân rời Việt Nam bỗng nhiên tăng vọt. Các đợt tị
nạn này phần lớn là do các chính sách tàn bạo mới tung ra của chính phủ Hà Nội.
Từ việc kéo dài thời lượng cải tạo những viên chức chế độ cũ, cho tới việc
chuyển sang chế độ kinh tế tập trung, mấy lần đổi tiền và thêm nhiều đợt "đánh
giai cấp tư sản mại bản," rồi lại đưa người thành phố đi vùng kinh tế mới; đời
sống dân Việt Nam càng lúc càng đói kém, càng căng thẳng. Sau khi bùng nổ cuộc
chiến giữa Việt Nam và chính phủ Khmer Đỏ ở nước láng giềng Cam Bốt, chính phủ
Hà Nội ra lệnh động viên và đưa quân tiến vào Nam Vang. Làn sóng thuyền nhân
tăng vọt ngay.
Vào
cuối năm 1977, hơn 15,600 người Việt đã đi thuyền tới các nước Đông Nam Á và
Hồng Kông. Con số này vẫn còn tương đối thấp, nhưng việc họ tới vẫn gây báo động
và không được đón nồng nhiệt. Các chính phủ trong khu vực không muốn để người tị
nạn ở lại trên nước họ. Thậm chí họ không muốn gọi thuyền nhân là "người tị
nạn." Lúc đó, thực sự tất cả các nước trong khu vực đều không gọi họ là tị nạn,
mà chỉ dùng chữ "người rời quê hương" (displaced persons) để gọi.
Vào
tháng 3-1978, Hà Nội ra lệnh quốc hữu hóa toàn bộ thị trường lúa gạo và các thị
trường tiêu thụ tư nhân, và số người rời khỏi VN lại tăng vọt thêm, đại đa số
đợt này là các doanh gia và tiểu thương gốc Hoa. Cuộc bỏ chạy này còn được thúc
đẩy bởi chính phủ CSVN đã đưa khoảng 1.5 triệu người gốc Hoa rời khỏi cả Bắc và
Nam Việt Nam, sau khi quy tội họ là trở ngại kinh tế VN. Nhiều người gốc Hoa lúc
đó nằm trong danh sách "đối tượng theo dõi, tịch thu tài sản, và ép buộc đi Vùng
Kinh Tế Mới."
Một
số rời Bắc VN để vào Trung Quốc; vào lúc chính phủ CSVN đóng cửa biên giới với
Trung Quốc vào tháng 7-1978, có khoảng 160,000 người gốc Hoa đã bỏ chạy hay bị
trục xuất vào các tỉnh Guangxi và Yunnan của Trung Quốc. Con số này tăng thêm
8,000 người mỗi tháng cho tới cuối năm 1978, thì đã có khoảng 200,000 người Hoa
trốn chạy sang Trung Quốc. (Tính toàn bộ, sẽ có khoảng 240,000 người Việt gốc
Hoa trốn chạy và định cư ở Trung Quốc.)
Còn
những người Việt khác, cũng hầu hết là gốc Hoa, bắt đầu trốn khỏi các phần khác
của VN qua đường biển: phải trả tiền cho các đường dây đưa thuyền nhân đi bất
hợp pháp, và thường thì các đường dây này có sự bao che của các cán bộ địa
phương. Những tàu thuyền sử dụng càng lúc càng lớn hơn, theo nhu cầu kinh doanh,
trong đó có chiếc có sức chở nhiều trăm người. Một số taù bè đi về hướng Bắc vào
Hồng Kông, hoặc đi thẳng ra Biển Đông để tới Phi Luật Tân. Hầu hết thì hướng về
Nam, qua Thái Lan, và khi lối đi này nguy hiểm vì hải tặc và cướp, họ chuyển
hướng sang Mã Lai và rồi Indonesia.
Vào
cuối năm 1978, Mã Lai bắt đầu ngăn cản tàu thuyền vào bờ; và nếu có tàu thuyền
nào vào bờ được, thì lại bị kéo ra biển lại.
Vào
tháng 11-1978, UNHCR đã có thể cho Đại Diện địa phương phỏng vấn một số thuyền
nhân trên một trong các tàu thuyền không được phép vào bờ Mã Lai. Ông đã gửi qua
điện tín bản phân tích và đề nghị lên bản doanh UNHCR tại Geneva, Thụy Sĩ.
Vào
ngày 14-11-1978, để đáp ứng tình hình và điện tín cho người Đại Diện, UNHCR
tuyên bố rằng "trong tương lai, các trường hợp tàu thuyền trốn chạy khỏi VN sẽ
được cứu xét đương nhiên là quan tâm của UNHCR..." Với bản điện tín mang theo
chính sách đó, UNHCR đang mở ra một chính sách sẽ kéo dài hơn một thập niên về
sau để xem xét bất kỳ và tất cả các thuyền nhân VN là "quan tâm của UNHCR,"
nghĩa là đương nhiên họ có quy chế tị nạn, có sự bảo vệ của UNHCR.
Vào
tháng 12-1978, Việt Nam tiến chiếm Cam Bốt, và một tháng sau đó thì Trung Quốc
đưa quân vào tấn công Việt Nam, thúc đẩy thêm các đợt tị nạn mới.
Vào
cuối năm 1978, gần 62,000 thuyền nhân ở trong các trại ở 9 quốc gia vùng Đông
Nam Á và Đông Á, với hơn 46,000 người ở Mã Lai, 4,800 người ở Hồng Kông, và
3,600 người ở Thái Lan.
Đó
là chưa kể Thái Lan lúc đó đang có hơn 140,000 người tị nạn chạy từ Cam Bốt và
Lào sang.
Tính
chung, khoảng 61,000 người Việt đã đổ bộ Mã Lai năm 1978 (trong đó 40,000 người
tới chỉ trong vòng 3 tháng cuối cùng năm đó).Cùng lúc đó, Mã Lai đẩy ra biển
khoảng 5,000 người Việt Nam. Riêng trong năm 1978, Hải Quân Mã Lai ngăn cản
khoảng 51,400 người Việt trên 386 chiếc ghe không cho vào bờ Mã Lai.
Cũng
trong năm 1978, có gần 49,000 thuyền nhân Việt vào bờ Indonesia.
Nhưng không có gì ngăn cản nổi làn sóng thuyền nhân. Trong lúc đó, số người chết
ngoài đại dương cũng tăng theo.
Tính
tới giữa năm 1979, hơn 700,000 người Việt đã rời quê hương. Trong khi khoảng
500,000 người đã được định cư, còn 200,000 người trong các trại tị nạn chờ định
cư: 75,000 người tại Mã Lai, 49,000 người ở Hồng Kông, 43,000 người ở Indonesia,
9,500 ở Thái Lan, và 5,000 người ở Phi Luật Tân.
Vào
tháng 6-1979, một hội nghị của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) đưa bản
tuyên bố chung, cảnh cáo rằng các nước liên hệ đã "tới tận cùng sức chịu đựng
[tiếp nhận tị nạn] và đã quyết định không nhận thêm người mới tới."
Cùng
lúc đó, Liên Hiệp Quốc họp để soạn ra sơ lược một chương trình đa phương mới cho
tị nạn Đông Dương, đưa ra 3 mục tiêu chính của chương trình này: 1) ngăn chận
việc nhà nước [CSVN] trục xuất người và việc đưa dân ra khỏi VN bất hợp pháp, 2)
tái xác nhận một vài phần chương trình định cư để yêu cầu các chính phủ địa
phương đừng đẩy ghe tàu tị nạn ra biển, và 3) tăng số nơi định cư ở Tây Phương
để giảm số hồ sơ tị nạn còn chậm trễ trong các trại.
Vào
ngày 30-6-1979, Tổng Thư Ký LHQ Kurt Waldheim đưa lời mời chính thức cho 71 quốc
gia để họp một hội nghị quốc tế về tị nạn sẽ tổ chức ở Geneva, Thụy Sĩ vào các
ngày 20-21 tháng 7-1979.
Hội
nghị Geneva đã đưa ra kết quả chờ đợi, và đưa ra 4 biện pháp chính.
1.
Để giảm nỗi lo cho các nước ASEAN và Đông Á về gánh nặng người tị nạn, khoảng 20
nước trong Hội Nghị hứa đón định cư thêm.
2.
Nhiều nước hứa sẽ dùng Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự ODP để nhận dạng và chọn
người Việt cho định cư theo các ưu tiên về tị nạn và di trú riêng mỗi nước.
3.
Để giúp người tị nạn sớm hội nhập ở các nước định cư, đặc biệt cho người sẽ định
cư ở Mỹ, các trung tâm tị nạn sẽ mở rộng thêm, để khám và chữa trị sức khỏe, để
học Anh Văn và học cách hội nhập.
4.
Việt Nam hứa ngăn cản việc vượt biên. [Điều này cũng gây tranh cãi trong nội bộ
UNHCR và với các hội đoàn bênh vực người tị nạn khắp thế giới. Vì sự ngăn cản
này như dường đã vi phạm Điều Khoản 13.2 trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền, trong đó viết rằng "Bất kỳ ai cũng có quyền rời bỏ bất kỳ nước nào, kể cả
quê hương của họ."]
Kết
quả trực tiếp của Hội Nghị này là 2 Trung Tâm Tiến Hành Thủ Tục Tị Nạn được xây
dựng hay mở rộng trong khu vực: một trung tâm trên Đảo Galang, Indonesia, và
trung tâm kia ở tỉnh Bataan của Phi Luật Tân.
Nhờ
kết quả Hội Nghị Tháng 7-1979, Hải Quân Mã Lai đã ngưng kéo ghe thuyền nhân ra
biển. Ghe thuyền nhân được cho vào bờ làm thủ tục.
Nhưng cũng chính thời điểm này, quốc tế chú ý tới hiện tượng hải tặc tăng vọt ở
Vịnh Thái Lan. Thí dụ, theo thống kê UNHCR, vào năm 1981, có 349 ghe trong số
452 ghe VN vào bờ Thái Lan đã bị tấn công ở mức trung bình 3.2 lần trong chặng
đường ra khơi từ VN tới Thái. Trong số người đi ghe từ VN, có khoảng 881 người
được ghi tên vào danh sách chết hay mất tích, có 578 phụ nữ bị hiếp dâm, và 228
phụ nữ bị bắt cóc. Đó là tháng 8-1981, trước khi quốc tế bắt đầu giải quyết bằng
hàng loạt biện pháp chống hải tặc.
Chương trình ODP của Hội Nghị Tháng 7-1979 cũng giúp giảm làn sóng thuyền nhân.
Theo tài liệu tổng kết lúc 25 năm sau 1975, đã có khoảng 4,600 cựu viên chức
chính phủ Mỹ đã sang Hoa Kỳ định cư nhờ chương trình ODP. Có thêm khoảng 165,000
cựu tù nhân cải tạo và thân nhân trực hệ của họ được vào Hoa Kỳ.
Hơn
80,000 trẻ em Việt lai Mỹ và thân nhân trực hệ được vào Hoa Kỳ qua chương trình
đặc biệt thiết lập bởi Quốc Hội Mỹ với luật Amerasian Homecoming Act of 1987.
Và
sau khi người tị nạn Việt thời thập niên 1970s nhập tịch ở các nước định cư và
làm giấy bảo lãnh cho thân nhân rời VN hợp pháp.
Dù
vậy, làn sóng thuyền nhân vẫn đều đặn ra đi. Nhiều nước lại bắt đầu mất kiên
nhẫn vì gánh nặng thuyền nhân. Hồng Kông là nước đầu tiên quyết định không tự
động đón nhận người mới vào: sau ngày 16-6-1988, tất cả thuyền nhân tới Hồng
Kông sẽ bị thanh lọc. Dù vậy, gần 34,000 người Việt đã tới Hồng Kông trong năm
1989, hầu hết hy vọng vào kịp trước khi cánh cửa tự động định cư bị đóng sập
lại.
Mã
Lai lại bắt đầu chính sách đẩy ghe thuyền nhân ra biển sau 10 năm không áp dụng,
và đưa ra thời hạn kết thúc điều kiện định cư: ngày 14-3-1989.
Tình
hình này buộc LHQ phải mở ra một hội nghị mới, tổ chức các ngày 13-14 tháng
6-1989. Trong hội nghị, khoảng 70 nước chấp thuận Kế Hoạch Hành Động Toàn Diện
1989 (Comprehensive Plan of Action, viết tắt CPA). Mục tiêu chính lúc đó là giải
quyết khoảng 100,000 thuyền nhân Việt đang trong các trại tị nạn khắp vùng Đông
Nam Á và Hồng Kông, và đối phó với những người có thể ra đi các năm tới. Theo kế
hoạch CPA, mỗi nước trong khu vực có một ngày ấn định để khép luôn cánh cửa tị
nạn. Sau các ngày này, thuyền nhân phải bị thanh lọc; những ai rớt thanh lọc sẽ
bị trả về VN.
Kết
quả của CPA là số thuyền nhân giảm nhiều. Trong năm 1989, khoảng 70,000 thuyền
nhân Việt rời bỏ VN. Trong năm 1992, chỉ có 41 người Việt tới các trại tị nạn.
Vào
lúc CPA chính thức kết thúc vào ngày 30-6-1996, với tốn phí hơn 500 triệu Mỹ
Kim, người Việt trong các trại Đông Nam Á và Hồng Kông hoặc là được cho định cư,
hoặc là được chiêu dụ tự nguyện hồi hương về VN. Những người đầu tiên về VN là
75 người về VN từ Hồng Kông trong tháng 3-1989. Nhưng không phải ai cũng chịu tự
nguyện hồi hương. Cho nên chính phủ Hoa Kỳ cho lập chương trình ROVR để sẽ tái
phỏng vấn tại Việt Nam những thuyền nhân nào chịu về nước.
Tính
tới năm 1999, có khoảng 1.75 triệu người Việt đã rời VN và được định cư - tại
Hoa Kỳ, tại các nứớc Tây Phương và tại Trung Quốc. Trong số đó, Hoa Kỳ đón nhận
900,000 người, Canada, Uùc và Pháp đón nhận 500,000 người khác. Có khoảng
250,000 người Việt định cư luôn ở Trung Quốc, và 100,000 người khác tới các nước
định cư khác.
Indonesia đóng cửa Trại Tị Nạn Galang vào ngày 8 tháng 9 năm 1996.
Cao
Ũy Tị Nạn LHQ chính thức tuyên bố đóng cửa Trại Tị Nạn Galang vào ngày 9 tháng 9
năm 1996. Tính chung, đảo Galang đã đón nhận hơn 120,000 thuyền nhân Việt và Cam
Bốt kể từ thập niên 1970s.
Nhóm
cuối cùng 486 người Việt rớt thanh lọc đã rời Trại Galang trong tháng 9-1996.
Tính chung trong cả năm này, có 3,117 người Việt tự nguyện hồi hương, và có
1,377 người bị cưỡng bách hồi hương. Từ đó, Indonesia biến Đảo Galang thành khu
kỹ nghệ đặc biệt.
Trang sử thuyền nhân khép lại, để mở sang trang mới cho sự hình thành các cộng
đồng người Việt hải ngoại, nơi lý tưởng tự do, dân chủ và nhân quyền được trân
trọng, và hy vọng rồi một ngày ngọn lửa lý tưởng này sẽ được đưa về lại quê nhà.
Cuộc
chiến vẫn tiếp diễn với các phương tiện mới: những trang web gửi và chuyển thông
tin về quê nhà, phong trào dựng cờ vàng ở các thị xã Hoa Kỳ, tiếp sức các nhà
hoạt động dân chủ và đòi quyền tự do tôn giáo. Ngọn lửa tự do không bao giờ bị
dập tắt, dù là ở ngay tận quê nhà.
Trần Khải. Viet Bao Online
Trích: http://boatpeople75.tripod.com/30_thang_Tu_va_Thuyen_Nhan.html
ơ
lược lịch sử người Việt tỵ nạn PDF Print E-mail
Tác
Giả: Giao Chỉ
Thứ
Hai, 07 Tháng 12 Năm 2009 08:05
Ngay
sau khi Ðệ II Thế Chiến 1939-1945 chấm dứt, thế giới hòa bình lại là lúc dân tộc
Việt Nam bắt đầu bước vào một cuộc tranh đấu mới.
Cuộc
đấu tranh dành độc lập đưa đến những khổ nạn của cả dân tộc.
Trong suốt 30 năm, từ năm 1945 đến 1975, đầy những xung đột can qua đã làm cho
dân Việt Nam 2 miền Nam Bắc đều phải tản cư, di cư, tỵ nạn rồi tạm cư và định
cư. Biết bao nhiêu gia đình ly tán, chia cắt và biết bao nhiêu tan tác đau
thương.
Suốt
30 năm sống trong hận thù chiến tranh, nồi da nấu thịt, cuộc nội chiến khoác
chiêu bài ý thức hệ- vì độc lập, vì tự do dân chủ để sau cùng gần 2 triệu người
hy sinh, 1 triệu dân tị nạn trên quê hương từ Bắc vào Nam sau, Hiệp Ðịnh Geneve
1954 và sau cùng 3 triệu dân lưu vong sau Hiệp Ðịnh Paris 1973.
1. Cuộc di cư thứ nhất sau hiệp định Geneve chia đôi đất nước
Một
triệu người Bắc vào Nam từ 1954 đến 1956, đồng thời 130,000 dân miền Nam tập kết
ra Bắc. Người Bắc vào Nam bằng tàu Mỹ và Pháp. Người Nam ra Bắc trên tàu Ba Lan
và Nga Sô.
2. Tản cư trong chiến tranh.
Sau
đó, trong chiến tranh, ở miền Nam dân quê có hàng trăm ngàn người đã phải di
tản, nhiều nhất là vùng hỏa tuyến. Tại miền Bắc trong các trận không tập đầu
thập niên 70 của Hoa Kỳ, dân thành phố gần 3 triệu người phải chạy về các miền
quê.
3. Di tản tháng 4-1975.
Hiệp
Ðịnh Paris đình chiến năm 1973, hai năm sau Saigon thất thủ, miền Nam có 130,000
người di tản, đa số định cư tại Hoa Kỳ. Ðây là kết quả của đạo luật khẩn cấp
Indochina Migration and Refugee Act 1975 do tổng thống Ford ban hành.
4.
Trại tù cải tạo.
Sau
khi miền Bắc chiến thắng, thống nhất đất nước, tại miền Nam, trên 1 triệu quân
cán chính phải đi học tập trong các trại cải tạo. Tuỳ theo hoàn cảnh và cấp bậc,
từ vài tuần, vài tháng đến nhiều năm. Có người bị giam lâu nhất là 17 năm. Nhiều
người đã qua đời trong trại cải tạo. Gia đình của tù cải tạo phải tái định cư ở
các khu kinh tế mới.
5. Tống xuất Hoa Kiều.
Trong khi đó kể từ năm 1978, người Hoa tại Việt Nam bắt đầu bị thanh trừng và
cùng một lúc các chuyến vượt biên của người Việt bằng thuyền khởi sự để rồi
thành một phong trào từ 1979 kéo dài đến đầu thập niên 1990. Một số 250,000 Việt
gốc Hoa miền Bắc đã tìm đường tị nạn tại Trung Hoa.
6. Thuyền nhân.
Vào
cuối năm 1978 đã có hơn 60,000 thuyền nhân tại các trại tị nạn Ðông Nam Á. Từ
các thuyền đánh cá mong manh chở 1 gia đình 5 người đến Thái Lan cho tới con tàu
trên 2,500 người đến Mã Lai như trường hợp tàu Hải Hồng.
7.
Làn sóng vượt biên lên cao, Ðông Nam Á từ chối.Riêng tháng 6-1979 đã có 54,000
thuyền nhân đến các trại. Nếu cho rằng chỉ có 50% thành công thì đã có 100,000
người ra đi trong một tháng. Cũng vào cuối tháng 6, các quốc gia Ðông Nam á gồm
Indonesia, Mã Lai, Phi, Singapore và Thái Lan đã họp khẩn và tuyên bố sẽ đẩy
thuyền ra biển.
Liền
lập tức tháng 7-1979, đã có biết bao nhiêu thảm kịch xẩy ra. Thái Lan công khai
dung dưỡng cho hải tặc hoành hành. Mã Lai kéo tàu vượt biển ra khơi cho chết
chìm. Tiếng kêu khóc của người vượt biển thấu Trời xanh, Liên Hiệp Quốc họp
khẩn, viện trợ tiền bạc nuôi dân tị nạn, xin thêm cấp khoản định cư trên thế
giới và thậm chí cầu khẩn để Cộng Sản Việt Nam giữ cho dân đừng liều chết ra đi.
8. Giải pháp ODP, Orderly Departure Program: Ra đi có trật tự.
Ðể
giải quyết vấn đề thuyền nhân qua khía cạnh nhân đạo, thế giới tự do và Hoa Kỳ
đưa ra chương trình ODP. Tại Mỹ, The Refugee Act 1980 ra đời và chương trình ra
đi có trật tự bắt đầu. Chương trình này kéo dài đến ngày 14-9-1994 thì chấm dứt.
Các thành phần còn lại được đưa qua các chương trình đoàn tụ gia đình thường lệ
của luật di trú Hoa Kỳ.
9. Con đường định cư, Niềm đau thương trong máu và nước mắt.
Từ
thảm kịch tháng 7-1979 cho đến tháng 7-1982, nỗ lực 3 năm đã định cư được
623,000 người trên thế giới mà đa số là tại Hoa Kỳ. Và cũng do hậu quả của thảm
kịch Biển Ðông liều chết ra đi trăm ngàn người một tháng, mà tháng 5-1979 Chương
Trình Ra Ði Có Trật Tự được soạn thảo. Phải đến năm 1984 thì bài toán mới có đáp
số vì lúc này tổng kết ghi nhận năm đầu tiên con số vượt biển ít hơn số người ra
đi ODP. Năm 1984, con số ODP lên đến 29 ngàn người và thuyền nhân ra đi hạ xuống
chỉ còn 24,800 người.
10. Tổn thất trên Biển Ðông.
Thảm kịch thuyền nhân Biển Ðông đã tạo ra rất nhiều vấn nạn mà trước đây thế
giới không hề xẩy ra.
a. Từ các dân đánh cá hiền lành, tất cả ngư dân Thái Lan lần lượt trở thành
hải tặc điên cuồng suốt 2 thập niên
b. Hàng ngàn thương thuyền trên biển đông hoàn toàn không tuân thủ luật lệ
đạo đức hành hải vì tất cả đã làm ngơ cho thuyền nhân chết trên biển cả.
c. Không ai có thể xác định được số tổn thất của thuyền nhân trên biển, từ
20% đến 40% số người vượt biển đến các trại tỵ nạn.
d. Lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có chính phủ Việt Nam công khải tổ
chức cho dân vượt biên để thu góp toàn bộ tài sản để lại.
e. Các quốc gia Ðông Nam Á đóng vai trò rất phức tạp vừa nhân đạo và bất nhân
tùy giai đoạn và đã khai thác tối đa những ngân khoản lớn lao của thế giới về tỵ
nạn.
11. Vượt biên đường bộ.
Sau một thời gian lắng dịu năm 1984, số tị nạn lại gia tăng trên đường bộ qua
Cam Bốt vào năm 1987. Một số lớn không có điều kiện ODP đã tìm lối đi qua Thái
Lan từ miền Nam và qua Hong Kong từ miền Bắc.
Năm 1988 đã có 18,000 người vào Hong Kong và mặt khác Mã Lai lại bắt đầu kéo tàu
ra biển vào năm 1989.
12. Cứu người vượt biển.
Từ Pháp, Úc, Canada và Hoa Kỳ các tổ chức tư nhân, các bác sĩ ngoại quốc và Việt
Nam đã lần lượt tổ chcừ các chuyến ra khơi cứu người vượt biển. Phong trào này
đã tạo ra nhiều hy vọng và đã cứu được hàng ngàn thuyền nhân trên biển Ðông. Một
cuộc biểu tình thắp nến trước Bạch Cung đã được tổng thống Carter đáp ứng và ra
lệnh cho đệ thất hạm đội tiếp tay cứu thuyền nhân vượt biển.
13. Biện pháp mới.
Cuối thập niên 80 các đợt sóng thuyền nhân mới gia tăng khi các nước cắt bớt cấp
khoản định cư. Các trại tị nạn Ðông Nam Á trở thành ứ đọng. Các quốc gia Biển
Ðông quyết định một ngày định mệnh, đó là ngày 14/3/1989. Thuyền nhân đến trại
sau ngày 14/3/1989 sẽ bị thanh lọc. Và chữ thanh lọc- “đậu hay xù” trở thành
ngôn ngữ của thuyền nhân trên đảo, đã lấy đi biết bao máu, mồ hôi và nước mắt
của dân Việt trên Biển Ðông.
14. Vấn đề con lai, Ameriasian Home Coming Act 1987.
Người Mỹ đã bắt đầu tìm đến di sản chiến tranh của chiến binh Hoa Kỳ đã để lại
Việt Nam và mở rộng vòng tay đón nhận 25,000 hồ sơ con lai với gia đình thân
quyến tổng cộng 100,000 người.
15. Cựu tù chính trị.
Ngày 30/7/1989 Hoa Kỳ và Việt Nam ký thỏa hiệp để cho cựu tù chính trị ra đi có
trật tự cùng gia đình. Chiến dịch này đã gia tăng ODP lên đến 86,451 người riêng
vào năm 1991 gồm cả 21,500 cựu tù chính trị và 18,000 con lai.
Thoả ước Việt Mỹ về tù chính trị đã mở cửa trại tù cải tạo cho 109,000 chiến hữu
VNCH trở về với gia đình và một số lớ đã làm giấy tờ xin định cư tại Hoa Kỳ.
16. Cưỡng bách hồi hương.
Bắt
đầu từ 1989, từ thanh lọc bị loại, Phủ Cao Ủy và các quốc gia Ðông Nam Á phối
hợp với chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đầu cho cưỡng bách hồi hương. Hàng
trăm cuộc biểu tình tuyệt thực tổ chức tại các trại và nhiều người tự tử hay tự
gây thương tích để phản đối.
17. Tự nguyện hồi hương.
Một
chương trình của Liên Hiệp Quốc là khích lệ thuyền nhân ở trại tự nguyện hồi
hương. Con số này đã lên đến 56,000 người. Mỗi gia đình được lãnh từ 300 Mỹ kim
đến nhiều nhất là $20,000 Mỹ Kim làm vốn tái định cư. Thành phần tự nguyện hồi
hương sau đó đã có cơ hội xin đi Hoa Kỳ và có một số lớn hiện đã qua Mỹ.
18. Trẻ em tị nạn.
Trong số hàng trăm ngàn dân tị nạn đã có nhiều trẻ em không có thân nhân. Một
thể thức đặc biệt đã được áp dụng và sau này hàng ngàn trẻ em không có thân nhân
hay cha mẹ chết trên đường vượt biên đã được định cư tại Hoa Kỳ do các gia đình
bảo trợ.
19. Các con số thống kê.
Tổng
kết từ năm 1975 đến 1995 con số thuyền nhân Việt Nam đã đến trại tị nạn là
796,310 người và tị nạn qua đường bộ là 42,918 người.
Trong số này đã có 822,977 người định cư tại Hoa Kỳ và 2 quốc gia UÔc và Canada,
có đồng đều mỗi nước có 137,000 thuyền nhân tị nạn.
Có
thể nói là cứ hai người tị nạn tại Hoa Kỳ đã có 1 người nếm mùi gia khổ trên
biển đông tại các trại tị nạn.
20. Thuyền nhân tật nguyền.
Các
quốc gia nhỏ bé nhưng đầy tình nhân đạo như Thụy Sĩ, Thụy Ðiển đã cử phái đoàn
đến chỉ nhận bảo trợ cho các gia đình thuyền nhân tật nguyền, các trẻ em bất
hạnh chậm lớn. Những thành phần bất hạnh, vô thừa nhận của thảm kịch biển Ðông
đã vui mừng chứa chan hạnh phúc khi được bồng bế nhau đi định cư ở Tây Âu gồm cả
xe lăn và nhiều người nằm trên cáng trên đường đến xứ tự do.
21. Ðợt sóng cuối cùng.
Câu
chuyện thuyền nhân tại Phi Luật Tân được coi như đợt sóng cuối cùng. Trong khi
tất cả các trại tỵ nạn Ðông Nam Á đóng cửa thì chỉ còn lại câu chuyện về các
thuyền nhân tại Phi Luật Tân. Trải qua các đợt cưỡng bách hồi hương, tình nguyện
hồi hương, sau cùng trại Palowan của Phi đóng cửa năm 1997.
Hàng
ngàn người Việt tỵ nạn tại Phi được giáo hội Thiên Chúa nhận định cư và thành
lập Làng Việt Nam. Hàng triệu Mỹ kim của đồng hương trên thế giới quyên góp để
xây dựng cho một quê hương Việt trên đất Phi. Kế hoạch không thành vì nhu cầu
sinh kế người Việt tỵ nạn phải phân tán kiếm sống trên đất Phi. Dân làng ở lại
rất ít.
Hồ
sơ tỵ nạn đợt cuối cùng bàn giao từ thế kỷ 20 qua thế kỷ 21. Sau cùng nhờ sự đấu
tranh bền bỉ của một luật sư trẻ gốc Việt từ bên Úc tên là Trịnh Hội, Hoa Kỳ bắt
đầu nhận phần còn lại vào Mỹ. Sau 18 năm chờ đợi, các gia đình tỵ nạn đã tới Mỹ
tháng 10 năm 2005.
Bốn
năm trước, với đợt thuyền nhân cuối cùng đến Mỹ từ Phi Luật Tân để chào mừng
Thanksgiving năm 2005 tại Hoa Kỳ, một trang sử tỵ nạn Việt Nam chính thức đóng
lại. Chúng ta ước mong sẽ khép lại được một quá khứ đau buồn và cùng cầu nguyện
cho một tương lai tốt đẹp hơn cho một thế giới không còn tỵ nạn. Chẳng biết đến
bao giờ.
San
Jose 2009
--------------------------------------------------------------------------------
Ghi
chú: Những con tàu lịch sử.
Tàu
Tự Do ra đi từ Phú Quốc chở 39 người, tháng 9-1977, vượt qua vịnh Thái Lan và
đến Mã Lai. Ðược tiếp tế rồi đi tiếp với phương tiện rất giới hạn đã đến Darwin,
Úc Châu tháng 11-1977, vượt trên 6,000 miles. Tàu Tự Do hiện thuộc về viện bảo
tàng hàng hải của Úc.
Tàu
Cam Ranh. dài 35 foot chở 35 người. Sau 10 ngày vượt biển được tàu chiến của Hoa
Kỳ vớt ngày
15-05-84 ngoài khơi Ðông Bắc Cam Ranh 350 miles. tất cả định cư tại Mỹ. Tàu Cam
Ranh sau khi vớt người đã được phá hủy trên biển Ðông.
-
Viết Lại Lịch Sử Video
-
Secret Army Secret War Video
-
Đứng Đầu Ngọn Gió Video
-
Con Người Bất Khuất Video
-
Dấu Chân Biệt Kích Video
-
Kiểm Lại Hồ Sơ Biệt Kích Video
-
The Secret war against Hanoi Richard H. Shultz Jr.
-
Binh Thư Yếu Lược Trần Quốc Tuấn
-
Wall Street and the Bolshevik Revolution Antony C. Sutton
-
Wall Street and the Rise of Hitler Antony C. Sutton
-
None Dare Call It Conspiracy Gary Allen
-
Confessions of an Economic Hit Man John Perkins
-
The World Order Eustace Mullin
-
Chính Đề Việt Nam Tùng Phong (dịch)
-
OSS vào Việt Nam 1945 Dixee R. Bartholomew - Feis
-
Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam Bình Nguyên Lộc
-
The World Order Eustace Mullin
-
Bee Gees . Rolling Stones . Animals . Shadow . Ventures
No comments:
Post a Comment