Thiền sư Vạn Hạnh và tài tiên tri xuất chúng
(PLO) - Nước Việt ta, sử sách nhắc đến và ca ngợi Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) như một nhà tiên tri xuất chúng mà tài
dự đoán của ông được tạo thành những giai thoại li kỳ. Nhưng, tài tiên
tri ấy, trước Trạng Trình khoảng 4 thế kỷ, cũng đã có một người xuất
chúng không kém: Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025).
Dự đoán việc thắng Tống, bình Chiêm
Vạn Hạnh vốn người Cổ Pháp, họ Nguyễn,
gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ sư đã khác thường, minh mẫn thông
tuệ, xem thường công danh.
Theo Thiền uyển tập anh (tức là Anh tú
vườn thiền): “Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa
Lục Tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, sư chuyên
tập pháp môn Tổng trì tam ma địa, lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư
nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết
lòng tôn kính Sư”.
Về tài chiêm đoán của Vạn Hạnh, xin chép
lại những việc sau để bạn đọc cùng tỏ tường: Tháng 3 năm Thiên Phúc thứ
nhất (981), dưới thời trị vì của vua Lê Đại Hành, tướng nhà Tống là Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu
Trừng đến Bạch Đằng Giang.
Họa ngoại xâm lửng lơ trên đầu. Vua Lê
Đại Hành bấy giờ vốn biết tiếng Vạn Hạnh, cho người mời sư đến, đem
chuyện thắng bại ra hỏi. Sư đáp:
- Trong vòng 37 ngày giặc phải lui.
Sau quả nhiên, quân Tống đại bại đúng như lời dự đoán của Thiền sư.
Năm Nhâm Ngọ (982), vua Đại Hành lại sai
bọn Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Chiêm Thành, nhưng bị vua Chiêm
bắt giữ. Vua oán giận lắm, có ý muốn xuất quân Nam chinh. Nhưng việc bàn
định chưa dứt khoát. Biết việc, Vạn Hạnh tâu với vua:
- Xin hoàng thượng mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội.
ADVERTISEMENT
Nghe
lời sư, vua Lê Đại Hành bèn sửa sang thuyền chiến và đồ giáp binh, thân
tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước Chiêm là Bề Mi Thuế tại
trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chiêm Thành bỏ thành chạy. Ta
bắt được trăm người cung nữ và vàng bạc châu báu kể có hàng vạn, san
phẳng cả thành trì, phá hủy cả tông miếu, vừa đầy một năm mới về kinh
đô.
Có tên Đỗ Ngân ghen ghét với tài năng của Vạn Hạnh, muốn tìm cách mưu hại. Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
Cây đất sinh nhau bạc với vàng,/ Cớ sao thù địch mãi cưu mang/ Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt,/ Thật đến về sau chẳng hận lòng.
(Nguyên văn câu một: Thổ mộc tương sinh
ngân bạn kim. Đọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ “Đỗ”, chỉ Đỗ
Ngân. Nguyên văn câu ba: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt. Đọc theo lối
chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là “ta”, thu với tâm là chữ “sầu”).
Đỗ Ngân đọc xong sợ toát mồ hôi, từ ấy thôi hẳn ý định xấu xa.
Dự đoán nghiệp đế
Đối với Lý Công Uẩn, ngay từ buổi đầu, ở
Viện Cảm tuyền (ở Chùa Lục Tổ) nơi Thiền sư Lý Khánh Văn đang nuôi và
dạy Lý Công Uẩn (lúc còn trẻ thơ), Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng: “Đây là
người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm (cho đời)
mà làm minh chúa của thiên hạ”.
Nghiệp đế của Lý Thái Tổ có sự dự phần của sư Vạn Hạnh |
Việc nhìn tướng biết người ấy về sau quả linh nghiệm như lời ông nói khi Lý Công Uẩn lên ngôi mở ra triều Lý.
Khi vua Lê Đại Hành mất, con cháu ông
tranh giành ngôi báu, vua Trung Tông ở ngôi ba ngày thì bị ám hại, ngai
vàng về tay Lê Ngọa Triều. Nhưng ngặt nỗi, Lê Ngọa Triều bạo ngược, trời
người đều oán ghét. Lý Công Uẩn khi ấy giữ chức Thân vệ trong triều Lê.
Trong khoảng thời gian này, những điềm liên quan đến Công Uẩn, Vạn Hạnh
ước đoán đều đúng cả.
Như viện Hàm Toại chùa Ứng Thiên Tâm,
châu Cổ Pháp có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ “Thiên tử”.
Cái điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn
sinh năm Giáp Tuất. Rồi sét đánh vào cây đa chùa Song Lâm nơi trụ trì
của Thiền Ông (thầy Vạn Hạnh) ở làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức để lại dấu
thành nét chữ “Quốc”.
Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương là cha của
Lý Công Uẩn, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng. Những việc mà tùy theo
chỗ tai nghe mắt thấy Vạn Hạnh đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm
Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi tại Hoa Lư, mặc dù
lúc ấy ông đang ở tại chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước việc, bảo với
người bác và người chú của Lý Công Uẩn rằng:
- Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ hiện đang
ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa
này, Thân vệ ắt được lên ngôi.
Nói rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
Tật Lê chìm bể Bắc, / Hạt Lý mọc trời Nam./ Bốn phương gươm giáo dẹp,/
Tám cõi mừng bình an.
(Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý)
Bác và chú của Lý Công Uẩn nghe nói rất
sợ, việc chẳng biết thành bại ra sao kẻo lụy đến gia tộc, nên sai người
đi hỏi tin tức, thì quả đúng như lời Vạn Hạnh nói, Lý Công Uẩn đã lên
ngôi vua rồi.
Trước đó, khi Lý Công Uẩn chưa lên ngôi vua. Ở chùa thuộc Cổ Pháp quê ông có cây đa bị sét đánh đổ, ở ruột cây đa có chữ rằng:
Thụ căn diểu diểu,/ Mộc biểu thanh thanh./ Hòa đao mộc lạc,/ Thập bát tử thành./ Đông a nhập địa,
Dị mộc tái sinh./ Chấn cung kiến nhật,/ Đoài cung ẩn tinh./ Lục thất niên gian,/ Thiên hạ thái bình.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhà sư Vạn
Hạnh giải mã lời sấm rằng: Câu “mộc căn diểu diểu”, chữ “căn” nghĩa là
gốc, tức là vua; “mộc biểu thanh thanh”, chữ “biểu” đồng nghĩa với chữ
ngọn, tức là bề tôi. “Hòa đao mộc” ghép lại thành chữ Lê; “Thập bát tử”
ghép lại thành chữ Lý; “Đông A” ghép lại thành chữ Trần. Bài sấm có
nghĩa là: “Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất thì họ Lý nổi
lên. Thiên tử (mặt trời) ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây
lặn mất, trải qua 6 - 7 năm thì thiên hạ thái bình”.
Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn: - Mới rồi
tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ
nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai
bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh
giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chính là ông. Tôi đã hơn 70 tuổi
rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào,
thực là cái may nghìn năm có một.
Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, đem Vạn
Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Sau này đúng như lời ước đoán của Vạn Hạnh thật
chỉnh với vận của Lý Công Uẩn, và chỉnh với cả lịch sử các triều đại về
sau của nước Việt ta.
Với tài chiêm đoán của mình, cùng công
sức dạy dỗ, hướng nghiệp đạo, đời cho Lý Công Uẩn, Thiền sư Vạn Hạnh trở
thành một nhân vật có đóng góp rất lớn cho lịch sử nước nhà không chỉ
về mặt đạo mà cả mặt đời. Cảm công đức của ông, sau này, Vua Lý Nhân
Tông viết về Vạn Hạnh: Vạn Hạnh dung tam tuế/ Chân phù cổ sấm thi/ Hương
quan danh cổ pháp/ Trụ tích chấn vương kỳ
Nghĩa là: Thiền Sư Vạn Hạnh hợp nhất
được ba cõi, quá khứ, hiện tại, vị lai/ Đúng với tinh thần tiên tri thời
cổ xưa/ Quê hương danh tiếng là Cổ Pháp/ Thiền Sư đem gậy Thiền Học bảo
vệ cho lãnh thổ quốc gia.
Còn Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Sư
Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi
thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là
có tri thức vượt người thường vậy”…/.
No comments:
Post a Comment