Chuyện đời như tiểu thuyết của NSND Phùng Há
Tròn
ba năm từ ngày NSND Phùng Há ra đi (5-7-2009, 13-5 ÂL), cuộc đời gần
trọn thế kỷ của bà trở lại với bạn đọc qua câu chuyện kể của NSƯT Nam
Hùng - người được Phùng Há nhận làm con nuôi năm 1950. "Những chuyện
tôi viết ra đây do má tôi kể hoặc do bà con trong gia đình kể lại, cũng
có chuyện do tôi chứng kiến", NSƯT Nam Hùng chia sẽ
Kỳ 1: Tuổi thơ cay đắng
Như
một ngày hội lớn, bà con của hai gia đình, bạn bè thân hữu, chòm xóm
thân quen cùng nâng ly chúc mừng ngày thôi nôi của bé Trương Phụng Hảo.
Sinh
ngày 30-4-1911, Phụng Hảo là con thứ sáu của ông Trương Nhơn Trường ở
làng Hạt Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc, và mẹ là bà Lê Thị Mai, người
làng Điều Hòa, Mỹ Tho. Hai ông bà chung sống với nhau có được bảy người
con, ba trai bốn gái: Trương Tích Kỳ (con trai trưởng), Trương Ngân
Hảo (nữ), Trương Liên Hảo (nữ), Trương Tích Hoa (nam, mất lúc còn nhỏ),
Trương Tích Trung (nam), Trương Phụng Hảo (nữ), Trương Nguyệt Hảo
(nữ).
Lễ thôi nôi được ăn mừng lớn hơn các anh em khác trong nhà
cũng vì một lẽ: từ lúc mang thai bé Phụng Hảo, gia đình bắt đầu làm ăn
khấm khá, từ một tiệm bán thịt bò nho nhỏ mà chỉ trên một năm đã mở lớn
hơn và thêm một trại cưa lớn. Gia đình mới mời một thầy bói người Hoa
đến xem tướng mạo cho bé Phụng Hảo, ông thầy xủ quẻ bảo rằng: "Cô bé
mặt mày rất sáng, đẹp như nàng tiên trong tranh vẽ, mà tiên thì ở trên
trời, tiên trốn xuống trần tiên sẽ bị đọa". Quẻ báo rằng: "Bé Phụng Hảo
tương lai sẽ là một tài nữ được sống trong vinh hoa phú quý, nhưng lại
nhiều khổ lụy trong cuộc tình".
Vượt ngàn dặm thọ tang cha
Cuộc
sống gia đình yên vui, công cuộc làm ăn càng ngày càng sung túc. Khi
bé Phụng Hảo được 7 tuổi thì ông Trương Nhơn Trường đột ngột từ trần
chỉ sau vài ngày lâm bệnh. Bà Mai điện về Trung Quốc cho bên nội của
các con hay. Đang chuẩn bị mai táng chồng thì bà Mai nhận được một bức
điện tín từ Trung Quốc đánh sang: "Hãy hỏa táng ông Trương Nhơn Trường,
bà Mai và tất cả các cháu phải đưa ông Trường về làng Hạt Sơn, Trung
Quốc". Bà Mai vô cùng bối rối.
Đường đến làng Hạt Sơn, Trung Quốc
xa xôi vạn dặm. Thôi thì đành nhắm mắt đưa chân cho tròn câu đạo lý...
Bà cùng sáu người con mua vé tàu thủy ra đi. Ở lại Mỹ Tho chỉ còn người
con trai trưởng là Trương Tích Kỳ và em trai của ông Trường cùng trông
coi gia sản.
Tang ma chu toàn nhưng lệnh của dòng họ là bà Mai và
các con phải ở lại thọ tang ba năm. Ở lại Trung Quốc sống một cuộc
sống ăn nhờ ở đậu với người vợ lớn của ông Trường và gia đình bên nội
của các con, ngày ngày mẹ con bà phải đi làm ruộng, làm vườn cùng mọi
người, cuộc sống hết sức vất vả và khó khăn.
Thấm thoát đã gần ba
năm, ngày trở về sắp đến thì bất ngờ nạn dịch trái rạ hoành hành dữ
dội, rất nhiều người chết. Loa truyền của chính quyền buộc tất cả những
người có bệnh phải tập trung về một nơi để chữa bệnh, ai không tuân
lệnh sẽ bị bắt.
Bé Nguyệt Hảo bị trái rạ rất nặng, bé Phụng Hảo
cũng bị lây. Cuối cùng bé Nguyệt Hảo đã không qua khỏi. Sau khi chôn
cất bé Nguyệt Hảo, bà Mai không muốn Phụng Hảo bị đưa vào nơi tập trung
trị bệnh nên xin phép gia đình bên nội gửi các con ở lại và tìm cách
chạy giấy tờ mua vé tàu đưa bé Phụng Hảo trở về Việt Nam. Trung Quốc
lúc này là mùa đông giá rét, tuyết rơi trắng ruộng đồng. Bé Phụng Hảo
được che kín mặt mày cùng bà Mai xuống tàu trở về Mỹ Tho.
Phút hãi hùng trên biển
Chiếc
tàu chở hàng hóa và mấy mươi hành khách người Hoa, thuyền trưởng là
một người Pháp. Sau vài ngày lênh đênh trên biển, người trên tàu tình
cờ phát hiện Phụng Hảo bị trái rạ. Mọi người xôn xao sợ hãi. Một buổi
họp liền mở ra ngay trên boong tàu, một số người nhất quyết đề nghị đoàn
phải bỏ bé Phụng Hảo xuống biển trên một chiếc bè có lương thực và
nước uống, một số người khác không đồng ý. Người ta nói nếu không bỏ bé
xuống biển, tất cả mọi người sẽ chết vì bị lây trái rạ, phải hi sinh
một người để cứu nhiều người vì còn lâu tàu mới về đến Việt Nam.
Đa
số đã thắng thiểu số, mặc bà Mai lạy lục thuyền trưởng và van xin mọi
người. Mở chiếc bè trong đó có lương thực và nước uống thòng xuống
biển, hai người đàn ông to lớn chụp bé Hảo toan bỏ xuống chiếc bè. Trong
khi bà Mai gào khóc quyết nhảy theo con, bé Hảo hét la khủng khiếp thì
một tiếng thét thất thanh ra lệnh dừng lại. Một phụ nữ từ trong phòng
thuyền trưởng bước ra cương quyết không cho quăng bé Hảo xuống biển. Đó
là vợ người thuyền trưởng - một phụ nữ Việt Nam rất đẹp. Vị thuyền
trưởng và nhiều người cùng người phụ nữ tranh luận rất dữ dội. Người vợ
thuyền trưởng nói: "Không ai có quyền giết người khi luật pháp chưa
luận tội. Đứa bé vô tội, chúng ta phải có bổn phận chăm sóc chu đáo cho
đến khi tàu cập bến An Nam. Trừ khi đứa bé chết trên tàu ta mới có
quyền quăng xuống biển, nếu đứa bé có bề gì thì tôi sẽ là người đứng ra
tố cáo". Thuyền trưởng và mọi người cuối cùng cũng đành đuối lý. Hai
mẹ con được đưa vào ở một phòng nhỏ cuối tàu, gần phòng máy, được chu
cấp thuốc men và nước uống.
Trở về Mỹ Tho
Qua nhiều ngày lênh đênh trên biển, mẹ con bà Mai cũng về đến quê hương, lạy tạ người nữ ân nhân, hai mẹ con chạy nhanh về nhà.
Ngôi
nhà nơi hai mẹ con trở về lúc này do Trương Tích Kỳ cùng em trai của
ông Trường quản lý. Bà Mai kể cho gia đình nghe những niềm đau và nỗi
khổ suốt mấy năm thọ tang ở Trung Quốc, những ngỡ nhận được sự chia sẻ
của những người thân yêu ruột thịt, nhưng thật bất ngờ khi con trai và
chú ruột của Phụng Hảo lại không muốn cho cả hai ở lại nhà mà còn định
mua vé tàu đưa bà và Phụng Hảo trở lại Trung Quốc. "Mẹ phải về với các
em!" - người con trai nói. Còn người em chồng thì bảo bà Mai phải về
chăm sóc mộ phần của ông Trương Nhơn Trường. Đau đớn, tức giận, bà đành
đưa bé Phụng Hảo rời khỏi căn nhà thân yêu mà suốt bao năm bà đã cùng
chồng gầy dựng.
Bà Mai dẫn Phụng Hảo về tá túc với bà ngoại ở chợ
Giồng Nhỏ, Mỹ Tho. Từ lúc bà Mai cùng các con về thọ tang ở Trung Quốc,
bà ngoại của bé Phụng Hảo sau một cơn bạo bệnh đã bị mù lại rất nghèo
khổ, phải sống nhờ sự giúp đỡ của dòng họ. Bé Hảo phải ngày ngày mò cua
bắt ốc phụ giúp mẹ nuôi ngoại.
Phùng Há, tên thật là Trương
Phụng Hảo (30/4/1911 - 5/7/2009) là một nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam.
Bà được xem là một trong những vị tổ của bộ môn nghệ thuật cải lương
Việt Nam. Hầu hết cuộc đời bà gắn bó với bộ môn nghệ thuật này và để
lại dấu ấn với nhiều vai diễn khác nhau cũng như đào tạo ra nhiều môn
sinh xuất sắc. Một trong những ấn tượng sâu đậm trong lòng người hâm mộ
là điệu hát của vai Lữ Bố trong vở Phụng Nghi Đình.
Bà sinh tại
làng Điều Hòa, huyện Châu Thành, Mỹ Tho, Tiền Giang. Thân phụ của bà là
ông Trương Nhân Trưởng, người làng Phú Lạng, huyện Hạc Sơn, tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc, còn thân mẫu bà là Lê Thị Mai, người làng Ðiều Hòa,
Mỹ Tho.
Bà là người con thứ 6, và cái tên Phụng Hảo được phát âm
theo âm Quảng Đông là Phùng Há, vì vậy bà còn được gọi là Bảy Phùng Há
(theo thứ bậc gia đình của người miền Nam).
Năm 1958, bà đề xuất
mua đất, xây dựng nên Chùa Nghệ sĩ tại Sài Gòn để làm nơi yên nghỉ cho
những nghệ sĩ cải lương. Bà cũng tự xuất tiền để xây dựng bia mộ cho
các nghệ sĩ lão thành và cấp dưỡng cho vài nghệ sĩ nghèo.
Bà
không chỉ là nghệ sĩ với giọng hát xuất sắc, diễn xuất tinh tế, mà bà
còn có công đào tạo nhiều thế hệ nghệ sĩ, nhiều người đạt danh hiệu
Nghệ sĩ ưu tú. Với những đóng góp cho nghệ thuật, năm 1984 bà được phong
tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.
Kỳ 2: Cô đào trong lò gạch
Năm
1923, phong trào đờn ca tài tử nổi lên khắp nơi ở Mỹ Tho. Bé Phụng Hảo
sáng đi bán trái cây, chiều đi học thêm, tối xin phép mẹ đi nghe đờn
ca tài tử...
Hai tuổi, Hảo thích thú khi được nhìn những nghệ sĩ,
nhạc sĩ mặc áo dài đen, đầu đội khăn đóng, bốn người ngồi bốn góc hình
chữ bát, người ca ngồi ngay chính giữa trên bộ ván gõ; nhạc thì gồm:
kìm, tranh, gáo và cò. Năm Phụng Hảo 13 tuổi, công việc bán trái cây
hết sức cực khổ nhưng gia đình cũng không đủ sống, hai mẹ con xin vào
in gạch cho lò gạch của ông Bang Hoạch.
Có những trưa hè oi ả,
tiếng hát thánh thót của bé Hảo đã giúp cuộc sống của công nhân lò gạch
thêm vui. Có những đêm mưa rả rích, người ta nghe văng vẳng tiếng hát
phát ra từ căn nhà lá của bà già mù ở xóm Chợ Giồng.
Tài hoa lộ diện
Có
phải những đau thương ngang trái của cuộc đời mà tuổi thơ đã nếm trải
khiến bé Hảo dù không biết nhịp của bài hát là gì, bài hát điệu gì,
nhưng khi cô bé cất lên tiếng hát thì ai bi não ruột. Tiếng đồn bay xa,
ông Hai Cu - chủ ban hát Tái Đồng Ban - tìm đến nhà xin được nghe bé
Hảo hát.
Thật lạ lùng! Bé Hảo hát một số bài trong ba Nam sáu Bắc
rất đúng điệu. Giọng hát lời ca trong trẻo ngọt ngào, có lúc lại hùng
hồn, có khi lại bi ai thống thiết. Đoán được tương lai rực rỡ của cô
bé, ông đề nghị ký bản hợp đồng với số tiền 20 đồng trong ba năm (một
số tiền rất lớn đối với người nghèo vào thời đó). Vậy là Phụng Hảo về
ban hát Tái Đồng Ban, bà Mai được theo con ăn ở khỏi tốn tiền.
Qua
nhiều tháng luyện tập ca cho đúng nhịp, hát cho đúng điệu, Phụng Hảo
được nghệ sĩ Tư Chơi vừa dạy đàn, vừa dạy ca. Còn về diễn xuất do nghệ
sĩ Năm Châu hướng dẫn. Đến năm 14 tuổi, Phụng Hảo đã có tên trên bảng
quảng cáo với nghệ danh Phùng Há. Tên Phùng Há do bà Mai đặt từ âm
hưởng Phụng Hảo mà ra.
Vai hát đầu tiên của Phùng Há trên sân khấu
Tái Đồng Ban là vai Giả Thị - vợ của Hoàng Phi Hổ (trong tuồng Hoàng
Phi Hổ quy châu của soạn giả Nguyễn Công Mạnh). Khán giả Mỹ Tho đã đổ
xô đến xem ban hát Tái Đồng Ban diễn tại nhà lồng chợ Mỹ Tho, chứng
kiến cô bé nghèo ở lò gạch ngày nào hát trên sân khấu. Bà Mai nghẹn
ngào xúc động nhìn con gái y quang rực rỡ, mỗi khi cất lên tiếng hát
mọi người đều chắc lưỡi hít hà.
Năm 1926 khi Phùng Há được 16
tuổi, đã vững vàng trên sân khấu, để đền ơn đáp nghĩa người đã có công
luyện tập giúp đỡ rất nhiều cho Phùng Há nên danh, bà Mai đã đứng ra gả
cô cho nghệ sĩ Tư Chơi.
Vào chốn đoạn trường
Nghệ
sĩ Tư Chơi là một nghệ sĩ tài năng, đẹp trai, hát hay, đàn giỏi. Ngoài
Việt văn, Pháp văn ông còn giỏi Hán văn. Sau này ông sáng tác nhiều vở
cải lương rất nổi tiếng với bút danh Huỳnh Thủ Trung - tên thật của
ông.
Nhưng cuộc đời có mấy ai biết được chữ ngờ. Đôi trai tài gái
sắc chỉ chung sống với nhau trên đôi năm, có được một bé gái bụ bẫm đặt
tên là Bửu Chánh thì gia đình xảy ra những bất hòa, tranh cãi quyết
liệt và cuối cùng là chia tay mỗi người mỗi ngả.
Cô Phùng Há về
đầu quân cho ban hát thầy Năm Tú ở Mỹ Tho, kép Tư Chơi ở lại ban hát
Tái Đồng Ban. Cô Phùng Há được đón tiếp nồng hậu, hợp đồng tốt, lãnh
lương cao và là đào chánh đóng cặp với nghệ sĩ Năm Châu.
Hôn nhân
tan vỡ, năm 1928 nhiều nỗi đau đớn khác còn dồn dập đổ xuống cuộc đời
cô đào trẻ: bà ngoại mất do tuổi cao sức yếu và người mẹ thân yêu cũng
qua đời tại nhà thương Mỹ Tho. Chơi vơi một mình giữa bao nhiêu chông
gai khắc nghiệt của cuộc đời, cô Phùng Há 18 tuổi đành gom góp tiền bạc
nhờ người đưa con gái Bửu Chánh về làng Hạt Sơn, Trung Quốc gửi cho
các anh chị chăm sóc và lo việc học hành.
Đau đớn như ai cắt từng
đoạn ruột khi nhìn người ta bồng bé Bửu Chánh xuống tàu. Nhớ lại ngày
nào cô cùng mẹ trải qua cơn thập tử nhất sinh giữa muôn trùng sóng dữ.
Giờ đây cô chỉ biết chắp tay cầu xin trời Phật cho con được bình an
khỏe mạnh, ăn học giỏi giang. Rồi một ngày không xa, khi cuộc sống được
ổn định cô sẽ đón con về quê mẹ thân yêu.
Làm dâu đốc phủ
Bạch
công tử tên thật là Lê Công Phước (tự là Phước George) sinh năm 1901,
quê quán Chợ Gạo, Mỹ Tho, con của ông Lê Công Xủng - đốc phủ Mỹ Tho.
Ông đốc phủ có hàng ngàn mẫu ruộng cò bay thẳng cánh, hàng trăm tá
điền, ghe bầu chở lúa gạo đậu chật cả một khúc sông, có cả một dãy phố
mua bán cạnh chợ Mỹ Tho.
Phước George là con trai duy nhất của ông
đốc phủ với người vợ trước. Mười mấy tuổi, Phước George đã được cha
cho đi du học ở Pháp, gần 30 tuổi mới trở về nước, được ông bà đốc phủ
giao cho quản lý gia sản. Công tử Phước George có dáng dấp của một thư
sinh mũi cao, trắng đẹp; tính tình phóng khoáng, rộng rãi, bặt thiệp,
có thể tung tiền bất cứ ở đâu, bất cứ nơi nào, thường họp mặt bạn bè ở
các nơi như nhà hàng, vũ trường, sòng bạc, sòng me..., rất được tình
cảm của nữ giới và bạn bè.
Bạch công tử thích nhất là nhảy đầm,
xem cải lương, nghe đờn ca tài tử. Ban hát thầy Năm Tú diễn ở đâu, cậu
đều có mặt. Bạch công tử rất thích tuồng Mộc Quế Anh dâng cây mà người
đóng vai Mộc Quế Anh phải là cô Phùng Há. Cậu thường nói: "Cô Phùng Há ở
ngoài hiền hậu, nhu mì nhưng khi bước ra sân khấu cô sáng đẹp lạ lùng,
lúc thì uyển chuyển khi uy nghi lẫm liệt như một tướng quân lâm trận".
Khi
ban hát thầy Năm Tú lên Sài Gòn diễn tại rạp hát Moderne gần chợ Bến
Thành, ban hát diễn bao nhiêu đêm thì Bạch công tử có mặt bấy nhiêu
đêm. Sau khi vãn hát, Bạch công tử thường mời cả đoàn ra nhà hàng ăn
uống rồi lại trở về Mỹ Tho, hôm sau lại có mặt. Cứ đều đều như thế, khi
cần ở lại đêm thì công tử thường ở khách sạn Continental.
Cách ăn
chơi của Bạch công tử khiến ông bà đốc phủ rất lo lắng. Ông bà muốn
cậu phải lấy vợ. Ông bà sẽ tìm những cô gái giàu sang quyền quý, môn
đăng hộ đối hoặc đẹp nhất trong vùng nhưng Bạch công tử nhất quyết từ
chối và xin cho cậu cưới cô đào hát. Ông đốc phủ quyết liệt phản đối,
cương quyết không chấp nhận cô đào hát về làm dâu. Không được như ý
muốn, Bạch công tử ăn chơi nhiều hơn, có khi nhiều ngày không về nhà, bà
đốc phủ phải cho người đi tìm kiếm khắp nơi. Bà khóc lóc van xin ông
đốc phủ cho Phước George được toại nguyện cưới cô đào hát.
Vậy là
cô bé nghèo khổ ở xóm Chợ Giồng ngày nào nay nghiễm nhiên là dâu của
ông bà đốc phủ, là vợ của Bạch công tử giàu sang nhất xứ. Cô đào hát về
sống chung với gia đình ông bà đốc phủ, bà đốc phủ rất thương cô bởi
tánh tình hiền lành chân thật. Năm 1928, Bạch công tử bàn với gia đình
là ông sẽ lập một ban hát. Và năm 1929, sau nhiều tháng tập luyện, ban
hát khai trương với bảng hiệu Huỳnh Kỳ tại nhà lồng chợ Mỹ Tho (Mỹ Tho
ngày xưa chưa có rạp hát).
Một cuộc sống mới xán lạn mở ra trước mắt cô Phùng Há. Nhưng cũng từ đây, vinh hoa và cay đắng đeo bám cuộc đời cô...
Ngày
khai trương ban hát Huỳnh Kỳ như một ngày lễ hội, apphich, băngrôn
treo rợp trời trên đường phố và chợ Mỹ Tho. Hai ghe bầu loại chở lúa
lớn nhất được huy động để chở tranh cảnh, phông màn và nghệ sĩ, công
nhân đậu tại bờ sông Mỹ Tho. Bạch Công Tử với bộ comlê màu trắng, đội
nón màu trắng cùng cô đào Phùng Há trên chiếc xe hơi mui trần hiệu Fiat
Sport từ bungalow (khách sạn) ở bờ sông chạy chầm chậm tới chợ Mỹ Tho -
nơi ban hát Huỳnh Kỳ khai trương. Pháo nổ vang rền, người xem đứng
chật hai bên đường, trẻ con thì hò reo inh ỏi, có người nói rằng: "Từ
cha sanh mẹ đẻ đến bây giờ mới thấy chuyện lạ lùng như vậy".
Kỳ 3: Vinh quang và cay đắng
Sau nhiều đêm thành công vang dội ở Mỹ Tho, ban Huỳnh Kỳ dọn về Sài Gòn ra mắt bà con mộ điệu.
Ba
chiếc ghe bầu loại lớn nhất chở đào kép và tranh cảnh đậu tại bờ sông
Bến Thành. Mười chiếc xe ngựa (loại hai ngựa) chở đầy phong cảnh, y
trang, gươm đao, giáo mác. Ba mươi chiếc xe kéo chở đào kép, theo sau
là Bạch công tử và cô Phùng Há trên chiếc xe hơi mui trần tiến về nhà
hát Tây (nay là Nhà hát thành phố).
Trên đỉnh vinh hoa
Đêm
đầu tiên ở Sài Gòn, ban Huỳnh Kỳ chưa hát, Bạch công tử mở tiệc thết
đãi bạn bè thân hữu, nghệ sĩ và chính quyền. Cả trăm khách Việt, Tàu,
Tây đủ giới đến dự với những món cao lương mỹ vị, uống toàn champagne,
martel. Có một sân nhảy đầm, một ban nhạc Tây và một phòng có vài mâm á
phiện cùng với những cô gái xinh đẹp tiêm thuốc cho khách hút (thời đó
hút á phiện tự do), quả là một đêm vui chơi thỏa thích.
Hôm sau
ban hát Huỳnh Kỳ trình diễn tại nhà hát Tây. Buổi sáng ban hát đi rao
bảng (quảng cáo) vòng quanh các đường phố Sài Gòn với mười chiếc xe
ngựa (loại hai ngựa) chở các nghệ sĩ hóa trang son phấn rực rỡ, đào kép
mặc đồ ông hoàng, bà chúa... Đi đầu có ban nhạc Tây thổi kèn inh ỏi,
cuối đoàn có ban nhạc Quảng thổi kèn và đánh trống Quảng, tờ chương
trình rải trắng đường đi. Ban hát Huỳnh Kỳ diễn bảy đêm tại nhà hát Tây,
rồi lần lượt dọn qua rạp Moderk gần chợ Bến Thành, rạp Cinema Eden
đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm, Q.5) và rạp Palikao ở
Chợ Lớn mới.
Có một buổi sáng, Bạch công tử đưa cô Phùng Há đi
ăn điểm tâm, rời khách sạn xe ngừng trước một nhà hàng, tài xế mở cửa
mời Bạch công tử và cô Phùng Há xuống xe, Bạch công tử móc túi "boa"
cho tài xế (dù là tài xế nhà). Người của nhà hàng cầm dù chạy ra đưa
Bạch công tử và cô Phùng Há tới cửa: lại móc túi "boa". Bước vô nhà
hàng, một người bồi trân trọng lấy nón móc lên máng: móc túi "boa".
Đang ăn gọi đầu bếp lên khen, công tử lại móc túi "boa", "boa" luôn cho
tất cả những người có mặt ở nhà hàng rồi lên xe ra về. Người ta nói
rằng Sài Gòn này chỉ có Bạch công tử là sang hơn cả Tây.
Qua
nhiều năm chung sống với Phước George, chưa bao giờ cô Phùng Há thấy
bạn bè xin gì mà ông từ chối, bạn bè tới nhà chơi khen bộ salon đẹp,
ông tặng liền không ngần ngại, lại có người khen bộ bàn ăn đẹp, ông bảo
kêu xe chở về liền.
Ban Huỳnh Kỳ diễn bất cứ nơi nào đều chật kín
khán giả, không chỉ ở Sài Gòn mà còn chinh phục cả sáu tỉnh Hậu Giang.
Như thế được trên ba năm. Sau đó thì tình hình biến động khắp nơi,
kinh tế gia đình Phước George cũng bắt đầu khó khăn, ban hát lỗ lã. Đến
năm 1931, Bạch công tử cho ban hát Huỳnh Kỳ tan rã...
Hai lần sinh con, hai lần tiễn biệt
Không
còn gánh hát, Bạch công tử càng ăn chơi nhiều hơn nữa, cờ bạc, rượu
chè, hút xách, không kể gì đến tương lai. Cô Phùng Há khuyên nhủ cách
nào cũng không được. Cô hai lần sinh con, một trai tên Paul, một gái
tên Lý. Cả hai con đều chết khi còn rất nhỏ. Paul và Lý từ lúc bệnh cho
đến lúc chết Bạch công tử đều không có mặt ở nhà.
Đau đớn, lẻ loi, trơ trọi giữa dòng đời, cô Phùng Há cương quyết dứt tình vợ chồng với Bạch công tử Phước George.
Về
chung sống với bà con bên ngoại, năm 1936 cô Phùng Há được ban hát
Trần Đắc ký hợp đồng về làm đào chánh, đóng cặp với nghệ sĩ Năm Châu.
Với hợp đồng mới và tiền lương rất hậu, danh tiếng của cô Phùng Há càng
ngày càng sáng chói.
Trong lúc đó, công tử Phước George thành hôn
với nghệ sĩ tài danh - cô sáu Ngọc Sương. Cô Ngọc Sương quê ở Phan
Thiết, ca hay diễn giỏi, nhan sắc mặn mà. Ngoài tài năng ca diễn trên
sân khấu, cô lại còn có tài vừa ca vọng cổ vừa đàn guitar. Tánh tình
khẳng khái nhưng lại rất nhiều tình cảm, cô là đào chánh của nhiều đoàn
hát lớn sau này. Qua đôi năm chung sống và vào năm 1937, cô sáu Ngọc
Sương sanh được một con gái đặt tên là Ngọc Tuyết - tự Liliane. Nhưng
rồi có lẽ cũng không chịu nổi kiểu ăn chơi bất kể của Phước George, cô
trao con lại cho ông và trở về Phan Thiết. Bạch công tử buồn khổ lại
chìm đắm trong những cuộc vui. Rồi có một lần vì chán nản, tuyệt vọng,
không lối thoát, ông toan bồng con nhảy xuống giếng để cha con cùng
chết cho hết nợ đời.
Hay được tin cô sáu Ngọc Sương và công tử
Phước George chia tay, Bạch công tử rất khó khăn khi phải nuôi con nhỏ,
cô Phùng Há cho người đưa thư xuống xin được nuôi con gái của Bạch
công tử và cô sáu Ngọc Sương.
Lênh đênh cùng đoàn Phụng Hả
Sau
năm 1940, cô Phùng Há kết hôn với ông Nguyễn Hữu Bửu. Ông là một kỹ
sư, một đại điền chủ lớn ở Trà Vinh. Ông đã thành lập đoàn Phụng Hảo
cho cô Phùng Há.
Ông Nguyễn Hữu Bửu là cha ông Nguyễn Long và ông
Nguyễn Khánh. Ông Nguyễn Long là thanh niên tiền phong đi tập kết, là
cán bộ cách mạng ở miền Bắc. Ông Nguyễn Khánh là tướng của chế độ Sài
Gòn ở miền Nam. Ông Nguyễn Hữu Bửu và cô Phùng Há có một ngôi nhà ở Gò
Vấp, cùng sống chung với các con cháu như: Bửu Chánh - con gái ruột đã
rước từ Trung Quốc về với tên Lý Bửu Trân, Nguyễn Long, Nguyễn Khánh,
Lili, Nam Hùng và vài người cháu khác.
Sau khi Nhật đảo chánh
Tây, tình hình biến động, đoàn Phụng Hảo phải rời Sài Gòn lưu diễn ở
các tỉnh như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Long Điền, Phước Hải... Quá khó khăn
vì mỗi khi di chuyển từ bến này qua bến khác cả đoàn hát phải đi bằng
xe bò, cuối cùng đoàn Phụng Hảo phải mướn một chuyến ghe đi cạnh theo
mé biển về đến Mỹ Tho. Tình hình quá căng đến nỗi đoàn Phụng Hảo không
hát được một suất nào và rã gánh tại Mỹ Tho.
Thời gian sau thì cô Phùng Há và ông Nguyễn Hữu Bửu cũng chia tay.
Lili
Bà
Phùng Há đã đem Ngọc Tuyết - Liliane (mà bà thường gọi là Lili) về
nuôi từ khi cô còn bé. Cô là người được bà thương yêu nhất nhà, lớn lên
được chăm sóc chu đáo, ăn học đàng hoàng. Lili tính tình vui vẻ, liến
thoắng. Năm bảy, tám tuổi, tôi có dịp sống chung một nhà với Lili ở Gò
Vấp; sau này mười mấy tuổi, tôi cũng được bà Phùng Há cho về nhà ăn học.
Tôi và Lili sanh cùng năm. Tôi gọi Lili bằng Lili, cô gọi tôi bằng
"thằng", xưng hô mày - tao với tôi như thể những thằng con trai.
Lili
có một vẻ đẹp mặn mà như người của biển cả... Khi lớn lên có một gia
đình danh giá, giàu có dạm hỏi, cô bằng lòng. Má Phùng Há đồng ý gả.
Hiện nay cô sống cùng chồng và người con gái đã lập gia đình tại
Canada, hai người con gái lớn đã lập gia đình hiện đang sống tại TP.HCM.
Ngày xưa, có những lúc cô đùa giỡn như điên, rồi có những lúc cô ngồi
yên lặng thật dài. Ngày nay chắc tóc cô đã bạc nhiều, chắc gì cô đã
thoát khỏi những giây phút trầm tư... Cầu mong Lili và gia đình được an
lành, hạnh phúc.
Kỳ 4: Vai diễn đi cùng năm tháng
Vào
năm 1948, cô Phùng Há cùng một số anh chị em nghệ sĩ như Năm Châu, Ba
Vân, Trần Hữu Trang... thành lập Hội Nghệ sĩ ái hữu tương tế, mua một
căn nhà nhỏ ở 133 đường Cô Bắc làm nhà truyền thống thờ Thánh tổ.
Lúc
này cô Phùng Há đã làm vợ của ông Châu Văn Sáu - một chủ trang trại
nuôi bò với hàng trăm con bò chuyên lấy sữa làm sữa tươi, bơ, kem cung
cấp cho một số nhà hàng, các tiệm bánh lớn ở Sài Gòn (trại nuôi bò sữa
của ông Châu Văn Sáu ở gần ngã bảy, sau này ở đó hình thành một cái chợ
nhỏ mà người ta thường gọi là "chợ Chuồng Bò").
Năm 1950, đoàn
Phụng Hảo diễn tại Huế, cuối năm 1952 diễn tại Hà Nội danh nổi như cồn.
Dựng lại đoàn Phụng Hảo lần này có lẽ là lần thành công nhất của cô
Phùng Há so với bao đoàn Phụng Hảo tan - hợp trước đó. Nhưng đến khoảng
năm 1959, đoàn Phụng Hảo lại tan rã tại rạp Thuận Thành Đakao. Sau đó
ông Châu Văn Sáu và cô Phùng Há cũng chia tay. Buồn khổ lại đeo bám bà,
năm 1963 người con gái bà đứt ruột sanh ra là Bửu Chánh (tức Lý Bửu
Trân) chết do căn bệnh ung thư máu. Sau khi chôn cất con gái, bà đi
Pháp thăm hai cháu ngoại - một trai và một gái - con của chị Bửu Chánh.
Ở
Pháp mấy năm, năm 1966, bà Phùng Há trở về nước. Tối bà lại đi hát
chầu cho đoàn ca kịch Năm Châu, ban ngày đi dạy về bộ môn cải lương cho
Trường Quốc gia âm nhạc.
Đoạn kết buồn với Bạch công tử
Khoảng
năm 1949, một hôm má Phùng Há bảo tôi đi cùng với Lili đến căn nhà bên
hông chợ Bến Thành. Tới nơi, tôi cùng Lili lên lầu thấy một người đàn
ông ốm yếu xanh xao, mũi cao trắng trẻo, nằm trên giường, bên cạnh có
một mâm hút. Tôi biết ngay đó là Bạch công tử vì trước đó tôi có nghe
gia đình bàn tán nhiều lần về ông. Tôi đi xuống để hai cha con ông nói
chuyện. Từ đó về sau, tôi đi theo đoàn hát lưu diễn khắp nơi nên không
biết gì về ông nữa.
Năm 1999, trả lời phỏng vấn của một tờ báo, bà
Phùng Há nói bà muốn về thăm mộ của ông Phước George. Cũng năm 1999,
có một người ở đường Nguyễn Văn Cừ hỏi có muốn về Chợ Gạo thăm lại quê
hương của Bạch công tử Phước George hay không. Thú thật bao lâu nay bà
cũng muốn về thăm lại Chợ Gạo - nơi ghi dấu biết bao là kỷ niệm, nhưng
bà cũng đành bỏ qua ý định vì mấy mươi năm rồi không còn nhớ những con
đường ngày xưa. Người ở đường Nguyễn Văn Cừ có cô em gái làm việc tại
Chợ Gạo, ông đã nhờ cô em đưa bà về.
Trên chiếc xe 16 chỗ ngồi,
bà đi cùng vài người bạn và các cháu, con. Đường về Chợ Gạo bây giờ xa
lạ quá, quanh co khúc khuỷu. Xe dừng lại trước một mảnh đất rộng lớn,
cô dẫn đường chỉ đây là mảnh đất của gia đình công tử Phước George, bà
nhìn quanh rồi nói: "Không còn chút gì của ngày xưa". Miếng đất ngày
nay đã thuộc chủ quyền của một người mà cha của ông ngày xưa là bạn
thân của công tử Phước George. Ngày xưa ông Phước George đã giúp đỡ rất
nhiều cho chủ nhân miếng đất này.
Khi gặp được con của chủ nhân
miếng đất, bà Phùng Há liền hỏi: "Mộ của ông Phước George ở đâu?",
người ấy chỉ: "Kìa!...". "Trời ơi, như thế này được sao?". Không thể
nào tưởng tượng được vì đó không phải là ngôi mộ mà chỉ là một mảnh đất
chừng 1m2, nước đọng, cỏ mọc. Bà như muốn qụy xuống, mọi người chạy
tới đỡ bà, bà kêu lên: "Sao lại như thế này hỡi trời? Ông ơi, vợ ông
đâu? (không còn ai). Con cháu ông đâu? (không có). Tài sản đất đai của
ông đâu? (một thước đất chôn thân cũng không có)". Có người hàng xóm kể
rằng: "Ngày Bạch công tử chết tình hình rất lộn xộn, người ta quấn ông
vào một chiếc chiếu, mà chiếc chiếu cũng không lành, không mộ, không
bia, không tên, không họ". Từ đó cho đến nay đã mấy mươi năm rồi, vong
linh ông có đau đớn tủi hận chăng, chỉ xương trắng là tan thành đất hòa
vào dòng nước ngọt của Chợ Gạo, quê ông.
Bà Phùng Há xin với
người chủ của mảnh đất được hốt cốt của ông đem về Sài Gòn, người ấy
trả lời: "Người vợ khi đã có chồng khác thì không có được một cái quyền
gì cả, hãy chờ cô Lili - con gái của ông Phước George - từ nước ngoài
về rồi sẽ bàn tiếp". Bà nắm trong tay một nắm đất nơi ông Phước George
nằm xuống rồi thất thểu lên xe ra về.
Suất hát cuối cùng
Năm
30-4-1975 thống nhất đất nước. Vở hát đầu tiên sau giải phóng là kịch
bản Đời cô Lựu, lại có bà cùng góp mặt với các nghệ sĩ: Ba Vân, Út Trà
Ôn, Hoàng Giang, Nam Hùng, Hoàng Ấn, Văn Lâu, Tư Hề, Thanh Nga, Ngọc
Nuôi, Tố Nữ... Đoàn cải lương Sài Gòn 1 sau đó cũng được thành lập gồm
các nghệ sĩ tài danh với những kịch bản nổi tiếng một thời: Sân khấu về
khuya, Phụng Nghi đình, Mạnh Lệ Quân, Bình Tây đại nguyên soái, Người
ven đô, Ngao Sò ốc hến (chỉ đạo nghệ thuật Ba Vân, Phùng Há và trưởng
đoàn Nguyễn Đạt).
Năm 1976, bà Phùng Há bàn với lãnh đạo lúc đó là
ông Mai Quân tổ chức một suất hát tổng hợp để gây quỹ giúp đỡ nghệ sĩ
khó khăn. Ngày 6-12-1976 vở tuồng hoành tráng Phụng Nghi đình được công
diễn hai suất tại rạp Hào Huê, một suất trưa và một suất tối với sự
tham gia nhiệt tình của dàn nghệ sĩ lừng danh với ba "Lữ Bố": NS Phùng
Há, Thành Được, Nam Hùng; năm "Điêu Thuyền": NS Thanh Nga, Kim Cương,
Mỹ Châu, Phượng Liên, Ngọc Hương; ba "quan tư đồ": NS Ba Vân, Út Trà
Ôn, Út Bạch Lan; ba "Đổng Trác": NS Ngọc Giàu, Văn Khoe, Trường Xuân;
hai "Lý Nhu": NS Bảy Nam, Kim Hoàng.
Khán giả náo nức như đêm
hội, nghệ sĩ hát nhiệt tâm, đêm hát hết sức tưng bừng. Nhưng bà đã
không thể ngờ được đó là đêm cuối cùng bà hát với người học trò cưng mà
bà hết mực yêu thương là NS Thanh Nga trong lớp Lữ Bố hí Điêu Thuyền -
lớp hát mà bà và Thanh Nga đã làm mê hoặc hàng bao khán giả (ngày
26-11-1978 nghệ sĩ Thanh Nga, 36 tuổi, và chồng bị ám sát ngay sau suất
diễn vở Thái hậu Dương Vân Nga).
Cuối tháng 12-1976, bà và nhiều
nghệ sĩ miền Nam thuộc Đoàn văn công thành phố, và Đoàn hát bội thành
phố được vinh dự ra thủ đô biểu diễn chào mừng Đại hội Đảng. Cũng với
lớp Lữ Bố hí Điêu Thuyền, nhưng lần này bà chọn Út Bạch Lan vào vai
quan tư đồ và NS trẻ Tô Kim Hồng vào vai Điêu Thuyền.
Mùa đông Hà
Nội lạnh buốt, lúc đó bà lại bị chứng đau khớp hành, đau nhức không
ngủ được, cả đoàn lo lắng không yên. Nhưng khi đêm hát mở màn, bà vẫn
uy nghi lẫm lẫm giậm chân bước ra, tràng pháo tay kéo dài không ngớt.
Sau suất hát phục vụ đại hội là suất hát giao lưu nghệ sĩ hai miền.
Buổi diễn kết thúc, hoa ngợp khán phòng, lần đầu tiên nghệ sĩ miền Nam
thấy hoa đẹp và nhiều như vậy. Nghệ sĩ miền Bắc tràn lên sân khấu, nụ
cười và nước mắt chan hòa, ôm hôn những người đồng nghiệp cách xa hàng
ngàn cây số...
Và đó là đêm hát cuối cùng.
Thời
gian ngắn sau, bà tặng bộ giáp Lữ Bố mà bà hằng yêu quý đã gắn bó
nhiều năm với vai diễn và tên tuổi của bà cho Bảo tàng TP. Bộ giáp được
làm thủ công, kết "mắt gà" công phu do một nghệ nhân người Hoa trong
Chợ Lớn chuyên làm phục trang cho các đoàn hát Quảng Đông chế tác cho
riêng bà.
Bà Phùng Há cũng đã tặng tất cả y trang áo mão gồm 163
món mà trước ngày giải phóng bà đã mua ở Hong Kong để đoàn cải lương
Sài Gòn 1 dựng hai vở: Phụng Nghi đình và Mạnh Lệ Quân. Bà cũng tặng
toàn bộ trang phục, đao kiếm cho đoàn hát Tiền Giang để xây dựng một vở
tuồng sử.
Những năm sau đó, bà dành hết tình yêu nghề cho học
trò. Bà truyền dạy cải lương ở Trường Nghệ thuật sân khấu II, bây giờ
là Trường Sân khấu - điện ảnh thành phố. Năm 1979, Nhà hát cải lương
Trần Hữu Trang khai giảng khóa đầu tiên đào tạo nghệ sĩ trẻ, bà đã nhận
lời giảng dạy và đã có nhiều nghệ sĩ thành danh từ lớp học này. Lớp
học có nhiều gián đoạn vì sức khỏe không cho phép, nhưng bà vẫn còn
truyền nghề cho một số lớp nghệ sĩ đến năm 1995.
Về sau bà chỉ
chuyên tâm vào công tác cứu trợ và đeo đuổi ước mơ xây "ký nhi viện"
cho con em nghệ sĩ sau khi đã gầy dựng được "viện dưỡng lão nghệ sĩ".
NSND
Phùng Há có rất nhiều vai diễn gây được ấn tượng mạnh với công chúng,
trong đó có nhiều vai diễn được xem là mẫu mực, thước đo cho các nghệ
sĩ lớp sau học hỏi như: Lữ Bố (vở Phụng Nghi đình), Dương Quý Phi (Tình
sử Dương Quý Phi), An Lộc Sơn (Đường Minh Hoàng du nguyệt điện), Kiều
Nguyệt Nga (Kiều Nguyệt Nga), Nguyệt (Tô Ánh Nguyệt), Lựu (Đời cô Lựu),
Thúy Kiều (Kim Vân Kiều)...
Bà cũng là người tiên phong cho trào
lưu đào đóng vai kép. Vào khoảng năm 1950, do gánh hát thiếu nam nghệ
sĩ giỏi nghề đóng vai khó nên bà đã táo bạo thử nghiệm hình thức mới,
vai kép đầu tiên mà bà đóng là An Lộc Sơn. Vai diễn này sau đó được
công chúng nồng nhiệt đón nhận và bà tiếp tục có những vai kép hay như
Đường Minh Hoàng, Lữ Bố, Tào Tháo, Hoàng tử Lang...
Đặc biệt, vai
Lữ Bố bà đã diễn chung với rất nhiều nữ nghệ sĩ như cô Năm Phỉ, cô ba
Thanh Loan, Kim Cương, Thanh Nga... vai diễn này gắn bó với bà mấy chục
năm trời và đã cùng bà lưu diễn nhiều nơi trên thế giới.
Kỳ cuối: Phùng Há - Ra đi và gửi lại
Sau
tất cả những vinh quang trên sân khấu, những vinh hoa lẫn đoạn trường
của cuộc đời riêng, nghệ sĩ Phùng Há lại tiếp tục "trọn đời trả nợ
dâu", lo cho nghệ sĩ và nghiệp tổ, lo từ kẻ sống đến lo cho người
chết... như một cách trả ơn cuộc đời.
Ngày xưa, người nghệ
sĩ, công nhân sân khấu quanh năm suốt tháng ở luôn trong đoàn hát, lấy
gánh hát làm nhà. Ðến lúc mãn phần, đoàn hát diễn ở đâu thì chôn cất
tại đó. Ðến khi quay lại có khi mộ phần đã thất lạc...
Qua
nhiều tháng năm trằn trọc suy nghĩ, cuối cùng vào năm 1957 bà Phùng Há
xin được một số tiền rất lớn của trường đua ngựa Phú Thọ trao cho Hội
Nghệ sĩ ái hữu tương tế để cùng nhau tìm mua một miếng đất ở Gò Vấp,
TP.HCM - trên 6.000m2 - thành lập nghĩa trang nghệ sĩ.
Xây dựng nghĩa trang nghệ sĩ
Ngày
ngày, từng đoàn nghệ sĩ, công nhân sân khấu khuân từng đống gạch, đẩy
từng xe cát cùng với thợ xây dựng nghĩa trang nghệ sĩ.
Mỗi tháng
và hằng năm, có nhiều buổi hát tổng hợp nghệ sĩ (hát không lãnh lương)
được tổ chức để trả khoản nợ mua nhà truyền thống (trụ sở Hội Nghệ sĩ
ái hữu tương tế - đường Cô Bắc, Q.1) và tu bổ nghĩa trang nghệ sĩ
(đường Thống Nhất, P.11, Q.Gò Vấp). Má bảy Phùng Há có nói với tôi:
"Nhà thờ tổ là ban ái hữu hiện nay và nghĩa trang nghệ sĩ mà có được là
nhờ công sức của tất cả nghệ sĩ và công nhân sân khấu chớ chẳng phải
của riêng ai. Tất cả chúng ta phải gìn giữ nó". Sau đó Hội Nghệ sĩ ái
hữu tương tế còn xây cất một dãy nhà trong hẻm đường Nguyễn Trãi, được
chia ra từng căn cho những nghệ sĩ, công nhân có gia đình đông con.
Sau
giải phóng, Nhà nước giao cho hai soạn giả Mai Quân, Việt Thường thành
lập ban ái hữu (thuộc Hội Sân khấu TP.HCM) và mời cho được nghệ sĩ
Phùng Há làm cố vấn. Bà đã kêu gọi nhiều anh chị em nghệ sĩ, tác giả,
nhạc sĩ cùng với bà vào ban ái hữu chung tay góp sức để lo cho nghệ sĩ
nghèo. Trong thời gian này, Nam Hùng đã được ban ái hữu cho phép đi vận
động thành lập quỹ giúp nghệ sĩ già yếu, bệnh tật, neo đơn và quỹ ấy
tồn tại cho đến ngày nay.
Thành lập khu dưỡng lão nghệ sĩ
Qua
nhiều lần thảo luận, bà Phùng Há và tất cả thành viên trong ban ái hữu
đều mong mỏi có được một khu dưỡng lão dành cho những nghệ sĩ già yếu,
bệnh tật, neo đơn nhưng không thực hiện được vì chưa có đất. Có một
dịp, chúng tôi gồm Mai Quân, Việt Thường, Trường Sinh, Nam Hùng và ký
giả Kiên Giang đến thăm bác sĩ Trường Sơn - giám đốc khu an dưỡng quận
8. Nghe ý nguyện của chúng tôi, bác sĩ Trường Sơn đã chỉ cho chúng tôi
khu đất rộng 4.000m2 mà từ lâu vẫn còn bỏ trống của nhà an dưỡng quận 8.
Như bắt được vàng, ban ái hữu đã đệ đơn lên UBND TP và đã được cấp đất
sau hơn một năm làm thủ tục giấy tờ. Nhưng qua gần hai năm sau, chúng
tôi vẫn chưa xin được giấy phép xây dựng. Biết có một số bệnh viện cần
miếng đất, anh chị em trong ban ái hữu đều nghĩ khó mà giữ được miếng
đất này, hi vọng thành lập khu dưỡng lão quá mỏng manh. Bà Phùng Há bảo:
"Không thể ngồi đó mà nhìn bao nhiêu công lao qua mấy năm đeo đuổi bây
giờ lại vuột khỏi tầm tay", bà quyết định gửi thơ lên Thủ tướng Võ Văn
Kiệt nhờ thủ tướng giúp đỡ.
Bà Phùng Há, Nam Hùng và có khi ông
Mai Quân, Việt Thường và ông bầu Xuân nhiều lần cùng đến gặp Thủ tướng
Võ Văn Kiệt để trình bày những khó khăn. Nhờ sự giúp đỡ của Thủ tướng,
UBND TP đã cấp phép cho xây dựng khu dưỡng lão nghệ sĩ và còn cấp cho
kinh phí xây cất. Ngày 7-3-1998, khu dưỡng lão nghệ sĩ được khánh thành
tại đường Âu Dương Lân, P.3, Q.8, TP.HCM. Khu dưỡng lão có 25 phòng
dành cho nghệ sĩ, công nhân sân khấu già yếu, trong đó có một phòng
dành cho người làm tạp vụ, một phòng cho người làm vệ sinh.
Công
trình khu dưỡng lão nghệ sĩ đã hoàn thành nhưng còn thiếu thốn trăm bề,
tất cả anh chị em nghệ sĩ đã vận động khắp nơi. Nam Hùng vận động được
một số mạnh thường quân mua trên 2.000 cây kiểng và hoa tô điểm màu
xanh cho khu dưỡng lão - trên mỗi cây có tấm bảng ghi tên người đóng
góp mua cây, đặc biệt có ba cây tùng mang tên ông Võ Văn Kiệt, bà Phùng
Há, ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp để nhớ ơn những vị ân nhân.
Sống chết cạnh những người nghệ sĩ
Sau
ngày giải phóng, bà Phùng Há rất cần tiền nên đành phải bán căn nhà kỷ
niệm của con gái - chị Bửu Chánh. Bà ở đậu trong nhà của người bạn
thân cùng xóm, mấy năm sau người bạn xuất ngoại bán lại căn nhà cho bà.
Năm tháng trôi nhanh, tuổi già sức yếu lại bị nhiều căn bệnh hành hạ,
có những tháng bà ở bệnh viện nhiều hơn ở nhà, bà cũng phải dùng thêm
nhiều loại thuốc ngoài luồng vì bệnh viện không có.
Lúc này, bà
còn nuôi bảy đứa cháu vì mẹ của chúng - cháu ruột của bà - không đủ sức
để nuôi bảy đứa con mồ côi cha. Bà đưa tất cả, cả mẹ và bảy đứa con về
chung sống.
Nhiều năm sau, tình hình kinh tế lại khó khăn thiếu
thốn, bà Phùng Há phải bán nhà một lần nữa. Với số tiền bán nhà, bà có
thể mua một căn nhà nhỏ để ở nhưng bà muốn về ở tại chùa và nghĩa trang
nghệ sĩ. Nhiều người khuyên can bà không nên về đó vì không khí và
nguồn nước độc hại. Ai khuyên bà cũng không nghe vì bà muốn cuối đời
được sống cạnh những người nghệ sĩ, công nhân mà suốt mấy mươi năm đã
gắn bó với bà qua bao thăng trầm của sân khấu.
Ở chùa Nghệ sĩ,
ban quản trị chùa dành cho bà một căn phòng 4m2 sau lưng chùa. Bà xin
phép ban ái hữu, ban quản trị chùa cho phép bà được mở rộng căn phòng
thành ngôi nhà nhỏ để gia đình tá túc. Căn phòng được phá ra để sửa
chữa vào ngày 13-10-1997. Bà Phùng Há đã bỏ ra 18 lượng vàng để xây
cất.
Có những buổi chiều mặt trời khuất bóng, bà Phùng Há một mình
chầm chậm rảo quanh các ngôi mộ. Mỗi ngày bà đều tụng kinh hai hồi lúc
4 giờ sáng và 7 giờ tối. Bà cầu nguyện cho quốc thái dân an, cầu
nguyện ơn trên cho cha mẹ được siêu thoát, cầu nguyện trời Phật xá tội
cho người và cho mình.
Và ngày 5-7-2009, tiếng mõ hồi chuông và
lời tụng niệm của bà Phùng Há không còn vang lên nữa... Bà đã trút hơi
thở cuối cùng lúc 0g30 ngày 5-7-2009, nhằm ngày 13-5 Kỷ Sửu tại Bệnh
viện Nguyễn Trãi, thọ 99 tuổi. Mộ phần của bà được đặt ở nghĩa trang
nghệ sĩ, cạnh những con người đã cùng bà có biết bao nhiêu là kỷ
niệm...
Trợ giúp đồng bào khó khăn
Bà
Phùng Há và ông bầu Xuân thành lập ban trợ giúp bà con cô bác gặp
nhiều khó khăn ở những nơi xa xôi. Mỗi năm bốn lần, với sự kêu gọi của
bà Phùng Há và sự vận động của ông bầu Xuân, các mạnh thường quân và anh
chị em nghệ sĩ cùng góp một số tiền để mua thuốc men, gạo, mì... đem
đến cho bà con cô bác nghèo, sau đó các nghệ sĩ biểu diễn văn nghệ đem
đến chút niềm vui cho bà con. Thư ở nhiều nơi gửi về tấp nập mong đoàn
trợ giúp của chùa Nghệ sĩ đến cứu trợ.
Mỗi lần đi và về từ một
trăm đến vài trăm cây số, có những lần phải băng đồng lội suối hết sức
gian khổ. Có người đề nghị nên để bà Phùng Há ở lại nhà, bà nhất định
không chịu và nói rằng: "Ngày xưa bà con cô bác nuôi sống nghệ sĩ, nay
bà con gặp khó khăn mình phải đền đáp lại. Có đi đến nơi mới thấy bà
con mình còn khó khăn, thiếu thốn nhiều lắm".
Có lần vì sức khỏe
của bà, đoàn cứu trợ lén đi, ở nhà bà giận dỗi, bỏ ăn, thôi thì tất cả
đành chiều theo ý bà. Từ trước tới nay, đoàn đã đi giúp đỡ bà con trên
40 lần ở khắp mọi nơi, nay tính lại thì bà Phùng Há đã có mặt 40 lần.
Người xây chùa Nghệ sĩ
Cảnh quan bên ngoài chùa Nghệ sĩ ngày nay - Ảnh: Thuận Thắng
Đó
là ông Năm Công, tên thật là Lê Minh Công (pháp danh: tỳ kheo Thích
Quảng An). Trước khi đi tu, ông là quản lý cho một số đoàn hát, bây giờ
người ta gọi là “ngoại vụ”. Năm 1969, ông đến nghĩa trang nghệ sĩ gặp
bà Phùng Há, đề nghị xin cấp một cái am nhỏ để tu và để nghệ sĩ có một
nơi lạy Phật. Bà Phùng Há ủng hộ và thầy Thích Quảng An đã đi quyên góp
khắp nơi để xây dựng am. Từ một cái am nhỏ của năm 1972, nhờ công của
thầy Thích Quảng An, bà Phùng Há, ban quản trị chùa, thiện nam tín nữ
nghệ sĩ trong và ngoài nước, nay cái am nhỏ đã trở thành ngôi chùa mang
tên Nhật Quang tự khang trang đẹp đẽ.
Trong nhiều năm qua, khách
tham quan từ Bắc, Trung, Nam và nước ngoài đến viếng chùa và nghĩa
trang nghệ sĩ rất đông, tất cả đều có nhận xét: “Thật không thể tưởng
tượng nổi lại có nhiều thế hệ nghệ sĩ tài danh nổi tiếng trên 70 năm
khắp Nam, Trung, Bắc được an nghỉ tại nghĩa trang nghệ sĩ. Mô hình này
thật không có nước nào trên thế giới có được. Quả thật là hiếm có!”.
https://www.facebook.com/notes/my-tho-laptop/chuy%E1%BB%87n-%C4%91%E1%BB%9Di-nh%C6%B0-ti%E1%BB%83u-thuy%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-nsnd-ph%C3%B9ng-h%C3%A1/779928688746245/
No comments:
Post a Comment