Đình Bảng là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay. Người xưa đã có câu:
- Thứ nhất là đình Đông Khang,
- Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm.
Mục lục
Lịch sử
Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên, quê ở Thanh Hóa. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình.
Kiến trúc
Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu "chữ đinh" 丁. Toà đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao.
Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở không gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa, và trang trí điêu khắc dày đặc.[1]
Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái
(gian phụ). Đình được dựng trên nền cao có thềm bó bằng đá xanh. Đặc
biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (với cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh.
Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn
phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề
thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh.
Nội thất
Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Gian chính điện (gian giữa) có sàn thấp, lát gạch lá nem. Gian này thấp nhất, thuật ngữ
là "lòng thuyền". Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai
cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi
"chiếu trên", kẻ ngồi "chiếu dưới" tùy theo vai vế trong làng.[2]
Bức cửa võng
và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Trên ván
nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con có một bức chạm hình
"Bát mã quần phi" (Bầy ngựa tám con đang phi) với các đáng điệu rất sống động. Trong đình có nhiều bức hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng.
No comments:
Post a Comment