Nếu người dân Miền Bắc ai cũng được vô
thăm quan Sàigòn một vài ngày rồi về,
thì chắc chắn, cuộc chiến xâm lăng Miền Nam của CS Hà Nội sẽ phải bị
huỷ bỏ, vì chẳng còn ai tin vào đường lối tuyên truyền lừa bịp của
chúng. Cũng vì đã trải qua tâm trạng đó, nên sau này, tôi đã tìm thấy sự
đồng cảm sâu xa ở nhà văn Dương
Thu Hương khi nghe bà nói, sau 1975, vô Sàigòn, nhìn thấy những đường
phố, những tòa nhà và cuộc sống của người dân Miền Nam, bà đã khóc và
đau xót nhận ra, trong cuộc chiến tranh Việt Nam, kẻ chiến thắng là
những kẻ mọi rợ.
Điều
phi lý của cuộc
chiến tranh Việt Nam là, trong khi Miền Bắc xâm lăng Miền Nam, theo
đuổi một cuộc chiến phi nghĩa đầy bẩn thỉu, thì người dân Miền Bắc lại
sống trong hào quang giả tạo, xuất phát từ ảo tưởng “chống Mỹ cứu nước,
giải phóng Miền Nam”. Trái lại, trong khi Miền Nam phải chiến đấu trong
cuộc chiến tranh chống cộng sản xâm lăng, có đầy đủ hào quang chính
nghĩa và lý tưởng cao quý, thì có nhiều người sinh ra và lớn lên ở Miền
Nam, lại không nhận ra được điều cao đẹp đó, tìm đường vô bưng, đi theo
cộng sản. Đó là do lỗi của ai? Lỗi của gia đình, nhà trường, chính phủ,
hay do hoàn cảnh ân oán, phe nhóm của mỗi cá nhân? Nhưng dù cho đó có là
lỗi của ai, bây giờ nhìn lại, đều thấy chua xót, vì trong cuộc chiến,
Miền Nam đã có chính nghĩa nhưng đã không làm sáng tỏ chính nghĩa đó, hoặc có làm, nhưng chưa đến nơi đến chốn.
Bây
giờ, nhìn trở lại cuộc chiến tranh Việt Nam, nhiều khi tôi vẫn nghĩ,
nếu ở Miền Nam có những văn nghệ sĩ phản chiến, ít nhiều có tội, làm
thiệt hại đến cuộc chiến tranh chống cộng sản xâm lăng; thì ở Miền Bắc,
những người có tội lỗi nhất đối với dân tộc, đất nước, chính là những
văn sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, nhà báo, nhà giáo… đã đóng vai trò của những
văn nô, ký nô cho chế độ. Một người cộng sản, dù có xảo quyệt đến đâu,
khi phun nọc độc tuyên truyền, người nghe bao giờ cũng cảnh giác, thận
trọng. Nhưng một người trí thức, một thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ,… khi dùng
cái tài năng thiên phú của họ, phụng sự cho qủy, thì sự khốc hại bao giờ
cũng thê thảm hơn rất nhiều. Trong suốt 20 năm sống ở Miền Bắc, và sau
này suốt mấy chục năm, theo dõi thơ văn của Việt Nam dưới chế độ cộng
sản, tôi phải đau xót thú nhận, hầu hết những người cầm viết được coi là
“thần tượng” của người Việt trên đất Bắc, đều là những người đã tôn thờ
qủy, phục vụ cho qủy, để đánh đổi ơn mưa móc của chế độ cộng sản, mà
nhiều khi ơn mưa móc đó chỉ là vài lạng thịt, ít cần đường phèn, hay một
chiếc vỏ xe đẹp…. Và khi một nhà văn, nhà thơ đã được coi là
“thần tượng” mà lại đi tôn thờ qủy, đánh đổi những vật chất tầm thường,
thì sự tai hại thiệt là vô cùng cho chính họ, cũng như cho những ai tôn
thờ họ.
Tôi xin đơn cử một thí dụ, nhà thơ Chế Lan Viên. Tài thơ văn của nhà thơ Chế Lan Viên có thể nói tuyệt vời.
Tập thơ Điêu Tàn làm lúc ông mới mười mấy tuổi đã cho thấy tài năng
thiên phú của ông. Đáng tiếc và đáng giận, khi ông dùng tài năng của ông
viết những vần thơ ca ngợi chế độ cộng sản,
khiến không biết nhiêu thanh thiếu niên, lao đầu vào chỗ chết, hiến
thân xác cho đảng cộng sản, chỉ vì đọc những vần thơ của ông.
Để ca ngợi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản Hà Nội, Chế Lan Viên viết những câu thơ xao xuyến lòng người:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…
Hay
khi kêu gọi tinh thần hy sinh, sẵn sàng dâng hiến tất cả cho “lý tưởng
giải phóng Miền Nam” của đảng cộng sản, Chế Lan Viên đã viết những vần
thơ có giá trị liên tưởng, đầy khích lệ:
Không ai có thể ngủ yên trong đời chật
Buổi thủy triều vẫy gọi những vầng trăng,
Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt,
Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm,
Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt,
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng…
Đọc những câu thơ trên, quý vị sẽ thấy, thi sĩ Chế Lan Viên đã đội vương miện, tắm hào quang cho cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam của cộng sản.
Dĩ nhiên, khi viết những câu thơ đó, Chế Lan Viên đã biết rõ sự thực
của cuộc chiến tranh VN. Sau này, khi bước vào lúc tuổi xế chiều, Chế
Lan Viên đã tỏ ra ân hận rất nhiều, khi ông thú nhận trong bài thơ “Ai? Tôi!”, trong đó có những câu:
Mậu Thân 2,000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2,000 người đó? Tôi!
Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng cac người không tiếc mạng
mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ.
Bên
cạnh những thi nô như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Huy Cận, Thế Lữ, Phạm Tiến
Duật… ở Miền
Bắc còn có những cuốn truyện đầu độc người đọc. Trong số những tác phẩm
văn chương ảnh hưởng độc hại đến trí tuệ, lửa nhiệt tình và quan niệm
sống của thanh thiếu niên Miền Bắc, có 2 tác phẩm quan trọng hơn cả là
cuốn
Ruồi Trâu và cuốnThép Đã Tôi Thế Đấy.
No comments:
Post a Comment