(Đỗ Thông Minh)
“… Cộng Sản là một chủ nghĩa khát máu với chủ trương bao lực cách mạng. Người CS cuồng tín quen thanh toán, giết người, chúng không chỉ tàn ác với người mà chúng cho là kẻ thù, chúng tàn ác ngay với cả chính đồng chí của chúng.”
Stalin đã sát hại 2/3 Ủy Viên Chính Trị Bộ, khoảng 3/4 Ủy Viên Trung Ương thời Lênin và khoảng 20 triệu dân Nga. Mao Trạch Đông cũng đã hãm hại nhân vật thứ 2 như Lâm Bưu, rồi Chủ Tịch Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Bành Đức Hoài…, chính Đặng Tiểu Bình cũng 3 lần bị hạ bệ và khoảng 60 triệu dân TQ. CSVN cũng không thoát khỏi những hành vi man rợ thuộc loại này.
Do bưng bít, dư luận ít biết đến các cuộc thanh trừng nội bộ, nhưng việc này như một quy luật phổ biến trong chế độ CS để bảo vệ quyền lợi cá nhân và phe nhóm.
Một loạt những cái chết bí ẩn:
Một loạt những cái chết bí ẩn:
- Lâm Đức Thụ (1890-1947), tên thật là Nguyễn Công Viễn, Thư Ký Thường
Trực Tổng Bộ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, là một trong
mấy người sáng lập tổ chức Tâm Tâm Xã (1923), Việt Nam Thanh Niên Cách
Mạng Đồng Chí Hội (1925), người cùng Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu.
Bị HCM vu cho là chỉ điểm, mật thám, tay sai thực dân đế quốc… để rồi
kết thúc cuộc đời trước họng súng của dân quân vào năm 1947 tại quê
hương Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình mà có lẽ vì bép xép
chuyện bán cụ Phan và biết quá nhiều về HCM.
- Đại Biểu QH Dương
Bạch Mai (1904-1964), từng du học Pháp, Liên Xô, bị đột tử khi uống ly
bia giữa 2 phiên họp Quốc Hội trước khi đọc diễn văn phản đối xã hội
kiểu trại lính của Trung Quốc.
- Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh
(1914-1967), Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam, kiêm
Chính Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam, bút hiệu Hạ Sĩ Trường Sơn (Con trai
út là Nguyễn Chí Vịnh, năm 2010 là Trung Tướng, nguyên Tổng Cục Trưởng
Tổng Cục 2, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, từng bị tố cáo về tư cách và những
thủ đoạn chụp mũ phe đối lập. Vợ là Nguyễn Thị Cúc, có 4 con, nhưng khi
hoạt động trong Nam có vợ 2 và thêm con trai là Nguyễn Hữu Nghĩa, Nghĩa
được đưa về thành phố sinh sống, khi lớn đi sĩ quan VNCH, tỵ nạn CS qua
Canada, làm báo Làng Văn…). (*) Ghi chú thêm xem bên dưới.
Nguyễn Chí Thanh bị chết thình lình sau khi dùng cơm chia tay với HCM ở
Phủ Chủ Tịch về nhà, thì đêm hôm đó, gần sáng ngày 6/7/1967 bị ói ra máu
chết, đúng ngày định trở lại miền Nam lần thứ 2 (nhà cầm quyền nói chết
vì bệnh tim). Theo Nguyễn Thanh Hà, con thứ 2, gái trưởng của Nguyễn
Chí Thanh, viết bài “Kỷ Niệm Về Cha Tôi” đăng trên báo Thanh Niên, Việt
Báo tại VN năm 2007, trong có đoạn:
Khi ba từ miền Nam ra, cả nhà
được báo trước đứng chờ ba ở cửa – mệ, mẹ, mấy chị em và tất cả mọi
người. Chờ mãi không thấy, sau lâu lắm mới thấy ông về, ba bảo: “Ba phải
vào thăm và báo cáo tình hình với Bác trước hết, rồi mới về nhà được”.
Mấy tháng sau, vào hôm trước khi ông lên đường vào Nam lần thứ 2, cả nhà
chờ cơm rất muộn, hỏi ra mới biết, ba được Bác gọi vào ăn cơm chia tay,
cơm xong phải đi gặp một vài người bàn nốt công việc. Sau đó không hiểu
sao, ông lại quay vào Phủ Chủ Tịch, ngồi dưới nhà sàn, lưu luyến mãi
không muốn về. Ông nói với chú Vũ Kỳ: “Tôi đi lần này chắc sẽ hoàn thành
việc Bác giao, chỉ băn khoăn một điều là sức khỏe của Bác…”. Không ngờ
sáng sớm hôm sau ba mất, không thực hiện được ước mơ của mình là đưa Bác
vào Nam thăm đồng bào chiến sĩ…
Theo cuốn “Giọt Nước Trong Biển
Cả”, trang 420, của Hoàng Văn Hoan, thì kẻ nắm rõ âm mưu sám sát này là
Trung Tướng Nguyễn Văn Vịnh (hình bên), sau chỉ bị giáng xuống Thiếu
Tướng, không đưa ra công khai vì sợ lột trần tội ác của Lê Duẩn và xấu
mặt cả đảng.- Cựu Đại Sứ MTGPMN tại Paris, CSVN tại Liên Hợp Quốc Đinh
Bá Thi (1921-1978), tên thật là Hồ Đản, sau khi hoạt động tình báo tại
Hoa Kỳ bị lộ, bị sát hại qua tai nạn xe hơi tại Phan Thiết.
- Đại
Tướng Chu Văn Tấn (1909-1984), nguyên là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong
Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bị cho là theo phe Hoàng
Văn Hoan.
- Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái (1915-1986),
có mặt trong đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, sui gia với Võ
Nguyên Giáp. Khi chuẩn bị lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng thay thế Văn Tiến
Dũng thì chết đột ngột chết ngày 2/7/1986. Trước khi chết, chính Hoàng
Văn Thái nói với vợ “Người ta giết tôi.”. Có tin là bị Lê Đức Thọ sát
hại vì e ngại người khác phe sẽ khui ra nhiều chuyện của Dũng và Thọ… để
đưa Đại Tướng Lê Đức Anh lên vào tháng 2/1987.
- Đại Tướng Lê
Trọng Tấn, tên thật là Lê Trọng Tố (1914-1986), Viện Trưởng Học Viện
Quân Sự Cao Cấp, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân VN, Tổng tham
mưu trưởng Quân Đội Nhân dân Việt Nam, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Phó Tư
Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam. Chết thình lình ngày 5/12/1986. Có tin
cũng bị Lê Đức Thọ sát hại khoảng 5 tháng sau khi sát hại Hoàng Văn
Thái.
- Thượng Tướng Đinh Đức Thiện (1913-1987), người hùng đường
mòn Hồ Chí Minh, Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần, Phó Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ
Chí Minh, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, tên
thật là Phan Đình Dinh, em ruột của Lê Đức Thọ (tên thật là Phan Đình
Khải, 1911-1990, Bí Thư Thường Trực Ban Bí Thư, phụ trách tổ chức kiêm
Trưởng Ban Chính Trị Đặc Biệt) (*), và là anh của Mai Chí Thọ (tên thật
là Phan Đình Đống, 1922-2007, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Đại Tướng Công An).
Khi thấy Lê Đức Thọ tác oai, tác quái, tùy tiện bắt giam nhiều đồng chí
cao cấp không cần chứng cứ, không cần xét xử, Đinh Đức Thiện đã phải
nói với anh mình rằng: “Anh không thể làm những việc thất đức như thế
được. Anh đừng có làm nhục dòng họ Phan, anh không lo rồi họ đào mả bố
chúng ta lên à?” thì bị “lạc đạn” chết trong lúc đi săn, nhưng nhà cầm
quyền nói là tai nạn giao thông. Mộ của Lê Đức Thọ chôn ở nghĩa trang
hàng đầu là Mai Dịch ở Hà Nội vẫn bị có người đem phân đến ném nên sau
phải đưa về quê ở Nam Định!. Họ Phan Đình với 3 anh em đều lên đến tột
đỉnh danh vọng thế mà đều tuyệt tự!?
(*) Lê Đức Thọ cùng Lê Duẩn
chủ trương chiếm miền Nam bằng bạo lực, đàn áp đối lập trong đảng. Thọ
là người họp bàn với Henry Kissinger về Hiệp Định Paris 1973. người nắm
Ban Tổ Chức Trung Ương đảng CSVN sắp xếp mọi việc quan trọng và đưa nhóm
thiếu trình độ Lê Đức Anh – Đỗ Mười lên cầm quyền, là nhóm hèn nhát
trong đảng CSVN qụy lụy Trung Quốc… Nên Thọ bị nhiều người ghét, thậm
chí căm thù.
Theo tác giả Trần Nhu, Ban Tổ Chức Trung Ương gồm:
- Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng thời Lê Đức Thọ do Trần Quyết làm Trưởng ban.
- Ban Nội Chính Trung Ương Đảng do Hoàng Thao làm trưởng ban.
- Ban Bảo Vệ Bộ Chính Trị do xếp Nguyễn Đình Hưởng.
- Ban Chỉ Đạo Trung Ương Đảng do xếp lớn Nguyễn Đức Tâm.
- Ban Bảo Vệ Đảng đứng đầu là Nguyễn Trung Thành.
- Cục Chính Trị Trung Ương Đảng: ông Kim Chi, quan lớn có bóng không có hình.
Nhưng tất cả những kẻ đứng đầu các tổ chức ngầm đan chéo trên cũng chỉ
là những chuyên viên của các bộ môn trong ngành mật vụ giúp việc cho
Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng Lê Đức Thọ mà thôi.
Nhiệm vụ
của nó là thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ các ủy viên trung
ương đảng, thẩm tra các ủy viên Bộ Chính Trị, xem xét về mặt chính trị,
tư tưởng của các cán bộ dự kiến bầu vào Ban chấp hành trung ương đảng,
Bộ Chính Trị, và kiện toàn bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, tổ chức chỉ đạo
quốc hội, các cơ quan nhà nước, tổ chức chỉ đạo các đoàn thể ngoại vi
như Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo; đặc biệt là kiểm soát, giám sát chặt
chẽ quân đội từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu đến các Quân Khu, Sư
Đoàn, Trung Đoàn đều có Ban Bảo Vệ Cục Chính Trị đặt dưới quyền chỉ đạo
của Cục An Ninh Bộ Nội Vụ.
Chính Cục An Ninh Bộ Nội Vụ này theo
lệnh của Lê Đức Thọ đã cho mật vụ giết Đại Tướng Hoàng Văn Thái vào
khoảng 1986, và năm sau lại giết Đại Tướng Lê Trọng Tấn, đồng thời bắt
hàng loạt các sĩ quan cao cấp trong Bộ Quốc Phòng…
Bề ngoài, TBT Lê Duẩn là quyền lực cao nhất, nhưng thực chất bên trong là ông vua không ngai Lê Đức Thọ. Cũng theo Trần Nhu:
Thí dụ như trường hợp Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có mấy đứa con học ở
nước ngoài đều bị mật vụ của Thọ chiếu cố tận tình, như Võ Điện Biên học
ở Đông Đức, Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan, Võ Thị Hồng Anh học ở Nga. Do
những hệ luỵ này mà tướng Giáp phải trả giá quá đắt. Chúng ta cũng biết
con gái của Tổng Bí Thư Lê Duẩn là Lê Vũ Anh, học ở Nga, vì lấy viên sĩ
hàn lâm học Maslov, mặc dù đã có 3 con với nhau, vẫn bị mật vụ của Thọ
giết chết một cách rất thảm chỉ vì cái luật quái gở cấm các sinh viên
không được lấy người nước ngoài. Luật này không thành văn, mà chỉ là
luật miệng giữa các lãnh tụ với nhau.
- Trung Tướng Phan Bình
(1934-1987), Cục Trưởng Cục Quân Báo, sau khi vừa bị Lê Đức Anh tước mất
quyền, bị giết bằng cách bắn vào đầu ngày 13/12/1987 tại Sài Gòn, nhưng
nhà cầm quyền cho là tự sát, 1 tháng sau con trai cũng trong quân báo,
cũng bị hãm hại sau khi ép vào bệnh viện với lý do “tâm thần”.
-
Thủ Tướng CSVN Phạm Hùng? (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, tại
nhiệm 1987-1988. Chết đột ngột (vì bệnh tim) ngày 10/3/1988 tại Sài Gòn,
khi đang tại chức.
- Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám
(1948-2008), đặc trách tình báo gián điệp đột tử trong lúc khỏe mạnh và
đi công tác đó đây liên tục vào ngày 12/12, mà ngày 15/12, các cơ quan
truyền thông mới được đồng loạt loan tin là chết sau một thời gian dài
lâm bệnh, mà không nói bệnh gì!?… Nhiều tin đồn cho rằng bị đầu độc?
Tháng 12/2008, sau khi thăng chức từ Trung Tướng lên Thượng Tướng thì
mươi ngày sau ông bị chết bất đắc kỳ tử. Trước đó, từ năm 2006 đã có thư
của Phạm Gia Khánh, tự xưng là cán bộ trong Tổng Cục An Ninh, tố cáo TT
Thi Văn Tám tham nhũng, đã đưa dự án về cục A35, trị giá nhiều chục tỷ
đồng, rồi ông trực tiếp phụ trách. Người tố cáo, có tin là do tranh
giành quyền lực, đã gửi thứ tới đích danh Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú
Trọng, Lê Hồng Anh v.v…
Các trường hợp kết án, trù dập khác.
- Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Chủ Tịch Quốc Hội Hoàng Văn Hoan
(1905-1991), Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Chính Trị Viên Vệ Quốc Quân
Toàn Quốc. Từ năm 1950 đến năm 1957, làm Đại Sứ đầu tiên của CSVN tại
Trung Quốc kiêm Đại Sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ.
Sau bị trù dập,
nên năm 1979, nhân một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đã bỏ trốn
qua Trung Quốc, bị kết án tử hình khiếm diện về tội phản quốc, sau mất
tại TQ, chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, sau này một phần hài cốt được
đem về nước. Là tác giả cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả” xuất bản năm
1988, tố giác chế độ độc đoán Lê Duẩn…
- Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
(1911-2011), Bộ Trưởng Quốc Phòng, bị nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Trần
Quốc Hoàn cho là theo xét lại của Liên Xô và chống đảng, tìm cách hạ bệ
qua vụ án “Xét Lại Chống Đảng” năm 1967, có tên chính thức là “Vụ án Tổ
chức chống đảng, chống nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại
và làm tình báo cho nước ngoài.”. Võ Nguyễn Giáp bị bắt lỗi từ việc nhận
1 lá thư của TĐS Liên Xô mà không báo cáo theo nội quy đảng…
Năm
1980, Võ Nguyễn Giáp bị thôi chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Năm 1983, bị
hạ nhục khi cho làm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế
Hoạch khi ủy ban này được thành lập, năm 1991, chính thức nghỉ hưu. Có
lúc nhóm Lê Duẩn còn định quản chế Giáp ở một nơi biệt lập. Từ khoảng
năm 1965, 67, hàng 50 năm sau cùng của đời ông, Giáp thường chỉ ra mặt
mang tính hình thức, không có quyền hành gì (Vụ Tổng Công Kích Mậu Thân
năm 1968 hay Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975 kể như không có Giáp, còn
bị nhóm cực đoan giáo điều Lê Duẩn cho là hèn nhát).
Vì vậy mới có thơ:
Ngày xưa Đại Tướng cầm quân,
Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!
Đùng một cái Võ Nguyễn Giáp theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28/5/1948,
được Hồ Chí Minh đưa lên làm “Đại Tướng”, đùng một cái mất hết! Cho thấy
thực ra Giáp cũng chẳng có tài cán và thế lực gì đặc biệt. Phần lớn
thành tích đều là tuyên truyền và chiến công đều bằng sự hy sinh xương
máu của hàng trăm ngàn bộ đội và dân chúng.
Về “Chủ Nghĩa Xét Lại”:
Vào tháng 9/1953, Nikita Khrushchev (1894-1971) được bầu làm Bí Thư Thứ
Nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô. Năm 1956, tại Đại
Hội Lần Thứ 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo phê phán nặng
nề sự tàn ác vô song và sự sùng bái cá nhân của I. V. Stalin
(1879-1953). Vì thấy đối đầu với Tư Bản quá mạo hiểm và không dễ gì
thắng, Khrushchev chủ trương thay vì tận diệt Tư Bản thì chung sống hòa
bình. Các đoàn đại biểu CS các nước khi đi dự thì đều tàn thành, nhưng
khi về nước rồi thì một số ngả theo lời kêu gọi Mao Trạch Đông
(1893-1976), Trung Quốc, chống lại và gọi đó là “Chủ Nghĩa Xét Lại”. Thế
giới CS chính thức chia đôi vì ý thức hệ từ đó.
Đây là một biến
cố rất lớn, ảnh hưởng tới đường lối của đảng CSVN vì khi đó tại VN đang
sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh và diễn ra Cải Cách Ruộng Đất long trời lở
đất, giết người rất gay gắt. Nhờ vậy mà vụ giết người dần dần dừng lại,
nhận sai lầm…
Nhưng sau khi Lưu Thiếu Kỳ qua VN thì CSVN ngả hẳn
theo TQ. Tại Hội Nghị Trung Ương lần thứ IX cuối năm 1963, các ông Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã lên án “Chủ Nghĩa Xét Lại”, đứng về
phía Trung Quốc và ra Nghị Quyết 9 (trong bí mật) chủ trương đẩy mạnh
công cuộc tiến chiếm miền Nam bằng vũ lực. Những bất đồng trong nội bộ
đảng nổ ra năm 1963-64 và tiến tới đợt bắt giữ nhóm thân Liên Xô vào năm
1967.
- Ung Văn Khiêm (1910-1991), khi đó là Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao, bị mất chức vì quy cho là trách nhiệm vụ thảo bản Tuyên Bố Chung
năm 1963, với lập trường ủng hộ Liên Xô mà Hồ Chí Minh duyệt rồi ký với
lãnh tụ đảng CS Tiệp Khắc Antonín Novotný…
Năm 1967, vụ đàn áp
lên cao độ, hàng chục các bộ cấp Chính Trị Bộ, Trung Ương Đảng, Tướng Tá
bị bắt không xét xử, hầu hết bị giam cầm đến năm 1973…
Năm 1954,
Lê Duẩn lén ở lại trong Nam, năm 1957, Lê Duẩn từ Nam ra Bắc, năm 1960,
năm vai trò TBT bên cạnh Chủ Tịch HCM. Duẩn là người đầy uy quyền, xưng
tôi với HCM, bài viết đôi khi tỏ ý có cao kiến hơn cả HCM, là điều
không thấy ở bất cứ nhân vật cao cấp CS nào khác, mọi người vẫn phải đến
xin chỉ thị kể cả khi Duẩn nằm trên giường bệnh và đã tại vị đến chết,
sau đó đảng CSVN mới định nhiệm kỳ.
Nhưng từ năm 1972 trở đi, TQ
bắt tay với Hoa Kỳ, lạnh nhạt với CSVN nên CSVN quay ra thân mật với
Liên Xô. Năm 1979, Lê Duẩn đoạn tuyệt với Trung Quốc, trục xuất khoảng
200.000 người Hoa và đi tới chiến tranh với TQ tại biên giới và trên
biển.
- Đại Tướng Văn Tiến Dũng (1917-2002), Ủy Viên Bộ Chính Trị
Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân
Dân, tư lệnh “Chiến Dịch Hồ Chí Minh” chiếm miền Nam năm 1975. Tác giả
cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” ra vào tháng 5/1976. Từ tháng 12/1980 đến
1986, ông giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Thuộc phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ.
Vợ là Nguyễn Thị Kỳ (tên thật là Cái Thị Tám), cũng là cán bộ CS. Sau
năm 1975, khi nắm quyền tột đỉnh, hai vợ chồng ngang nhiên tham nhũng,
dùng cả quân xa của đơn vị H12, H14 thuộc Tổng Cục Hậu Cần cướp tài sản
quân đội… miền Nam chở ra Bắc và máy bay vận tải quân sự như Antonov
An-24 hay An-26 buôn lậu hàng từ Bắc vào Nam bán cho người Hoa… Năm
1986, trong Đại Hội Đảng Bộ Toàn Quân, Dũng bị chỉ trích là tướng lãnh
mà đi buôn lậu gây tai tiếng chưa từng có cho quân đội nên không được
bầu làm Đại Biểu Chính Thức đi dự Đại Hội Đảng VI (dù Lê Đức Thọ bênh
vực Dũng, đòi bỏ phiếu lại nhưng vẫn không đủ túc số). Ngay sau đó, Dũng
mất ghế trong Bộ Chính Trị và mất chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Từ năm đó
cho tới khi chết, tuy được coi là một “tướng tài”, không được nắm giữ
bất cứ chức vụ nào và hầu như không còn được nhắc nhở tới nữa.
-
Thượng Tướng Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn, 1919-1996), Tư lệnh
kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn – Chợ Lớn; Tư lệnh Khu 7 (1949-1950); Phó Tư
lệnh Nam Bộ, Tư lệnh Phân khu Miền Đông Nam Bộ (1951-1954). Năm 1955,
ông tập kết ra Bắc, giữ chức Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân
VN (1955-1962), Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Quân Huấn (1958)…
Từ năm
1963, Trần Văn Trà được cử vào Nam làm Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam
(1963-1967 và 1973-1975), Phó Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam
(1968-1972), Phó Bí Thư Quân Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam. Sau Hiệp Định
Paris (1973), làm Trưởng Đoàn Đại Biểu Quân Sự Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tại Ban Liên Hiệp Đình Chiến 4 bên ở Sài
Gòn.
Sau 30/4/1975, Trần Văn Trà lảm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài
Gòn. Khi về hưu, tham gia Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ, nhưng
sau được đảng phủ dụ nên tách ra. Viết hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh
30 Năm” (có ý chê trách trung ương thiếu hiểu biết tình hình thực tế)
bị phê bình “qua mặt” trung ương, cấm xuất bản nên chí có ấn bản dở
dang.
- Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh (1927-), chính ủy Sư Đoàn
304 Tây Nguyên, Bí Thư Đảng Ủy Sư Đoàn 3, Quân Khu 5, tháng 6/1978, làm
Viện Trưởng, Bí Thư Đảng Ủy Học Viện Your browser may not support
display of this image.Chính Trị Quân Sự. Từ tháng 4/1979 đến năm 1996,
Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân VN, Ủy Viên Quân Ủy
Trung Ương…
Đứng tố giác Tổng Cục 2 lợi dụng chức vụ vu oan giá họa các đồng chí cao cấp kể cả Võ Nguyên Giáp… nên bị trù dập.
- Trung Tướng Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách (1923-2002), năm 1946,
ở tuổi 23, làm Chính Ủy Mặt Mrận Hà Nội. Năm 1950, làm Chính Ủy Trung
đoàn Sông Lô, rồi Chính Ủy Đại Đoàn (SĐ) 312. Năm 1955, Trần Độ lúc 32
tuổi là Chính Ủy Quân khu 3 (Quân Khu Tả Ngạn) và đến năm 1958 được
phong hàm Thiếu Tướng, năm 1974, được phong hàm Trung Tướng…
Ông còn
làm Phó Chủ Tịch Quốc Hội khóa 7, Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn Hóa và Giáo Dục
của QH. Ông là Tướng võ kiêm văn, có tư tưởng cải cách, cởi mở. Thời Đổi
Mới, “cởi trói” tư tưởng của TBT Nguyễn Văn Linh, ông thuộc Ban Văn Hóa
Đảng, là người soạn Nghị Quyết số 5, được Bộ Chính Trị thông qua vào
tháng 12/1986, cho phép tự do sáng tạo và sách báo được lưu hành dễ dãi
hơn nếu không có nội dung “phản động”… từ đó nhiều tác phẩm bị cấm như
của những nhân vật trong Phong Trào Nhân Văn – Giai Phẩm… được tái bản.
Nhưng khi Đông Âu lung lay và phong trào sinh viên xuống đường nổ ra ở
Thiên An Môn, đảng CSVN e ngại sụp đổ theo, bắt đầu xiết lại. Tháng
3/1989, trong cuộc họp kỳ 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN,
Nguyễn Văn Linh đòi đình chỉ những “cởi trói” trong 3 năm vừa qua. Trần
Độ vẫn ủng hộ tiến trình nới lỏng, tạp chí “Phê Bình và Dư Luận” do ông
chủ trương, có nội dung đả trích nhà cầm quyền, nên sau khi ra được 1 số
thì bị cấm. Trần Độ bị chỉ trích và bị Lê Đức Thọ cách chức, khai trừ
năm 1999 (lúc đó 58 tuổi đảng).
Sau viết “Nhật Ký Rồng Rắn” lên án
chế độ CS không tiếc lời, bị công an theo tịch thu khi trên đường đi sao
ra nhiều bản, nhưng ông còn bản gốc, đã phổ biến khắp nơi, bị cấm xuất
bản trong nước. Trong có đoạn: “… Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan
và xóa bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ,
mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa
tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ,
chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống
như và tệ hơn là trong chế độ cũ…”.
Khi chết tang gia không được đề
quân hàm “Trung Tướng”, vòng hoa phúng của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cũng
bị gỡ chữ “Đại Tướng” ra.
- Thiếu Tướng Lê Thiết Hùng, tên thật
là Lê Văn Nghiệm, (1908-1986), theo Lê Hồng Phong qua Thái Lan, rồi theo
lệnh tổ chức, tham gia quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch làm
tới Đại Tá, 2 lần sang Nhật gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, làm chính trị
viên đội vũ trang đầu tiên gồm 12 người, Tư Lệnh Binh Chủng Pháo Binh,
Hiệu Trưởng Trường Lục Quân Việt Nam, Cục Trưởng Cục Quân Huấn, Tổng
Thanh Tra Quân Đội, là tướng được phong đầu tiên…, bị bắt vì cho là cùng
phe Võ Nguyên Giáp.
- Thiếu Tướng Đặng Kim Giang (1910-1983), bị
Pháp bắt kết án giam 12 năm tù, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần Quân Đội
NDVN, tham gia trận Điện Biên Phủ 1954, Đại Biểu Quốc Hội, bị bắt giam 6
năm (có lúc cũng tại Hỏa Lò nơi bị Pháp giam) và 7 năm quản chế vì cho
là chủ trương chia ruộng đất và khuyến khích tư sản, theo xét lại cùng
phe Võ Nguyên Giáp. Năm 1995, tức gần 30 năm sau, bà Nguyễn Thị Mỹ, 77
tuổi, vẫn còn đi khiếu nạn về trường hợp của chồng. Trong thư kêu cứu có
đoạn:
Tôi đã có đến ông Lê Đức Thọ và ông Trần Quốc Hoàn. Ông Trần Quốc Hoàn tránh không tiếp. Tôi nói với ông Lê Đức Thọ:
“Anh Giang phạm tội gì mà các anh còng tay, còng chân mang đi? Sao đối
xử với nhau tệ thế? Có phải gián điệp của đế quốc không? Nếu phải, đem
xử bắn. Mẹ con tôi tán thành”.
Ông Thọ nói:
“Không phải.
Đây là cuộc đấu tranh nội bộ, không đem ra xử công khai được. Chị cứ yên
tâm. Chúng tôi không bỏ tù nhau đâu. Thuyết phục nó không được, phải
dùng biện pháp hành chính. Khi nào nó nghe ra sẽ về thôi. Cửa nhà tôi
lúc nào cũng rộng mở. Chị có khó khăn gì cứ đến.”.
Thật ra cánh cửa đó đã vĩnh viễn sập lại sau lưng tôi kể từ ngày đó…
Gần Đại Hội 5, chồng tôi đang bị nhồi máu cơ tim, viết một lá đơn khiếu
oan, trình bày khúc chiết vấn đề này, đề nghị Đại Hội cử một tiểu ban
kiểm tra lại và có kết luận rõ ràng vì đây là một vụ án lớn nhất từ
trước đến nay có liên quan đến nhiều người: có ủy viên Bộ Chính Trị, có
ủy viên Trung Ương, có Bộ Thứ Ttrưởng, có Tướng Tá và cán bộ cao cấp…
Lá đơn đó được gửi đến cho các ủy viên Trung Ương Đảng, cho Đại Hội 5, cho Ban Bí Thư, cho Tổng Bí Thư v.v…
Sau đó, tháng 9/1982, chồng tôi lại bị bắt trở lại, “về tội tán phát
đơn khiếu nại làm mất uy tín của đảng”. Lần này chồng tôi bị đưa đi giam
cầm tại Nam Định 8 tháng…
Chúng tôi có 7 con. Sau khi cha bị buộc tội thì mỗi đứa con một thảm kịch. Đây là một cuộc “tru di tam tộc”…
Từ năm 1980, gia đình Đặng Kim Giang hơn 10 người sống chen chúc trong
một túp nhà tranh vách đất rách nát 14 mét vuông… và Giang chết trong
khi nước mưa dột rơi vào người.
- Thiếu Tướng Lê Quảng Ba, tên
thật là Đàm Văn Mông, dân tộc Tày (1914-1988), nguyên Tư Lệnh đầu tiên
Quân Khu Việt Bắc năm 1949, năm 1951, làm Đại Đoàn Trưởng đầu tiên Đại
Đoàn 316, bị kết tội cùng phe Hoàng Văn Hoan (?).
- Thiếu Tướng Chánh Thanh Tra Bộ Công An Trần Văn Thanh (1953-, vì tố tham nhũng).
- Ủy Viên Bộ Chính Trị, từng du học Liên Xô 5 năm, Chủ Tịch Quốc Hội
Nguyễn Văn An (1937-), nhiệm kỳ 2001-2006, phê bình tính mất dân chủ
trong đảng, đòi thực thi dân chủ, hình bên.
- Cựu Phó Thủ Tướng
CSVN Đoàn Duy Thành (1929-), tác giả cuốn hồi ký “Làm Người Là Khó”, chủ
trương làm khoán (bị cho là phạm chính sách, bị Đỗ Mười trù dập). Được
coi là thân với Lê Duẩn, khi dự đám tang Lê Duẩn năm 2006, các con của
Lê Duẩn đã hỏi ông Đoàn Duy Thành “Họ có giết chúng cháu không!?”.
- Ủy Viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách, tên thật là Vũ Thiện Tuấn
(1924-2006), vì có tư tưởng đổi mới, kêu gọi đa nguyên, đa đảng sau khi
đi quan sát sự sụp đổ của Đông Âu, bị khai trừ.
- Hoàng Minh
Chính (1920-2008), năm 1947 từng tham gia lãnh đạo trận đánh sân bay Gia
Lâm, được đảng CSVN cử làm Tổng Thư Ký đảng Dân Chủ thành lập năm 1944
để tập hợp giới tư sản và trí thức. Năm 1957, được cử sang Liên Xô theo
học Trường Đảng Cao Cấp. Năm 1960, về nước, được bổ nhiệm Viện Trưởng
Viện Triết Học Mác-Lênin, bị bắt biệt giam 6 năm không xét xử, bị quản
chế ở Sơn Tây từ 1973 đến 1976 vì cho là trong nhóm xét lại. Năm 1995,
ông Hoàng Minh Chính còn bị kết án 1 năm tù vì tội “lợi dụng quyền tự do
dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước”. Sau 3 lần bị Thọ bỏ tù mà
không khuất phục nổi ý chí của Hoàng Minh Chính, Thọ đã định bí mật thủ
tiêu. Ông Chính đã đanh phải thép tuyên bố: “Có bắn thì bắn trước mặt,
bắn sau lưng là hèn.”. Tổng cộng ông đã bị 12 năm tù, 9 năm quản chế.
Sau này, khi lên tiếng tranh đấu Dân Chủ và phục hoạt đảng Dân Chủ thì bị trù dập.
Năm 2005, ông qua Hoa Kỳ chữa bệnh, đến phát biểu tại đại học Harvard
về đề tài dân chủ cho Việt Nam và điều trần trước Ủy Ban Đối Ngoại Hạ
Viện Hoa Kỳ. Tháng 10/2005, trước khi về lại VN, ông có cuộc họp báo tại
San Jose, cho hay từng có âm mưu hãm hại HCM, và nhóm ông tìm cách báo
tin này cho HCM… Khi về VN, ông bị công an trả thù, cho bọn côn đồ và
cựu chiến binh đến nhà chửi rủa và quăng phân…
- Nguyễn Hộ
(1916-2009), gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1937. Năm 1940, ông bị
nhà cầm quyền Pháp ghép tội kích động đình công ở xưởng đóng tàu Ba Son,
bị tuyên án tù 5 năm ở Côn Đảo.
Sau 1975, lãnh đạo Câu Lạc Bộ Những
Người Kháng Chiến Cũ, ông nói: Ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi
ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn
lạc hậu.
Năm 1989, tổ chức này cũng bị nhà cầm quyền giải tán. Bất
bình, ông từ bỏ đảng năm 1991 sau hơn 53 năm trong đảng. Sau đó ông bị
bắt và quản thúc tại gia vì tội “chống đảng”.
Ông đưa ra “Giải Pháp
Hòa Hợp Hòa Giải” và cuốn sách “Quan Điểm Và Cuộc Sống”. Sách của ông
kêu gọi đảng CSVN hãy từ bỏ Chủ Nghĩa Mac-Lênin. Vì vậy ông bị nhà cầm
quyền bắt lần thứ 2 năm 1994. Theo ông Việt Nam ở thời điểm năm 2008 chỉ
có độc lập chứ không có tự do…
- Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), Chính Ủy Bộ Tư Lệnh Khu 9, Năm 1938, ông sáng lập tờ Le Peuple (Dân chúng).
gày 25/8/1945, ông lãnh đạo cuộc đảo chính cướp chính quyền ở Sài Gòn.
Do có những hành động quyết liệt với các phần tử đối kháng, ông bị gọi
là hung thần Chợ Đệm. Có giả thuyết cho rằng Nguyễn Văn Trấn cũng từng
là “hung thần”, là một trong 3 người đã thực hiện việc giết Tạ Thu Thâu
(1906-1945), 2 người kia là Kiều Đắc Thắng và Nguyễn Văn Tây. Năm 1954,
tập kết ra Bắc, trở thành Giảng Viên trường Nguyễn Ái Quốc, rồi Vụ Phó
Ban Tuyên Huấn Trung Ương…
Trong những năm cuối đời, ông nghi ngờ về
vai trò của đảng CSVN, tham gia Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ
và ký vào bản kiến nghị 100 người năm 1988 kêu gọi thay đổi cách thức
bầu cử. Ông viết cuốn “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội” nói lên mặt trái của chế
độ, bị cấm lưu hành trong nước. Trong cuốn này ông cũng đề cập tới
chuyện Lê Đức Thọ muốn thay HCM bằng Tướng Nguyến Chí Thanh…
Năm
1997, ông là một trong 45 nhà văn được Tổ chức Theo dõi nhân quyền
(Human Rights Watch) trao giải Hellman/Hammett dành cho các nhà văn bị
đàn áp chính trị.
Ngoài ra, bị trù dập còn có Đại Tá Lê Trọng
Nghĩa là Cục Trưởng Cục 2, Đại Tá Lê Minh Nghĩa là Chánh Văn Phòng Bộ
Quốc Phòng, Đại Tá Đỗ Đức Kiên là Cục Trưởng Cục Tác Chiến, Lê Liêm, Bùi
Công Trừng, Hoàng Thế Dũng là Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân, Minh
Tranh là Giám Đốc nhà xuất bản Sự Thật, Nguyễn Kiến Giang là Phó Giám
Đốc nhà xuất bản Sự Thật, Trần Minh Việt là Phó Bí Thư thành ủy Hà Nội,
Phạm Viết là Phó Tổng Biên Tập báo Hà Nội Mới, Phạm Kỳ Vân là Phó Tổng
Biên Tập tạp chí Học Tập, Trần Thư là Tổng Thư Ký báo Quân Đội Nhân Dân…
trong bộ tham mưu của Tướng Giáp. Sau này có Nguyễn Trung Thành, Lê
Hồng Hà, Vũ Đình Huỳnh là Bí Thư của HCM (bắt ngày 18/10/1967), Vũ Thư
Hiên (con của Vũ Đình Huỳnh), Nguyễn Minh Cần… Rồi Nhóm Nhân Văn – Giai
Phầm, thêm nhà văn nhà kiêm biên kịch Hoàng Công Khanh (Vụ Trưởng, Giám
Đốc Sở Văn Hóa – Thông Tin Hải Phòng). Và ngay cả Hồ Chí Minh
(1890-1969), bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lấn át, cô lập, cũng chỉ là bù
nhìn trong khoảng 10 năm cuối đời…
- – -
Thực ra CSVN không dễ
gì giữ thăng bằng khi đi dây giữa hai đàn anh lớn có khuynh hướng trái
ngược, nên có lúc ngả hẳn bên này, lúc ngả hẳn bên kia. Hoàng Tùng đã
cay đắng phải nói, HCM qua Tàu thì Mao Trạch Đông kéo theo đường lối của
Mao, qua Nga thì Stalin kéo theo đưòng lối của Stalin… Viện trợ của hai
nước này cho CSVN trong thời chiến vỉ vậy cũng hay gặp trở ngại, nhu
lúc thì Trung Quốc hứa mà không viện trợ hay khi viện trợ của Liên Xô đi
ngang qua đất Trung Quốc bị chặn lại…
- Thời 1930, theo Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Xô.
- Thời 1963, nhóm Lê Duẩn theo Trung Quốc chống chủ nghĩa xét lại.
- Thời 1975, thì theo Liên Xô rồi chống Trung Quốc, năm 1978, cũng
chính thời Lê Duẩn đã ký Hiệp Ước An Ninh với Liên Xô, đuổi người Hoa về
nước, dẫn đến chiến tranh biên giới 10 năm (1979-1989).
- Thời 1990, khi Liên Xô tan rã, lại quay về với Trung Quốc.
- Thời 2010, bắt đầu căng thẳng với Trung Quốc.
Mỗi lần xoay 180 độ như vậy, trong thượng tầng nội bộ có những bất đồng
trầm trọng, phe yếu thế bị trấn áp, dẫn đến chuyện đã có những người tỵ
nạn phải tại Liên Xô như Nguyễn Minh Cần, tại Trung Quốc như Hoàng Văn
Hoan. Chính trong hàng ngũ CSVN đã phải ta thán, đảng thay đổi đường lối
như “phụ nữ thay quần lót”, mỗi lần như vậy, không biết bao nhiêu đảng
viên bị trù dập.
- – -
Đối với nhân dân thì đảng CSVN ra tay thực hiện những vụ giết người, cướp của hàng loạt khiến khoảng 3-4 triệu ng ười chết như:
- Phong Trào Sô-viết Nghệ Tĩnh năm 1930.
- Rèn Cán Chỉnh Quân năm 1953.
- Cải Cách Ruộng Đất năm1953-1956.
- Thống Nhất đất nước bằng bạo lực năm 1954-1975.
- Đàn Áp Phong Trào Nhân Văn – Giai Phẩm, năm 1955-1958.
- Cải Tạo Tư Sản – Công Thương Nghiệp Miền Bắc năm 1954.
- Cải Tạo Tư Sản – Công Thương Nghiệp Miền Bắc năm 1975
No comments:
Post a Comment