Nhớ bác Phạm Thiều
Miễn Trai(1) gắng gìn giữ sự trong sạch, bút hiệu ấy tôi thấy thật ít ai thích hợp hơn Giáo sư Phạm Thiều, người tôi không có vinh dự trực tiếp là trò, nhưng vẫn có may mắn được gần gụi và sinh hoạt với ông trong cùng cơ quan Viện Văn học từ 1965, là năm khai giảng lớp Đại học Hán học, đến 1970, là năm ông được điều động sang xây dựng Ban Hán Nôm vừa mới thành lập, tiền thân của Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện nay.
Trước
khi được cùng sinh hoạt với ông, tôi đã có “biết” ít nhiều về ông qua
thái độ trân trọng của Giáo sư Viện trưởng Đặng Thai Mai - người đồng
hương xứ Nghệ và có thời cùng là đồng môn với ông ở trường Quốc học Vinh
và trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, ít tuổi hơn Đặng Thai Mai, nhưng
Phạm Thiều lại nổi tiếng là học giỏi, luôn luôn đứng vị trí đầu lớp. Câu
chuyện đó sau này Đặng Thai Mai đã có dịp viết trong hồi ký của mình:
“Anh Phạm Thiều” bé như cái đinh mén”, nhưng nói đến chuyện học thì
không chê vào đâu được: ngày học, đêm học, nắng hè như thiêu đốt, trời
đông giá lạnh vẫn học 11, 12 giời đêm. Ngày hè, tháng nghỉ, anh vẫn mê
mết với sách vở, với những bài toán của chương trình những năm sắp tới.
Đối với anh hình như trong danh bạ của lớp học chỉ có một chỗ ngồi xứng
đáng là địa vị đầu lớp”(2).
Có
thể nói ở Phạm Thiều là sự chung đúc bản chất, tính cách của một lớp
học trò xứ Nghệ, vốn là cả một danh sách dài, có không ít người nổi
tiếng những năm 20 và 30, để sau 1945 trở thành đội ngũ cán bộ văn hoá,
khoa học cốt cán và đầu đàn của nền Dân chủ Cộng hoà.
Một
điều cũng đáng chú ý là lớp trí thức yêu nước xứ Nghệ ra đi từ nguồn
Quốc học Vinh ấy gồm những Hoàng Ngọc Phách, Cao Xuân Huy, Tôn Quang
Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều, Nguyễn Xiển, Hoàng Xuân Hãn… tiếp đến
là Hoài Thanh, Nguyễn Khắc Viện… số lớn đều hành hương ra Bắc, còn Phạm
Thiều lại thuộc số ít vào Nam.
Ngay
sau Cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Thiều đã được giao chức trách
Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Gia Định-Chợ
Lớn, rồi Giám đốc Nha giáo dục phổ thông Nam Bộ. Không kể trước đó ông
đã là bậc thầy nổi tiếng về hai môn Hán văn và Việt văn của trường Trung
học Trương Vĩnh Ký. Trên cương vị một trí thức tên tuổi cùng lứa với
Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh… tuổi 40 của Phạm Thiều đã dành cho Nam Bộ
nói chung, Sài Gòn-Gia Định nói riêng. Để rồi-chẵn 30 năm sau, sau hai
cuộc trường chinh của dân tộc đi đến đại thắng mùa xuân 1975, ông lại
cùng gia đình chuyển vào Sài Gòn tiếp quản những công việc mới mà ông đã
có kinh nghiệm trong nhiều năm ở Hà Nội. Ở tuổi 70, sau khi rời Ban Hán
Nôm của Viện Khoa học xã hội, chuyển vào Sài Gòn, ông vẫn tiếp tục
nghiên cứu Hán Nôm, và phụ trách Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội.
Trong hơn mười năm cuối đời, sống và công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh,
ông đã tham gia chủ trì nhiều chương trình nghiên cứu khoa học xã hội,
nhiều hội thảo lớn về danh nhân văn hoá như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Thông… Ông lại đang có dự định cùng học giả Ca Văn Thỉnh
làm một công trình nghiên cứu về Nam Bộ và Văn hoá Nam Bộ trước khi Pháp
sang-rất có thể đó sẽ là công trình có đóng góp cho đề tài 300 năm Sài
Gòn. Đáng tiếc là công trình này cả hai ông đều chưa thực hiện được.
Kỷ
niệm còn lưu giữ khá sâu về Giáo sư Phạm Thiều đối với chúng tôi là
thuộc mấy năm ông về Viện Văn học, sau khi thôi công tác Đại sứ một số
nước Đông Âu, để làm thấy lớp Đại học Hán học. Gọi ông là Giáo sư là
hoàn toàn đúng, dẫu ông chưa hề nhận học hàm Giáo sư. Bởi ông là một trí
thức có kiến văn kỹ lưỡng về văn hoá Phương Đông và nền văn hoá cổ dân
tộc. Là người có phương pháp sư phạm để truyền thụ một cách rất hấp dẫn
các kiến thức khó, theo đúng nghĩa một ông thầy. Còn hơn thế nữa, đối
với lớp thanh niên chúng tôi, thầy Thiều hay bác Thiều, hay Cố Tư, hay
Phạm mỗ đều là hiện thân gần như trọn vẹn sự toàn tâm toàn ý với các
công việc được giao mà không có chút bận tâm gì về quyền lợi, về đãi
ngộ. Là người có thẻ gom đủ, hơn thế, là kết tinh cao các phẩm chất: cần
cù, giản dị, tận tụy, nghiêm túc, liêm khiết, trong sạch, nhân hậu… Khó
có thể chê, hoặc bàn tán gì về ông trong tất cả mọi hành vi, ứng xử của
đời công và đời tư. Nét sống nổi bật của ông theo như tôi nhớ, là tuyệt
đối không làm phiền ai. Tuyệt đối không vì uy tín và tuổi tác mà nhờ
cậy, hoặc sai khiến ai. Việc chợ búa nơi sơ tán ông tự lo. Hàng căng tin
của cơ quan ông nhường hết cho lớp cán bộ nghèo. Ăn cơm tập thể ông
cũng sắp hàng như mọi người. Lên xe về Hà Nội ông nhường chỗ tốt cho phụ
nữ và trẻ con… Tóm lại, đó là tấm gương của sự nhường nhịn, hy sinh,
đôi khi đến như khắc khổ và có phần cố chấp, khiến ai không thật hiểu
ông đều có thể ít nhiều tự ái hoặc chạnh lòng. Có thể nói, Phạm
Thiều-như chính bút danh Miễn Trai của ông, là một cán bộ, một đảng
viên, một nhà giáo, một người nghiên cứu cực kỳ gương mẫu - tôi có thể
cam đoan thế. Cũng chính từ sự gương mẫu đó mà có giai thoại về chuyện
Cố Tư tu dưỡng bản thân theo lối vận dụng hai lọ đỗ đen trắng của Trình
tự-một môn sinh họ Khổng thời Trung Hoa cổ đại.
Người
thầy dạy Hán Nôm cổ ấy lại cũng là người gắn bó rất tha thiết với thời
sự chính trị và văn chương. Dường như mọi kỷ niệm trong những tháng năm
hoạt động ở Nam Bộ vẫn in đậm và sống động trong tâm trí ông, trong niềm
thương nỗi nhớ của ông. Đó là lý do để nhà nghiên cứu Miễn Trai-chuyên
gia về Hàn, Liễu, Âu, Tô; về Ức Trai và Nguyễn Đình Chiểu vẫn viết, và
viết hay những tiểu luận và phê bình nhằm cổ vũ cho cuộc chiến đầu ở
Miền Nam, cho Văn học Giải phóng Miền Nam, như bài viết về hồi ký Bất
khuất của Nguyễn Đức Thuận, về Mỹ thì Mỹ cóc cần! Khẳng định sức sống
của cuộc chiến tranh nhân dân ở Miền Nam.
Chức
trách Trưởng ban Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội giao cho ông quả ai
không xứng đáng hơn. Nhiều dự định lớn ông đang ấp ủ: đào tạo một thế hệ
trẻ tinh thông Hán Nôm, làm sách Thư mục Hán Nôm và thơ bang giao đi
sứ… Thế nhưng ông đã vui vẻ nhận lãnh nhiệm vụ mới sau bốn năm công tác
để vào Thành phố Hồ Chí Minh ở tuổi 70. Những gì ông làm cho việc tiếp
quản và xây dựng cơ sở học thuật mới này cần được ghi nhận trong Tiểu sử
hơn 20 năm của Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh. Những
năm này chúng tôi quá bận rộn trong nhiều công việc mới; mặt khác, đời
sống thời bao cấp ở đỉnh cao lại quá lắm khó khăn, nên sau cuộc chia tay
với ông bà ở căn gác nhỏ phố Hàn Thuyên, tôi ít có dịp được gặp ông.
Mấy cuộc đi công tác phía Nam vào đầu 80, không hiểu sao tôi lại không
ghé thăm ông bà- đó là điều mà cho mãi đến hôm nay tôi vẫn không sao
nguôi khuây ân hận. Cho đến khi đột ngột nghe tin ông mất- cuối năm 1986
- một cuộc ra đi không bình thường, mà lý do không mấy ai muốn dò hỏi,
tôi cùng mấy bạn bè thân thiết bỗng quá sững sở. Và cố nhiên là buồn,
buồn hơn bất cứ mọi cuộc ra đi nào khác.
Người
trí thức, nhà học giả có trên nửa thế kỷ hoạt động cho sự nghiệp văn
hoá, khoa học, giáo dục cách mạng là Phạm Thiều rất đáng được chúng ta
nhớ đến và biết ơn vào dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Nghiên cứu Hán
Nôm. Suy nghĩ và mong mỏi đó ở tôi bỗng có thêm sự hỗ trợ khi được đọc
trên Thế giới mới, số 278, ngày 23-3-1998 bài Vài kỷ niệm khó quên với
thầy yêu kính của tôi: cố Giáo sư Phạm Thiều của Giáo sư Tiến sĩ Trần
Văn Khê. Bài viết kể lại một kỷ niệm nhỏ mà in dấu rất sâu trong cuộc
đời nghề nghiệp của tác giả, sau hơn 40 năm gặp lại thầy Thiều ở Hội
thảo khoa học về Nguyễn Trãi tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1980. Ấy là
một cuộc gặp gỡ cảm động giữa trò với thầy, cả hai đều thấm nhuần đạo lý
“nhất tự vi sư-bán tự vi sư”. Với Phạm Thiều, ông đồ Nho và đồ Tấy xứ
Nghệ, chuyên gia hàng đầu về Hán Nôm, người cán bộ cách mạng gương mẫu-
dường như lúc nào ông cũng giản dị và nhũn nhặn thế, đúng như trong ký
ức của Giáo sư Trần Văn Khê.
CHÚ THÍCH
(1) Bút danh của Phạm Thiều (1904-1986).
(2) Hồi ký, Nxb. Tác phẩm mới, H.1985; tr.265.
Từ khóa:
Các bài viết liên quan:
- Văn học và đạo đức xã hội
- Sự nghiệp khoa học của giáo sư Trương Tửu
- Hoàng Trung Thông quyết không bỏ rượu!
- GS. Phong Lê: Với người trí thức, điều cần nhất là tự do tư tưởng, là tự do trong sáng tạo các ý tưởng
- Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát - Hai thân phận trí thức - nho sĩ vào mở đầu triều Nguyễn
- “Thần thánh và bươm bướm” mấp mé một cái gì rất lớn*
- Một ít ghi chép về ảnh hưởng của L.Tolstoi đối với văn học Việt Nam
No comments:
Post a Comment