ĐẰNG SAU NHỮNG THẦN TOÁN
SƠN TRUNG
Những lời truyền phán của thần thánh rất linh nghiệm.
CHÚA LIỄU HẠNH GIÁNG CƠ BÚT
Hoành sơn một dải ra vào,
Cuốc kêu vọng đế, cáo gào giả vương.
Cung trăng đã sẵn trời dương
Giang sơn lại mở một trường xuân thu.
Tên đâu ba mũi phục thù,
Khen cho Khắc Dụng bày trò cho con.
Ngọn cờ phất phới đầu non.
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về.
Dặm đường lai láng máu dê.
Con quay ngả trắng ba que cuộc tàn.
Trời Nam vận ở Viêm bang
Chân nhân đâu đến những phường thầy tăng;
Đồng dao lại có câu rằng:
Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
Bây giờ quét sạch thử ly.
Ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm.
Đương khi sấm sét ầm ầm.
Ấy là khí số để găm trị bình.
Vũ phu mà bức thư sinh.
Long ô chấp cả mấy anh Thuỷ Hoàng.
Nực cười cho lũ bàng quan.
Cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe.
Thôi thôi mặc lũ thằng hề.
Gió mây ta lại đi về gió mây.
BÀI GIÁNG BÚT
CỦA VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU
(Tại Đền Ngọc Sơn, Hà Nội 1938.)
Thiên cơ chẳng dám nói ra
Có duyên đã gặp thì ta đãi lòng
Ba mầu đến độ suy vong
Khỉ về Gà gáy, vầng hồng nổi lên
Cúc vàng rót chén rượu tiên
Uống mà xem lũ đảo điên luân thường
Mèo lùi Cáo nắm kỷ cương
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳ
Nhân gian mấy độ hợp ly
Đồng hoang nhuộm máu kinh kỳ tả tơi
Quỉ Ma giao chiến khắp nơi
Quỉ ở trên trời, Ma ở dưới hang
Cỏ cây non nước điêu tàn
Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi
Vẩy Rồng tạm tách làm đôi
Bóng câu in dấu muôn đời nhuốc nhơ
Kể từ đôi ngũ nằm chờ
Thầy Tu mở nước bấy giờ mới hay
Chẳng qua cũng giống Quỉ Tây
Ma tàn Quỉ hết đến ngày Long-Hoa
Khỉ về Gà gáy oa oa
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời
Quỉ Ma đến lúc đi đời
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng
Chó mừng tân chủ rõ ràng
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương
Long Hoa muôn thuở biên cương
Việt Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang.
(Tại Đền Ngọc Sơn, Hà Nội 1938.)
BỒ TÁT TUỆ TRUNG
ÐÔNG-A TRÚC-LÂM YÊN-TỬ
Sáng Tổ (Phóng Cuồng Hòa Thượng)
Bài Giáng Bút 1944.
Bồ Tát Tuệ Trung là con cuả đức Trần Hưng Ðạo, trước khi đi tu ngài từng làm đại tướng trong trận chiến chống quân Mông. Miếu thờ ngài rất linh thiêng, năm 1944 vì nước nhà loạn lạc nên một số nhân sĩ lên miếu ngài hỏi thăm việc nước.
Ðây là bài thơ (sấm) ngài đã giáng bút truyền cho:
Như thị ngã văn
Kim ô lạc địa
Tinh đáo thanh thanh
Xích xích kim tinh
Ðế hệ ngũ thế
Nhị quỉ tranh phong
Mộc mã ung dung
Hoàng Long dĩ trảm
Hầu ngộ thanh dương
Hắc hắc thiết vi
Bách tính Nam quy
La sát nhập địa
Lục trúc cao phi
Thạc thử kí tận
Chúng sinh đa nạn
Nhị thập nhật minh
Thố ngộ thanh long
Kê khuyển ngộ xà
Ðịa Tạng tru ma
Bách tính tôn phục
Tứ phương qui gia
Như ta nghe rằng
Quạ vàng rơi xuống
Sao đến xanh xanh
Ðỏ đỏ sao vàng
Ðế hệ năm đời
Hai quỉ giành thắng
Ngựa gổ thong dong
Rồng vàng bị chém
Khỉ gặp dê xanh
Ðen đen sắt vây
Trăm họ về Nam
La sát vào đất
Trúc xanh bay cao
Chuột lớn đã hết
Chúng sinh nhiều tai nạn
Ngày thứ hai mươi
Thỏ gặp rồng xanh
Gà chó gặp rắn
Ðịa Tạng bồ tát diệt ma
Trăm họ quy phục
Bốn phương về nhà *
VẠN MỘC CƯ SĨ luận
Liễu Hạnh công chúa (chữ Hán: 柳杏公主) là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh (柳杏), Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân" và cuối cùng quy y cửa Phật.
Bà còn được cho là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.
Truyền thuyết
Căn cứ vào "Quảng Cung linh từ phả ký", "Quảng Cung linh từ bi ký" và "Cát Thiên tam thế thực lục" hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:Lần giáng sinh đầu tiên
Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam; có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, tỉnh Nam Định).Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).
Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.
Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn xá - Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn xá, Bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy, Bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó Bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, Bà đã hoá thần về trời. Năm đó Bà vừa tròn 40 tuổi.
Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ, Đồng thời quê mẹ của Người là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.
Lần giáng sinh thứ hai
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), bà lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc tại thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Kim Thái, Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vị Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.Lần này, Bà kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, Bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dầy, thôn Thiên Hương - Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Lần giáng sinh thứ ba
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây… Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.[1]Hành thiện giúp đời
Trận giao chiến trên Đèo Ngang[2]Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.
Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ
Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.[3]
Theo “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.
Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 - Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử. (Cụm từ "tam mộc sâm" 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 (cây; gỗ) hợp lại thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp; đông đúc) và cụm từ "hảo... nữ tử " 好… 女子 chỉ chữ nữ 女 (đàn bà, con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt, đẹp, hay).
Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 - Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. (Cụm từ "trùng sơn xuất " 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出 (= ra; đi ra) và cụm từ "sứ... lại nhân"使…吏人 chỉ chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì).
Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 - Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. (Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.
Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 - Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. (Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 (= 學). Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳).
Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa) và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ: 冫馬已走 - Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này. Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.
Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)
Cuộc tái hợp với Đào Lang- Người chồng kiếp trước
Vi tình nghĩa thuỷ chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), bà vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ bà ở Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Quy y Phật tổ[4]
Sau khi hóa về trời,do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả “yêu nữ” ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.
Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.
Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Sắc phong
- Mã hoàng công chúa, thượng đẳng tối linh tôn thần.
- Thượng thượng thượng đẳng tối linh,vị bách thần chi thủ
- Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại vương
Lễ hội
Quần thể di tích Phủ Dầy tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Chùa Phúc Lâm Tự, phủ Kim Thoa ở xóm 1 ( tục gọi là làng Đồi), xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Phủ Quảng Cung (Phủ Nấp) ở thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
Phủ Tây Hồ ở Hà Nội
Phủ Đồi Ngang, đền Dâu, đền Quán Cháo ở phòng tuyến Tam Điệp (Ninh Bình)
[Đền Sòng] ở phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hoá. Ngoài ra con có đền thờ bà tại nơi bà chuyển sinh lần thứ ba ở Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá
Đền Sòng Sơn ở số 35 phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Lễ hội thường kéo dài vài tuần lễ. Riêng lễ hội Phủ Dầy, còn gắn liền với Hội chợ Viềng, họp vào ngày 7 tháng giêng.
Bài giáng bút của chúa Liễu Hạnh sâu kín không rõ nghĩa. Bài giáng bút của Vân Hương thánh mẫu rõ hơn.
-
Ba mầu đến độ suy vong
-
Khỉ về Gà gáy, vầng hồng nổi lên
-
Cúc vàng rót chén rượu tiên
-
Uống mà xem lũ đảo điên luân thường
-
Mèo lùi Cáo nắm kỷ cương
-
Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳBa màu là nói về cờ tam tài của Pháp. Pháp suy yếu, Vừng hồng (Việt Minh (Cộng sản) nổi lên năm ất dậu (gà gáy)1945. Cộng sản đưa ra thuyết đấu tranh giai cấp, gây ra việc con đấu cha, vợ tố chồng (đảo điên luân thường). Mèo là Bảo Đại hiền lành thoái vị cho Hồ Chí Minh lên (Cáo), từ đó gây ra nội chiến (huynh đệ tương tàn, tuơng tàn cốt nhục)
-
Nhân gian mấy độ hợp ly
-
Đồng hoang nhuộm máu kinh kỳ tả tơi
-
Quỉ Ma giao chiến khắp nơi
-
Quỉ ở trên trời, Ma ở dưới hang
-
Cỏ cây non nước điêu tàn
-
Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi
-
Vẩy Rồng tạm tách làm đôi
-
Bóng câu in dấu muôn đời nhuốc nhơ!Nói về trận Điện Biên Phủ, Pháp đầu hàng Việt Minh , rồi hiệp định Genève 1953 chia đôi Việt Nam.Thật ra Điện Biên Phủ là do Trung Cộng đánh, là một chiêu thưc buộc nợ vào cổ Việt Cộng cho nên Việt Cộng phải trả bằng ba đặc khu!Thầy Tu mở nước bấy giờ mới hay
Chẳng qua cũng giống Quỉ Tây
Ma tàn Quỉ hết đến ngày Long-HoaCó người giải thich Thầy tu là Ngô Đình Diệm. Thầy Tu là Thầy Tăng, là Thằng Tây, Ngô Đình Diệm cũng là tay chân của Tây phương, ông theo lệnh của La Mã và Pháp, Mỹ!Ngô Đình Diệm sụp đồ 1963 là đến hội Long Hoa nhưng sau Ngô triều là cộng sản. Bao giờ hội Long Hoa đến?Trên đây là nói về những cơ bút của thần linh. Tiếp theo xin giới thiệu những thần toán của người trần.Sư Vạn Hạnh tiên tri:Thiền sư Vạn Hạnh (938 - 1025).
Dự đoán việc thắng Tống, bình Chiêm
Vạn Hạnh vốn người Cổ Pháp, họ Nguyễn, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ sư đã khác thường, minh mẫn thông tuệ, xem thường công danh.
Theo Thiền uyển tập anh (tức là Anh tú vườn thiền): “Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, sư học tập quên cả mệt mỏi.
Sau khi Thiền Ông viên tịch, sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa, lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư”.
Về tài chiêm đoán của Vạn Hạnh, xin chép lại những việc sau để bạn đọc cùng tỏ tường: Tháng 3 năm Thiên Phúc thứ nhất (981), dưới thời trị vì của vua Lê Đại Hành, tướng nhà Tống là Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến Bạch Đằng Giang.
Họa ngoại xâm lửng lơ trên đầu. Vua Lê Đại Hành bấy giờ vốn biết tiếng Vạn Hạnh, cho người mời sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi. Sư đáp:
- Trong vòng 37 ngày giặc phải lui.
Sau quả nhiên, quân Tống đại bại đúng như lời dự đoán của Thiền sư.
Năm Nhâm Ngọ (982), vua Đại Hành lại sai bọn Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Chiêm Thành, nhưng bị vua Chiêm bắt giữ. Vua oán giận lắm, có ý muốn xuất quân Nam chinh. Nhưng việc bàn định chưa dứt khoát. Biết việc, Vạn Hạnh tâu với vua:
- Xin hoàng thượng mau cất binh, nếu không, ắt mất cơ hội.
ADVERTISEMENTNghe lời sư, vua Lê Đại Hành bèn sửa sang thuyền chiến và đồ giáp binh, thân tự làm tướng, đi đánh, chém được tướng nước Chiêm là Bề Mi Thuế tại trận và bắt được tù binh rất nhiều. Chúa Chiêm Thành bỏ thành chạy. Ta bắt được trăm người cung nữ và vàng bạc châu báu kể có hàng vạn, san phẳng cả thành trì, phá hủy cả tông miếu, vừa đầy một năm mới về kinh đô.
Có tên Đỗ Ngân ghen ghét với tài năng của Vạn Hạnh, muốn tìm cách mưu hại. Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ:
Cây đất sinh nhau bạc với vàng,/ Cớ sao thù địch mãi cưu mang/ Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt,/ Thật đến về sau chẳng hận lòng.
(Nguyên văn câu một: Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim. Đọc theo lối chiết tự thì Thổ mộc là chữ “Đỗ”, chỉ Đỗ Ngân. Nguyên văn câu ba: Đương thời ngụ khẩu thu tâm tuyệt. Đọc theo lối chiết tự, ngũ với khẩu là chữ ngô là “ta”, thu với tâm là chữ “sầu”). Đỗ Ngân đọc xong sợ toát mồ hôi, từ ấy thôi hẳn ý định xấu xa.
Dự đoán nghiệp đế
Đối với Lý Công Uẩn, ngay từ buổi đầu, ở Viện Cảm tuyền (ở Chùa Lục Tổ) nơi Thiền sư Lý Khánh Văn đang nuôi và dạy Lý Công Uẩn (lúc còn trẻ thơ), Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng: “Đây là người phi thường sau khi lớn lên tất có thể giải quyết rối rắm (cho đời) mà làm minh chúa của thiên hạ”.Việc nhìn tướng biết người ấy về sau quả linh nghiệm như lời ông nói khi Lý Công Uẩn lên ngôi mở ra triều Lý.
Khi vua Lê Đại Hành mất, con cháu ông tranh giành ngôi báu, vua Trung Tông ở ngôi ba ngày thì bị ám hại, ngai vàng về tay Lê Ngọa Triều. Nhưng ngặt nỗi, Lê Ngọa Triều bạo ngược, trời người đều oán ghét. Lý Công Uẩn khi ấy giữ chức Thân vệ trong triều Lê. Trong khoảng thời gian này, những điềm liên quan đến Công Uẩn, Vạn Hạnh ước đoán đều đúng cả.
Như viện Hàm Toại chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ “Thiên tử”. Cái điềm sinh chó trắng có chữ Thiên Tử trên lưng ứng với Lý Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất. Rồi sét đánh vào cây đa chùa Song Lâm nơi trụ trì của Thiền Ông (thầy Vạn Hạnh) ở làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức để lại dấu thành nét chữ “Quốc”.
Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương là cha của Lý Công Uẩn, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng. Những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Vạn Hạnh đã xét bàn thì mỗi mỗi phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi tại Hoa Lư, mặc dù lúc ấy ông đang ở tại chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước việc, bảo với người bác và người chú của Lý Công Uẩn rằng:
- Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi.
Nói rồi yết bảng ở đường cái nói rằng: Tật Lê chìm bể Bắc, / Hạt Lý mọc trời Nam./ Bốn phương gươm giáo dẹp,/ Tám cõi mừng bình an.
(Tật Lê và hạt Lý là ý muốn chỉ họ Lê và họ Lý)
Bác và chú của Lý Công Uẩn nghe nói rất sợ, việc chẳng biết thành bại ra sao kẻo lụy đến gia tộc, nên sai người đi hỏi tin tức, thì quả đúng như lời Vạn Hạnh nói, Lý Công Uẩn đã lên ngôi vua rồi.
Trước đó, khi Lý Công Uẩn chưa lên ngôi vua. Ở chùa thuộc Cổ Pháp quê ông có cây đa bị sét đánh đổ, ở ruột cây đa có chữ rằng:
Thụ căn diểu diểu,/ Mộc biểu thanh thanh./ Hòa đao mộc lạc,/ Thập bát tử thành./ Đông a nhập địa,
Dị mộc tái sinh./ Chấn cung kiến nhật,/ Đoài cung ẩn tinh./ Lục thất niên gian,/ Thiên hạ thái bình.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhà sư Vạn Hạnh giải mã lời sấm rằng: Câu “mộc căn diểu diểu”, chữ “căn” nghĩa là gốc, tức là vua; “mộc biểu thanh thanh”, chữ “biểu” đồng nghĩa với chữ ngọn, tức là bề tôi. “Hòa đao mộc” ghép lại thành chữ Lê; “Thập bát tử” ghép lại thành chữ Lý; “Đông A” ghép lại thành chữ Trần. Bài sấm có nghĩa là: “Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất thì họ Lý nổi lên. Thiên tử (mặt trời) ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương Tây lặn mất, trải qua 6 - 7 năm thì thiên hạ thái bình”.
Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn: - Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chính là ông. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một.
Công Uẩn sợ câu nói ấy tiết lộ, đem Vạn Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Sau này đúng như lời ước đoán của Vạn Hạnh thật chỉnh với vận của Lý Công Uẩn, và chỉnh với cả lịch sử các triều đại về sau của nước Việt ta.
Với tài chiêm đoán của mình, cùng công sức dạy dỗ, hướng nghiệp đạo, đời cho Lý Công Uẩn, Thiền sư Vạn Hạnh trở thành một nhân vật có đóng góp rất lớn cho lịch sử nước nhà không chỉ về mặt đạo mà cả mặt đời. Cảm công đức của ông, sau này, Vua Lý Nhân Tông viết về Vạn Hạnh: Vạn Hạnh dung tam tuế/ Chân phù cổ sấm thi/ Hương quan danh cổ pháp/ Trụ tích chấn vương kỳ
Nghĩa là: Thiền Sư Vạn Hạnh hợp nhất được ba cõi, quá khứ, hiện tại, vị lai/ Đúng với tinh thần tiên tri thời cổ xưa/ Quê hương danh tiếng là Cổ Pháp/ Thiền Sư đem gậy Thiền Học bảo vệ cho lãnh thổ quốc gia.
Còn Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Sư Vạn Hạnh mới trông thấy Lý Thái Tổ, biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán biết thời thế thay đổi, như thế là có tri thức vượt người thường vậy”…/.
Những việc bói toán một số sai lầm nhưng một số đứng. Lịch sử và văn học đã chứng minh điều đó. Tại sao một số đứng?Phải chăng mọi sự đã được an bài? Không thể là ngẫu nhiên. Archimède chỉ một lần mà đã phát minh ra định lý. Và sau đó, nhiều lần ông vẫn thấy định lý của ông đúng.
-
No comments:
Post a Comment