Vài nét Lịch sử
Hai
tiếng "Cải lương" có nghĩa là "Sửa đổi cho tốt hơn".
Từ xưa ở Việt Nam không có lối
diễn tuồng nào khác hơn là hát Chèo hay hát Tuồng (ở Bắc Phần) và hát bội (ở Trung và Nam Phần). Ðến 1917, khi cải lương
ra đời, người mình nhận thấy điệu
hát này có thể tân tiến hơn điệu hát bội, nên cho đó
là một việc cải thiện điệu hát xưa
cho tốt hơn. Vì lẽ ấy người mình dùng hai tiếng
"Cải lương" để đặt tên cho điệu hát mới mẻ
này.
Trước
kia ở rải rác trong các tỉnh Nam Phần
(Nam bộ) có những ban tài tử đờn ca trong các
cuộc lễ tư gia, tân hôn, thăng quan, giỗ,... Nhưng
không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công
chúng. Qua năm 1910, ở Mỹ Tho có ban tài tử của
Nguyễn Tống Triều, tục gọi Tư Triều gồm
bản thân Tư Triều (chơi đờn kìm), Chín Quán (đờn độc
huyền), Mười Lý (thổi tiêu), Bảy
Vô (đờn cò),Cô Hai Nhiễu (đờn tranh) và Cô Ba Ðắc
(ca). Ban tài tử này đờn ca rất hay vì phần đông đã
được chọn đi trình bày cổ nhạc Việt
Nam tại cuộc triển lãm ở Pháp mới về.
Năm
1911, Nguyễn Tống Triều muốn đưa ca nhạc ra trước
công chúng, nên thương lượng với chủ
nhà hàng "Minh Tân khách sạn" ở ngang ga xe lửa Mỹ
Tho – Sài Gòn để ban tài tử đờn ca giúp vui cho thực
khách. Người đến nghe ngày càng đông. Nhận thấy sáng
kiến này có kết quả khả quan, Thầy Hộ,
chủ rạp hát bóng Casino, phía sau chợ Mỹ Tho,
muốn cho rạp hát mình đông khán giả bèn mới ban tài
tử đến trình diễn mỗi tối thứ bảy và thứ tư
trên sân khấu và đã được công chúng hoan
nghênh nhiệt liệt.
Sân khấu thời bấy giờ cũng
được dàn dựng rất đơn giản. Cái màn bạc
dùng làm bối cảnh (fond), kế đó có lót một bộ
ván, trước bộ ván có để một cái bàn chưn cheo. Hai
bên sân khấu có để cây kiểng. Các tài tử đều
ngồi trên bộ ván và mặc quốc phục xem thật
nghiêm trang.
Sáng kiến đưa đờn
ca tài tử lên sân khấu của Tư Triều
từ năm 1912 tại Mỹ Tho đã lan tràn đến Sài Gòn và
nhiều tỉnh ở Nam Phần. Năm 1913 – 1914, chủ nhà hàng ở
sau chợ Mới, Sài Gòn, là "Cửu long giang"
nghe danh tiếng ban tài tử nên đã xuống tận
nơi để mời về. Ông Năm Tú là người có công nhất trong
việc gây dựng lối hát Cải lương buổi
ban đầu. Ông mướn thợ vẽ tranh cảnh phỏng theo
lối trang trí rạp hát Tây Sài Gòn. Ông mua sắm y phục
cho đào kép khá chu đáo và nhờ nhà văn Trương
Duy Toản soạn tuồng.
Ông
cất một cái rạp hát rộng lớn và đẹp đẽ gần chợ
Mỹ Tho để cho ban ca kịch của ông trình
diễn. Ðiệu hát cải lương chính thức hình thành từ đó
và ngày càng phát triển mạnh, nhiều Ban được thành
lập.
Có thể nói, sân khấu cải
lương là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh
xã hội Việt Nam, chính xác hơn là xã hội Nam bộ
lúc bấy giờ. Chính vì vậy nó trưởng thành rất mau.
Vài ba năm đầu thập kỷ 20, nó còn đang chập chững
những bước đầu tiên. Năm 1931 nó đã
chính thức được giới thiệu ở ngoài nước với danh
nghĩa một loại hình nghệ thuật hiện
đại ngang hàng tuồng chèo đã có nhiều thế kỷ lịch
sử. Nó ra đời thu hút được đông đảo khán giả
và hát bội chịu phần thua kém. Từ Nam Kỳ
nó Bắc tiến và tuồng, chèo dần dần nhường bước. Trong
hơn nửa thế kỷ, sân khấu cải lương
vượt xa các loại hình sân khấu khác về thế mạnh, có
thời kỳ nó giữ địa vị độc tôn, thu hút khán giả
nhiều hơn các loại sân khấu khác, chỉ kém có
điện ảnh.
Tìm về nơi
đầu nguồn của sân khấu cải lương, người
ta gặp những sự kiện xã hội, lịch sử sau đây:
Nam Bộ, xứ Nam kỳ cũ, vốn có một phong trào ca nhạc
tài tử. Nó là sự phát triển của phong trào đàn
cây.
Trong các cuộc
tế lễ, ma chay, người ta mời ban nhạc tới diễn
tấu, không dùng các loại trống, kèn và các
loại nhạc cụ gõ khác và chơi một số bản của nhạc
lễ có viết thêm lời ca và một số bản của
nhã nhạc từ miền Trung đi vào.
Phong trào
này dần dần phát triển sâu rộng khắp toàn dân. Nhạc
cụ được bổ sung, cải tiến. Người ta thêm
vào các bài ca nhạc dân gian hoặc sáng tác thêm
những bài hát mới. Các địa phương có những ban ca
nhạc tài tử nổi tiếng với các danh cầm như: Ba Ðại,
Hai Trì, Nhạc khị, Năm Triều, Bảy Triều...
và các danh ca như Ba Ðắc, Bảy Lung, Ba Niêm,
Hai Nhiều, Hai Cúc... tiếng tăm đồn đại khắp nơi.
Phong trào ca nhạc tài tử lôi cuốn mọi giới đồng
bào nhất là công chức, thợ thủ công,
nông dân, công nhân.
Khởi đầu,
nhạc và lời ca được biểu hiện qua hình thức
Ca-ra-bộ (một trình thức diễn xuất thô sơ)
với một số nghệ nhân không chuyên, được phục vụ trong
những buổi tiệc tùng, giải trí, trà dư tửu
hậu ở thôn xóm và bài ca được hâm mộ nhất
thời bấy giờ là "Bùi Kiệm thi rớt trở về".
Ca-ra-bộ
được đông đảo quần chúng hâm mộ, dần dần
phát triển và con đường phát triển tất yếu
của nó là đi vào nghệ thuật sân khấu, biến hát bội
thành "hát bội pha cải lương" rồi tiến lên chuyển
mình thành một loại hình riêng để diễn
các loại tuồng tàu, tuồng kiếm hiệp vào đầu và cuối
thập kỷ 40. Ngày càng được quần chúng hâm mộ thưởng
thức, nó tiến xa hơn trên đường
nghệ thuật, với nhiều nghệ sĩ có tên tuổi tham gia và
đến đầu thập kỷ 40, nó đã mang đầy đủ
tính chất khá hoàn chỉnh. Và đặc biệt với Nghệ
sĩ Nhân Dân Năm Châu, nó trưởng thành thành một loại
sân khấu có tính nghệ thuật khá cao. Năm Châu vốn có
học Tây, hâm mộ sân khấu Tây phương, nhất
là kịch cổ điển Pháp, đã tâm huyết đưa số
hiểu biết phong phú, đa dạng của mình vào cải lương,
tạo thành một sân khấu riêng biệt - trường
phái Năm Châu" với lực lượng nghệ sĩ lừng
danh lúc bấy giờ là Phùng Há, Ba Vân, Tư út, Tư Anh
và quí giá nhất là soạn giả Trần Hữu Trang, tác giả
nhiều kịch bản nổi tiếng, trong đó có
Ðời cô Lựu và Tô ánh Nguyệt cho đến nay, vẫn còn
ghi sâu trong ký ức bao người.
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp cho
du nhập vào nước ta những phim ảnh, sách báo
và những đĩa hát, về sau có nhiều đoàn
kịch hát Trung Quốc sang biểu diễn tại Sài Gòn.Do đó,
nghệ thuật cải lương có cơ hội thu hút thêm tinh hoa
sân khấu của nước ngoài như cách diễn
xuất, sử dụng một số bài bản nước ngoài phù hợp
với cách diễn tấu của dàn nhạc cải lương,
học tập cách sử dụng bộ gõ bổ sung thêm kèn
mới vào dàn nhạc cải lương. Trong giai đoạn này, âm
nhạc cải lương chịu ảnh hưởng của phương
pháp diễn tấu mang tính sân khấu xuất phát từ
nội dung chủ đề của kịch bản.
Trong
giai đoạn đầu của cải lương, đề tài khai thác của
kịch chủ yếu dựa vào thơ ca được lưu
truyền rộng rãi trong dân gian Việt Nam như: Kim Vân
kiều, Lục Vân Tiên, Trưng Trắc Trưng Nhị v v... hoặc
phóng tác theo các vở tuồng hát bội như: Phụng
Nghi Ðình, Xử án Bàng Quí Phi, Mộc Quế Anh
v v...
Âm nhạc được dùng
trong các vở này bao gồm gần hết là các bài
bản cải lương, trong dàn nhạc cải lương có
các nhạc cụ của dàn nhạc tài tử, có nhạc cụ gõ và kèn
hát bội. Từ năm 1930 trở đi khuynh hướng
cải lương xã hội thực thụ ra đời dưới sự chỉ
đạo của nhóm Năm Châu, Tư Trang, Năm Nở,
Bảy Nhiêu, Tư Chơi v v... lúc đầu phỏng theo
truyện phim và kịch của Pháp như: Bằng hữu binh
nhung, Sắc giết người, Giá trị và danh dự v v...
Về
sau nhóm này dựa vào đề tài Việt Nam như: Tội của
ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường v v... Các bài hát
tây bắt đầu xuất hiện trên sân khấu
cải lương như: Pouet Pouet (trong Tiếng nói trái
tim), Marinella (trong Phũ phàng), Tango mysterieux
(trong Ðóa hoa rừng). Lúc bấy giờ trong một đoàn cải
lương xã hội có hai dàn nhạc: dàn nhạc cải lương thì
ngồi ở trong, còn dàn nhạc jazz thì ngồi ở
trước sân khấu.
Trong
những thời gian sau cải lương bị ảnh hưởng của
một số khuynh hướng Quảng đông và kiếm
hiệp nhưng những khuynh hướng này ít được người ủng
hộ, nhất là ở các vùng nông thôn. Các vở có tính
chất tâm lý xã hội đều dựa vào sự tích
Việt Nam như Tô ánh Nguyệt, Ðời cô Lựu... nhưng về
âm nhạc thì lại chịu ảnh hưởng ở âm nhạc
Tây Âu.
Cải lương càng
ngày càng hiện đại hóa và đó là công đầu của
Năm Châu vì không có con người này, khó có một
sự chuyển mình đầy tính cổ điển và nghệ thuật
của cải lương. Do đó, có thể nói Năm Châu phải được
đánh giá là vị "Tổ cải lương hiện
đại", một vị tổ có thật...
Từ
sau Hiệp định Geneve (1954), cải lương càng có cơ
hội phát triển mạnh mẽ, trở thành một
loại hình nghệ thuật, một bộ môn sân khấu có khả
năng thu hút hàng đêm cả vạn triệu khán thính giả say
mê đến với nó tại các nhà hát hay bên chiếc radio.
Do
sáng kiến của ông Trần Tấn Quốc, một ký giả kỳ cựu,
giải Thanh Tâm được thành lập năm 1958
và liên tiếp mỗi năm kế sau đều có phát Huy
chương vàng và Bằng danh dự cho những nam nữ nghệ sỹ
trẻ tuổi có triển vọng nhất trong năm. Giải
Thanh Tâm hiện thời được gọi là giải Trần Hữu
Trang là giải thưởng có tiếng vang lớn trong giới
nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật
cải lương.
Nghiên cứu toàn bộ
lịch sử cải lương qua những nét đại
thể, ta thấy rõ ràng loại hình nghệ thuật này mang
một đặc điểm rất nổi bật. Ðó là nền nghệ thuật
mang tính giải phóng của người nông dân
bị áp bức và mất nước, phải vùng lên để chiến đấu
cho sự sống còn của tầng lớp mình, dân tộc
mình. Tiếng nói của họ là tiếng ca bất khuất
và đã được thể hiện qua nhiều tác phẩm mà Ðời cô Lựu
là một vở tiêu biểu. Tác giả của
nó, Trần Hữu Trang vốn là một nông dân, một nghệ sĩ
trí-thức.
(Sưu tầm: VNT)
No comments:
Post a Comment