MA QUỶ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
Trần Minh Thương
Có thể nói ngay rằng ma, quỷ là những từ khá phổ biến trong ngôn ngữ của các dân tộc. Mặc dù vậy, để đi tìm định nghĩa cho nó không phải là việc dễ dàng. Ma quỷ thuộc thế giới tâm linh của con người, vì thế, khu biệt rõ ràng khái niệm của các từ này là điều gần như không thể.
1. Đi tìm một khái niệm về ma, quỷ
1.1. Ma quỷ trong từ điển
Từ điển Hán Việt của Nguyễn Văn Khôn viết, ma: ma, quỷ [trang 572]; quỷ: Ma, quỷ. Nham hiểm, quỷ quyệt. Mưu hại người [trang 764].
Gần với ma, quỷ còn có tinh: loài yêu quái, quỷ thần [trang 867]
Việt Nam tự điển của nhóm Lê Văn Đức – Lê Ngọc Trụ soạn và hiệu đính, thì ma có ba nghĩa:
Thứ nhất, ma là hồn người chết không được cúng giỗ, không nơi nương tựa, hiện ra phá quấy người sống.
Thứ hai, ma tức là ý xấu, phần vô hình trong con người giục làm bậy.
Thứ ba, dùng chỉ lễ chôn cất người chết: đám ma.
Các loại ma được tự điển liệt kê gồm: Ma gà: Thứ ma hay theo những cô gái đẹp (theo quan niệm của dân tộc Tày – Nùng)/ Ma xó: theo tục người Mường, khi có người chết, đem dựng đứng ở xó nhà, sau thành ma/ Mai lai: thứ người ban đêm hóa ma đi ăn phần người khác./ Ma men: người say chết thành ma thường hay lôi cuốn người khác say sưa tới chết/ Ma cà rồng: thứ ma thường hay nhập vào đi hút máu người khác/ Ma thần vòng: ma những người thắt cổ chết (sau giục người khác tự tử chết như họ)/ Ma trành: ma cọp dữ, thường tìm dẫn cọp bắt ăn người khác để nó được đầu thai, …
Cũng theo Việt Nam tự điển
thì với tư cách danh từ quỷ là hồn kẻ tiểu nhân, kẻ dữ, hung ác, hoặc
người chết oan hiện ra. Còn với chức năng tính từ thì quỷ chỉ sự tinh
nghịch, sâu sắc: Mưu thần chước quỷ, …
Các loại quỷ thường được dùng trong lời ăn tiếng nói như quỷ sứ, quỷ sa tăng, quỷ nhập tràng, quỷ truyền kiếp, quỷ kiếm sầu, … Tự điển Tiếng Anh thì: ma là ghost, còn quỷ là devil.
Thường thì hai chữ ma quỷ hay được dùng chung như từ kép.
Yêu là loài tinh quái, thú hay cây cối sống lâu năm biết hiện hình người và giả người để phá quấy thiên hạ.
1.2. Ma quỷ trong dân gian
Trong
truyền khẩu dân gian, ma thường được miêu tả là một dạng người (hiếm
khi đề cập tới ma động vật), mà thường có màu "trắng bạc", "cái bóng lờ
mờ", "nửa trong suốt", hay "tựa như sương mù", "đống đen thùi lùi", “đầu
tóc bù xù, rũ rượi”, …
Ma
chỉ là hình bóng, là linh hồn của người đã khuất, đúng như câu "hồn ma
bóng quế", nên khó thể xác định rõ hình dáng của nó. Thêm nữa, ma hay
bay lơ lửng, chân không chấm đất, không có bóng, tới lui nhẹ nhàng như
làn gió lạnh thoảng qua. Ma không có cơ thể sống như con người. Xã hội
của ma theo nhiều người là "âm phủ" còn chỗ ở của ma là cái mộ (sống cái nhà thác cái mồ). Ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ nơi có liên quan đến khi họ còn sống.
Dân
gian cho rằng thì chỉ có người có "duyên" với linh hồn đó mới có thể
nhìn thấy ma hoặc người có khả năng đặc biệt như các nhà ngoại cảm mới
“giao tiếp” được với ma quỷ.
Nhiều
người cho rằng ma có khả năng biết tất cả nhưng gì người sống nghĩ, có
khả năng biết được các việc đã, đang và sắp xảy ra, hoặc có khả năng tác
động lên thể xác, lời nói của người sống như hiện tượng lên đồng, tác
động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi
người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất
như tạo ra tiếng động, rung cây, xô lệch bàn ghế ...
Trong
dân gian Trung Quốc, ma không có bóng và không được phản chiếu lên
gương. Ngoài ra, đa số ma còn sợ ánh sáng Mặt Trời và các thần thánh. Do
đó người ta thường dùng các loại bùa và dấu hiệu như bát quái, thánh
giá, máu chó, tỏi, củ hành, cây dâu, cây đồng đình, vôi bột, cây xương
rồng ... để trừ ma. Nhưng không ai giải thích được vì sao ma sợ các thứ
đó mà không sợ thứ khác, …
Quỷ
thuộc loại “đầu đội trời, chân đạp đất”, được hình dung gắn cho một
người nào đó có tính quỷ quyệt, nham hiểm, xấu xa, vì thế quỷ … thật hơn
ma và cũng chẳng khiến người ta sợ hãi bằng sợ ma!
1.3. Ma quỷ theo tôn giáo
Kinh Bát Đại Nhơn Giác có câu nói: Tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục. Nói bốn loại ma đó là: Phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma. Bốn loại ma này, làm chướng ngại cho người tu hành rất lớn.
Phiền não ma là ma trong tâm của mỗi người. Chính nó là nguyên nhân gây ra cho người ta phải đau khổ triền miên. Ngũ ấm ma
gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Tại sao gọi 5 thứ nầy là ma? Vì 5
thứ nầy không thật có mà người ta cố chấp cho là thật có, rồi từ đó mà
tạo nghiệp thọ khổ nên gọi nó là ma. Thiên ma là loại ma vương ở
cõi trời Dục giới. Chúng có khả năng biến hóa khuấy phá nhiễu loạn làm
trở ngại sự tiến đạo của hành giả. Loại ma nầy, khuấy phá Phật khi Phật
sắp thành đạo. Vì bọn chúng không muốn cho ai thoát khỏi ngũ dục. Chúng
thấy ai tu hành tinh tấn, không còn mê đắm ngũ dục lạc thế gian, thì
chúng thường hay khuấy phá. Tử ma là ma chết. Con người sau khi
chết thành loài ma quái yêu tinh khuấy nhiễu làm người ta sợ hãi sanh
bệnh v.v… Hoặc người đang tinh tấn tu hành, bỗng bị vô thường xảy đến
bệnh hoạn hay tai nạn rồi ngã ra chết làm trở ngại dở dang sự tu hành đó
cũng thuộc về tử ma.
Nói
tóm lại, bốn loại ma nầy, lực dụng của chúng đều làm chướng ngại lớn
trên bước đường tu tiến của hành giả, vì bọn chúng làm cho người tu hành
khó được giải thoát.
Quỷ xuất phát từ tiếng Hán Gwei(鬼),
dùng để gọi linh thể của những người đã chết. Theo quan điểm của người
phương Đông, sau khi chết đi, linh hồn của con sẽ đầu thai chuyển thế
vào kiếp khác. Nhưng vì một lý do nào đó, linh hồn không thể đầu thai mà
vẫn lưu lai trên thế giới vật chất thì được gọi là quỷ.
Đạo
Phật, và cả đạo Hindu, đều quan niệm rằng: mọi sinh vật qua quá trình
khổ tu và tuân theo các drama (pháp) đều đạt được thần thông. Nếu theo
phe thiện thì được gọi là thần, nếu là ác thì gọi quỷ. Tuy nhiên, không
có sự phân biệt rõ ràng giữa thần và quỷ.Trong Phật giáo có nhắc đến một
số loại quỷ: Atula, Yaksha (Dạ Xoa), La Sát... Quỷ cũng là một phần
trong lục đạo luân hồi giống như người và súc vật. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, các vị bồ tát cũng có lúc hiện thân thành Quỷ tùy theo chúng sinh cần được giáo hóa.
Trong
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, …, tiếp thu những lời dạy của nhà tiên tri
Abraham, do đó khái niệm về quỷ có phần tương tự nhau: Quỷ (devil) là
các thiên thần lạc lối (fallen angels). Ngày thứ 6 của tuần đầu tiên
trên thế giới, một thiên thần tên là lucifer đã nổi dậy cùng 1/3 thiên
thần khác để giành quyền thống trị với thượng đế. Cuộc nổi dậy đã bị
đánh bại bởi các thiên thần thiện, dẫn đầu là michael. Sau đó, lucifer
và số thiên thần nổi dậy đã bị đuổi khỏi thiên đàng và phải sống dưới
địa ngục(hell). Lucifer trở thành vua quỷ (Satan)
1.4. Ma quỷ trong quan niệm của các nhà khoa học
Tất
nhiên đây là vấn đề thuộc về chuyện “tin hay không tin”, sức hấp dẫn
của nó đã được nhiều nhà khoa học, các nhà tâm lý, các nhà văn hóa, …
chú ý nghiên cứu. Nhiều ý kiến luận giải đã đưa ra. Song không phải tất
cả những ý kiến ấy đều đồng thuận. Trong phạm vi bài viết của mình,
chúng tôi chỉ dẫn lại một số quan niệm nhằm khẳng định rằng: dù muốn nói
“không có ma” thì ma vẫn có, chỉ có điều nhìn nhận nó ở góc độ nào mà
thôi!
Không đề cập đến ma quỷ, nhưng qua Cơ sở văn hóa Việt Nam,
viện sĩ Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Chết tức là cơ thể chuyển từ trạng
thái động trở thành tĩnh, cho nên theo triết lý âm dương thì hồn đi từ
cõi Dương (Dương gian, Dương thế) sang cõi Âm (Âm ti, Âm phủ). Đó là một
“thế giới bên kia. Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối
(cửu tuyền), tin rằng tuy ở nơi chín suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn
thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu là cơ sở hình thành tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó có mặt ở nhiều dân tộc Đông Nam Á và là nét
đặc thù của vùng văn hóa này. Ở người Việt, nó gần như trở thành một
thứ tôn giáo (nhiều nơi gọi là đạo Ông Bà), ngay cả những gia đình không
tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ tiên ở trong nhà”.
Nguyễn
Đăng Duy viết: “có phần thiêng liêng trong ý thức con người, và niềm
tin tâm thức cũng là niềm tin thiêng liêng. (…). Mọi biểu tượng thiêng
liêng đều chứ đựng những giá trị cao cả và giá trị thẩm mỹ. ( Văn hóa tâm linh - Nguyễn Đăng Duy, Nxb Hà Nội, 1996)
GS.TS Trần Lâm Biền - nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa truyền thống cho rằng: “Chuyện
ma quỷ chỉ là do con người không thể giải thích được tại sao có ma, đó
là do con người yếu vía, sợ hãi trước những “thế lực siêu nhiên”, nó
không có thực nhưng được dân gian hư cấu mà ra, tức là ma quỷ chỉ do con
người tưởng tượng mà ra. Nếu người có thẩm quyền, trí tuệ lên tiếng dẹp
bỏ chuyện ma quỷ nói trên sẽ tự nhiên mà mất đi theo thời gian”…
2. Ma quỷ trong văn học Việt Nam
Cũng
như các nền văn học, văn hóa khác trên thế giới, hiện tượng ma quỷ, yếu
tố ma quỷ, nhân vật ma quỷ, hình tượng ma quỷ, … cũng xuất hiện phổ
biến trong văn học Việt Nam Từ những câu chuyện, những giai thoại, thành
ngữ, tục ngữ ca dao, … đến văn học thành văn với hơn 1000 năm phát
triển, “ma quỷ” thường xuyên góp mặt và để lại nhiều dấu ấn trong tâm
thức người đọc, người nghe, ...
2.1. Ma quỷ trong văn học dân gian
2.1.1. Ma quỷ trong truyền thuyết, cổ tích, giai thoại, …
Lĩnh Nam chích quái là tập sách ghi chép lại những truyền thuyết và truyện cổ dân gian, “xuất hiện rất sớm, có lẽ từ thời Trần” (Lời giới thiệu Lĩnh Nam chích quái,
Đinh Gia Khánh chủ biên, Nxb Văn học, 1990). Theo đó, một số truyện dân
gian đã có hình ảnh yêu tinh ma quái. Lạc Long Quân trước khi gặp nàng
Âu Cơ đã giúp dân diệt trừ Ngư tinh, Mộc tinh, Hồ tinh, … để cứu dân.
Truyện Rùa Vàng, ghi nhận hình ảnh thần Kim Quy giúp An Dương Vương diệt trừ gà tinh để dựng Cổ Loa Thành.
Bên
cạnh đó còn rất nhiều chuyện mang yếu tố hoang đường, kỳ bí, … nhưng nó
nằm ngoài phạm vi của bài viết nên chúng tôi không đề cập ở đây.
Trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
(5 tập), Nguyễn Đổng Chi dành hẳn phần IV (ông phân truyện cổ tích Việt
Nam thành 10 loại) để kể truyện “Thần tiên, ma quỷ, phù phép”. Ngoài
ra, khảo sát những phần khác, chúng tôi thấy, yếu tố ma quỷ vẫn xuất
hiện, chẳng hạn như Người cưới ma (Ở phần IX: Tình yêu và nghĩa vụ), …; Thạch Sanh chém chằn tinh, Sự tích cây huyết dụ, Tinh con chuột, Cô gái với hai cục bướu, … đều thấp thoáng bóng dáng của ma quỷ, yêu tinh, … tham gia vào.
Do khuôn khổ hạn chế chúng tôi chỉ đề cập hai truyện cổ tiêu biểu:
Sự tích cây nêu ngày tết
là cuộc xung đột quyết liệt giữa quỷ và người. Cuối cùng người được
Phật giúp đã thắng được quỷ, đuổi chúng ra tận biển Đông. Nhân vật quỷ
trong truyện gần như là hình ảnh ẩn dụ chỉ con người nham hiểm, độc ác,
giàu có, tham lam, quỷ quyệt, … cuối cùng đã bị trừng trị.
Truyện Con ma báo thù,
kể ngày xưa ở Gia Định có một tên cướp bị án tử hình. Hắn chạy vạy đút
tiền cho quan xử án để thoát chết. Quan án tên Đặng nhận tiền rồi, nhưng
không lo cho hắn. Hắn bị chém. Quan Đặng cũng tìm cách đổi về kinh đô.
Hồn ma của hắn hiện lên giúp một ông Cử trong Nam ra thi Hội. Ma và
người cùng lội suối trèo đèo, cốt là để hồn ma nhờ người nọ chỉ nhà quan
Đặng cho nó báo thù. Hồn ma đã bắt con quan Đặng trở nên điên loạn,
quan Đặng gần tán gia bại sản, …
Thể
loại truyện cười, dân gian kể chuyện thầy pháp đi cúng đuổi ma ở làng
bên, khi thầy về, bị bà vợ giả làm ma trơi, chọc thầy, thầy quăng cả oản
xôi, tay nãi, bỏ chạy mà mồm vẫn “Úm ba la! Úm ba la, ma đuổi thầy!”
Về giai thoại, chúng tôi tìm thấy trong Đại Nam Nhất Thống Chí,
quyển V trang 217 có chép như sau: Tương truyền ngày trước người con
gái nhà giàu, tuổi cập kê, mê người học trò họ Nguyễn, mà người học trò
thì người nhà nghèo, không dám nhờ mối lái nói việc kết hôn, vì thế
người con gái mắc bệnh tương tư trầm trọng rồi chết; cha mẹ
cô rất đỗi thương tiếc, không nỡ chôn vội, bèn làm cái rạp sau nhà làm
chỗ quàn; vì cô gái đã chết, cậu học trò bèn thắt cổ chết ở cạnh chỗ
quàn, người ta quàn chung họ lại với nhau. Do đấy âm khí kết tụ lâu ngày
thành yêu tinh. Sau đó cha mẹ cô gái ấy đều chết, không ai chôn cất
thành ra chỗ quàn xác 2 người, cây cối mọc lên như rừng, yêu khí càng
ngày càng thịnh, người ta khó chịu, bèn gọi chỗ ấy là xứ Song Ma (Đôi
Ma), để bảo nhau xa tránh. Sau quân Tây Sơn đánh chiếm cứ khu vực này
cho thiêu hủy nhà quàn, yêu quái mới hết hẳn". Vàm Đôi Ma, sông Đôi Ma hiện thuộc địa phận huyện Bến Lức, tỉnh Long An
Người
dân vùng Tiền Giang, nơi nghĩa quân Trương Công Định làm căn cứ đánh
Pháp còn truyền rằng sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, tại Đám lá tối trời,
nơi có những con rạch bần mọc um tùm, chen lẫn là những rừng dừa nước
ngút ngàn, những đêm thanh vắng, người ta thường nghe những tiếng giáo
gươm khua, tiếng người đi đi lại lại rầm rập như tiếng của nghĩa quân
ngày trước, … Người cao niên cho rằng đấy là âm hồn của các liệt sĩ đã
hy sinh vì nước, vẫn một lòng một dạ quyết tập rèn võ nghệ …, đánh Tây
đến cùng!
2.1.2. Ma quỷ trong tục ngữ, ca dao
Trong
lời ăn tiếng nói hàng ngày, từ ma, quỷ, ma quỷ được dân gian dùng khá
phổ biến. Với nhiều nét nghĩa đa dạng chứ không chỉ dừng lại trong nội
hàm của từ điển.
Chỉ người lười tắm gội, với cách nói so sánh: Bẩn như ma lem.
Khi gia cảnh có người chết, dù chu đáo thế nào chăng nữa, tang gia
thường bối rối nên dễ để xảy ra những sơ suất khiến người ta chê bai nên
có câu “ma chê cưới trách”, bởi biết sao làm vừa được lòng người! Họ sẵn sàng lấy chuyện đám ma nhà giàu ra để so sánh: Ăn cơm không rau như đám ma nhà giàu không nhạc. Liên quan đến kèn trống trong đám ma, giới tài tử truyền nhau: Rủng rỉnh đám ma, là đà đám cúng, nghĩa là theo họ “làm công” cho đám ma sẽ có … tiền, còn đi “phục vụ” đám cúng thì tha hồ mà … say xỉn!
Ma cũ ăn hiếp ma mới:
câu thành ngữ vừa mang nghĩa thực trong tập tục. Khi cúng người mới
chết (ma mới) người ta để chén cơm cúng và cả đôi đũa, còn hai chén cúng
ma cũ, mỗi chén chỉ một chiếc đũa mà thôi. Có vậy, ma mới (là ông, bà, …
của gia chủ) mới ăn kịp…! Khi di quan, tục rải vàng mả cũng là để ma cũ
có cái mà xài, không níu kéo quan tài người mới chết lại! Nghĩa phát
sinh của thành ngữ này thì không dừng ở đó, nó còn dùng để ám chỉ cảnh
“người cũ ăn hiếp người mới” trong cùng một cơ quan, đơn vị, …
Ma bắt coi mặt người ta:
tương tự như câu trên, nó có hai nét nghĩa: ma chỉ có thể “bắt” người
sợ nó, còn ai “mạnh” hơn, nó cũng khôn mà dùng cách “tránh voi chẳng xấu
mặt nào!”, hàm ý có lẽ còn dùng để nói đến những mối quan hệ giữa người
với người trong một tập thể, cộng đồng, chỉ có điều là người tốt hay
người xấu mà thôi!
Liên quan đến tập tục ngày trước, dân gian có câu ma quàn, cưới chịu
để miêu tả những người có gia cảnh khó khăn, túng thiếu, khi người thân
chết không có tiền mổ bò, làm heo đãi dân làng, đành nhờ một vài người
thân khiêng xác người chết đi chôn, như vậy gọi là ma quàn, …
Để chỉ cảnh hoang vu, mông quạnh người ta nói nơi ấy là chốn ma thiêng nước độc, có khi đưa cả địa danh vào một cách hẳn hoi: Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận, đồng bằng Nam Bộ ngày đầu khẩn hoang ai mà chẳng thuộc câu: Chèo ghe sợ sấu cắn chưng chân/ Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma, …
Dùng phê phán hạng người hay đàng điếm, không đứng đắn có thành ngữ ma chê quỷ chọc, nhắc nhở con người phải biết thích nghi cho đúng lúc, hay chê tính “ba phải” a dua cũng được, dân gian nói: Đi với Bụt mặc áo cà sa đi với ma mặc áo giấy!
Xã
hội ngày trước có những người chuyên làm nghề trừ tà yểm quỷ, ở trên
chúng tôi đã nhắc đến chuyện thầy pháp sợ … ma trơi! Trong ca dao, dân
gian dùng “ma” để cảnh báo chuyện trái khoáy trong đời. Bởi đó, như là điều hiển nhiên: Nhiều thầy lắm ma, nhiều cha con khó lấy chồng. Hình ảnh những tay pháp sư, bói ra ma quét nhà ra rác, xuất hiện trong tiếng cười mỉa mai:
Sống thì thầy cứu người ta
Đến khi thầy ốm chẳng ma cứu thầy
Thế là một bài học được đưa ra kịp thời:
Ốm đau chạy chữa thuốc thang
Đừng đi coi bói mua vàng cúng ma
Trời cao bể rộng bao la
Việc gì mà phải cầu ma cầu tà
Với nét nghĩa dùng ma để chỉ một đối tượng nào đó được nhắc đến, bằng
giọng điệu cười cợt châm biếm, ta gặp những hình ảnh của kẻ “ăn không
ngồi rồi” chờ … hưởng thụ, cuối cùng không được như ý, người trong cuộc
bật thành tiếng:
Bực mình chẳng muốn nói ra
Muốn đi ăn cỗ giỗ chẳng ma nào mời
Chân tướng của người vô tích sự:
Đi đâu lả cả là cà
Như chim lạc tổ như ma lạc mồ
Kẻ cầm quyền trị dân hay đi đêm thì có khác gì là người của thế giới cõi âm:
Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần mần như ma
Không
chỉ có cường quyền áp bức bị lên án, nhân dân lao động sẵn sàng vạch
mặt chỉ tên những kẻ “miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm”, loài quỷ ma
mặc áo cà sa che mắt thế gian:
No ra bụt đói ra ma
Đó là cái thói người ta thường tình
Tưởng là chùa rách Phật vàng
Hay đâu chùa rách chứa đàn quỷ ma
Lên án kẻ quỷ quyệt, lừa phỉnh, còn đó lời thơ:
Cái cân có quỷ có ma
Gạo vào một lối, gạo ra một đường
Thẻ tôi ba mươi sáu ký rõ ràng
Về nhà khảo lại chỉ còn ba mươi
Đọc câu ca trên hẳn trong mỗi chúng ta đều nhớ đến câu chuyện cổ tích về Cái cân thủy ngân
ma quái của hai vợ chồng xảo quyệt nọ! Tất nhiên cái giá mà họ phải trả
cho việc làm bất chính kia cũng không phải nhỏ chút nào!
Tiếng lòng của người bình dân cất lên trên cánh đồng, thửa ruộng, than cho hoàn cảnh của mình:
Có con mà gả chồng xa
Ba phần ruộng xéo chẳng ma nào cày
Bởi có chồng thì phải theo chồng, bao đời nay vẫn thế, người phụ nữ biện bạch: Sống quê cha, ma quê chồng, biết làm sao khác hơn được.
Ma được xem là đối tượng của thế giới bên kia, như trong câu ca:
Chính chuyên chết cũng ra ma
Lẳng lơ chết cũng khiêng ra ngoài đồng
Từ
sự chê trách phường mặt người dạ ma, đến cách so sánh để cho người đời
thấy được nổi khổ của chuyện không hòa hợp mà ai đó chẳng may gặp phải:
Chồng già vợ trẻ như hoa
Vợ già, chồng trẻ như ma lạc mồ
Hay:
Khốn nạn thay nhạn ở với ruồi
Tiên ở với cú, người cười với ma
Thân anh như ngọc như ngà
Vợ anh ở nhà như thể ma trơi, …
Đừng về với nó anh ơi!
Vợ anh nửa người mà lại nửa ma
2.2. Ma quỷ trong văn học trung đại
Nói
đến ma quỷ trong văn học Việt Nam trung đại chúng ta nghĩ ngay đến thể
loại truyền kỳ. Truyền kỳ là một loại truyện ngắn, có nguồn gốc từ Trung
Hoa, dùng yếu tố kỳ ảo làm phương thức nghệ thuật để phản ánh cuộc
sống. Các motif kỳ ảo thường gặp trong truyền kỳ là nằm mộng đi xuống âm
phủ, người lấy ma, người lấy tiên, hàng phục yêu quái, luân hồi báo
ứng, tu luyện thành tiên, thi thố pháp thuật, kêu mưa gọi gió, biến hóa
khôn lường, …
Ở Việt Nam thời trung đại, thể loại này để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng: Thánh Tông di cảo, (tương truyền của Lê Thánh Tông, thế kỷ XV); Công Dư tiệp ký (Vũ Phương Đề, thế kỷ XVI); Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm, thế kỷ XVIII); Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích, thế kỷ XIX); …
Với hàng trăm truyện có sự tham gia của các yếu tố kỳ quái, hoang đường, … một số tiêu đề có thể kể đến: Chuyện Chức Phán sự đền Tản Viên, Chuyện yêu quái ở Xương Giang; Chuyện tướng Dạ Xoa (Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ); Dì ghẻ bị quả báo; Khách chôn của (Nam thiên trân dị tập – Khuyết danh); Ma trành; Ma thắt cổ; Hài cốt nữ hiệp dưới gốc hồng mai (Vân nang tiểu sử - Phạm Đình Dục); Biết chuyện kiếp trước (Thoái thực ký văn – Trương Quốc Dụng); Thác oan (Vũ trung tùy bút – Phạm Đình Hổ); Kim quy hiến kế giết yêu tinh; Liệt nữ giấu kín vết nhơ, … (Tân đính Lĩnh Nam chích quái – Gia Cát thị); Điềm báo trước; Nhớ được ba kiếp; Yêu quái trên cây; Đánh nhau với quỷ, … (Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh, thế kỷ XIX); …
Để minh chứng, chúng tôi dẫn lại lời ở cuối Chuyện cây gạo (Truyền kỳ mạn lục), Nguyễn Dữ nhận xét: Than
ôi, cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người
thiên hạ, được kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là
một gã lái buôn không có trí thức, không đủ trách vậy. Vị đạo nhân kia
vì người trừ hại, công đức lớn lao; nhà bình luận sau này phải nên biết
đến. Không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị
đoan mà dìm mất cái hay, ngõ hầu mới hợp cái ý nghĩa “người quân tử
trung hậu đối với người khác”.
Riêng
người viết bài này thì cho rằng: thông qua chuyện nói về ma nhưng kỳ
thực đó là chuyện con người. Ma làm sao có được những hành động và lời
nói như trong truyện. Nếu người ta mà như nàng Nhị Khanh thì có khác gì
là ma quỷ! Thật đúng như nhận định: Truyền kỳ Việt Nam mang đậm yếu tố hiện thực và chất nhân văn. (trang 80, Ngữ Văn 10, tập 2, Trần Đình Sử tổng chủ biên)
Bên
cạnh truyện truyền kỳ, các truyện thơ Nôm cả bình dân lẫn bác học, yếu
tố ma quái, thần kỳ cũng không ít lần góp mặt. Trong truyện thơ Phạm Công, Cúc Hoa,
hình ảnh hồn ma bóng quế của Cúc Hoa hiện về chăm sóc cho Nghi Xuân,
Tấn Lực, rồi chỉ đường cho hai con đi tìm cha và ngoại đã gây xúc động
qua biết bao thế hệ độc giả, … Truyện thơ Nôm Bạch Viên Tôn Các
dù không phải là chuyện ma quái nhưng nó cũng không kém phần ly kỳ bởi
Bạch viên cởi bỏ lốt vượn, hóa thành thiếu nữ xinh đẹp, để kết duyên
cùng chàng Nho sinh Tôn Các, sinh được hai con trai. Nhưng Bạch viên
phải tuân lệnh Thiên đình, mãn số ở trần gian, từ giã chồng con về cõi
tiên, …
Kiệt tác Đoạn trường tân thanh, Tố Như đã xây dựng nhân vật Đạm Tiên bằng hình ảnh:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng
Bóng ma ấy luôn ám ảnh Thúy Kiều, kể từ khi cả hai hội ngộ ở bãi tha ma cho đến khi nàng thoát khỏi kiếp đoạn trường.
Đào Duy Anh trong Từ điển truyện Kiều
viết: theo tín ngưỡng xưa, hồn người chết vẫn còn trên thế gian này gọi
là ma, nếu không được thờ cúng thì hay quấy phá người sống. Ông giải
thích thêm: Theo Phật giáo, người có tình dục là theo ác ma xúi giục bắt
đi theo những con đường nguy hiểm.
Ma đưa lối quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi
Có trường hợp dùng trong tổ hợp từ đặc biệt để diễn tả sự … mất mát, Tú Bà thốt lên:
Màu hồ đã mất đi rồi
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma
Đến Văn tế thập loại chúng sinh, ma được hiểu là những cô hồn oan thác, … cần có nơi nương tựa, cần được bao dung:
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
Đó là những con người bạc mệnh, bất hạnh:
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đứng khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan
Và kết thúc trong ước nguyện siêu thoát về cùng với đất Phật
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Bản dịch Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm cũng thấp thoáng … bóng ma:
Hồn sĩ tử gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Công chúa Ngọc Hân khi khóc vua Quang Trung đã nguyện để “hồn phách” theo cùng chồng:
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo
(Ai tư vãn)
Thế
kỷ XIX, ở Nam Bộ, cụ Đồ Chiểu trong tác phẩm Lục Vân Tiên, ngoài việc
xây dựng các nhân vật thầy bói, thầy pháp trổ tài ba hoa để lừa lấy sạch
bạc tiền của công tử họ Lục, khi chàng từ trường thi hồi quê và khóc
thương mẹ đến mù lòa, nhà thơ còn trực tiếp viết những dòng thơ với nội
dung tả cách trừ khử phép thuật của binh hùng Cốt Đột, gần cuối tác phẩm
đó:
Một mình nhắm trận xông vô
Thấy người Cốt Ðột biến đồ yêu ma
Vội vàng trở ngựa lui ra
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ
Ba quân gươm giáo đều giơ
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan
Tuồng cổ San Hậu
gây ấn tượng cho người xem từ những năm giữa thế kỷ XIX đến tận thời
hiện đại. Đáng chú ý hơn là việc tác giả xây dựng hình tượng của bóng ma
Khương Linh Tá, khi bị Tạ Ôn Đình chém đầu rơi khỏi cổ, đã hiện hồn về
làm ngọn đuốc soi đường để Kim Lân ẵm ấu chúa vượt vòng vây Tạ tặc về
đến San Hậu thành bình an, …
Về
câu đối trong văn học Việt Nam trung đại, chúng tôi giới thiệu câu đối
liên quan đến từ “quỷ”. Khi Mạc Đỉnh Chi vâng lệnh vua Trần đi sứ sang
Bắc quốc, thấy ông mồm rộng, mũi tẹt, trán dô, người Nguyên tiếp sứ bộ
ta bằng giọng khinh bỉ với vế xuất: Ly, Mỵ, Võng, Lưỡng tứ tiểu quỷ (Các chữ ly 魑, mỵ 魅; võng 魍; lưỡng 魎 là bốn con quỷ nhỏ. Bốn chữ này đều có bộ quỷ 鬼). Câu đối còn hàm ý mỉa mai dáng mạo của trạng nguyên nước Việt.
Không chờ lâu, Mạc Đỉnh Chi đối lại ngay: Cầm 琴, sắt 瑟, tỳ 琵, bà 琶, bát đại vương.
Có tám chữ vương 王 lớn ở trên và cũng là ba loại nhạc khí cổ. Hàm ý còn bật lên từ chỗ các người coi ta là tiểu quỷ nhưng ta lại chính là đại vương đấy! Thật là ăn miếng trả miếng, chữ chọi tuyệt vời.
Hồ Xuân Hương, ngoài tài năng thơ ca, bà còn trổ tài viết câu đối:
Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương bồng quỷ tới;
Sáng mồng một tết, lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ bế xuân vào.
Một
câu đối khác không dùng từ ma, tiếng quỷ nhưng lại liên quan đến tục
trừ ma quỷ. Ngày cuối năm, vào thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Tú
Xương hạ bút:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi
Hình
ảnh bôi vôi miêu tả tục lệ ngày xưa, khi tết đến, xuân về, người ta
thường rắc vôi bột trước nhà, ngoài sân thành hình cánh cung, cái nỏ,
giáo mác, … để chống ma quỷ! Gắn liền với tục này là câu chuyện “Sự tích
cây nêu ngày tết” đã kể ở trên.
Điểm
như vậy mới thấy hồn ma của Cúc Hoa, hồn ma của Khương Linh Tá, … hiện
về làm những việc nhân nghĩa và trung liệt. Hồn ma trong Văn chiêu hồn
thật đáng xót thương, nó chẳng hại ai lại cần được con người cảm thông,
chia sẻ, … Có lẽ chiều sâu của văn hóa Việt Nam là sự bao dung, lòng vị
tha, nhân hậu, … Điều đó biểu hiện ngay cả trong hình tượng của ma quỷ –
loài mà trong tâm thức nhiều người chỉ toàn kẻ ác độc.
2.3. Ma quỷ trong văn học hiện đại
2.3.1. Ma quỷ trong văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Chúng
tôi theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu về lịch sử văn học Việt Nam,
cho rằng văn học Việt Nam hiện đại bắt đầu từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Trong văn học hiện đại Việt Nam lúc manh nha, “ma” đã xuất hiện trong cả
các tác phẩm trong Nam lẫn ngoài Bắc. “Ma” thỉnh thoảng “ghé thăm”
trong các bộ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, của Nguyễn Bửu Mọc, Nguyễn
Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, …
Khi nó đến yếu tố thần kỳ, không thể không nhắc đến Phan Kế Bính với Nam Hải Dị nhân. Nhưng nói ma với đúng nghĩa mà đề tài bài viết đặt ra thì ký ức của nhà biên khảo Vương Hồng Sển trong Sài gòn năm xưa không thể không trích dẫn:
Sau
trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, số binh sĩ và thường dân
Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật
đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi
xuống nước, xác ma da, thằng chỗng kẹo lềnh một khúc sông, làm cho ngót
ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc mà ớn xương sống không dám rớ đến
miếng xương thịt cá!
Ở một đoạn khác, cụ Vương viết về hình ảnh của danh tướng Lê Văn Duyệt:
(…)
Cứ ngày mồng sáu tháng giêng, thì Tả quân làm lễ “xuất binh”(muốn gọi
“ra binh”, “hành binh” đều được). (…) Lễ này diễn ra để thị oai với các
nước lân bang (Cao Miên, Xiêm La…) vừa để võ an dân tâm, vì thuở ấy dân
tình chất phác vẫn tin tưởng quỷ thần và hiểu rằng đầu năm có diễn oai
lực binh quân làm vậy thì trong xứ suốt năm dân sẽ được bình an vô bịnh,
bởi tà ma quỷ mỵ đều khiếp sợ oai võ của Tả quân.
Quá
trình hiện đại hóa, văn học Việt Nam phát triển với tốc độ “một năm ở
xứ ta bằng ba mươi năm xứ người” (ý của Vũ Ngọc Phan), từ những năm 1930
– 1945 văn học Việt Nam phân hóa thành nhiều xu hướng: văn học lãng mạn
với phong trào Thơ Mới và nhóm Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, xu hướng
văn học hiện thực, xu hướng văn học cách mạng.
Nói đến ma trong Thơ Mới, người đọc không lạ các thi phẩm: Trút linh hồn; Say chết đêm nay (Hàn Mạc Tử); Sọ người (Bích Khê); Đêm đông xem truyện quỷ; Nửa truyện Hồ ly (Vũ Hoàng Chương); Rằm tháng bảy; Đám ma (Anh Thơ); Đưa ma; Đám chết nghèo (Tế Hanh); Chiều mưa trên mộ địa (Phan Văn Dật); Đám ma đi (Lan Sơn); v.v…
Sẽ
là thiếu xót nếu không dừng lại với thơ của Đinh Hùng. Nhà thơ sinh năm
1920 mất 1967, quê ở Hà Tây này tạo dấu ấn riêng của mình trong phong
trào Thơ Mới bằng cách dùng những hồn ma để biểu đạt tâm cảm:
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm đáy mộ sâu
(…)
Ta gởi bài thơ cho anh linh
Hỡi người trong mộ có rùng mình
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn gợn tình
(Gửi người dưới mộ)
Ở Tìm bóng tử thần, nhà thơ bộc bạch:
Trời ơi! Đây nguyệt vô biên
Trong lòng người đẹp nằm quên dưới mồ
Ta cười trong suốt trang thơ
Gặp hồn em đó ngỡ là yêu ma
Đúng là giữa hư và thật, giữa người và ma, dường như ở ngòi bút Đinh Hùng không còn là ranh giới nữa.
Thương ôi! Thơ lạc hồn phong nhã
Ta đi gọi bóng ma sầu trong núi hoang vu,
(Thoát duyên trần cấu)
Gần như bài thơ nào của tác giả này viết trong thời kỳ của Thơ Mới đều có bóng của yêu ma, quỷ quái, … Những bài thơ Lạc hồn ca; Cầu hồn; hay Mê hồn ca, …, là minh chứng xác thực.
Trường hợp của Chế Lan Viên với những bóng ma Hời luôn ám ảnh trong tập Điêu tàn cũng xứng đáng được chọn làm điển hình cho nội dung bài viết. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho rằng: “Điêu tàn dựng lên một thế giới đầy sọ người cùng xương máu và yêu ma”.
Rồi lấy ra một khớp xương rợn trắng
Nút bao dòng huyết đẫm khí tanh hôi
Nơi khác, chàng trai khi ấy mới 17 tuổi đã kêu lên: Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi. Đến Cái sọ người vẫn là hình tượng rợn người:
Mi nhớ đến cảnh pháp trường ghê rợn
Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi?
Hay mi nhớ những đêm mơ rùng rợn
Hồn mi bay trong đám lửa ma trơi?
Đến đây, một lần nữa chúng tôi mượn lời của Hoài Thanh thay phần tiểu kết về chuyện ma quỷ trong Thơ Mới: Giữa đồng bằng văn học Việt Nam ở nửa thế kỷ XX, nó (tức ma quỷ - người viết mượn để diễn ý) đứng sừng sững như một cái tháp Chàm, chắc chắn và lẻ loi, bí mật.
Chuyện
ma quái hấp dẫn nhất trên các trang nhật báo lúc bấy giờ là tác phẩm
của những cây bút chuyên viết truyện đường rừng: Thế Lữ, Lan Khai,
Tchuya (Đái Đức Tuấn), và “yêu ngôn” của Nguyễn Tuân, … Qua các truyện
ngắn, tiểu thuyết cùng thời, chúng ta nhận ra khá nhiều tác phẩm có hình
ảnh của ma quỷ, chí ít cũng là sử dụng tiếng ấy trong lời trần thuật
hay phát ngôn của nhân vật.
Thế Lữ, ngoài một nhà thơ mới trứ danh, góp phần khẳng định vị thế của Thơ Mới, ông còn là tác giả của gần 40 truyện vừa, truyện ngắn khác. Truyện kinh dị có: Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi, truyện trinh thám: Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Đòn hẹn, Tay đại bợm..., và truyện lãng mạn núi rừng với Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh.
Tập Vàng và máu (1934), với Vàng và máu; Một đêm trăng; Con châu chấu tre; Ma xuống thang gác,
được đánh giá cao ở lối kể chuyện hấp dẫn, li kỳ, gây tò mò và xúc động
cho độc giả, xây dựng giản dị, có kết giải, lối văn gọn gàng, thanh
thoát, trí tưởng tượng và khiếu phân tích phong phú, những đoạn tả cảnh
vừa tỷ mỉ lại rùng rợn mà có thi vị là tác phẩm tiêu biểu và thành công
nhất của ông ở thể loại kinh dị, đã trở thành một hiện tượng mới lạ ngay
từ khi ra đời và để lại dư âm đến nhiều năm sau. Phan Trọng Thưởng đánh
giá Thế Lữ là "tác giả đạt đến đỉnh cao nghệ thuật" của loại truyện ly
kỳ rùng rợn, Lê Huy Oanh gọi đây là "một trong những tác phẩm thuộc loại
truyện rùng rợn có giá trị lớn trong kho tàng tiểu thuyết Việt Nam".
Trong
lịch sử văn học hiện đại Việt Nam trước Cách mạng, Lan Khai được xem là
một cây bút sung mãn, một nhà văn "đường rừng" sáng giá. Tác phẩm có Tiếng gọi của rừng thẳm (1939); Suối đàn (1941); Truyện đường rừng (tập truyện, 1940) ... Từ điển Văn học (bộ mới) nhận định: Ở
mảng truyện đường rừng, Lan Khai thường miêu tả rất kỹ, nhiều khi rề
rà…, rồi sau đó mới để cho các sự kiện xảy ra, tạo cho tác phẩm một
không khí hoang đường, căng thẳng từ đầu đến cuối.
Một nhà văn nữa chuyên viết về ma quỷ là Tachy - Đái Đức Tuấn. Tác phẩm tiêu biểu: Thần hổ (1937); Linh hồn hay xác thịt (1938); Kho vàng Sầm Sơn (1940); Ai hát giữa rừng khuya (1942). Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cho rằng: Cái giống ma ở hai tập tiểu thuyết thần quái của Tchya là ma trành và cái loại thần trong đó là thần Hổ, những con hổ đã ăn thịt hơn trăm người, trong tai nổi lên hơn trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm, và
nếu có chạm mình vào lá cũng không quên. Vị thần Hổ đây là
con hổ xám, hổ vàng, và khi họp hội đồng cơ mật dưới gốc một
đại thụ, vị thần Hổ thường trút bỏ bộ lông trắng, biến
thành một ông già đầu râu tóc bạc đường bệ. Bị hổ vồ là có
số, những kẻ bị giống mãnh thú ấy xơi đã có tên trong quyển
sổ do thần Hổ giữ. Thật là một sự định mệnh, không sao trốn
thoát được. (...)
Bọn ma Trành phải hầu hạ Thần Hổ rất là khổ sở, cho nên
muốn có kẻ thế chân mình bọn họ phải dun dủi những kẻ có số
bị bổ vồ vào nanh vuốt thần Hổ để họ được sống cái đời ma
độc lập, gần gụi với gia đình, với họ mạc. Peng Slao trong
Thần Hổ chính là một cô ma trành, sau thoát được sự hầu hạ
thần Hổ. Và Vũ Ngọc Phan trích dẫn từ văn bản của Tchya: Em
chết dưới vuốt nhọn của thần Hổ xám. Rồi em hóa ra Ma trành.
Anh có biết thế nào là Ma trành ? Ma trành là những thứ ma
bất đắc kỳ tử, hoặc bị hổ ăn, hoặc bị dìm đuối hoặc vì
thắt cổ, hoặc vì bị chẹt xe, vân vân. Những thứ ma đều bị
nhốt vào vòng oan nghiệt. Cái nghiệt trường của họ xui ra vậy.
Chết như thế thì linh hồn vất vưởng bị đầy đọa không đi đầu
thai được mà không được tự do. Muốn thoát khỏi vòng kìm hãm,
cũng phải tìm kẻ thế cho mình. Nếu không thì mãi mãi, mình
sẽ phải làm ma trành, đói khát, khổ sở.
Đến đây, người viết cảm thấy có lỗi khi chưa đề cập đến tác phẩm Chùa Đàn của Nguyễn Tuân. Chùa Đàn
là truyện ma quỉ được viết vào năm 1945, một số nhà phê bình coi như
tác phẩm đặc sắc nhất, có thể nói đã đạt tới tột đỉnh của nghệ thuật
cũng Nguyễn. Tóm tắt câu chuyện như sau: Tại ấp (đồn điền) Mê Thảo, chủ
ấp là Lãnh Út còn trẻ, vợ bị chết trong một tai nạn xe lửa. Quá đau buồn
trước cái chết của vợ, Lãnh Út đâm thù oán cơ khí, máy móc, bỏ cả công
việc làm ăn, uống rượu sáng đêm và ngày càng gàn dở.
Mọi
công việc trong ấp bấy giờ do Bá Nhỡ quán xuyến. Bá chịu ơn Lãnh Út nên
hết sức trung thành, nhờ vậy mà ấp Mê Thảo mới tồn tại. Bá có tài đàn,
bữa rượu nào của Lãnh Út cũng có Bá ngồi hầu, bình văn, ngâm thơ, dịch
tích Tây Hán, Đông Chu, …
Ngày
giỗ vợ, Lãnh khóc, cho đào cả tửu phần lên uống. Sau ngày ấy, Lãnh càng
thê thảm, ngày đêm ngôi như nhà sư nhập định. Bỏ rượu cả năm, rồi trong
đêm mưa, Lãnh Út lại đòi rượu và nhớ đàn hát. Lãnh sai Bá Nhỡ đi tìm cô
Tơ – một danh ca, mời cô về để vui say. Từ ngày ông Chánh Thủ chồng cô
mất, cô Tơ đã giải nghệ. Cô không nhận lời với cớ là không có người đàn
cho xứng. Bá dạo đàn cho cô nghe, cô Tơ khâm phục và nói thật cô đã thề
với Tổ bỏ ca hát, hơn nữa ai cầm đến cây đàn đáy của chồng cô sẽ gặp tai
biến hay vong mạng. Đàn làm bằng nắp ván quan tài của cô gái đồng
trinh, có yểm bùa gì đấy. Bá Nhỡ đòi xem đàn, nhưng khi đến gần thì có
tiếng nổ, dây đàn đứt.
Về
nhà trằn trọc mãi, Bá đến xin cô Tơ cho được đánh đàn và chịu mọi oan
khiên. Cậu Lãnh Út cũng đến để cầm chầu. Bá đàn, cô Tơ hát nghe nhức
nhối, ngậm ngùi. Bá nhận ra mình đang chết dần, mười đầu ngón tay chảy
máu, quần áo dài đỏ như vóc đai hồng, mỗi tiếng đàn là một miếng thịt
nẩy ra. Bỗng đàn đứt, có tiếng cười trên bàn thờ Chánh Thủ. Bá Nhỡ gục
xuống đàn lạnh ngắt, cô Tơ òa khóc, đỡ xác và vuốt mắt cho Bá. Chiếc đàn
nổ tung. Lãnh Út ngủ ngồi cạnh xác đến sáng hôm sau, Lãnh đưa thi thể
Bá về Mê Thảo. Chôn cất Bá Nhỡ xong, Lãnh Út thề bỏ rượu, bỏ đàn hát.
Một năm sau, chùa Đàn mọc lên ở ấp, cô Tơ lo kệ kinh. Lãnh Út bán ấp nhưng giữ lại hai mẫu nơi dựng chùa.
Để tránh lan man, dài dòng chúng tôi mượn lời của nhà giáo Hoàng Như Mai nhận xét về Chùa Đàn, rằng: “. . . Tất nhiên, Chùa Đàn là một hiện tượng độc đáo và phức tạp. Đọc Chùa Đàn phải thấy Lãnh Út,. . . Bá Nhỡ hay Cô Tơ, những nhân vật tài hoa nghệ sĩ ấy, tất cả đều là Nguyễn Tuân”
Để lý giải vì sao Nguyễn Tuân đến với … ma quỷ, chúng tôi dẫn lời của Nguyễn Đăng Mạnh khi nhận xét về tập Yêu ngôn
của Nguyễn Tuân, do ông tuyển chọn, để lý giải và cũng để kết thúc phần
ma trong văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945: “Nguyễn Tuân tìm vào thế
giới yêu ma có lẽ còn do một yêu cầu khác. Con người này luôn thèm khát
những cảm giác mới lạ và mãnh liệt. . . . những cảm giác ấy, Nguyễn
Tuân không thể tìm được trong cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong
cuộc sống hàng ngày mà ông chỉ thấy là lèm nhèm, lẹt đẹt và xám xịt”.
Dòng văn học hiện thực Việt Nam, tuy không dựng cốt truyện hay nhân vật ma quái, nhưng Vũ Trọng trong Bộ răng vàng, Bà lão lòa, … đều dùng những tiếng ma quỷ để trần thuật. Chúng ta không thể quên được chân dung của Thị Nở (Chí Phèo) khi Nam Cao so sánh ngoại hình của thị với thành ngữ quen thuộc ma chê quỷ hờn,
ở nhiều truyện ngắn khác, từ ma, ma quỷ, …, cũng rất hay xuất hiện
trong lời văn miêu tả của nhà văn này. Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng,
Ngô Tất Tố, … đều không dưới một vài lần dùng ma quỷ để ám chỉ tính cách con người, …
2.3.2. Ma quỷ trong văn học 1945 – 1975
Một trong những đặc điểm cơ bản của văn học 1945 – 1975 là Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Khuynh hướng sử
thi đòi hỏi người cầm bút nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con
mắt của cá nhân mình mà chủ yếu bằng con mắt có tầm bao quát của lịch
sử, dân tộc và thời đại. Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng
định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng. Cảm hường lãng
mạn trong văn học từ năm 1945 - 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc
khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con
người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương
lai tươi sáng của dân tộc.
Chính vì thế, yếu tố ma quỷ được dùng để nói đến tập tục trong dân gian, hay chỉ người … chết, thế thôi.
Trong Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài ta gặp hình ảnh “cúng ma”, đấy là tập tục của đồng bào dân
tộc Mông. Cha con thống lý Pá Tra lợi dụng vào đó để trói buộc những
người nghèo buộc họ làm nô lệ suốt đời cho nhà nó.
Kim Lân miêu tả nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu trong Vợ nhặt như sau: Những
gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu
nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp liều chợ.
Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi
làm đồng không gặp ba bốn cái thây ma nằm còng queo bên đường. Không khí
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Ông già Nam Bộ Sơn Nam cũng để lại ấn tượng đặc biệt khi viết về những hồn ma bị sấu ăn thịt trong tập truyện Hương rừng Cà Mau. Hãy đọc lại lời khấn của nhân vật Năm Hên cầu cho oan hồn siêu thoát, khi chuẩn bị ra tay bắt sấu dữ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn ơi! Hồn hỡi!
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc!
Ta thương ta tiếc,
Lập đàn giải oan...
Tiếng
như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê rợn nhứt là khi
thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai, tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó
nhang cháy đỏ quơ qua quơ lại trên tay.
Ma
cũng gần như vắng bóng trong thơ ca Cách mạng, có chăng cũng chỉ là
hình ảnh liên quan đến cái chết, với chức năng gợi lên tình yêu thương
hoặc lòng căm thù giặc sâu sắc:
Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
(Núi đôi – Vũ Cao)
Hay:
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có phần xương thịt của em tôi
(Quê hương – Giang Nam)
Tóm
lại, trong dòng văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
yếu tố ma quỷ có xuất hiện trong các tác phẩm, nhưng không nhiều. Chủ
yếu nó được các nhà văn, nhà thơ dùng làm phương tiện để đối sánh với
bản chất xấu xa trong con người (thường dùng để xây dựng chân dung các
nhân vật phản diện) mà thôi! Truyện kỳ quái, huyền ảo, hay những câu thơ
đầy xác, máu, sọ người, … dường như không xuất hiện trên văn đàn chính
thống.
2.3.3. Ma quỷ trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới
Sẽ
thiếu sót nếu đã đề cập văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp và
Mỹ các tác phẩm rất ít khi nói đến chuyện tâm linh, ma quỷ, thì ở văn
học thời đổi mới, con người tâm linh là một trong số các biểu hiện của
quan niệm nghệ thuật về con người.
Ngoài những tác phẩm như Mãnh đất lắm người nhiều ma được Nguyễn Khắc Trường ẩn dụ chỉ những việc làm xấu xa, những “lệ làng” kỳ quái do những con người đội lốt ma quỷ gây ra, thì Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật Quỳ tự nói thầm với anh linh các tử sĩ, …
Phan Đức Thuận có truyện ngắn Quỷ sống
cũng chứa đựng nhiều tình tiết ly kỳ. Ma quỷ là từ phổ biến trong tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Võ Thị Hảo, …. nhưng có lẽ gây tiếng vang
mạnh mẽ trong thời gian qua là Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, …
Vấn đề này rất phức tạp và còn nhiều luồng ý kiến trái chiều, chúng tôi hy vọng sẽ đề cập sâu hơn ở dịp khác.
3. Kết luận
Chưa
biết trong thực tế ra sao, ma có thật hay không? Nhưng trong văn học,
không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, gần ta nhất là Trung Quốc với
những bộ tiểu thuyết ma quái, thần kỳ đã trở thành kiệt tác, mẫu mực: Tây du ký (Ngô Thừa Ân), Liêu trai chí dị (Bồ Tùng Linh), …
Ma
quỷ hiện hữu trong đời sống tâm linh của con người. Chừng nào còn những
hiện tượng kỳ bí trong đời sống mà con người chưa thể giải thích được,
chừng ấy sẽ còn … ma quỷ! Văn học là tiếng nói từ trái tim tình cảm, là
nơi bộc lộ cảm xúc, … như vậy văn học và ma quỷ có điểm tương đồng, và tất nhiên là nó “tựa vào nhau” cùng tồn tại, phát triển.
Người ta xếp Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò
để thấy rằng ma còn tinh nghịch, phiền phức, rắc rối hơn cả học trò
nhưng chưa thấy chứng cớ nào về sự tinh nghịch của ma hơn sự tinh nghịch
của con người.
Chỉ
có con người là có khả năng biến thành quỷ dữ để giết con người chứ
không có quỷ biến thành Phật để diệt quỷ. Chỉ có con người là tạo ra ma
để dọa con người nhưng chưa thấy ma tạo ra con người để dọa ma.
Trong văn mạch ấy, xin được kết thúc bằng câu chuyện trong Cổ học tinh hoa
của Trung Quốc vừa để hầu mong bạn đọc gần xa xem như đó là tâm tư của
tác giả bài viết này, vừa để chúng ta cùng nhìn thấy sự tương đồng trong
văn học nói riêng và văn hóa nói chung giữa các dân tộc trên thế giới:
MA NÓI CHUYỆN
Có người trốn tránh quân thù nghịch, đi ẩn núp ở chốn núi thẳm hang cùng.
Một
đêm, gió mát trăng thanh, người ấy bỗng thấy con ma vẩn vơ, quanh quẩn
dưới gốc cây dương liễu, sợ quá anh ta nằm phục xuống, không dám trở
dậy. Ma thấy thế, nó đến tận nơi, bảo:
- Sao không ra đây mà chơi?
Người kia run rẩy trả lời: Thưa, con sợ lắm!
Ma
nói: Sao anh gàn thế! Việc chi mà sợ! Kể ra nếu đáng sợ thì chỉ có
giống người mới đáng sợ hơn cả. Anh nghĩ lại xem, vì ai mà anh đảo điên
cơ cực thế này! Vì đồng loại của anh hay vì tôi? Vì người hay vì ma?
Ma nói xong, cười rồi biến mất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989.
2. Phan Kế Bính, Nam hải dị nhân, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
3. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), Truyện truyền kỳ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999
4. Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970
5. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Văn Khôn, Hán Việt từ điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1960.
7. Nguyễn Văn Ngọc - Trần Lê Nhân, Cổ học tinh hoa, (quyển hạ), Sách giáo khoa Tân Việt xuất bản, Sài Gòn, 1970.
8. Hoàng Ngọc Phách - Kiều Thu Hoạch (sưu tầm và biên soạn), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001.
9. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994.
10. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
11. Nguyễn Khắc Thuần, Việt sử giai thoại, (8 tập), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997.
Nguồn: www.vanchuongviet.org
No comments:
Post a Comment