SỰ TỔN THẤT CỦA DÂN TỘC VÀ CÁI CHẾT CỦA MỘT NGÀNH NGHỆ THUẬT: CẢI LƯƠNG
SƠN TRUNG
I. SỰ RA ĐỜI CỦA CẢI LƯƠNG
Trươc khi Pháp đến, Sân khấu Việt Nam có hát bội và hát chèo, sau khi Pháp đến, ngành nghệ thuật sân khấu cải lương ra đời.
Hiện nay sân khấu cải lương đã và đang chết. NSND Trần Ngọc Giàu , Giám đốc Nhà hát Trần Hữu Trang kiêm Hội trưởng hội Sân Khấu Thành Phố nói:"Hiếm hoi sàn diễn dành cho sân khấu truyền thống, lác đác chương trình nghệ thuật sáng đèn, lớp kỳ cựu của làng sân khấu cải lương, hát bội thưa dần, thế hệ nối tiếp nghề tuy có song chưa thể là đội ngũ kế thừa đủ thực lực và tâm huyết. Đó là nỗi lo quá lớn của ngành sân khấu tại tpHCM.
Ông Trần Ngọc Giàu nói hiện nay hiếm có rạp hát dành cho cải lương và hát bội.
Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, hình thành trên cơ sở dòng nhạc Đờn ca tài tử và dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long, nhạc tế lễ.
Giải thích chữ "cải lương" (改良) theo nghĩa Hán Việt, giáo sư Trần Văn Khê
cho rằng: "Cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua sân
khấu biểu diễn, đề tài kịch bản, nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài
bản.[1]. Ở đây là đã cải lương (cải cách, đổi mới) nghệ thuật hát bội. Từ 1 động từ theo nghĩa thông thường đã trở thành 1 danh từ riêng. Sau khi cải lương thì nghệ thuật Cải Lương đã khác hẳn với nghệ thuật hát bội cả về nội dung và hình thức[2].
Về thời gian ra đời, theo Vương Hồng Sển: tuy "có người cho rằng cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918", nhưng theo ông thì kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới "bành
trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh
đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách...nên cải lương hình
thành lúc nào cũng không ai biết rõ...(Wikipedia)"
Cải lương phát triển tại miền Nam, trong ngày 30-4-1975, Saigon có 39 rạp cải lương và hát bội,
chia ra các quận cho tiện dân chúng đi lại. Cải lương cũng phát triển tại các tỉnh.
Từ Đờn ca tài tử
Đã đến lúc, theo Vương Hồng Sển, người ta nghe hát bội hoài, hát bội mãi, cũng chán tai thét hóa nhàm[4] thì các ban tài tử đờn ca xuất hiện.
Buổi đầu, khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20,
các nhóm đờn ca được thành lập cốt để tiêu khiển, để phục vụ trong các
buổi lễ tại tư gia, như đám tang, lễ giỗ, tân hôn...nhưng chưa hề biểu
diễn trên sân khấu hay trước công chúng.
Và nếu trước kia "cầm" (trong "cầm, kỳ thi, họa") là của tầng lớp
thượng lưu thì đến giai đoạn này nó không còn bị bó buộc trong phạm vi
đó nữa, mà đã phổ biến rộng ra ngoài. Chính vì thế nhạc tài tử ở các
tỉnh phía Nam, về nội dung lẫn hình thức, dần dà thoát ly khỏi nhạc
truyền thống có gốc từ Trung, Bắc.
Nhắc lại giai đoạn này, trong Hồi ký 50 năm mê hát, có đoạn:
- Căn cứ theo sách vở thâu thập và những lời của người lớn tuổi nói lại, và nếu tôi (Vương Hồng Sển) không lầm thì buổi sơ khởi của cải lương, là do sự ngẫu nhiên, sự tình cờ, là do lòng ái quốc mà nên.
Tác giả giải thích:
- Người miền Nam có cái hay là khi biết dùng bạo lực cải hại thân vào tù, thì họ không dùng bạo lực. Họ cố đè nén lòng thương nước, chôn giấu trong một bề ngoài lêu lổng, chơi bời...Họ (những tài tử) thường tụ họp vừa tập ca cho vui, vừa trau giồi nghệ thuật...rồi mỗi khi có đám tang, vào lúc canh khuya...họ cũng hòa đờn, tập dượt ca cho đúng nhịp, để đánh cơn buồn ngủ. Sau thành thói tục, mỗi dịp "quan - hôn - tang - tế" (chủ nhà) đều có mời họ cho rôm đám.[4]
Khi ấy, Đờn ca tài tử gồm:
- Nhóm tài tử miền Tây Nam Bộ, như: Bầu An, Lê Tài Khị (Nhạc Khị), Nguyễn Quan Đại (Ba Đợi), Trần Quang Diệm, Tống Hữu Định, Kinh Lịch Qườn, Phạm Đăng Đàn...
- Nhóm tài tử Sài Gòn, như: Nguyễn Liên Phong, Phan Hiển Đạo, Nguyễn Tùng Bá...
Đến lối Ca ra bộ
- Ở Mỹ Tho có ban tài tử của Nguyễn Tống Triều, người Cái Thia, tục gọi Tư Triều (đờn kìm), Mười Lý (thổi tiêu), Chín Quán (đờn độc huyền), Bảy Vô (đờn cò), cô Hai Nhiễu (đờn tranh), cô Ba Đắc (ca sĩ). Phần nhiều tài tử nầy được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp. Khi về, họ cho biết rằng Ban tổ chức có cho họ được đờn ca trên sân khấu và được công chúng đến xem đông đảo...[5]
Nghe được cách cho "đờn ca trên sân khấu", Thầy Hộ, chủ rạp chiếu bóng Casino, ở sau chợ Mỹ Tho,
bèn mời ban tài tử Tư Triều, đến trình diễn mỗi tối thứ tư và thứ bảy
trên sân khấu, trước khi chiếu bóng, được công chúng hoan nghinh nhiệt
liệt.
Trong thời kỳ này, Mỹ Tho là đầu mối xe lửa đi Sài Gòn. Khách ở
các tỉnh miền Tây muốn đi Sài Gòn đều phải ghé trạm Mỹ Tho. Trong số
khách, có ông Phó Mười Hai ở Vĩnh Long là người hâm mộ cầm ca. Khi ông
nghe cô Ba Đắc ca bài Tứ Đại, như bài " Bùi Kiệm - Nguyệt Nga", với một
giọng gần như có đối đáp, nhưng cô không ra bộ. Khi về lại Vĩnh Long,
ông liền cho người ca đứng trên bộ ván ngựa và "ca ra bộ"[6]. Ca ra bộ phát sinh từ đó, lối năm 1915 – 1916.
Cũng theo Vương Hồng Sển:
- các điệu ca ra bộ và cải lương sau này đều chịu ảnh hưởng của các buổi hát nhân những kỳ bãi trường do các trường trung học Taberd, Mỹ Tho, trường tỉnh Sóc Trăng...Cho nên chúng ta không nên quên ơn các nhà tiền bối, phần đông là các giáo sư trường Pháp, đã có sáng kiến dìu dắt và dạy cho ta biết một nghệ thuật hát ca khác với điệu hát bội thời ấy...[7]
Nhà văn Sơn Nam còn cho biết:
- năm 1917, Lương Khắc Ninh, sành về hát bội, đã diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn: Người An Nam ta thuở nay vẫn cho nghề hát là nghề hạ tiện, nên người có học thức một ít thì không làm…(nay) muốn cải lương phải làm sao?...Chuyện nói đây không khó. Có học trò trường Taberd đến lúc phát thưởng, nó ra hát theo Lang Sa (Pháp), bộ tịch như Lang Sa. Rất đổi là hát theo ngoại quốc, trẻ em còn làm được, hà huống người An Nam mà hát An Nam không được sao?...Rồi đoàn ca nhạc kịch bên Pháp mỗi năm sáu tháng đã đến Sài Gòn trình diễn, có màn có cảnh phân minh, mỗi tuồng dứt trọn một đêm. Công chúng người Việt hâm mộ, thấy hợp lý, thêm tranh cảnh gọi Sơn thủy, đẹp mắt.[8]
Và rồi, ngay năm này (1917), ông André Thận (Lê Văn Thận) ở Sa Đéc lập gánh hát xiếc, có thêm ít màn ca ra bộ.
Hình thành Cải lương
Qua năm 1918, cũng theo Vương Hồng Sển, năm 1918, bỗng Tây thắng trận ngang (Chiến tranh thế giới thứ nhất),
mừng quá, toàn quyền Albert Sarraut nới tay cho phép phe trí thức bày
ra một cuộc hát lấy tiền dâng "mẫu quốc" và cho phép lập hội gánh hát để
dân bản xứ lãng quên việc nước, thừa dịp đó dân trong Nam bèn trau giồi
nghề đờn ca và đưa tài tử salon lên sân khấu...[9]. Nhân cơ hội ấy, ông Năm Tú (Châu Văn Tú) ở Mỹ Tho chuộc gánh của ông André Thận rồi sắm thêm màn cảnh, y phục và nhờ ông Trương Duy Toản soạn tuồng, đánh dấu sự ra đời của loại hình nghệ thuật cải lương.
Đến năm 1920, cái tên "cải lương" xuất hiện lần đầu tiên trên bản hiệu gánh hát Tân Thịnh (1920) với câu liên đối:
Mặc dù Vương Hồng Sến đã nói cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ, nhưng theo sự hiểu của ông thì:
- Năm 1915 trở về trước, tại miền Nam, tài tử còn ca kiểu "độc thoại".
- Năm 1916, có ca kiểu "đối thoại" (ca ra bộ)
- Đêm 16 tháng 11 năm 1918, tại Rạp Hát Tây Sài Gòn, có diễn tuồng – Việt nhứt gia (tức Gia Long tẩu quốc) đánh dấu thời kỳ phôi thai của cải lương.
Sau đêm này, André Thận trước và Năm Tú sau, đã đưa cải lương lên sân khấu thiệt thọ. Năm 1922, tuồng Trang Tử thử vợ và tuồng Kim Vân Kiều diễn tại rạp Mỹ Tho rồi lên diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Modern Sài Gòn... lúc này hát cải lương mới thành hình thật sự...[10]
Và diễn biến tiếp theo của cải lương được Từ điển bách khoa Việt Nam tóm gọn như sau:
- Những năm 1920 – 1930 là thời kì phát triển rực rỡ, nhiều gánh hát ra đời, nổi tiếng nhất là hai gánh Phước Cương và Trần Đắc có dàn kịch gồm ba loại: các tuồng tích của Trung Quốc, loại xã hội và loại phóng tác (như "Tơ vương đến thác", "Giá trị và danh dự").
- Trong thời kỳ 1930 – 1934, nghệ thuật cải lương lan truyền ra ngoài Bắc và nhiều nghệ sĩ xuất sắc xuất hiện như Năm Phỉ, Phùng Há, Bảy Nhiêu, Năm Châu... Thời kì kinh tế khủng hoảng, nhiều gánh hát tan rã. Dựa vào tâm lý của dân chúng ngả về tôn giáo, các gánh hát đua nhau diễn các tích về Phật, tiên, đi đầu là gánh hát Tân Thịnh.
- Từ 1934, xuất hiện phong trào "kiếm hiệp", đi đầu là gánh Nhạn Trắng và tác giả Mộng Vân người Bạc Liêu. Những vở nổi tiếng: "Chiếc lá vàng", "Bích Liên vương nữ", "Bảo Nguyệt Nương". Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay... Nhiều vở diễn mới xuất hiện, nội dung phong phú và đa dạng.[11]
Phát triển và Hưng thịnh
Tại miền Nam Việt Nam, thập niên 1960 là thời kỳ hưng thịnh nhất của cải lương miền Nam, lấn át cả tân nhạc. Các sân khấu cải lương được đông khán giả đến xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, các soạn giả và nghệ sĩ có cuộc sống khá sung túc, và một số ca sĩ tân nhạc phải tìm cách chuyển nghề sang hát cải lương để tìm kiếm thành công như Hùng Cường [12]. Riêng tại vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định đã có trên 39 rạp hát cải lương [13]
và 20 nơi luyện cổ nhạc (gọi là "lò"), trong đó có những "lò" nổi tiếng
như của Út Trong (từng là trưởng dàn cổ nhạc của gánh Thanh Minh suốt
13 năm, và là người đã huấn luyện Thanh Nga từ lúc còn thơ ấu), Văn Vĩ, Duy Trì, Huỳnh Hà, Tư Tân, Yên Sơn, Ba Giáo,...[12] Trong những giải thưởng của ngành Cải lương thời đó, nổi tiếng và uy tín có Giải Thanh Tâm, do ông ký giả Thanh Tâm (tên thật là Trần Tấn Quốc) thành lập, hoạt động từ năm 1958 đến năm 1968, mà người nhận giải đầu tiên là nữ nghệ sĩ Thanh Nga [14]. Những soạn giả tuồng nổi tiếng trong thời này có Năm Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Bảy Cao, Thế Châu, Thiếu Linh, Yên Lang, Nguyên Thảo, Mộc Linh, Kiên Giang, Thu An, Viễn Châu (sáng tạo hình thức tân cổ giao duyên, tức là hát cải lương chung với tân nhạc),...[15][16]
Những gánh hát cải lương nổi tiếng thời này có đoàn Thanh Minh – Thanh
Nga, Thống Nhứt, Tiếng Chuông Vàng,... với những nghệ sĩ như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm, Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Sang, Phùng Há, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Kim Huệ, Thanh Thanh Hoa,...[17]
Khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, cải lương miền Nam hoạt động mạnh 10 năm nữa, đến năm 1985, mới dần dần sa sút [13], vì nhiều lý do, trong đó có thiếu kịch bản hay, thiếu rạp diễn mới và thế hệ lão thành tàn lụi.Cũng do cộng sản chiếm miền Nam, dân một phần bị tù đày, một phần thất nghiệp lấy đâu tiền bạc cho mẹ và em đi xem Cải Lương!Hơn nữa Cộng sản ghét Cải Lương là ủy mị, lãng mạn. Cái mà Cộng sản yêu thich là nghệ thuật đấu tố, nghệ thuật đấu tranh giai cấp!.
Đặc điểm
Bố cục
Khởi sự, các vở cải lương viết về các tích xưa, như Trảm Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu Cao tảo mộ, Thoại Khanh – Châu Tuấn... hãy còn giữ mang hơi hướm theo kiểu hát bội,
do các soạn giả lớp cải lương đầu tiên vốn là soạn giả của sân khấu hát
bội. Sau này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường,... thì hoàn toàn theo cách bố cục của kịch nói,
nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo
sự tiến triển của hành động kịch. Càng về sau thì bố cục của các vở cải
lương, kể cả các vở viết về đề tài xưa cũng theo kiểu bố cục của kịch
nói.
Đề tài và cốt truyện
Buổi đầu, kịch bản cải lương lấy cốt truyện của các truyện thơ Nôm như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên,... hoặc các vở tuồng hát bội, hoặc phỏng theo truyện phim và kịch bản Pháp, như Bằng hữu binh nhung (frères d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Giá trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương đến thác (La dame au camélias)...
Vào thập niên 1930, đã xuất hiện những vỡ mới viết về đề tài xã hội Việt Nam, như: Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt,...
Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa vào các truyện cổ Ấn Độ, Ai Cập, La Mã, Nhật Bản, Mông Cổ... (Nàng Xê-đa, Hoa Sơn thần nữ,...).
Thế là cải lương có đủ loại tuồng ta, tuồng Tàu, tuồng Tây... sau có
thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ Quảng,... chứng tỏ khả năng phong
phú, biết đáp ứng sở thích của nhiều tầng lớp công chúng.
Sự dung nạp không thành kiến của cải lương có thể coi là sự lai
tạp, nhưng đây cũng là khía cạnh đặc điểm có tính chất chung đối với văn
hóa của vùng đất Nam Bộ.
Ca nhạc
Các loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi là ca kịch. Là ca kịch chứ không phải là nhạc kịch,
vì soạn giả không sáng tác nhạc mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc có
sẵn, cốt sao cho phù hợp với các diễn biến cùng sắc thái tình cảm của
câu chuyện.
Sân khấu cải lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú
của Nam Bộ. Trên bước đường phát triển nó được bổ sung thêm một số bài
bản mới (như Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu mà sau này mang tên vọng cổ). Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Hoa nhưng đã Việt Nam hóa.
Ngoài trừ bản vọng cổ, dưới đây là một số bài bản được sử dụng khá phổ biến trong các tuồng cải lương:
- Tam nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo (Đảo ngũ cung)
- Khốc hoàng thiên, Phụng hoàng, Nặng tình xưa, Ngũ điểm – Bài tạ, Sương chiều – Tú Anh, Xang xừ líu, Văn thiên tường (nhất là lớp dựng), Ngựa ô bắc, Ngựa ô nam, Đoản khúc Lam giang, Phi vân điệp khúc, Vọng kim lang, Kim tiền bản, Duyên kỳ ngộ, U líu u xáng, Trăng thu dạ khúc, Xàng xê, Tứ đại oán, Lưu thủy hành vân...
- Các điệu lý: Lý giao duyên, Lý con sáo, Lý tòng quân, lý Cái Mơn,...
Ngoài ra, khi các bài hát tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu cải lương như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái tim), Marinella (trong Phũ phàng), Tango mysterieux (trong Ðóa hoa rừng)…thì lúc bấy giờ trong một đoàn cải lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì ngồi ở trong, còn dàn nhạc jazz thì ngồi ở trước sân khấu...
Dàn nhạc
1 đoàn cải lương không chỉ có các diễn viên diễn xuất trên sân khấu, mà luôn luôn phải có dàn nhạc đi kèm. Vì thế, khi trình bày về âm nhạc
trong nghệ thuật cải lương, không thể không nói tới dàn nhạc cải lương.
Dàn nhạc cải lương có một vai trò đặc biệt trong tuồng diễn, đến nỗi,
không có dàn nhạc thì không thể thành một tuồng diễn. Dàn nhạc trong cải
lương không chỉ có nhiệm vụ nâng đỡ, phụ họa cho giọng hát, mà còn tô
điểm thêm cho từng giai điệu để làm nổi bật chiều sâu tâm lý của nhân
vật, tạo thêm kịch tính cho kịch bản, góp phần cho sự thành công của tuồng diễn.
Có một điều đặc biệt cần chú ý là ngay từ buổi đầu, lúc mới khai
sinh, trong nghệ thuật cải lương đã có sự tồn tại song song của hai dàn
nhạc: dàn nhạc cổ và dàn nhạc tân.[18]
Vai trò và sự tham gia của hai dàn nhạc trong vở diễn tuy có khác nhau
nhưng không hề có sự lấn át lẫn nhau, mà luôn bổ túc cho nhau. Đó là sự
phối hợp độc đáo giữa nét truyền thống và nét hiện đại trong nền âm nhạc
cải lương.
Dàn nhạc cổ
Dàn
nhạc cổ luôn giữ vai trò chủ chốt và được cho là linh hồn của tuồng cải
lương. Dàn nhạc cổ cũng mang đậm nét truyền thống và góp phần giữ gìn
bản sắc dân tộc trong nghệ thuật âm nhạc cải lương. Về mặt cấu trúc, dàn
nhạc cổ thường sử dụng những nhạc cụ như: đàn tranh, đàn bầu, đàn kìm, đàn cò, đàn tỳ bà, guitar phím lõm, đàn sến, song lang và sáo trúc...
Dàn nhạc tân
Dàn nhạc tân tuy chỉ đóng vai phụ, nhưng cũng rất tích cực, đồng thời cũng rất đa dạng về nhạc cụ.
Như phần trên đã trình bày, ngay từ lúc cải lương được hình thành, thì
đã có sự góp mặt của dàn nhạc tân, quá trình phát triển của dàn nhạc tân
được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu từ năm 1920–1940; từ
1940–1960 và từ 1960–1975. Ở giai đoạn đầu, dàn nhạc tân không tham gia
vở diễn mà chỉ đóng vai trò như một tiết mục quảng cáo, tức là biểu diễn
trước lúc tuồng cải lương được bắt đầu; hoặc chỉ được sử dụng để "lấp
vào chỗ trống" khi chuyển màn, chuyển cảnh... Trong giai đoạn này, cấu
trúc của dàn nhạc tân chỉ có bộ hơi (các loại kèn đồng) kèm với một dàn trống jazz.
Ở giai đoạn thứ hai, khi nghệ thuật cải lương dung nạp thêm một
số bài tân nhạc, thì dàn nhạc tân cũng bắt đầu được tham gia vở diễn.
Nhưng sự tham gia này còn rất hạn chế, chỉ đệm cho diễn viên hát những
đoạn tân nhạc. Đến lúc này thì dàn nhạc tân có thêm hai cây guitar solo và guitar bass.
Ở giai đoạn thứ ba thì dàn nhạc tân coi như có vai trò ngang hàng với dàn nhạc cổ trong vở diễn. Ngoài chức năng đệm cho tân nhạc, dàn nhạc tân còn phụ họa, điểm xuyến cho những vai diễn. Lúc này, dàn nhạc tân dung nạp thêm cây piano và cây organ.
Ngày nay, dàn nhạc tân còn dung nạp thêm nhiều loại nhạc cụ hiện
đại khác, đặc biệt là cây organ điện tử với các chức năng ngày càng đa
dạng. Cây Organ điện tử hiện đại này đang "thao túng trên sân khấu cải
lương, quá lạm dụng, nhiều lúc cái hồn và chất âm nhạc truyền thống của
Cải Lương bị sai lệch".[19]
Cách biểu diễn
Diễn viên cải lương diễn xuất như kịch nói, chỉ khác là diễn viên ca chứ không nói, cử chỉ điệu bộ phù hợp theo lời ca, chứ không cường điệu như hát bội, Vương Hồng Sển cho rằng hát bội tượng trưng nhiều quá và la lối lớn tiếng quá, trái lại cải lương ca rỉ rả cho thêm mùi...[20] Sau này (khoảng những năm 60), cải lương có pha thêm những cảnh múa, đu bay, diễn võ... cốt chỉ để thêm sinh động...
Trang phục, bối cảnh
Trong các vở diễn về tuồng tích xưa hay lấy cốt truyện ở nước ngoài thì y phục của diễn viên và tranh cảnh trên sân khấu cũng được chọn lựa sao gợi được bối cảnh nơi xảy ra câu chuyện, nhưng cũng chỉ mới có tính ước lệ chứ chưa đúng với hiện thực. Trong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời.
Ghi công
Sơ khởi nên kể công ông Tống Hữu Định (tức Phó Mười Hai).
Kế đó, người có công gầy dựng và đưa lên sân khấu là ông André Thận.
Bên cạnh đó còn có vài người góp sức như: Kinh-lịch Quờn (hay Hườn), Phạm Đăng Đàng...
Ngoài ra còn phải kể đến công của những bầu gánh, soạn giả, nhạc sĩ và các đào kép tài danh thuộc thế hệ đầu, như: Tư Sự (gánh Đồng Bào Nam), Hai Cu (gánh Nam Đồng Ban), Trần Ngọc Viện (gánh Nữ Đồng Ban), Trương Duy Toản, Ba Ðại, Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Sáu Lầu (Cao Văn Lầu), Nguyễn Tri Khương, Trần Văn Chiều (tự Bảy Triều), Ba Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm, Hai Nhiều, Hai Cúc, Năm Phỉ, Ngọc Xứng, Ngọc Sương, Phùng Há, Tư Sạng,Hai Giỏi, Năm Nở, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Châu, Ba Vân, Bảy Nam v.v... Tất cả đã góp phần hình thành và phát triển loại hình nghệ thuật cải lương.
Cũng nên nói thêm, từ sau Hiệp định Geneve
(1954), cải lương càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một loại
hình nghệ thuật, một bộ môn sân khấu có khả năng thu hút đông đảo khán
thính giả. Và do sáng kiến của ông Trần Tấn Quốc, nhà báo kỳ cựu, Giải Thanh Tâm được thành lập năm 1958 và liên tiếp mỗi năm kế sau đều có phát huy chương và khen thưởng cho những nam nữ nghệ sĩ trẻ có triển vọng nhất trong năm.
Các nghệ sĩ cải lương nổi tiếng: Phùng Há, Út Trà Ôn, Minh Vương, Năm Châu, Mỹ Châu, Thoại Miêu, Ngọc Giàu, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Diệp Lang, Lệ Thủy, Phượng Liên, Hồng Nga, Kim Ngọc, Bảy Nam, Minh Phụng, Diệu Hiền, Ngọc Hương, Kim Anh, Dũng Thanh Lâm, Hùng Cường, Thanh Hương, Thanh Tú, Thanh Kim Huệ, Thanh Nga, Minh Cảnh, Thanh Tòng, Thanh Thanh Hoa, Tấn Tài, Hữu Phước, Năm Phỉ, Ba Vân, Tám Danh, Vũ Linh, Thanh Tuấn, Thanh Hải, Thanh Thế, Bạch Mai,...
Những cặp đôi nổi tiếng trên sân khấu: Thanh Sang – Thanh Nga; Bạch Tuyết – Hùng Cường; Lệ Thủy – Minh Phụng; Minh Vương – Lệ Thủy; Mỹ Châu – Minh Phụng; Thanh Sang – Bạch Tuyết; Tấn Tài – Bạch Tuyết;...
Các soạn giả cải lương nổi tiếng: Viễn Châu, Loan Thảo, Hà Triều, Hoa Phượng, Quy Sắc, Yên Lang, Thạch Tuyền, Năm Châu, Trần Hà, Trần Hữu Trang, Yên Ba, Kiên Giang, Thế Châu,...
Một số vở cải lương
- Bên cầu dệt lụa (Tác giả: Thế Châu)
- Chuyện tình An Lộc Sơn (Tác giả: Thế Châu)
- Đêm lạnh chùa hoang (Tác giả: Yên Lang)
- Dốc sương mù (Sáng tác: Nguyên Thảo)
- Đời cô Lựu (Tác giả: Trần Hữu Trang)
- Hoa Mộc Lan (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Khi rừng mới sang thu (Sáng tác: Quy Sắc, Loan Thảo)
- Kiếp chồng chung (Tác giả: Điêu Huyền)
- Kiếp nào có yêu nhau (Tác giả: Nguyên Thảo, Hạnh Trung)
- Kiều Nguyệt Nga (Sáng tác: Ngọc Cung)
- Kim Vân Kiều (Truyện: Nguyễn Du; chuyển thể: Hoàng Song Việt, Hoa Hạ)
- Lá sầu riêng (Kịch bản: Hoàng Dũng; chuyển thể: Thế Châu)
- Lá trầu xanh (Tác giả: NSND Viễn Châu)
- Lan và Điệp (Tác giả: Trần Hữu Trang)
- Máu nhuộm sân chùa (Tác giả: Yên Lang)
- Một kiếp phong trần (Sáng tác: Lam Tuyền)
- Mưa rừng (Tác giả: Hà Triều – Hoa Phượng)
- Mùa thu trên Bạch Mã Sơn (Tác giả: Yên Lang)
- Nạn con rơi (Sáng tác: Trần Hà)
- Nắng sớm mưa chiều (Tác giả: Nhị Kiều)
- Người phu khiêng kiệu cưới (Tác giả: Yên Lang, Nguyên Thảo)
- Người tình trên chiến trận (Tác giả: Mộc Linh, Nguyên Thảo)
- Người vợ không bao giờ cưới (Tác giả: Kiên Giang – Quy Sắc)
- Nhụy Kiều tướng quân (Tác giả: Hoàng Anh Chi)
- Nửa đời hương phấn (Tác giả: Hà Triều – Hoa Phượng)
- Quán khuya sầu viễn khách (Sáng tác: Yên Lang, Hồng Diệp)
- San Hậu (Tác giả: NSND Thanh Tòng)
- Sân khấu về khuya (Tác giả: Nguyễn Thành Châu)
- Sầu vương biên ải (Sáng tác: Thái Thụy Phong)
- Tấm lòng của biển (Tác giả: Hà Triều – Hoa Phượng)
- Tâm sự loài chim biển (Tác giả: Yên Lang, Nguyên Thảo)
- Thái hậu Dương Vân Nga (Tác giả: Trúc Đường; chuyển thể: Hoa Phượng, Chi Lăng, Hoàng Việt, Thể Hà Vân)
- Tiếng hạc trong trăng (Tác giả: Loan Thảo – Yên Ba)
- Tiếng trống Mê Linh (Tác giả: Việt Dung, Vĩnh Điền)
- Tiêu Anh Phụng (Sáng tác: Hoàng Loan)
- Tình cô gái Huế (Sáng tác: Quy Sắc)
- Tô Ánh Nguyệt (Tác giả: Trần Hữu Trang)
- Tôn Tẫn giả điên (Tác giả: Yên Ba. Loan Thảo)
- Trâm Hoa Mai (Tác giả: Thạch Tuyền)
- Tuyệt tình ca (Tác giả: Hoa Phượng, Ngọc Diệp)
- Xin một lần yêu nhau (Tác giả: Nguyên Thảo)
Các đoàn cải lương chuyên nghiệp
Nghệ thuật sân khấu Cải lương có 19 đơn vị phân bố chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ gồm:
- Nhà hát Cải lương Việt Nam
- Nhà hát Cải lương Hà Nội;
- Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang
- Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Đồng Nai
- Đoàn Cải lương Hải phòng
- Đoàn Cải lương Quảng Ninh
- Đoàn Cải lương Thái Bình
- Đoàn Cải lương Nam Định
- Đoàn Cải lương Thanh Hóa
- Đoàn Cải lương Hương Tràm tỉnh Cà Mau
- Đoàn Cải lương Tây Đô thuộc Nhà hát Tây Đô tỉnh Cần Thơ
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An
- Đoàn văn công Đồng Tháp
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Bến Tre
- Đoàn Cải lương Ánh Hồng tỉnh Trà Vinh
- Đoàn Cải lương nhân dân Kiên Giang
- Đoàn Cải lương Cao Văn Lầu tỉnh Bạc Liêu
- Đoàn Cải lương An Giang
- Đoàn nghệ thuật Cải lương Tây Ninh.
Xem thêm
Chú thích
^ Cải lương...bài của Gs. Trần Văn Khê.
- ^ Nghệ thuật Cải Lương
- ^ Hồi ký 50 năm mê hát, tr. 207)
- ^ a ă Hồi ký 50 năm mê hát, tr. 25
- ^ Trích Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, Thanh Trung thư xã Sài Gòn, không đề năm xuất bản, tr 19-20.
- ^ Một trình thức diễn xuất thô sơ. Năm 1918, gánh hát của Đốc phủ Bảy & Đặng Thúc Liêng làm bầu, lựa danh từ "hát bộ" để gọi cho cách diễn mới, khiến về sau có nhiều người lầm lộn nên đã "vừa viết báo vừa hô hào xin dùng chữ hát bộ thay cho danh từ hát bội chính cống (Hồi ký 50 năm mê hát, tr. 38 và 60.)
- ^ Hồi ký 50 năm mê hát tr. 61
- ^ Lịch sử An Giang, Nhà xuất bản TH An Giang, 1988, tr. 183-184.
- ^ Hồi ký bốn mươi năm mê hát, tr. 28 - 29.
- ^ Hồi ký bốn mươi năm mê hát tr. 215.
- ^ Xem bài "Một Vài Vấn đề Về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam" của GS. Trần Quang Hải tại đây
- ^ a ă "Nhạn trắng Gò Công" từng là đào thương, RFA, 13/2/2012
- ^ a ă Đâu rồi thời hoàng kim của Cải lương!, RFA, 16/4/2011
- ^ Bài 1: Giải Thanh Tâm và nữ nghệ sĩ Thanh Nga, Ngành Mai, RFA, 19/4/2011
- ^ Soạn giả Hà Triều Hoa Phượng, RFA, 29/5/2011
- ^ Nghệ sĩ Năm Châu: nguồn sáng tạo vô tận cho cải lương và điện ảnh Việt Nam, RFA, 6/6/2011
- ^ Những giọng ca vàng của sân khấu cải lương Sài Gòn trước đây, RFA, 10/09/2005
- ^ Trương Bỉnh Tòng, Nghệ thuật Cải Lương, Viện sân khấu, Hà Nội, 1997, trang 66.
- ^ Đỗ Dũng, Sân khấu Cải Lương nam bộ, Nhà xuất bản Trẻ, 2003, trang 193.
- ^ Hồi ký bốn mươi năm mê hát tr. 209
Sau 1975, Cải Lương không phát triển, chỉ còn những cuốn video phát hành khắp thế giới , không ngờ xem mấy video đó thuơng quá. Những anh chị em nhỏ đó ca hay hát hay lắm.”
Vừa rồi là giọng ca dài hơi cao vút, luyến lái khá điêu luyện của Cẩm
Tiên và Vương Linh qua một trích đọan trong bản Chiếc Áo Bà Ba.
Thưa quý vị, trong 30 năm qua kể từ 1975, nhiều giọng ca trẻ rất hay
đã xuất hiện trên sân khấu cải lương trong nước, qua những tuồng hát
hoặc những bản vọng cổ độc chiếc.
Phong cách ca riêng
Nhưng theo nhận xét của nhiều chuyên gia cổ nhạc và cả giới mến mộ cải lương, thì những giọng ca trẻ này - một trong những yếu tố chủ chốt của nghệ thuật ca kịch cải lương – không tạo được phong cách ca riêng, độc đáo cho mình.
Một bài tựa đề “Vai diễn để đời: Không có lớp trẻ” của tác giả Thanh
Hiệp đăng trong báo Người Lao Động vào thời gian gần đây có đọan viết
rằng: “Nghệ sĩ cải lương hôm nay hiếm có giọng ca độc đáo, riêng
biệt, phần lớn đều bắt chước hoặc lẫn vào nhau. Thoạt nghe ít ai phân
biệt được đó là giọng Kim Tử long hay Kim Tiểu Long, Vũ Linh hay Vũ
Luân…”
Nghệ sĩ cải lương hôm nay hiếm có giọng ca độc đáo, riêng biệt, phần
lớn đều bắt chước hoặc lẫn vào nhau. Thoạt nghe ít ai phân biệt được đó
là giọng Kim Tử long hay Kim Tiểu Long, Vũ Linh hay Vũ Luân…
Chưa nói tới nghệ thuật diễn xuất cùng nhiều yếu tố khác nữa vốn góp
phần làm rực rở vòm trời sân khấu cải lương, tình trạng những giọng hát
hiện giờ thiếu phong cách riêng biệt, độc đáo cho thấy một sự tương phản
với những giọng ca vàng của những thập niên 60, 70.
Như giọng hát vang ngân, ấm, ngọt ngào, chân phương và mộc mạc thấm
đượm tình quê của Vua vọng cổ Út Trà Ôn, và cả “Cậu ấm Thân” Việt Hùng,
rồi những làn hơi êm dịu, tươi mát tuông chải mượt mà trầm bổng theo
cung đàn của Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm
cho tới các giọng ca buồn ray rức thiết tha của sầu nữ Út Bạch Lan, của
nữ hoàng sân khấu Thanh Nga, giọng hát liêu trai Mỹ Châu, tiếng ca ngọt
ngào réo rắt, trong như pha lê của Bạch Tuyết, Lệ Thủy, Phượng Liên…
Đó là chưa kể những giọng hài độc đáo để đời của Quái kiệt Ba Vân,
Vua vọng cổ hài Văn Hường, hề té Văn Chung, hề râu Thanh Việt, hề nhựa
Thanh Hoài.
Một trong những giọng ca vàng của thời trước, nghệ sĩ Minh Cảnh, cho biết cảm nghĩ như sau:
“Giọng ca nào cũng đều có sự đặc biệt riêng của giọng ca đó. Theo tôi
nghĩ thì các em đó có những giọng ca rất tốt, rất hay. Chỉ có mỗi một
yêu cầu - ở riêng tôi thôi – là các em đó chịu khó nghiên cứu cho thật
kỹ, từ lối ca, cách ca, hành văn cũng như là nói về nghệ thuật thì trong
lúc trình bày, làm sao để cho khán thính giả hiểu rằng mình đang làm
gì. Nếu như vậy tôi thấy kết quả sẽ tốt hơn. Chớ còn nói riêng về giọng
ca thì tôi thấy em nào ca cũng hay.”
Số phận bấp bênh
Kết quả của giải “ Ấn tượng sân khấu cải lương 30 năm” do Hội Sân khấu TPHCM và Tuần báo Sân khấu TPHCM tổ chức là một bằng chứng rõ nét về số phận tiếp tục bấp bênh của nghệ thuật sân khấu cải lương trong nước hiện nay, khi 2 phần 3 nghệ sĩ đoạt giải này thuộc thế hệ “những gịong ca vàng” của ngày trước.
Còn các diễn viên trẻ, mặc dù có được giọng ca hay, nói chung diễn không nhập được vai nào khả dĩ để đời.
Bài “Vai diễn để đời: Không có lớp trẻ” của tác giả Thanh Hiệp mở đầu với tiểu tựa “Hội chứng bắt chước”, và viết rằng:
“Điều mà các nghệ sĩ có tâm huyết với sân khấu cải lương luôn bức
xúc trong những lần hội thảo về sân khấu cải lương là chất lượng đào
tạo diễn viên cải lương ngày càng bị ‘khuôn mẫu hóa’. Sẽ không có vai
diễn hay, khi các sinh viên khoa cải lương cứ diễn rập khuôn phong cách
diễn của các nghệ sĩ đi trước, dẫn tới vai diễn của một số diễn viên trẻ
na ná nhau.”
Phó Chủ tịch Hội Sân khấu TPHCM, đạo diễn Nguyễn Hồng Dung, có nhận xét như sau:
“Các diễn viên trẻ đã chưa thoát khỏi những cái bóng của đàn anh, đàn
chị, chưa dám liều mình cho những nhân vật và bứt phá cho nghề. Các bạn
cũng chưa thấm sâu ý thức xem sân khấu là thánh đường, xem vai diễn như
máu thịt của mình để vun đắp.”
Qua một cuộc phỏng vấn cách đây không lâu của báo Người Lao Động, đạo
diễn Doãn Hoàng Giang, Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội Nghệ sĩ Sân
khấu Việt Nam lưu ý rằng: “Không cây nào sống dưới bóng râm của cây
khác mà khá lên được. Cải lương nếu vẫn sống trong bóng râm của nền cải
lương xa xưa thì không thể lớn.”
Loanh quanh trong vòng quá khứ
Qua Báo Sân Khấu, tác giả Võ Tuấn Thiện của bài “Nâng cấp cải cải lương: Cải lương lẩn quẩn trong mê cung quá khứ” nhận xét rằng: “Bên cạnh sự thành công mang ý nghĩa tích cực…, người xem vẫn có cảm giác như những người lam nghệ thuật vẫn loanh quanh trong các vòng mê cung của quá khứ, không thoát ra được, hay nói đúng hơn là họ vẫn chưa tìm được một hướng đi mang tính khả thi cao để có thể tiếp cận được với khán giả bây giờ.”
Đạo diễn Văn Thành thì bày tỏ nỗi lo âu như sau: “Điều quan trọng
là diễn viên cải lương trẻ hôm nay thiếu khát vọng nên cứ bằng lòng với
hiện tại. Tôi hay tin các HCV Giải Trần Hữu Trang hiện nay đang dựng
lại vở Thanh Xà-Bạch Xà, tự dưng lại thấy buồn. Sao không dựng một kịch
bản mới với hơi thở cuộc sống thời đại ? Cải lương không cần phải nâng
cấp cao siêu gì cả, chỉ cần nâng cấp con người, nâng cấp ý thức làm nghề
là sẽ có nhiều vai diễn để đời.”
Cũng liên quan đến vấn đề kịch bản, đạo diễn Doãn Hoàng Giang cho biết ý kiến:
“Vấn đề đặt ra ở đây là các tác giả không còn chăm chút kịch bản để có
những vở diễn hay như một thời đã có: Đời Cô Lựu, Thái Hậu Dương Vân
Nga, Bên Cầu Dệt Lụa, Tiếng Trống Mê Linh, Hòn Đảo Thần Vệ Nữ, Cây Sầu
Riêng Trổ Bông, Tô Hiến Thành Xử Án… Từ khâu yếu kém kịch bản mà dẫn tới
hiệu quả vở diễn không cao, vai diễn của lực lượng trẻ ít nhiều bị ảnh
hưởng.”
Cũng liên quan tới lãnh vực chuyên môn của cải lương, hồi tháng Tư
vừa rồi, ký giả Hoài Hương có bài nhận xét nhân dịp Hội diễn sân khấu
cải lương chuyên nghiệp toàn quốc 2005, quy tụ gần 400 diễn viên của
trên 20 đoàn hát khắp nước về hát tại rạp Hưng Đạo, Saigon, có đọan như
sau:
“Hội diễn sân khấu cải lương toàn quốc 2005 như một bữa tiệc thời
trang phô diễn rất nhiều bộ cánh màu sắc từ hình thức, âm nhạc, các vở
diễn. Với quyết tâm đổi mới cải lương, nhiều đạo diễn đưa nhạc mới, cả
các làn điệu của quan họ, hát chèo, ca trù, chầu văn vào, kết quả là rất
phong phú và cũng là rất ít chất cải lương.”
Vẫn theo ký giả Hoài Hương, vấn đề gọi là “làm vừa lòng tiêu chí”,
như “thẳng tay lọai tuồng dã sử, huyền thọai, truyền thuyết khỏi cải
lương…”, hay nói cách khác, phải làm đúng theo những quy định của Ban
Văn Hóa-Tư Tưởng, đã gây ảnh hưởng đáng kể cho sự phát triển nghệ thuật
sân khấu cải lương.
Tôi hay tin các HCV Giải Trần Hữu Trang hiện nay đang dựng lại vở
Thanh Xà-Bạch Xà, tự dưng lại thấy buồn. Sao không dựng một kịch bản mới
với hơi thở cuộc sống thời đại ? Cải lương không cần phải nâng cấp cao
siêu gì cả, chỉ cần nâng cấp con người, nâng cấp ý thức làm nghề là sẽ
có nhiều vai diễn để đời.
Rồi tình trạng rất “ăn nên làm ra” hiện giờ là “nghe rõ tiếng người
nhắc tuồng át cả tiếng diễn viên mà thấy thất vọng vô cùng”, như lời của
Phó chủ tịch Hội Sân khấu TPHCM Trần Ngọc Giàu, cũng góp phần lu mờ cho
vòm trời sân khấu cải lương.
Nguy cơ tắt lịm
Vòm trời từng rực sáng một thời đó – trong các thập niên 50, 60, 70,
có nguy cơ tắt lịm nếu lời yêu cầu “trả mặt bằng cho sàn diễn” của Hội
Sân Khấu không được đáp ứng, sau khi nhiều rạp hát cải lương có từ trước
hiện bị biến thành vũ trường, tụ điểm karaoké, quán nhậu, siêu thị…
Báo Người Lao Động có một bài tựa đề “Đào cải lương hát ở quán bia
ôm”, với đọan mở đầu rằng “Đời sống nghệ sĩ cải lương càng trở nên khó
khăn khi đất biểu diễn thu hẹp. Không ít đào trẻ phải tìm chốn mưu sinh
trong các quán bia ôm. Nhiều người còn bị thực khách ‘nài hoa, ép
liễu’.”
Gần đây, một nhóm phóng viên Văn Học Nghệ Thuật trong nước có viết rằng:
“So với kịch nói, điện ảnh, số sinh viên sân khấu cải lương tốt nghiệp
ra trường hiếm có cơ hội theo hát chuyên nghiệp. Có sinh viên sân khấu
cải lương mê nghề, không ngần ngại xin biểu diễn ở một số quán nhậu hát
cải lương. Nhưng ở môi trường như thế thì thử hỏi làm sao họ có thể phát
triển nghề nghiệp ?”
Trước thực trạng không sáng sủa như vậy, qua một cuộc phỏng vấn của
báo Người Lao Động, đạo diễn Doãn Hoàng Giang, Chủ tịch Hội đồng Nghệ
thuật Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam phát biểu:
“Cải lương đừng tự ái, phải thẳng thắn nhìn ra thảm cảnh của
mình. Về miền Nam, đi đâu tôi cũng nghe hát vọng cổ. Vậy thì sao người
ta lại quay lưng với cải lương ngay trên mảnh đất vốn mệnh danh là cái
nôi cải lương ? Khán giả đã quay lưng, đó là sự thật, đừng nói khác để
ve vãn nhau, đừng dối lòng nhau.”
Mời các bạn tham gia mục Cổ Nhạc do Thanh Quang phụ trách. Mọi email xin gửi về Vietnamese@www.rfa.org
Thưa quý vị, tiếng hát Trọng Phúc-Phương Hồng Thủy qua bản Chợ Đêm
Miền Tây đã kết thúc chương trình Cổ Nhạc hôm nay. Thanh Quang xin hẹn
gặp lại tất cả quý thính giả trong chương trình tuần tới.
© 2005 Radio Free Asia
https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/TraditionalMusic/TheArtOfCaiLuongVietnamAfter1975_TQuang-20051119.html-09102007123410.html
Đời sống nghệ sĩ, nhạc sĩ cải lương ở TPHCM - Nỗi lo nghèo nghề!
Mấy năm gần đây, mặc dù tình hình
sàn diễn cải lương ở TPHCM không còn sôi động như trước, nhưng cuộc
sống của các nghệ sĩ cải lương không vì thế mà giảm theo. Hiện nay, có
không ít nghệ sĩ cải lương đang ăn nên làm ra, thu nhập đều đều mỗi
tháng tệ lắm cũng không dưới 10 triệu đồng. Tuy nhiên, ai cũng thừa nhận
một điều, rằng tiền thì không thiếu, nhưng nghề thì có điều gì đó chưa
ổn.
Chẳng nói đâu xa, một anh chàng chạy xe ôm, sau khi được phát hiện từ cuộc thi Chuông vàng vọng cổ, nhờ có giọng ca hay, được một số chủ doanh nghiệp thích, mỗi khi tổ chức tiệc tùng đều mời anh đến hát vài bản vọng cổ. Khi ra về, anh đều được các chủ doanh nghiệp này bồi dưỡng vài ba triệu đồng. Mỗi tháng, trung bình giọng ca này nhận được 4 – 5 lời mời đi hát như thế nên thu nhập cũng khá ổn định, đời sống được cải thiện thấy rõ.
Với những giọng ca có thâm niên hơn, từng đoạt 1 – 2 giải thưởng, chưa phải là hàng “sao” thì mỗi lần đi show ở các tỉnh, dù diễn trong một chương trình đại nhạc hội hay các hội chợ hàng tiêu dùng, ngoài được lo ăn ở, tiền cát-xê cũng được vài triệu đồng cho một lần biểu diễn 2 bản vọng cổ. Còn đối với các “sao” sân khấu cải lương, tiền cát-xê đi tỉnh hát, mỗi lần cũng được 7 – 8 triệu đồng hoặc hơn 10 triệu đồng/đêm diễn, tùy theo xa – gần và sự “thân quen” của bầu show.
Bên cạnh đó, theo nghệ sĩ T. cho biết, thời gian gần đây, nhiều gia đình yêu thích cải lương mỗi khi tổ chức tiệc tùng hay mời các nghệ sĩ đến góp vui. Mỗi tháng, 1 nghệ sĩ cũng có được cỡ 10 show hoặc 15 – 20 show. Mỗi show, tiền cát-xê của mỗi nghệ sĩ cũng tùy thuộc vào mức độ hay - dở của giọng ca và sự nổi tiếng của từng người.
Trong một lần trò chuyện, đôi nghệ sĩ ưu tú tài danh M. V – L. T. kể, vài năm trở lại đây, cả hai anh chị bỗng dưng… có duyên đi show dự đám cưới của nhiều cô dâu, chú rể ở các tỉnh miền Tây. Thậm chí, nhiều hôm, cả hai anh chị mệt quá hát không nổi, bà con chỉ yêu cầu… có mặt, chụp hình chung cô dâu, chú rể và quan khách là hạnh phúc rồi.
Ngoài ra, theo một số nghệ sĩ cải lương, thời gian qua, lượng Việt kiều về quê làm ăn, thăm gia đình khá nhiều và các Việt kiều cũng thường xuyên mời các nghệ sĩ đến gia đình hát, góp vui. Và đương nhiên, mỗi lần đi hát như vậy, mỗi nghệ sĩ cũng nhận được từ một vài trăm thậm chí cả ngàn đô la.
Với nhiều hình thức hoạt động đi show, biểu diễn như thế, nhìn chung thu nhập, đời sống của các nghệ sĩ cải lương hiện nay khá ổn định. Tuy nhiên, về nghề, về chuyên môn thì đang là một vấn đề nan giải – nỗi buồn không của riêng ai!
Một nhạc sĩ, nếu chịu khó chạy show, trung bình mỗi tháng cũng được từ 7 – 8 triệu đồng trở lên, chưa kể thu nhập từ việc dạy đàn cho các bạn trẻ yêu thích. Chính vì thế, đời sống của các nhạc sĩ hiện nay cũng được cải thiện đáng kể.
Nhạc sĩ Huỳnh Tuấn, một gương mặt trẻ có ngón đàn kìm được xem là hay nhất của làng cổ nhạc hiện nay, cho biết, các show đám cưới, đám hỏi, sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi… cũng nhiều, nếu anh em nhạc sĩ nào không ngại, chấp nhận chạy show, thu nhập cũng khá.
Đồng thời, gần đây, nhu cầu làm đĩa nhạc cổ của các bạn trẻ cũng nhiều nên thu nhập của nhạc sĩ cũng khá hơn. Tuy nhiên, những công việc hiện nay của các nhạc sĩ, nếu nói một cách nào đó thì chủ yếu vì kế sinh nhai là chính.
Nhạc sĩ Quang Dũng chia sẻ, dẫu biết rằng đi đánh đàn cho các đám tiệc tiền cũng rất nhiều, nhưng ngón đàn muốn vững vàng, ngày càng hay hơn thì những nơi này hoàn toàn không phù hợp. Anh cho biết thêm: “Sân khấu ngày xưa có được những danh cầm nổi tiếng, chứ thế hệ nhạc sĩ chúng tôi hiện nay, mỗi khi ai gọi mình là danh cầm đều cảm thấy ái ngại, không dám nhận, bởi danh cầm là phải thường xuyên có được những “sân chơi” – vở diễn để có thể so tài ngón đàn với nhau, nhằm nâng cao tay nghề – ngón đàn tuyệt đỉnh.
Còn giờ đây, sân chơi ấy, biết tìm đâu? Thậm chí, có hôm, trong một số chương trình truyền hình trực tiếp, có chúng tôi ngồi đánh đàn, nhưng một số nghệ sĩ thủ sẵn đĩa, lấy ra hát, không cần đến người đánh đàn. Mặc dù, sau đó chúng tôi cũng được nhận đủ tiền cát-xê, nhưng thú thật, lúc đó, trong mỗi người nhạc sĩ đều có chung cảm giác buồn…”.
Theo nhạc sĩ Quang Dũng: “Hiện nay, sân khấu cải lương đang quá ít những sàn diễn, hiếm khi có vở diễn mới nên muốn có sự thay đổi nào đó sẽ rất khó…”.
Soạn giả Hoàng Song Việt cho rằng, trong mỗi nghệ sĩ, nhạc sĩ, bên cạnh biểu diễn mưu sinh cũng đều mong mỏi được làm nghề một cách thực thụ để nâng cao tay nghề. Nhưng cơ hội để họ được luyện nghề hãy còn quá hiếm hoi.
Nhạc sĩ Hoàng Thành suy tư: “Một khi sân khấu sàn diễn được chú trọng, được đầu tư, các nghệ sĩ, nhạc sĩ được biểu diễn trong một rạp hát có khán giả, chắc chắn ngón đàn của nhạc sĩ cũng bay bổng, có hồn hơn để nâng giọng ca của nghệ sĩ vút cao hơn, ngọt ngào hơn...”.
Nhạc sĩ Trường Sinh tâm sự: “Bây giờ thời buổi kỹ thuật hiện đại, các nghệ sĩ thường chỉ nhờ cậy chúng tôi làm đĩa nhạc các bài hát sẵn, để khi cần đi hát thì mang theo, chỉ cần bấm nút là hát vừa tiện lợi, lại đỡ tốn nhiều tiền. Có khi 1 bài vọng cổ, được làm nhạc sẵn chỉ có 200.000 đồng, nhưng nghệ sĩ có thể biểu diễn rất nhiều lần, thậm chí còn cho bạn bè mượn hát nữa…
Thử hỏi, khi nhạc sĩ, nghệ sĩ, mạnh ai nấy làm, tiếng đàn, giọng ca không hòa quyện vào nhau, làm sao hay được? Cứ đà này, rồi đây, sân khấu chỉ còn thợ đàn, thợ diễn, chứ hiếm có nghệ sĩ, nhạc sĩ một cách đúng nghĩa…”.
Nhiều nghệ sĩ tâm sự, trong cuộc sống tiền luôn rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả, bởi cái nghề làm ra tiền, chứ tiền khó tạo dựng nên nghề. Cho nên, bên cạnh việc đi show kiếm tiền, ai nấy đều mong muốn có được nhiều đêm diễn phục vụ quảng đại quần chúng. Nếu không, trong đời sống của người nghệ sĩ, chỉ giàu tiền mà nghèo nghề thì thật đáng lo ngại!
Đỗ Hạnh – Hữu Việt
Nữ nghệ sĩ Bạch Huệ biểu diễn bản “Dạ cổ hoài lang” với phần đệm đàn của danh cầm Văn Giỏi, nhân kỷ niệm 90 năm bản Dạ cổ hoài lang. |
Nghệ sĩ đắt showNếu như nhìn vào giá tiền cát-xê của nhiều nghệ sĩ cải lương hiện nay thì thấy thu nhập hàng tháng của mỗi nghệ sĩ không phải là thấp. Theo tiết lộ của vài nghệ sĩ cải lương, nếu so với các nghệ sĩ ở lĩnh vực kịch nói, thu nhập của họ cao hơn nhiều, hay nói đúng hơn là chỉ thấp hơn… ca sĩ một chút! Với một nghệ sĩ có chất giọng khá, bình quân thu nhập mỗi tháng được mười mấy, hai mươi triệu đồng là bình thường.
Chẳng nói đâu xa, một anh chàng chạy xe ôm, sau khi được phát hiện từ cuộc thi Chuông vàng vọng cổ, nhờ có giọng ca hay, được một số chủ doanh nghiệp thích, mỗi khi tổ chức tiệc tùng đều mời anh đến hát vài bản vọng cổ. Khi ra về, anh đều được các chủ doanh nghiệp này bồi dưỡng vài ba triệu đồng. Mỗi tháng, trung bình giọng ca này nhận được 4 – 5 lời mời đi hát như thế nên thu nhập cũng khá ổn định, đời sống được cải thiện thấy rõ.
Với những giọng ca có thâm niên hơn, từng đoạt 1 – 2 giải thưởng, chưa phải là hàng “sao” thì mỗi lần đi show ở các tỉnh, dù diễn trong một chương trình đại nhạc hội hay các hội chợ hàng tiêu dùng, ngoài được lo ăn ở, tiền cát-xê cũng được vài triệu đồng cho một lần biểu diễn 2 bản vọng cổ. Còn đối với các “sao” sân khấu cải lương, tiền cát-xê đi tỉnh hát, mỗi lần cũng được 7 – 8 triệu đồng hoặc hơn 10 triệu đồng/đêm diễn, tùy theo xa – gần và sự “thân quen” của bầu show.
Bên cạnh đó, theo nghệ sĩ T. cho biết, thời gian gần đây, nhiều gia đình yêu thích cải lương mỗi khi tổ chức tiệc tùng hay mời các nghệ sĩ đến góp vui. Mỗi tháng, 1 nghệ sĩ cũng có được cỡ 10 show hoặc 15 – 20 show. Mỗi show, tiền cát-xê của mỗi nghệ sĩ cũng tùy thuộc vào mức độ hay - dở của giọng ca và sự nổi tiếng của từng người.
Trong một lần trò chuyện, đôi nghệ sĩ ưu tú tài danh M. V – L. T. kể, vài năm trở lại đây, cả hai anh chị bỗng dưng… có duyên đi show dự đám cưới của nhiều cô dâu, chú rể ở các tỉnh miền Tây. Thậm chí, nhiều hôm, cả hai anh chị mệt quá hát không nổi, bà con chỉ yêu cầu… có mặt, chụp hình chung cô dâu, chú rể và quan khách là hạnh phúc rồi.
Ngoài ra, theo một số nghệ sĩ cải lương, thời gian qua, lượng Việt kiều về quê làm ăn, thăm gia đình khá nhiều và các Việt kiều cũng thường xuyên mời các nghệ sĩ đến gia đình hát, góp vui. Và đương nhiên, mỗi lần đi hát như vậy, mỗi nghệ sĩ cũng nhận được từ một vài trăm thậm chí cả ngàn đô la.
Với nhiều hình thức hoạt động đi show, biểu diễn như thế, nhìn chung thu nhập, đời sống của các nghệ sĩ cải lương hiện nay khá ổn định. Tuy nhiên, về nghề, về chuyên môn thì đang là một vấn đề nan giải – nỗi buồn không của riêng ai!
Nhạc sĩ cũng sống khỏeMặc dù thu nhập của các nhạc sĩ cổ nhạc hiện nay không nhiều bằng các nghệ sĩ, nhưng nhìn chung, đều sống được với nghề. Theo nhạc sĩ Hoàng Thành, hiện nay với sự bùng phát của nhiều kênh truyền hình đã góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều nghệ sĩ, nhạc sĩ cổ nhạc.
Một nhạc sĩ, nếu chịu khó chạy show, trung bình mỗi tháng cũng được từ 7 – 8 triệu đồng trở lên, chưa kể thu nhập từ việc dạy đàn cho các bạn trẻ yêu thích. Chính vì thế, đời sống của các nhạc sĩ hiện nay cũng được cải thiện đáng kể.
Nhạc sĩ Huỳnh Tuấn, một gương mặt trẻ có ngón đàn kìm được xem là hay nhất của làng cổ nhạc hiện nay, cho biết, các show đám cưới, đám hỏi, sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi… cũng nhiều, nếu anh em nhạc sĩ nào không ngại, chấp nhận chạy show, thu nhập cũng khá.
Đồng thời, gần đây, nhu cầu làm đĩa nhạc cổ của các bạn trẻ cũng nhiều nên thu nhập của nhạc sĩ cũng khá hơn. Tuy nhiên, những công việc hiện nay của các nhạc sĩ, nếu nói một cách nào đó thì chủ yếu vì kế sinh nhai là chính.
Nhạc sĩ Quang Dũng chia sẻ, dẫu biết rằng đi đánh đàn cho các đám tiệc tiền cũng rất nhiều, nhưng ngón đàn muốn vững vàng, ngày càng hay hơn thì những nơi này hoàn toàn không phù hợp. Anh cho biết thêm: “Sân khấu ngày xưa có được những danh cầm nổi tiếng, chứ thế hệ nhạc sĩ chúng tôi hiện nay, mỗi khi ai gọi mình là danh cầm đều cảm thấy ái ngại, không dám nhận, bởi danh cầm là phải thường xuyên có được những “sân chơi” – vở diễn để có thể so tài ngón đàn với nhau, nhằm nâng cao tay nghề – ngón đàn tuyệt đỉnh.
Còn giờ đây, sân chơi ấy, biết tìm đâu? Thậm chí, có hôm, trong một số chương trình truyền hình trực tiếp, có chúng tôi ngồi đánh đàn, nhưng một số nghệ sĩ thủ sẵn đĩa, lấy ra hát, không cần đến người đánh đàn. Mặc dù, sau đó chúng tôi cũng được nhận đủ tiền cát-xê, nhưng thú thật, lúc đó, trong mỗi người nhạc sĩ đều có chung cảm giác buồn…”.
Làm sao giữ “ngọc cho nghề”?Trước thực tế trên, vấn đề đang đặt ra là làm sao để các nghệ sĩ, nhạc sĩ cải lương vừa có thu nhập ổn định, nhưng cái chất ngọc tinh túy nhất của nghề luôn được giữ vững, nếu không sân khấu cải lương sẽ ngày càng mai một. Điều này, đòi hỏi phải có sự đồng lòng, chung sức của các nghệ sĩ, nhạc sĩ, đơn vị tổ chức và cả các ngành, các cấp trong việc tăng cường sân khấu sàn diễn, thường xuyên dàn dựng vở diễn mới.
Theo nhạc sĩ Quang Dũng: “Hiện nay, sân khấu cải lương đang quá ít những sàn diễn, hiếm khi có vở diễn mới nên muốn có sự thay đổi nào đó sẽ rất khó…”.
Soạn giả Hoàng Song Việt cho rằng, trong mỗi nghệ sĩ, nhạc sĩ, bên cạnh biểu diễn mưu sinh cũng đều mong mỏi được làm nghề một cách thực thụ để nâng cao tay nghề. Nhưng cơ hội để họ được luyện nghề hãy còn quá hiếm hoi.
Nhạc sĩ Hoàng Thành suy tư: “Một khi sân khấu sàn diễn được chú trọng, được đầu tư, các nghệ sĩ, nhạc sĩ được biểu diễn trong một rạp hát có khán giả, chắc chắn ngón đàn của nhạc sĩ cũng bay bổng, có hồn hơn để nâng giọng ca của nghệ sĩ vút cao hơn, ngọt ngào hơn...”.
Nhạc sĩ Trường Sinh tâm sự: “Bây giờ thời buổi kỹ thuật hiện đại, các nghệ sĩ thường chỉ nhờ cậy chúng tôi làm đĩa nhạc các bài hát sẵn, để khi cần đi hát thì mang theo, chỉ cần bấm nút là hát vừa tiện lợi, lại đỡ tốn nhiều tiền. Có khi 1 bài vọng cổ, được làm nhạc sẵn chỉ có 200.000 đồng, nhưng nghệ sĩ có thể biểu diễn rất nhiều lần, thậm chí còn cho bạn bè mượn hát nữa…
Thử hỏi, khi nhạc sĩ, nghệ sĩ, mạnh ai nấy làm, tiếng đàn, giọng ca không hòa quyện vào nhau, làm sao hay được? Cứ đà này, rồi đây, sân khấu chỉ còn thợ đàn, thợ diễn, chứ hiếm có nghệ sĩ, nhạc sĩ một cách đúng nghĩa…”.
Nhiều nghệ sĩ tâm sự, trong cuộc sống tiền luôn rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả, bởi cái nghề làm ra tiền, chứ tiền khó tạo dựng nên nghề. Cho nên, bên cạnh việc đi show kiếm tiền, ai nấy đều mong muốn có được nhiều đêm diễn phục vụ quảng đại quần chúng. Nếu không, trong đời sống của người nghệ sĩ, chỉ giàu tiền mà nghèo nghề thì thật đáng lo ngại!
Đỗ Hạnh – Hữu Việt
Đời sống nghệ sĩ, nhạc sĩ cải lương ở TPHCM - Nỗi lo nghèo nghề!
Mấy năm gần đây, mặc dù tình hình
sàn diễn cải lương ở TPHCM không còn sôi động như trước, nhưng cuộc
sống của các nghệ sĩ cải lương không vì thế mà giảm theo. Hiện nay, có
không ít nghệ sĩ cải lương đang ăn nên làm ra, thu nhập đều đều mỗi
tháng tệ lắm cũng không dưới 10 triệu đồng. Tuy nhiên, ai cũng thừa nhận
một điều, rằng tiền thì không thiếu, nhưng nghề thì có điều gì đó chưa
ổn.
Chẳng nói đâu xa, một anh chàng chạy xe ôm, sau khi được phát hiện từ cuộc thi Chuông vàng vọng cổ, nhờ có giọng ca hay, được một số chủ doanh nghiệp thích, mỗi khi tổ chức tiệc tùng đều mời anh đến hát vài bản vọng cổ. Khi ra về, anh đều được các chủ doanh nghiệp này bồi dưỡng vài ba triệu đồng. Mỗi tháng, trung bình giọng ca này nhận được 4 – 5 lời mời đi hát như thế nên thu nhập cũng khá ổn định, đời sống được cải thiện thấy rõ.
Với những giọng ca có thâm niên hơn, từng đoạt 1 – 2 giải thưởng, chưa phải là hàng “sao” thì mỗi lần đi show ở các tỉnh, dù diễn trong một chương trình đại nhạc hội hay các hội chợ hàng tiêu dùng, ngoài được lo ăn ở, tiền cát-xê cũng được vài triệu đồng cho một lần biểu diễn 2 bản vọng cổ. Còn đối với các “sao” sân khấu cải lương, tiền cát-xê đi tỉnh hát, mỗi lần cũng được 7 – 8 triệu đồng hoặc hơn 10 triệu đồng/đêm diễn, tùy theo xa – gần và sự “thân quen” của bầu show.
Bên cạnh đó, theo nghệ sĩ T. cho biết, thời gian gần đây, nhiều gia đình yêu thích cải lương mỗi khi tổ chức tiệc tùng hay mời các nghệ sĩ đến góp vui. Mỗi tháng, 1 nghệ sĩ cũng có được cỡ 10 show hoặc 15 – 20 show. Mỗi show, tiền cát-xê của mỗi nghệ sĩ cũng tùy thuộc vào mức độ hay - dở của giọng ca và sự nổi tiếng của từng người.
Trong một lần trò chuyện, đôi nghệ sĩ ưu tú tài danh M. V – L. T. kể, vài năm trở lại đây, cả hai anh chị bỗng dưng… có duyên đi show dự đám cưới của nhiều cô dâu, chú rể ở các tỉnh miền Tây. Thậm chí, nhiều hôm, cả hai anh chị mệt quá hát không nổi, bà con chỉ yêu cầu… có mặt, chụp hình chung cô dâu, chú rể và quan khách là hạnh phúc rồi.
Ngoài ra, theo một số nghệ sĩ cải lương, thời gian qua, lượng Việt kiều về quê làm ăn, thăm gia đình khá nhiều và các Việt kiều cũng thường xuyên mời các nghệ sĩ đến gia đình hát, góp vui. Và đương nhiên, mỗi lần đi hát như vậy, mỗi nghệ sĩ cũng nhận được từ một vài trăm thậm chí cả ngàn đô la.
Với nhiều hình thức hoạt động đi show, biểu diễn như thế, nhìn chung thu nhập, đời sống của các nghệ sĩ cải lương hiện nay khá ổn định. Tuy nhiên, về nghề, về chuyên môn thì đang là một vấn đề nan giải – nỗi buồn không của riêng ai!
Một nhạc sĩ, nếu chịu khó chạy show, trung bình mỗi tháng cũng được từ 7 – 8 triệu đồng trở lên, chưa kể thu nhập từ việc dạy đàn cho các bạn trẻ yêu thích. Chính vì thế, đời sống của các nhạc sĩ hiện nay cũng được cải thiện đáng kể.
Nhạc sĩ Huỳnh Tuấn, một gương mặt trẻ có ngón đàn kìm được xem là hay nhất của làng cổ nhạc hiện nay, cho biết, các show đám cưới, đám hỏi, sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi… cũng nhiều, nếu anh em nhạc sĩ nào không ngại, chấp nhận chạy show, thu nhập cũng khá.
Đồng thời, gần đây, nhu cầu làm đĩa nhạc cổ của các bạn trẻ cũng nhiều nên thu nhập của nhạc sĩ cũng khá hơn. Tuy nhiên, những công việc hiện nay của các nhạc sĩ, nếu nói một cách nào đó thì chủ yếu vì kế sinh nhai là chính.
Nhạc sĩ Quang Dũng chia sẻ, dẫu biết rằng đi đánh đàn cho các đám tiệc tiền cũng rất nhiều, nhưng ngón đàn muốn vững vàng, ngày càng hay hơn thì những nơi này hoàn toàn không phù hợp. Anh cho biết thêm: “Sân khấu ngày xưa có được những danh cầm nổi tiếng, chứ thế hệ nhạc sĩ chúng tôi hiện nay, mỗi khi ai gọi mình là danh cầm đều cảm thấy ái ngại, không dám nhận, bởi danh cầm là phải thường xuyên có được những “sân chơi” – vở diễn để có thể so tài ngón đàn với nhau, nhằm nâng cao tay nghề – ngón đàn tuyệt đỉnh.
Còn giờ đây, sân chơi ấy, biết tìm đâu? Thậm chí, có hôm, trong một số chương trình truyền hình trực tiếp, có chúng tôi ngồi đánh đàn, nhưng một số nghệ sĩ thủ sẵn đĩa, lấy ra hát, không cần đến người đánh đàn. Mặc dù, sau đó chúng tôi cũng được nhận đủ tiền cát-xê, nhưng thú thật, lúc đó, trong mỗi người nhạc sĩ đều có chung cảm giác buồn…”.
Theo nhạc sĩ Quang Dũng: “Hiện nay, sân khấu cải lương đang quá ít những sàn diễn, hiếm khi có vở diễn mới nên muốn có sự thay đổi nào đó sẽ rất khó…”.
Soạn giả Hoàng Song Việt cho rằng, trong mỗi nghệ sĩ, nhạc sĩ, bên cạnh biểu diễn mưu sinh cũng đều mong mỏi được làm nghề một cách thực thụ để nâng cao tay nghề. Nhưng cơ hội để họ được luyện nghề hãy còn quá hiếm hoi.
Nhạc sĩ Hoàng Thành suy tư: “Một khi sân khấu sàn diễn được chú trọng, được đầu tư, các nghệ sĩ, nhạc sĩ được biểu diễn trong một rạp hát có khán giả, chắc chắn ngón đàn của nhạc sĩ cũng bay bổng, có hồn hơn để nâng giọng ca của nghệ sĩ vút cao hơn, ngọt ngào hơn...”.
Nhạc sĩ Trường Sinh tâm sự: “Bây giờ thời buổi kỹ thuật hiện đại, các nghệ sĩ thường chỉ nhờ cậy chúng tôi làm đĩa nhạc các bài hát sẵn, để khi cần đi hát thì mang theo, chỉ cần bấm nút là hát vừa tiện lợi, lại đỡ tốn nhiều tiền. Có khi 1 bài vọng cổ, được làm nhạc sẵn chỉ có 200.000 đồng, nhưng nghệ sĩ có thể biểu diễn rất nhiều lần, thậm chí còn cho bạn bè mượn hát nữa…
Thử hỏi, khi nhạc sĩ, nghệ sĩ, mạnh ai nấy làm, tiếng đàn, giọng ca không hòa quyện vào nhau, làm sao hay được? Cứ đà này, rồi đây, sân khấu chỉ còn thợ đàn, thợ diễn, chứ hiếm có nghệ sĩ, nhạc sĩ một cách đúng nghĩa…”.
Nhiều nghệ sĩ tâm sự, trong cuộc sống tiền luôn rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả, bởi cái nghề làm ra tiền, chứ tiền khó tạo dựng nên nghề. Cho nên, bên cạnh việc đi show kiếm tiền, ai nấy đều mong muốn có được nhiều đêm diễn phục vụ quảng đại quần chúng. Nếu không, trong đời sống của người nghệ sĩ, chỉ giàu tiền mà nghèo nghề thì thật đáng lo ngại!
Đỗ Hạnh – Hữu Việt
Nữ nghệ sĩ Bạch Huệ biểu diễn bản “Dạ cổ hoài lang” với phần đệm đàn của danh cầm Văn Giỏi, nhân kỷ niệm 90 năm bản Dạ cổ hoài lang. |
Nghệ sĩ đắt showNếu như nhìn vào giá tiền cát-xê của nhiều nghệ sĩ cải lương hiện nay thì thấy thu nhập hàng tháng của mỗi nghệ sĩ không phải là thấp. Theo tiết lộ của vài nghệ sĩ cải lương, nếu so với các nghệ sĩ ở lĩnh vực kịch nói, thu nhập của họ cao hơn nhiều, hay nói đúng hơn là chỉ thấp hơn… ca sĩ một chút! Với một nghệ sĩ có chất giọng khá, bình quân thu nhập mỗi tháng được mười mấy, hai mươi triệu đồng là bình thường.
Chẳng nói đâu xa, một anh chàng chạy xe ôm, sau khi được phát hiện từ cuộc thi Chuông vàng vọng cổ, nhờ có giọng ca hay, được một số chủ doanh nghiệp thích, mỗi khi tổ chức tiệc tùng đều mời anh đến hát vài bản vọng cổ. Khi ra về, anh đều được các chủ doanh nghiệp này bồi dưỡng vài ba triệu đồng. Mỗi tháng, trung bình giọng ca này nhận được 4 – 5 lời mời đi hát như thế nên thu nhập cũng khá ổn định, đời sống được cải thiện thấy rõ.
Với những giọng ca có thâm niên hơn, từng đoạt 1 – 2 giải thưởng, chưa phải là hàng “sao” thì mỗi lần đi show ở các tỉnh, dù diễn trong một chương trình đại nhạc hội hay các hội chợ hàng tiêu dùng, ngoài được lo ăn ở, tiền cát-xê cũng được vài triệu đồng cho một lần biểu diễn 2 bản vọng cổ. Còn đối với các “sao” sân khấu cải lương, tiền cát-xê đi tỉnh hát, mỗi lần cũng được 7 – 8 triệu đồng hoặc hơn 10 triệu đồng/đêm diễn, tùy theo xa – gần và sự “thân quen” của bầu show.
Bên cạnh đó, theo nghệ sĩ T. cho biết, thời gian gần đây, nhiều gia đình yêu thích cải lương mỗi khi tổ chức tiệc tùng hay mời các nghệ sĩ đến góp vui. Mỗi tháng, 1 nghệ sĩ cũng có được cỡ 10 show hoặc 15 – 20 show. Mỗi show, tiền cát-xê của mỗi nghệ sĩ cũng tùy thuộc vào mức độ hay - dở của giọng ca và sự nổi tiếng của từng người.
Trong một lần trò chuyện, đôi nghệ sĩ ưu tú tài danh M. V – L. T. kể, vài năm trở lại đây, cả hai anh chị bỗng dưng… có duyên đi show dự đám cưới của nhiều cô dâu, chú rể ở các tỉnh miền Tây. Thậm chí, nhiều hôm, cả hai anh chị mệt quá hát không nổi, bà con chỉ yêu cầu… có mặt, chụp hình chung cô dâu, chú rể và quan khách là hạnh phúc rồi.
Ngoài ra, theo một số nghệ sĩ cải lương, thời gian qua, lượng Việt kiều về quê làm ăn, thăm gia đình khá nhiều và các Việt kiều cũng thường xuyên mời các nghệ sĩ đến gia đình hát, góp vui. Và đương nhiên, mỗi lần đi hát như vậy, mỗi nghệ sĩ cũng nhận được từ một vài trăm thậm chí cả ngàn đô la.
Với nhiều hình thức hoạt động đi show, biểu diễn như thế, nhìn chung thu nhập, đời sống của các nghệ sĩ cải lương hiện nay khá ổn định. Tuy nhiên, về nghề, về chuyên môn thì đang là một vấn đề nan giải – nỗi buồn không của riêng ai!
Nhạc sĩ cũng sống khỏeMặc dù thu nhập của các nhạc sĩ cổ nhạc hiện nay không nhiều bằng các nghệ sĩ, nhưng nhìn chung, đều sống được với nghề. Theo nhạc sĩ Hoàng Thành, hiện nay với sự bùng phát của nhiều kênh truyền hình đã góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều nghệ sĩ, nhạc sĩ cổ nhạc.
Một nhạc sĩ, nếu chịu khó chạy show, trung bình mỗi tháng cũng được từ 7 – 8 triệu đồng trở lên, chưa kể thu nhập từ việc dạy đàn cho các bạn trẻ yêu thích. Chính vì thế, đời sống của các nhạc sĩ hiện nay cũng được cải thiện đáng kể.
Nhạc sĩ Huỳnh Tuấn, một gương mặt trẻ có ngón đàn kìm được xem là hay nhất của làng cổ nhạc hiện nay, cho biết, các show đám cưới, đám hỏi, sinh nhật, đầy tháng, thôi nôi… cũng nhiều, nếu anh em nhạc sĩ nào không ngại, chấp nhận chạy show, thu nhập cũng khá.
Đồng thời, gần đây, nhu cầu làm đĩa nhạc cổ của các bạn trẻ cũng nhiều nên thu nhập của nhạc sĩ cũng khá hơn. Tuy nhiên, những công việc hiện nay của các nhạc sĩ, nếu nói một cách nào đó thì chủ yếu vì kế sinh nhai là chính.
Nhạc sĩ Quang Dũng chia sẻ, dẫu biết rằng đi đánh đàn cho các đám tiệc tiền cũng rất nhiều, nhưng ngón đàn muốn vững vàng, ngày càng hay hơn thì những nơi này hoàn toàn không phù hợp. Anh cho biết thêm: “Sân khấu ngày xưa có được những danh cầm nổi tiếng, chứ thế hệ nhạc sĩ chúng tôi hiện nay, mỗi khi ai gọi mình là danh cầm đều cảm thấy ái ngại, không dám nhận, bởi danh cầm là phải thường xuyên có được những “sân chơi” – vở diễn để có thể so tài ngón đàn với nhau, nhằm nâng cao tay nghề – ngón đàn tuyệt đỉnh.
Còn giờ đây, sân chơi ấy, biết tìm đâu? Thậm chí, có hôm, trong một số chương trình truyền hình trực tiếp, có chúng tôi ngồi đánh đàn, nhưng một số nghệ sĩ thủ sẵn đĩa, lấy ra hát, không cần đến người đánh đàn. Mặc dù, sau đó chúng tôi cũng được nhận đủ tiền cát-xê, nhưng thú thật, lúc đó, trong mỗi người nhạc sĩ đều có chung cảm giác buồn…”.
Làm sao giữ “ngọc cho nghề”?Trước thực tế trên, vấn đề đang đặt ra là làm sao để các nghệ sĩ, nhạc sĩ cải lương vừa có thu nhập ổn định, nhưng cái chất ngọc tinh túy nhất của nghề luôn được giữ vững, nếu không sân khấu cải lương sẽ ngày càng mai một. Điều này, đòi hỏi phải có sự đồng lòng, chung sức của các nghệ sĩ, nhạc sĩ, đơn vị tổ chức và cả các ngành, các cấp trong việc tăng cường sân khấu sàn diễn, thường xuyên dàn dựng vở diễn mới.
Theo nhạc sĩ Quang Dũng: “Hiện nay, sân khấu cải lương đang quá ít những sàn diễn, hiếm khi có vở diễn mới nên muốn có sự thay đổi nào đó sẽ rất khó…”.
Soạn giả Hoàng Song Việt cho rằng, trong mỗi nghệ sĩ, nhạc sĩ, bên cạnh biểu diễn mưu sinh cũng đều mong mỏi được làm nghề một cách thực thụ để nâng cao tay nghề. Nhưng cơ hội để họ được luyện nghề hãy còn quá hiếm hoi.
Nhạc sĩ Hoàng Thành suy tư: “Một khi sân khấu sàn diễn được chú trọng, được đầu tư, các nghệ sĩ, nhạc sĩ được biểu diễn trong một rạp hát có khán giả, chắc chắn ngón đàn của nhạc sĩ cũng bay bổng, có hồn hơn để nâng giọng ca của nghệ sĩ vút cao hơn, ngọt ngào hơn...”.
Nhạc sĩ Trường Sinh tâm sự: “Bây giờ thời buổi kỹ thuật hiện đại, các nghệ sĩ thường chỉ nhờ cậy chúng tôi làm đĩa nhạc các bài hát sẵn, để khi cần đi hát thì mang theo, chỉ cần bấm nút là hát vừa tiện lợi, lại đỡ tốn nhiều tiền. Có khi 1 bài vọng cổ, được làm nhạc sẵn chỉ có 200.000 đồng, nhưng nghệ sĩ có thể biểu diễn rất nhiều lần, thậm chí còn cho bạn bè mượn hát nữa…
Thử hỏi, khi nhạc sĩ, nghệ sĩ, mạnh ai nấy làm, tiếng đàn, giọng ca không hòa quyện vào nhau, làm sao hay được? Cứ đà này, rồi đây, sân khấu chỉ còn thợ đàn, thợ diễn, chứ hiếm có nghệ sĩ, nhạc sĩ một cách đúng nghĩa…”.
Nhiều nghệ sĩ tâm sự, trong cuộc sống tiền luôn rất quan trọng, nhưng không phải là tất cả, bởi cái nghề làm ra tiền, chứ tiền khó tạo dựng nên nghề. Cho nên, bên cạnh việc đi show kiếm tiền, ai nấy đều mong muốn có được nhiều đêm diễn phục vụ quảng đại quần chúng. Nếu không, trong đời sống của người nghệ sĩ, chỉ giàu tiền mà nghèo nghề thì thật đáng lo ngại!
Đỗ Hạnh – Hữu Việt
Sân khấu cải lương và đời sống của nghệ sĩ đều khó khăn
VOV.VN - Hiện nay mặc dù các bên đã rất cố gắng, nhưng sân khấu cải
lương vẫn thiếu sức sống, đời sống của các nghệ sĩ theo bộ môn này còn
rất khó khăn.
Nhân kỷ niệm 100 năm sân khấu cải lương
(1918-2018), sáng nay (7/12), Hội Sân khấu TPHCM phối hợp với Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia TPHCM tổ chức tọa đàm
khoa học “Theo dòng lịch sử sân khấu cải lương”. Tại đây, nhiều nhà
nghiên cứu, nghệ sĩ cải lương cho rằng, bộ môn nghệ thuật truyền thống
này cần có nhiều chính sách thiết thực, đồng bộ hơn để tồn tại và phát
triển trong giai đoạn hiện nay.
Cải lương là một loại hình nghệ thuật
sân khấu hình thành và phát triển trên vùng đất Nam Bộ. Trong quyển “Hồi
ký 50 năm mê hát”, học giả Vương Hồng Sển cho rằng, cải lương chính
thức đến với công chúng Nam Bộ vào ngày 16/11/1918 khi vở “Gia Long tẩu
quốc” được trình diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn. Từ đó đến nay, cải lương
đã trải qua 100 năm lịch sử và trở thành một loại hình nghệ thuật sân
khấu gắn bó mật thiết vời đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ nói
riêng, cả nước nói chung.
Giai đoạn 1955-1975 được giới sân khấu
coi là thời kỳ hoàng kim của cải lương với sự xuất hiện của rất nhiều
tác giả giỏi, kịch bản tốt, những gánh hát nổi tiếng với đông đảo nghệ
sĩ tài năng. Đây cũng là giai đoạn mà sân khấu cải lương thu hút được
rất nhiều soạn giả, nghệ sĩ trẻ đam mê cống hiến và thành danh. Tuy
nhiên, sau thập niện 50, 60, nghệ thuật cải lương rơi vào giai đoạn khó
khăn khi có thời kỳ 100 người đầu tư cho các gánh hát thì đến 98, 99
người trắng tay. Sự xuất hiện của đa dạng loại hình văn hóa trong giai
đoạn thoái trào khiến cải lương mất dần chỗ đứng trong đời sống tinh
thần của đông đảo người dân.
Tại tọa đàm, nhiều đại biểu thẳng thắn
cho rằng, trong giai đoạn hiện nay mặc dù các bên đã rất cố gắng, nhưng
sân khấu cải lương vẫn thiếu sức sống, đời sống của các nghệ sĩ theo bộ
môn này còn rất khó khăn. Sân khấu không sáng đèn, nghệ sĩ phải hát tại
những địa điểm không phù hợp với bộ môn này để có chi phí trang trải
cuộc sống nếu muốn bám nghề. Giới trẻ mất dần sự quan tâm với cải lương
khi ngày càng hiếm những kịch bản cải lương chất lượng trong giai đoạn
hiện nay.
Vì vậy, để khôi phục lại sức sống mạnh
mẽ của nghệ thuật cải lương, bên cạnh việc đổi mới loại hình, phong
cách, nội dung biểu diễn, cần có những chính sách tầm vĩ mô mới có thể
giải quyết những bất cập đang tồn tại hiện nay. Theo Tiến sĩ Mai Mỹ
Duyên, giảng viên khoa Văn hóa học, Trường Đại học Trà Vinh, cần có
những giải pháp đồng bộ tập trung kết nối lĩnh vực văn hóa với giáo dục
để tạo nền móng vững chắc trong giới trẻ với bộ môn cải lương.
TS Mai Mỹ Duyên nói: “Giải
pháp của những giải pháp chính là giải pháp quản lý. Chỉ khi nào các
giải pháp này được giải quyết thì các chính sách về giáo dục, văn hóa,
truyền thông mới đồng bộ được. Nếu như có một giải pháp đồng bộ như thế
thì nhạc cải lương, nhạc tài tử phải đưa vào dạy từ tiểu học vì nền tảng
của kịch hát là phải hiểu âm nhạc trước. Đây là điều rất đáng suy
nghĩ.”./.
Giá trị nhân văn và nghệ thuật của cải lương tuồng cổ
Chương
trình “Dòng nghề tâm sử” được NSND Thanh Tòng thực hiện vào năm 2009
khái quát quá trình hình thành, phát triển nghệ thuật cải lương tuồng cổ
và sự đóng góp của đại gia tộc Bầu Thắng - Minh Tơ cho sân khấu cải
lương. (Ảnh: Ngọc Tuyết)
(Thanhuytphcm.vn)
- Trong dòng chảy lịch sử nghệ thuật dân tộc thì nghệ thuật Cải lương
là viên ngọc quý, đầy sức sống của sự sáng tạo. Nhờ khả năng dung nạp,
chọn lọc tinh hoa nghệ thuật trong, ngoài nước nên từ khi ra đời, nghệ
thuật Cải lương đã luôn mới mẻ và hấp dẫn. Các nghệ nhân tiền bối liên
tục bồi đắp sáng tạo, làm cho nghệ thuật Cải lương theo thời gian phát
triển đa dạng, phong phú, trong đó có nghệ thuật Cải lương Tuồng cổ.
Giá trị truyền nghề - Giá trị nhân văn
Tại
TPHCM, có 2 dòng tộc theo trường phái Tuồng cổ, đó là đại gia đình Vĩnh
Xuân, Bầu Thắng - Minh Tơ - Thanh Tòng(1) và Huỳnh Long(2). Theo thời
gian, bộ môn nghệ thuật này phát triển mạnh cả về số lượng lẫn chất
lượng với các chi tộc gia đình, không chỉ có diễn viên, nhạc sĩ, nhạc
công, mà còn nhiều người chọn nghề may phục trang, làm đạo cụ tuồng cổ,
mũ mão, hài,...
NSND
Thanh Tòng được mệnh danh là vị “Thống soái” của nghệ thuật Cải lương
Tuồng cổ thuộc thế hệ thứ tư trong đại gia đình hoạt động nghệ thuật Hát
bội từ đầu thế kỷ XX. Chính NSND Thanh Tòng và người chú ruột - nhạc sĩ
Đức Phú là người có công đầu, công lớn xây chiếc cầu nối giữa xưa -
sau, là nhân tố quyết định làm nên cuộc “lột xác” từ Cải lương pha Hát
bội - Cải lương Hồ Quảng để diện mạo Cải lương Tuồng cổ Việt Nam dần
được lộ diện và đường hoàng rực rỡ trong dòng chảy của nghệ thuật Cải
lương.
Sau
năm 1975, nghệ sĩ Thanh Tòng vừa là nghệ sĩ biểu diễn, vừa cầm bút sáng
tác và cũng là một nhà sư phạm trên sàn diễn - người truyền nghề tâm
huyết cho thế hệ sau. Cho nên bên cạnh và sau ông có một lớp nghệ sĩ
giỏi nghề, cùng ông đồng tâm hiệp lực viết nên Trang nghề mới: nghệ
thuật Cải lương Tuồng cổ, đó là: Ngọc Đáng, Hữu Lợi, Xuân Yến, Hữu Cảnh,
Trường Sơn, Thanh Loan, Thanh Thế, Bửu Truyện, Bạch Lê, Bạch Long,
Thanh Bạch, Đức Lợi, Bạch Mai, Thùy Dương, Điền Thanh, Vũ Linh, Phượng
Mai, Tài Linh, Thanh Sơn, Minh Tâm, Kim Tử Long,...
Tuồng
tích của sân khấu cải lương Tuồng cổ hầu hết mang tính giáo dục cao, đề
cập đến các câu chuyện về hiếu, trung, tín, lễ, tiết, nghĩa; đưa ra
những bài học giúp con người hướng thiện.
Năm
1990, NS Bạch Long thành lập đoàn Đồng ấu Bạch Long, gồm: Quế Trân (con
của NS Thanh Tòng); Tú Sương, Lê Thanh Thảo (con của NS Trường Sơn - NS
Thanh Loan); Trinh Trinh, Xuân Trúc (con của NS Xuân Yến - NS Hữu
Cảnh); Chinh Nhân, Bình Tinh (con của NS Đức Lợi - NS Bạch Mai); Linh Tý
(con của NS Linh Tâm - NS Cẩm Thu); Chấn Cường,... Các diễn viên nhí
được NS Bạch Long thị phạm từng nhân vật cụ thể, chỉ dẫn cách ca ngâm,
hóa trang, vũ đạo và diễn xuất trong các vở tuồng do anh biên soạn và
dàn dựng như: Cóc kiện trời, Con ngựa và củ cải khỏng lồ, Cầu vòng và đàn thỏ, Trần Quốc Toản ra quân,... Trong khoảng 10 năm, đoàn Đồng ấu Bạch Long đã thu hút một số nghệ sĩ trang lứa, như Vũ Luân,... tiếp tục biểu diễn các vở Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Bao Công vô lò gạch, Xử bá đao Từ Hải Thọ, Thanh xà - Bạch xà,...
Và chỉ trong 10 năm, một đội ngũ nghệ sĩ trẻ, giỏi nghề Cải lương Tuồng
cổ đã định danh, như: Quế Trân, Tú Sương, Trinh Trinh, Vũ Luân, Bình
Tinh, Chinh Nhân, Lê Thanh Thảo, Tâm Tâm, Thy Trang,... Từ “lò” đào tạo
bằng phương pháp truyền nghề này, hầu hết các diễn viên đều đạt giải
thưởng cao ở các kỳ Liên hoan, Hội diễn Sân khấu Cải lương chuyên nghiệp
toàn quốc và đoạt các giải thưởng chuyên môn như Giải thưởng Trần Hữu
Trang. Trong số đó, 3 nghệ sĩ Quế Trân, Tú Sương và Vũ Luân đã đạt danh
hiệu Nghệ sĩ ưu tú, chứng thực giá trị của việc đào tạo theo phương pháp
truyền nghề.
Hiện
nay, dòng tộc này đã xuất hiện thế hệ thứ sáu, con của các nữ diễn viên
Trinh Trinh, Tú Sương, Thanh Thảo,... đó là các bé Tú Quyên, Hồng
Quyên, Minh Khang (cháu nội của NSND Thanh Tòng) đang chập chững những
bước đầu tiên tiếp nối cha mẹ, gia tộc.
Các
thành viên trong gia đình Bầu Thắng - Minh Tơ - Thanh Tòng tiếp tục giữ
gìn và phát huy nghệ thuật cải lương tuồng cổ. (Ảnh: Ngọc Tuyết)
Dòng
tộc Bầu Thắng - Minh Tơ còn có nhiều tài hoa nổi trội khác, như: NS
Minh Tâm tiếp nối công việc của người chú - nhạc sĩ Đức Phú, trở thành
người viết nhạc cho hầu hết các vở cải lương tuồng cổ; NS Thanh Sơn -
giảng viên dạy vũ đạo cho sinh viên Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh,
là cố vấn vũ đạo, người dàn dựng những màn vũ đạo đẹp mắt của nhiều đơn
vị nghệ thuật, đoàn làm phim, các chương trình game show Tài tử tranh
tài, Cười xuyên Việt,... ; NS Công Minh là một tên tuổi trong giới thiết
kế phục trang, đặc biệt là những bộ cổ trang tỉ mỉ, công phu với độ
chính xác cao về bối cảnh, tính cách nhân vật; NS Bạch Long tham gia đào
tạo nhiều lớp diễn viên nhí cho các đơn vị nghệ thuật, các câu lạc bộ,
nhà văn hóa về diễn xuất, vũ đạo Tuồng cổ;...
Giá trị nghệ thuật
Sau
1975, nếu như các nghệ sĩ kịch nói, cải lương hòa nhập nhanh vào đời
sống xã hội và hoạt động sân khấu trong hoàn cảnh đất nước thống nhất,
thì đội ngũ nghệ sĩ Cải lương Hồ Quảng loay hoay, gần như bế tắc, vì các
tích tuồng Tàu, vũ đạo, âm nhạc,... không phù hợp để tiếp tục trình
diễn. Rất nhiều nghệ sĩ hoạt động trong trường phái này phải làm nghề
khác sinh sống. Vượt lên những mặc cảm về một “sân khấu ngoại lai”, NS
Thanh Tòng lắng nghe nhiều góp ý, vừa tiếp thu, vừa nhìn lại. Khi nhận
thức được vai trò của người nghệ sĩ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là
trọng trách, cần loại bỏ các yếu tố vay mượn trong điệu thức âm nhạc, vũ
đạo Hồ Quảng, nói khác đi, phải Việt hóa hoàn toàn từ kịch bản, âm
nhạc, vũ đạo,... NS Thanh Tòng bắt tay nghiên cứu sâu hơn các trình thức
vũ đạo hát bội, các thế võ Việt, các điệu Lý, Dân ca để chọn lọc, thử
nghiệm đưa lên sân khấu; tận dụng giai điệu ngọt ngào của các bài Lý dân
gian Việt Nam như Lý Cái Mơn, Lý Chuồn chuồn, Lý Chiều chiều, Lý Cây bông, Lý Mù sương, Lý Con sáo, Trăng thu Dạ khúc,... đưa vào bài bản cải lương thành cổ kim hòa điệu, sử dụng nhuần nhuyễn vào các lớp diễn phù hợp.
Cố
NSND Thanh Tòng và con gái là NSƯT Quế Trân biểu diễn giao lưu cùng các
nghệ sĩ sân khấu cổ truyền Nhật Bản. (Ảnh: Thanh Hiệp)
Khi
tham gia Hội diễn sân khấu cải lương chuyên nghiệp năm 1980 với vở Dưới
cờ Tây Sơn, Đoàn nghệ thuật Tuồng cổ Minh Tơ lần đầu tiên có cơ hội
trình diễn trước hàng trăm đồng nghiệp cả nước với phong cách mới. Đoàn
đã được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt, được giới chuyên môn cả nước
đánh giá cao. Sau đó, nhiều vở diễn đề tài lịch sử Việt Nam ra đời,
khẳng định thế mạnh của Đoàn Minh Tơ ở thể loại Tuồng cổ, như: Dựng
cờ cứu nước, Câu thơ yên ngựa, Giai nhân và Dũng tướng, Ngọn lửa Thăng
Long, Bảo táp Nguyên phong, Tô hiến Thành xử án, Má hồng soi kiếm bạc,
Bức ngôn đồ Đại Việt,... với nhiều bài bản tân nhạc được sáng tác
hoàn toàn mới trên nền nhạc Bolero, Dân ca,… qua đó xây dựng hình tượng
nghệ thuật - các nhân vật lịch sử mang tính giáo dục cao như Lý Thường
Kiệt, Tô Hiến Thành, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Huệ, Phạm Cự Chích,... góp
phần hiệu quả trong định hướng thẩm mỹ hưởng thụ nghệ thuật sân khấu,
tạo nên sắc thái độc đáo riêng của nghệ thuật Tuồng cổ, với các trình
thức vũ đạo đẹp mắt, diễn xuất đặc tả nội tâm nhân vật. Đó là sự phát
triển, thành quả đáng ghi nhận của Cải lương Tuồng cổ về mặt biên kịch,
âm nhạc, dàn dựng, vũ đạo.
Đáng
tiếc, cho tới nay, những tìm tòi, sáng tạo của NSND Thanh Tòng, nhạc sĩ
Đức Phú, NS Bạch Long, nhạc sĩ Minh Tâm… về nghệ thuật biên kịch, vũ
đạo, âm nhạc, những bài ca mới sáng tác, trang phục sân khấu tuồng cổ,
đạo cụ,... vẫn chưa có công trình nào ghi lại một cách bài bản, chỉn
chu, có hệ thống về mặt học thuật, lý luận và phương pháp luận để làm cơ
sở minh chứng cho cuộc “lột xác” từ Cải lương Hồ Quảng sang Cải lương
Tuồng cổ Việt Nam.
Dương Thị Liên Chi_______
Dương Thị Liên Chi_______
(1)
Cố tổ của dòng tộc này là ông bà bầu Vĩnh Xuân (gánh Hát bội Vĩnh Xuân
Ban), ông nội của NS Thanh Tòng là bầu Thắng, trong 8 người con, có 5
người theo nghề hát được cha dạy nghề, uốn nắn từ nhỏ: Minh Tơ, Khánh
Hồng, Đức Phú, Huỳnh Mai (vợ của NSND Thành Tôn) và Bạch Cúc. Họ là
những đào kép hát tài danh ở lĩnh vực sân khấu Hát bội. Năm 1924, bầu
Thắng đưa gánh hát về Đình Cầu Quan biểu diễn Hát bội thường trực.
Nghệ
sĩ Minh Tơ và vợ là nghệ sĩ Bảy Sự có 9 người con đều làm theo nghề:
Xuân Yến, Thanh Tòng, Thanh Loan, Minh Tâm, Công Minh, Xuân Thu, Thanh
Sơn, Tuấn Minh, Quế Phương.
(2)
Khởi đầu là bầu Ngọc Huỳnh - Ngọc Hương. Lớp kế thừa có nghệ sĩ Bạch
Mai, Thanh Bạch, Hữu Tánh, Đức Lợi, Minh Long, Trung Ảnh, Kim Phượng,
Bạch Nga, Thanh Châu, Bạch Lan, Chinh Nhân, Bình Tinh,... một số nghệ sĩ
xuất thân hoặc từng cộng tác với đoàn có Vũ Linh, Kim Tử Long, Minh
Hùng, Kiều Minh Trang, Bo Bo Hoàng, Bửu Truyện, Thanh Thế, Minh Tuấn,
Minh Thông, Hữu Lợi, Dạ Châu, Minh Chí, Xuân Lan…
Nói chung, chính sách dã man, tàn bạo cướp của, giết người, bỏ tù nhân dân, nhất là kinh tế XHCN làm cho đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân phải khốn khổ do đó Cải Lương bị tàn lụi. Mẫu mực văn hóa của cộng sản là Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy chỉ làm thui chột văn hóa Việt Nam.
SơnTrung
Ottawa ngày 27-VI-2019
Cải lương đến nay đã không còn thịnh hành như những năm 80 đổ về của Thế kỉ trước. Tuy nhiên, vẫn có những con người ngày đêm truyền thụ tinh hoa cho thế trẻ với mong muốn giữ lửa Cải lương.
ReplyDeleteCùng nhìn lại những con người đã đi cùng Cải lương từ những bước đầu tiên như: NS Minh Vương, NS Bạch Long, NS Bạch tuyết... và thưởng thức lại giọng ca bất hủ của họ qua những vở Cải lương đặc sắc nhất tại: https://cailuongtheatre.vn/ - Website chính thức của Nhà hát Cải lương Việt nam