Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà thơ Hữu Loan trong hình chụp năm 2005 |
Một cuộc đại hội thảo và những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do. Tại sao không?
Bằng
nhiều cách, các nhà nước liên quan đến cuộc chiến Việt Nam trước đây đã
cố gắng quên đi hoặc vượt qua cuộc chiến này để hướng tới tương lai. Mỹ
và Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao hơn 10 năm nay. Việt
Nam đã đón tiếp hai Tổng thống Mỹ Clinton và Bush.
Hai
năm trước, Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải và bây giờ là Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết đi thăm Mỹ. Trung Quốc từ khi “môi hở răng lạnh” và
“dạy cho Việt Nam một bài học” không lấy gì làm hay ho bằng cuộc chiến
biên giới năm 1979 cũng đã xây dựng lại tình “láng giềng hữu nghị”.
Các
nước đồng minh khác của Mỹ trước đây đều đã có quan hệ ngoại giao và
kinh tế với Việt Nam.
Cho dù bên dưới những
điều này là toan tính hay âm mưu thủ đoạn gì ở một số đối tượng nhưng
trên bề mặt rõ ràng là một hiện tượng đáng mừng vì các quốc gia cựu thù
đã xoá bỏ được các ngăn cách, định kiến và mặc cảm của quá khứ chiến
tranh để cùng sống chung trong một thế giới hội nhập và hướng tới hoà
bình. Nếu không có gì đột biến và mối quan hệ này trở nên tốt đẹp, bền
vững, không thể đảo ngược thì đó chính là hạnh phúc cho Việt Nam và các
nước đã có thời là kẻ thù.
Về phương diện cá
nhân, sự chuyển biến nhanh hơn vì không bị ràng buộc bởi đường lối chính
sách của các nhà nước và với sự thúc đẩy nội tâm của lương tri và những
giá trị đạo đức vĩnh cửu, không biên giới, những cựu binh Mỹ và các
nước đồng minh đã đến Việt Nam để sám hối bên những nấm mồ của người dân
Việt Nam bị thảm sát ở Mỹ Lai hay trên những chiến trường xưa. Đồng
thời họ cũng đã cố gắng làm các việc cụ thể để mong góp phần chữa lành
những vết thương và tai hoạ do cuộc chiến - họ đã dự phần - để lại rất
lâu dài trong lòng đất nước này.
Chưa một lời tạ lỗi
Thế
nhưng rất nhiều người Việt Nam đã không làm được như vậy. Hầu như chưa
thấy người lính Việt Nam nào, ở cả hai bên chiến tuyến trước đây, nói
lời tạ lỗi hay thắp một nén nhang cho những người - những anh em đồng
bào - mình đã bắn giết trong cuộc chiến. Cuộc chiến mà nói gì thì nói,
nhân danh bất cứ điều gì, đó là một cuộc chiến có mang tính nội chiến,
huynh đệ tương tàn.
Cũng có thể có những người
đã nghĩ hay đã làm trong im lặng, vì một hoàn cảnh kỳ lạ đau đớn của đất
nước Việt Nam là dù bất cứ ở đâu, ngay cả ở nước ngoài, người ta cũng
không có tự do để làm điều này.
Ngược lại, một
cuộc chiến mới lại mở rộng giữa người Việt và người Việt. Đây là cuộc
chiến ngôn từ và tư tưởng. Dĩ nhiên ngôn từ chuyên chở nội dung tư tưởng
và ở đây, trong bài viết này, tôi chỉ đề cập khía cạnh này. Cuộc chiến
này tiếp nối cuộc chiến cũ, vẫn còn mang tính ý thức hệ, cộng thêm những
hận thù do cuộc chiến quá khứ để lại và nhất là những đau thương uất
hận vẫn diễn ra từ sau khi chiến tranh chấm dứt do chính sách sai lầm
của nhà cầm quyền và sự độc quyền chân lý, độc quyền thống trị của người
chiến thắng.
Nhà nước cộng sản không bao giờ
ngưng cảnh giác và tấn công trước những tư tưởng gọi là “thù địch và
diễn biến hoà bình”. Người chống cộng thề không đợi trời chung với người
cộng sản và những người chống cộng cũng đả kích nhau không thương tiếc
khi người khác không chống giống mình.
“Thành
phần thứ ba” vẫn bị những người chống cộng lên án, gọi đích danh là “đâm
sau lưng chiến sĩ” và người cộng sản hoài nghi, trù dập khi họ tiếp tục
sự phản kháng trước cái xấu mới đang thay thế cái xấu cũ mà họ đã góp
phần đạp đổ.
Không phải tất cả mọi người Việt
Nam, vì bao giờ cũng có đám đông thầm lặng có suy nghĩ khác, nhưng những
thành phần tham dự cuộc chiến này là những người ồn ào nhất và làm chủ,
khuấy động dư luận trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ khi có
Internet, nhiều trang web được mở ra và bất cứ ai có điều kiện tối thiểu
để tham gia không gian ảo này, đều có thể phát biểu ý kiến của mình một
cách tự do, đôi khi vô trách nhiệm, vô văn hoá và vô đạo đức, nhất là
khi người phát biểu ẩn danh hoặc nói dưới một cái tên giả.
Độc quyền chân lý
Trong
cuộc chiến tư tưởng và ngôn từ này, trừ một số rất ít thực sự cầu thị,
nhận ra đúng sai trong tranh luận, phần lớn ở bất kỳ phe nào, đều có
thái độ độc quyền chân lý và bị chi phối bởi những định kiến, mặc cảm
trong quá khứ. Ngay cả đối với những người vừa mới nằm xuống, mồ chưa
xanh cỏ, dĩ nhiên là không thể đối thoại, vẫn bị tấn công bằng những lời
lẽ nặng nề nhất, vẫn bị sỉ nhục như trường hợp Nguyễn Ngọc Lan. Cho dù
ông có thể được đánh giá khác nhau từ những quan điểm trái ngược, nhưng
không ai có thể phủ nhận ông là một trí thức đã dùng ngòi bút trọn đời
dấn thân một cách trong sáng nhất cho niềm tin, lý tưởng của mình và đã
chết trong bệnh tật và đau đớn.
Không
nên tiếp tục tranh cãi về quá khứ. Hãy để thế hệ sau phán xét, những
người không bị cuộc chiến trói buộc sẽ vô tư và công bình hơn. Nhưng còn
hiện tại và tương lai?
|
Thậm
chí người ta còn đem cả sự đau đớn và cái chết ra để mỉa mai! Tự do
ngôn luận đôi khi cũng phải trả cái giá quá đắt khi nó làm tổn thương
đến con người và những giá trị nhân bản mà lẽ ra sự tự do này phải góp
phần gìn giữ.
Nhiều luận điểm và ngôn từ mang
tính thù hận cũ rích từ hơn 30 năm qua vẫn được đem ra dùng lại, tấn
công đối phương, với sự khoái trá hả hê không che giấu, làm như chưa hề
biết cuộc chiến máu lửa đã ngưng lại từ ngần ấy năm. Hình như ở một số
người tư duy đã bị đông cứng, không có khả năng lắng lòng lại để chiêm
nghiệm về bi kịch lịch sử mà nhân dân Việt Nam đã gánh chịu, trong đó
mỗi người đều có phần trách nhiệm của mình.
Cái
gọi là “chính nghĩa” mà các bên đã nhân danh và tự hào lại chính là
bình phong cho những thủ phạm giấu mặt nguy hiểm nhất gây ra biết bao
tai hoạ. Sự bảo thủ và cưỡng bức chân lý hình như không phải là độc
quyền của riêng ai. Vì đủ mọi thứ lý do, sự giải thích và diễn dịch quá
khứ hầu như không thể đạt đến sự đồng thuận nơi phần lớn thế hệ đã từng
kinh qua cuộc chiến.
Vậy thì có lẽ không nên
tiếp tục tranh cãi về quá khứ. Hãy để thế hệ sau phán xét, những người
không bị cuộc chiến trói buộc sẽ vô tư và công bình hơn. Nhưng còn hiện
tại và tương lai? Cũng như trong quá khứ, mỗi người dù làm gì hay không
làm gì, làm như thế nào đều có trách nhiệm và góp phần chi phối tình
hình đối với hiện tại và tương lai của đất nước. Không thể đổ lỗi cho ai
khác nếu ta chưa đóng góp được phần mình. Nếu dân tộc này quay lưng lại
số phận của mình, sống như lục bình trên dòng nước chảy thì việc gánh
chịu thảm kịch là điều đương nhiên. Không ai cứu vớt được ta nếu chính
ta không ra sức vùng vẫy để làm chủ số phận. Dân tộc chỉ có thể bước tới
nếu không bị chia rẽ và xung đột, làm suy yếu tiềm lực.
Cùng nhau tự họp
Do
vậy, dù sao đi nữa, tự do tưởng và tự do ngôn luận vẫn là niềm hi vọng
và phương tiện gần như duy nhất để con người, đặc biệt là người Việt Nam
đi đến một đồng thuận cho tương lai của mình, nhất là trong hoàn cảnh
cực kỳ phức tạp như hiện nay. Có lẽ chính vì thế mà Bùi Tín đã đưa ra
một đề nghị và kêu gọi thảo luận trong bài viết “Những vấn đề cần làm rõ
về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam”.
Nhà văn Bùi Minh Quốc tại một hội nghị văn nghệ sĩ đầu tháng Sáu 2007 |
Cuộc
nói chuyện điện thoại của Lê Hồng Hà với Bùi Minh Quốc và Hà Sĩ Phu,
sau đó nội dung đã được văn bản hoá và đưa lên mạng, thực chất cũng là
một đề nghị tương tự với nội dung đầy đủ hơn và biện pháp đề xuất cụ thể
hơn. Tuy nhiên đáng tiếc đề nghị của Bùi Tín không được hưởng ứng rộng
rãi, một phần do cách đặt vấn đề của ông. (Trong số ít các ý kiến về bài
viết của Bùi Tín có bài của Lại Nguyên Ân rất thẳng thắn, chính xác và
dũng cảm.)
Hà Sĩ Phu đã tiếp tục cuộc trao đổi
với một loạt bài viết công phu nhưng một vài bài trên mạng mới đây tranh
luận với Hà Sĩ Phu, vô tình hay cố ý, hay vì những hậu ý nào đó, muốn
dẫn cuộc trao đổi đi chệch hướng, không mang lại lợi ích gì thiết thực.
Ở
đây tôi cũng muốn đưa ra một đề nghị. Trước nhiều ý kiến bất đồng lâu
nay về những vấn đề lớn của đất nước đã được đưa ra trong nhiều bài viết
đơn lẻ hay nhiều cuộc tranh luận riêng rẽ, tại sao ta không tập trung
vào trong một cuộc đại hội thảo để tất cả mọi người có thiện ý đều có
thể tham dự. Tôi thử phác hoạ một số vấn đề chung quanh cuộc đại hội
thảo này, tạm gọi là “Đại hội thảo về hiện tình và tương lai Việt Nam”
Mục tiêu: Tự do, dân chủ, hoà bình và phát triển cho Việt Nam.
Chủ
đề: Hiện tình và tương lai Việt Nam. (Về mặt thời gian, hiện tình có
thể chỉ xác định từ năm nay 2007, hay tính từ 2001, đầu thiên niên kỷ,
để tránh bị phân tán bởi những vấn đề đã được nói đến quá nhiều hay đã
khẳng định.)
Lập trường dân tộc: Đặt quyền lợi
dân tộc lên trên hết khi xem xét mọi vấn đề. Không đặt thành tiên quyết
việc chống cộng hay không, chống hay “cứu” Đảng Cộng sản hay bất cứ tiền
đề nào khác.
Tính chất: Đây là một hội thảo
mang tính tư tưởng, không phải là một cuộc vận động chính trị, không ủng
hộ hay đả kích bất cứ phe phái nào mà chỉ nhằm tìm ra chân lý, xác định
đúng đắn nhất hướng đi cho tương lai đất nước. Những người hoạt động
chính trị có thể tìm được những điều bổ ích nào đó từ kết quả của cuộc
hội thảo nhưng đây không phải là mục đích của việc hội thảo.
Người
tổ chức: Ban biên tập các trang web riêng rẽ hay liên kết chủ trì cuộc
hội thảo hoặc những người hoạt động dân chủ lâu nay cử ra một ban điều
hành để chủ trì và các trang web hỗ trợ. Các trang web này có thể ở
ngoài hay trong nước, bất cứ ai có thiện chí và khả năng đều có thể làm,
kể cả trang web của Đảng Cộng sản, nếu Đảng thực tâm muốn lắng nghe ý
kiến của toàn dân.
Người tham dự: Mọi người
Việt Nam có nhận thức và ưu tư về tình hình đất nước, không phân biệt
trong hay ngoài nước, cộng sản hay không cộng sản, quan chức hay dân
thường.
Phương pháp: Có thể ban điều hành hội
thảo đưa ra một đề cương chung hoặc bất cứ ai tham gia cũng có thể đưa
lên bài viết của mình, có tính cách tổng hợp hay về một đề tài cụ thể.
Sau từng thời gian tranh luận, ban điều hành sẽ rút ra kết luận tạm thời
cho từng vấn đề và gợi ý tiếp.
Thái độ: Cầu
thị, tôn trọng người đối thoại, tuyệt đối không dùng lời lẽ gay gắt có
tính cách phỉ báng cá nhân hay thiếu văn hoá dù ý kiến mâu thuẫn. Ban
điều hành sẽ có biện pháp để ngăn chặn những bài viết vi phạm quy định
này.
Thực ra nhận định về hiện tình và tương
lai Việt Nam đã có nhiều tổ chức và cá nhân đưa ra: Nghị quyết đại hội
của Đảng Cộng sản, Cương lĩnh chính trị của Tập hợp Dân chủ Đa nguyên,
các công trình nghiên cứu của nhóm Dân chủ và Phát triển, Tuyên ngôn của
nhóm 8406, gợi ý của “nhóm Đà Lạt” về tư tưởng Phan Chu Trinh và con
đường dân chủ xã hội, cũng như văn kiện của các tổ chức đảng phái, các
nhóm đấu tranh dân chủ và bài viết của vô số cá nhân trong và ngoài
nước, trong đó có những bài rất xuất sắc. Tuy nhiên những nhận định đưa
ra chưa có sự đồng thuận cao của toàn xã hội hoặc đang có sự đánh giá
rất khác nhau hoặc chưa được thảo luận đến nơi đến chốn.
Nhà
nước thường đề cao thành tích tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo,
hội nhập quốc tế trong khi những người chống đối nêu bật chuyện vi phạm
nhân quyền, nạn tham nhũng và những tệ nạn xã hội khác. Hai mặt này phải
được đánh giá như thế nào cho khỏi thiên lệch. Đi vào từng vấn đề cụ
thể cũng chưa dễ đồng thuận. Tăng trưởng kinh tế với mức độ hiện nay so
với xuất phát điểm có thực sự là thành tích và có tính bền vững không?
Sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội ở mức độ nào, tiềm ẩn nguy cơ
gì?
Nạn tham nhũng có giải quyết được không khi
còn độc đảng? Nhân dân Việt Nam có thực sự cảm thấy hạnh phúc, hài lòng
với cuộc sống như một tổ chức nước ngoài nào đó đã tổ chức thăm dò và
kết luận? Nghĩ gì về các hiện tượng nghịch lý đang diễn ra trong xã hội
như hiện tượng những người đấu tranh dân chủ ra toà và vào tù, hàng
trăm“dân oan” đi khiếu kiện lay lắt ngày đêm ở công viên, trong khi hàng
ngàn dân chơi uống thuốc lắc nhảy nhót trong vũ trường, hàng vạn người
đi du lịch, nghỉ dưỡng trong các ngày lễ, hàng triệu thanh niên vào mạng
chơi game hay tham gia các blog… Có vô số vấn đề tổng thể và cụ thể
trên tất cả mọi lãnh vực cần phân tích, trao đổi một cách thấu đáo chứ
không thể chỉ kết luận theo chủ quan hay cảm tính.
Thích nghi hoặc bị đào thải
Cuộc
sống là một dòng chảy vận động không ngừng nên dù muốn dù không, ai
không thay đổi, thích nghi sẽ bị đào thải, nhanh hay chậm. Tôi mới được
nghe một chuyện thú vị. Một giáo viên kể lại lời của quan chức tuyên
huấn giảng bài trong lớp học chính trị mới đây đề cập đến “Bác Hồ”: Đừng
gọi Bác Hồ là cha già dân tộc nữa. Bác không thể là cha mà chỉ là người
con ưu tú của dân tộc. Bác không phải là thần thánh mà cũng chỉ là một
người bình thường như mọi người…
Thật là “tiến
bộ”. Tôi không tin ông cán bộ tuyên huấn này dám nói ý kiến cá nhân mà
là nói theo chỉ đạo vì đây là lớp học chính trị cho giáo viên. Thế thì
sẽ không lâu nữa người ta buộc phải thôi thần thánh hoá Bác Hồ để nhìn
nhận những gì mà thực tiễn đã có minh chứng hùng hồn không thể chối cãi.
Tuy vậy không thể lạc quan sớm. Sau khi nội
dung cuộc trao đổi giữa Lê Hồng Hà với Hà Sĩ Phu và Bùi Minh Quốc được
đưa lên Internet, mới đây hai ông sau được công an triệu tập lên “làm
việc”. Những người trong “nhóm Đà Lạt” lâu nay thỉnh thoảng vẫn được mời
lên “làm việc”, “hỏi thăm sức khoẻ” hay “bảo vệ an ninh trước nhà” là
chuyện bình thường dù họ đã hết bị quản chế chính thức.
Tuy
nhiên cuộc làm việc với Bùi Minh Quốc và Hà Sĩ Phu mới đây cho thấy
hình như người ta lo ngại “nhóm Đà Lạt” đang tiến hành một cuộc vận động
dân chủ mới sau khi những tổ chức dân chủ khác đã bị dẹp tan và nêu vấn
đề kiểm soát việc phát biểu trên Internet.
“Nhóm
Đà Lạt”, một cách gọi, thực ra chẳng có phe đảng, tổ chức gì cả. Chúng
tôi chỉ là những người cầm bút tự do, có tính cách, quá khứ và sở trường
khác nhau, quan điểm về những vấn đề lớn cũng có độ chênh nhất định
nhưng “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Khi có bài, tác phẩm
mới viết hoặc có rượu ngon, có bạn ở xa đến, chúng tôi họp nhau để trao
đổi, tâm tình và bàn chuyện thế sự. Từ 20 năm nay chúng tôi vẫn làm như
thế dù có một khoảng thời gian 8 năm, chỉ mấy người trong cùng một thành
phố nhỏ xíu, nhà cách nhau chỉ có mấy cây số, nhưng không gặp được nhau
đầy đủ vì khi người này bị tù, lúc người kia bị quản chế.
Nếu
quy bày tỏ tư tưởng là vận động chính trị thì chúng tôi đã làm như thế
từ bao năm nay, không có gì mới. Chúng tôi đã và sẽ luôn nói và viết lên
quan điểm độc lập của mình về mọi vấn đề, không coi điều gì là cấm kỵ.
Còn
chuyện kiểm soát Internet? Kiểm soát để ngăn chặn hoạt động khủng bố
hay đồi truỵ thì hoan nghênh nhưng nếu để ngăn chặn thông tin, khống chế
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận thì đó là hành vi “phản động”, vì đi
ngược lại hiến pháp và pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế và xu hướng
chung của toàn nhân loại. Việc đó cũng khó làm được như ý muốn vì không
khác gì việc “một tay che mặt trời” trong thời đại “thế giới số và thế
giới phẳng” này mà còn có tác dụng ngược.
Các nhà văn Nam Dao từ Canada và Trần Vũ từ Pháp |
Cuộc đại hội thảo này có giá trị gì? Nếu thực hiện được, nó có thể có tác dụng lớn hơn rất nhiều hội nghị Diên Hồng ngày xưa hay hội nghị “tiểu Diên Hồng” mà ông Hoàng Minh Chính mới đây từng mơ ước. Tác dụng lớn hơn vì có đến hàng vạn, hàng triệu người tham dự với bao nhiêu tài năng và trí tuệ của hơn 80 triệu người Việt sống trong nước và ở rải rác khắp năm châu bốn biển. Tuy thế nó cũng có thể không có tác dụng bằng hay phản tác dụng nếu thiếu tinh thần “toàn dân một lòng, vua tôi hoà thuận” của người xưa.
Cuộc đại hội thảo này có thể
thực hiện được không? Tôi không biết, vì nó tuỳ thuộc vào khả năng của
những người đứng ra tổ chức. Tôi chỉ là người gợi ý. Tuy nhiên điều dễ
dàng, ở quy mô nhỏ hơn, là trở thành chuyên mục trong một trang web nào
đó có uy tín và nhiều người đọc.
Thí dụ phải
chăng talawas nên mở thêm chuyên mục “Hiện tình và tương lai Việt Nam”
hoặc ngưng chuyên mục “Chiến tranh nhìn từ nhiều phía” để mở chuyên mục
này sau khi đã tạm cung cấp khá đầy đủ nhiều quan điểm khác biệt về cuộc
chiến tranh.
Bắt đầu từ văn hóa
Song
song với cuộc đại hội thảo này, một công việc trên lãnh vực văn học
nghệ thuật có thể thực hiện được để tạo ra sự thông cảm, hoà hợp và phát
triển là việc hình thành những cuộc gặp gỡ văn nghệ tự do. Văn học nghệ
thuật vốn không biên cương và có khả năng nhanh chóng tạo ra sự đồng
cảm, giao hoà. Chúng ta đã có những sự kiện khởi đầu rất có ý nghĩa và
khả năng hiện thực.
Hơn 30 năm trước, ngay
trong cuộc chiến, một sĩ quan Việt Nam Cộng hoà và một sĩ quan Mỹ đã giữ
gìn nhật ký của một bác sĩ cộng sản Đặng Thuỳ Trâm. Tương tự, hai sĩ
quan VNCH khác đã bảo quản nhật ký của nhà văn cộng sản Chu Cẩm Phong.
Đến bây giờ, khi hai cuốn nhật ký đó được trả về nguồn cội và được công
bố, dù ở phía nào, ai cũng nhận đây là những hành vi nhân văn cao đẹp
vượt lên trên chính trị nhất thời mà chỉ có văn học mới có thể tạo ra.
Sau
này nhiều hoạt động giao lưu văn học nghệ thuật giữa trong và ngoài
nước, giữa Việt Nam và Mỹ cũng như một số nước khác đã được tổ chức và
có hiệu quả rất đáng mừng. Nhà văn Hồ Anh Thái ở trong nước liên kết với
các nhà văn cựu binh Mỹ để dịch, xuất bản sách chung giữa các nhà văn
trước đây là cựu thù trên chiến trường. Nhiều trường đại học và tổ chức
văn học nghệ thuật của Mỹ mời văn nghệ sĩ Việt Nam sang giao lưu.
Nhóm
Khánh Trường ở Mỹ xây dựng tạp chí Hợp Lưu đăng tải tác phẩm của các
nhà văn trong và ngoài nước. Một số nhà xuất bản ở hải ngoại in sách của
các tác giả trong nước như Dương Thu Hương, Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu,
Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Viện, Tiêu Dao Bảo Cự… Cuốn sách Nếu đi hết biển
của đạo diễn Trần Văn Thuỷ xuất bản năm 2003 viết về các cuộc gặp gỡ,
trao đổi với một số nhà văn hải ngoại như Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân
Huy, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Mộng Giác, Trương Vũ… trong
chuyến đi nghiên cứu do Trung tâm William Joiner Nghiên cứu về chiến
tranh và hậu quả chiến tranh của Đại học Massachusetts Boston tổ chức…
Một
số tác phẩm của các nhà văn hải ngoại và ngay cả tác phẩm xuất bản ở
miền Nam trước 1975 cũng đã được in hoặc tái bản trong nước như sách của
các tác giả Nguyễn Mộng Giác, Mai Ninh, Nam Dao, Dương Nghiễm Mậu…
“Ngày thơ Việt Nam” mới đây tổ chức ở Hà Nội cũng đã giới thiệu một số
nhà thơ miền Nam trước đây.
...Trang web
talawas đang làm công việc giới thiệu lại những tác phẩm và tư liệu văn
học giá trị bất kể trong Nam hay ngoài Bắc giúp người đọc có cái nhìn
toàn cảnh và thực chất về văn học Việt Nam hiện đại.
Mới
đây nhất, cuộc gặp gỡ giữa các nhà thơ hải ngoại Du Tử Lê, Nguyễn Đức
Tùng với các nhà thơ trong nước Thanh Thảo, Nguyễn Thuỵ Kha, Nguyễn
Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo là một cuộc gặp vô cùng thú vị với một nội dung
trò chuyện chan hoà tính nhân văn và dân tộc hiếm thấy.
Hiện
tượng các ca, nhạc sĩ trong nước ra biểu diễn ở hải ngoại và ca, nhạc
sĩ hải ngoại trở về nước tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến nhưng đã
có không ít. Vượt lên trên những hậu ý hoặc phê phán với ý đồ và mang
màu sắc chính trị, những hiện tượng này rõ ràng mang lại hiệu quả hoà
giải hoà hợp rất tốt.
Dân tộc là một
Nếu
đã nói “Dân tộc Việt Nam là một, đất nước Việt Nam là một…”, người Việt
ở nước ngoài là một bộ phận không thể thiếu của dân tộc Việt Nam, là
“khúc ruột ngàn dặm”… thì không có lý do nào để gạt ra, không công nhận
văn học nghệ thuật ở miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại hiện nay. Chính
qua toàn bộ những tác phẩm và hoạt động văn học nghệ thuật này, chúng ta
hiện nay, và các thế hệ Việt Nam mai sau mới có thể nhận ra, hình dung
được diện mạo, tư tưởng, tâm hồn của toàn dân tộc trong một giai đoạn
lịch sử phân ly bi thảm nhất để góp phần xây dựng một tương lai thực sự
hoà hợp, hoà bình cho đất nước.
Vậy thì hôm nay
tại sao văn nghệ sĩ và công chúng không tự mình làm công việc hoà giải
hoà hợp này. Tôi có ý kiến hơi khác với Bùi Minh Quốc và Nguyễn Kim Bình
về việc xin phép tổ chức một cuộc gặp gỡ văn nghệ đông đảo, chính thức.
Nếu làm được như thế cũng tốt. Nhưng luật pháp không cấm, nhà nước
không cấm, tại sao chúng ta không tự làm?
Chúng
ta cứ tự do tổ chức những cuộc gặp mặt giữa văn nghệ sĩ với nhau, với
công chúng thuộc mọi miền, mọi thành phần để trò chuyện và trao đổi tâm
tình. Gặp mặt ở nhà riêng, ở quán café, ở nhà hàng, ở trường đại học, ở
các cơ sở văn hoá, trên các tạp chí, trên không gian ảo… với năm ba
người, năm ba chục người… và công bố nội dung như cách làm trên talawas
vừa qua.
Ai cấm cản điều này nếu không phải là chính ta tự mình đứng trong vòng vôi cấm?
Trong
những cuộc gặp này, chúng ta không cần tuyên ngôn tuyên bố chống ai,
ủng hộ ai cả mà chỉ để cảm thông và chia sẻ. Sự hoà giải hoà hợp thực sự
của nhân dân sẽ chống lại mọi chủ trương hay âm mưu chia cắt, thúc đẩy
sự chuyển biến của tình hình chung, mang lại hoà bình trong lòng người
và cho đất nước. Nếu chúng ta không làm, nhân dân không làm, tình hình
chung của đất nước sẽ còn trì trệ, trong đó mỗi người đều có phần trách
nhiệm của mình.
Đà Lạt cuối tháng 6-2007
Bài
viết thể hiện quan điểm và cách nhìn của tác giả. Quý vị
có ý kiến gì xin chia sẻ với Diễn đàn BBC ở địa chỉ
vietnamese@bbc.co.uk.
No comments:
Post a Comment