Tự Đức (chữ Hán: 嗣德 22 tháng 9 năm 1829 – 19 tháng 7 năm 1883) tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì (阮福時), là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn. Ông là vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1847 đến 1883, ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Dực Tông (阮翼宗).
Triều đại của ông đánh dấu nhiều sự kiện xấu với vận mệnh Đại Nam. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng. Trước tình hình người Pháp xâm lấn trong triều đình đặt ra vấn đề cải cách, liên tiếp các năm từ 1864 đến 1881, các quan là Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định
liên tiếp dâng sớ xin nhà vua cho cải cách toàn diện đất nước nhưng các
đình thần lại không thống nhất, nhà vua cũng không đưa ra được quyết
sách dứt khoát. Mãi đến năm 1878,
triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước đầu tiên trong quá
trình cải cách là cho học tiếng nước ngoài, nhưng đình thần vẫn bất đồng
và nảy sinh hai phe chủ trương cải cách và bảo thủ, rồi đến khi nước Đại Nam dần rơi vào tay quân Pháp cũng nảy sinh hai phe chủ chiến và chủ hòa.
Triều đình nhà Nguyễn ngày càng bất lực trước sự tấn công của Pháp, chỉ mong cắt đất cầu hòa. Cuối cùng, tới năm 1883, Tự Đức qua đời, ngay sau đó Pháp tấn công vào kinh đô và ép buộc nhà Nguyễn phải công nhận sự "bảo hộ" của Pháp trên toàn Đại Nam. Nhà Nguyễn sau thời Tự Đức chỉ còn là danh nghĩa, thực tế thì đã mất nước vào tay Pháp.
Mục lục
Thân thế
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (tức 22 tháng 9 năm 1829) tại Huế, là con thứ của vua Thiệu Trị và Phạm Thị Hằng (bà Từ Dụ). Khi còn nhỏ Hồng Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Phúc Thì.
Vì anh trai của ông, Nguyễn Phúc Hồng Bảo, là một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành nên vua Thiệu Trị trước lúc qua đời đã để di chiếu truyền ngôi cho ông. Bấy giờ ông mới 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm 1847 ông chính thức lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, bắt đầu từ năm sau là 1848. Khi Tự Đức lên cầm quyền, triều đình vẫn cai trị tuân theo phong cách Nho giáo.
Cai trị
Tự Đức lên ngôi vào tháng 10 năm Đinh Mùi 1847 theo di chiếu của vua cha Thiệu Trị. Bấy giờ ông mới có 19 tuổi.
Quan thần dưới thời Tự Đức
Phần lớn triều thần thời Tự Đức là những người chịu ảnh hưởng từ Nho giáo lỗi thời.[1] Họ chỉ nhìn nhận tình hình bằng con mắt của cả ngàn năm trước khi các nước phương Tây đã bỏ xa nước Việt về công nghệ, kỹ thuật. Một số người ở Nghệ An đã xuất ngoại để giao du và học hỏi nhiều thứ mới mẻ, mà điển hình là ông Nguyễn Trường Tộ. Khi về nước, Nguyễn Trường Tộ liền thỉnh cầu Hoàng đế gấp rút cải cách kẻo mất nước. Tiếc thay, quan thần xàm tấu với Hoàng đế và ông cũng từ chối ban hành cải tổ.[1]
Cũng không phải tại vua Tự Đức không muốn cải cách đất nước nhưng vì
khung cảnh thời gian. Cộng với việc nghe lời gian thần và ngu thần xúi
bậy nên mới bị mất nước. Nhiều nhà sử học đã trách việc mất nước lên các
quan thần dưới thời Tự Đức. Tuy nhiên dưới thời ông cũng có một số quan
thần ưu tú như Tôn Thất Thuyết, Trần Tiễn Thành là những ví dụ điển hình.[1]
Thuế má
Thuế má trong nước dưới thời Tự Đức đại khái cũng giống như các thời Minh Mạng (1820 - 1841) và Thiệu Trị (1841 - 1847) trước đó,[2] nhưng từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha chiếm các tỉnh Nam Kỳ
rồi lại phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, triều đình mới tìm
cách lấy tiền, bèn phải cho quan Hầu Lợi Trịnh đánh thuế cao trong việc
buôn bán thuốc nha phiến từ Quảng Bình đến Bắc Kỳ, tuy không nhiều. Sử sách chép rằng mỗi năm nhà vua thu được có 302.200 quan tiền thuế nha phiến.[2]
Nhà vua buộc phải dùng lối đời trước bán quan để lấy tiền, theo
hình thức "quyên". Định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm
cửu phẩm, lên đến 10.000 thì được thăng hàm lục phẩm.[2]
Quân đội
Thời Tự Đức có nhiều giặc giã và là một thời rất loạn lạc ở Đại Nam. Có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình cùng với thực dân Pháp âm mưu chiếm hết toàn cõi Đại Nam. Tuy nhiên quân đội nhà Nguyễn thời kỳ này lại sa sút rất nhiều. Theo sách Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ rệt với các triều trước.[3]
Một trong những lý do khiến cho tình hình quân đội sa sút là vấn đề tài
chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như không có. Bộ binh
được trang bị rất lạc hậu: 50 người mới có 5 khẩu súng, mỗi năm chỉ tập
bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo dưỡng cũng kém. Về thủy binh,
không có tàu hơi nước nào được đóng mới, thủy quân thậm chí không đủ
khả năng để bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không
còn chú trọng tới sách vở phương Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo triều Trần.
Đời sống binh lính không được quan tâm thỏa đáng, lương thực lại còn bị
ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của binh sĩ không được cao.[3] Năm 1861, Tự Đức ra lệnh cho các tỉnh thành chọn lấy những thanh niên trai tráng khỏe mạnh để đi lính. Đến năm 1865, triều đình Tự Đức tổ chức khoa thi đầu tiên để tuyển chọn Võ tiến sĩ vào thời Nguyễn.
Tuy rằng Đại Nam lúc đó các tướng sĩ tài giỏi không thiếu nhưng thời thế đã khác xưa thế mà vẫn còn dùng gươm giáo. Khi ấy, thực dân Pháp đã có súng ống tân tiến do đó gươm giáo của Đại Nam không thể địch nổi. Tuy Đại Nam
có nhân lực dồi dào, vũ khí hiện đại để chiến đấu thì lại thiếu thốn
trầm trọng. Trong một đội gồm 10 binh lính thì mới có một khẩu súng cũ,
phải châm ngòi bắn mới được. Mà quân sĩ không được tập bắn nhiều do sợ
tốn tiền đạn dược. Bởi thế khi quân Pháp tới Đại Nam chẳng thể chống
nổi.
Quan điểm khoa học quân sự
của vua quan triều Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa quân sự
phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời vua Tự Đức khiến cho quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều. Vì vậy, khi quân Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858, khoảng cách về trang thiết bị với quân đội nhà Nguyễn đã khá xa.[3]
Các cuộc nổi loạn
Tự Đức là một vị vua chăm chỉ về việc trị dân, ngay từ năm Canh Tuất (1850) vua sai Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược Đại sứ 6 tỉnh Nam Kỳ, Phan Thanh Giản làm Kinh lược Đại sứ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận, Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược Đại sứ Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa.
Các đại thần này đi khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn trong
dân gian, có điều gì hay dở phải dâng sớ tâu về Kinh đô cho vua biết.[4]
Dù vậy, tại Bắc Kỳ có 40 cuộc nổi loạn dưới triều Tự Đức.[4] Chỉ có vài ba năm đầu còn hơi yên trị, từ năm 1851 trở đi, trong nước ngày càng nhiều cuộc nổi loạn. Bắc Kỳ là nơi nhiều loạn nhất, bởi vì đây là đất của tiền triều Hậu Lê,
nhiều người tưởng nhớ đến tiền triều, nên chỉ những người muốn làm
loạn, hoặc tự nhận là hậu duệ triều Hậu Lê, hoặc tìm một người giả nhận
dòng dõi nhà Hậu Lê, rồi tôn lên làm minh chủ để lấy cớ mà khởi sự.[4]
Bấy giờ, ở Trung Quốc có quân Thái Bình Thiên Quốc nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi tan vỡ thì tàn quân Thái Bình Thiên Quốc tràn sang Việt Nam cướp phá ở miền thượng du, quan quân nhà Nguyễn phải đi đánh dẹp rất phiền phức.[4][5] Ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai biến như nước lụt, đê vỡ,... Ở Hưng Yên,
đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn Giang trở thành bãi cát bỏ
hoang, nhân dân đói khổ, nghề nghiệp không có, bởi thế nên người đi làm
giặc ngày càng nhiều.[4]
Quân Tam Đường
Năm 1851, có nhóm giặc Khách là Quảng Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường,... tục gọi là giặc Tam Đường quấy nhiễu ở mặt Thái Nguyên. Vua Tự Đức sai Nguyễn Đăng Giai
ra kinh lược ở Bắc kỳ. Giai đã dùng cách khôn khéo dụ được quân nổi
loạn về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến năm 1854, Nguyễn Đăng Giai qua đời, Bắc kỳ lại có loạn.[4]
Quân Châu Chấu
Năm 1854, năm Tự Đức thứ 7, ở tỉnh Sơn Tây có một nhóm người đem Lê Duy Cự là hậu duệ của triều Lê ra lập làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao Bá Quát, người làng Phú Thụy, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Cao Bá Quát là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc ở Bắc Kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, từ quan lui về dạy học, rồi theo nhóm người ấy xưng làm Quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn Tây và Hà Nội.[2]
Lúc đầu nghĩa quân giành được một số thắng lợi ở Sơn Tây, Nam Định nhưng sau đó thì bị quân triều đình đánh tan. Theo Thư mục chính biên thì Cao Bá Quát bị bắn chết trong một trận đánh năm 1855, nhưng theo Việt Nam sử lược thì Quát bị quan Phó Lãnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận đánh bắt được và đem về chém tại làng.[4] Vua Tự Đức ra lệnh cho tru di tam tộc dòng họ Cao.
Bởi vì tháng 5 ấy ở tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây có nhiều châu chấu phá hoại mùa màng, đến cuối năm lại có cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Cự, nên tục gọi là giặc Châu Chấu.[4][6]
Sau khi Cao Bá Quát chết, Lê Duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được.[4]
Khởi nghĩa Lê Duy Phụng
Khởi nghĩa Lê Duy Phụng là tên gọi của cuộc nổi dậy do Lê Duy Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ, lãnh đạo chống triều đình nhà Nguyễn ờ vùng ven biển Bắc Kỳ từ năm 1861 đến 1865. Cuộc nổi dậy đã được các lực lượng nông dân khởi nghĩa, các nhóm giặc cỏ ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An cũng như hải tặc ngoài biển ủng hộ nhiệt liệt, lan rộng khắp miền Bắc cho quân Pháp rảnh tay ở Nam Kỳ.
Hồng Bảo mưu giành ngôi
Theo lẽ thường, sau khi vua Thiệu Trị qua đời, ngôi vua sẽ được truyền cho người con trưởng là Nguyễn Phúc Hồng Bảo (1825 - 1854). Thế nhưng, khi vua Thiệu Trị mất, liền
ngày ấy, các hoàng thân và các quan văn võ họp tại điện Cần Chánh để
tuyên đọc di chiếu, theo đó hoàng tử thứ hai là Phúc Tuy công Nguyễn
Phúc Hồng Nhậm được lập lên ngôi. Hồng Nhậm khóc lạy lãnh mạng. Di chiếu
đọc chưa dứt, An Phong công (Hồng Bảo) phẫn uất thổ huyết hơn một đấu,
nằm vật ngã giữa điện đình. Lúc làm lễ đăng quang, mấy người phải đỡ ông
dậy, nghi lễ mới hoàn tất.[7]
Lý do Hồng Bảo bị phế truất, sử nhà Nguyễn chép lời trăng trối lúc lâm chung của Thiệu Trị nói với các đại thần Trương Đăng Quế,[8] Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp:
“ |
Trong các con ta, Hồng Bảo tuy lớn, nhưng vì thứ xuất, ngu độn ít
học, chỉ ham chơi, không thể nối nghiệp lớn được. Hoàng tử thứ hai là
Hồng Nhậm thông mẫn, ham học, rất giống ta, đáng nối ngôi vua. Hôm qua
ta đã phê vào di chiếu để trong long đồng. Các ngươi phải kính noi đó,
đừng trái mạng ta.[9]
|
” |
Dù vậy, Hồng Bảo không tin đây là ý của vua cha mà là do Trương Đăng Quế bày mưu, nên quyết chí báo thù người gây ra.[10] và tìm cách giành lại ngôi báu.
Quân Chày Vôi
Vào tình hình trước nguy cơ bị thực dân Pháp đô hộ. Đoàn Hữu Trưng, là một người có học thức, tin rằng vua Tự Đức bất tài và nghĩ rằng vua Hồng Bảo
nếu được lên ngôi thì sẽ giải quyết được tình hình nguy cấp như hiện
giờ. Trưng đứng về phía chủ chiến chống Pháp thay vì hòa. Ông còn phản
Tự Đức vì Tự Đức không chịu cải cách đất nước. Do các người dân tham gia
cuộc nổi dậy này đa số dùng chày vôi nên họ còn được gọi là quân chày vôi.
Giặc Khách ở Bắc kỳ
Thương mại
Tự Đức khước từ mọi giao thiệp với người phương Tây, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại.[11] Năm 1850, có tàu của Hoa Kỳ vào cửa Đà Nẵng, có quốc thư xin thông thương nhưng nhà vua làm ngơ không thèm tiếp thư.[11]
Từ năm 1855 đến 1877 các nước Anh, Pháp và Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình Định) và Quảng Yên xin thông thương cũng không được.[2] Mãi đến khi Gia Định bị thực dân Pháp chiếm đóng, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán và Thượng Bạc Viện
để giao thiệp với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những
người được ủy thác vào các việc này không được học hành gì về ngoại
giao.[2][12]
Việc cấm đạo Công giáo
Sau khi lên ngôi vào năm 1848 thì vua Tự Đức đã có dụ cấm đạo Công giáo,[11] cũng vì sự cấm đạo tàn nhẫn này mà thực dân Pháp sau này có cớ xâm chiếm Việt Nam.[11] Tự Đức nhận xét về Công giáo:
- "Họ bảo Thiên Chúa tức là Thượng đế, Thượng đế là chúa tể của trời, tức là sáng tạo ra trời đất, vạn vật. Họ lại nói Thiên chúa không phải là trời, không phải là đất, không phải là lý, không phải là đạo, không phải là khí, không phải là tính, không phải là người, không phải là vật, không phải là quỷ, không phải là thần, đó là đầu mối của vạn vật, mà chính mình không bắt đầu từ đâu cả… đem so với Lão Tử khi nói “Vô danh là bắt đầu của trời vật, Đạo sinh ra một, một sinh ra hai” mới thấy thuyết của Gia Tô lại càng xuyên tạc thô sơ, họ chỉ biết mượn Thiên Chúa để che giấu cái dấu tích Gia Tô, và để làm văn hoa cho sự lầm lỗi vì đã thờ phụng xằng mà không kể gì đến gốc tích nữa".[13]
Một trong những tuyên cáo của Tự Đức có ghi:
“ |
Đạo Chúa hiển nhiên là trái với tự nhiên, bởi nó không tôn trọng các tổ tiên đã khuất. Các thầy giảng đạo gốc Âu Châu,
là các kẻ đáng tội nhất, sẽ bị ném ra biển, với đá cột quanh cổ, và một
phần thưởng ba mươi nén bạc sẽ được trao cho bất cứ ai bắt được một
người trong họ. Các thầy giảng gốc Việt Nam
ít tội hơn, và trước tiên sẽ bị tra tấn để xem họ có sẽ từ bỏ những sai
lầm của mình hay không. Nếu từ chối, họ sẽ in dấu trên mặt và đày đi
đến những vùng rừng thiêng nước độc. Còn những ngu-dân thì các quan phải
ngăn-cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ-cúng cha ông, chứ đừng
có giết hại...[11]
|
” |
Ba năm sau đó, năm 1851, sự khoan dung này dành cho các linh mục bản xứ đột nhiên bị bãi bỏ. Từ đó dụ cấm đạo càng khắt khe hơn trước.[11] Từ đó về sau: "hoặc là họ phải chà đạp lên thánh giá, nếu không sẽ chém làm hai ở ngang lưng" (trảm yêu). Trong năm đó và năm kế tiếp, bốn vị giáo sĩ truyền đạo người Pháp
đã bị chém đầu và thi thể bị ném trôi sông hay ra biển. Báo chí Công
giáo tại Pháp kêu la trong sự kinh hoàng, và sự khích động đã thu nhận
được một cảm tình viên nơi Hoàng hậu Pháp Eugenie, nhất là khi trong số
các nạn nhân sau này có tên một vị tu sĩ Tây Ban Nha mà khi còn là một thiếu nữ, bà ta có quen biết tại Andalusia.
Về việc này, Trần Trọng Kim có lời bình:
“ |
Sức đã không đủ giữ nước mà cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người
ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi
thế nước Pháp và nước I Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.[2]
|
” |
Năm 1856, chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc giết giáo sĩ Công giáo.
Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có Giám
mục Pellerin trốn được lên tàu về Pháp, thuật lại cho triều đình Pháp cảnh các giáo sĩ Công giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam.
Pellerin nói rằng chỉ cần có loạn là các tín đồ Công giáo sẽ nổi lên
đánh giúp. Cùng sự tác động của Hoàng hậu Pháp Eugénie, một người rất
sùng đạo, Hoàng đế Pháp Napoléon III (1808 - 1873) quyết ý đánh Việt Nam.[14]
Cuộc xâm lược của Pháp
Năm 1858, Trung tướng Pháp là Charles Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha gồm 14 chiếc vào cửa Đà Nẵng bắn phá rồi hạ thành An Hải và Tôn Hải.
Dù chỉ đồn trú ở Đà Nẵng,
các binh sĩ ngoại quốc đã bị khuất phục với các con số đáng sợ vì mắc
bệnh dịch tả, kiết lỵ và các chứng bệnh nhiệt đới khác, và một cuộc tiến
quân trên nội địa bằng đường bộ hoàn toàn là điều không thực hiện được.
Dòng sông Hương
chảy từ Huế ra biển, nhưng chỉ có những tàu chạy ở tầm nước nông mới
lưu thông được, và kém may mắn thay một số tàu chiến loại nhỏ được sản
xuất đặc biệt tại Pháp cho chiến dịch Việt Nam lại bị phái sang Hồ Lake Garda để chống lại người Áo trong một cuộc chiến nổ ra tại miền Bắc nước Ý. Hiển nhiên việc chỉ lảng vảng ở Đà Nẵng
sớm bị chứng tỏ là không đạt được một mục đích gì cả. Nhưng họ còn có
thể đi đâu được nữa. Trung tướng Rigault de Genouilly đổi ý sang đánh Gia Định. Đầu năm 1859, Rigault de Genouilly dẫn quân Pháp và Tây Ban Nha vào cửa Cần Giờ, đánh thành Gia Định. Chỉ trong 2 ngày thì thành vỡ, quan Hộ đốc Võ Duy Ninh tự vận. Xong Trung tướng Rigault de Genouilly lại đem quân trở ra Đà Nẵng đánh đồn Phúc Ninh, quân của Nguyễn Tri Phương thua phải rút về giữ đồn Nại Hiên và Liên Trì.
Rigault de Genouilly bệnh phải về nước, Thiếu tướng Page sang
thay. Thiếu tướng Page đề nghị việc giảng hòa, chỉ xin được tự do giảng
đạo Công giáo và được buôn bán với Việt Nam nhưng triều đình Huế không đồng ý. Đến năm 1862, quân Pháp chiếm Biên Hòa và Vĩnh Long. Triều đình Huế phái Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Nam giảng hòa với Pháp ngày 9 tháng 5 năm Nhâm Tuất, 1862. Trong bản hòa ước gồm 12 khoản có những khoản như sau:
- Việt Nam phải để cho giáo sĩ Công giáo người Pháp và người Tây Ban Nha được tự do giảng đạo và để dân gian được tự do theo đạo.
- Việt Nam phải nhượng đứt cho nước Pháp các tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường và phải để cho chiến thuyền của Pháp ra vào tự do ở sông Mê Kông.
Vua Tự Đức bèn nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp và phái Phan Thanh Giản vào trấn giữ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ còn lại. Năm 1867, Phó Đô đốc La Grandière kéo quân đánh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Phan Thanh Giản biết thế chống không nổi nên bảo các quan nộp thành trì cho bớt đổ máu rồi uống thuốc độc tự vẫn. Toàn đất Nam Kỳ thuộc về Pháp.
Năm Quý Dậu 1873, Thiếu tướng Dupré sai Trung úy Hải quân Francis Garnier đem quân tấn công thành Hà Nội. Chỉ một giờ thì thành vỡ, tướng Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Bị Pháp bắt, ông không cho băng bó và nhịn ăn đến chết. Trong 20 ngày, Việt Nam mất bốn tỉnh là Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương.
Khi ấy có Lưu Vĩnh Phúc
là đầu đảng của quân Cờ Đen về hàng triều đình Huế, vua Tự Đức phong
cho chức Đề đốc để phụ đánh quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân ra đánh
thành Hà Nội. Francis Garnier đem quân ra nghênh thì bị phục kích chết ở cầu Giấy. Paris biết chuyện nên triệu Thiếu tướng Dupré về Pháp. Dupré tìm cách đỡ tội, sai Đại úy Hải quân Paul-Louis-Félix Philastre ra Hà Nội để trả lại thành và bốn tỉnh bị chiếm. Hai bên ký hòa ước năm Giáp Tuất 1874,
trong đó triều đình Huế công nhận cả miền Nam là thuộc về Pháp và Pháp
cũng bồi thường lại cho Việt Nam bằng tàu bè và súng ống.
Năm 1882, Thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers
gởi thư cho triều đình Huế nói rằng vua ngu tối, bất lực, đất nước loạn
ly, Pháp phải trấn an miền Bắc để bảo vệ quyền lợi của dân Pháp. Một
mặt Le Myre de Vilers gửi Đại tá Hải quân Henri Rivière ra Hà Nội, đưa tối hậu thư cho quan Tổng đốc Hoàng Diệu bắt phải hàng. Đúng 8 giờ sáng thì quân Pháp tấn công, 11 giờ thành đổ, Hoàng Diệu treo cổ tự tử.
Khâm sai Pháp ở Huế là Rheinart sang thương thuyết, trong đó đòi nước Việt Nam phải nhận nước Pháp bảo hộ và nhường thành thị Hà Nội cho Pháp. Triều đình cho người sang cầu cứu Trung Quốc. Triều đình nhà Thanh được dịp bèn gởi quân qua đóng hết các tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây. Quân Pháp và quân Trung Quốc giao tranh. Đại tá Henri Rivière bị quân Cờ Đen giết tại Cầu Giấy.
Sau cái chết của vua Tự Đức, các vị vua ít tuổi lần lượt được đưa lên Dục Đức, Hiệp Hòa; ngày 20 tháng 8 năm 1883 Pháp tấn công vào cửa biển Thuận An, một hiệp ước được ký kết là Hiệp ước Quý Mùi 1883 với nội dung là xác nhận quyền bảo hộ của người Pháp lên Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Qua đời
Giữa khi đó, ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi, tức ngày 19 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức qua đời, hưởng thọ 54 tuổi. Bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu; miếu hiệu là Dực Tông (翼宗) và thụy hiệu là Anh Hoàng đế (英皇帝). Lăng ông gọi là Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Một điều rất đáng chú ý ở Khiêm Lăng là tấm bia ở Bi đình nặng
trên 20 tấn do Tự Đức tự dựng cho mình. Thông thường, con phải dựng văn
bia cho cha nhưng vì Tự Đức không có con ruột nên ông tự dựng.[15]
Đời tư
Tự
Đức được đánh giá là một vị vua có tư cách tốt. Ông chăm chỉ xem xét
việc triều chính và không hề trễ nải, được các quan nể phục. Theo Việt Nam sử lược, ông thường hay chít khăn vàng và mặc áo vàng, khi có tuổi thì ông hay mặc quần vàng và đi giày hàng vàng do nội vụ đóng.[2]
Văn học
Tự Đức là ông vua hay chữ nhất triều Nguyễn,[2] nên ông rất đề cao Nho học. Ông chăm về việc khoa bảng, sửa sang việc thi cử và đặt ra Nhã Sĩ khoa và Cát Sĩ khoa[2] để chọn lấy người có tài văn học ra làm quan.
Tự Đức là người ham học, hiểu biết nhiều và đặc biệt yêu thích thơ văn. Đêm nào ông cũng xem sách đến khuya.[2] Ông làm nhiều thơ băng chữ Hán, trong đó có bộ Ngự Chế Việt sử tổng vịnh, vịnh hàng trăm nhân vật trong lịch sử Việt Nam. Ngoài ra, ông còn làm cả sách bằng chữ Nôm để dạy cho dân dễ hiểu, điển hình như Luận Ngữ diễn ca, Thập điều, Tự học diễn ca...[2] Có rất nhiều giai thoại về Tự Đức, nhất là những chuyện vua giao thiệp với nhà văn, học giả đương thời.
Nhà vua rất thích lịch sử, đã đặt Tập Hiền viên và Khai Kinh diên để ông ngự ra cùng với các quan bàn sách vở, thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Ông còn chỉ đạo cho Quốc sử quán soạn bộ sử lớn Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, từ đời thượng cổ cho đến hết thời nhà Hậu Lê,[2] trong đó ông tự phê nhiều lời bình luận.
Tự Đức cũng rất yêu nghệ thuật, đã tập trung nhiều người soạn kịch bản tuồng về kinh thành Huế, và lệnh cho soạn những vở tuồng lớn Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy.
Vua có hiếu
Tự Đức được người đời ca tụng là một ông vua
có hiếu. Lệ thường cứ ngày chẵn thì chầu cung, ngày lẻ thì ngự triều:
trong một tháng chầu cung 15 lần và ngự triều cũng 15 lần, trừ khi đi
vắng và lâm bệnh. Trong suốt 36 năm thường vẫn như thế, không sai chút
nào.[2]
Dù làm vua, Tự Đức luôn kính cẩn vâng lời mẹ dạy. Ông đã ghi chép những lời răn của mẹ vào một cuốn sách, đặt tên là Từ huấn lục.
Thậm chí, có lần do mải mê đi săn về cung hơi muộn, thấy mình phạm lỗi
nên ông nằm ra, đặt chiếc roi lên mâm son để chờ Hoàng thái hậu Từ Dụ trừng phạt.[2]
Vợ
Ông có tất cả 103 người vợ và ông không đặt Hoàng hậu mà chỉ cao nhất là Hoàng quý phi, và không có ghi chép đủ về tất cả các cung phi của ông.
Phong hiệu | Tên | Sinh | Mất | Cha | Ghi chú | |
---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng hậu | ||||||
Lệ Thiên Anh Hoàng hậu 儷天英皇后 |
Vũ Thị Duyên | 20 tháng 6 năm 1828 | 3 tháng 6 năm 1903 | Đông các Đại Học sĩ Vũ Xuân Cẩn | Lăng của bà hiệu Khiêm Thọ Lăng, bên phía tả Khiêm Lăng, tại làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. | |
Phi tần | ||||||
Nhất giai Thiện phi 一階善妃 |
Nguyễn Thị Cẩm | Hải An Kinh lược Đại thần Nguyễn Đình Tân | Từ Cung tần, bà Nguyễn Thị Cẩm được phong làm Chiêu phi vào năm 1860, thuộc hàng Nhị giai phi. Rồi sau đó được tấn phong làm Thiện phi, thuộc hàng Nhất giai phi. Bà được giao dạy dỗ công tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, sau này lên ngôi là Đồng Khánh Hoàng đế. | |||
Nhất giai Học phi 一階學妃 |
Nguyễn Văn Thị Hương | Nghiêm Oai tướng quân Nguyễn Văn Tuấn | Từ Tứ giai Lượng tần, bà được tấn phong làm Nhị giai Khiêm phi vào năm Tự Đức thứ 23, rồi Nhất giai Học phi năm thứ 27, chỉ đứng sau Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên. Năm 1870, theo lệnh vua Tự Đức, bà nhận công tử Nguyễn Phúc Ưng Đăng bấy giờ mới 2 tuổi làm con nuôi (cho nhà vua). Về sau Kiến Phúc đăng cơ, bà được tôn làm Hoàng thái phi chỉ đứng sau bà Từ Dụ và Trang Ý, 3 người hợp lại gọi là Tam cung. | |||
Tam giai Mẫn tần 三階敏嬪 |
Lê thị | Từ Thận tần, bà được tấn phong làm Cung phi vào tháng 1 năm Tự Đức thứ 13, sau bị giáng làm Tam giai Mẫn tần năm Tự Đức thứ 32 | ||||
Tam giai Lễ tần 三階禮嬪 |
Nguyễn Nhược Thị Bích | 1830 | 1909 | Thanh Hoá Hộ đốc Nguyễn Nhược Sơn | Nguyên là Lục giai Tiệp dư, khi mất được Thái hoàng thái hậu Từ Dụ truy tặng hiệu Lễ tần. Nổi tiếng về tài văn chương và học thức trong triều đại nhà Nguyễn. | |
Ngũ giai Nhàn tần 五階嫻嬪 |
Phan thị | |||||
Ngũ giai Cẩn tần 五階謹嬪 |
Nguyễn Lương thị | 19 tháng 11 | ||||
Ngũ giai Tín tần 五階信嬪 |
Nguyễn thị | 9 tháng 7 năm Tự Đức 23 | ||||
Tiệp dư | Trần thị | Nguyên là Quý nhân, năm Tự Đức 23 tấn phong làm Tiệp dư | ||||
Quý nhân | Nguyễn thị | Nguyên là Mỹ nhân, năm Tự Đức 23 tấn phong làm Quý nhân | ||||
Mỹ nhân | Phạm Thị Thiều | |||||
Tài nhân | Lê thị |
Con nuôi
Vua Tự Đức vì lúc bé bị bệnh đậu mùa nên không có con. Ông nhận ba người cháu làm con nuôi:
- Hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Ưng Ái (1869 đổi thành Ưng Chân), tức vua Dục Đức.
- Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Kỷ, tức vua Đồng Khánh.
- Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Đăng, tức vua Kiến Phúc.
Tác phẩm
- Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca (嗣德聖製字學解義歌), gọi tắt Tự học giải nghĩa ca, 13 quyển, do vua Tự Đức biên soạn, được Tu thư cục thuộc Sử quán triều Nguyễn khắc in năm Thành Thái thứ 10 (1898).[16]
- Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập (御製越史總詠集), tập thơ vịnh về các nhân vật lịch sử.
Sách tham khảo
- Bang giao Đại Việt, triều Nguyễn, Nhà Xuất bản VHTT 2005.
Chú thích
- ^ a ă â Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tr. 239-242.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m Dực Tông - Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
- ^ a ă â Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, tr. 75.
- ^ a ă â b c d đ e ê Giặc giã ở trong nước - Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
- ^ Việt Sử toàn thư-Phạm Văn Sơn, tr. 433.
- ^ Việt Sử toàn thư-Phạm Văn Sơn, tr. 434.
- ^ Theo Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Khuê dẫn lại, Tâm trạng Tương An quận vương, tr. 210.
- ^ Trương Đăng Quế (1793 - 1865) là thầy học của vua Thiệu Trị, có thế lực lớn trong triều, hiềm khích với Hồng Bảo.
- ^ Đại Nam thực lục chính biên, đệ tam kỷ, tờ 14ab và Quốc triều chính biên toát yếu, quyển 4, tờ 41 ab.
- ^ Trong thư đề ngày 15 tháng 1 năm 1852, giáo sĩ GaLy viết: Hồng Bảo cũng cho sự phế lập ấy do ông Trương Đăng Quế chủ trương, nên ông thường nói ông muốn làm vua được một ngày để mổ ruột ông Quế.
- ^ a ă â b c d Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tr. 242.
- ^ Việt Sử toàn thư, Phạm Văn Sơn, tr. 432.
- ^ Mối quan hệ giữa Nho giáo và Công giáo ở Việt Nam, Nguyễn Hồng Dương, Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.196-211.
- ^ “CUỘC TẤN CÔNG QUÂN SỰ ĐẦU TIÊN CỦA PHÁP VÀO VIỆT NAM”. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
- ^ Lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn
- ^ Trần Văn Chánh, Điểm qua một số bộ từ điển Hán Việt tiên phong, Đặc san Suối Nguồn.
No comments:
Post a Comment