NGUYỄN THIÊN THỤ * MỘT THÚY KIỀU, BA TÌNH YÊU
MỘT THÚY KIỀU, BA TÌNH YÊU
NGUYỄN THIÊN THỤ
Tình yêu là một hiện tượng tâm lý, tùy
thuộc vào vào từng cá nhân, và từng thời gian. Trên đường đời, Thuý Kiều đã gặp
nhiều đàn ông, và tỏ vẻ hờ hững với họ:
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm
đó mận mà với ai.
Chỉ có ba người là được
nàng yêu thật tình là Kim Trọng, Thúc sinh và Từ Hải.
I. KIM
TRỌNG
Kim Trọng là người yêu đầu
tiên của Thúy Kiều, và Thúy Kiều cũng là người yêu đầu tiên của Kim Trọng Đây
là mối tình thơ ngây trong trắng của đôi thanh niên nam nữ mới lên. Kim Trọng
thuộc hàng người yêu cuồng nhiệt, chưa gặp mặt, mới nghe danh Thúy Kiều xinh đẹp
mà đã say đắm:
Vẫn nghe thơm nức
hương lân,
Một nền đồng
tước khóa xuân hai Kiều.
Nước non
cách mấy buồng thêu,
Những là
trộm nhớ, thầm yêu chốc mòng.
(
K.155-158)
Sau buổi gặp đầu tiên,
Kim Trọng đã tương tư Kiều:
Tuần trăng khuyết,
đĩa dầu hao,
Mặt mơ tưởng
mặt, lòng ngao ngán lòng.
Buồng văn
hơi lạnh như đồng,
Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phiếm loan.(251-254)
Về phần Thúy Kiều, nàng
cũng suy nghĩ rất nhiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ đầu tiên:
Người đâu gặp gỡ mà
chi.
Trăm năm biết có duyên gì hay không ! (181-182)
Tình yêu của Kim Trọng và
Thúy Kìều khởi đầu là chiêm ngưỡng, chớp nhoáng ( coup de foudre Foudre> )
và thầm lặng:
Người quốc sắc, kẻ
thiên tài,
Tình trong
như đã, mặt ngoài còn e.
Chập chờn,
cơn tỉnh, cơn mê,
Dốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (163-166 )
Cái
nguyên nhân chính là tài sắc, là phong tư, tài mạo, là dung nhan diễm lệ đã quấn
hút hai người vào nhau. Kim Trọng có một mãnh lực hấp dẫn nữ giới:
-Nền phú hậu, bậc tài
danh,
Văn chương
nếp đất, thông minh tính trời.
Phong tư
tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.(149-152)
Thúy Kiều là một giai
nhân tuyệt sắc, nổi danh tài nghệ:
-Làn thu thủy, nét
xuân sơn,
Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành họa một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. (25-30)
Kim Trọng
là kẽ đa tình và cũng là người quyết chí vì tình. Chàng đã chủ động trong tình
yêu. Mượn cớ du học, chàng thuê nhà ở cạnh nhà Thúy Kiều, và ngày đêm trông
ngóng bóng hồng. Cuộc gặp gỡ của hai bên vừa do nhân định vừa do ngẫu nhiên.
Nhân định là vì Kim Trọng có ý theo dõi Kiều, trông ngóng Kiều để có dịp gặp mặt
trao lời. Còn Thuý Kiều là vô tình, là ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên mà vướng cây kim
thoa. Ngẫu nhiên mà Kim thoa vào tay Kim Trọng chớ không ai khác. Kiều có được bản tính e lệ của gái đoan
trinh, và đây là điểm rất đáng yêu khác với người Aâu, Mỹ:
-Nặng lòng xót liễu
vì hao,
Trẻ
thơ đã biết đâu mà dám thưa. (335-36 )
-Đã lòng
quân tử đa mang,
Một lời
vâng tạc đá vàng thủy chung .(351-52 )
Thúy Kiều là gái đam mê,
vắng nhà trong đêm đã sang nhà Kim Trọng ba lần. Nàng lãng mạn nhưng vẫn còn lý
trí:
Vẻ chi một đóa yêu
đào,
Vườn hồng
chi dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào
bậc bố kinh,
Đạo tòng
phu lấy chữ trinh làm đầu,
Ra tuồng
trên bộc, trong dâu,
Thì con
ngườinấy, ai cầu làm chi.(503-08)
Đứng về phương diện luân
lý, sư Tam Hợp đã nhận định về Thúy Kiều
rất đúng:
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm. (2682 )
Đứng về phương diện tâm
lý và nghệ thuật, truyện Kiều vừa có tính lãng mạn vừa có tính nhân bản. Thúy
Kiều và Kim Trọng rất người nghĩa là có lý trí và tìm cảm. Và truyện Kiều rất hấp
dẫn vì không khô khan, giáo điều cũng không khiêu dâm.
Nói tóm lại tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình đầu,
là tình trong trắng, ngây thơ và chân thành.
II.
THÚC SINH
Giữa
đám người gian manh, thô bỉ như Mã Giám sinh, Sở Khanh, Thúc sinh nổi bật như một
ngôi sao nhỏ giữa trời đen tối. Vị trí của
Thúy Kiều là vị trí một kỹ nữ trong lầu xanh, còn Thúc sinh là một công tử ăn
chơi ở lầu xanh. Chàng cũng như bao ngườikhác tới lầu xanh để mua vui. Chàng
cũng như bao người khác đã dùng vàng bạc để gần gũi Kiều. Cái tính của chàng là
hào sảng, coi khinh đồng tiền có lẽ đã làm Kiều rung cảm:
Thúc sinh quen thói bốc
rời,
Trăm nghìn đổ một
trận cười như không. (1303-04)
Lại nữa, bề ngoài của
chàng có dáng dấp thư sinh
( cũng nói thư hương) cho
nên hơi giống cái nho nhã của Kim Trọng. Có lẽ hai lý do này đã khiến Kiều chú
ý đến Thúc sinh. Về Thúc sinh, gặp Thúy Kiều là chàng đã say mê, cũng bị tiếng
sét ái tình làm cho tâm hồn điên đảo:
Trướng tô giáp mặt
hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa.
Hải đường
mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân
càng gió, càng mưa, càng nồng.
Nguyệt
hoa, hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng? (281-86)
Tình yêu Kim Trọng và Thúy Kiều là tình yêu chớp nhoáng,
còn tình yêu giữa Thúc sinh với Thúy Kiều, nhất là về Thúy Kiều, là do quá trình gần gũi như tục ngữ ta nói «
lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén »:
Sớm đào, tối mận lân
la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng. (1389-90)
Thực ra tình yêu giữa Thúc sinh và Thúy Kiều là một mối
tình có tính toán. Biết chàng là con mồi ngon, nhà giàu lại đam mê, Kiều đem kỹ
thuật giăng lưới săn nai ra áp dụng. Nàng đã đem thân thể phô bày một cách kín
đáo để quyến rũ Thúc sinh. Lấy cớ trời
nóng nực, nàng đi tắm. Nàng tắm trong phòng của nàng, cách bên ngoài một tấm màn mỏng. Lẽ dĩ
nhiên, Thúc sinh ngồi ở phòng ngoài,vẫn đưọc chiêm ngưỡng những đường nét tuyệt
diệu và hấp dẫn của Thúy Kiều:
Buồng the phải buổi thong
dong,
Thang lan rủ bức trướng hồng tắm hoa.
Rõ ràng trong ngọc, trắng ngà,
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên
nhiên.(1309-12)
Tại
sao không chờ Thúc sinh về rồi hãy tắm? Là vì Kiều muốn triển lãm trước mắt
Thúc sinh. Tại sao không tắm chỗ khác lại tắm trong phòng? Vì ngày xưa không có
phòng tắm, người ta thường tắm ngoài trời. Phụ nữ cũng tắm ngoài trời vào ban
đêm, hay tắm trong phòng mà kéo màn lại. Tại sao không dùng màn màu trắng, màu
đen mà dùng màu hồng? Vì màu hồng điệp với màu da thịt, làm tăng thêm vẻ đẹp của
một thân thể hồng hào. Xúc cảnh sinh tình, Thúc sinh đã làm một bài thơ tả cảnh
Kiều tắm. Chắc Kiều mừng lắm vì nàng biết Thúc sinh làm thơ, dù là thơ con cóc,
cũng chứng tỏ chàng đã si mê thật tình. Cá đã cắn câu. Kiều là một tay nghề
trong xuớng họa thế mà nàng từ chối hoạ bài thơ của chàng. Nàng lấy cớ lòng buồn
vì nhớ quê hương và cha mẹ:
Hay
hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây vàng,
Họa vần xin
hãy chịu chàng hôm nay.(1317-20 )
Đây là thủ đoạn thứ hai Kiều dùng để đánh vào
lòng từ bi, nhân ái của Thúc sinh. Những kẻ gian manh thường dùng chiêu này để
lừa đảo thiên hạ, mà nhiều kẻ mắc phải vì họ tự cho họ là nhân ái.
Kiều dụ Thúc sinh hỏi nguồn gốc lai lịch,
để rồi Kiều sẽ kể cho chàng thân thế bi thương của nàng:
Nàng
càng ủ dột thu ba,
Đoạn trường lúc ấy nghị mà buồn tênh.
Thiếp như hoa đã lìa cành,
Chàng như con
bưóm liệng vành mà chơi.(1323-26)
Sự
kể lể này sẽ làm cho chàng cảm thương nàng, xuất tiền túi chuộc nàng ra, mua
nhà cho nàng, cùng nàng chung sống: Chiêu thức này đa số gái giang hồ sau này đều
thực hiện đúng phóc. Em là con gái quê, vì cha mẹ em nghèo, bệnh nặng hay mắc nợ
nần phải bán mình vì chữ hiếu. Hoặc em là con nhà đàng hoàng, tử tế, vì thằng
lưu manh, thằng Sở Khanh, vì thằng chồng thô bạo mà dấn bước giang hồ.
Khi Thúc sinh mắc lưới, tính việc chuộc
nàng ra cùng nàng chung sống, Kiều làm bộ từ chối, lấy cớ sợ lòng chàng thay đổi,
và vì sợ vợ cả ở nhà ngăn cản, ghen tuông:
Nàng
rằng muôn đội ơn lòng,
Chút e bên thù, bên tòng dễ đâu.
Bình Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa, yêu được một màu điểm trang.
Rồi ra lỡ phấn phai hương,
Lòng kia giữa được thường thường mãi
chăng?
Vả trong thềm quế cung trăng,
Chủ trương đã có chị Hằng ở
trong.(1333-40 )
Nàng
thực hiện kế hoạch thoái một bước, tiến hai bước. Ban đầu nàng đóng cửa nhưng gần
cuối nàng mở cửa để Thúc sinh thực hiện ý định của chàng;
Thương
sao cho vẹn thì thương,
Tính sao cho
vẹn mọi đường xin vâng. (1359-60 )
Tóm lại, tình của Thúy Kiều là mối
tình ở chốn lầu xanh. Mội mối tình có toan tính, có kế hoạch, và vụ lợi, khác với
mối tình đầu với Kim Trọng.
III. TỪ HẢI
Không gian hội ngộ giữa Từ Hải và Thúy
Kiều cũng giống không gian gặp gỡ giữa Thúc sinh và Thúy Kiều. Đó là chốn lầu
xanh. Từ Hải nổi bật giữa các khánh tầm thường khác bởi cái khí phách của
chàng, cái uy dũng hiện ra ngoài:
Râu
hầm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn
sức, lược thao gồm tài. (2167-70 )
Tình
yêu giữa Từ Hải và Thúy Kiều cũng là tình yêu chớp nhoáng. Cả hai đều bị tiếng
sét ái tình ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Từ Hải tìm đến Thúy Kiều vì chàng đã nghe
danh Thúy Kiều. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải yêu Thúy Kiều từ khi chưa gặp mặt.
Kh gặp nhau, cả hai đều say mê nhau:
Qua
chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng
ưa.(2175-78)
Tình
yêu của hai người là tình yêu của trai tứ chiếng, gái giang hồ. Đặc biệt, tâm
tính Từ Hải là tâm tính của nhà binh, gặp Kiều là đi ngay vào vấn đề không cần
đợi chờ ngày tháng như Thúc sinh:
Từ
rằng tâm phúc tương cờ,
Phải rằng trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào,
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Một đời được mấy anh hùng,
Bỏ chi cá chậu, chim lồng mà chơi.
(2179-84 )
Từ
Hải có thái độ kiêu căng, tự cho mình là bậc anh hùng. Trước những người tự đắc,
tự kiêu như thế, Thúy Kiều lại càng nhún nhường, lễ phép, và đó là Thúy Kiều đã
từng trải, đã hiểu tâm lý từng loại khách, và đó cũng là nghệ thuật đắc nhân tâm của Thúy Kiều:
-Thưa
rằng : người dạy quá lời,
Thân này còn dám coi ai là thường! (
2185-86)
-Thưa rằng: lượng cả bao dong,
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo
bọt, dám phiền mai sau (2195-98)
Nhìn qua cung cách của Từ Hải,ngay
trong buổi đầu, Thúy Kiều đã biết sau này chàng sẽ thành một đại vương như đám Lương Sơn Bạc! Từ Hải là một
võ tướng, một hải khấu, một người hữu dũng vô mưu, nghe lời nịnh hót của một kỹ
nữ đã khoái trá, bộc lộ rõ chí hướng của
mình, không cần che đậy hành tung của một khách giang hồ chưa gặp vận:
Nghe
lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: tri kỷ trước sau mấy người!
Khen cho con mắt tinh đời,
Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.
Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung
nghìn tứ ắt là có nhau. (2199-2204 )
Thúc
sinh phải mất một thời gian dài mới chinh phục được Thúy Kiều, còn Từ Hải ngay
trong buổi đầu đã tâm đầu ý hợp, bỏ tiền chuộc Thúy Kiều ra khỏi thanh lâu:
Ngỏ
lời nói với băng nhân,
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát
hoàn.
Buồng riêng sửa soạn thanh nhàn,
Đặt giường thất
bảo, vây màn bát tiên.(2207-10)
Từ
Hải là người nông nổi, thiếu suy nghĩ. Chàng thích được người vuốt ve, nịnh bợ
cho thỏa mãn cái tự ái, tự tôn của chàng. Chàng là người không sâu sắc, không
khôn ngoan, chỉ là một kẻ ồn ào, ưa nịnh hót và ưa khoe khoang cho thỏa mãn cái
anh hùng cá nhân của chàng. Bởi vậy sau này, nghe lời Kiều, chàng đầu hàng triều
đình và bị chết thảm thương! Và tình của Thúy Kiều với Từ Hải cũng là một việc
tính toán lợi hại cho bản thân nàng, cho nên Thúy Kiều đã mắc mưu Hồ Tôn Hiến.
Nịnh và tham đưa đến kết quả thảm thương:
Nàng
thời thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt, nghe lời dễ xiêu.
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gain
truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thang đường cái, thanh vân hẹp
gì.
Công tư vẹn cả đôi bề,
Dần
dà rồi phải liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha (
2471- 80)
Trong ba mối tình của Thúy Kiều, mối
tình với Kim Trọng là sâu sắc, đậïm đà nhất. Khi phải bỏ gia đình theo Mã giám
sinh, Kiều đã kêu tên chàng một cách thảm thiết:
Ối Kim Lang, hỡi Kim Lang,
Thôi thôi,
thiếp đã phụ chàng từ đây!(755-56)
Ở lầu Ngưng Bích cô đơn,
Thúy Kiều đã tưởng nhớ đến Kim Trọng:
Tưởng người duới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mài chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. (1039-42)
Khi ở lầu xanh, nàng
cũng nhắc đến Kim Trọng và lời thề xưa:
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? (1259-60 )
Khi lấy Từ Hải, Từ Hải ra
đi theo tiếng gọi bốn phương trời, trong lòng Thúy Kiều cũng hiện lên hình ảnh
Kim Trọng:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng. ( 2239-40)
Và nàng ân hận đã không
trao cho chàng tấm băng trinh của nàng trước khi lăn lóc bụi trần:
Biết thân đến nước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.( 791-92)
Trong
ba mối tình, tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu chiêm ngưỡng, còn
tình với Thúc sinh, Từ Hải là tì nh yêu có tính toán, và vị lợi. Nàng con người
lý tưởng, nàng là gái giang hồ nhưng lại sống trong mộng tưởng, theo đuổi ái
tình lý tưởng. Nàng không muốn tái hợp với Kim Trọng, mà chỉ giữ tình bạn, vì
nhiều lý do. Yêu nhau là cho nhau, là dâng hiến. Nàng còn gì ngoài tấm thân ô uế
đã nằm trong tay bao người đàn ông khác? Nếu Kim Trọng còn yêu nàng chẳng qua
là chàng yêu một Thúy Kiều của quá khứ. Ngày sau, đối diện với nhau,với dư luận,
với sự thực, sẽ còn những gì đẹp? Bản thân nàng đã hoen ố, nàng không muốn nàng
và Kim Trọng phải đối diện với thực tế phũ phàng. Lại nữa, sau mười lăm năm lưu
lạc, Kiều đã trên ba mươi, không còn son trẻ như thuở trước. Ngày xưa, người ta
quan niệm phụ nữ ba mươi không còn nghĩ đến đường tình duyên nữa:
Trai ba mươi tuổi đang xoan,
Gái ba mươi tuổi lo toàn về già (ca dao )
Ngày
xưa Lý phu nhân lúc gần mất, nhất định không cho Hán Vũ Đế gập mặt vì bà còn gì
nữa đâu ngoài cái dung nhan tàn tạ của con người sắp lìa cõi thế! Thúy Kiều
cũng vậy. Nàng muốn giữ mãi mối tình tươi thắm ngày xưa.Nhan sắc , danh tiết
không còn nữa thì còn gì để yêu. Hoa đã quá mùa là hoa héo. Điều này chứng tỏ
Thúy Kiều có ý chí, có lý trí và có lý tưởng:
Nàng rằng phận thiếp đã đành,
Có làm chi nữa, cái mình bỏ đi.
. . .
. . . .
Cũng nhơ dở nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi!
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau. (3145-58)
No comments:
Post a Comment