Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Saturday 29 June 2019

SƠN TRUNG * NÔNG DÂN VÀ RUỘNG ĐỒNG

 Image result for người nông dân đi cày


NÔNG DÂN VÀ RUỘNG ĐỒNG
SƠN TRUNG


 Xã hội Việt Nam có 4 giai cấp:sĩ nông công thương. Có người muốn chia năm:sĩ nông,công, thương , binh.
Người nông dân tự hào là đã cung cấp lương thực cho toàn dân, và họ cho là họ cao hơn đám sĩ phu:
"Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ!" 
Đó cũng là khuynh hướng trọng nông  từ mấy thế kỷ trước . Khuynh hướng trọng nông cho là nông gia quan trọng nhất.

Chủ nghĩa trọng nông hay trường phái trọng nông là một trong những trường phái kinh tế tiêu biểu, cho rằng nguồn gốc thuần túy của sự giàu có của mỗi quốc gia là từ sản xuất nông nghiệp hay các dạng phát triển đất đai khác.
Các nhà kinh tế học theo chủ nghĩa trọng nông sử dụng thuật ngữ tiếng Pháp laissez faire với nghĩa: chỉ có giá trị nông nghiệp là dạng hợp pháp của thu nhập quốc dân. Học thuyết này đã hình thành ở Đức, Ba Lan, Thụy Sĩ và nhiều nước khác, tuy nhiên chỉ ở Pháp nó mới phát triển nhất và trở thành một trường phái hoàn chỉnh, phổ biến nhất trong nửa sau của thế kỷ 18. Người đầu tiên mở ra học thuyết này là François Quesnay (1694–1774)[1], và những đại biểu có ảnh hưởng lớn trong trường phái này là Victor de Mirabeau (1715-1789), Pierre Samuel du Pont de Nemours (1739-1817), Anne-Robert-Jacques Turgot (1727–1781). Đây là một trong những tư tưởng kinh tế tiền thân của trường phái kinh tế học hiện đại đầu tiên - trường phái kinh tế học cổ điển, ra đời với tác phẩm The Wealth of Nations (Sự giàu có của các quốc gia) của Adam Smith năm 1776.
Đóng góp đáng kể nhất của những nhà kinh tế học theo trường phái trọng nông là tạo nên một hệ tư tưởng về sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khác với trường phái ra đời sớm hơn - trường phái trọng thương, trong đó cho rằng sự giàu có gắn liền với tích lũy vàng hay kết quả khả quan của cán cân thương mại, trường phái trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực giao thương sang lĩnh vực sản xuất, đặt nền móng cho phân tích khoa học vấn đề tái sản xuất và phân phối xã hội. Điểm yếu cơ bản của chủ nghĩa trọng nông, theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, là chỉ coi lao động nông nghiệp là có giá trị. Các nhà kinh tế học trọng nông nhìn nhận sản xuất hàng hóadịch vụ như là sự tiêu thụ các giá trị thặng dư trong nông nghiệp, trong khi các nhà kinh tế học hiện đại lại coi chúng là hoạt động sản xuất tăng thêm giá trị thu nhập quốc gia.

Hoàn cảnh ra đời

François Quesnay, đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa trọng nông.
Từ thế kỉ 18, khi các nước tư bản chủ nghĩa đang lần lượt ra đời và phát triển như một hệ thống thế giới về mặt kinh tế, thì tư tưởng kinh tế của trường phái trọng thương không còn phù hợp về mặt lý luận trong hoàn cảnh phát triển của tư bản chủ nghĩa. Lúc này các công trường thủ công ngày càng được mở rộng, đòi hỏi phải có những lý thuyết kinh tế mới về tổ chức sản xuất nhằm đạt được những năng suất lao động xã hội cao hơn.

Nội dung cơ bản

Chủ nghĩa trọng nông phê phán gay gắt những tư tưởng kinh tế phiến diện của trường phái trọng thương, cho rằng không phải "phi thương bất phú", với lý do: hoạt động thương nghiệp chỉ là hoạt động phục vụ tiêu dùng chứ không làm tăng thêm giá trị, nghĩa là không đem lại giàu có cho xã hội. Vì vậy trường phái trọng nông cho rằng phi nông mới là bất phú, vì chính ngành nông nghiệp trực tiếp sản xuất ra lương thực, thực phẩm - của cải vật chất chính yếu - nguồn gốc của sự giàu có.
Phần quan trọng của học thuyết này là tư tưởng rằng Nhà nước không nên can thiệp của vào quá trình kinh tế. Nhà nước chỉ đặt ra các điều luật cần thiết phù hợp với "quy luật tự nhiên" và sau đó các chức năng của Nhà nước sẽ phai mờ dần.
Chủ nghĩa trọng nông là tư tưởng kinh tế đầu tiên đề ra quy luật "sự giảm dần sản phẩm đất đai", theo đó, sự tăng thêm lao động vào đất sẽ dẫn đến một giới hạn mà sau đó là sự giảm dần năng suất lao động. Đó là cơ sở của quy luật năng suất biên giảm dần, phổ biến trong các học thuyết kinh tế hiện đại.
Trường phái trọng nông đã nêu ra những ý tưởng về việc phát triển ngành kinh tế nông nghiệp phải có sự quan tâm của nhà nước để họ yên tâm làm ăn trên đồng ruộng và có tích luỹ đầu tư cho phát triển nông nghiệp, đồng thời cũng nêu nên vấn đề thay đổi hoạt động cá thể riêng lẻ trong làm ăn nông nghiệp bằng việc tập trung đất đai để xây dựng thành các đồn điền, đưa nông nghiệp đi vào làm ăn lớn để chuyển từ nông nghiệp tiểu nông mang tính chất phong kiến sang nền nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa để có năng suất lao động nông nghiệp ngày càng cao, lương thực thực phẩm ngày càng sản xuất ra được nhiều hơn, đem lại sự giàu có cho đất nước.

Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển thì chủ nghĩa Trọng Thương lấn áp chủ nghĩa trọng nông vì chủ nghĩa tư bản chú trọng thương mại.Chủ nghĩa tư bản đi đôi với chủ nghĩa thực dân đế quốc,. Họ chiếm thuộc địa, chiếm tài sản thuộc địa và bắt thuộc địa cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa.
Tư bản là khủng hoảng thừa còn cộng sản là khủng hoảng thiếu vì trong chế độ cộng sản dân chúng và nhà nước sống trong nghèo nàn và lạc hậu.
Cộng sản huyênh hoang xoá bỏ giai cấp, làm cho đất nước thịnh vượng và thế giới không còn ngăn cách và hết chiến tranh! Thực ra, cộng sản là tay gây chiến vì mộng tưởng của họ là giải phóng thế giới!Bao giờ cộng sản giải phóng Mỹ, Pháp và Đức? Phải vài thế kỷ mà chưa chắc là được nhưng trong vài thế kỷ đó nhân loại sống trong "chiến tranh giải phóng" của cộng sản. Ở Việt Nam, "Giải phóng Miền Nam "là một điển hình cho việc cộng sản bành trướng và gây chiến tranh làm cho nhân dân chết chóc, nghèo nàn và khổ sở:
"Giặc từ Miền Băc vô đây,
Bàn tay nhuốm máu đồng bào"

"Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá
Từ giải phóng vô đây ta ăn độn dài dài
Từ giải phóng vô đây ta ăn độn nhiều hơn…
"

Cộng sản nói chia ruộng đất cho dân cày nhưng chỉ đưọc vài ngày cho dân mừng trong thuật bánh vẽ của cộng sản, sau đó vài tháng hay vài năm,  thì  đất đó thành đất HTX, và nông dân trở thành nông nô cho chủ nhân Cộng sản. 
Trong chế độ cộng sản, bọn đầu gấu ở trung ương và địa phương là sung sướng. Chúng được chia chác quyền lợi:

Tôn Đản là chợ vua quan

Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần

Đồng Xuân là chợ thương nhân

Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.

Còn nông dân phải đóng thuế nông nghiệp và nhiều khoản khác
Tuỳ theo đất tốt xấu, trung bình nông dân phải đóng thuế nông nghiệp từ 7% đến 37%


THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 715-TTg
Hà Nội, ngày 24 tháng 03 năm 1956 
ĐIỀU LỆ
THUẾ NÔNG NGHIỆP ÁP DỤNG Ở NHỮNG NƠI ĐÃ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
Chương 1:
NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. Điều lệ này ban hành căn cứ vào tình hình nông thôn sau cải cách ruộng đất nhằm đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, giảm nhẹ đóng góp cho nông dân; đồng thời bảo đảm cung cấp cho nhu cầu Nhà nước. Theo điều lệ này, cách tính thuế cũng được đơn giản.
Điều 2. Thuế nông nghiệp là thứ duy nhất đánh vào hoa lợi ruộng đất và do Chính phủ trung ương quy định. Ngoài thuế nông nghiệp, địa phương không được tự động đặt ra một thứ đóng góp nào khác.
Điều 3. Thuế nông nghiệp đánh vào tổng số hoa lợi ruộng đất của mỗi nông hộ và căn cứ vào hoa lợi bình quân mỗi nhân khẩu nông nghiệp trong nông hộ mà tính thuế theo biểu thuế lũy tiến toàn ngạch.
Nông hộ là một đơn vị sản xuất nông nghiệp gồm những người làm chung, hưởng chung hoa lợi.
Nhân khẩu nông nghiệp là những người lấy hoa lợi nông nghiệp làm nguồn sống chính, không phân biệt gái, trai, già, trẻ.
Phàm đất đai có hoa lợi nông nghiệp thì người được hưởng hoa lợi phải đóng thuế, trừ những trường hợp miễn thuế quy định dưới đây.
Điều 4. Những đất đai dưới đây được miễn thuế hẳn:
- Đất đai chưa khai khẩn.
- Ruộng đất bỏ hoang có lý do chính đáng (nếu vì lười biếng mà bỏ hoang thì không được miễn).
- Vườn ươm giống, trạm thí nghiệm về nông nghiệp và lâm nghiệp của Nhà nước.
- Bãi cát, đồi trọc trồng cây gây rừng để ngăn gió, ngăn nước.
- Bãi cỏ chăn nuôi, ruộng đất do người chủ dùng vào việc làm gạch, làm ngói, làm đồ gốm, đúc khuôn, sân thể thao, thể dục, nghĩa địa.
- Ruộng đất do các nhà thương, trường học, nhà nuôi trẻ, trại an dưỡng, trại cải hối cày cấy để cải thiện sinh hoạt.
- Diện tích ruộng đất đào giếng, đào mương để chống hạn.
- Đất đai ở các đô thị đã chịu thuế thổ trạch.
- Đất ở gồm nền nhà, sân phơi, đường đi (đất chung quanh nhà nếu dưới 100m2 thì miễn thuế, nếu rộng quá 100m2 thì được miễn thuế 100m2).
- Ruộng chuyên để gieo mạ, thường năm không giồng cây.
- Những đất đai khác được Chính phủ đặc biệt miễn thuế.
Điều 5. Những đất đai dưới đây được miễn thuế trong một thời hạn:
- Đất hoang mở khai khẩn, được miễn thuế 5 năm, kể từ năm khai khẩn.
- Ruộng đất bỏ hoang từ 2 vụ trở lên mới phục hồi được miễn thuế 3 năm.
Chương 2:
CÁCH TÍNH HOA LỢI NÔNG NGHIỆP
Điều 6. Hoa lợi ruộng đất để tính thuế là sản lượng bình thường hàng năm (gọi tắt là sản lượng thường năm) của ruộng đất theo lề lối canh tác thông thường ở mỗi địa phương, không kể những năm được mùa hay mất mùa. Nếu do chăm bón kỹ hơn, trồng cấy thêm vụ, trồng những thứ cây có lợi nhiều thì dù thu hoạch có nhiều hơn sản lượng thường năm, thuế vẫn chỉ tính theo sản lượng thường năm.
Điều 7. Sản lượng thường năm của ruộng đất tính bằng thóc; sản lượng các thứ hoa màu lương thực (ngô, khoai, sắn) đều quy ra thóc.
Đối với đất trồng các thứ hoa màu khác (bông, lạc, đỗ, mía, v.v…) nếu nguyên là ruộng cấy lúa thì định sản lượng theo ruộng cấy lúa, nếu nguyên là đất trồng màu thì định sản lượng theo đất trồng ngô, khoai, sắn.
Điều 8. Đối với đất chuyên trồng rau, trồng hoa ở ngoại ô các thành phố, vì thu hoạch nhiều hơn ruộng đất trồng lúa và trồng các thứ hoa màu khác nên sản lượng phải định cao hơn nhưng cao nhất không quá hai lần sản lượng ruộng đất hạng nhất trong xã.
Điều 9. Sản lượng thường năm, sau khi Ủy ban hành chính tỉnh đã xét duyệt sẽ tuyên bố ổn định trong thời hạn 3 năm.
Điều 10. Nếu nhân dân tự làm lấy những công trình thủy lợi để làm cho thu hoạch tăng thì trong 5 năm thuế không tăng.
Nếu Chính phủ và nhân dân cùng làm thì trong 3 năm không tăng thuế. Nếu Chính phủ làm thì trong một năm không tăng thuế.
(Trường hợp phục hồi hay tu bổ những công trình thủy lợi cũ thì không áp dụng điều 10 này).
Điều 11. Đối với những loại cây lưu niên (chè, sơn, hồi, chẩu, cà phê, cau, cam, chuối, quýt, nhãn, vải,v.v…), có tính chất sản vật đặc biệt của từng địa phương thì hoa lợi không gộp vào hoa lợi ruộng đất để tính thuế theo thuế biểu chung mà tính thuế riêng. Thuế đánh vào số thu hoạch thực tế từng năm, thuế suất là 7%.
Việc quy định vùng nào có sản vật đặc biệt do Ủy ban hành chính tỉnh đề nghị, Ủy ban hành chính khu quyết định.
Ngoài những vùng đã quy định là có sản vật đặc biệt thì đất trồng những loại cây trên vẫn tính sản lượng thường năm theo ruộng đất chung quanh và gộp với hoa lợi ruộng đất để tính thuế theo biểu thuế chung.
Đối với những hồ ao chuyên trồng rau, thả sen hay thả cá, thì định sản lượng ruộng đất mà tính thuế theo thuế biểu chung.
Những hồ ao chủ yếu dùng để trữ nước chống hạn hay ruộng đất rửa ráy và những hồ ao thả bèo làm phân bón hay thả rau để chăn nuôi súc vật thì miễn thuế.
Điều 13. Mỗi người chỉ được tính nhân khẩu nông nghiệp một lần ở một nơi.
Khi tính nhân khẩu nông nghiệp thì tính số người hiện có trong nông hộ lúc kê khai.
Những người ở thuê không tính nhân khẩu nông nghiệp ở nhà chủ mà tính nhân khẩu nông nghiệp ở nhà mình.
Những nông hộ nhận nuôi những người tàn tật, những người cô đơn không có nơi nương tựa thì được tính những người đó vào nhân khẩu nông nghiệp của nông hộ mình.
Điều 15. Đối với những gia đình có một nghề khác làm nguồn sống chính, đồng thời có làm thêm ruộng thì chỉ những người thực sự làm ruộng mới được tính nhân khẩu nông nghiệp.
Đối với những nông hộ vừa làm ruộng, vừa làm muối thì cứ 500 m2 ruộng muối coi như có một người chuyên sống về nghề làm muối và không tính vào nhân khẩu nông nghiệp.
Cán bộ, công nhân viên được hưởng lương, học sinh các trường học được Chính phủ đài thọ hoàn toàn, không được tính nhân khẩu nông nghiệp.
Tù nhân đã thành án, sống trong trại cải hối, không được tính nhân khẩu nông nghiệp, nếu chưa thành án thì vẫn được tính.
- Bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương tại ngũ (nữ quân nhân có chồng muốn tính nhân khẩu nông nghiệp ở nhà chồng hay nhà bố mẹ đẻ thì tùy ý).
- Thương bệnh binh ở trại an dưỡng, thương binh chuyển sang công tác ở các ngành khác.
- Những người đã hy sinh vì cách mạng kể từ năm 1930, những người đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ kháng chiến.
- Bộ đội chuyển ngành được tính nhân khẩu nông nghiệp trong 2 năm, kể từ khi rời hàng ngũ bộ đội.
Chương 4:
BIỂU THUẾ, CÁCH TÍNH THUẾ
Điều 17. Biểu thuế nông nghiệp, gồm cả chính tang và phụ thu, ấn định như sau:
BẬC
HOA LỢI BÌNH QUÂN MỘT NHÂN KHẨU NÔNG NGHIỆP
THUẾ SUẤT CẢ CHÍNH TANG VÀ PHỤ THU
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
Từ 60 ki-lô trở xuống
Từ trên 60 ki-lô đến 80 ki-lô
- 80 - - 100 -
- 100 - - 140 -
- 140 - - 180 -
- 180 - - 220 -
- 220 - - 260 -
- 260 - - 300 -
- 300 - - 340 -
- 340 - - 380 -
- 380 - - 420 -
- 420 - - 460 -
- 460 - - 500 -
- 500 - - 540 -
- 540 - - 580 -
- 580 - - 620 -
- 620 - - 660 -
- 660 - - 700 -
- 700 - - 740 -
- 740 - - 780 -
- 780 - - 820 -
- 820 - - 860 -
- 860 - ­- 900 -
- 900 - - 940 -
- 940 - - 980 -
- 980 - -1020 -
- 1020 - -1060 -
Từ trên 1060 trở lên
Miễn thuế
7 %
8 -
9 -
10 -
11 -
12 -
13 -
14 -
15 -
16 -
17 -
18 -
19 -
20 -
21 -
22 -
23 -
24 -
25 -
26 -
27 -
28 -
29 -
31 -
33 -
35 -
37 -
Điều 18. Trường hợp phát canh và lĩnh canh thì người chủ ruộng và người cày cấy cùng chịu thuế




NGHỊ ĐỊNH

Quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất Nông nghiệp


CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Căn cứ Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10 tháng 7 năm 1993;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
NGHỊ ĐỊNH:
 
CHƯƠNG I
PHẠM VI ÁP DỤNG THUẾ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Điều 1. Tổ chức, cá nhân sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp (gọi chung là hộ nộp thuế) gồm:
1. Các hộ gia đình nông dân, hộ tư nhân và cá nhân;
2. Các tổ chức, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất dành cho nhu cầu công ích của xã;
3. Các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản bao gồm nông trường, lâm trường, xí nghiệp, trạm trại và các doanh nghiệp khác, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức xã hội và các đơn vị khác sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Điều 2. Đất chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp gồm:
1. Đất trồng trọt là đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất trồng cỏ.
Đất trồng cây hàng năm là đất trồng các loại cây có thời gian sinh trưởng (từ khi trồng đến khi thu hoạch) không quá 365 ngày như lúa, ngô, rau, lạc... hoặc cây trồng một lần cho thu hoạch một vài năm nhưng không trải qua thời kỳ xây dựng cơ bản như mía, chuối, cói, gai, sả, dứa (thơm)..
Đất trồng cây lâu năm là đất trồng các loại cây có chu kỳ sinh trưởng trên 365 ngày, trồng một lần nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm và phải trải qua một thời kỳ xây dựng cơ bản mới cho thu hoạch như cao su, chè, cà phê, cam, quýt, nhãn, cọ, dừa...
Đất trồng cỏ là đất đã có chủ sử dụng vào việc trồng cỏ để chăn nuôi gia súc.
2. Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là đất đã có chủ sử dụng chuyên nuôi trồng thuỷ sản hoặc vừa nuôi trồng thuỷ sản vừa trồng trọt, nhưng về cơ bản không sử dụng vào các mục đích khác.
3. Đất trồng là đất đã được trồng rừng và đã giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, chăm sóc và khai thác, không bao gồm đất đồi núi trọc.
Trong trường hợp không sử dụng đất thuộc diện chịu thuế theo quy định tại điều này chủ sử dụng đất vẫn phải nộp thuế theo quy định của Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 3. Những loại đất không chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp bao gồm:
1. Đất rừng tự nhiên;
2. Đất đồng cỏ tự nhiên chưa giao cho tổ chức, cá nhân nào sử dụng;
3. Đất để ở, đất xây dựng công trình thuộc diện chịu thuế nhà đất;
4. Đất làm giao thông, thuỷ lợi dùng chung cho cánh đồng;
5. Đất chuyên dùng theo quy định tại Điều 62 của Luật đất đai là đất được xác định sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và làm nhà ở;
6. Đất do Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê theo quy định tại Điều 29 của Luật đất đai.
Điều 4. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng có sử dụng đất nông nghiệp, các Bên Việt Nam được phép dùng quyền sử dụng đất nông nghiệp đưa vào góp vốn không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp nhưng phải trả tiền thuê đất theo quy định tại Điều 79 Nghị định số 18-CP ngày 16-4-1993 của Chính phủ.
 
CHƯƠNG II
CĂN CỨ TÍNH THUẾ VÀ BIỂU THUẾ
Điều 5. căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp là diện tích, hạng đất và định suất thuế tính bằng kilôgam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.
Điều 6. Diện tích thuế được quy định như sau:
1. Diện tích tính thuế của từng hộ nộp thuế là diện tích đất thực tế sử dụng được ghi trong sổ địa chính Nhà nước hoặc kết quả đo đạc gần nhất được cơ quan quản lý ruộng đất có thẩm quyền xác nhận theo quy định tại Điều 14 của Luật đất đai. Trường hợp địa phương chưa lập sổ địa chính và số liệu đo đạc chưa chính xác, chưa có xác nhận của cơ quan quản lý ruộng đất có thẩm quyền, thì diện tích tính thuế là diện tích đất ghi trong tờ khai của hộ nộp thuế.
Trong trường hợp đặc biệt ở những nơi chưa làm kịp việc giao đất theo Nghị định số 64-CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất thực hiện giao khoán cho các hộ gia đình nông dân và hộ cá nhân diện tích tính thuế của mỗi hộ do hộ tự kê khai và có xác nhận của người đứng đầu hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất nông nghiệp.
2. Diện tích tính thuế của từng thửa ruộng là diện tích thực sử dụng, được giao cho từng hộ nộp thuế phù hợp với diện tích ghi trong sổ địa chính hoặc trong tờ khai của chủ hộ.
3. Cơ quan quản lý đất đai các cấp trong phạm vi quyền hạn quy định tại Điều 14 của Luật Đất đai, có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế xác định diện tích tính thuế trong địa phương mình.
Điều 7. Việc phân hạng đất tính thuế thực hiện theo quy định tại Nghị định số 73-CP ngày 25-10-1993 của Chính phủ.
Điều 8. Định suất thuế một năm tính bằng kilôgam thóc trên một hécta của từng hạng đất như sau:
1. Đối với đất trồng cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản:
Hạng đất
Định suất thuế ³
1
550
2
460
3
370
4
280
5
180
6
50

³
2. Đối với đất trồng cây lâu năm:
Hạng đất
Định suất thuế ³
1
650 ³
2
550 ³
3
400 ³
4
200 ³
5
80 ³

3. Đối với cây ăn quả lâu năm trồng trên đất trồng cây hàng năm chịu mức thuế như sau:
Bằng 1,3 lần thuế sử dụng đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng 1, hạng 2 và hạng 3;
Bằng thuế đất trồng cây hàng năm cùng hạng, nếu thuộc đất hạng 4, hạng 5 và hạng 6.
4. Đối với đất trồng các loại cây lâu năm thu hoạch một lần chịu mức thuế bằng 4% giá trị sản lượng khai thác.
 
CHƯƠNG III
KÊ KHAI, TÍNH THUẾ VÀ LẬP SỔ THUẾ
Điều 9. Sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp được lập một lần để sử dụng nhiều năm, nếu căn cứ tính thuế có thay đổi thì sổ thuế phải được điều chỉnh lại chậm nhất vào tháng 3 hàng năm. Sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp được lập theo đơn vị hành chính, cụ thể như sau:
1. Hộ nộp thuế chỉ sử dụng đất trong một xã, phường, thị trấn thì lập sổ thuế tại xã, phường, thị trấn.
2. Hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều xã, phường, thị trấn trong một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì lập sổ thuế tại huyện, quận, thị xã, thành phố đó. Nếu hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì lập sổ thuế ở huyện, quận, thị xã... nơi hộ nộp thuế đóng trụ sở chính. Nếu hộ nộp thuế có sử dụng đất ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì đất thuộc huyện, quận, thị xã nào, lập sổ thuế tại huyện, quận, thị xã đó.
3. Chậm nhất đến ngày 30 tháng 11 năm 1993, tất cả các tổ chức, cá nhân đang sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp đều phải lập tờ khai gửi đến Uỷ ban nhân dân (cơ quan thuế), nơi có đất và lập sổ thuế theo quy định tại các khoản 1, 2 điều này.
Khi có sự thay đổi về hộ sử dụng đất hoặc thay đổi về diện tích tính thuế, hộ nộp thuế phải kê khai và gửi đến Uỷ ban nhân dân (cơ quan thuế) nơi lập sổ thuế. Hàng năm, nếu quá ngày 31 tháng 1 mà không kê khai thì cơ quan thuế được quyền ấn định số thuế phải nộp sau khi có ý kiến bằng văn bản của Uỷ ban nhân dân cùng cấp về diện tích và hạng đất tính thuế.
4. Người đứng tên trong sổ thuế là chủ hộ gia đình nông dân, chủ hộ tư nhân, cá nhân hoặc người đứng đầu tổ chức có sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 10. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về việc lập, duyệt và điều chỉnh, bổ sung sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp.
CHƯƠNG IV
THU THUẾ VÀ NỘP THUẾ
Điều 11. Năm thuế sử dụng đất nông nghiệp tính theo năm dương lịch từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12.
Thuế tính cả năm nhưng thu mỗi năm từ 1 đến 2 lần tuỳ theo vụ thu hoạch chính của từng loại cây trồng ở từng địa phương.
Hộ nộp thuế có thể nộp thuế trước khi đến thời hạn thu thuế và ở lần thu thuế đầu tiên có thể nộp hết số thuế phải nộp cả năm.
Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Thuế, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc vụ thu thuế và công bố cho toàn dân biết.
Trong trường hợp đặc biệt ở những nơi mà sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1994 chưa lập xong đã bước vào vụ thu thuế đầu tiên, Bộ Tài chính hướng dẫn việc tạm thu, cuối năm 1994 phải thanh quyết toán theo sổ thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Điều 12. Sổ thuế là căn cứ để làm thông báo thuế và thu, nộp thuế. Thuế sử dụng đất nông nghiệp tính bằng thóc, thu bằng tiền; riêng đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thuế tính theo sản lượng khai thác và theo giá bán thực tế.
1. Giá thóc thu thuế do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định sát giá thị trường và không được thấp hơn 10% so với giá trị thị trường địa phương.
những tỉnh, thành phố, giá thóc giữa các vùng có sự chênh lệch lớn thì giá thóc thu thuế có thể quy định cho từng huyện, quận, thị xã.
Giá trị sản lượng tính thuế của cây lâu năm thu hoạch một lần (gỗ, tre, nứa, song, mây...) tính theo giá bán thực tế của từng loại cây. Trong trường hợp hộ nộp thuế kê khai giá thấp hơn so với giá thực tế, thì tính thuế theo giá do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định.
Sản lượng để xác định giá trị sản lượng tính thuế của các cây lâu năm thu hoạch một lần là sản lượng thu hoạch thực tế.
2. Hộ nộp thuế có trách nhiệm trực tiếp nộp tiền thuế cho Kho bạc Nhà nước theo thông báo của cơ quan thuế. Trong trường hợp cán bộ thuế buộc phải trực tiếp thu tiền thuế, thì 10 ngày một lần cơ quan thuế, cán bộ thuế phải nộp hết số tiền thuế đã thu được cho Kho bạc Nhà nước. Đối với tiền thuế thu được có số lượng lớn, thì phải nộp ngay cho Kho bạc Nhà nước. Nếu cán bộ thuế giữ tiền đã thu quá thời hạn quy định thì bị coi là hành vi xâm tiêu, chiếm dụng tiền thuế.
3. Trong trường hợp đặc biệt việc thu thuế bằng thóc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và chịu trách nhiệm tổ chức thu thuế.
Điều 13. Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập báo cáo quyết toán thuế hàng năm.
 

Cải cách điền địa (Việt Nam Cộng hòa)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướng Bước tới tìm kiếm
Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970
Cải cách điền địa là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình Cải cách nông nghiệpPhát triển nông thônmiền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống phía Nam) từ 1954-1975 sau Hiệp định Genève do phía Việt Nam Cộng hòa lãnh đạo.

Cải cách lần 1 (Thời Đệ nhất Cộng hòa)

Bối cảnh

Trong quá trình chiếm hữu ruộng đất ở Nam bộ thời Pháp thuộc, những quan chức người Việt cộng tác với thực dân Pháp chiếm hữu được nhiều ruộng đất nhất. Tứ đại phú hộ ở Nam Kỳ thời đó đều là quan chức người Việt cộng tác với thực dân Pháp, họ được thực dân Pháp ưu tiên cấp cho những khu đất rộng và tốt nhất, lại được biết những thông tin về việc đào kênh mương nên biết rõ mua đất ở đâu là thuận lợi nhất. Việc phân phối ruộng đất trở nên rất mất bình đẳng. Đến trước năm 1945, giới địa chủ lớn đã chiếm 1.035.000 ha đất canh tác (riêng quan hội đồng Trần Trinh Trạch - cha công tử Bạc Liêu chiếm 145.000 ha); điền chủ người Pháp chiếm 308.000 ha ruộng tốt, gần sông rạch, điền chủ nhỏ từ 10-50 ha chiếm 620.000 ha; quan xã, thôn ấp chiếm 230.000 ha, còn lại hơn 4 triệu nhân khẩu nông dân chỉ chia nhau hơn 500.000 ha[1].
Trước khi đợt cải cách điền địa lần đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm thi hành, tại các vùng Việt Minh kiểm soát ở phía nam vĩ tuyến 17 - rẻo đất Trung Bộ và một số nơi ở đồng bằng sông Cửu Long - Việt Minh đã tịch thu không bồi thường các nông trại trồng lúa của thực dân Pháp và những địa chủ cộng tác với Pháp rồi chia những vùng đất này cho tá điền. Ở hầu hết các vùng còn lại, bao gồm những vùng đã từng thuộc về các giáo phái, những người nông dân cũng tự thực hiện cải cách ruộng đất. Nhiều địa chủ đã bỏ đồng ruộng của mình lên thành phố ở để tránh các cuộc xung đột vũ trang và tìm sự an toàn. Nông dân đã chia nhau những vùng ruộng đất này hoặc ngưng nộp tô cho những thửa ruộng tự canh.[2]
Tính đến thập niên 1950 tại miền Nam Việt Nam thì tình hình sở hữu ruộng đất có rất nhiều chênh lệch: 2,5% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu điền chủ chỉ chia nhau 15%.[3]

Nội dung

Trong hai năm 1955 – 1956, chính phủ Mỹ đã cử một phái đoàn cố vấn do W. Ladejinsky (một chuyên gia về cải cách điền địa đã từng giúp Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách điền địa ở Đài Loan) sang miền Nam Việt Nam giúp chính quyền Việt Nam Cộng hòa soạn thảo chính sách ruộng đất. Báo Công Luận ra ngày 7 tháng 7 năm 1969 cho biết từ năm 1955 đến năm 1960 Mỹ đã viện trợ 12 triệu USD cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa để thực hiện chính sách trên.
Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ:
  • Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng.
  1. Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.
  2. Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.
  • Dụ số 7 (5/2/1955) quy định việc thuê đất phải có khế ước (hợp đồng) tá điền. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm. Khế ước được chia thành ba loại:
  1. Loại A: đối với ruộng đang canh tác có chủ
  2. Loại B: đối với ruộng hoang có chủ
  3. Loại C: đối với ruộng hoang vắng chủ (Hội đồng xã thay mặt chủ đất ký khế ước với nông dân)
  • Dụ số 28 (30/4/1956) quy định quy chế tá điền
  • Dụ số 57 (20/10/1956) quy định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong thời gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế tiếp, người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, mỗi năm lời 5%.
Với chính quyền Ngô Đình Diệm thì thực chất dụ số 2 và dụ số 7 không phải là chính sách mới vì "phần lớn chương trình cải cách điền địa năm 1956 chỉ là sao chép chương trình cải cách trước kia của Bảo Đại".[4]

Thi hành

Miền Nam Việt Nam đã thực hiện chính sách tư hữu hóa ruộng đất cho các tá điền qua công cuộc Cải Cách Điền Địa do Tổng thống Ngô Đình Diệm thực hiện trong những năm 1955-1963. Hai văn bản chủ yếu là Dụ số 2 (thông qua ngày 8 tháng 1 năm 1955) và Dụ số 7 (thông qua ngày 5 tháng 2 năm 1955) quy định chính sách giảm tô, thu hồi ruộng đất bỏ hoang, và bảo đảm hợp đồng cho tá điền.
Từ trước, ở Việt Nam, việc thuê đất không có giấy tờ hợp đồng giữa người thuê mướn và chủ đất. Giá thuê đất từ 40% đến 60%, tùy theo đất tốt xấu, trên số lúa thu hoạch. Dụ số 2 quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng. Từ nay:
  1. Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.
  2. Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.
Dụ số 7 buộc chủ đất phải lập hợp đồng với nông dân. Thời hạn hợp đồng là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm.
Sau khi làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57 ngày 22 tháng 10 năm 1956 ấn định thể thức phân phát đất. Theo đó thì chủ điền chỉ được giữ tối đa là 100 ha, trong đó 30 ha phải trực canh và 70 ha còn lại có thể cho tá điền thuê theo quy chế tá canh. Diện tích quá 100 ha luật pháp quy định phải bán lại cho người không có đất. Tuy theo quy định, mỗi người chỉ được giữ tối đa 100 ha, nhưng một người có thể né tránh quy định này bằng cách chia nhỏ đất của mình cho các thành viên trong gia đình. Tổng cộng là 2.033 điền chủ sở hữu 425.000 ha bị ảnh hưởng. Thêm vào đó là 245.000 ha của 430 điền chủ mang quốc tịch Pháp cũng thuộc vào trường hợp phải nhượng lại cho chính phủ. Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sinh sống nên số đất bỏ hoang tính ra lên đến 1,3 triệu ha.[5] Trong thời gian Chính phủ kiểm kê, nếu chủ đất vẫn vắng mặt, số đất này bị trưng thu để bán cho nông dân.
Chính phủ đề ra bốn diện ưu tiên nhận đất theo thứ tự sau đây:
  1. Người đã tá canh hơn hai năm,
  2. Cựu chiến binh,
  3. Dân di cư
  4. Người thất nghiệp.[5]
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc đó đã bồi thường số đất bị truất hữu (tước quyền sở hữu) cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu hạn 12 năm. Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền chính phủ bồi thường chủ điền. Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%/năm. Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.
Với chương trình cải cách điền địa này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã thu lại và trả cho chủ cũ tất cả các vùng đất của địa chủ mà Việt Minh đã tịch thu không bồi thường chia cho các tá điền, tịch thu và trả lại cho chủ đất cũ những vùng đất bị bỏ lại mà nông dân địa phương đã chiếm, mua lại tất cả tài sản từng thuộc về người Pháp. Những nông dân bị chính phủ thu hồi đất trả cho chủ cũ trở thành người không có đất. Những mảnh đất này sau đó được chính phủ mua rồi bán lại cho nông dân. Rất nhiều đất được bán hoặc cấp cho những người di cư từ miền Bắc thay vì nông dân miền Nam. Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng tham mưu trưởng của chính phủ Ngô Đình Diệm – đồng thời cũng là một địa chủ bị chính quyền truất hữu, đã nói: "Dòng họ nhà Trần chúng tôi có hơn 1.500 ha đất bị truất hữu số đó được chia thành từng lô, mỗi lô 5 ha để bán lại. Nhưng chính phủ lại đem bán cho những người Bắc Việt di cư chứ không phải bán lại cho số 400 tá điền cũ của dòng họ nhà tôi, gốc Nam Bộ"[cần dẫn nguồn]. Những phần đất chưa được chính phủ mua vẫn thuộc các chủ đất cũ người Việt, một số đất thông qua chương trình cải cách điền địa tới tay những người có khả năng mua với tiền trả dần từng năm. Tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố quyết tâm tránh dùng biện pháp mà ông coi là ăn cướp và tra tấn dã man như phong trào Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, ông chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu.[6] Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lãi trong kỳ hạn sáu năm để mua.
Tốc độ thực hiện phân phối lại ruộng đất bằng chương trình Cải cách điền địa khá chậm. Theo Gabriel Kolko, vào năm 1961, khi chương trình này trên thực tế đã chấm dứt. Tổng thống Diệm đã thu được 422.000 ha cộng với ruộng đất của Pháp, thành ra vào khoảng 650.000 ha. Trong số này chỉ 244.000 ha được chia lại sau cuối năm 1958, chủ yếu cho người di cư Thiên Chúa giáo miền Bắc, cựu chiến binh hoặc những người mới tới.[7] Lấy ví dụ tỉnh Long An, trong số khoảng 35.000 hộ nông dân ở Long An phải thuê một phần hoặc toàn bộ đất canh tác, chỉ có 3.613 hộ đủ tiêu chuẩn được mua đất theo Dụ số 57; hơn nữa, thủ tục quá chậm chạp đến nỗi cho đến tận năm 1960, khi chính quyền Long An đã rơi vào hoàn cảnh nguy ngập, mới chỉ có 973 giấy chứng nhận sở hữu đất ruộng được cơ quan Bộ ở Sài Gòn gửi về.[8]
Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, nền chính trị miền Nam bất ổn trong một thời gian. Do đó chính sách Cải cách điền địa của Việt Nam Cộng hoà bị gián đoạn từ năm 1963 đến năm 1967.[9]

Kết quả

Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm đã khôi phục được kiểu sở hữu đất tại đồng bằng Nam Bộ về lại như thời trước chiến tranh khi 2% chủ đất sở hữu 45% đất đai và khoảng một nửa số người cày không có ruộng.[10]
Ngày 30 tháng 6 năm 1959, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long số khế ước tá điền lập được đã lên tới 774.286 ha (Loại A: 576.856 ha, loại B và C: 197.530 ha), liên quan tới khoảng ¾ số tá điền.[11]
Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% đối với mùa gặt chính của ruộng 2 mùa/năm nhưng trong thực tế thì địa chủ bắt ép nông dân nộp tô hơn mức quy định rất nhiều. Mức tô phổ biến trong giai đoạn này là 25% - 40% hoa lợi.[12] Còn theo báo Tự Do (báo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa) số ra ngày 3/3/1961 thừa nhận: "Tuy khế ước quy định tô 15% nhưng thực tế địa chủ đã thu tô 45 – 50% như cũ, những năm mất mùa cũng không được giảm tô".
Theo tạp chí Chấn Hưng Kinh Tế[13] đã thống kê như sau:
  • Diện tích truất hữu (2035 chủ điền) = 430.319 ha (chiếm 94%)
  • Diện tích đã được bồi thường = 340.744 ha
  • Diện tích có đơn xin mua = 297.018 ha
  • Diện tích đã cấp bán (123.193 tá điền) = 345.851 ha
  • Diện tích mua trực tiếp của chủ điền (2857 tá điền) = 6.362 ha
  • Diện tích mua của điền chủ Pháp = 220.842 ha (Thỏa ước Việt-Pháp ngày 10/9/1958)
  • Số tiền bồi thường bằng chi phiếu = 165.497.567 đồng
  • Số tiền bồi thường bằng trái phiếu = 1.195.380.000 đồng
Theo số liệu trên, tính chung cả miền Nam, chính quyền đã thu hồi 430.319 ha và bán lại cho 123.193 nông dân. So với 1 triệu hộ tá điền ở đồng bằng sông Cửu Long thì rõ ràng dụ 57 về cơ bản không ảnh hưởng bao nhiêu.[13]

Đánh giá

Theo quan điểm của Việt Minh, Chương trình cải cách điền địa tước đoạt đất đai của nông dân, khôi phục lại hình thức sở hữu phong kiến, phục hồi giai cấp địa chủ ăn bám, bóc lột nông dân. Đây là thất bại chính trị to lớn của chính phủ Ngô Đình Diệm và cũng là nguyên nhân sâu xa khiến nông dân ủng hộ cuộc kháng chiến của họ.
Theo quan điểm của chính phủ Ngô Đình Diệm, chương trình cải cách điền địa khôi phục quyền tư hữu đất đai của địa chủ đã bị Việt Minh xâm phạm, thiết lập lại trật tự xã hội, vừa tôn trọng quyền lợi của chủ đất vừa giúp nông dân chưa có đất có cơ hội sở hữu một diện tích đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất của họ. Nó còn giúp những chủ đất cũ có một số vốn lớn sau khi bán đất cho nhà nước để đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ, tạo ra sự dịch chuyển trong cơ cấu kinh tế quốc gia theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành còn lại. Tuy nhiên, nhược điểm của Chương trình cải cách điền địa là việc thi hành quá chậm vì nhiều lý do. Chính phủ không đủ ngân sách để mua toàn bộ đất đai vượt quá hạn mức của địa chủ trong thời gian ngắn, các thủ tục hành chính khiến việc bán ruộng cho nông dân chậm trễ, nhiều nông dân không có tiền mua đất. Trong khi đó, các địa chủ lại lách luật bằng cách chia nhỏ đất đai của mình cho các thành viên trong gia đình đứng tên để không phải bán cho nhà nước, nên hiệu quả chẳng còn là bao. Từ năm 1960 đến 1963, khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam gia tăng hoạt động, chương trình cải cách điền địa gần như không thực hiện được do những người cộng sản cấm nông dân mua đất của chính phủ Ngô Đình Diệm. Đến năm 1963, khi Tống thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, nền chính trị miền Nam rơi vào khủng hoảng, chương trình Cải cách điền địa tạm dừng.
Một hạn chế nữa của chương trình là việc chính phủ Ngô Đình Diệm áp dụng chính sách Ấp chiến lược, buộc nông dân phải rời bỏ nhà cửa, vào sống trong các khu ấp bị cách ly với bên ngoài, muốn ra vào phải tuân theo khung giờ và xuất trình giấy tờ. Với việc phải sống trong ấp chiến lược thì dù nông dân có đất canh tác, họ cũng không thể sản xuất một cách thuận lợi (phải đi xa hơn mới tới ruộng, thời gian gieo trồng bị giới hạn, không dễ gặp được lái buôn hoặc họp chợ để mua bán nông sản), nên dù tích góp đủ tiền thì nông dân cũng không mặn mà với việc mua đất.
Hạn chế khác của chương trình Cải cách điền địa là mức giới hạn diện tích sở hữu 100 ha được đánh giá là lớn trong thực tế Việt Nam. Đây là mức cao hơn 30 lần so với các mức giới hạn được đặt ra với mục đích tương tự ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Chính vì thế chỉ khoảng 10% nông dân miền Nam mua được đất từ việc triển khai Dụ số 57.[14]
Theo đánh giá của Kevin Gray (Đại học Sussex), chính sách đất đai của Việt Minh (và sau này là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam) là chống lại di sản của thực dân Pháp, cùng với tinh thần dân tộc đã giúp họ có được sự hỗ trợ mạnh của nông dân. Những chính sách của Ngô Đình Diệm với vấn đề đất đai thì lại nửa vời, ông ta đã kế thừa các di sản của thực dân Pháp hơn là đưa ra những cải cách. Chính sách của ông ta đã khôi phục mối quan hệ địa chủ - tá điền với hàng trăm ngàn gia đình ở các khu vực trước đây do Việt Minh kiểm soát. Sự thất bại của cuộc cải cách do cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong khi bản thân Diệm không phải là địa chủ lớn, phần lớn sự hỗ trợ của ông ta nằm ở các chuyên gia và các quan chức, những người có gia đình đã chiếm giữ những vị trí quan trọng từ các cơ quan chính phủ xuống cấp tỉnh và làng. Do đó, những người chịu trách nhiệm thi hành cải cách điền địa cũng sẽ là những người dễ bị mất nhiều tài sản nhất nếu nó được thi hành rốt ráo. Các quan chức Hoa Kỳ cũng không chú trọng nhiều đến những bất bình đẳng, họ không muốn thừa nhận rằng chính sách của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã thành công trong việc mang lại lợi ích kinh tế và xã hội cho hàng triệu nông dân. Thay vào đó, họ thích dùng các giải pháp kỹ thuật hoặc quan liêu cho vấn đề bất ổn ở nông thôn. Do đó, chính phủ Diệm đã chọn những giải pháp mà không động đến quyền lực của tầng lớp địa chủ. Ví dụ, ông ta đưa ra một "Chiến dịch Hành động Công dân", theo đó sẽ cử cán bộ xuống sống ở các thôn bản để thúc đẩy sự ủng hộ với chính phủ. Tuy nhiên, nhiều người trong số này là những người Công giáo từ miền Trung và miền Bắc Việt Nam, họ có những khác biệt lớn về văn hoá so với cộng đồng địa phương, do đó đã phá hoại mục đích của chương trình. Nạn tham nhũng và một chiến dịch chống cộng mạnh mẽ đã dẫn đến việc ngược đãi những người vô tội và kích động sự thù địch hơn nữa đối với chế độ Ngô Đình Diệm[15].
Joseph A. Amter nhận xét[16]:
Ở nông thôn, Diệm hoàn toàn triệt bỏ chính sách ruộng đất được lòng dân của Việt Minh trước đây. Năm 1954, sau khi đánh bại người Pháp, những người Cộng sản đã lấy tất cả đất đai đã được giải phóng chia cho nông dân. Tác động của cử chỉ đó rất sôi nổi. Như một chiến sĩ du kích đã thừa nhận: “bọn chúng không hiểu được người nông dân cùng khổ như thế nào. Khi kháng chiến giải quyết vấn đề ruộng đất thì ở nông thôn có hạnh phúc và nổi dậy mạnh mẽ. Ý nghĩa cụ thể của nền độc lập là bảo vệ ruộng đất”. Rồi thình lình đúng vào lúc người nông dân nghĩ rằng ruộng đất là của họ, thì Diệm nhảy ra sân khấu và dùng sức mạnh giật lấy ruộng đất của họ. Tệ hơn nữa là ông ta chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho bạn bè của ông ta là những địa chủ vắng mặt đến sống ở Sài Gòn. Đáng ra được làm chủ một mảnh đất nhỏ, mỗi một nông dân lại trở thành một tá điền lần nữa, chịu những thuế mới cho chính phủ Diệm và cho giai cấp có đặc quyền đặc lợi
Theo quan sát của một số học giả, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm đề ra đã bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 2% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu nông chỉ nắm giữ 15%,[3] khoảng một nửa số người cày không có ruộng.[2] Hạn mức đất được quy định rất lớn (100 hecta), nên hiếm có địa chủ nào phải trả lại đất, số đất thu được cũng chủ yếu là chia cho người Thiên Chúa giáo di cư vào từ miền Bắc.[7] Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm cho miễn thuế và hạn mức. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp thuế đất cho quân đội. Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% nhưng trong thực tế thì mức nộp tô phổ biến là 40% hoa lợi[12] Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.[17]
Vì những hạn chế này nên Việt Nam Cộng hòa phải tiếp tục thực hiện Cải cách điền địa đợt hai bằng Luật "Người Cày Có Ruộng" vào năm 1970.

Cải cách lần 2 (Thời Đệ Nhị Cộng hòa)

Bối cảnh

Ngày 8/10/1965, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, tướng Nguyễn Văn Thiệu ký Sắc Luật 020/65 để sửa đổi Dụ 57, "cấp quyền sở hữu thiệt thọ cho nông dân mua ruộng truất hữu". Đúng một năm sau, ông ký Sắc Luật số 021/66 "cấp quyền thực trưng vô thường trên những sở đất thuộc công sản Quốc gia tại các Dinh điền và Trại định cư cho những người đang thực sự khai khẩn"[18].
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 buộc Mỹ phải xuống thang và chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vì một vùng nông thôn rộng lớn đã ở dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nên Mỹ và Việt Nam Cộng hòa càng chú ý đến việc giành lại đất đai ở nông thôn. Trong chương trình nghị sự giữa Richard NixonNguyễn Văn Thiệu thời Đệ Nhị Cộng hòa tại đảo Midway tháng 6 năm 1969, vấn đề nông thôn và cải cách điền địa đã được ghi lên hàng đầu. Nixon hứa sẽ viện trợ 40 triệu USD cho chương trình cải cách điền địa này.[19]
Tháng 1/1967, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị chọn An Giang làm nơi thí điểm. Kinh nghiệm An Giang được áp dụng vào hai tỉnh Chương Thiện và Kiến Tường rồi lan ra những tỉnh khác.[18]
Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật để quốc hội thảo luận, trong đó việc rút bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 haNam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80 vạn nông dân.[20] Tháng 9/1967, Hạ viện thông qua sau đó Ủy ban Canh Nông Thượng viện xem xét và tu sửa lại. Cuối cùng cả lưỡng viện đều thống nhất chuẩn y chính sách Người cày có ruộng[18].
Ngày 9 tháng 9 năm 1969, thì Nixon phái Richard I. Hogh, một chuyên gia về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người Việt và Mỹ sang Sài Gòn trực tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa. Ngoài 40 triệu Mỹ kim (tương đương 11 tỷ đồng Việt Nam Cộng hòa) bỏ ra thì chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa còn bỏ ra 178 triệu đồng để chi cho việc soạn thảo luật "Người Cày Có Ruộng".
Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1970, sau một thời gian tranh luận khá gay go trong Quốc hội vì nhiều dân biểu là địa chủ không muốn bị truất hữu, cuối cùng thì đạo luật được Thượng viện thông qua ngày 6 tháng 3 năm 1970 và Hạ viện chung quyết ngày 16 tháng 3 năm 1970. Ngày 26 tháng 3 năm 1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký tại Cần Thơ sắc lệnh số 003/60 ban hành luật "Người Cày Có Ruộng". Ông nói: "Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi."[21] Ngày ban hành luật "Người Cày Có Ruộng" được coi là ngày nghỉ lễ toàn quốc.[22]

Nội dung

Luật quy định ruộng đất không trực canh (không do địa chủ canh tác) đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thỏa đáng theo thời giá. Chính phủ sẽ phát hành công khố phiếu để chi trả những khoản này. Chủ đất được bồi thường 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu trả 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc từ khoảnh đất đó.[23]
Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát miễn phí cho tá điền (3 ha ở Nam phần và 1 ha ở Cao nguyên, duyên hải Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa 15 ha ở Nam Phần hay 5 ha ở Trung Phần.[24] Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân. Mục tiêu của việc cải cách này là cấp miễn phí 1,5 triệu hecta ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân, đồng thời cấp giấy chứng nhận sở hữu ruộng đất cho nông dân. Người nhận đất theo quy định chương trình Người cày có ruộng thì không được sang nhượng hay bán lại thửa đất đó trong vòng 15 năm.[25]
Ngoài ra chính sách ruộng đất còn có ba điểm mới đem vào thực hành:
  • Địa chủ không có quyền bắt tá điền nộp địa tô thuộc những năm trước.
  • Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp cũng được miễn thuế trong một thời gian.
  • Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp sẽ được nhận bằng khoán để chính thức sở hữu số ruộng đó.
Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền.[18][26] Chương trình đã hủy bỏ được quy chế tá điền tồn tại nhiều thế kỷ[18].

Thi hành

Người Mỹ ủng hộ việc cải cách điền địa của Việt Nam Cộng hòa. Cơ quan viện trợ Mỹ USAID là nguồn hỗ trợ một phần tài chính và kỹ thuật cho chương trình này[18].
Đối với luật "Người Cày Có Ruộng", Tổng thống Thiệu cho lập ra nhiều Ủy ban cải cách điền địa từ huyện đến xã. Các ủy ban này có nhiệm vụ kê khai ruộng đất canh tác của nông dân, ruộng đất thuộc sở hữu của địa chủ. Căn cứ vào số liệu do các Ủy ban Cải cách Điền địa thu thập được, Việt Nam Cộng hòa cấp chứng khoán để xác nhận quyền sở hữu ruộng đất của nông dân. Những ai không kê khai ruộng đất hoặc không nhận chứng khoán thì ruộng đất sẽ bị tịch thu và xem như có hành động ngăn cản việc thi hành người cày có ruộng. Những hành động này sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm và phạt tiền từ 20.000 đến 200.000 đồng (Điều 17, chương 5 luật "Người Cày Có Ruộng").
Cùng với việc cải cách điền địa, Việt Nam Cộng hòa cũng thực hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn như phổ biến giống lúa mới IR-8 (lúa Thần nông) được Viện Nghiên cứu Lúa Gạo Quốc tế (International Rice Research Institute - IRRI) ở Phi Luật Tân phát minh. Đồng thời Việt Nam Cộng hòa cũng thành lập một số ngân hàng phát triển nông thôn như năm 1967 thành lập Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp (Agricultural Development Bank of Vietnam - ADBV) thay Quốc gia Nông Tín Cuộc, năm 1969 thành lập Ngân hàng Nông thôn.[18]

Kết quả

Ở miền Nam, trong đợt 1, đất đai của địa chủ được chính phủ thu mua giá cả sòng phẳng rồi bán trả góp 12 năm cho dân nghèo. Trong đợt 2, đại địa chủ chỉ được giữ tối đa 15 ha nếu trực canh, sau năm 1973 đã chấm dứt nạn tá canh làm thuê ruộng của chủ điền vì nông dân đã được cấp, bán trả góp. Ở miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá sạch. Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng để gia tăng năng suất. Sau khi hoàn tất chương trình "Người Cày Có Ruộng" trong những năm 1970-1973, Việt Nam Cộng hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hóa và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở miền Nam Việt Nam.
Ba năm sau khi triển khai chương trình này, tổng cộng có 75 vạn hộ gia đình, gồm khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất.[27] Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác. Số người nông dân giàu có này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do. Sau khi Việt Nam Cộng hòa hoàn tất chương trình "Người Cày Có Ruộng" thì không còn thành phần đại địa chủ ở miền Nam Việt Nam. Trong ba năm 1970-1973, kết quả của chương trình "Người Cày Có Ruộng" là đã chấm dứt chế độ tá canh ở miền Nam Việt Nam khi tá điền trở thành điền chủ.
Người ta cho rằng "Chương trình Người Cày Có Ruộng" đền bù cho chủ đất thì lợi cho chủ đất còn thực tế đất của địa chủ vào tay cộng sản từ lâu!
Năm 1960 đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam Cộng hoà, với 340.000 tấn gạo được xuất cảng. Từ năm đó, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh, ruộng đất thiếu người cày, xuất cảng gạo xuống dần, và tới năm 1962, còn 85 ngàn tấn. Từ năm 1965, đã có lúc phải nhập cảng gạo có năm lên tới 760.000 tấn. Nhờ những chính sách phát triển nông thôn, từ năm 1970, sản xuất lúa gạo tại miền Nam đã tăng trưởng. Thêm vào đó là nhờ tiến bộ kỹ thuật: loại lúa giống IR-8 phát xuất ở Philippines được đem vào đồng bằng Cửu Long, nhờ phát triển nhanh và tốt, còn được gọi là "lúa Thần nông". Đến năm 1971 thì lúa Thần nông đã phủ được trên 2,6 triệu ha ruộng, bằng 42% diện tích canh tác.
Thực tế, lúa Thần Nông cũng có hại. Thóc thi nhiều vì năng suất cao nhưng phải bón thuốc trừ sâu nên nông dân mất tôm cá!
Kết quả chương trình "Người Cày Có Ruộng" theo số liệu của Tổng nha Điền Địa (tính đến ngày 15/7/1974):[28]
  • Toàn miền Nam cấp phát = 1.290.949 ha
  • Đồng bằng sông Cửu Long = 1.154.371 ha (ruộng tư 1.099.382 ha; ruộng công 54.989 ha)
  • Chứng thư cấp đất = 693.258 chứng thư
  • Số tiền bồi thường = 151 tỷ đồng (số liệu 26/4/1974)
Luật "Người Cày Có Ruộng" không hề đụng chạm đến ruộng đất của tôn giáo nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo còn sở hữu rất nhiều ruộng đất. Phật giáo, Hòa HảoCao Đài còn chiếm không đáng kể, nhưng đáng chú ý nhất là sự sở hữu lớn của các nhà thờ Thiên chúa giáo. Nhà thờ Cầu Ngang (huyện Tiểu Cần, Cửu Long) sở hữu 529 ha, nhà thờ Bãi Sang (huyện Càng Long, Cửu Long) sở hữu 432 ha, nhà thờ Bình Hạnh Đông (huyện Phú Tân, An Giang) sở hữu 570 ha. Ở tỉnh Long Châu Hà cũ, trong tổng số ruộng đất canh tác của tỉnh, tôn giáo chiếm 5% (7.848 ha) trong đó Thiên chúa giáo chiếm 7205 ha.[21]

Đánh giá

Báo chí Hoa Kỳ hết lời ca ngợi chương trình "Người Cày Có Ruộng"; tờ Washington Evening Star gọi đó là "Tin tức tốt đẹp nhất đến từ Việt Nam kể từ khi kết thúc sự chiếm đóng của người Nhật."[21] Còn tờ The New York Times cho rằng "Có lẽ đây là cuộc cải cách ruộng đất không cộng sản mang nhiều tham vọng và tiến bộ nhất của thể kỷ 20."[21]
Theo ông Nguyễn Tiến Hưng trong sách Khi đồng minh tháo chạy: "Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình "Người Cày Có Ruộng" là một trong những chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ Nhị Cộng hòa".[29] Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng, đời sống của nông dân nhờ đó mà được cải thiện.[27]
Tuy nhiên, báo Chính Luận Sài Gòn (ngày 23 tháng 2 năm 1971) đưa tin: Ngày 22 tháng 2 năm 1971, sau gần một năm luật "Người Cày Có Ruộng" được ban hành, dân biểu Trần Văn Quá, chủ tịch ủy ban canh nông của thượng viện đã tiết lộ: "Hầu hết số ruộng này đã được Việt Cộng cấp không cho nông dân từ mấy năm trước, nay luật "Người Cày Có Ruộng" xem như hợp thức hoá tình trạng đó". Như vậy, chương trình "Người Cày Có Ruộng" thực ra không hẳn là một chính sách mới, mà đó là việc ngầm công nhận kết quả cuộc cải cách ruộng đất do Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam thực hiện, tránh làm mất lòng người dân (nếu thu lại đất giống như "Cải cách điền địa" mà Ngô Đình Diệm từng làm thì đa số người dân nông thôn sẽ rất tức giận, và càng khiến đối phương có thêm sự ủng hộ).

Quốc gia:
1.Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.
2. Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm.
Cộng sản: Từ 7% đến 37%
Rõ là cộng sản bóc lột hơn phú nông, địa chủ!
Trong Cộng sản có tay tài giỏi đã nghĩ ra cách cứu dân và cứu đảng. 
Hồi trước, muốn triệt hạ địa chủ, phú nông và trung nông, cộng sản bày ra cách bình nghị.Họ không đo dạc ruộng đất , mà xui bần nông đứng ra bình nghị. Ông A có ba mẫu ruộng, chúng nói dựng đứng 5 mẫu, ba mẫu ruộng đó sản lượng 10 tạ thoc chúng nói 15-20 tạ thóc. Thế là trung nông cũng phải è cổ ra đóng thuế nông nghiệp.
Tay cộng sản này bày ra 5%  đất cho tư nhân nên dân chúng không quan tâm đến Hợp Tác Xã mà chỉ lo vun xới mấy mét đất tư ấy mà sống!

 Image result for con công

No comments:

Post a Comment