TÔ ĐÔNG PHA
NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG
NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG
Trong ta là núi là
rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi
(THÂN PHẬN)
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi
(THÂN PHẬN)
Tựa
Kinh
Thi và Kinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định
mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế
kỷ trên vòm trời Viễn Đông. Dịch trải rộng con đường
cho những bước đi lịch nghiệm trong cuộc tồn sinh; Thi là
tâm nguyện khẩn thiết và trung thực từ giữa chỗ sâu thẳm
của tình người và lòng người, được mang ra để lịch
nghiệm cuộc Lữ mà Dịch đã phơi bày ra đó. Âm hưởng của
Thi là tiếng vang của nhịp bước trong cuộc Lữ.
Nhưng
thảm họa lịch sử, vì những tham vọng cuồng dại si ngốc
của con người, càng lúc càng đổ dồn lên cuộc Lữ. Thi
đã đổi cách điệu trở thành những âm vang thống thiết
của Ly tao kinh. Cuộc Lữ trở thành cuộc đày ải; Thi cũng
trở thành ẩn tình hoài vọng Quê Hương; hoài vọng những
phương trời viễn mộng của Quê Hương. Một lúc nào đó,
Cuộc Lữ bị vây phủ trong trận đồ mù mịt của tư tưởng,
Thi là chứng tích sa đọa của một thời. Buổi thịnh triều
rầm một nhà Đường, Thi như một con thuyền biểu diễn tất
cả tài hoa của nó trên ba đào lịch sử, giữa một đại
dương rập rình hiểm họa. Nó vẫn đủ khả năng đưa người
vào lục địa, hay lướt sóng đi về vô tận khơi vơi hoằng
viễn. Nhưng cũng có thể âm thầm xô ngã vô số người say
sóng. Lý Bạch là một trong những tay lái cự phách, và có
thể là nhất. lãng đãng với tài hoa vừa lãng mạn vừa kiêu
hùng, nên quyến rũ và tạo ra một trường say sóng. Say trong
một buổi tiệc, lượm lặt những vật phế khí của trời
đất, để thống ẩm cuồng ngôn. Gậy lục ngọc của Lý
Bạch được mượn để gõ lên đầu lịch sử, đẩy lịch
sử đi vào mê cung bát trận đồ. Chỗ hay không bù lại chỗ
dở; cái được không thấm vào đâu với cái mật. Thi ca khai
diễn một trường hưởng thu cho những tay đầu cơ lịch sử
có hạng.
Cái
đó chỉ là dự tưởng về những chuyện có thể có cho Thơ
mà thôi, nên khỏi phải nói dài dòng.
Thơ
vẫn là một cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời đại
và Lịch sử. Từ cuộc Riêng, Thơ nương theo đôi cánh Thi
và Dịch để đi về nơi Hoằng viễn, dẫn Lịch sử Uyên
nguyên tụ hội với Thời đại. Hình như những sự này tôi
nghe được từ nơi thơ của Đông Pha, có nghe lộn hay không,
thì không biết. Nhưng cứ xin lấy chỗ nghe được đó ra để
bố trí cho quyển sách này.
Tuệ
Sỹ
NHỮNG PHƯƠNG TRỜI VIỄN MỘNG I KHUYẾT NGUYỆT QUẢI SƠ ĐỒNG 缺 月 掛 疏 桐
Trong
ta là núi là rừng
Là trăm tiếng hát đã dừng trên môi (THÂN PHẬN)
1.
Khuyết
nguyệt; đó là mảnh trăng non, là con trăng sơ huyền. Trăng
của thời kỳ vừa chớm, và thơ cũng sẽ bắt đầu từ một
cõi mộng đơn sơ. Những cái u sầu hay hoan lạc trong mỗi
cuộc giao tình, phảng phất một ẩn ngữ cao kỳ. Ân tình
cùng giao thoa trong tương ứng, nó đơn giản như hai với hai
là một. Rồi từ đó sẽ mở ra một phương trời đọa đày
viễn mộng. Cuộc tình tan rã, thì cuộc chơi đột ngột phơi
bày trong tuế nguyệt. Bấy giờ là mùa thu; và tóc trắng tung
bay trong cõi mộng kiêu hùng. Mùa đó, nước lũ ào ạt đổ
xuống Trường giang; rầm rộ tràn qua những đống loạn thạch,
lũ lượt trôi phăng như mây ngàn bạt đỉnh, sóng kinh hoàng
xẻ đôi hai bờ bến, dâng cao như đống tuyết bay: Giang sơn
như họa, Anh hùng hào kiệt một thời!
Thế
thì, trong cõi thơ, trăng cũng kiêu hùng như gió ngàn bạt đỉnh.
Từ đó, nhìn lại con trăng như sợi lông mày vắt ngang trên
con mắt sầu mộng đăm chiêu; mảnh trăng non trơ vơ trên ngọn
ngô đồng thưa lá: thơ là ẩn ngữ hay không là ẩn ngữ?
Vừa ẩn ngữ, vừa không là ẩn ngữ: Trời viễn mộng đọa
đày đi mấy thuở; Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa mù
khơi?
Thơ
không là ẩn ngữ. Trong cuộc giao tình vừa khởi sự, cuộc
thơ cũng phơi bày lồ lộ những nét thanh kỳ tú lệ; cũng
lãng đãng như màn trăng trong những giọt sương lóng lánh;
cũng tươi như nụ hồng vừa chớm nở; cũng trong ngọc trắng
ngà như băng tuyết; và cũng trơ vơ như chiếc sao Hôm trong
buổi hoàng hôn, tư lự như sao Mai giữa trời khuya ngất tạnh.
Vậy, những cái đó không là ẩn ước hay ẩn mật; mà chính
là những tâm tình được thổ lộ phơi trần, hoặc bằng
lân la nay khóm trúc mai chồi lan; hoặc đột ngột như gió
dục mây Tần. Tâm tình đã thổ lộ, thì cuộc giao tình thắm
thiết mở ra. Bấy giờ mới là lúc:
Vén
thanh sắc đổ mù khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả vội chia phôi Trăng nằm xuống ruỗi dài hai bến hẹn Một dòng sông vồn vã động chân trời
Từ
tâm tình đến cuộc tình, từ cuộc tình đến cuộc chơi,
rồi từ cuộc chơi đến cuộc hẹn; thế là, đang lân la,
bỗng đột ngột phát hiện một phương trời viễn mộng,
xa xôi. Trong cõi đó, lữ khách bao giờ cũng thấy mình đang
bươn bả ra đi, đi biền biệt, đi triền miên, tưởng như
không bao giờ có bến bờ để đổ lại; nhưng, đi và đi
mất, trong từng khoảnh khắc, cái đến và nơi đến, đã
đến tự bao giờ. Cuộc tình chia phôi từ độc đó. Bên này
là những dòng tuế nguyệt cứ mãi trôi đi, và bên kia là
một chân trời đồng vọng không có đến. Bóng chiều rủ
lên tàng đá bên đường, đọng trong mắt của người một
mối sầu cô lữ. Không vì ẩn ngữ, nhưng vì đã phơi bày
tất cả ra đó, nên cuộc tình và cuộc chơi hay cuộc lữ
cuộn tròn trong ẩn ngữ thiên thu. Đó là một tình tự hoang
đường? Hoặc giả:
Đá
mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi .......?
2.
Đó
là tình thơ trong cuộc thơ và cõi thơ; không quyết là của
Đông Pha hay không là của Đông Pha. Nhưng người chơi thơ,
mở cuộc giao tình với cuộc thơ, ban đầu chỉ như đi tìm
một cõi mộng đơn sơ; rồi đột ngột, và sững sờ, cảm
khái như một mối sầu cô lữ, thấy mình lưu lạc ở một
phương trời đọa đày viễn mộng
* *
Bây
giờ bắt đầu bằng con trăng sơ huyền, mảnh trăng non treo
trên ngọn ngô đồng thưa lá. Trăng trên đồi xuân cỏ mượt,
hay trăng trong mùa thu tóc trắng. Nói chung, là trăng trong cõi
mộng đơn sơ. Trong đó, tình thơ đồng vọng từ mùa xuân,
từ lúc hoa bắt đầu rã những cánh hồng xơ xác:
Hoa
thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu
Yến tử phi thời Lục thủy nhân gia nhiễu Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu Thiên nhai hà xứ vô phương thảo
花
褪 殘 紅 青 杏 小
燕 子 飛 時 綠 水 人 家 遶 枝 上 柳 綿 吹 又 少 天 涯 何 處 無 芳 草
Hoa
đang rã những cánh hồng xơ xác, và cây hạnh xanh gầy. Khi
con én liệng, dòng nước biếc lượn quanh. Lớp bụi phấn
bông liễu trên cành, gió thổi rồi vơi dần. Ven trời hàng
vạn nẻo, nơi nào không là cỏ non?
Đồng
vọng xuân mà cũng là đồng vọng thu; đồi cỏ non và tóc
trắng. Ân tình một nỗi mà chia hai. Tình thơ là tình xuân,
nhưng tình người đã quá xế muộn, của tuổi già, cái tuổi
gần 60, trong những ngày bị đày ải, lưu lạc nơi cảnh man
dại Nam hoa.
Lúc
đó, và năm đó, Giáp tuất (1094), ông 59 tuổi, đang từ chức
Đoan minh điện kiêm Thị độc học sĩ, ngoại nhiệm ở Định
Châu, bị giáng chức, đày đi Hải Nam. Đó là đoạn đường
gian nan hiểm trở. Trên đoạn đường đó, thơ ông vang lên
những tiếng dội lạ lùng. Khổ đau cùng cực, trộn lẫn
với hào khí ngất trời; nhưng lại đượm những chân tình
hoài vọng xa xôi.
Đường
đi xuống Hải Nam, ngang qua Cống châu; sông Cống chảy qua
18 ghềnh thác đổ. Ngày mồng 7 tháng 8 (âm lịch) năm đó,
bắt đầu vào Cống châu, và ngang qua một thác nước ào ạt,
được mệnh danh là thác Hoàng khủng. Cái tên đó cũng đủ
thấy các thế tuôn trào của nó. Trong cái kinh hoàng nơi khách
địa đó, thơ ông vọng về cố quận khơi vơi. Nơi quê ông,
có phố chợ, được gọi là phố Hỉ hoan. Hỉ hoan và Hoàng
khủng, tình trong một mà cảnh tượng đôi bờ. Bên này là
những nét kiêu hùng man dại của đất khác; bên kia là tình
nồng đượm của quê hương. Chỗ đó, ông gọi là "lao viễn
mộng", là đọa đày viễn mộng. Bốn chữ ấy, vừa kiêu
sa vừa cô quạnh, mùa thu và tóc trắng hiện ra những nét
vừa khốc liệt vừa man mác. Bài thơ của ông làm lúc đó
Thất
thiên lý ngoại nhị mao nhân
Thập bát than đầu nhất diệp thân Sơn ức Hỉ hoan lao viễn mộng Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần Trường phong tống khách thiêm phàm phúc Tích vũ phù chu giảm thạch lân Tiện hiệp dữ quan sung thủy thủ Thử sinh hà chỉ lược tri tân
七
千 里 外 二 毛 人
十 八 灘 頭 一 葉 身 山 憶 喜 歡 勞 遠 夢 地 名 惶 恐 泣 孤 臣 長 風 送 客 添 帆 腹 積 水 浮 舟 減 石 鱗 便 恰 與 官 充 水 手 此 生 何 止 略 知 津
Hai
thứ tóc, người đi ngoài bảy nghìn dặm;
Một thân côi, thác đổ xuống mười tám ghềnh. Núi nhớ Hỉ hoan đọa đày viễn mộng; Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần. Gió ruỗi khách cánh buồm mở rộng, Mưa đầy sông thuyền nhẹ lênh đênh. Góp sức quan thử làm thủy thủ, Đời trôi xuôi bờ bến là đâu?
Con
đường đó còn mở rộng bát ngát những hùng ca và bi ca.
Thơ ông bấy giờ như cánh chim hồng lẻ loi bạt gió.
Ngày
3 tháng 10 năm đó, đến Huệ châu, thuộc tỉnh Quảng đông
ngày nay. Ông ở đây gần 4 năm, rồi bị đày xa xuống nữa.
Tháng
11 năm đó (giáp tuất), ông làm bài thơ đùa Triêu Vân. Ông
tự viết lời dẫn cho bài thơ, nói:
"Đời
bảo Lạc Thiên (bạch Cư Dị) có bài từ Chúc lạc mã phóng
theo điệu Dương liễu chi, khen con ngựa lúc chủ già bịnh
không nỡ bỏ. Nhưng tôi nằm mộng có làm mấy câu thơ:
Xuân
tận nhứ phi lưu bất đắc
Tùy phong hảo khứ lạc thùy gia
春
盡 絮 飛 留 不 得
隨 風 好 去 落 誰 家
"Thơ
lạc Thiên cũng nói:
Bịnh
dữ lạc Thiên tương bạn trụ
Xuân tùy Phàn tử nhất thời qui
病
與 樂 天 相 伴 住
春 隨 樊 子 一 時 歸
"Nhà
tôi có vài thị thiếp; bốn, năm năm đã nối nhau bỏ đi;
chỉ một mình Triêu Vân theo tôi đày sang Nam. Nhân đọc thơ
Lạc Thiên, làm bài thơ đùa đó. Triêu Vân họ Vương, người
Tiền đường, có con tên Cán, chưa đầy năm đã yểu"
Bài
thơ đó:
Bất
tợ dương chi biệt Lạc Thiên
Hiệp như Thông Đức bạn Linh Huyền Ả nô Lạc Tú bất đồng lão Thiên nữ Duy Ma tổng giải Thiền Kinh quyển dược lô tân hoạt kế Vũ xam ca phiến cựu nhân duyên Bất tác Vu dương vân vũ tiên
不
似 楊 枝 別 樂 天
恰 如 通 德 伴 伶 玄 阿 奴 絡 秀 不 同 老 天 女 維 摩 總 解 禪 經 卷 藥 爐 新 活 計 舞 衫 歌 扇 舊 因 緣 丹 成 逐 我 三 山 去 不 作 巫 陽 雲 雨 仙
Gọi
là đùa, mà kỳ thực là để tạ cái chân tình thắm thiết
của Triêu Vân hầu ông. Nàng cốt cách như thiên nữ, dù không
là sắc nước hương trời, nhưng cũng trang nhã thanh cao. Trước
kia, nàng chỉ biết ca hát và múa. Từ khi theo ông đi đày,
nàng làm bếp; tợ như ngọc nữ quạt lò thuốc luyện đan.
Khi nào tiên đan luyện thành rồi, sẽ đuổi ông chơi xa ngoài
năm non bảy núi, không làm tiên nữ mây mưa trên đỉnh Vu
dương nữa.
Một
ngày nhàn hạ, ông ngồi với Triêu Vân. Lá ngô đồng vừa
bắt rơi vài ngọn, gió heo may vừa trổi, và sương thu lạnh.
Ông bảo Triêu Vân cầm cốc rượu làm phách đánh nhịp, hát
bài từ của ông, theo điệu Điệp luyến hoa:
Hoa
thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu.
Yến tử phi thời, Lục thủy nhân gia nhiễu. Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu. Thiên nha hà xứ vô phương thảo Tường lý thiên thu tường ngoại đạo, Tướng ngoại hành nhân, Tường lý giai nhân tiếu. Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu, Đà tình khước bị vô tình não.
Ca
và Triêu Vân sụt sùi khóc, nước mắt đẫm áo. Ông hỏi
tại sao khóc. Nàng chỉ vào bài từ, chính là ở chỗ
Chi
thượng liễu miên xuy hựu thiểu.
Thiên nha hà xứ vô phương thảo
Trên
cành liễu, bông liễu đã kết trái, trên hạt của nó có
những sợi lông như lông tơ của cái kén, gọi là liễu miên,
hay bụi bông liễu. Ngọn gió muộn của mùa thu thổi qua, bông
liễu bay đi; ngoài kia bông liễu tản mạn triền miên, tản
mạn bay đi, ngoài kia ven trời vạn nẻo, đâu không là cỏ
non!
Nàng
khóc là ở chỗ đó. Ông cười lớn: Chính là chố ta ngậm
ngùi mùa thu, mà nàng khóc với mùa xuân.
Mùa
xuân và mùa thu, cùng trong một tình thơ đó. Tình đạm bạc
như bông liễu; và cũng tình đó, triền miên như bụi bông
liễu. Mịn như tơ trời và lây lất triền miên theo gió thổi;
trên cành liễu và ngoài kia mấy vạn ven trời diệu vợi.
Càng đơn bạc, càng nồng nàn.
Tình
vương vấn như sợi tơ trời, triền miên và thắm thiết.
Triền miên và triền miên, một thứ triền miên kỳ lạ. Triền
miên đó là cái bịn rịn, cái dây dưa, cái vương vấn, cái
quyến luyến, của bụi bông liễu như tơ trời. Lồ lộ trong
cơn gió thanh xuân, mà e ấp trong một tình thơ sầu vạn đại.
Cuộc
giao tình dồn lại rồi chia phôi:
Tường lý thu thiên tường ngoại đạo Tường ngoại hành nhân, Tường lý giai nhân tiếu. Tiếu tiệm bất văn thanh tiệm tiểu Đa tình khước bị vô tình não
牆
裏 鞦 韆 牆 外 道
牆 外 行 人 牆 裏 佳 人 笑 笑 漸 不 聞 聲 漸 小 多 情 卻 被 無 情 惱
Bên
trong tường là cái xích đu và bên ngoài tường là con đường
cái. Bên ngoài tường là lữ khác đi và bên trong tường là
người đẹp đang cười. Cười càng lúc càng nhỏ và tiếng
cười càng lúc càng ngậm ngùi. Cái đa tình đã thường bị
cái vô tình làm ray rứt.
Tình
thơ, và cuộc tình trong thơ, thắt chạt rồi buông lơi; gió
thổi cuộc tình ra ngoài một vạn phương trời viễn mộng.
Hùng ca hay bi ca? Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ:
Bụi
thu mờ ai phủ với hai tay
(Bùi Giáng)
Bụi
thu mờ và bụi thu bay. Trời thu cao ngất tạnh trong bụi thu
mờ. Rừng thu rỗ biếc ố hồng vì bụi thu mờ. Chiều mùa
thu đổ xuống trong bụi thu mờ. Mờ và xa,
Em
về rủ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay (Bùi Giáng)
Chẳng
bao lâu, Triêu Vân bịnh và mất. Nàng mất lúc tuổi mới 34,
và ông đã 61 tuổi. Rồi từ đó, sầu cô quạnh tung trời
lên Bắc đẩu, dải Ngân hà tan tác bụi thu bay.
Từ
đó trở đi, ông không bao giờ còn nghe lại:
Hoa thốn tàn hồng thanh hạnh tiểu .... Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu Thiên nhai hà xứ vô phương thảo Ông viết "Mộ chí minh":
"Thị
thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu Vân, tự Tử Hà, họ
Vương thị; người Tiền đường. Thông minh và thích việc
nghĩa, thờ tiên sinh 23 năm, một mực trung và kỉnh. Năm Thiệu
thánh thứ 3 (1096), tháng 7, ngày nhâm thìn, mất ở Huệ châu,
34 tuổi. Tháng 8, ngày canh thân, táng trên Phong hồ, phía đông
nam chùa Thê hiều. Sinh con tên Độn, chưa đầy năm đã yểu.
Nàng thường theo tì khưu ni Nghĩa xung học Phật pháp, cũng
hiểu biết sơ qua đại ý. Lúc chết, tụng 4 câu kệ trong
kinh Kim cương rồi tuyệt. Bài minh rằng:
Phù
đồ thị chiêm
Già lam thị y Như nhữ túc tâm Duy Phật chi quy 浮 屠 是 瞻 伽 藍 是 依 如 汝 宿 心 唯 佛 之 歸
(Hướng
về đức Phật. Nương về cửa chùa. Theo tâm nguyện đó.
Nay Phật đón đi).
Ông
làm bài thơ truy điệu, và tự viết lời dẫn:
"Thiệu
thánh nguyên tiêu (1094), tháng 11, làm bài thơ đùa Triêu Vân.
Năm Thiệu thánh thứ 3, tháng 7, ngày 5, Triêu Vân mất vì bịnh
ở Huệ Châu, táng phía đông nam trong rừng thông chùa Thê
hiền, kề tháp Đại thánh. Tôi làm bài Minh khắc lên mộ
nàng; nay làm bài thơ học vận bài trước.
"Ban
đầu, Triêu Vân không biết chữ. Lớn tuổi, bỗng học viết;
viết hơi có ngay ngắn. Lại thường theo bà tì khưu ni Nghĩa
Xung ở Tứ thượng học Phật pháp, cũng có biết sơ qua đại
nghĩa. Lúc chết, tụng 4 câu kệ trong kinh Kim cương rồi tuyệt"
Bài
thơ:
Miên
nhi bất tú khởi kỳ thiên
Bất sử Đồng Ô dữ ngã huyền Chú cảnh hận vô thiên tuế dược Tặng hành duy hữu Tiểu thừa thiền Thương tâm nhất niệm thường tiền trái Đàn chỉ tam sinh đoạn hậu chuyên Qui ngọa trúc căn vô viễn cận Dạ đăng cần lễ tháp trung niên 苗而不秀豈其天 不使童烏與我玄 景恨無千歲藥駐 贈行唯有小乘禪 傷心一念償前債 彈指三生斷後緣 歸臥竹根無遠近 夜燈勤禮塔中仙
Nàng
như đám mạ đã xanh chưa kịp trổ đòng đòng. Đó là mệnh
trời ư? Miêu nhi bất tú, hữu hỉ phù? Tú nhi bất thật,
hữu hỉ phù: mạ đã xanh chưa kịp trổ đòng đòng, có điều
đó sao? Lúa đã trổ đòng đòng nhưng lại chưa kịp kết
hạt, có vậy sao? Đó là những lời Đức Không Tử khóc Nha
Hồi, một người đệ tử tài hoa nhưng yểu mệnh.
Hoặc
giả, sao nàng không như cậu Đồng Ô, chồi non chưa kịp trổ
thành mạ xanh? Dục nhi bất miêu giả ngô gia chi Đồng Ô hồ?
Cửu linh nhi dữ ngã huyền văn hồ?
Triêu
Vân mất tháng 7. Tháng 10 năm đó, hoa mai nở rộ nơi đất
Huệ châu, ông làm bài từ theo điệu Tây giang nguyệt , như
âm thầm hoài vọng Triêu Vân. Nàng tiên nữ từ cõi Bồng
lai đến.
Bài
từ đó vịnh hoa mai như sau:
Tây
giang nguyệt
Ngọc cốt na sầu chương vụ Băng cơ tự hữu tiên phong Hải tiên thời khiển thám phương tòng Đảo quải lục y yêu phượng
Tố
diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng Cao tình dĩ trục hiểu vân không Bất dữ lê hoa đồng mộng 西江月 玉骨那愁瘴霧 冰肌自有仙風 海仙時遣芳叢 倒掛綠依幺鳳
素面常嫌粉
洗妝不褪殘紅 高情已逐曉雲空 不與梨花同夢
Trong
đó có cả hoa và chim. Hoa mai và chim lục y yêu phượng; loại
chim mỏ đỏ, lông xanh, mỗi khi đậu thì treo ngược trên
cành. Chúng là sứ giả của thần tiên trên đảo Bồng lai,
ngoài khơi Đông hải.
Huệ
châu ở mãi vùng cực nam Trung hoa; đất Lĩnh nam nhiều chướng
khi. Hơi núi và sa mù nườm nượp trong những tháng lạnh.
Mùa đó, từ tháng 10, hoa mai đã nở. Nhưng cốt cách của
mai là tuyết ngọc nên không ngại ngùng sa mù và chướng khí
ở đó; và da trắng như bằng giá, hoa mai đã sẵn cái phong
vận thần tiên. Là hoa mai, và cũng có thể là Triêu Vân, cái
đó chưa cần vội vã. Thơ không ngụ ý, người đọc thơ
khỏi cần đi tìm ngụ ý của thơ.
Hoa
mai đất Lĩnh nam nở nụ màu hồng. Nụ hồng và lá xanh, có
giống như những con lục y yêu phượng? Hoa và chim, có thể
là một, có thể là hai; tùy cảm hứng của người đọc.
Nhưng
bấy giờ là mùa mà các thần tiên ngoài hải đảo sai sứ
giả đi tìm các cụm cây non trong đất liền; cho nên trên
cành thấy treo ngược những con lục y yêu phượng:
Ngọc
cốt na sầu chương vụ
Băng cơ tự hữu tiên phong Hải tiên thời khiển thám phương tòng Đảo quải lục y yêu phượng
Cả
bốn câu của bài từ tuyệt không một lời nào để ngụ
một ẩn tình nào đó. Cái đó tạm thời hãy cứ cho nằm
đó. Bây giờ nên đọc chơi những bài thơ vịnh hoa mai của
ông. ba bài thơ làm dưới đình Tùng phong, mùa mai nở rộ,
đề ngày 26 tháng 11 năm giáp tuất, ông 59 tuổi. trước Triêu
Vân mất ba năm.
Bài
thứ nhất.
Xuân
phong lĩnh thượng Hoài nam thôn
Tích niên mai hoa tằng đoạn hồn Khởi tri lưu lạc phục tương kiến Man phong Đản vũ sầu hoàng hôn Trường điều bán lạc lệ chi phố Ngọa thọ độc tú quang lang viên Khởi duy u quang lưu dạ sắc Trực khủng lãnh diễm bài đông ôn Tùng phong đình hạ kinh cức lý Lưỡng chu ngọc nhụy minh triêu thôn Hải nam tiên vân kiều đọa thế Nguyệt hạ cảo y lai khấu môn Tửu tỉnh mộng giác khởi nhiễu thọ Diệu ý hữu tại chung vô ngôn Tiên sinh độc ẩm vật thán tức Hạnh hữu lạc nguyệt khuy thanh tôn 春風嶺上懷南村 昔年梅花曾斷魂 豈知流落復相見 蠻風雨愁黃黃昏 長條半落荔枝浦 臥樹獨 秀光榔園 豈惟幽光留夜色 直恐冷豔排冬溫 松風亭下荊棘裏 兩株玉蕊明朝暾 海南仙雲嬌墮砌 月下縞衣來扣門 酒醒夢覺起繞樹 妙意有在終無言 先生獨飲勿嘆息 幸有落月窺清樽
Thôn
Hoài nam gió ngàn bạt đỉnh
Từng năm xưa hồn rụng mai vàng Rồi lưu lạc ai ngờ là ước hẹn Gió Mường mưa Mọi phủ chiều hoang
Phố
lệ chi cành dài nghiêng đổ nửa
Vườn quang lang cây tú lệ nằm không Còn ngại lắm bởi màu đêm ủ rũ Và lạnh lùng xua chút ấm tàn đông
Đình
Tùng phong với rừng gai dưới đó
Hai nàng mai ngà ngọc đón hừng đông Tiên mấy Hải nam yêu kiều xuống độ Choàng áo the gõ cửa dưới màn trăng
Rượu
tỉnh mơ tàn vòng cây tản bộ
Ý tình tuyệt diệu lời ẩn toàn không Tiên sinh độ ẩm đừng than thở Một mảnh trăng rơi đáy rượu nồng
Bài
thứ hai
La
phù sơn hạ mai hoa thôn
Ngọc tuyết vi cốt băng vi hồn Phân phân sơ nghi nguyệt quải thọ Cạnh cạnh độc dữ Sâm hoàng hôn Tiên sinh sách cư giang hải thượng Tiễu như bịnh hạc thê hoang viên Thiên hương quốc diễm khẳng tương cố Tri ngã tửu thục thi thanh ôn Bồng lai cung trung hoa điểu sứ Lục y đảo quải phù tang thôn Bảo tòng khuy ngã phương túy ngọa Cố khiển trác mộc tiên xao môn Ma cô quá quân cấp sái tảo Điểu năng ca vũ hoa năng ngôn Tửu tỉnh nhân tán sơn tịch tịch Duy hữu lạc nguyệt khuy không tôn 羅浮山下梅花村 玉雪為骨冰為魂 紛紛初疑月掛樹 耿 耿 獨 與 參 黃 昏 先 生 索 居 江 海 上 悄 如 病 鶴 栖 荒 園 千 香 國 豔 肯 相 顧 蓬 萊 宮 中 花 鳥 使 綠 衣 倒 掛 扶 桑 暾 抱 叢 窺 我 方 醉 臥 故 遣 啄 木 先 敲 門 麻 姑 過 君 及 洒 掃 鳥 能 歌 舞 花 能 言 酒 醒 人 散 山 寂 寂 惟 有 落 月 窺 空 樽
Dưới
núi La phù mai hoa thôn
Tuyết ngọc là xương băng là hồn Phơi phới ngỡ chừng trăng gác ngọn Trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn
Tiên
sinh lênh đênh đời sông biển
Rầu như hạc ốm đậu vườn hoang Hương trời sắc nước không buồn ngó Biết ta rượu mùi thơ ấm trong Trong cung Bồng lai hoa chim làm sứ Áo xanh treo ngược cây dâu hừng đông Ôm cây liếc ta đang say nằm đó Mổ cây gõ cửa nhắn đợi sẵn sàng Tiên bà qua đây hãy lo quét tước Chim hay ca múa hoa biết nói năng
Rượu
tỉnh người tan non vắng vẻ
Hững hờ nhị rụng đáy ly không
Bài
ba, không trích ở đây.
Trong
các bài thơ đó, hoa mai khi lộ liễu, khi e dè; khi bát ngát,
khi đìu hiu. Kỳ thực, ở đây là cả một cuộc đời, xa
và rộng; một trời thơ mở rộng vô ngần. Nhưng hoa mai đã
lên nguồn cảm hứng; vì cốt cách tuyết ngọc, vì phong vận
thần tiên. Gương mai không cần tô điểm phấn son; cánh rã
mà nụ hồng còn thắm. Tình nơi hoa mai bốc lên cao vút tận
trời, đẹp như những đám mây trong nắng sớm:
Tố
diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng Cao tình dĩ trục hiểu vân không Bất dữ lê hoa đồng mộng
Tình
hoa mai tráng lệ và huy hoàng là như thế. Mà chân tình một
thuở của Triêu Vân cũng là như thế. Tình không là cõi mộng;
không là những cánh hoa lê nườm nượp như mây trời trong
mộng. Cuộc tình chưa rã, thì cuộc tình như giấc mộng đăm
chiêu. Khi cuộc tình bỏ đi, mộng sẽ bốc thành mây trời
trong nắng sớm. Tình và mộng; đến và đi như chưa từng
có. Duyên và nợ; có như chưa từng đến và đi. Nợ ân tình
trong một thuở, đem cái tấm lòng đày đọa truân chuyên ra
để đền bù. Duyên tình mộng của nghìn năm, trong thoáng
chốc, trong một cái búng tay, đã trở thành không không trong
vĩnh cửu:
Thương
tâm nhất niệm thường tiền trái
Đàn chỉ tam sinh đoạn hậu duyên
Duyên
nàng là duyên của Phật. Nàng đến, để làm thiên nữ tán
hoa, rải hoa trời lên cõi thơ lồng lộng. Trước Triêu Vân
mất một năm, lúc đó ông đã 60 tuổi, làm tặng nàng bài
Từ theo điệu “Nê nhân kiều”:
Bạch
phát thương nhan
Chính thị Duy Ma cảnh giới Không phương trượng tán hoa hà ngại Chu thần trợ điểm Cánh kế hoàn sinh thái 白 髮 蒼 顏 正 是 維 摩 境 界 空 方 丈 散 花 何 礙 朱 唇 箸 點 更 髻 還 生 彩
Da
mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới
đó là cõi đối biện thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn
bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật. Và cũng là cõi tịch mặc
nhưng tráng lệ của thi ca. Căn nhà của Duy Ma Cật là khoảng
rộng vuông vức một trượng; và là một phương trượng trống
trải, nhưng đã chứa cả ba nghìn tòa sư tử; khách từ ba
nghìn thế giới tụ lại để nghe một lời không nói của
Duy Ma.
Và
thiên nữ tại đó đã rải hoa trời tán thưởng một lời
không nói; cũng tán thưởng luôn những lời có nói. Thiên
nữ đó là Triêu Vân? và cõi của một lời không nói đó
là cõi thơ của ông?
Chu
thần trợ điểm
…..
Một
nụ son, nụ của hoa mai bé bỏng
Kết trên quấn tóc trở thành diễm lệ… Tình nợ và tình thơ, giao nhau trong cõi tình mộng của những lời, hay của một lời, không nói. Rồi tình nợ theo xác người trở về với cát bụi; tình thơ theo cõi mộng bốc cao:
Cao
tình dĩ trục hiểu vân không.
Nàng
gửi thân cát bụi nghìn đời dưới gốc thông; ban đêm, hồn
sẽ theo ánh đèn lên diện kiến với tiên trong cõi Phật:
Qui
ngọa trúc căn vô viễn cận.
Dạ đăng cần lễ tháp trung tiên * *
Nghìn
năm sau, mùa xuân, rồi mùa thu, và một cánh én liệng mùa
xuân ngang qua con nước mùi thu, và
Chi
thượng liễu miên xuy hựu thiểu
Thiên nha hà xứ vô phương thảo
Bông
liễu cứ triền miên vương vấn như tơ trời, lại bắt đầu
từ một cõi mộng đơn sơ; rồi lân la nay khóm trúc mai chồi
lan, nửa chiều tà nửa nắng quái, lần hồi từ phố chợ
đến đồng quê, từ ân tình đầm ấm của quê hương đến
phương trời đọa đày viễn mộng, để đến một cõi có
hoa trời, có thiên nữ, và “dạ đăng cần lễ tháp trung
tiên” để xin nghe một lời trong tịch mặc vô ngôn. Sơn
cùng lộ tuyệt, thơ của ông ở đây ư? Có thể ở đó, hoặc
ở chỗ
“Chết
từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn”
(Bùi Giáng)
3.
Thập
niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lương, Tự nan vong. Thiên lý cô phần Vô xứ ngoại thê lương Túng sử tương phùng ưng bất thức, Trần mãn diện Mãn như sương.
Dạ
lai u mộng hốt hoàn hương
Tiểu hiên song Chánh sơ trang. Tương cố vô ngôn Duy hữu lệ thiên hàng. Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ, Minh nguyệt dạ Đoản tùng cương. 十 年 生 死 兩 茫 茫 不 思 量 似 難 忘 千 里 孤 墳 無 處 話 悽 涼 縱 使 相 逢 應 不 識 塵 滿 面 鬢 如 霜
夜
來 幽 夢 忽 還 鄉
小 軒 雙 正 梳 妝 相 顧 無 言 唯 有 淚 千 行 料 得 年 年 腸 斷 處 明 月 夜 短 松 岡
Mười
năm trôi đi, hai ngã sống và chết chia đôi biền biệt.
Dù không nghĩ tới, Mà cũng không sao quên được. Nấm mồ đơn chiếc xa xôi, Lạnh lẽo nói làm sao cho xiết; Dù có gặp nhau rồi cũng chẳng nhận ra nhau: Gương mặt đầy cát bụi, Tóc mai đã bạt trắng như sương.
Đêm
qua trong giấc mộng triền miên, chợ thấy trở về quê cũ.
Đứng tựa cánh cửa sổ. Lúc đó bà đang gỡ tóc Nhìn nhau không nói, Chỉ có nước mắt tuôn trào. Tưởng chừng năm năm đứt ruột, Mỗi lúc đêm trăng sáng, Trên đồi thông bóng ngả
Trên
đây là bài Từ làm theo điệu "Giang thành tử". Ông có ghi
chú nhỏ: "Năm ất mão (1074), tháng giêng, ngày 20, ban đêm,
ghi lại giấc mộng" Năm đó ông 40 tuổi, làm quan ở Mật
châu; vợ chánh thất của ông, Vương thị, Thông Nghĩa Quận
quân, mất đã đúng 10 năm:
Thập
niên sinh tử lưỡng mang mang
Bà
đối với ông, tình duyên và tình nợ thì có; mà tình thơ
thì không. Nhưng, bà mất 10 năm, mà tình nhớ nhung của ông
vẫn còn cay đắng. Rồi tình đó phát hiện thành lời thơ,
thì cũng là tình thơ vậy.
Bảy
năm sau đó, khi xuôi dòng Trường giang, dạo chơi Xích bích,
vẫn thấy còn phảng phất một mối ngậm ngùi hoài vọng:
Cố
quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã Tảo sinh hoa phát 故 國神遊 多情應笑我 早生花髮
Hồn
thả về chơi cố quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta Chưa chi đầu đã bạc
Bạn
tình chung, hay khách đa tình nơi cố quận là vong hồn bà Vương
thị.
Nước
Trường giang ào ạt đổ xuống: "Đại giang đông khứ", bài
Từ đó là cả một phong độ kiêu hùng nơi ông
Đại
giang đông khứ
Lãng đào tận Thiên cổ phong lưu nhân vật ........ Loạn thạch băng vân Kinh đào liệt ngạn Quyển khởi thiên đôi tuyết Giang sơn như họa Nhất thời đa thiểu anh hùng 大 江 東 去 浪 濤 盡 千 古 風 流 人 物 ........... 亂 石 崩 雲 驚 濤 洌 岸 捲 起 千 堆 雪 江 山 如 畫 一 時 多 少 英 雄
Giữa
cái kiêu hùng đó còn có vấn vương một sợi tơ trời. Thì
đó cũng là một cõi mộng đơn sơ, trong con mắt hùng thị
tất cả anh hùng vạn đại.
4.
Những
tháng cuối năm canh thân (1080), ông ngồi tù trong ngục Ngự
sử. Miệng ông nó đày đọa thân ông. Ngồi tù trên ba tháng,
được thả ra; bị cách chức, cho làm Hoàng châu Đoàn luyện
phó sứ; đời Tống, đó là một chức hờ. Rồi bị an trí,
tức là bị đày, ở Hoàng châu. Vừa đến Hoàng châu, ông
làm bài thơ tự trách:
自
笑 平 生 為 口 忙
老 來 事 業 轉 荒 唐
Tự
tiêu bình sinh vị khẩu mang
Lão lai sự nghiệp chuyển hoang đường
Bình
sinh vì cái miệng mà mang họa; càng về già, sự nghiệp càng
trở nên hoang đường.
Ông
bị đày ở Hoàng châu từ đầu năm ông vừa 45 tuổi cho đến
hết năm 49 tuổi. Trong 5 năm trời đó, Hoàng châu không khổ
đày đọa như ở Huệ châu và Đam nhĩ (tức Hải nam) sau này.
Nhưng cái cảnh làm ruộng của ông cũng qua nhiều khổ nhọc.
Ông tự bảo, bình sinh đi kiếm ăn bằng cái nghiên mẻ; hận
là đã không học nghề làm ruộng. Cũng trong thời gian đó,
thơ ông lại phiêu bồng bát ngát.
Khi
vừa đến Hoàng châu, ông ngụ cư tại chùa Định huệ trong
một thời gian ngắn, chưa đầy một năm, thì dời sang Lâm
cao đình. Lúc ngụ tại chùa Định huệ, ông có bài thơ vịnh
Hải đường, giữa các thứ hoa rừng dại thô tục. Bài thơ
đó quả tình là một cảm hứng trác việt (đọc ở phần
Những phương trời lữ thứ). Cũng trong thời gian đó, ông
làm bài Từ được trích ở dưới đây, mà người ta đã
bàn bạc phân vân về ngụ ý của ông. Bài Từ làm theo điệu
"Bốc toán tử". Đầu bài Từ, có ghi chú nhỏ của ông: "Làm
khi ngụ cư tại chùa Định huệ ở Hoàng châu". Bài Từ đó
như sau:
Khuyết
nguyệt quải sơ đồng,
Lậu đoạn nhân sơ tỉnh Thùy kiến u nhân độc vãng lai, Phiêu diễn cô hồng ảnh
Kinh
khởi khước hồi đầu
Hữu hận vô nhân tĩnh Giản tận hàn chi bất khẳng thê Tịch mịch sa châu lãnh 缺 月 掛 疏 桐 漏 斷 人 初 靜 誰 見 幽 人 獨 往 來 飄 渺 孤 鴻 影
驚
起 卻 回 頭
有 恨 無 人 省 簡 盡 寒 枝 不 肯 栖 寂 寞 沙 洲 冷
Trăng
sơ huyền treo trên ngọn ngô đồng thưa lá.
Trời khuya, người bắt đầu thưa vắng, chỉ nghe tiếng tí tách của đồng hồ canh chừng giờ đêm Chỉ thấy ẩn sĩ một mình đi lui đi tới Thấp thoáng như bóng chim hồng lẻ loi
Giật
mình quay đầu nhìn lại
Ngậm ngùi giữa lúc mọi người đang say ngủ Lần lựa hết những cành cây trơ trọi, mà không chịu đậu, Một mình bơ vơ trên cồn cát.
Dịch
dài dòng luộm thuộm như thế, để tìm thử có ngụ ý hay
thác ý gì không. Bài Từ hoàn toàn vịnh con chim hồng. Cánh
chim hồng lẻ loi, lang bạt. Từ cành này đến cành cây khác,
mà không bao giờ chịu đậu lại. Xưa nay, chim hồng có lúc
nào lại chịu đậu trên cành cây? Nó đứng trơ vơ trên cồn
cát:
Giản
tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu tĩnh
Nhưng
câu chuyện xung quanh bài Từ đã kể khác.
Tại
Hoàng châu, có người con gái của bà Vương thị. Nàng tên
là Siêu Siêu, cũng khá có nhan sắc, 16 tuổi mà không chịu
lấy chồng. Đông Pha bị biếm trích ra ở Hoàng châu. Biết
tin ông đến, nàng mừng lắm. Ông ngụ tại chùa Định huệ.
Đêm đêm nàng lén đến núp ngoài cửa sổ, bồi hồi nghe
ông ngâm thơ. Ông thường chong đèn đêm, đi qua đi lại ngâm
thơ một mình. Khi ông hay có người rình nghe ngoài cửa sổ,
ông đẩy cửa sổ ra, nàng trèo tường bỏ chạy. Ông đuổi
theo, bảo: Sẽ gọi Vương lang đến làm sui gia.
Thế
thì, lời trong thơ là thác ý cho nàng Siêu Siêu. Nhưng bóng
con chim hồng trong đó vẫn là bóng của ông:
Cánh
hồng bay bổng tuyệt vời
Đó
thực là cõi phiêu bồng của phương trời viễn mộng. tình
thơ nồng đượm, nhưng tình duyên hay tình nợ thì không không.Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về (T.S.)
1.
Lô
sơn là một danh thắng kỳ tuyệt. Núi non hùng vĩ, cảnh trí
u trầm, mây trắng và sương mù quanh năm bao phủ, từ bao nhiêu
đời, nơi đó ẩn tích những cao nhân đắc đạo. Tìm đến
đó, để nhìn thẳng vào chân diện mục của Lô sơn, là đã
quyết tâm đoạn tuyệt với những vương vấn, buông lơi và
thắt chặt, từ mấy vạn đời trước. Thấy chỗ đó, là
thấy Tâm Thiền. Nhưng Tâm Thiền thì tịch mặc không nói.
Một khi đưa lưỡi dao lên cắt đứt mớ tóc, đoạn tuyệt
hồng trần, thì cõi thơ sẽ mất một ngọn sao trời rọi
sáng, cho khách tục tử đang còn cặm cụi làm thơ. Nhà thơ
phát tâm đại nguyện thượng thừa vác lên vai vô số khổ
lụy đoạn trường. Đại nguyện đó sẽ làm sáng lên cái
chân lý Dị và Đồng. Dị biệt và Đồng nhất là những
con đường chia rẽ phân đôi; nhưng đạt tới công án hiểm
hóc của tử sinh, thì đã xóa tan chân lý Dị Đồng. Đó là
chỗ ta và người, tình và cảnh, đều trở thành tịch mặc
Không Không. Từ đó, nhà Thơ hẹn với nhà Thiền, mở ra cánh
cửa bắc, cất đầu nhìn lên 36 ngọn núi xanh kia.
Những
lời dài dòng lôi thôi trên đây quảng diễn từ những câu
thơ này của ông:
Vị
văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan Dĩ hỉ thiền tâm vô biệt ngữ Thương hiềm thế phát hữu thi ban Dị đồng mạc vấn nghi Tam ngữ Vật ngã chung đương phó Bát hoàn Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ. Cử đầu tam thập lục thanh sơn
為聞盧嶽多真隱
故 就 高人 斷 宿 攀 已喜禪無別語心 尚嫌沏髮有詩班 異同莫問疑三語 物我終當赴八還 到後與君開北戶 櫸頭三十六青山
(Nghe
nói trên Lô sơn có nhiều bậc chân ẩn. Vì vậy, tôi tìm
đến cao nhân để xin cắt đứt những vấn nhiều đời nhiều
kiếp. Tôi đã vui với cái lẽ rằng Tâm Thiền thì không có
ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng
còn ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi
thì, thiền đạo và thi ca là đồng hay là khác, cũng chớ
nên nghi ngờ mà tra hỏi. Hãy quên đi những sự phân biệt
Ta và Người. Cuối cùng, tôi với anh mở cánh cửa bắc, ngẩng
đầu nhìn lên ba mươi sáu ngọn núi xanh.)
Nói
như vậy, bằng lời lẽ như vậy; người ta gọi là bộc bạch,
là thổ lộ tâm tình. Ở đây cứ tạm nói chắc là tình thơ
và tình đạo, một cuộc giao tình để xẻ chiếc chiếu làm
hai. Còn ẩn tình nào sau đó, nó đã ẩn thì vĩnh viễn là
nó ẩn, không thể cưỡng bức để kéo nó ra.
Chỉ
thẳng không quanh co, gãy gọn và khúc chiết, bài thơ có chương
pháp như một bản tường trình. Những người đang ruổi ngựa
chạy như bay, đang đi giữa phố chợ ồn ào, vừa nghe một
lần là hiểu; và có thể diễn lại tràng giang đại hải,
như một bài thuyết trình của một nhà thạc học đúc kết
mười năm trời nghiên cứu sách vở. Nhà thơ bất chợt đến
nghe, ôm bụng cười. Ông sẽ về Hàn lâm viện thảo chiếu
đề nghị và quyết định bổ nhiệm, rồi sau đó, trở lại
Lô sơn, đẩy cánh cửa bắc, nhìn ra 36 ngọn thanh sơn. Nhưng
khi trở lại Hàn lâm viện, ông sẽ chứng kiến một cảnh
tượng hãi hùng: tên người được bổ nhiệm là Ông. Thì
người bộc bạch là nhà thơ, người đi quảng diễn là nhà
thơ; nhà thơ và nhà thơ, bóng dáng nhà thơ trùng trùng điệp
điệp, ẩn hiện giữa mây trắng và sương mù như đỉnh núi
Lô sơn. Vậy, đâu là chân diện mục của Lô sơn?
Cái
đó có thể là đề tài cho Trang Tử và Huệ Thi bàn cãi về
lẽ Đồng và Dị: "anh và con cá lội dưới ao là Đồng hay
Dị?" Họ bàn cãi nhau, từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Ông lại đứng ra làm trọng tài; làm một đại quan của triều
đình chứ không là một nhà thơ, vì lời lẽ khúc chiết:
Mạc
tương đồng dị giảo tri thù
. . . . . . . . . Nhược tín vạn thù qui nhất bản Ngã kim tri nhữ nhữ tri ngư
Ông
bảo họ đừng cãi nhau, chớ so đo về lẽ Dị Đồng nữa.
Vạn thù qui nhất bản, muôn vàn sai biệt cùng quy về một
gốc, cho nên, ông này biết ông kia, ông kia biết cá. Nếu
Huệ Thi mà có thể hiểu được Trang Tử, thì Trang Tử cũng
có thể hiểu được rằng đàn cá đang lội nhởn nhơ kia
là đang vui đấy.
Nhưng
kỳ cùng, ai dám bảo đó không là thơ? Đó cũng là một công
án hiểm hóc (của thiền sư Vô Trước trên Ngũ đài sơn):
Tiền tam tam hậu diệc tam tam, trước ba ba sau cũng ba ba, là
gì?
Nói
trắng ra, người ta muốn hỏi, chỗ sơn cùng lộ tuyệt nơi
thơ của Ông là gì? Hay nói gọn lại, thơ Đông Pha nói gì
trong đó? Ông nói những tình cố quận, sầu tha hương, những
mùa thu tóc trắng, những thanh xuân và mộng tưởng; Ông nói
những thứ vân vân đó ư? Thì quả nhiên, thơ Ông chỉ nói
vân vân như vậy. Nhưng khi nghe ra những khổ lụy kỳ cùng
trong đó, người ta tự hỏi, đồng vọng của một phương
trời đọa đày viễn mộng nào đây? Đọa đày tức viễn
mộng; viễn mộng tức đọa đày. Cái đó nó phơi trần lộ
liễu, nên một người thô lỗ vội vàng cũng có thể nhận
ra. Sau lớp mây trắng và sương mù, là Lô sơn, ai lại không
biết. Đã biết là như vậy; còn chân diện mục của Lô sơn
thì sao?
2.
Trong
những ngày tháng bị đày ải ở Hoàng châu; ngày thiếu cơm,
chiều thiếu gạo; (ông làm ruộng), trời nắng ruộng khô,
lúa mọc không nổi; (ông kêu trời), trời mưa thì xối xả,
nhà dột như mảng bè trôi. Ông làm một bài thơ dài gởi
cho bạn. Mấy câu đầu như sau:
Đông
Pha tiên sinh vô nhất tiền
Thập niên gia hỏa thiêu phàm duyên Hoàng kim khả thành hà khả tắc Chỉ hữu sương bính vô do huyền Long Khâu cư sĩ diệc khả liên Đàm Không thuyết Hữu dạ bất miên Hốt văn sư tử Hà đông hống Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
. .
. . .
東坡先生無一錢 十年家火燒凡緣 黃金可成河可塞 龍丘居士亦可憐 談空說有夜不眠 忽聞 獅子河東吼 拄杖落手心忙然
Đông
Pha tiên sinh không một tiền
Mười năm đèn lửa xin hai bên. Hoàng kim làm được, sông lấp được; Chỉ có tóc sương không chịu đen. Long Khâu cư sĩ cũng vô duyên. Bàn Không bàn Hữu thức suốt đêm. Bỗng nghe sư tử Hà đông rống; Hốt hoảng tâm thần rơi gậy thiền.
Bài
thơ làm gởi tặng Trần Quí Thường. Có lẽ trong số những
người bạn, Thường là người được ông mến chuộng và
kính phục nhất, về cốt cách cũng như về đời sống.
Trần
Tháo tự Quí Thường, hiệu Long Khâu cư sĩ; cũng được gọi
là Phương Sơn Tử. Đọc bản tiểu sử của Quí Thường do
ông viết cũng có thể thấy sự mến phục của ông như thế
nào. Bản tiểu sử được viết:
"Phương
Sơn Tử, người ẩn cư trong khoảng Quang Hoàng. Thiếu thời,
hâm mộ Chu Gia và Quách Giải. Bọn hào hiệp trong làng xóm
đều qui phụ theo. Hơi lớn, biết chiều lụy người, và đọc
sách; muốn lấy việc đó mà chen chân với đời. Nhưng rồi
không gặp thời. Đến tuổi xế, về ẩn lánh trong khoảng
Quang Hoàng, nơi chỗ gọi là Kỳ đình. Ở nhà tranh, ăn rau
trái, không giao thiệp với người đời. Bỏ xe ngựa, vứt
áo mão, đi bộ. (.....)
"Tôi
bị biếm trích ở Hoàng châu, qua Kỳ đình, thì thấy. Mới
kêu: ‘Hỡi ôi! Đó là cố nhân của tôi, Trần Tháo Quí Thường
đó. Sao lại ở đây?’ Phương Sơn Tử cũng kinh ngạc, hỏi
tôi tại sao đến đây. Tôi nói duyên cớ. Ông cúi đầu không
đáp; rồi ngửa lên trời mà cười. Gọi tôi ngủ lại nhà.
Tường vách xơ xác, nhưng vợ con trông chừng có vẻ thỏa
ý. Tôi giật mình lấy làm kinh ngạc.
"Tự
nghĩ, Phương Sơn Tử khi thiếu thời, ưa rượu và thích kiếm,
xài tiền như đất cát (....)
"Tôi
nghe nói trong khoảng Quang Hoàng có nhiều dị nhân, thường
thường giả bộ ngây dại, dơ bẩn, khó gặp được. Phương
Sơn Tử cũng trong hạng đó ư?"
Trong
cái được mến phục đã ẩn hiện một phần cốt cách và
cuộc đời của mình. Phần đó nằm ngoài ven trời viễn mộng.
Đông
Pha tiên sinh và Long Khâu cư sĩ, mỗi người ở mỗi ven trời,
cùng nhìn nhau qua một cõi mộng, và cũng mang những khổ lụy
hình hài như nhau. Khổ lụy của hình hài, mà lại khôi hài.
Đông Pha tiên sinh có tài làm ra vàng, có thể lấp được
sông, nhưng không thể làm cho tóc của mình đừng bạc trắng.
Long Khâu cư sĩ say sưa đạo lý thượng thừa, nhưng không
giữ nổi cây gậy của đạo đó trong tay, khi nghe tiếng sư
tử Hà Đông rống:
Hốt
văn sư tử Hà Đông hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên
Tâm
mang nhiên, tâm sững sờ ngơ ngác, là lúc sắp tỏ ngộ, sắp
hoát nhiên đại ngộ. Thế thì, là chuyện đùa hay chuyện
thật, mà chân tướng của nó, của cõi mộng đó, ra sao? Chân
diện mục của Lô Sơn không dễ gì khám phá.
Bất
thức Lô sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
(Không
biết được chân diện mục của Lô sơn, tại vì mình đang
ở trong đó, hay tại vì mình không ở trong đó?)
3.
Từ
thượng cổ, Lô sơn đã quyến rũ những người tiêu dao thế
ngoại. Tương truyền, trong buổi giao thời giữa nhà Thương
và nhà Chu, trên một nghìn năm trước Tây lịch, có người
tên Khuông Tục, trốn đời, hay lánh đời, đến ẩn dưới
núi, lập nhà tranh (lô) ở đó, và sau đắc đạo tiên. Vì
vậy, núi được gọi là Lô sơn, hoặc Khuông sơn.
Đời
Tam quốc, có đạo gia Đổng Phụng chân nhân đến tu tiên
và luyện đan tại đây. Bấy giờ Thái thú Giao chỉ là Sĩ
Nhiếp mất đã ba ngày; tiên ông cho một hoàn thuốc, cạy
răng đổ vào miệng, đổ nước vào, rồi nâng đầu lên cho
thuốc chạy xuống cổ. Trong khoảng bữa cơm, nhan sắc tươi
lại như thường. Một nửa ngày, đứng dậy, đi lại được.
Bốn ngày sau, nói năng như bình thường. Đến đời Đường,
có Từ Tri Chương làm bài ký cho miếu thờ của Chân nhân.
Đến thời Đông Pha, người ta vẫn còn đọc được bài ký
đó.
Thời
Đông Tấn, tăng Tuệ Viễn cất am tu ở đó, nơi sườn núi
bắc; phía dưới có khe Hổ khê, nơi Tuệ Viễn dừng chân
mỗi khi tiễn khách; và trọn đời thề không bước qua khe
đó. Sư cùng mười tám người bạn cùng ẩn cư tại chùa
Đông lâm, đời sau kính trọng, gọi họ là "Đông lâm thập
bát hiền".
Trải
qua nhiều đời, Lô sơn càng quyến rũ, từ đạo gia, tăng
lữ, công khanh, văn sĩ, thi sĩ, vân vân. Từ Tấn cho đến
Đường, Tống, đã có rất nhiều bài thơ lưu đề rất nổi
tiếng, từ Tạ Linh Vận, Bảo Chiêu cho đến Mạnh Hạo Nhiên,
Lý Bạch, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, vân vân….
Ơ
đây, xin trích một ít bài để thưởng thức cảnh trí Lô
sơn.
Thơ
của Mạnh Hạo Nhiên, buổi chiều thuyền đổ bến Tầm dương,
vọng về Lô sơn:
Quải
tịch kỷ thiên lý
Danh sơn đô vị phùng Bạc châu Tầm dương quách Thủy kiến Hương lô phong Thường độc Viễn Công truyện Vĩnh hoài trần ngoại tung Đông lâm tinh xá cận Nhật mộ đản văn chung
挂席幾千里
名山都未逢 泊舟尋暘郭 始見香盧夆 嘗讀遠公傳 永懷塵外蹤 東林精舍近 日暮但聞鐘
Lang
thang mấy vạn dặm;
Lô sơn vẫn tít mù. Bến Tầm dương thuyền đỗ, Chợt thấy đỉnh Hương lô. Từng đọc truyện Tuệ Viễn; Hoài mộ gót phiêu du. Chùa Đông lâm gần đó; Sớm tối nghe chuông đưa.
Từ
bến Tầm dương, nhìn lên thấy một ngọn trong dãy Lô sơn,
mây vần vũ như khói bốc từ lò hương, ngọn núi đó gọi
là Hương lô phong.
Lý
Bạch có đến sáu bài thơ về Lô sơn. Bài được truyền
tụng rất nhiều là "Lô sơn dao", bài ca từ Lô sơn: "Ta vốn
là người cuồng nước Sở, cuồng ca cười Không Khâu. Tay
cầm gậy lục ngọc, sớm từ Hoàng hạc lâu… đi tìm khắp
các núi non, vân vân…" Bài thơ đó dài quá, không tiện trích
ra ở đây.
Dãy
Lô sơn núi non trùng trùng, mây bay điệp điệp. Sông hồ in
bóng Lô sơn như từng chấm nốt ruồi xanh xanh trên mặt nước
trong xanh kiều diễm. Những thác nước từ chóp đỉnh cao
tuyệt mù đổ xuống, như giải Ngân hà treo chênh vênh bên
cầu Tam thạch. Từ giã sư tăng chùa Đông lâm, Lý Bạch lưu
đề bài thơ:
Đông
lâm tống khách xứ
Nguyệt xuất bạch viên đề Tiếu biệt Lô sơn Viễn Hà phiền quá Hổ khê
東林送客處
月出白猿啼 笑別 盧山遠 何煩過虎溪
Đường
Đông lâm tiễn khách
Vượn trắng gọi trăng ngàn Chào Lô sơn ở lại Khe Cọp cách hồng trần
Lô
sơn ba mặt là nước, một mặt đất liền. Trước mặt, phía
nam, là sông Trường giang đổ vào khúc Cửu giang. Phía tây
là bến Tầm dương, phía đông là bến Bành lãi. Núi có bảy
ngọn lớn chập chùng, chân núi chiếm một khoảng rộng chừng
năm trăm dặm. Cảnh trí hùng vĩ được ông ghi lại trong hai
bài thơ, vịnh hai nơi: đình Thấu ngọc chùa Khai tiên và cầu
Tam giáp chùa Thê hiền. Đại khái như sau:
Đình
Thấu ngọc, nói theo nghĩa đen của nó là đình "đánh răng".
Thác nước từ đỉnh cao chót vót đổ xuống, mà Lý Bạch
nói là trông giống như giải Ngân hà đổ xuống; thác đổ
đến phía đông chùa Khai tiên, chảy thành dòng suối; hai bên
đá nhấp nhô như những hàng răng ngọc, có lẽ vì thế mà
gọi là Thấu ngọc đình:
Cao
nham hạ xích nhật
Thâm cốc lai bi phong Phách khai thanh ngọc giáp Phi xuất lưỡng thanh long Loạn mạt tán như sương Tuyệt đàm dao thanh không Dư lưu hoạt vô thanh Khoái tả song thạch hồng vân vân…
高嵒下赤日
深谷來悲風 擘開青玉峽 飛出兩白龍 亂沫散如霜 餘流滑無聲 快瀉雙石洪
Sườn
cao tuôn nắng đỏ
Hang sâu động gió rầu Chẻ đôi mõm thanh ngọc Hai rồng bạc đổ ào Bọt nước bay sương trắng Đầm tuyết rung trời cao Dòng suối tuôn lặng lẽ Chảy xiết qua hang sâu ….
Rồi
đến cầu Tam giáp, phía đông chùa Thê hiền. Những tảng
đá qua hàng vạn năm thi đua kêu gào với những dòng nước
vỗ ầm như sấm sét. Cầu bắc ngang qua một khe nước sâu
hun hút không thấy đáy. Sóng cuốn những con cá trôi nổi
bập bềnh; tiếng sóng kinh hoàng cho đến vượn khỉ leo lên
cây cũng rụng rời rớt xuống đất. Hơi lạnh thấm vào sương
tủy của núi. Cỏ và cây cứng, và gầy. Giữa lớp mây mù
kéo qua các hốc trống, khua lên những âm thanh như tiếng nhạc
tấu lên từ những tiếng kim tiếng thạch. Chiếc cầu uốn
cong treo lơ lửng trên suối như mảnh trăng vòng cung…
Núi
non bên trong rầm rộ với những tiếng reo hò, gào thét như
thác nước, của gió ào ạt và mây vần vũ. Nhưng ở ngoài
xa, chỉ thấy chập chùng một dãy núi, ẩn hiện mơ hồ giữa
đám mây trắng và sương mù. Thế thì, đâu là chân diện
mục của Lô sơn?
4.
Trong
thời kỳ bị biếm trích ở Hoàng châu, ông mới có dịp lên
dạo Lô sơn. Ông nói, khi mới đến Lô sơn, thấy cảnh núi
non thanh kỳ tú lệ, quả là điều mơ ước được thấy từ
trước. Tăng và tục trong núi thấy ông, ai cũng nói: "Tô Tử
Chiêm đến rồi đó".
Ông
tự cho là mình có duyên rất đậm đà với Lô sơn. Trước
ngày ông đến, ngài viện chủ Viên thông thiền viện đã
được báo mộng; cho đến chiều hôm sau thì ông lên. Sư nói:
"Hôm qua nằm mộng thấy bửu cái bay xuống, chỗ đó liền
có lửa cháy sáng lên. Há không là điềm báo tốt đẹp cho
ngày hôm nay sao? " Ông cảm động, làm tặng ngài viện chủ
một bài thơ thất luật, có hai câu 5 và 6 như sau:
Tụ
lý bửu thơ do vị xuất
Mộng trung phi cái dĩ tiên truyền 袖裡蓍寶由未出
夢中飛蓋已先傳
Bửu
thơ trong tay áo chưa lôi ra, mà bửu cái từ trời đã bay xuống
báo mộng trước.
Ông
ghé lại đề thơ nơi sơn phòng của Lý Thường, tại Bạch
thạch tăng xá. Lý Thường, tự Công Trạch, vốn là bạn của
ông. Thường trước khi ra làm quan, đọc sách tại đây. sách
vở chất chứa hàng vạn quyển. Sau khi Thường ra làm quan,
chỗ đó được dọn thành thư viện, lấy tên là "Lý thị
sơn phòng". Ông có viết bài ký cho sơn phòng này. Ông lưu
đề tại đây một bài thơ tứ tuyệt:
Ngẫu
tầm lưu thủy thượng thôi ngôi
Ngũ lão thương nhan nhất tiếu khai Nhược kiến Trích tiên phiền ký ngữ Khuông sơn đầu bạch tảo qui lai
偶尋流水上崔嵬
五老蒼顏一笑開 若見謫仙煩記語 匡山頭白早歸來
Ông
nói, ngẫu hứng lần theo dòng suối mà lên đến chỗ cao chót
vót đó. Ngọn Ngũ lão, như năm ông lão da mồi, cùng nở nụ
cười chào đón. Nếu có gặp Trích tiên Lý Bạch, nhớ nhắn
hộ là bao giờ đầu tóc bạc trắng hãy trở về Khuông sơn,
tức Lô sơn. Ông nhắc đến Lý Bạch, có lẽ gợi hứng từ
bài thơ "Trông về ngọn Ngũ lão trên Lô sơn" của Lý Bạch
với lời hẹn trong hai câu thơ:
Cửu
giang tú sắc khả lãm kết
Ngô tương thử địa tỏa vân tùng
九江秀色可攬結
吾將此地鎖篔松
Lô
sơn với dòng Cửu giang thanh kỳ tú lệ, sẽ chọn nơi này
để khóa cửa tùng cao vút tận mây.
Đến
chùa Đông lâm, ông đề một bài tứ tuyệt lên vách, và kể
từ đó, Lô sơn trở thành một ẩn ngữ kỳ lạ cho thi ca:
Hoành
khan thành lãnh trắc thành phong
Viễn cận cao đê các bất đồng Bất thức Lô sơn chân diện mục Chỉ duyên thân tại thử sơn trung
橫看成嶺惻成峰
遠近膏低各不同 不識盧山真面目 只緣身在此山中
Lô
sơn, được nhìn ngang, nó như một dải núi dài; nhìn nghiêng,
lại thấy nó là một ngọn núi cao. Nhìn thấy gần, hay xa,
thấy núi cao hay núi thấp. Lô sơn ẩn hiện thiên hình vạn
trạng. Vậy thì, chân diện mục của Lô sơn làm sao mà biết
cho nổi? Cứ vào trong núi thì biết.
Một
bài thơ khác, được truyền tụng thịnh hành trong giới Thiền
tông, nói là của ông. Nhưng không rõ ông làm lúc nào. Trong
các tập thi văn của ông, không thấy có. Bài thơ nói khá
tinh tế về đạo Thiền, cũng khó biết rõ chân diện mục
như Lô sơn.
Lô
sơn yên tỏa Triết giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
盧山湮鎖浙江潮
未到生平 恨不逍 到得還來無別事 盧山湮鎖浙江潮
Bài
dịch thơ bằng tiếng Việt hay nhất (không nhớ dịch giả):
Mù
tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn. Đến rồi về lại không gì lạ. Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang.
Sách
Tục Truyền đăng lục chép:
"Dòng
thiền Huệ Năng, đời thứ 14, pháp tự của Đông Lâm Chiếu
Giác Thường Tổng thiền sư: Nội hàn Tô Thức cư sĩ.
"Nội
hàn, Đông Pha cư sĩ, Tô Thức, tự Tử Chiêm. Nhân ngủ đêm
tại chùa Đông lâm (trên Lô sơn), cùng với Chiếu Giác luận
về đề tài "vô tình", rồi tỉnh ngộ. Sáng ra, làm bài kệ
trình sư:
Khe
thanh tiện thị quảng trường thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ Tha nhật như hà cử tợ nhân
溪聲便是廣長舌
山色豈非清淨身 夜來八萬四千偈 他日如何舉似人
Suối
reo vẫn Pháp âm bất tuyệt
Màu non kia Chân thể Như lai Đêm đó tám vạn bốn nghìn kệ Ngày sau nói lại làm sao đây?
"Ít
lâu sau, đến Kinh nam. Nghe đồn thiền sư Ngọc Tuyền Thừa
Hạo, biện luận sắc bén đụng không nổi. Ông mới thay đổi
y phục, trá hình tìm đến xin ra mắt. Hạo hỏi:
" -
Tánh danh của tôn quan?
"Ông
đáp:
" -
Tôi tên Cân; tức là Cân hết thảy các cái Cân trưởng lão
trong thiên hạ.
"Hạo
hét lên một tiếng, rồi hỏi:
" -
Nặng bao nhiêu?
"Ông
không đáp được. Rồi từ đó khâm phục.
Về
sau, qua Kim sơn; ở đó có bức chân dung của ông. Ông đề
giỡn vào đó:
Tâm
tợ dĩ hôi chi mộc
Thân như bất hệ chi châu Vấn nhữ bình sinh hà nghiệp Hoàng châu Quỳnh châu Huệ châu
心似已灰之木
身如不繫之舟 問汝平生何業 黃州惠州瓊州
Tâm
như thanh củi tro tàn
Thân như thuyền lỏng theo ngàn nước trôi Hỏi ông công nghiệp một đời Hoàng châu, Quỳnh, Huệ, những ngày những năm.
…"
Hoàng
châu, Quỳnh châu, Huệ châu, vân vân châu; những đoạn đường
đày ải; những ngày tháng đoạn trường. Cuộc đời ông
như một con thuyền buông lỏng, thả trôi cho nước cuốn.
Nhưng cuộc thơ của ông thì sao: khổ lụy? Phiêu bồng? Đọa
đày? Viễn mộng? Đâu là chân tướng, chân thể, chân tâm?
Chân diện mục của Lô sơn, không phải là dễ thấy.
Ông
bị biếm trích ở Hoàng châu, rồi sau qua Thường châu; 51
tuổi, được ân xá, chiếu hồi về triều. Cuộc đời ông
bây giờ sẽ bắt đầu một đoạn đường danh vọng gần
mức tột cùng. Sau năm năm trường đày ải, trên đường
trở về triều, ngang qua Tiền đường, ông gặp Dương Kiệt.
Dương Kiệt, tự Thứ Công, hiệu Vô Vi cư sĩ, bấy giờ đang
làm quan ở bộ Lễ, Kiệt vâng mạng triều đình hộ tống
vương tử Triều tiên, đạo hiệu Nghĩa Thiên tăng thống,
đi du lãm các danh thắng vùng đất Giang nam. Ông làm bài tiễn
Dương Kiệt và tự viết lời dẫn cho bài thơ:
"Vô
Vi cư sĩ đã có lần phụng sứ lên Thái sơn tuyệt đỉnh,
được thấy mặt trời lúc gà bắt gáy nửa đêm. Lại đã
có lần hữu sự ngang qua Hoa sơn, ngày trùng cửu (ngày lễ
hoa cúc, mồng 9-9), uống rượu trên ngọn Liên hoa phong. Nay
ông lại phụng chiếu cùng Tăng thống Cao ly sang chơi Tiền
đường. Tất cả đều là do vương sự mà lại được cái
vui thế ngoại. Quả là kỳ diệu, chưa từng có."
Lời
dẫn hé cho thấy một góc trời trong cõi thi ca của ông; một
góc cạnh nào đó của Lô sơn chân diện mục. Cuộc chơi trong
cõi mộng của thi ca còn có phong độ phiêu bồng của những
cuộc giao tình phương ngoại; cuộc giao tình với ngoài kia
những phương trời diệu vợi. Lô sơn hùng vĩ, phiêu bồng,
nhưng u ẩn. Lòng núi dấu kín những tâm sự nghìn năm không
nói; lòng núi ủ kín những cuộc đời trầm mặc; những thân
thể khô gầy như hạc như trúc, những tâm hồn nguội lạnh
như tro tàn mùa đông. Núi âm thầm, cho gió ngàn gào thét,
cho mây trời vần vũ, và những dòng thác từ trên tuyệt đỉnh
cao mù đổ ào xuống. Lô sơn đồng vọng một cõi thi ca bát
ngát. Cõi thi ca trùng trùng điệp điệp những ẩn ngữ kỳ
diệu. Khách phàm trần bươn bả, thuyền đỗ bến Bành lãi
hay Tầm Dương, chỉ thấy đó là một cõi đẹp của khói
mờ sương phủ; chỉ thấy đó là một bầu trời trong chiều
tà rồi nắng quái, trong nắng quái rồi chiều tà. Làm sao
thấy và nghe những tình tự u trầm trong đó? Hoặc u trầm,
hoặc cuồng nộ, Lô sơn có thiên hình vạn trạng. Những chiếc
nón hoàng quan của đạo sĩ, những chiếc áo phá nạp của
thiền tăng; đầu này vẳng tiếng Huỳnh đình, đầu kia dội
tiếng chuông triêu mộ. Những hình bóng và những âm hưởng
đó, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, bên dòng lịch sử
trường mộng của nhân sinh đổ ầm xuống; có những cuộc
thi gan tuế nguyệt diễn ra trong lạnh lùng, cô tịch. Ngày
và đêm, đày đọa hình hài và tâm trí, đứng trơ vơ, kinh
đảm hãi hùng, trên chiếc cầu độc mộc, bắc ngang qua ghềnh
sinh tử. Phương ngoại là cõi của ngày tháng phiêu bồng,
có trăng thanh gió mát, có nắng quái tà dương, có xuân lan
thu cúc, có đủ tất cả mọi thứ thanh nhàn, tiêu sái, phóng
dật… mà người đời mong ước. Nhưng đó chỉ là Lô sơn
từ bến Tầm dương nhìn lại, hay từ bến Bành lãi trông
sang. Xa hay gần, cao hay thấp, Lô sơn đẹp trong thiên hình
vạn trạng. Giữa lòng Lô sơn, ngày tháng u trầm trôi qua trong
một phương trời đọa đày viễn mộng. Phải chăng đây đã
là nơi sơn cùng thủy tận của một cõi thi ca bát ngát?
Từ
khi bước ngang qua:
Một vùng cỏ mọc xanh rì Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
(Kiều)
Và
từ đó đã bước ngay vào một trường thiên lịch sử đọa
đày, khổ lụy:
Mối
tình đòi đoạn vò tơ
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài Song sa vò võ phương trời Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
(Kiều)
Tình
cố quận, tình tha hương, trong những ngày lưu lạc, và chân
trời phương ngoại cho những ngày tháng tiêu dao, hồn thơ
bay cao vút đến mấy vạn trời mây, vẫn còn đồng vọng
Lô sơn; một chiếc cầu độc mộc cheo leo, bắc ngang qua bên
này và bên kia, hai bên bờ của một cõi sống và chết, mà
bên dưới là vực thẳm tuyệt mù, dội lên những ẩn ngữ
kỳ lạ của dòng lịch sử kinh hoàng, trôi ào ạt trong cái
lặng lẽo vô thanh vô tức. Ẩnn ngữ cùng tuyệt của thi ca
đồng vọng từ đó, hay từ đâu? Lô sơn đẹp trong thiên
hình vạn trạng, và chân diện mục của Lô sơn ra sao?
Ông
viết về Sâm Liêu Tử, một người bạn trong mối giao tình
thi ca, và trong cuộc giao tình phương ngoại:
"Đông
Pha cư sĩ nói: Thưa! Sâm Liêu Tử, có cái thân lạnh mà đạo
giàu. Văn thì rành rõi mà nói năng chậm chạp. Bên ngoài mềm
nhũn mà bên trong cứng cỏi. Đối với người thì không ganh
đua mà đối với cái quấy của bạn bè thì hay châm chọc.
Hình khô tâm tro lạnh mà thích nói lời cảm khái với thời,
thưởng ngoạn với vật, và không thể vong tình. Đó là chỗ
mà tôi gọi là Sâm Liêu Tử có năm điều không thể hiểu."
Xưa
kia, Lý Bạch cũng có một người bạn tên Sâm Liêu Tử. Đông
Pha cũng có một ngưòi bạn như vậy. Sâm Liêu Tử của Đông
Pha là biệt hiệu của tăng Đạo Tiềm, một sư tăng tu ở
Tiền đường. Đạo Tiềm rất thích thơ. Trước khi Đông
pha đáo nhiệm Tiền đường hai người đã biết nhau, qua giấc
mộng. Nên khi tới Tiền đường, Đông Pha liền đi tìm gặp
ngay Đạo Tiềm, rồi viết Ứng mộng ký (?). Hai người qua
lại và làm thơ với nhau. Thơ của họ được khắc nhiều
nơi các vách đá trong vùng Giang Triết.
Năm
Nguyên hựu thứ 6 (1091), từ Tiền đường, ông được lịnh
gọi trở về triều, ông để lại bài từ, theo điệu "Bát
thanh cam châu", tặng Sâm Liêu Tử:
Hữu
tình phong vạn lý quyển triều lai,
Vô tình tống triều qui. Vấn Tiền đường giang thượng, Tây hưng phố khẩu Kỷ độ tà huy. Bất dụng tư lương kim cổ, Phủ ngưỡng tích nhân phi, Thùy tợ Đông Pha lão, Bạch thủ vong ky. Ký thủ Tây hồ tây bạn, Chánh xuân sơn hảo xứ Không thúy yên phi Toán thi nhân tương đắc, Như ngã dữ quân hi. Ước tha niên đông hoàn hải đạo, Nguyện Tạ công nhã ý mạc tương vi. Tây châu lộ, Bất ưng hồi thủ, Vị ngã triêm y.
有情風萬里卷潮來,
無情送潮歸。 問錢塘江上, 西興浦口, 幾度斜暉? 不用思量今古, 俯仰昔人非。 誰似東坡老: 白首忘機。
記取西湖西畔,
正春山好處, 空翠煙霏。 算詩人相得, 如我與君稀。 約它年東還海道, 願謝公雅志莫相違。 西州路, 不應回首, 為我沾衣
Hữu
tình thì ngọn gió từ một vạn dặm cuộn sóng tới. Vô tình
thì đưa con sóng trở về. Thử hỏi, trên sông Tiền đường,
và phố khẩu Tây hưng, qua mấy độ tà huy? Không kể gì kim
hay cổ; cúi và ngước, thấy người xưa đã khác. Xem chừng
lão Đông Pha, đầu bạc dửng dưng đời.
Nhớ
lấy cảnh bờ tây của Tây hồ, sắc xuân lồng lộng, trời
xanh thăm thẳm, khói mưa mù. Người thơ tương đắc, như tôi
với Ngài, phỏng được bao nhiêu? Hẹn sang năm, vượt bỏ
dặm ngàn trở lại đây, giữ mãi tấm lòng hoài vọng không
bao giờ thôi. Đường Tây châu, đừng có quay đầu, vì tôi
mà đẫm áo.
Đó
là cuộc giao tình tương đắc của những người bạn thơ.
Ngoài cuộc đó, còn là cuộc giao tình phương ngoại. Phương
ngoại du, là cuộc chơi của những mặt công hầu rám nắng,
trong một thuở tạm thời rửa mặt đi bàn chuyện Không hư,
bàn cái Không và cái Hữu của tử sinh trường mộng. Thì
ở đó, một tấm lòng thơ đã mở ra bao trùm cả hai cõi.
Lời thơ sẽ lai láng cho tình thơ nồng nàn. Lời thơ sẽ điềm
đạm cho trời thơ nghiêm nghị. Lời thơ sẽ phiêu bồng cho
trời thơ lãng đãng. Lời thơ sẽ ngậm ngùi cho trời thơ
cô tịch. Lời thơ sẽ cay đắng cho trời thơ đày đọa. Lời
thơ vần vũ, và trời thơ trùng trùng điệp điệp bao la. Làm
sao để mở rộng tấm lòng của mình cho thành tấm lòng của
trời thơ lồng lộng, nhìn thẳng vào chân diện mục của
Lô sơn, ba mươi sáu ngọn núi xanh cao ngất?
Thơ
ông tiễn Đạo Tiềm nói:
Thượng
nhân học Khổ Không
Bách niệm dĩ hôi lãnh Kiếm đầu duy nhất quyết Tiều cốc vô tân dĩnh Hồ vi trục ngã bối Văn tự tranh ủy bính Tân thi như ngọc tiết Xuất ngữ tiện thanh kỉnh Thối Chi luận thảo thơ Vạn sự vị tường bính Ưu sầu bất bình khí Nhất ngụ bút sở sính Phả quái Phù đồ nhân Thị thân như khâu tỉnh Đồi nhiên ký đạm bạc Thùy dữ phát hào mãnh Tế tư nãi bất nhiên Chân xảo phi ảo ảnh Dục linh thi ngữ diệu Vô áp Không thả Tĩnh Tĩnh cố liễu quần động Không cố nạp vạn cảnh Duyệt thế tẩu nhân gian Quán thân ngọa vân lĩnh Hàm toan tạp chúng hảo Trung hữu chí vị vĩnh Thi Pháp bất tương phương Thử ngữ đương cánh thỉnh 上人学苦空,
百念已灰冷。
剑头唯一吷, 焦谷无新颖。 胡为逐吾辈, 文字争蔚炳? 新诗如玉屑, 出语便清警。 退之论草书, 万事未尝屏。 忧愁不平气, 一寓笔所骋。 颇怪浮屠人, 视身如丘井。 颓然寄淡泊, 谁与发豪猛? 细思乃不然, 真巧非幻影。 欲令诗语妙, 无厌空且静。 静故了群动, 空故纳万境。 阅世走人间, 观身卧云岭。 成酸杂众好, 中有至味永。 诗法不相妨, 此语当更请。
Đó
là một bài thơ, hay một bài văn luận về phép làm thơ, gọi
nó là thế nào cũng được. Lô sơn có thiên hình vạn trạng,
nhìn ngang hay nhìn dọc, tùy. Ông nói, đại khái như thế này:
Thượng
nhân học về cái lẽ Khổ Không; một trăm thứ niệm tưởng
đã thành tro lạnh hết. Cũng tợ thể vung lưỡi kiếm một
cái là y như gió thổi chẻ hạt thóc lép, không còn chút bụi
cám. Tại sao ngài lại phải chạy theo bọn tôi, tranh đua cái
vẻ rực rỡ của văn tự? Bài thơ bọn tôi mới làm, nó đẹp
như tán vụn viên ngọc lóng lánh; lời thơ vừa ra là đã
trong veo kỳ lạ. Hàn Thối Chi (Hàn Dũ), luận cách viết chữ
thảo, mà chưa hề bỏ bê mọi việc. Cái u sầu, cái khí bất
bình, nội một nét bút là hàm tất cả.
Lạ
thay, những người đi tu Phật, coi thân này như là gò, như
là giếng, chật hẹp và tù túng, nên chịu cảnh đạm bạc
trơ vơ, thì đi bộc bạch cái hào, cái mãnh với ai?
Tuy
nhiên, suy nghĩ kỹ thì không phải thế. Cái ảo diệu không
phải là cái ảo ảnh. Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì
phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa Tĩnh. Tĩnh cho nên
thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh.
Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như
nằm trên chóp đỉnh mây cao. Đủ hết các thứ mặn nồng,
chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời.
Thơ
và Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. Cái đó
lại nhờ Thượng nhân hạ quyết.
Nhờ
hạ quyết? Không nhờ, cũng đã quyết. Người học Thiền,
học từ cái khổ đau, hư ảo; học cho thân tâm ra là thứ
tro tàn nguội lạnh. Học như thế là học để mà đoạ đày.
Sở đạt của sở học đó, là buông thả, hóa thành cái Không
và trở thành cái Tĩnh. Buông thả, thì không câu chấp, không
còn bị ràng buộc. Cũng tiêu dao như hồn thơ thoát sái và
lãng mạn. Tâm Tĩnh, thì trầm lặng như mặt nước không gợn
sóng, phản chiếu trọn vẹn ngoại cảnh. Tâm Không, thì Tâm
rộng như mặt biển bao la, dung nạp tất cả ngân hà tinh đẩu.
Người học Thiền chịu đọa đày cho thân mình gầy, cho tâm
mình nguội, trong đó có cái diệu dụng phi thường của nó.
Người làm thơ, cuộc đời bị đày ải truân chuyên, trong
đó cũng có cái ảo diệu của vị chua, vị mặn. Suốt đời
học Thiền; suốt đời vẫn đày đọa thân tâm; đày đọa
trong cái Không và cái Tĩnh. Đày đoạ đó, mà kỳ thực không
là đày đọa. Cũng vậy, suốt đời làm thơ, thì suốt đời
khổ lụy lao đao; nhưng không là khổ lụy lao đao. Chỗ ảo
diệu đó, chưa đạt đến cõi thượng thừa của thi ca, làm
sao hiểu nổi?
Nhưng,
ai nói người học Thiền phải chịu đày đọa thân tâm? Họ
nhàn hạ, họ thong dong, họ tiêu sái; họ lãng đãng như Lô
sơn thấp thoáng giữa mây trắng và sương mù. Tuy nhiên như
thế, nhưng ai quyết rằng tâm hồn đó trầm mặc như nước
hồ không dao động? Giữa lòng Lô sơn, giải Ngân hà trên
bầu trời cô tịch không ngừng đổ xuống ầm ầm như sấm
sét.
Thi
sĩ và Thiền sư cùng lao đao, và cùng tiêu sái, trong cùng một
cõi trầm mặc phiêu bồng, vừa Không vừa Tĩnh. Ngọc đường
kim mã hay Giang bắc Giang nam; hay lão thần cô quạnh nơi Hoàng
châu, Huệ châu... , đày ải hay không đày ải, hồn thơ vẫn
điềm đạm bao la trong thơ huy hoàng bát ngát.
Thế
thì, cái chỗ đọa đày viễn mộng nghe chừng như là phải
kinh hoàng táng đảm, nó làm cho đất liền cũng trở thành
sa mạc, với nóng cháy và với gió rét kinh hồn. Thế mà lại
khác hẳn. Đó là cái Không Không và Tĩnh Tĩnh, cõi của mây
trời trên đỉnh núi. Khách phàm trần chưa bước tới nổi,
nên cứ tưởng là nơi khổ lụy tột cùng, hoặc huy hoàng
tráng lệ. Cả hai, vừa phải vừa không phải. Lô sơn có thiên
hình vạn trạng. Cõi thơ có trùng trùng ẩn ngữ.
Đạt
tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng
chỗ Không tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học
Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa thân tâm, mà không
thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi,
cõi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo
diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên, không thể nào lấy
tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục
của nó. Nói được một cách dễ dãi, hay không dễ dãi, như
thế chẳng khác nào đàn bà con nít cũng biết giảng chỗ
ảo diệu của Ngộ Thiền. Ông viết trong bài bạt của khắc
kinh Lăng già như thế này:
"…
Chỉ lấy theo chỗ giản tiện; được một câu kinh, một bài
kệ, tự cho là liễu chứng. Cho đến cả bọn đàn bà, con
nít, dong tay cười giỡn, đua nhau bàn bạc hương vị Thiền.
Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu
đó không đâu không chảy tới. mà cái vi diệu của Phật
Pháp đã mất rồi. Chẳng khác nào thầy lang quê mùa… (may
mà chữa lành bịnh nhẹ)…"
Đại
khái, nơi cõi Thiền cũng có cái khó phân biệt Chân và Ngụy.
Cõi thơ há lại không? Nhưng chỉ thẳng vào chỗ đó, không
thể được. Nó không phải là chỗ dị đồng giữa con chó
và con cọp, hay giữa cọp thực và cọp giấy.
Quả
nhiên, điều thấy rõ là ông đã giảng giải thế nào là
Thơ, và thế nào là Thiền. Và cũng thấy rõ là trong đó có
chỗ đồng và chỗ dị. Nhưng chỉ thẳng vào những chỗ đó,
thiên nan vạn nan.
Có
thể đọc lại bài thơ ông tặng Đạo Tiềm, đã dẫn ở
trên kia. Bài thơ:
Vị
văn Lô nhạc đa chân ẩn
Cố tựu cao nhân đoạn túc phan Dĩ hỉ Thiền Tâm vô biệt ngữ Thượng hiềm thế phát hữu thi ban Dị đồng mạc vấn nghi tam ngữ Vật ngã chung đương phó bát hoàn Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ Cử đầu tam thập lục thanh sơn.
Tống
Triết tông, năm đầu niên hiệu nguyên hựu (1086), vương tử
Cao li, Tăng thống Nghĩa Thiên, sang thăm Trung Hoa, tìm hiểu
Phật giáo Hoa Nghiêm tông. Vua sắc chỉ Đông kinh Giác nghiêm
Thành thiền sư ứng đối. Thành đề cử sư Tịnh Nguyên ở
Tiền Đường, thay thế mình. Vua mới lịnh cho Dương Kiệt
hộ tống Nghĩa Thiên tăng thống đến Tiền đường. Các tự
viện làm lễ đón và đưa rất rầm rộ.
Khi
Nghĩa Thiên mới đến Kinh sư, vua sắc Lễ bộ Tô Thức tiếp
đón. Rồi đến yết Viên chiếu. Bản thiền sư, thảo luận
về tông chỉ Phật Pháp. Sau đó, đến Kim Sơn. Ở đó, Phật
Ấn ngồi mà đón và nhận lễ cúng nạp. Dương Kiệt kinh
ngạc hỏi. Phật Ấn đáp: Nghĩa Thiên là tăng nước ngoài,
nhưng luật của người xuất gia không phân biệt biên vức
quốc gia, do đó, không vì Nghĩa Thiên đến với tư cách một
vương tử ngoại quốc, được triều đình đãi như một thượng
khách, mà sư phải theo cách tiếp đãi của triều đình. Triết
tông biết việc đó, rất khâm phục thái độ của Phật Ấn.
Về sau, vua mang chiếc áo nạp do Cao li tiến cống tặng cho
Phật Ấn. Đông Pha viết bài nạp tán:
"TỰA:
"Trưởng
lão Phật Ấn đại sư Liễu Nguyên, dạo chơi Kinh sư. Thiên
tử nghe danh sư, đem chiếc áo Ma nạp do nước Cao lệ cống
hiến ban cho sư.
"Khách
có người thấy, khen rằng: Hỡi ôi! Đẹp thay! Chưa từng
thấy vậy. tôi và con tôi đã thử nắm vạt nó trải ra, theo
cái chéo nó trương lên mà tung ra; từ phía đông tận đất
Ngung di, phía tây tới Muội cốc, phía Nam Giao chỉ, phía bắc
U đô, tất cả đều nằm trong lỗ kim khe chỉ của tôi cả.
"Phật
Ấn cười hô hố, nói: Ăn thua gì! Cái ông nói còn quê mùa
lắm. Tôi lấy con mắt Pháp mà nhìn nó, thấy trong mỗi lỗ
kim có vô lượng thế giới. Rồi trong mỗi thế giới đó,
có bao nhiêu chúng sinh, mà mỗi lỗ kim khe chỉ của mỗi chiếc
áo chúng mặc đều là thế giới. Cứ lần lượt như thế
cho đến tám mươi lần, mà quang minh của Phật tôi đều rọi
tới, cùng với Thánh đức của Quân thượng tôi bao trùm như
đem biển cả mà đổ vào một lỗ chân lông, như để cõi
đất mà lấp một lỗ kim. Thì những Ngung di, Muội cốc, Giao
chỉ, U đô, có gì đáng nói. Nên biết rằng, chiếc áo nạp
đó không phải lớn, không phải nhỏ, không phải vắn, không
phải dài, không phải nặng không phải nhẹ, không phải mỏng,
không phải dày, không phải Sắc không phải Không. Hết thảy
thế gian chịu lạnh đến nứt da, rụng ngón mà áo nạp đó
không lạnh; nóng đến độ đá tan, vàng chảy mà áo nạp
đó không nóng; năm thứ dơ bẩn lai láng của thế gian không
làm nó bợn; lửa kiếp tận hừng hực đốt rụi thế gian
mà áo nạp đó không hoại. Sao lại có tâm tư duy sinh ra nghĩa
tưởng hèn kém?
"Nhân
đó, người đất Thục là Tô Thức nghe vậy mới làm bài
tán rằng:
Xếp
lại mà cất
Thấy nạp không thấy sư Mặc mà không xếp Thấy sư không thấy nạp Chỉ sư với nạp Phi một phi hai Chột mắt mà nhìn Rận rệp rồng voi.
…"
Phật
Ấn Liễu Nguyên, hiệu Giác Lão. Lúc Đông Pha bị biếm trích
ở Hoàng châu, thì sư trụ ở chùa Qui tông, Lô sơn. Hoàng
châu và Qui tông đối ngạn, nên ông và sư thường hay qua
lại giao thiệp, trao đổi làm thơ, đi ngoạn cảnh.
Sau
sư dời sang ở chùa Kim sơn. Một hôm, ông đến thăm vào lúc
sư đang giảng kinh cho tăng trong chùa. Họ đứng hai hàng để
nghe. Ông đến, sư nói: "Nơi đây không có giường ghế. Cư
sĩ đến, biết ngồi đâu bây giờ?" Ông bảo: "Vậy thì muợn
đỡ tứ đại của Phật Ấn làm giường ngồi." Nghĩa là,
ông mượn cái thân tứ đại của Phật Ấn làm giường ngồi.
Phật Ấn nói: "Sơn tăng này có một câu hỏi, nếu thí chủ
đáp được, sẽ theo lời cho mượn thân tứ đại này làm
giường ngồi. Nếu không, xin để lại sợi ngọc đái làm
vật trấn sơn môn." Ngọc đái là giải dây buộc ngang lưng
của bậc thượng lưu thời đó, được đem ra đánh cuộc,
để làm bửu vật trấn giữ cửa chùa. Ông liền cởi ngay
giải dây đặt lên bàn. Sư hỏi: "Tứ đại giai không, ngũ
uẩn phi hữu. Cư sĩ muốn ngồi vào đâu? " Ông ngẫm nghĩ,
chưa kịp trả lời, thì sư đã gọi gấp thị giả mang sợi
đái đi cất, để làm vật trấn sơn môn. Ông làm ngay hai
bài thơ tặng sư (trích một bài đọc chơi):
Bịnh
cốt nan kham ngọc đái vi
Độn căn nhưng lạc tiễn phong ki Dục giao khất thực ca cơ viện Cố dữ sơn vân cựu nạp y.
病骨難堪玉帶圍,
鈍根仍落箭鋒機。 欲教乞食歌姬院, 故與雲山舊衲衣
Xương
gầy giải ngọc buộc sao vô?
Hồ đồ thấp trí chịu thua cơ. Những mong kiếm chác trò con hát; Nay để làm duyên với cửa chùa.
Chuyện
đó trở thành cái giai thoại mà người ta truyền tụng là
"Ngọc đái trấn sơn môn" rất thịnh hành.
Năm
ông 49 tuổi. Kể từ khi bị biếm trích ra Hoàng châu đến
bây giờ, là đã hơn bốn năm. Tháng 4 năm đó, Giáp tý (1084),
ông được lệnh phải dời sang ở Nhữ châu. Trên đường
đi Nhữ châu, ông gặp Tử Do ở Quân châu. Lúc này, Tử Do
ở Quân châu; sư Vân Am ở chùa Động sơn; Thông thiền sư,
người đất Thục, ngụ tại chùa Thọ thánh. Tối đó, cả
ba người cùng thấy một giấc mộng giống nhau. Họ thấy
đi đón Ngũ Tổ Sư Giới hòa thượng. Sư Giới là một thiền
sư đời thứ 9 của dòng thiền Huệ Năng. Cả ba cùng vỗ
tay cười lớn: "Thế gian quả có chuyện đồng mộng, lạ
thay!" Ít lâu, thư của ông đến báo tin là ông đã tới Phụng
tân, sẽ gặp nhau trong sớm tối. Ba người cùng ra ngoài 20
dặm chùa Kiến sơ thì gặp ông. Mỗi người lần lượt kể
giấc mộng của mình. Oâng mới nói: "Tôi hồi 7, 8 tuổi, có
lần nằm mộng thấy mình làm tăng, qua lại bên Thiểm hữu."
Sư Vân Am cả kinh, nói: "Sư Giới là người ở Thiểm hữu.
Tuổi về già, bỏ chùa Ngũ tổ đến dạo ở Cao an, sau mất
tại chùa Đại ngu. Tính ngược lại, đã đúng 50 năm." Bấy
giờ ông 49 tuổi. Vậy, đại khái, đời trước ông là thiền
sư Ngữ tổ Sư Giới. Nhưng nghe nói Sư Giới đã tỏ ngộ
đạo thiền, đã đắc đạo, sao thác sinh ra ông lại phải
trải qua một kiếp lao đao đày ải như thế?
Ông
bị đày xuống Quảng đông, rồi Hải nam, từ năm 59 tuổi
, cho đến 66 tuổi thì được tha về.
Trong
thời gian này, ông quen thân với sư Trùng Biện. Ông viết
dật sự của sư Trùng Biện, tức Nam Hoa trưởng lão.
"Thiền
sư Khế Tung thường sân; người ta chưa từng thấy sư cười.
Sư Hải Nguyệt Biện thường vui, người ta chưa từng thấy
sư giận. Tôi ở Tiền đường, chính mắt thấy hai vị đó
đều ngồi kiết già mà hóa (chết). Khế Tung đã trà tì (thiêu
xác), mà lửa không hủy hoại. Thêm củi cho lửa đỏ đến
năm lần mới thôi. Hải Nguyệt đến khi táng mà gương mặt
vẫn tươi như còn sống, lại còn cười nụ.
"Thế
mới biết, hai người lấy cái sân và cái hỉ mà làm Phật
sự vậy.
"Người
đời coi thân hình như vàng ngọc, không để cho gót chân dính
bụi. Bậc Chí nhân thì ngược lại. Tôi lấy đó mà biết
rằng, hết thảy các Pháp đều do ái mà hoại; do xả mà thường.
Há không phải vậy sao?
‘Tôi
từ Hải nam trở về, thì Trùng Biện tịch đã lâu. Qua Nam
hoa điếu. Hỏi chúng tăng ở đó về chỗ mộ tháp của Sư.
Họ bảo: "Thầy tôi xưa đã có làm thọ tháp, về phía đông
Nam hoa vài dặm. Có người không ưa thầy, nên táng ở mộ
khác. Đã hơn bảy trăm ngày rồi. Nay Trưởng lão Minh Công
ra sức một mình, dời về thọ tháp. Thay quan, đổi áo, thấy
trọn cả thân thể vẫn như đang còn sống; áo vẫn tươi
và thơm. Mọi người hỗ thẹn và kỉnh phục."
"Đông
Pha cư sĩ nói: Trùng Biện coi thân là vật gì? Vứt nó vào
rừng Thi đà để nuôi chim, nuôi quạ, đâu có sự để ở
thọ tháp cho an ổn. Vì là, Minh công là người biết rõ Trùng
Biện, nên đặc biệt muốn lấy sự họa phúc đồng dị mà
thôi.
"Tôi
mới đem trà, quả đến cúng ở tháp sư, rồi viết lại sự
việc đó để gởi cho thượng túc đệ tử của sư là sư
Khả Hưng. Nam hoa tháp chủ.
"Bấy
giờ, niên hiệu Nguyên phù thứ 3 (1100), tháng 12, ngày 19."
Độ
nửa tháng sau, ông viết bài "Nam hoa trưởng lão đề danh ký"
"Học
giả lấy sự thành Phật làm khó ư? Con nít vọc đất, vẽ
cát mà giỡn thôi, cũng đủ thành Phật; lấy đó mà cho là
dễ ư?
"Những
bậc đã được thọ ký, đã đắc đạo, như các vị Bồ
tát và các Đại đệ tử (của Phật Thích Ca) mà còn không
dám đi thăm bịnh (cư sĩ Duy-ma-cật); cái nghĩa đó là thế
nào?
"Lúc
đang mê loạn điên đảo, trôi lăn trong biển khổ, mà vừa
có một niệm Chân thành, thì vạn pháp đều có đủ cả.
Còn như, cần khổ dụng công, như đắp núi đã cao đến chín
bậc, sau chỉ vì một chút sai sẩy cỏn con mà một nghìn đời
không phục lại nổi.
"Hỡi
ôi, Đạo vốn là như vậy đó!
"Nhưng
riêng gì Phật thôi ư? Thầy Tử Tư có nói: "Hạng phàm phu
phụ không ra gì cũng có thể hành (đạo) được; còn như
chỗ tột cùng, thì dù là Thánh nhân cũng có chỗ chưa đủ
sức." Mạnh Tử thì cho rằng Đạo của Thánh nhân bắt đầu
ở chỗ không làm việc trèo tường khoét vách mà cái ác của
việc trèo tường khoét vách đã hiện ở lời nói. Không nói
người chưa có ý muốn làm việc trèo tường khoét vách, thì
dù có việc trèo tường khoét vách cũng không muốn. Từ cái
tâm mình không muốn làm mà đi cầu nó (đạo), thì việc trèo
tường khoét vách đã đủ để làm Thánh nhân rồi.
"Đáng
nói mà không nói. Không đáng nói mà lại nói: những điều
như vậy, dù là Hiền nhân, Quân tử cũng không thể tránh
khỏi. Nhân từ cái lỗi không thể tránh mà tiến tới, dù
là Hiền nhân Quân tử cũng có lúc phải đi ăn trộm.
"Đó
là hai Pháp ngược nhau, nhưng lạm dụng lẫn nhau. Nho và Thích
cũng như nhau ở chỗ đó.
"Nam
Hoa trưởng lão Minh Công, trước kia theo cái học của Tử
Tư, Mạnh tử. Sau bỏ nhà theo Phật. Người không biết, cho
là trốn Nho theo Phật, chứ không biết Sư vẫn còn Nho.
"Chùa
Nam hoa này, từ Ngài Lục tổ Đại Giám (Huệ Năng) thị diệt,
những người truyền Pháp đắc đạo đều phân tán tứ phương,
cho nên Nam hoa lâu nay là chùa Luật (tông).
"Đến
đời Tống ta, trong niên hiệu Thiên hi thứ 3 (1019) mới bắt
đầu có chiếu cử Tri Độ thiền sư Phổ Toại làm trụ trì.
Cho đến sư Minh Công bây giờ, đã được 11 đời.
"Minh
Công nói với Đông Pha cư sĩ: "Tể quan hành pháp thế gian.
Sa môn hành pháp xuất thế gian. Thế gian tức xuất thế gian,
như nhau không khác. Nay các tể quan truyền nhau đều có đề
danh ghi lên vách; chỉ riêng sa môn là không có. Vả lại, đạo
tràng tôi ở đây, sửa sang chỗ Phật Tổ thì được, nhưng
sự truyền không nghiêm. Nhờ thầy viết hộ tôi bài ký.
"Cư
sĩ thưa: Vâng.
"Rồi
luận Nho và Thích không gặp nhau nhưng đồng nhau, lấy đó
làm bài ký này.
"Năm
đầu niên hiệu Kiến trung tĩnh quốc (1101), tháng giêng, ngày
mồng 1."
12
Trên
đường về Kinh, Ông nằm mộng thấy làm một bài thơ gởi
cho Chu Hành Trung. Hôm sau thức dậy, còn nhớ rõ cả. Và ông
chép lại:
Thuấn
bất tác lục khí
Thùy tri quí Dư Phiên Ai tai Sở cuồng sĩ Bảo Phác hào không sơn Tương Như khởi nghễ trụ Đầu bích tương dữ hoàn Hà như Trịnh Tử Sản Hữu lễ quốc tự nhàn Tuy vi Hàn Tuyên Tử Bỉ phu diệc hoài Hoàn. Chí kim bất tham bửu Lẫm nhiên siêu trần hoàn.
舜
不 作 六 器
誰 知 貴 璵 蹯 哀 哉 楚 狂 士 抱 撲 號 空 山 相 如 起 睨 柱 頭 壁 相 與 還 何 如 鄭 子 產 有 澧 國 自 閑 雖 微 韓 宣 子 鄙 夫 亦 懷 還 至 今 不 貪 寶 凜 然 超 塵 寰
Ít
hôm sau, ngày 28 tháng 7, ông mất. Bài thơ làm trong mộng trên
đây được người dời truyền tụng là tuyệt bút của ông.
Nếu
vua Thuấn không chế ra sáu thứ dụng cụ, ai biết ngọc Phiên,
ngọc Dư của bậc quân vương là quí ?
Cuồng
sĩ nước Sở có viên ngọc phác, nhưng trong đời không ai
cho đó là ngọc, mà coi nó là đá cuội, nên thương thay! ôm
ngọc mà kêu gào với núi hoang.
Khi
người ta nhận được ngọc Bích là quí, thì Lạn Tương Như
cầm nó trong tay, liếc nhìn cái trụ, quyết ý đầu và ngọc
sẽ cùng nát cả, thế mà hăm dọa được vua Tần, mang được
trọn vẹn cả đầu cổ và ngọc Bích trở về Triệu.
Trịnh
Tử Sản hộ tống Trịnh bá sang Tấn. Tấn hầu vì cớ có
tang, không chịu tương kiến. Tử Sản cho phá sập nhà cửa,
tường vách của Tấn, cho là chỗ chật hẹp, không phải lễ
đãi khách đối với chư hầu như vậy. Làm dữ, thế mà quốc
gia nhờ đó lại được yên ổn, vì là có lễ. Nhưng có cần
làm vậy ư?
Có
gia bảo ngọc Hoàn như Hàn Tuyên Tử, dù đến khi nghèo kiệt,
bọn đầy tớ trong nhà cũng có ngọc mà đeo.
Cho
đên bây giờ, ta vẫn chưa hề tham đến những món quí, món
báu. Cho nên, hiên ngang lẫm liệt đứng cao vọi bên trên tất
cả cõi đời.
Đó
là những lời tuyệt bút? Được truyền tụng là như thế.
Và tuyệt bút của một người trong mộng. Trong cõi mộng,
tâm sự của khách tài hoa nó kiêu hùng trong phong độ lẫm
liệt hiên ngang. Tài hoa lãng mạn bát ngát như Lô sơn ẩn
hiện giữa mây trắng và sương mù. Lẫm liệt siêu trần hoàn
cũng y thể như ngọn Lô sơn sừng sững giữa một cõi trời
cô tịch.
Học
thơ, và làm thơ, đạt đến cõi thượng thừa lẫm liệt của
trời thơ, đến chỗ tài hoa tuyệt đỉnh của trời thơ; như
viên ngọc quí giá vô tận. Đời không biết tới, người
có nó cũng khổ lụy kêu gào với ngọn núi hoang vắng cô
liêu. Mà đời biết đến nó, thì cũng khổ lụy kỳ cùng
cho người có nó. Có, hay không có cái tài hoa tuyệt thế,
cái lẫm liệt siêu trần, của một viên ngọc quí, vẫn là
những cái làm khổ lụy cuộc đời. Khổ lụy, và triền miên
khổ lụy, nó là thứ gì? Và tại sao lại có nó? chân diện
mục của Lô sơn được gói trọn vào trong một câu hỏi này
ư? Nếu thế thì, Lô sơn trùng trùng điệp điệp, không làm
sao bước tới, cho thấy tường tận chân diện mục nó. Nhưng
người dù đã bước tới, tận vào chỗ sơn cùng lộ tuyệt
của nó, cũng không làm sao nói lại được một góc cạnh
của cái thấy đó. Rồi từ đó, đột nhiên, trời Thơ trở
nên là một, hay là những phương trời đọa đày viễn mộng.
Đọa đày cho đến kỳ cùng, đọa đày cho thành kỳ diệu
tuyệt mức.
"Lao
viễn mộng", đọa đày viễn mộng, của nhà thơ đó, một
chân diện mục của Lô sơn mà khách trần tục lụy, nghìn
đời không sao hé thấy.
Cõi
thơ mở ra, và khép lại trong một cõi mộng không lời.
Từ
bến Tầm dương, hay bến Bành lãi nhìn lên, Lô sơn khói tỏa
sương mù.
Chân
diện mục của Lô sơn?
Chân
diện mục của Lô sơn?NHỮNG PHƯƠNG TRỜI LỮ THỨ Lại làm sầu phế phủ
Nào
chỉ có thế thôi ư? Thơ phát ra từ những khổ lụy và những
nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh; từ độ đó, Thơ
đi vào giữa những thảm họa hoành sinh của Lịch sử. Từ
buổi bình mình, Thơ vang vọng những lời tình tự thiết tha,
từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát, đến những đêm dài
trăn trọc, trong nguyện ước lứa đôi. Cho tới lúc, Thơ là
Ly tao, là nỗi buồn cô quạnh của một lão thần nơi đất
Trích, bên dòng sông Mịch la. Lịch sử đã gây nên những
trường khốc liệt, cuộn sòng Thơ trôi mãi, trôi không bao
giờ thấy lại được nguồn suối ban sơ; đừng nói chi đến
việc trở về. Thơ bị đẩy trôi theo tuế nguyệt. Mà Tuế
nguyệt đã đi là đi mất. Thế là, từ những phương trời
viễn mộng ban sơ, Thơ dấn bước đi vào Cuộc Lữ, kỳ cùng
trong những phương trời của Cuộc Lữ. Nhưng Cuộc Lữ không
bao giờ cùng tận. Vì tượng của cuộc Lữ là những ngọn
lửa bốc cháy trên đỉnh núi, cháy liên miên không hề gián
đoạn. Núi vẫn đứng trơ ra đó, mà lửa thì cứ mãi bốc
thẳng và mất hút trong bầu trời cô tịch. Tại sao lại phải
từ cái có, muôn đời có đó, để đi vào cái không? Kiệt
tận bình sinh, hay sống trọn đời với tuổi đời, hay sống
cho tận cùng cuộc sống, thì tất cả đời sống đó đã
không ngừng mang trọn tài hoa phong nhụy đổ vào khơi vơi,
vào cõi miền hư tịch, không hư, không hình tích, không bóng
dáng và không lời. Cuộc Lữ nếu được đi trong mực Trung
Dung, thì cũng đi như mũi tên bắn thẳng tới phía trước,
dù có bắn được một con chim Trĩ, chim của biểu tưởng
văn minh, của lịch sử hiền hòa; nhưng mũi tên bắn đi không
còn cách nào quay đầu trở lại. Nếu Cuộc Lữ được dẫn
tới chỗ kỳ cùng của Cuộc Lữ, đấy là lúc con chim trên
rừng đã đốt tổ bay đi. Có muốn về, cũng không còn tổ
ấm bao dung của Quê Hương nguyên thủy nữa.
Thơ
phát ra từ cuộc Lữ đọa đày, rồi trở lại đọa đày
cuộc Lữ. Cuộc Lữ là trường thể nghiệm Lịch sử tồn
sinh thảm họa của Thơ. Và Thơ mở rộng những phương trời
Lữ Thứ. Quê Hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của
Lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn
mộng. Cho nên, Đất của Thơ đất Trích, là những vùng đày
ải; Đường của Thơ là Quán Trọ, là những bước đường
ngược gió. Mặn nồng nơi Đất Trích, lân la nơi Quán Trọ,
cuộc thể nghiệm dây dưa hằng triệu vấn vương, và cũng
là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối. Cho nên lời
Thơ càng lúc càng trầm trọng, như viên sỏi rơi vào lòng
biển bao giờ cho tới đáy thì thôi. Biết bao giờ cho tới
đáy, để lấy đó làm Quê Hương hằng cửu? Bởi cách điệu
trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như
những cụm mây trời trong nắng sớm.
Từ
đây trở xuống, Thơ của ông sẽ được công bố cho thành
một Cuộc Đi, đi trong những đoạn đường Lữ Thứ, đi trong
những phương trời Lữ Thứ. Bố trí cho Thơ lịch nghiệm
trong cuộc Riêng, để thể nghiệm trong cuộc Chung của Lịch
sử. Trong cuộc Riêng, Tình Thơ sẽ cũng chỉ là Tình Riêng.
Một vài lời phụ chú, một ít chuyện bàn bạc của người
soạn sách, từ cuộc Riêng đó, nỗ lực giới hạn, trên những
trang lịch sử của phong trần cổ lục, để xem có thể dẫn
tới được một cuộc Chung đồng vọng nào đó chăng?
TRỜI QUÊ HƯƠNG KHÓI MÙ BAY VIỄN MỘNG (1061 -1071)
LỜI
DẪN
1061-1071,
trong khoảng 10 năm này, ông làm quan tại các chỗ: Kiểm phán
tại Phượng tường, rồi Giám quan cáo viện tại Sử quán
ở Kinh đô, và sau đó xin ngoại nhiệm, được đổi ra Hàng
châu vào năm 1071. Những chi tiết về sự vụ làm quan của
ông, ở đây chỉ lược đại khái.
Bắt
đầu với bài thơ Hoài Cựu. Rồi chúng ta sẽ thấy, Đất
Khách luôn luôn phảng phất bóng dáng Quê Hương; trời của
quê hương là vang vọng của lịch sử. Sầu cố quận hay tình
tha phương là những tiếng ngân dài của lịch sử. Đó là
đoạn đầu của một cuộc lịch nghiệm. Thơ được trích
do bố trí dự định sẵn, thì những cách điệu khác nhau
của chúng chỉ là những sai dị trong bước đi mà thôi. Cái
Tình ẩn và cái Tình hiện trong mỗi bài thơ chỉ cùng chung
một nỗi. Nỗi đó, tạm thời gói lại trong Trời quê hương
khói mù bay viễn mộng ở đây. Gọi là trời quê hương, là
muốn nói tới hoài vọng của người khách vừa bước ra đi,
từ giã quê hương, cho đoạn đầu của Lữ Thứ. Quê hương
qua lớp khói mù, là muốn nói tới hoài vọng trẻ trung, vì
quê hương là nơi ngụ ẩn tình của lịch sử. Bay viễn mộng,
là đoạn đường Lữ Thứ đã mở ra rồi, nên cuộc lịch
nghiệm thoáng hệin những nét đăm chiêu. Cũng có thể lưu
ý rằng, những chữ này chỉ dùng theo nghĩa Riêng của đoạn
này, để tương xứng với một cuộc Tình Riêng của Thơ
I.
Đồi
mai ngơ ngác nụ cười
Cánh hồng là mộng của đời lưu ly Tồn sinh thấp thoáng nẻo về Dấu trơ bãi tuyết ngoài tê cánh đồng Sư già tháp mới hồn không Tường rêu đổ xuống đâu đồng vọng Thơ Gập ghềnh năm tháng hay chưa Đường dài người mỏi gót lừa kêu đau
Năm
canh tý (1060), Ông làm chủ bạc tại huyện Phước xương,
tỉnh Hà nam. Năm trước, sau khi mãn tang mẹ, Ông và Tử Do
theo cha, Lão Tô, dong thuyền Nam du. Thơ văn của hai anh em được
gói thành "Nam hành tập". Đó là những bài thơ của tuổi
trẻ; người ta nói như vậy. Hồn thơ bộc phát tự nhiên,
như cánh chim hồng đang ước hẹn với trời cao. Trong con mắt
của người đời, cái cảnh giang sơn thanh kỳ tú lệ đã
tô điểm cho phong cách tự phụ của thời niên thiếu:
Giang
sơn dưỡng hào tuấn
Lễ số khốn anh hùng Chấp bản nghinh quan trưởng Xu trần bái hạ phong
Cốt
cách đó chưa hiện rõ những nét cuồng ngạo. Sóng Trường
giang vẫn ào ạt mùa nước lũ trong từng năm một; nhưng lịch
sử vẫn mãi triền miên bất động trải dài thành hai bờ
bến. Hồn thơ sẽ đến để mở cánh cửa trời, và rồi
sẽ khép lại thành một cõi của từ sinh trường mộng. Lúc
nào mở, và lúc nào đóng? Con chim trên rừng đốt tổ bay
đi, cuộc Lữ không tính được khoảng đầu và khoảng cuối.
Trên
con đường của những ngày tháng đầu tiên từ giã quê hương,
thơ Ông đồng vọng tiếng hát này:
Đài
thượng hữu khách ngâm thu phong
Bi thanh tiêu tán phiêu nhập cung Đài biên du nữ lai thiết thính Dục học thanh đồng ý bất đồng Quân bi cánh hà sự? . . . . .
Trên
gò cao, khách đứng hát với ngọn gió mùa thu. Âm hưởng trầm
buồn hững hờ bay vào khung cửa kín. Bên gò có nàng du nữ
đến nghe lén. Muốn học tiếng hát đó, nhưng chỉ có thể
cùng âm vang mà không thể cùng đồng vọng. Thế thì, ngài
buồn chuyện gì nhỉ?
Gió
thu rồi cũng sẽ tới lúc thổi lên tóc trắng. Và cánh chim
hồng rồi cũng sẽ để lại dấu vết trên bãi tuyết trắng...
Ngẫu nhiên:
HOÀI
CỪU
Nhân
sinh đáo xứ tri hà tợ
Ưng tợ phi hồng đạp tuyết nê Nê thượng ngẫu nhiên lưu chỉ trảo Hồng phi na phục kế đông tây Lão tăng dĩ tử thành thân tháp Hoại bích vô do kiến cựu đề Vãng nhật kỳ khu hoàn ký phủ Lộ trường nhân khốn kiển lô tê
懷舊
人生到處知何似
應似 飛 鴻踏雪泥 泥上偶然留指爪 鴻飛那計東西 老僧已死成新塔 壞壁無由見舊題 往日崎嶇還記否 路長人困蹇驢嘶
Bài
thơ của Ông được trích ở đây, nó là một tình tự trẻ
trung; cái tình hoài cựu chưa đượm mùi sương gió. Mãi về
sau, thơ và từ của Ông vẫn còn âm hưởng đồng vọng của
một cánh chim hồng, lẻ loi và cao vút. Dù là tung cánh trong
bình minh hay giữa nắng quái, nguồn thơ đó càng lúc càng
ngời sáng phong vận cuồng ngạo và phóng dật. Bắt được
tiết điệu của bài thơ, và thấy ra phong vận của nó, thì
cái dòng thơ triền miên bất tuyệt của Ông cũng được thấy
ra từ đó.
Cuộc
nhân sinh, rồi đây biết nó sẽ như thế nào? Có lẽ, nên
coi như một cánh chim hồng dẫm chân lên bãi tuyết. Ngẫu
nhiên mà trên bãi tuyết đó còn in nguyên vẹn những vết
chân của cánh hồng. Cánh hồng sẽ bay bổng mù khơi, còn
kể gì đến những dấu chân kia.
Sư
già vừa chết, ngôi tháp mới cũng vừa được dựng lên.
Tường rêu đã đổ xuống, không tìm đâu ra những bài thơ
đề trên đó nữa. Một ngày qua, đường đời gập ghềnh,
có biết chưa? Đường thì dài, người thì mỏi, con lừa khấp
khiểng kêu đau.
2.
THẠCH
TỊ THÀNH
Bình
thời chiến quốc kim hà tại
Mạch thượng chinh nhân tự bất nhàn Bắc khách sơ lai thí tân hiểm Thục nhân tùng thử tống tàn sơn Độc xuyên ám nguyệt mông lung lý Sầu độ bôn hà thương mang gian Tiệm nhập tây nam phong cảnh biến Đạo biên tu trúc thuỷ sàn sàn
石鼻城
平时战国今无在, 陌上征夫自不闲。 北客初来试新险, 蜀人从此送残山。 独 穿暗月朦胧里, 愁渡奔河苍茫间。 渐入西南风景变, 道边修竹水潺潺 Thạch tị thành, không rõ địa danh này. Hoặc giả là núi Thạch thành; phía đông nam, huyện Tín dương, tỉnh Hà nam có một ngọn; phía tây huyện Nghi tân, tỉnh Tứ Xuyên, thấy một ngọn; đông bắc huyện Thiệu hưng, tỉnh Triết giang, một ngọn. Trong thơ có nói Thục nhân, tức người đất Thục, tỉnh Tứ xuyên ngày nay. Quê Ông, huyện My Sơn, cũng ở trong vùng này. Thơ cũng nói Bắc khách, người khách từ phương bắc đến; tất nhiên chỉ cho Ông. Có lẽ bấy giờ Ông từ Kinh đô về tại vùng này.
Năm
tân sửu (1061), từ Hà nam, Ông được triệu về Kinh, rồi
được bổ làm Kiểm phán phủ Phượng tường, trong hạt Tứ
xuyên. Đến năm bính ngọ (1066), 5 năm sau đó, Lão Tô mất.
Ông về quê chôn cha. Vậy, bài thơ được làm trong khoảng
thời gian này, từ 26 đến 31 tuổi.
Bấy
giờ Ông còn trẻ, lời thơ sảng hoạt mà thanh thiết. Đó
cũng là bản sắc độc đáo trong tiết điệu thơ của Ông.
Hai câu 3-4, ngụ những ẩn tình nồng hậu, thắm thiết.
Thi
tân hiểm, thưởng thức cảnh lạ giữa những ngọn đá cheo
leo; ứng với 4 chữ "Bắc khách sơ lai" ở trước, và đối
với 3 chữ "tống tàn sơn" ở câu dưới. Ứng và đối trong
một bút pháp tuyệt vời, nói được cái tình tự đậm đà
của khách phương xa đến và đi, cùng tấm lòng đón và đưa
của những gì ở đó.
Tống
tàn sơn, đưa tiễn ngọn núi tàn, ngọn núi trơ vơ. Thơ Đỗ
Phủ có những câu:
Thặng
thủy thương giang phá
Tân sơn kiệt thạch khai Nước lũ sông đầy vỡ Non trơ đá chởm lên
Thặng
thủy tàn sơn tả cảnh núi non không tề chỉnh; núi thì thấp
xuống, nước thì tràn ra, chẳng hạn
* *
Dấu
vết của một thời chiến quốc không thấy đâu đây nữa;
nhưng người rong ruổi trên con đường qua đó vẫn còn phải
bươn bả.
Khách
phương bắc mới tới, đã tìm đến thưởng thức các lạ
giữa những ngọn đá cheo leo;
Và
từ đó, người đất Thục ở đó sẽ hằng ngày đưa tiễn
những ngọn núi trơ vơ kia.
Khi
thì một mình len lỏi qua con trăng mờ trong cảnh mông lung.
Khi thì ngậm ngùi vượt qua dòng sông chảy xiết giữa nước
xanh mênh mang.
Càng
về phía tây nam, phong cảnh càng thay đổi dần.
Ở
đó, hai bên đường có những hàng tre thẳng tắp và những
con nước dật dờ.
3.
Đá
mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc chừng Cuộc Chơi Nghìn năm vang một nỗi đời Gió đưa cuộc Lữ lên lời Viễn phương Đan sa rã mộng Phi thường Đào tiên trụi lá bên đường Từ Sinh Đồng hoang Mục tử Chung tình Đăm chiêu dư ảnh nóc đình Hạc khô
Tâm
tình Hoài vọng của Lữ khách y nhiên là tâm nguyện chí thành
được khơi dậy từ những bước đường ngược gió. Con
đường của Lịch sử, của dòng sông trôi xuôi, và trôi ào
ạt như nước lũ, cuốn trôi tất cả những giấc mộng bình
sinh. Đó là lịch sử của tử sinh trường mộng. Trong cõi
mộng đó, trên bước đường ngược gió của Lữ khách đó,
nắng hiu hắt trổi màu trầm tư tịch mặc giữa những tàn
lụi, hoang phế, và băng hoại; là sự chung cục của tất
cả trong sự hủy diệt nồng nàn. Hơi thở mòn mỏi tiêu pha;
Người đã lãng phí trọn vẹn tinh thể của Người, để
cho Thiên nhiên bày tỏ ân tình trơ trọi, như viên sỏi bên
đường lây lất với nắng và với gió. Nắng lên cùng với
dấu hiệu của hao mòn và sụp đổ. Gió lên cùng với những
ước nguyện thiên thu phảng phất ra ngoài khung trời Hoằng
viễn và Tịch nhiên. Mộng Phi thuờng được ký thác trong
đan sa, trong dấu hiệu của trường sinh bất tử; nhưng đường
Sinh tử đi trong cõi Hoằng viễn Tịch nhiên, ấy thế mà không
bao giờ dừng bước cho Lữ khách một lần ngụ cư ở đó.
Sống và chết vẫn như một nỗi đời hư huyễn, vẫn rầm
rộ như một cuộc chơi. Giữa khoảng đồng rộng, đồng trống,
đồng không mông quạnh, Mục tử đăm chiêu tư lự những
chuyện đường đời và Lịch sử qua bóng dáng con Hạc gầy;
rồi tự hỏi: đâu là cõi Mộng Thiên Thu?
* *
Năm
đó, tân sửu (1061), ông 26 tuổi, làm kiểm phán tại phủ
Phượng tường. Trong bài ký viết cho "Phượng tường bát
quan thi", những bài thơ về tám chỗ Ông đến thăm viếng
tại phủ Phượng tường, Ông, viết: "Phượng tường nằm
nơi chỗ giao tiếp của đất Tần và Yhục; các bậc
sĩ đại phu, sớm chiều thường qua lại đó". Và đoạn trước
của bài ký, Ông viết: "Đấy là buồn cho đời, cảm khái
cho tục, và tự thương mình đã không thấy được người
xưa mà lại muốn một lần xem thấy những di tích của họ."
Cái ý đó, được thấy hiện rõ nơi bài thơ dưới đây:
LÂU
QUÁN
Môn
tiền cổ kiệt ngọa tà dương
Duyệt thế như lưu sự khả thương Trường hữu u nhân bi Tấn Huệ[1] Cưỡng tu di miếu học Tần Hoàng[2] Đan sa [3]cửu diếu tỉnh thủy xích Bạch truật thùy triêu trù táo hương Văn đạo thần tiên diệc tương quá Chỉ nghi điền tẩu thị Canh Tang[4]
摟 觀
門 前 古 碣 臥 斜 陽 閲 世如流事可傷 長有幽人悲晉惠 強修遺廟學秦皇 丹砂久窖井水赤 白朮 誰 燒 廚 灶香 聞道神仙亦相過 只疑田叟是庚 桑
Lâu
quán, gác của đạo sĩ, tại phủ Phượng tường. Ông tự
viết lời dẫn: "Tần Thủy Hàng lập miếu Lão tử phía nam
của quán. Tấn Huệ đế mới sửa lại quán này"
Ngọa
tà dương; "Môn tiền cổ kiệt ngọa tà dương", trước cửa
quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều. Có thể cùng
bắt gặp một cảm hứng như vậy trong một bài từ của Ông,
làm theo điệu từ "Hoán khê sa" (Toàn mạt hồng trang khán
sứ quân), câu kết như vầy:
Đạo
phùng túy tẩu ngọa tà dương
Giữa
đường, người ta gặp ông cụ say năm trơ giữa nắng chiều.
Có lẽ đó là cảnh khi ông bị đày ra ở Hải Nam. Lúc đó
đã già lắm rồi. Một già, một trẻ, cùng một quãng đời
chìm nổi, cách xa nhau, mà vẫn cùng một tiết điệu, một
cảm hứng, một phong vận tài hoa kỳ lạ, giữa những mòn
mỏi tiêu dao của tuế nguyệt:
Đá
mòn phơi nẻo tà dương.
Nằm nghe nước lũ khóc chừng cuộc chơi Trước cửa quán, hòn đá chởm nằm trơ trong nắng chiều. Ngắm sự đời, như nước chảy, trôi đi và đi mất, thấy mà đau.
Cho
đến nay vẫn còn có người không thiết sự đời -- tức
Ông -- ngậm ngùi cho Tấn Huệ đế -- mộng trường sinh hóa
thành bất đắc kỳ tử. Cũng có người vẫn còn bắt chước
Tần Thủy Hoàng, gượng sửa lại cái miếu hoang.
Đan
sa ngày đó luyện thuật trường sinh, nay không dùng nữa, chìm
dưới giếng, làm đỏ cả nước giếng.
Bạch
truật ngày đó, nay thấy có người lấy làm nhang đốt trong
bếp.
Nghe
đâu thần tiên cũng thường có giao thiệp với người đời.
Vậy có lẽ cụ già cày ruộng kia chắc là lão tiên Canh
Tang Sở.
4.
VI
TUYẾT HOÀI TỬ DO
(I)
Kỳ
dương [5]cửu nguyệt thiên vi tuyết
Dĩ tác tiêu điều tuế mộ tâm Đoản nhật tống hàn châm xử cấp Lãnh quan vô sự ốc lô thâm[6] Sầu trường biệt hậu năng tiêu tửu Bạch phát thu lai dĩ thượng trâm Cận mãi điêu cừu[7] kham xuất tái Hốt tứ thặng truyền vấn tây sâm
(2)
Giang
thượng đồng [8]chu thi mãn hiệp
Trịnh tây phân mã [9]thế thùy ưng Vị thành báo quốc tàm thơ kiếm Khởi bất hoài qui úy hữu bằng Quan xá độ thu kinh tuế vãn Tự lậu kiến tuyết dữ thùy đăng Diêu tri độc Dịch đông song[10] hạ Xa mã xao môn định bất ưng
微雪怀子由
(1)
岐阳九月天微雪,
已作萧条岁暮心。
短日送寒砧杵急,
冷官无事屋庐深。
愁肠别后能消酒,
白发秋来已上簪。
近买貂裘堪出塞,
忽思乘传问西琛。
(2)
江上同舟诗满箧,
郑西分马涕垂膺。
未成报国惭书剑,
岂不怀归畏友朋。
官舍度秋惊岁晚,
寺楼见雪与谁登。
遥知读《易》东窗下,
车马敲门定不应。
Bây
giờ là năm nhâm dần (1060), Ông 27 tuổi, làm một chức quan
nhỏ tại phủ Phượng Tường. Chức quan Ông nhỏ, mà tài
Ông cao, chí Ông lớn. Cho nên, người đời nói, trong hai bài
thơ này, tình tự Ông ẩn hiện những uẩn khúc, cũng khá
kỳ lạ. Đó là tâm sự của tuổi già với cái tuổi 27, thấy
trong bài 1, các câu: từ 2-5; nhưng vẫn là phong vận trẻ trung,
thấy được nơi bài 1 trong câu 6. Bài 2 mới thật sự tỏ
rõ cái cao ngao và thị tài của tuổi trẻ.
Tháng
11 năm trước, Ông chia tay Tử Do ở Trịnh Châu (thuộc tỉnh
Hà Nam) để đi Phượng Tường; lúc chia tai ngoài cửa Tây,
ngồi trên ngựa, Ông làm thơ gởi lại Tử Do, với 4 câu cuối:
Hàn
đặng tương đối ký trù tích
Dạ vũ hà thời thinh tiêu sắt Quân tri thử ý bất khả vong Thận vật khổ ái cao quan chức.
Đại
khái, hai anh em cùng đang ngồi dưới ngọn đèn mờ nhạt mà
tính nhẩm, biết bao giờ cùng ngồi nghe mưa đêm tiêu sắt?
và Ông dặn em đừng bao giờ quen ý đó, nên đừng bươn bả
đuổi theo chức quan cao.
Tháng
9, tại huyện Kỳ Dương, trời đổ tuyết nhẹ;
Cũng đủ làm cho tâm tình trong cảnh năm già trở nên vẻ xơ xác. Ngày vắng, tiếng chày xua đuổi cái lạnh nghe như vội vã. Viên quan nhỏ, không việc gì, ngồi trong nhà tranh hun hút Gan ruột sầu héo có thể làm tiêu tan được rượu, Tóc trắng, mùa thu tới, đã thấy như cài trâm. Vừa mới bán chiếc áo lạnh lông điêu, nên không dám đi chơi xa. Bỗng nghĩ đến việc ruỗi xe đi tìm cái lạnh.
Năm
xưa, hai anh em cùng dong thuyền, xách theo những túi thơ đầy
Năm ngoái, chia tay nhau rẽ ngựa ngoài cửa tây Trịnh Châu, nước mắt ướt đẫm ngực. Chưa làm nên sự nghiệp với đời nên thẹn cùng sách và kiếm. Há không mong trở về; nhưng về lúc này hẳn là ngại với bạn bè. Nhà quan qua mùa thu, kinh sợ cho năm đã quá xế Trên nóc chùa đã đầy tuyết, nhưng không biết rủ ai cùng lên đó. Tưởng chừng em hẳn ngồi đọc kinh Dịch bên cửa sổ mái tây. Lúc đó, dù xe ngựa có đến gõ cửa, hẳn là không đáp lại.
5.
Cuối
năm Nhâm Dần, bấy giờ Ông đang công tác tại Kỳ Dương;
lúc mọi người đang sửa soạn ngày tết, nhớ nhà, Ông làm
ba bài thơ gửi Tử Do: Quĩ tuế, Biệt tuế và Thủ tuế. Đây
trích một bài. Phong tuc ở đất Tây Thục, quê của ông, cuối
năm người ta tặng đồ ăn cho nhau gọi là “quĩ tuế”;
mang rượu và thức ăn tặng nhau thì gọi là “biệt tuế”;
kể từ đêm trừ tịch cho đến rạng ngày nguyên đán mà
không ngủ, gọi là “thủ tuế”, thức đêm để canh chừng
một năm cũ rắp qua và một năm mới sắp đến.
Thủ
pháp già dặn và lời thơ điềm đạm, tạo cho thành một
khí vị rất cổ kính. Cái đó không những phản ảnh một
nỗi nhớ, hoài vọng quê hương, mà còn phản ảnh cái ray
rứt kỳ lạ của ngày tháng trôi đi biền biệt. Cảnh đưa
đón cuối năm, coi cũng có vẻ tấp nập, nhưng không che dấu
nổi cái lạnh nhạt: nhà quan thì vắng bóng những người
bạn cũ, mà làng xóm thì nhộn nhịp chờ đón những ngày
mới sẽ đến. Tình dù có, cũng bằng không. mấy câu thơ
cuối trong bài “Quĩ tuế”
Quan
cư cố nhân thiểu
Lý hạng giai tiết quá Diệc dục cử hương phong Độc xướng vô nhân họa
Nhà
quan người thưa bóng
Thôn ấp rộn ngày vui Quê cũ tình dẫu đượm Tình riêng nói với ai
Năm
cũ sắp qua đi qua, như một con rắn đang chui vào lỗ, làm
sao bắt nó lại? Nắm lấy đuôi, cũng bằng vô dụng. ngày
tháng trôi đi như con rắn trườn đi; cái hoài vọng ở đó
quả khắc nghiệt và độc hại.
BIỆT
TUẾ
Cố
nhân thích thiên lý
Lâm biệt phượng trì trì Nhân hành do khả phục Tuế hành na khả truy Văn tuế an sở chi Viễn tại thiên nhất nha Dĩ trục đông lưu thủy Phó hải qui vô thì Đông lân tửu sơ thục Tây xá trệ diệc phì Thả vị nhất nhật hoan Ủy thử cùng niên bi Vật sai cựu tuế biệt Hành dữ tân niên từ Khứ khứ vật hồi cố Hoàn quân lão dữ suy
别岁
故人适千里,
临别尚迟迟。
人行犹可复,
岁行那可追。
问岁安所之,
远在天一涯。
已逐东流水,
赴海归无时。
东邻酒初熟,
西舍彘亦肥。
且为一日欢,
慰此穷年悲。
勿嗟旧岁别,
行与新岁辞。
去去勿回顾,
还君老与衰。
Cố
nhân lên đường đi xa
Lúc chia tay vẫn còn bịn rịn Người đi còn mong có ngày trở lại; Năm tháng ra đi, làm sao đuổi theo kịp?
Hỏi
thử, “năm” đi đâu?
Đi xa đến một ven trời nào? Hay đã theo dòng nước chảy xuôi về đông, Đổ vào biển và không bao giờ trở lại? Xóm đông, rượu vừa chín; Nhà mé tây, lợn nái cũng vừa mập thêm ra Hãy cứ vui cho hết trọn một ngày Để bù lại trọn một năm đầy sầu héo. Đừng quên giã từ một năm cũ, Và hãy để cho năm cũ giã từ năm mới. Bảo nó hãy đi đi, Đừng có quay đầu lại. Gởi trả lại nó tuổi già và sức yếu kém.
6.
LÂU
QUÁN[11]
Điểu
thảo viên hô trú bế môn
Tịch liêu thùy thức Cổ hoàng tôn[12] Thanh ngưu[13] cửu dĩ từ viên ách Bạch hạc lai thời phỏng tử tôn Sơn cận sóc phong xuy tích tuyết Thiên hàn lạc nhật đạm cô thôn Đạo nhân ưng quái du nhân chúng Cấp tận giai tiền tỉnh thủy hồn
摟
觀
鳥 噪 猿 呼 晝 閉 門 , 寂 寥 誰 識 古 皇 尊 。 青 牛 久 已 辭 轅 軛 , 白 鶴 時 來 訪 子 孫 。 山 近 朔 風 吹 積 雪 , 天 寒 落 日 淡 孤 村 。 道 人 應 怪 遊 人 眾 , 汲 盡 階 前 井 水 渾 。
Ông
tự dẫn: “Từ Thanh Bình trấn, chơi tại các nơi: Lâu quán,
Ngũ quận, Đại tần, Diên sinh, Tiên du. Vừa đi vừa về hết
4 ngày, làm được 11 bài thơ gửi xá đệ Tử Do”
Khí
vị của thơ là hoài cổ, phảng phất âm hưởng thời Đường;
đặc biệt là nơi hai câu 5-6.
Chim
gào vượn hú; ban ngày vẫn đóng cửa.
Đìu hiu vắng vẻ, ai biết ngài Cổ hoàng tôn đi đâu? Con trâu xanh của ngài, từ lâu đã cởi bỏ cái ách, cái gọng; Và bây giờ, con hạc trắng bay đến hỏi thăm con cháu. Núi gần đó, gió bấc thổi tung những đống tuyết. Trời lạnh, mặt trời ngã bóng nhạt trên xóm vắng. Có lẽ đạo nhân lấy làm lạ, sao du khách đông thế! Họ uống sạch hết cả một giếng nước phía trước sân.
7.
THỌ
KINH ĐÀI[14]
Kiếm
vũ hữu thần thông thảo thánh[15]
Hải sơn vô sự tác cầm công Thử đài nhất lãm Tần xuyên[16] tiểu Bất đãi truyền kinh ý dĩ không
授 經臺
剑舞有神通草聖, 海山無事化琴工 此台一览秦川小 不待傳 經 意已空
Những
ngọn cỏ với dáng dấp cao kỳ như Thánh, khi đong đưa, trông
như những ngọn thần kiếm đang vũ lộng.
Núi
và sông, nhàn rỗi vô sự, tự nhiên trở thành những tay thợ
đàn.
Chỉ
một lần nhìn thấy đài này rồi, cả một dãy Tần xuyên
thành ra nhỏ bé.
Không
phải đợi nghe được lời kinh, mà ý đã là không.
8.
THIỀN
THƯỢNG TIỂU THI
Oa
minh thanh thảo bạc
Thiền tháo thùy dương phố Ngô hành diệc ngẫu nhiên Cập thử tân quá vũ
船
上小 詩
蛙 鳴 青 草 泊 , 蟬 噪 垂 楊 浦 。 吾 行 亦 偶 然 , 及 此 新 過 雨 。
Ếch
kêu bên thanh thảo
Ve khóc bãi thùy dương Ta đi cùng ngẫu nhĩ Đến đó mưa qua đường.
[1]
TẤN HUỆ Tấn Huệ đế, làm vua từ 290 -300, bị đầu
độc mà chết. Sửa miếu lão Tử, là cốt ý muốn tìm học
phép trường sinh. Rồi trường sinh và bất đắc kỳ tử:
nghìn năm vẫn một nỗi đời
[2]
TẦN HOÀNG Tần Thủy Hoàng, mộ phép trường sinh của Đạo
gia. Nghe đồi ngoài khơi Đông hải có đảo Bồnt Lai của
tiên, có thuốc trường sinh; cho đóng thuyền và sai bọn An
Kỳ Sinh đi kiếm. Nhưng họ đi không về. Và cơ nghiệp đế
vương của Tần Thủy hoàng cũng không lâu.
[3]
ĐAN SA, BẠCH TRUẬT, các loại dược thảo làm thuốc luyện
thuật trường sinh của đạo sĩ.
[4]
CANH TANG. Canh Tang Sở, được nói đến trong thiên “Canh Tang
Sở”. Nam hoa kinh của Trang Tử; ông là đệ tử đắc đạo
của Lão Tử
[5]
KỲ DƯƠNG, tên huyện ở phía đông huyện Phượng Tường.
Ngày 20 tháng 9 năm Nhâm Dần, trời đổ tuyết nhẹ. Ông nhớ
Tử Do, làm thơ
[6]
ỐC LÔ THÂM, nhà tranh hun hút. Kỷ Hiểu Lam phê: ba chữ đó
(tuyền thần). Ở đây bóng dáng Ông ẩn hiện trong cái
không khí u trầm, phảng phất tâm trạng mùa thu tóc trắng.
trời lạnh, tiếng chày nghe như rộn rã, gấp rút, xua đuổi
cái lạnh đi xa.
[7]
ĐIÊU CỪU, Áo lạnh làm bằng lông con điêu. Tử điểu Thiều
Chữu: Điêu là một loài chuột to như con rái cá, đuôi
to lông rậm dài hơn một tấc, sắc vàng và đen, sinh ở xứ
rét, da nó làm áo mặc rất ấm, nên rất quí báu.
[8]
GIANG THƯỢNG ĐỒNG CHÂU… Nhắc lại những ngày hai anh em
cùng dong thuyền du lãm và làm thơ.
[9]
TRỊNH TÂY PHÂN MÃ: Năm trước, hai anh em rẽ ngựa chia tay
ngoài cửa tây thành Trịnh Châu.
[10]
ĐÔNG SONG ĐỘC DỊCH: ngồi đọc kinh Dịch ở cánh cửa sổ
dưới mái đông. Chỗ đó tỏ ý chờ đợi, và đọc Dịch
tỏ chí lớn. Ở đây chỉ việc đang hoài bão chí lớn (Quản
Ninh và Hoa Hâm cùng ngồi đọc sách. Xe ngựa đi ngang trước
cửa, Hoa Hâm bỏ sách chạy ra xem. Từ đó Quản Ninh xẻ chiếu,
dứt tình bạn vĩnh viễn)
[11]
Lâu quán, xem chú dẫn ở trên
[12]
Cổ hoàng tôn, chỉ Lão Tử (của Đạo gia). Ba chữ này làm
cho cả bài thơ có tiết điệu và phong vận tiêu sái riêng
của Ông.
[13]
Thanh ngưu , con trâu xanh. Tương truyền Lão Tử cưỡi con trâu
xanh ra quan ngoại, sau khi viết để lại bộ “Đạo đức
kinh” rồi đi mất.
[14]
THỌ KINH ĐÀI, đài trao kinh. Ông tự chú: “Đó là một ngọn
núi trong dãy Nam sơn chứ không phải là một cái đài được
dựng lên”
[15]
Thảo thánh, Thánh cỏ hay cỏ thánh; mô tả những ngọn cỏ
đong đưa theo gió một cách tuyệt diệu. Nhưng cũng chính
từ cái Thảo thánh này làm cho bài thơ trầm trọng ra.
[16]
Tần xuyên , một dãy đất Thiểm tây.
II.
Trời
thu cao cây lá ngủ mơ hồ (1072-1079)
LỜI
DẪN
Trời
mùa Thu, là trời cho nỗi sầu Riêng Biệt của Thơ. Trời Thu
thuờng quạnh ráo, nen cao vọi không cùng. Càng cao, càng trong,
càng tĩnh lặng trong điệu buồn thiên cổ. Cũng ở chỗ đó
mà trời Thu đẹp với cốt các diễm lệ kiêu kỳ. Diễm lệ
kiêu kỳ như Nàng Tây Tử.
Tuy
nhiên, trời Thu cũng thường có mưa gió, cũng có mùa nước
lũ. Vậy thì, buồn tĩnh lặng của vòm trời nhưng cũng là
nỗi buồn xôn xao của mặt đất. Tây Hồ và Tây Tử, hoặc
xôn xao với mưa gió và xiêm y; hay tư lự khi quạnh ráo hay
lột hết trang phục , nét thanh tân tú lệ vẫn là cốt cách
tài hoa:
Dục
bả Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm
trang nùng diễm tổng tương nghi
Trong
ngọn gió thu, bàng bạc có những cuộc giao tình. Tình của
Thiên nhiên bủa rộng bao la và tình của những tao nhân tri
ngộ. Ở đây Lịch sử hoá thân nơi mùa thu và tóc trắng.
Cuộc lịch nghiệm nghe ra những thống thiết nguyên sơ.
I.
Mắt
người mang cả quê hương
Lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm
(HOÀI
KHANH)
Năm
Hi ninh thứ 5, nhâm tý (1072), Ông 37 tuổi, bấy giờ ra giữ
chức thông phán tại Hàng châu. Trước đó, năm ất tỵ (1065),
Ông được triệu về kinh sư, làm việc tại sử quán. Cho
đến năm 36 tuổi, tân hợi (1071), lúc đang giữ chức Giám
quan cáo viện; nhân việc Vương An Thạch muốn sửa đổi thể
lệ thi cử, Thần tông đưa ra cho Lưỡng chế và Tam quán nghị
sự. ông dâng lên Thần tông ba điểm, khiến đảng Vương
An Thạch bất mãn, nên tìm cớ vu tấu những lỗi lầm của
Ông. Ông không một lời biện hộ, xin đi ngoại nhiệm để
tránh. Do đó được cử đi làm thông phán tại Hàng châu.
Lúc mới đến được hàng châu, Ông làm hai bài thơ tuyệt
cú gửi Tử Do, lời co 1 đôi chút than trách pha lẫn vẻ tràolộng.
Đại để như 2 câu:
Thánh
triều khoan đại hứa toàn thân
Suy bịnh tồi đồi tự ý nhân
Ông
nói đến bịnh hoạn của mình và làm như có vẻ sợ thiên
hạ
Những
bài thơ Ông làm kể từ năm 36 tuổi về sau, phong vận
không thay đổi, nhưng tình tự hình như đã biến cách rất
nhiều. Rồi ta sẽ thấy, càng già dặn phong trần, tình quê
hương của Ông càng thắm thiết. Thơ Ông như là những đồng
vọng từ phương trời diệu vợi vủa quê hương. Đó là một
thứ tình cảm hoài vọng thoạt trông có vẻ dung dị, bình
thường, nhưng cảng đọc thơ Ông, càng thấy cái tình đó
mở ra một trời thơ bát ngát
Văn
Trưởng lão, một nhà sư đồng hương với Ông, hình như là
hiện thân cụ thể của một cõi nào đó trong thơ Ông. Cho
nên, những bài thơ Ông làm tặng nhà sư này đều từ một
cảm hứng tự nhiên và rất bình thường, nhưng cũng từ đó,
thơ bỗng chuyển thành âm hưởng kỳ lạ, vọng tới một
khát vọng u trầm nào đó. Cõi thơ có thể là nơi trường
mộng của đêm dài sinh tử, mà cũng chính ở đó là cõi Hư
Không tịch mặc, với một màu xanh thẳm nhưng xa xôi không
cùng tận.
Ba
bài thơ trích ở dưới đây, Ông làm rải rác trong các thời
gian khác nhau. Đọc chung một lần, sẽ thấy cốt cách của
Ông, và đó là cốt cách cho suốt cả thời gian Ông làm thông
phán tại Hàng châu.
Bài
thứ nhất, sau khi đến Hàng châu một năm, trên đường đi
Nhuận châu, Ông ghé thăm. Sáu năm sau, Ông đến thăm lần
nữa, bấy giờ Văn trưởng lão bịnh. Mười năm sau, từ Hàn
lâm học sĩ, Ông ra làm thái thú Hàng Châu, bấy giờ Văn đã
tịch
BÀI
THỨ NHẤT
秀州報本禪院
鄉僧文長老方丈
TÚ
CHÂU[1] BÁO BẢN THIỀN VIỆN
HƯƠNG
TĂNG VĂN TRƯỞNG LÃO PHƯƠNG TRƯỢNG
Vạn
lý gia sơn nhất mộng trung
Ngô âm[2] tiệm dĩ bến nhi đồng Mỗi phùng Thục tẩu[3] đàm chung nhật Tiện giác Nga mi[4] thúy tảo không Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo Ngã trừ sưu cú bách vô công Minh niên thái dược Thiên thai[5] khứ Cánh dục đề thi mãn Triết đông[6]
萬里家山一夢中,
吳音漸已變兒童。 每逢蜀叟談終日, 便覺峨眉翠掃空。 師已忘言真有道, 我除搜句百無功。 明年採藥天台去, 更欲題詩滿浙東。
Quê
hương diệu vợi tưởng chừng như trong một giấc mộng.
Bấy giờ, giọng của ta đã dần dần bập bẹ như giọng trẻ nít Nhưng mỗi lần gặp cụ Thục thì vẫn còn bàn bạc suốc cả một ngày. Rồi bỗng thấy ra ngọn núi Nga Mi xanh mướt quét bầu trời Sư đã quên lời, quả tình là sư đã có Đạo Tôi thì ngoài việc tìm câu nối chữ, hoàn toàn vô công. Sang năm sẽ vào núi Thiên thai hái thuốc để cầu Đạo Những vẫn còn muốn đề thơ đầy cả Triết đông
BÀI
HAI:
DẠ
CHÍ VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO VIỆN
Dạ
văn[7] Ba tẩu[8] ngọa hoang đồn[9]
Lai đả tam canh nguyệt hạ môn Vãng sự[10] quá niên như tạc nhật Thử thân vị tử đắc trùng luân Lão phi hoài thổ tình tương đắc Bịnh bất khai đường đạo ích tôn Duy hữu cô thê cựu thời hạc Cử đầu kiến khách tợ trường ngôn
愁聞巴叟臥荒村,
來打三更月下門。 往事過年如昨日, 此身未死得重論。 老非懷土情相得, 病不開堂道益尊。 惟有孤棲舊時鶴, 舉頭見客似長言。
Ban
đêm, Ông đến Vĩnh Lạc, thăm Văn trưởng lão. Bấy giờ
trưởng lão ngọa bịnh không tiếp khách. Ông làm thơ tặng.
Từ và ý của bài thơ cũng bình thường. Nhưng nếu đã đọc
lại bài thơ Ông tặng Văn trưởng lão ở trên, và sẽ đọc
một bài khác sau này nữa, ta sẽ thấy nơi Ông, tình thơ và
tình quê hương là hai mối tình khắng khít. Tình quê hương
thì thấp thoáng như những bóng hình trong mộng. Tình thơ thì
hiu hắt như đồng vọng không lời của hư không.
Chừng
đêm, hay cụ Ba thục ngọa bịnh nơi xóm vắng;
Canh ba đến gõ cửa dưới trăng Chuyện qua năm trước, trông như vừa hôm qua; May nhờ cái thân này chưa chết nên được cùng ngài chuyện trò nữa.
Cụ
tuổi già mà không phải là hạng bo bo (khép kín miệnt) cho
nên tình lại càng tương đắc;
Nhưng
lúc này cụ bịnh, không khai đường, không tiếp khách hay
giảng đạo, thì cái đạo của cụ lại càng thêm cao. (Ông
muốn nói, đến thăm, dù không được tiếp chuyện mà vẫn
không có ý trách).
Chỉ
có con hạc tự năm nào vẫn đứng lẻ loi ở đó.
Ngẩng
đầu nhìn khách vẻ như đã nói rất nhiều.
BÀI
BA:
過
永 樂 文 長 老 已 卒
QUÁ
VĨNH LẠC VĂN TRƯỞNG LÃO DĨ TỐT
Sơ
kinh hạc sấu bất khả thức
Tuyền giác vân qui vô xứ tầm Tam quá môn gian lão bịnh tử Nhất đàn chỉ khoảnh khứ lai kim Tồn vong quân kiến hồn vô lệ Hương tỉnh[11] nan vong thượng hữu tâm Dục hướng Tiền đường phỏng Viên Trạch[12] Cát Hồng[13] xuyên bạn đãi thu thâm
初
驚 鶴 瘦 不 可 識
旋 覺 雲 歸 無 處 尋 三 過 門 間 老 病 死 一 彈 指 頃 去 來 今 存 亡 慣 見 渾 無 淚 鄉 井 難 忘 尚 有 心 欲 向 錢 塘 訪 圓 澤 葛 洪 川 畔 待 秋 深
Ban
đầu, sửng sốt vì cánh hạc đã hao gầy mà không hay.
Nhưng
vừa tỉnh cơn sửng sốt, thì cụm mây trời đã bay về nơi
không vết tích.
Người
đời có ba cửa ải: già, bịnh và chế (mà ngài đã đi qua
hết cả ba).
Cuộc
đời thoảng trong một cái búng tay là đủ cả cái đã qua,
cái đang đó và cái sẽ đến (bây giờ ngài trong một thoáng
đó mà đã là thiên thu)
Chuyện
mất còn nhìn đã quen, nên nước mắt ráo quạnh;
Nhưng
cái tình hương lý khó nguôi được trong lòng.
Tôi
muốn đến Tiền đường hỏi thăm Viên Trạch.
Tiên
Cát Hồng đứng bên bờ suối đợi cái thu già.
2.
湖上飲
HỒ
THƯỢNG ẨM
(I)
Triêu
hi nghinh khách diễm trùng cương
Vãn vũ lưu nhân nhập túy hương Thử ú tự giai quân bất hội Nhất bôi đương chúc thủy tiên vương[14]
朝曦迎客艷重岡
晚 雨留人入醉鄉 此意自佳君不會 一杯當屬水仙王
(II)
Thủy
quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc không mông vũ diệc kỳ Dục bả Tây hồ[15] tỉ Tây Tử[16]
Đạm
trang nùng mạt tổng tương nghi.
水光瀲灩晴方好
山色空濛雨亦奇 欲把西湖比西子 淡妝濃抹總相宜
Nguyên
đề: “Ẩm Hồ thượng sơ tình hậu vũ nhị thủ”. Uống
rượu trên tây hồ, vừa tạnh sau cơn mưa, 2 bài.
Bút
pháp trong bài vô cùng độc đáo, nên thường được truyền
tụng. Khi trời mưa, hồ được bao phủ trong lớp bụi mờ
như nàng Tây Thi khoác lên mình lớp áo lụa mỏng. Lúc trời
tạnh ráo, cảnh hồ lộ liễu như nàng Tây Thi đẹp với vẻ
trong ngọc trăng ngà. Có thể thấy cái tài hoa lãng mạn của
Ông trong lối thơ ngoạn cảnh như bài này.
(Bài
I)
Nắng
mai đón khách rải vẻ tươi thắm trên những sườn núi chập
chùng
Buổi chiều, cơn mưa cầm chân khách, rồi đưa khách vào làng say Tình ý đó bộc lộ một cách nồng nàn mà tự nhiên cho những người ngoạn cảnh. Vậy hãy nâng một chén mời ngài Thủy tiên vương.
(Bài
II)
Mặt
nước sáng lóng lánh, mưa vừa tạnh trông càng đẹp
Sắc núi quạnh ráo, mưa lại càng làm cho trông lạ ra. Có thể đem Tây hồ mà sánh với nàng Tây Tử Dù trang điểm sơ sài, hay rửa sạch hết phấn son, cả hai đều diễm lệ
3
DU
TÂY BỒ ĐỀ TỰ
Lộ
chuyển sơn yêu vị túc di
Thủy thanh thạch sấu tiện năng ký Bạch vân tự chiếm đông tây lãnh Minh nguyệt thùy phân thượng hạ trì Hắc tất hoàng lương sơ thục hậu Chu cam lục quất bán kiềm thì Nhân sinh thử lạc tu thiên phó Mạc khiến nhi lang thủ thứ tri 遊西菩寺 路转山腰足未移 水清石瘦便能奇 白雲自占东西嶺 明月谁分上下池 黑黍黄粟初熟候 朱柑绿橘半甜時 人生此樂须天付 莫遣兒曹取次知
Kỷ
Hiểu Lam, nhà bình thơ Đông Pha khá nổi tiếng, nói, nội
một bài này đã đủ mở ra thì phái Kiếm nam.
Kiếm
nam là đất Tứ xuyên, phong thổ đó đã lôi cuốn được
tay thi bá một thời: Tống Lục Du. Rồi tên đó trở thành
tập sách bất hủ của Lục Du.
Niên
hiệu Hi ninh thứ 7 (1074), theo lời chú của ông, ngày 27 tháng
8, ông cùng Mao Quan Bảo và Úy Phương Quân Vũ đi chơi ở Minh
Trí viện trên núi Tây bồ; tương truyền thơ đề khắc vào
đá nay vẫn còn (?). Chùa Tây bồ (đề) cách huyện Tiềm (?)
25 dặm.
Bài
thơ tả những phong thổ và nhân tình. Cảnh trí thơ mộng
với những con đường uốn lượn quanh co qua eo núi, với những
dòng nước trong, những tảng đá gầy ngộ nghĩnh, những cánh
đồng nức mùi lúa chín, những khu vườn đầy cam quít. Không
cần ngụ tình mà tình vẫn đẹp, đó cũng là chỗ độc đáo
trong lối thơ ngoạn cảnh của Ông.
Dịch
nghĩa. _ Đường đã chuyển quanh eo núi mà chân chưa dời bước.
Nước trong, đá gầy, càng trông lạ. Mây trắng chiếm trọn một giải từ ngọn núi đông sang tây. Trăng sáng, như chia ao ra làm trên và dưới. Lúa hắc thử, thóc hoàng lương vừa đến độ chín Cam đỏ quít xanh đang nửa mùa ngọt Cái vui đó của cuộc nhân sinh phải nói là của trời cho.
Đừng
để lại cho con cháu coi thường điều ấy. (Có lẽ ông ngụ
ý chê tân pháp của Vương An Thạch; cái thanh bình giả tạo
của người không sao hơn nổi cái vui có sẵn của trời cho)
4.
Những
bài thơ cảm hứng từ nhạc, ít khi được phô diễn trực
tiếp. Âm thanh phát ra từ cung bậc của nhạc, vượt ra ngoài
sự rung động bình thường; nó rung từ một chiều sâu bất
tận. Do đó, tiếng nhạc khi kích động dòng cảm hứng của
thơ, không còn là những tiếng có thể nghe bằng lỗ tai. Các
thi sĩ Trung Hoa cũng thường làm các bài thơ gợi hứng từ
nhạc, mà được truyền tụng nhiều nhất có lẽ là bài “Cầm
sắt” của Lý Thương Ẩn, với các câu độc đáo:
Trang
Chu hiểu mộng mê hồ điệp
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. Khúc đâu đầm ấm dương hòa Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh Khúc đâu êm ái xuân tình Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ quyên Trong sao châu dọ duềnh quyên Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông
Một
bài khác của Lý Hạ với những âm hưởng kỳ dị: Nghe Lý
Bằng đàn Không hầu. Đàn này là một loại nhạc khí được
chế từ đời Hán, có gốc ở rợ Hồ; hình gãy và dài, có
23 dây. Lý Bằng là tay đàn trong đám nhạc công của Đường
Huyền Tôn. Những câu tiêu biểu trong bài thơ này của Lý
Hạ:
Côn
sơn ngọc toái, phượng hoàng khiếu
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu Thập nhị môn tiền dung lãnh quang Nhị thập tam ty động Tử hoàng Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ (…..) Lộ cước tà phi thấp hàn thố
Tiếng
đàn như tiếng ngọc rạn vỡ trên Côn sơn, quê hương của
các loại ngọc. Tiếng đàn như tiếng phượng hoàng réo rắt.
Long lanh như phù dung khóc sương sớm. Như hương lan vừa hé
nụ. Mười hai cổng thành Trường an như đẫm ánh sáng mờ
lạnh lẽo. Hai mươi ba sợi tơ đàn ngân tiếng vang dội đến
chín cung trời. Chỗ Nữ Oa luyện đá vá trời, tiếng đàn
nghe đá vỡ, trời rung, tuôn mưa thu xuống…. Tiếng đàn như
sương mù lảng vảng dưới chân; như sương mù đẫm ướt
vầng trăng lạnh.
Nhạc
mà nghe đến chỗ đó là đã đến mức thượng thừa. Nhưng
vì lời thơ không nói thẳng vào lời nhạc được, mà luôn
luôn phải thác lời vào những cái không phải là nhạc, cho
nên, dễ trở thành sáo.
Một
bài thơ khác của ông, gợi hứng từ cuộc nghe đàn tranh tại
chùa Cam lộ, cũng chỉ phô diễn gián tiếp cảm hứng về
nhạc:
Giang
phi xuất thính vụ vũ sầu
Bạch lãng phiên không động phù ngọc Hoán thủ ngô gia song phượng tào Khiển tác Tam giáp cô viên hào
Ở
đây, tiếng nhạc lên khơi vơi cho bầu trời như thu mình trong
lớp bụi mưa mù. Từng tiếng nhạc bềnh bồng như từng hạt
ngọc lóng lánh trên lớp sóng. Đôi cánh phượng múa, và con
vượn lẻ loi kêu gào giữa sườn núi vắng.
Chỗ
tận cùng của nhạc là những đồng vọng không lời, mà lời
thơ lại cảm hứng từ đồng vọng đó; nghe đã khó mà nghe
qua lời thơ lại càng khó.
Bài
thơ của ông được trích dưới đây cũng nằm trong chỗ khó
này. Nó chỉ nói cái cảnh chung quanh chỗ tấu nhạc, mà không
nói thẳng tiếng nhạc. Nhưng nghe được từ chỗ đó, thì
thấy tình tự tài hoa của ông. Dĩ nhiên, không thể bàn cho
thấu đáo nổi. Trừ phi muốn nói lai rai mà chơi.
THÍNH
HIỀN SƯ CẦM
Đại
huyền xuân ôn hòa thả bình
Tiểu huyền liêm chiết lượng dĩ thanh Bình sinh vị thức cung dữ giốc Đản văn ngưu minh ảnh trung Trĩ đang mộc môn tiền bác trác Thùy khấu môn sơn tăng vị nhàn Quân vật sân Qui gia thả mịch thiên hộc thủy Tịnh tẩy tùng lai tranh địch nhĩ 聽賢師琴 大 絃 春 溫 和 且 平 小 絃 廉 折 亮 以 清 平 生 未 識 宮 與 角 但 聞 牛 鳴 盎 中 雉 登 木 門 前 剝啄 誰 叩 門 山 僧 未 閑 君 勿 嗔 歸 家 且 覓 千 斛 水 淨 洗 從 前 箏 笛 耳
Sư
Hiền là ai thì không rõ, nhưng tài chơi đàn của sư có lẽ
khá tuyệt vời. Nghe sư đàn, ông có cảm tưởng những tiếng
nhạc được nghe trước đây chỉ như tiếng trâu rống trong
ảng sành hay tiếng chim sẻ mổ cánh cửa gỗ; rửa sach cái
lỗ tai đó, cũng phải mất hết hằng nghìn thùng nước.
Tiết
điệu thơ bắt nhịp với cảm hứng thơ, tạo cho bài thơ
có phong vận tiêu sái đặc biệt.
Giây
lớn tỏa hơi ấm mùa xuân, vừa thong thả vừa nhịp nhàng.
Giây nhỏ nghe thanh thót, gãy gọn, mà trong sáng Bình sinh, tôi chưa biết cung và giốc là gì Chỉ nghe tiếng trâu rống trong ảng sành Hoặc con chim sẻ đậu trước cửa gỗ, mổ và rỉa Rồi có ai đến gõ cửa, thầy không còn rảnh nữa Ngài đừng giận! Về nhà, hãy kiếm một nghìn thùng nước, Rửa sạch cái lỗ tai vướng những tiếng tranh tiếng sáo trước kia.
5.
HỌA
TỬ DO TỐNG XUÂN
子由送椿
Mộng
lý thanh xuân khả đắc truy
Dục tương thi cú bạn dư huy Tửu lan bịnh khách duy tư thụy Mật thục hoàng phong diệc lại phi Thược dược anh đào cu tảo địa Bính ti thiền sắp tưỡng vong ki Bằng quân tá thủ pháp giới quán Nhất tẩy nhân gian vạn sự phi
夢裏青春可得追
欲將詩句絆餘暉 酒闌病客惟思睡 蜜熟黃蜂亦懶飛 芍葯櫻桃俱掃地 鬢絲禪榻兩忘機 憑君借取 法界觀 一洗人間萬事非
Bài
họa thơ Tống xuân của Tử Do
Bấy
giờ là cuối mùa xuân năm ất mão (1075), Ông 40 tuổi, đã
đổi sang làm quan ở Mật chây. Bài trích là một trong bốn
bài họa gởi cho Tử Do. Ông với Tử Do, ngoài tình anh em,
còn có mối giao tình thi tứ rất đậm đà, nên những bài
thơ qua lại mang nỗi ngậm ngùi khôn tả.
Trong
thời này, Ông phải ra đi một cách bất đắc dĩ, để tránh
tai họa; ẩn tình đó còn thấy rõ ở bài khác: vị ưng hồi
thủ yểm lung tù, chưa dám quay đầu, vì còn sợ tù đày giam
hãm.
Suốt
tám năm đi thông thú các nơi: Hàng châu, Mật châu, rồi Từ
châu, thơ Ông phần nhiều bị gò bó, rất ít bài có phong
vận tài hoa cố hữu. Những bài thơ làm để thù tạc thì
không đáng kể. Chúng vẫn hay về âm vận thanh tao, bút pháp
điêu luyện, nhưng vẫn chỉ là thù tạc. Những bài khác,
thường vương cái sầu héo, hiu hắt, của một người lữ
khách bất đắc dĩ:
Thanh
xuân thấp thoáng mộng dài
Muốn đem thi tứ dệt lời tà huy Tuổi thanh xuân chỉ còn tìm thấy thấp thoáng trong giấc mộng. Nên chỉ muốn mượn câu thơ kết dệt cái ánh tà huy còn sót lại của một đời người. Rượu đã tàn, người mệt mỏi, chỉ tưởng đến giấc ngủ cho xong. Mật đã chín, mà con ong vàng lại biếng bay. Thược dược và anh đào rải đầy mặt đất. Mái tóc bạc trắng và chiếc giường thiền, cả hai cùng lỡ cả. Chi bằng mượn môn Pháp giới quán của nhà Phật, Để một lần rửa sách hết vạn sự trong nhân gian, tất cả là không cả.
8.
Năm
đinh tị (1077), Ông 44 tuổi, từ Mật châu đổi sang Hà trung
phủ, rồi đến tháng 4 năm đó lại đổi sang Từ châu. Trước
khi đi, ông làm bài thơ lưu biệt này:
LƯU
BIỆT THÍCH CA VIỆN
Xuân
phong tiểu việc khước lai thì
Bích gian duy kiến sứ quân thi Ưng vấn sứ quân hà xứ khứ Bằng hoa thuyết dữ xuân phong tri Niên niên tuế tuế hà cùng dĩ Hoa tợ kim niên nhân lão hỉ Khứ niên Thôi Hộ khước trùng lai Tiền độ Lưu Lang tại thiên lý
留別釋迦院
春 風 小 院 卻 來 時 壁 間 惟 見 使 君 詩 應 問 使 君 何 處 去 憑 花 說 與 春 風 知 年 年 歲 歲 何 窮 已 花 似 今 年 人 老 喜 去 年 崔 護 若 重 來 前 度 劉 郎 在 千 里
Nếu
ngọn gió mùa xuân đi tới nơi chùa nhỏ,
Hẳn là chỉ thấy bài thơ của sứ quân đề trên vắc. Có lẽ sẽ hỏi sứ quân đi đâu Nhờ hoa nói cho ngọn gió biết Năm này rồi năm khác, bao giờ cùng tận nổi; Nhưng hoa vẫn còn như là hoa năm nay, Mà người thì đã cằn cỗi ra rồi. Nếu chàng Thôi Hộ năm xưa có trở lại lần nữa, Thì chàng Lưu đã đi ngoài xa diệu vợi
Từ
đầu đến cuối, ông hoàn toàn mượn ý cổ nhân. Nhưng vẫn
giữ được bản sắc. So hai câu 5 và 6 của ông với hai câu
Lưu Hi Di đời Đường:
Niên
niên tuế tuế hoa tương tợ
Tuế tuế niên niên nhân bất đồng
Trong
hai câu của Lưu Hi Di, những điệp ngữ muốn bắt theo cái
nhịp vận hành, đi và đến rồi đi của tuế nguyệt, cùng
cái đi mất của tuổi người. Nhưng lời còn pha nhiều vẻ
tục.
Ông
cũng dùng các điệp ngữ đó, nhưng cốt cách của chúng, cứ
so lại sẽ thấy. Đem tài hoa mà trộn vào tục, thì cái tục
trở thành thanh tao kỳ lạ!
9
ĐỘC
MẠNH GIAO THI
(I)
Dạ
độc Mạnh Giao thi
Tế tự như ngưu mao Hàn đăng chiếu hôn hoa Giai xứ nhất thời tao Cô phương[17] trạc hoang uế Khổ ngữ dư thi tao[18] Thủy thanh thạch tạc tạc Thoan kích bất thọ cao Sơ như thực tiểu ngư Sở đắc bất thường lao Hựu tợ chử bành việt[19] Cánh nhật trì không ngao Yếu đương đấu Tăng thanh Vị túc đường Hàn hào Nhân sinh như triêu lộ Nhật dạ hỏa tiêu cao Hà khổ tương lưỡng nhĩ Thính thử hàn trùng hào Bất như thả trí chi Ẩm ngã ngọc sắc giao.
(II)
Ngã
tắng Mạnh Giao thi
Phục tác Mạnh Giao ngữ Cơ trường tự minh hoán Không bích chuyển cơ thử Thì tùng phế phủ xuất Xuất triếp sầu phế phủ Hữu như Hoàng hà ngư Xuất cao dĩ tự chử Thượng ái đồng đấu ca[20] Bỉ lý phả cận cổ Đào cung xạ áp bãi Độc tốc[21] đoản thoa vũ Bất ưu đạp thuyền phiên Đạp lãng bất đạp thổ[22] Ngô cơ sương tuyết bạch Xích cước hoán bạch trữ Giá dữ đạp lãng nhi Bất thức li biệt khổ Ca quân giang hồ khúc Cảm ngã trường cơ lữ
讀
孟 郊 詩
細字 如 牛 毛 寒燈 照 昏 花 佳處一時 遭 孤 芳 擢 荒 穢 苦 語 餘 詩 騷 水 清 石 鑿 鑿 湍 激 不 受 篙 初 如 食 小 魚 所 得 不 償 勞 又 似 煮 彭 蚎 竟 日 持 空 螯 要 當 鬥 僧 清 未 足 當 韓 豪 人 生 如 朝 露 日 夜 火 消 膏 何 苦 將 兩 耳 聽 此 寒 蟲 號 不 如 且 置 之 飲 我 玉 色 醪
(II)
我
憎 孟 郊 詩
復 作 孟 郊 語 飢 腸 自 鳴 喚 空 壁 轉 飢 鼠 詩 從 肺 腑 出 出 輒 愁 肺 腑 有 如 黃 河 魚 出 膏 以 自 煮 尚 愛 銅 斗 歌 鄙 俚 頗 近 古 桃 弓 射 鴨 罷 獨 速 短 蓑 舞 不 憂 踏 船 翻 踏 浪 不 踏 土 吳 姬 霜 雪 白 赤 腳 浣 白 紵 嫁 與 踏 浪 兒 不 識 離 別 苦 歌 君 江 湖 曲 感 我 長 羈 旅 。
Mạnh
Giao, tự Đông Dã (751-814), người Lạc dương, ẩn cư Tung
sơn, gần 50 tuổi mới đến Trường An thi tiến sĩ. Năm Trinh
nguyên 12 (795), đậu tiến sĩ; năm sau được tuyển ra làm
Phiêu dương úy. Tính cô độc đơn bạc; thơ thì khúc mắc,
khắc khổ, bài nào cũng trầm buồn cùng độ; chúng như ẩn
khuất một tâm sự nào đó mà lời không nói hết. Hàn Dũ
rất thích thơ ông, kết bạn rất thân thiết. Mất năm 64
tuổi.
Hai
bài trích ở trên, Đông Pha làm theo lối thơ khúc mắc của
Mạnh Giao, gọi là thể thơ Đông dã. Kỷ Hiểu Lam phê rằng,
thể đó, dù Hàn Dũ và Phàn Tông Sư đời Đường rất thích,
nhưng chưa chắc đã làm nổi. Những Đông Pha cậy cái hùng
tài quán triệt của mình nên không ngại.
Lối
thơ này không cần giàu âm vận như các bài luật thi. Hai bài
của Đông Pha rất giàu hình ảnh, mà hình ảnh nào cũng độc
đáo, được gói trong các tiết nhịp khúc mắc, rất trầm
buồn. Buồn một cách cô đơn kỳ lạ.
(I)
Đêm
đọc thơ Mạnh Giao
Chữ nhỏ như lông trâu Đèn nhạt rọi hoa tối Cái hay lại gặp nhau Khơi vơi giủ cấu bợn Khúc mắc thơ héo sầu Nước trong đá vằng vặc Bọt xoáy không chịu sào Mới như ăn cá nhỏ Cái được chẳng thấm đâu Lại như bắt còng nấu Trọn ngày ôm cua sao? Có thể đọ Tăng thanh Chưa thể đọ Hàn hào Đời người như sương sớm Sáng tối lửa cạn dầu Sao khổ hai tai vễnh Nghe sâu lạnh lẽo kêu? Chi bằng bỏ quách đi Mời uống chén rượu ngầu.
(II)
Ta
ghét thơ Mạnh GiaoLại làm thể Đông dã Bụng đói sôi sục reo Chuột đói lần vách đá Thơ từ phế phủ ra Lại gây sầu phế phủ Tựa như cá Hoàng hà Phun dầu tự nấu nó Còn ham đồng đấu ca Quê kệch mường tượng cổ Cung đào bắn con vịt Lênh đênh múa áo lá Không sợ đạp lệch thuyền Đạp sóng chê đất thó Vợ tớ sương tuyết trắng Chân trần giặt vải lụa Làm vợ gã rong chơi Không màng li biệt khổ Hát khúc chàng giang hồ Rầu ta mãi cô lữ
10
THỨ
VẬN TĂNG TIỀM[23] KIẾN TẶNG
Đạo
nhân hung trung thủy kính thanh
Vạn tượng khởi diệt vô đào hình Độc y cổ tự chủng thu cúc Yến bạn tao nhân xan lạc anh Nhân gian để xứ hữu nam bắc Phân phân hồng nhạn hà tằng minh Bế môn tọa huyệt nhất thiền sáp Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh Kim nhật ngẫu xuất vị cầu pháp Dục dữ tuệ kiếm gia long hình Vân nam tân ma sơn thủy xuất Sương tì bất tiển nhi đồng kinh Công hầu dục thức bất khả đắc Cố tri ỷ thị vô khuynh thành Thu phong xuy mộng quá Hoài thủy Tưởng kiến quật dữu thùy không đình Cố nhân các tại thiên nhất giác Tương vọng lạc lạc như thần tinh Bành thành lão thú hà túc cố Táo lâm tang dã tương yêu nghinh Thiên sơn bất đạn hoang điếm viễn Lưỡng cước dục sấn như nhu khinh Đa sinh ỷ ngữ ma bất tận Thượng hữu uyển chuyển thi nhân tình Viên ngâm hạc lệ bản vô ý Bất tri hạ hữu hành nhân hành Không giai dạ vũ tự thanh tuyệt Thùy sử yểm ức đề cô quỳnh Ngã dục tiên sơn chuyết dao thảo Khuynh khuông tọa thán hà thời doanh Bạc thơ tiên phố tận điền ủy Chử minh thiêu lật nghi tiêu chinh Khất thủ ma ni chiếu trược thủy Cọng khan lạc nguyệt kim bồn doanh
次韻僧潛見贈
道 人 胸 中 水 鏡 清 萬 象 起 滅 無 逃 形 獨 依 古 寺 種 秋 菊 要 伴 騷 人 餐 落 英 人 問 底 處 有 南 北 紛 紛 鴻 雁 何 曾 冥 閉 門 坐 穴 一 禪 榻 頭 上 歲 月 空 崢 嶸 今 年 偶 出 為 求 法 欲 與 慧 劍 加 礱 硎 雲 衲 新 磨 山 水 出 霜 髭 不 剪 兒 童 驚 公 侯 欲 識 不 可 得 故 知 倚 市 無 傾 城 秋 風 吹 夢 過 淮 水 想 見 橘 柚 垂 空 庭 故 人 各 在 天 一 角 相 望 落 落 如 晨 星 彭 城 老 守 何 足 顧 棗 林 桑 野 相 邀 迎 千 山 不 憚 荒 店 遠 兩 腳 欲 趁 飛 猱 輕 多 生 綺 語 磨 不 盡 尚 有 宛 轉 詩 人 情 猿 吟 鶴 唳 本 無 意 不 知 下 有 行 人 行 空 階 夜 雨 自 清 絕 誰 使 掩 抑 啼 孤 惸 我 欲 仙 山 掇 瑤 草 傾 筐 坐 歎 何 時 盈 簿 書 鞭 扑 晝 填 委 煮 茗 燒 栗 宜 宵 征 乞 取 摩 尼 照 濁 水 共 看 落 月 金 盆 傾
Bi
này vốn là một bài họa, do thơ của Đào Tiềm tặng Ông.
Nói là họa, nhưng bút pháp và chương pháp của thơ rất ung
dung. Đó là chỗ điêu luyện của người làm thơ. Cốt cách
và đời sống của Đạo TIềm được tả trong những nét
rất linh hoạt. Ngay ở hai câu đầu, lời thơ và tứ thơ đã
đi ngay vào chỗ độc đáo bằng biết nhịp và hình ảnh sống
động. Thỉnh thoảng trong thơ đột nhiên nổi lên với những
hình ảnh rất đẹp được gói trong lời và tứ kỳ diệu.
Đại để các câu:
Bế
môn tọa huyệt nhất thiền sáp
Đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh Khép cửa hang sâu một giường thiền Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh
Năm
tháng là tuổi già, là mùa thu và tóc trắng, là những hoài
vọng xa xôi của nhà thơ. Hoài vọng đó là hình ảnh hiu hắt
khép kín cửa trong hang sâu giữa núi rừng xa vắng, và thầm
lặng trôi qua trên đầu nhà sư cô quạnh. Cho nên, tấm lòng
của sư như một mặt nước trong ngần, bao nhiêu chìm nổi
thiên hình vạn trạng của cõi đời hiện rõ lên trong đó.
Rồi
khi sư thả bộ rong chơi, màu áo còn pha màu sương khói của
núi rừng. Sư mang cái tình đạo đó kết duyên với tình thơ
của khách thơ, như ngọn gió mùa thu thổi những phương trời
viễn mộng đến làng thơ, thì tình thơ bỗng ngọt ngào như
cam quít đang mùa chín đỏ; một thứ ngọt ngào trầm lặng:
Thu
phong xuy mộng quá Hoài thủy
Tưởng kiến quật dữu thùy không đình
Gió
thu đưa mộng qua Hoài thủy
Này cam nọ quít rũ sân buồn
Khách
làng thơ lại muốn bỏ qua những ngày bươn bả, để cùng
sư, trong những đêm dài xa xôi, đốt củi nấu trà, ngồi
xem bóng trăng nghiêng xuống đáy cốc. Tình thơ sống động,
nhưng xa xôi và đơn bạc.
Tấm
lòng nhà đạo như nước phẳng;
Rọi bóng chìm nổi của cõi đời. Chùa xưa lẻ bóng trồng thu cúc Bạn với làng thơ thưởng chút tài Cõi nhân gian có chia đường nam nẻo bắc Mà cánh hồng cánh nhạn vẫn đơn độc lẻ loi Trên đầu năm tháng trôi chênh vênh Nay hứng dậy tìm duyên cùng khách tục Muốn đem kiếm tuệ miệt mài thêm Áo mây vừa khoác vương màu non nước Râu sương không cạo trẻ thấy mà kinh Công hầu muốn quen, quen chẳng được Mới biết nơi chợ không kẻ khuynh thành
Gió
thu thổi mộng qua Hoài Thủy
Tưởng thấy cam quít rũ sân buồn Bè bạn mỗi người riêng một cõi, Trông nhau lác đác như sao mai Người bận việc quan thôi khỏi nói Rừng táo nương dâu mong đợi nhau Đường xa quán lẻ không đáng ngại, Gót vượn nhẹ nhàng bước như bay. Lời đẹp mấy đời còn dệt mãi, Tình thơ uyển chuyển còn nhau đây, Vượn gào hạc réo thế là thế, Nào biết người đi qua dưới này Thềm vắng, mưa đêm, buồn da diết, Nghẹn ngào cô quạnh khóc ai đây? Tôi muốn núi tiên bứt cỏ dao, Nghiêng giỏ ngồi than, đầy được sao? Chép sách, đánh roi, đã làm hết, Nấu trà đốt củi hẹn đêm nào. Xin hạt ma ni soi nước đục, Cùng đợi đáy cốc trăng lao xao.
[1]
TÚ CHÂU, một dãy đất chạy dài từ huyện Gia Hưng tỉnh
Triết Giang đến huyện Tùng Giang tỉnh Giang Tô
[2]
NGÔ ÂM, hay THANH GIANG, điệu nhạc Thanh thương khúc, thịnh
hành tại các vùng Giang Nam, đất Ngô, qua các điệu dân dao.
Đến đời Đường, điệu ca biến đổi về sau ít truyền
tụng.
Ngô
âm cũng chỉ cho giọng nói vùng đất Ngô trung nằm ở đông
bộ tỉnh Giang tô và tây bộ tỉnh Triết giang.
Ngô
âm ở đây có nghĩa bình thường: giọng nói của TỚ; lối
nói thông thường của người đất Thục.
[3]
THỤC TẨU, cụ giả đất Thục, chỉ cho Văn trưởng lão,
cùng quê với Ông ở đất Thục.
[4]
NGA MI, núi Nga Mi, hai ngọn đối nhau như hai nét lông mày. Nhà
Phật gọi là núi Quang Minh. Đạo gia gọi là Hư linh động
thiên; hoặc Linh Lăng thái điện thiên. Núi ở phía Tây nam
huyện Nga mi tỉnh Tứ Xuyên. Tại tây bắc huyện giáp tỉnh
Hà Nam cũng thấy một ngọn mà ông cho là giống với Nga Mi
ở quê ông nên đặt tên là Tiểu Nga Mi, trên đó có đền
thờ Tam Tô (ba cha con Ông)
[5]
THIÊN THAI, ngọn núi phía bắc huyện Thiên thai tỉnh Triết
Giang. Tương truyền, đời Hán có Lưu Thần và Nguyễn Triệu
vào núi hái thuốc mà gặp tiên.
[6]
TRIẾT ĐÔNG, đông nam bộ trong tỉnh Triết Giang
[7]
DẠ VĂN, có chỗ chép SẦU VĂN
[8]
BA TẨU, cũng như Thục tẩu, do chữ Ba thục (xem chú thích
bài trước)
[9]
HOANG ĐỒN, có chỗ chép HOANG THÔN
[10]
VÃNG SỰ: hai câu 3 và 4, có lẽ ông muốn nhắc đến chuyện
năm tân hợi, xích mích đảng Vương An Thạch, suýt vong
mạng. Nay đi tìm lại người cố cựu, thấy lại tình quê
hương vẫn đậm đà. Nhưng tình đó không nói thành lời được.
Chỉ có “ Con Oanh học nói trên cành mỉa mai” thôi ư?
[11]
HƯƠNG TỈNH, giếng làng, chỉ cho tình hương lý
[12]
VIÊN TRẠCH, tăng đời Đường; bạn là Lý Thiện Nguyện ba
lần chứng kiến sự tái sinh của sư. Lần chót, do hẹn gặp
nhau tại chùa Thiên Trúc, vào đêm trăng thu, Thiện Nguyên y
hẹn, vừa đến cổng chùa, bỗng thấy một mục đồng ngồi
trên lưng trâu ca:
Tam
sinh thạch tượng cựu linh hồn
Thưởng
nguyệt ngâm phong bất yếu luân
Tàm
quĩ tình nhân viễn tương phỏng
Thử
thân tuy dị tánh thường tồn
[13]
CÁT HỒNG, người đời Tấn, tự xưng Tiểu Cát tiên
ông; thích phép đạo dưỡng của thần tiên; nghe đồn Giao
chỉ có nhiều đan sa, dẫn con cháu đến núi La phù luyện
đan, khi đan thành thì thi thể đã rã. Ở đây ngụ ý người
không sao thoát khỏi cái chết.
[14]
THỦY TIÊN VƯƠNG, Ông tựchú: trên hồ có miếu Thủy Tiên
vương
[15]
TÂY HỒ, có tám nơi tất cả, mà trong bài này chỉ cho Tây
hồ thành tây huyện Hàng châu tỉnh Triết giang. Hồ này còn
có những tên khác: hồ TIỀN ĐƯỜNG, hồ MINH THÁNH, hồ KIM
NGƯU. Nhân câu thơ của Ông: “Dục bả “Tây hồ tỉ Tây
Tử”, nên cũng được gọi là hồ Tây Tử. Ba mặt là núi
vây quanh; nam và bắc có hai ngọn núi cao đối nhau, trong hồ
có các con đê Tô, Bạch, chia nước hồ ra làm HỒ TRONG và
HỒ NGOÀI và HỒ SAU. Bốn mùa phong vật tốt tươi, với 10
cảnh trí nên thơ và nổi danh.
[16]
TÂY TỬ, tức Tây Thi
[17]
CÔ PHƯƠNG, cao vọi một mình, tuyệt hẳn thói tục.
Thơ
Hàn Dũ:
Dị
chất kỵ xử quần
Cô
phương nan ký lâm
(chất
riêng không cùng bọn. Cao vọi khó ở rừng)
Thơ
Chu Hy:
Long
đông điêu bách hủy
Giang
hải lệ cô phương
(Trời
lạnh cây cỏ úa. Sông biển một mình trôi.)
[18]
THI TAO, nỗi sầu héo của thơ. Thơ buồn khổ
[19]
BÀNH VIỆT, có lẽ con còng, loại cua nhỏ
[20]
ĐỒNG ĐẤU CA. Chữ trong thơ Mạnh Giao
Đồng
đấu ẩm giang tửu
Thủ
phách đồng đấu ca
(Đấu
đồng uống rượu sông, tay vỗ đấu đồng ca)
[21]
ĐẠP THUYỀN, ĐỘC TỐC. Thơ Mạnh Giao:
Cước
đạp tiểu thuyền đầu
Độc
tốc vô quyển sa
(Gót
đạp đầu thuyền nhỏ, lênh đênh không bến cỏ.)
[22]
ĐẠP LÃNG, ĐẠP THỔ. Chữ trong thơ Mạnh Giao:
Nùng
thị đạp lãng nhi
Mỗi
đạp thanh lãng du
Tiếu
y hương cống lang
Đạp
thổ xưng phong lưu.
(Ta
là người sóng xanh, cưỡi sóng mà rong chơi. Cười y gã hương
cống, dẫm đất gọi phong lưu.)
[23]
TĂNG TIỀM: Tăng Đạo Tiềm ở Tiền Đường, hiệu Sam Liêu
Tử, trơ vơ như sao Hôm hoàng hôn, là bạn thơ rất thân với
Đông Pha.
(1080-1085)
LỜI
DẪN
Trên
đoạn đường Lữ Thứ, lịch sử bỗng đổ dồn lên Đất
Trích. Đó là vùng đất hoành hành của mưa rừng gió núi,
của Thiên Nhiên tàn bạo. Tạo hóa thì hung hăng, mà tạo vật
thì bé bỏng. Giữa những đêm giông bão dị thường,
giữa lúc đèn mờ khuya khoắt, con chuột đói mò ra đi kiếm
ăn. Hoặc trong đám hoa rừng cỏ dại, chướng khí sơn lam,
nhánh hải đường với nụ son bé bỏng cũng mang cốt cách
thanh cao ra mà chen chúc.
Cuộc
lịch nghiệm nơi vùng đất Trích tàn bạo với nỗ lực phấn
đấu kỳ cùng, trước thảm họa của Tử sinh trường mộng,
ở đây cũng đã sẵn sàng vạch sẵn lối gai rừng để nghe
đồng vọng của Lô sơn chân diện mục. Trong khi đó,
thảm họa lịch sử theo nước lũ Trường Giang đổ vào Xích
Bích. Thế thì, tại chỗ này, Lịch sử đã mang tài hoa của
nó tụ về trong tinh thể Đông Pha. Và từ đó, Đông Pha cư
sĩ bước ngay vào dòng Lịch sử Chung của một dân tộc, làm
cha già tóc trắng cho Một dân tộc.
Những
bàithơ sau đây, không có những bài về Lô sơn hay đồng Lô
sơn, hay mang âm hưởng ẩn hiện nào đó của Lô sơn chân
diện mục, cũng không có những bài xuôi giòng Đại giang Đông
khứ, trên mặt sông Xích bích. Hai chỗ đó là tinh thể và
cách điệu tài hoa của ông. Một đằng là Lô sơn ẩn hiện
giữa mây trắng sương mù ôm ấp những khát vọng sâu thẳm
nhất của con người. Một đằng là nước lũ của một giang
sơn như họa cuộn anh hùng hào kiệt một thời theo thảm hoạc
lịch sử đổ dồn vào biển rộng mù khơi. Nhưng đấy là
những tinh thể kết tụ trong phương trời viễn mộng. Nếu
nơi đây chúng ta nghe được tận cùng những phấn đấu gian
khổ của tồn sinh, những phẫn nộ và những ngậm ngùi cay
đắng của tồn sinh, thì phương trời viễn mộng kia tức
khắc sẽ mở ra.
I
Năm
1078, tháng 7, đổi sang Hồ châu, ông dâng biểu tạ về triều.
Bị sàm tấu, phải ngồi tù. Án từ không nhất quyết. Thần
tông mến tài, miễn tội tử. Lại nhờ em ông, Tử Do xin đổi
chức quan chuộc tội cho ông. Tháng 12 năm đó ông ra khỏi
ngục.
Khi
ở trong ngục, ông làm 2 bài thơ, nhờ cai ngục gởi cho Tử
Do. Thơ tự trách và có vẻ tuyệt vọng, vì ông tưởng là
không thoát khỏi án tử hình.
Đại
khái:
Thị
xứ thanh sơn khả mai cốt
Tha niên dạ vũ độc thương thần Dữ quan thế thế vi huynh đệ Hựu kết lai sinh vị liễu nhân
Nơi
này non xanh có thể chôn xương được. Sang năm mưa đêm chỉ
riêng hồn mình lạnh lẽo. Ước nguyện cùng nhau (ông và Tử
Do) đời đời làm anh em; lại kết duyên nợ đời vĩnh viễn
của văn chương.
Ông
được tha, giáng chức làm đoàn luyện phó sứ, bị đày đi
quản thúc ở Hoàng châu.
Tháng
giêng năm canh thân 1079, ông lên đường. Tử Do từ Nam đô
đến gặp ông tại Trần, ở lại cùng ông ba ngày, rồi chia
tau. Ông làm bài thơ chia tay. Đại khái:
Biệt
lai vị nhất niên
Lạc tận kiêu khí phù
Mới
cách nhau chưa đầy một năm, cái kiêu khí đã tan hết. và
ông tự trách;
Chí
ngôn tuy cửu phục
Phóng tâm bất tự thâu
Đã
học lời của Thánh Hiền từ bao lâu nằm lòng rồi, nhưng
vẫn phóng tâm bừa bãi, gây tai vạ.
Ngày
18 tháng giêng năm đó, trên đường đi ngang Thai châu gặp
tuyết, ông làm 2 bài thơ cho Tử Do, lại nói:
Vãn
tuế ích khả tu
Phạm tuyết phương nam bôn Càng già lại càng thêm thẹn; đội tuyết mà phải chạy sang nam!
Ngang
Tân tức, gặp người đồng hương lập nghiệp ở đó, ông
tặng bài thơ thất ngôn cổ thi:
Trần
ai ngã diệc thất thâu thân
Thử hành tắng đắng vưu khả bỉ
Ông
nói, mình cũng sa chân vào chốn trần ai, lưu lạc tha phương;
nhưng cái đi đó gian nan quá tệ.
Các
nơi đi ngang qua, ông vẫn làm thơ, vẫn ngoạn cảnh; nhưng
lời thơ đượm nỗi buồn phiền u ẩn. Khi chơi chùa Tịnh
cư, nơi này trước kia Trí Khải gặp Huệ Tư đại sư mà
đắc đạo, rồi về núi Thiên Thai trụ trì, lập ra Phật
giáo Thiên Thai tông; ông làm thơ có những câu:
Bất
ngộ tục duyên tại
Thất
thân đạp nguy cơ
Chưa
tỏ ngộ đạo lý, tục duyên còn nặng; để cho sa chân vào
bước nguy cơ.
Và
những câu khác:
Khể thủ lưỡng túc tôn Cử đầu song thế huy Linh sơn hội vị tán Bát bộ do quang huy
Cúi
đầu lạy đức Như Lai; cất đầu dậy lau đôi hàng lệ.
Tưởng như trên hội Linh Sơn ngày nào như lai giảng kinh Pháp
hoa nói đạo lý thượng thừa, bây giờ vẫn còn đó, tám
bộ chúng vẫn rực rỡ
Lời
thơ tuy không cao ngạo mà đảm lược hùng tâm vẫn còn. Cõi
thơ của ông vì vậy mà mênh mông heo hút; lời thơ của ông
là cả giọng chí thành. Sầu khổ thì có, mà sầu hận thô
lỗ thì không. Đó là một điểm nhỏ trong cái phong vận tao
nhã và cao kỳ và bao la của ông.
Rồi
đến Hoàng Châu, ngủ đêm tại chùa Thiền trí. Cảnh chùa
hoang lương. Hình ảnh trong thơ hiện ra một màu hiu hắt. Một
ngọn đèn tàn leo lét trên bàn Phật; một con chuột đói bò
ra kiếm ăn,; mưa đêm đổ xuống hàng tre; và một bài thơ
cổ sót lại trong trí nhớ. Khách phong trần lưu lạc gặp
cảnh thơ đó có thể rũ sạch được những oan tình u ẩn
nghìn đời.
Phật
đăng tiệm ám cơ thử xuất
Sơn vũ hốt lai tu trúc minh Tri thị hà nhân cựu thi cú Dĩ ưng tri ngã thử thời tình.
Ông
tự viết lời dẫn : “: Lúc thiếu niên, có lần tôi đi ngang
qua một thôn viện, thấy trên vách có thơ:
Dạ
lương nghi hữu vũ
Viện tĩnh tợ vô tăng Đêm lạnh chừng mưa gió Chùa vắng như không sư.
“Không
biết thơ của ai. Ban đêm, ngủ lại chùa Thiền Trí, Hoàng
Châu. Sư trong chùa đều vắng hết. Nửa đêm trời mưa. Ngẫu
nhiên nhớ bài thơ đó, nên làm một bài tuyệt cú.”
Bấy
giờ ông vừa ở tù ra, bị đày tới Hoàng Châu. Lời thơ
có vẻ mông lung, cay đắng.
Ngày
1, tháng 2, tới Hoàng Châu. Gia đình Ông ở cả tại Nam Đô,
chỉ một mình Tử Mại, con trai lớn của Ông, đến với Ông.
Khi mới đến Hoàng Châu, ông làm bài thơ dưới đây:
Tự
tiếu bình sinh vị khẩu mang
Lão lai sự nghiệp chuyển hoang đường Trường giang nhiễu quách tri ngư mĩ Hảo trúc liên sơn giác duẫn hương Trục khách bất phương viên ngoạI trí Thi nhân lệ tác thủy tào lang Chỉ tâm vô bổ ti hào sự Thượng phi quan gia áp tửu nang
Cười
ta bình sinh miệng nói nhăng
Già rồi sự nghiệp càng hoang đường Trường giang vỗ bến cho cá béo Tre rậm đầy non thơm mùi măng Khách lang bạt khỏi phiền viên ngoại Lệ nhà thơ ghi sổ tang bồng Chỉ thẹn không nên chuyện gì hết Uổng thay dốc túi rượu nhà quan
(Ông
tự chú cho câu chót: Quan kiểm hiệu có lệ nếu ai làm được
nhiều việc thì thưởng một bình rượu khi về. Ở đây,
ý muốn nói, Ông tới là bận rộn người ta phải tốn
công ghi danh vào sổ bạ)
2.
HẢI
ĐƯỜNG
Giang
thành địa chướng phồn thảo mộc
Chỉ hữu danh hoa khổ ưu độc yển nhiên nhất tiếu trúc ly gian Đào lý mạn sơn tổng thô tục Dã tri tạo vật hữu thâm ý Cố khiển giai nhân tại không cốc Tự nhiên phú quí xuất thiên tư Bất đãi kim bàn tiến hoa ốc Chu thần đắc tửu vựng sinh kiểm Thúy tụ quyển sa hồng ánh nhục Lâm thâm vụ án hiểu quang trì Nhật noãn phong khinh xuân thụy túc Vũ trung hữu lệ diệc thê thương Nguyệt hạ vô nhân cánh thanh thục Tiên sinh bão thực vô nhất sự Tán bộ tiêu dao tự môn phúc Bất vấn nhân gia dữ tăng xá Trụ trượng xao môn khán tu trúc Hốt phùng tuyệt diễm chiếu suy hủ Thán tức vô tín khải bịnh mục lậu bang hà xứ đắc thử hoa Vô nãi hiếu sự đi Tây Thục Thốn căn thiến lý bất dị đáo Hàm tử phi lai định hồng hộc Thiên nha lưu lạc cu khả niệm Vị ẩm nhất tôn ca thử khúc Minh triêu tửu tĩnh quá độc lai Tuyết lạc phân phân na nhẫn xúc
海棠
江城地瘴蕃草木
只有名花苦幽独
嫣然一笑竹篱间
桃李满山总粗俗
也知造物有深意
故遣佳人在空谷
自然富贵出天姿
不待金盘荐华屋
朱唇得酒晕生脸
翠袖卷纱红映肉
林深雾暗晓光迟
日暖风轻春睡足
雨中有泪亦凄怆
月下无人更清淑
先生食饱无一事
散步逍遥自扪腹
不问人家与僧舍
拄杖敲门看修竹
忽逢绝艳照衰朽
叹息无言揩病目
陋邦何处得此花
无乃好事移西蜀
寸根千里不易到
衔子飞来定鸿鹄
天涯流落俱可念
为饮一樽歌此曲
明朝酒醒还独来
雪落纷纷哪忍触
Ông
cư ngụ tại chùa Định Huệ. Phía đông chùa, hoa tạp đầy
núi, giữa đó chen một cây hải đường. Thổ nhân không biết
là quí. Nhân đó, làm bài thơ vịnh hải đường.
Thơ
ngụ ẩn tình. Cốt cách trang nhã của hải đường gây nên
nơi ông một cảm hứng tuyệt diệu. Lối thơ này, thường
dễ trở thành một đề tài sáo, giả tạo và khoa trương.
Kiểu cách của nó là sao cho đạt đến mức nói riêng vật
mà tình ẩn, nói tiêng tình mà vật hiện. Nhưng còn phải
đợi bàn tay tài hoa phổ vào mới thành tuyệt diệu. Vật
trở thành cao quí trong tình ẩn, và người cũng trở thành
tao nhã nơi vật hiện.. Cái đó là do phong tư tú lệ của
tao nhân; tay phàm tùc khó mà vươn tới mức. Nó hệ ở chỗ
tương ứng của thanh khí lẽ hằng. Cho nên, tiết nhịp của
bài thơ không cần sôi nổi lãng mạn mà nguồn cảm hứng
rung động sâu xa như là bất tận. Chỗ đó, Kỷ Hiểu Lam
phê rằng: “Hoàn toàn nói về hải đường, nhưng tự ngụ
ý phong tư tú lệ của mình. Bắt đầu hứng khởi thì thâm
trầm vi nhiệm. Nửa chừng thì nở rộ tươi sáng. Lối thơ
đó nếu không thực sự là Đông Pha thì không ai làm nổi.
Đông Pha nếu không hứng khởi trong một lúc, vị tất đã
làm nổi”
Đất
giang thành nhiều chướng khí nên nhiều cây cỏ hoang dại.
Chỉ
có một loại danh hoa, cây hải đường, mọc chen lấn giữa
đó, nằm lẻ loi buồn tẻ.
Một
khi nó nhởn nhơ hé nụ nơi hàng dậu,
Thì
tất cả đào, lý khắp một vùng núi này thảy là thô tục
Thế
nên mới biết tạo vật có thâm ý,
Nên
khiến cho loài hoa quý đó lánh mình nơi hang hốc vắng vẻ.
Cái
cốt cách cao sang của nó vốn là trời cho tự nhiên vậy,
Không
phải đợi có mâm vàng dâng vào cửa nhà sang cả mới thành
quí.
Nụ
hồng tươi như say men rượu ửng lên đôi má,
Tàn
lá như cánh tay áo màu xanh thẳm vén lên giải lụa để lộ
thịt da ánh hồng.
Sa
mù phủ mờ cả khu rừng dày chằng chịt nên nắng mai lên
trễ,
Mặt
trời ấm, gió nhẹ, giấc ngủ mùa xuân rất thoải mái.
Lúc
mưa, trong cơn mưa những giọt nước đọng long lanh trông cũng
khá sầu muộn;
Lúc
có trăng, dưới trăng vắng bóng người, trông lại càng yểu
điệu cao sang.
Tiên
sinh ăn một bữa no, không một việc làm,
Ông
thả bước tiêu dao, tự sờ tay vào bụng của mình.
Không
cần hỏi đó là nhà của người tục hay của sư tăng.
Chống
gậy đến gõ cửa xem hàng tre đứng thẳng
Bỗng
gặp một vẻ tuyệt diễm bừng lên giữa hàng giậu đổ nát.
Ông
than thở không nói một lời, nhướng con mắt mờ kém lên:
Đất
quê này sao lại có thứ hoa này?
Há
không phải do người hiếu sự mang nó từ đất Tây thục
đến?
Nhưng
tấc rễ ngắn của nó không dễ gì mang đi xa xôi như vậy
nổi.
Có
lẽ chim hồng hay chim hộc ngậm hạt của nó mang đến đây.
Cũng
đáng ngậm ngùi cho nó lưu lạc tận ven trời xa xôi này;
Nên
vì thay nó mà uống một chén và ca một khúc ca đó.
Sáng
hôm sau, tỉnh rượu lại, đến đây một mình,
Thấy
tuyết bay phơi phới, tưởng chừng như không nỡ đụng đến
nó.
3.
Bấy
giờ khoảng cuối tháng 2 hay đầu tháng 3 gì đó. Ông đến
Hoàng châu trên dưới đã một tháng. Sau cơn mưa tạnh, ông
thả bộ đến dưới đình Tứ vọng, bên trên hồ cá, rồi
từ gò đông phía trước chùa càn Minh trở về, làm hai bài
thơ luật năm chữ. Mùa hải đường đã qua, đang đợi mùa
mai năm tới. Cảnh chiều, tiếng ếch nhái sau cơn mưa, tiếng
chim trong nắng ngả về chiều, bóng người vắng vẻ. Cũng
là một nỗi niềm tâm sự nào đó của tuổi ông.
(I)
Vũ
quá phù bình hợp
Oa thanh mãn tứ lân Hải đường chân nhất mộng Mai tử dục thường tân Trụ tượng nhân khiêu thái Thu thiên bất kiến nhân Ân cần mộc thược dược Độc tự điện dư xuân
(II)
Cao
đình cửu dĩ phế
Hạ hữu chủng ngư đường. Mộ sắc thiên sơn nhập Xuân phong bách thảo hương Thị kiều nhân tịch tịch Cổ tự trúc thương thương Quán hạc hà lai xứ Hào minh mãn tịch dương
雨
過 浮 萍 合
蛙 聲 滿 四 鄰 海 棠 真 一 夢 梅 子 欲 嘗 新 拄 杖 閑 挑 菜 鞦 韆 不 見 人 殷 勤 木 芍 藥 獨 自 殿 餘 春 高亭久已廢 下有種魚塘 暮色千山入 春風百草香 市橋人寂寂 古寺竹蒼蒼 鸛鶴來何處 號鳴滿夕陽
Mưa
qua bèo kết tụ
Ếch kêu dậy xóm làng Hải đườngqua cơn mộng Còn đợi mùa mai sang gậy thọc chơi rau cỏ Người không, vắng bóng tường Chăm chỉ cây thược dược Một mình riêmg một xuân Đình cao phế mấy độ Phía dưới có ngư đường Bóng chiều chen bóng núi Gió thoảng bay ngàn hương Cầu chợ người thưa thớt Chùa xưa tre xanh xanh Cò vạc từ đâu đến Kêu réo dậy tà dương
4.
Ngụ
tại chùa Định Huệ được 3 tháng; tháng 5, ông dời sang
Lâm cao đình (phía nam huyện Hoàng cương tỉnh Hồ bắc, bắc
ngạn sông trường giang. Cũng gọi là lâm cao quán)
Tử
Do lược ký: Từ đình nhìn ra, nam bắc chừng trăm dặm, ban
ngày ghe thuyền lui tới phía trước, ban đêm nghe tiếng như
ngư long kêu gào ở phía dưới; phía tây trông thấy các ngọn
núi huyện Vũ dương; gò đống nhấp nhô, cây cối hàng hàng,
khói bốc cuồn cuộn, rải rác nhà ngư phủ, tiều phu, đếm
được đầu ngón tay.
Ông
đến Lâm cao đình, dựng nhà ở, đặt tên là nhà Tuyết,
vì làm trong mùa đại tuyết; đọc Chiến quốc sách, và làm
bài thơ dưới đây:
Ngã
sinh thiên địa gian
Nhất nghị ký đại má Khu khu dục hữu hành Bất cứu phong luân tả. Tuy vận tẩu nhân nghĩa Vị miễn vi hàng ngạ Kiếm mễ hữu nguy xuy Châm chiên vô ổn tọa Khởi vô giai sơn thủy Tá nhãn phong vũ quá Qui điền bất đãi lão Dũng quyết phàm kỷ cá Hạnh tư phế khí dư Bì mã giải yên đà Toàn gia cổ giang dịch Tuyệt cảnh thiên vi phá Cơ bần tương thừa trừ Vị kiến khả điếu hạ Đạm nhiên vô ưu lạc Khổ ngữ bất thành ta
我生天地間,
一蟻寄大磨。 區區欲右行, 不救風輪左。 雖云走仁義, 未免違寒餓。 劍米有危炊, 針氈無穩坐。 豈無佳山水, 借眼風雨過。 歸田不待老, 永訣凡幾個。 幸玆廢棄餘, 疲馬解鞍馱。 全家占江驛, 絕境天為破。 飢貧相乘除, 未見可弔賀。 澹然無憂樂, 苦語不成些
Ta
sinh trong trời đất
Như kiến bò cối đá Nhắm hữu khu khu đi Không kể gió xoay tả Nói chạy theo nhân nghĩa Chưa khỏi chuyện cơm áo. Gạo như gươm, thổi rát mặt Áo như kim chích ngồi không yên Há không non nước đẹp Ghé mắt mưa gió qua Về ruộng nõ đợi già Sức lực còn đôi chút May nhờ đất phế thải Ngựa cùng thảo yên cương Lấy bến sông làm nhà Trời dọn cho tuyệt cảnh Đói rách thừa trừ nhau Khỏi chia buồn chia vui Vừa vừa không cực sướng Nói chi đến chuyện khổ
5
Buổi sáng, đến Ba hà khẩu đón Tử Do: Khứ niên ngự sử phủ Cử động xúc tứ bích U u bách xích tỉnh Ngưỡng thiên vô nhất tịch Cách tường văn ca hô Tự hận kế chi thất Lưu thi bất nhẫn tả Khổ lệ tí chỉ bút Dư sinh phục hà hạnh Vinh sự hữu kim nhật Giang lưu kính diện tĩnh Yên vũ khinh mạc mạc Cô chu như phù ế Điểm phá thiên khoảnh bích Văn quân tại Từ hồ Dục kiến cách chỉ xích Triêu lai hảo phong sắc Kỳ vĩ tây bắc trịch Hành đương trung lưu kiến Tiếu nhãn thanh quang dật Thử bang nghi khả lão Tu trúc đái tuyền thạch Dục mãi Kha thị lâm Tư mưu đãi quân tất
去年御史府
举动触四壁。 幽幽百尺井, 仰天無一席。 隔墙聞歌呼, 自恨計之失。 留詩不忍寫, 苦淚渍紙筆。 餘生復何幸, 榮事有今日 江流鏡面淨, 煙雨輕冪冪。 孤舟如鳧黳, 點破千頃碧。 聞君在磁湖, 欲見隔咫尺。 朝來好風色, 旗腳西北擲。 行當中流見, 笑眼清光溢。 此邦疑可老, 修竹帶泉石。 欲買柯氏林, 玆謀待君必
Mấy
câu đầu, ông tả lại cảnh ngồi tù tại phủ ngự sử năm
ngoái. Phần giữa nói tâm trạng của ông khi đi đón Tử Do,
vào buổi sáng, tại Ba hà khẩu. Cuối cùng, ông nói với Tử
Do về tình trạng sinh sống thường nhật, và cùng những dụ
tính ngày sau. Ông có cảm giác như vĩnh viễn lưu đày tại
đất Hoàng Châu đó.
Năm
ngoái phủ ngự sử
Tay chân chạm vách tường Hun hút trăm thước giếng Trông trời không chiếu manh Nghe ca hô cách vách Hận mình tính hỏng trơn Thư lưu không nỡ viết Lệ khổ đẫm giấy bút Còn sống thế là may Mới có niềm vui này
Sng
trôi mặt nước phẳng
Mưa nhẹ khói mù bay Thuyền lẻ như cò vạc Chấm phá biếc trời mây Nghe chú tại Từ hồ Muốn gặp trong gang tấc Buổi sáng phong cảnh tốt nhắm Tây bắc phất cờ Rồi gặp ở trung lưu cười hai mắt sáng chói Đất này thôi dưỡng già Hàng tre ôm đá suối Muốn mua rừng họ Kha Đợi chú lo mới nổi
6.
ĐÔNG
PHA BẤT THỦ 東坡八首
I
Phế
lỗi vô nhân cố
Đồi viên mãn bồng cao Thùy năng quyên trợ lực Tuế vãn bất thường lao độc hữu cô lữ nhân thiên cùng vô sở đào đoan lai thập ngõa lịch tuế hạn thổ bất cao kỳ khu thảo cức trung Dục quát nhất thốn mao Vị nhiên thích lỗi thán Ngã lẫm hà thời cao
II
Hoang
điền tuy lãng mãng
Cao tì các hữu thích Hạ thấp chủng canh thuật Đông nguyên thì táo lật Giang nam hữu Thục sĩ Tang quả dĩ hứa khất Hảo trúc bất nam tài Đản khủng tiên hoành dật Nhưng tu bốc giai xứ Qui dĩ an ngã thất Gia đồng thiêu khô thảo Tẩu báo ám tỉnh xuất Nhất bão vị cảm kỳ Biều ẩm dĩ khả tất
III
Tự
tích hữu vi tuyền
Lai tùng viễn lĩnh bối Xuyên thành quá tụ lạc Lưu ác tráng bồng ngải Khứ vi Kha thị pha Thập mẫu ngư hà hội Tuế hạn tuyền dĩ kiệt Khô bình niêm phá khối Tạc dạ nam sơn vân Vũ đáo nhất lê ngoại Huyễn nhiên tầm cố độc Tri ngã lý hoang hội Nê cần hữu túc căn Nhất thốn ta độc tại Tuyết nha hà thời động Xuân cưu hành khả quái
I
Chủng
đạo thanh minh tiền
Lạc sự ngã năng sổ Mao khong ám xuân trạch Châm thủy văn hảo ngữ Phân ương cập sơ hạ Tiệm hỉ phong diệp cử Nguyệt minh khán lộ thượng Nhất nhất châu thùy lũ Thu lai sương huệ trọng Điên đảo tương xanh trụ Đản văn huề lũng gian Trách mãnh như phong vũ Tân xuân tiện nhập tắng Ngọc diệp chiếu không lữ Ngã cửu thực quan thương Hồng hủ đẳng nê thổ Hành đương tri thử vị Khẩu phúc ngữ dĩ hứa
V
Lương
nông tích địa lực
Hạnh thử thập niên hoang Tang giá vị cập thành Nhất mạch thứ khả vọng Đầu chủng vị dũ nguyệt Phúc khối dĩ thương thương Nông phu cáo ngã ngôn Vật sử miêu diệp xương Quân dục phú binh nhĩ Yếu tu túng ngưu dương Tái bái tạ khổ ngôn Đắc bảo bất cảm vong
VI
Chủng
tảo kỳ khả bác
Chủng tùng kỳ khả đoạn Sự tại thập niên ngoại Ngô kế diệc dĩ khác Thập niên hà thúc đạo Thiên tải như phong bạc Cựu văn Lý Hành nô Thử sách nghi khả học Ngã hữu đồng xá lang Quan cư tại Tiềm nhạc Di ngã tam thốn cam Chiếu tòa quang trác lạc Bách tài thảng khả trí Đương xuân cập băng ác Tưởng kiến trúc ly gian Thanh hoàng chiếu ốc giác
VIII
Phan
tử cựu bất điệu
Cô tửu Giang Nam thôn Quách sinh bản tương chủng Mại dược Tây thị viên Cổ sinh diệc hiếu sự Khủng thị áp nha tôn Gia hữu thập mẫu trúc Vô thời dung khấu môn Ngã cùng giao cựu tuyệt Tam tử độc kiến tồn Tùng ngã ư Đông Pha Lao hưởng đồng nhất xan Khả liên Đỗ Thập di Sự dữ Chu Nguyễn luân Ngô Sư Bốc Tử Hạ Tứ hải giai đệ côn.
VIII
Mã
sinh bản cùng sĩ
Tùng ngã nhị thập niên Nhật dạ vọng ngã quí Cậu phận mãi sơn tiền Ngã kim phản lụy quân Tá canh chuyết tư điền Quát mao qui bối thượng Hà thời đắc thành chiên Khả liên Mã sinh si Chỉ kim khoa ngã hiền Chúng tiếu chung bất hối Thí nhất đương hoạch thiên
廢壘無人顧,
頹垣滿篷篙。 誰能捐筋力, 歲晚不償勞。 獨有孤旅人 天窮無所逃 端來拾瓦礫 歲旱土不膏 崎嶇草棘中 欲刮一寸毛 喟焉釋耒嘆 我廩何時高
荒雖浪莽
高庳各有適 下隰種秔稌 東原蒔棗栗 江南有蜀士 桑果已許乞 好竹不難栽 但恐鞭橫逸 仍須卜佳處 規以安我室 家僮燒枯草 走報暗井出 一飽未敢期 瓢飲已可必
自有微泉
來從遠嶺背 穿城過聚落 流惡壯蓬艾 去為柯氏陂 十畝魚蝦會 歲旱泉已竭 枯萍粘破塊 昨夜南山雲 雨到一犁外 泫然尋故瀆 知我理荒薈 泥芹有宿根 一寸嗟獨在 雪芽何時動 春鳩行可膾
種稻清明前
樂事我能數 毛空暗春澤 針水間好語 分秧及夏初 漸喜風葉舉 月明看露上 一一珠垂縷 秋來霜穗重 顛倒相撐拄 但聞畦隴間 蚱蜢如風雨 新春便入甑 玉粒照筐筥 我久食官仓 红腐等泥土 行當知此味 口腹語已許
良農惜地力
幸此十年荒 桑柘未及成 一麦庶可望 投种未逾月 覆塊已苍苍 農父告我言 勿使苗葉昌 君欲富饼饵 要须纵牛羊 再拜谢苦言 得饱不敢忘
种枣期可剥
种松期可斫 事在十年外 吾計亦已悫 十年何足道 千载如風雹 舊聞李衡奴 此策疑可學 我有同舍郎 官居在灊岳 遗我三寸甘 照座光卓荦 百栽倘可致 當及春冰渥 想見竹篱間 青黄照屋角 潘子久不調 沽酒江南村 郭生本将種 賣葯西市垣 古生亦好事 恐是押牙孫 家有十畝竹 無時客叩門 我穷交舊絕 三子獨見存 従我菸東坡 劳饷同一餐 可憐杜拾遗 事與朱阮掄 吾師卜子夏 四海皆弟昆
馬生本窮士
従我二十年 日夜望我貴 求分買山钱 我今反累君 借耕輟兹田 刮毛龜背上 何時得成氈 可憐馬生癡 至今夸我賢 眾笑终不悔 施一當獲千
Đông
Pha, khoảng đất phía đông Hoàng Châu. Ông về làm ruộng
ở đó, tự hiệu Đông Pha cư sĩ. Tám bài thơ làm tại đây,
tả cảnh sinh hoạt thường nhật của Ông.
Ông
tự viết lời dẫn cho cả tám bài thơ:
“Tôi
đến Hoàng Châu được hai năm, càng ngày càng túng quẫn.
Người bạn cũ Mã Chính Khanh, cám cảnh tôi thiếu ăn,
nên lo hộ trong quân cho tôi được vài mươi mẫu đất trồng
trọt, để tôi ở đó cày cuốc. Đất bỏ hoang từ lâu, gai,
tranh, gạch ngói, các thứ chen chúc nhau tràn lan. Mà năm lại
gặp đại hạn, việc khai khẩn quá mệt nhọc, gân sức rã
rời hết, buông cày đứng than thở. Mới làm các bài thơ
đó. Tư an ủi sự siêng năng của mình sẽ được đền bù
năm sau, do đó quên cả mệt nhọc”
Tám
bài thơ thuật sự, nên chương pháp như một bài tản văn.
Lời thơ và tình tự, chất phác và nồng nàn. Ở đây có
thể thưởng thức tài làm thơ lão luyện của ông. Và cũng
có thể nghe được đâu là tâm tình dịu ngọt của một nhà
thơ. Ông nói tới những công lao cực nhọc của người làm
ruộng, những lo lắng khi trời hạn hán. Rồi tới cái vui
và tình làng xóm giao hảo. Tại đó, ông có ba ngườ bạn
nông dân thân thiết, bác Phan, bác Quách và bác Cổ. Thú đồng
quê cực nhọc mà tựa như nhàn. Hai câu kết trong bài (I) là
hứng thơ như mạch ngầm chảy suốt qua cả tám bài:
Vị
nhiên thích lỗi thán
Ngã lẫm hà thời cao
Buông
cây đứng than thở
Kho lúa bao giờ đầy?
Ông
đã ghi lại ý tưởng đó trong lời dẫn. Buông cây đứng
than thở, đứng bùi ngùi thở dài…. Thở dài cho kho lúa đầy
cao, và cũng thở dài cho trời thơ và cõi mộng xa xôi.
(I)
Ruông
đất bỏ hoang, không ai đoái tưởng tới. Vườn tược đổ
nát, lau lách mọc đầy. Ai mà ra gân sức cho nổi; rồi vãn
một năm không bù lại công khó.
Chỉ
có người bị lưu đày cô quạnh, góc bể chân trời không
chỗ trốn, mới hăm hở đến dọn gạch, dọn ngói. Năm hạn,
đất không dẻo. Giữa đám gai lởm chởm, chừng như
muốn bứt từng sợi lông. Rồi bùi ngùi buông cày đứng than
thở, biết bao giờ cho đụn lúa đầy cao?
(II)
Ruộng
hoang dù cỏ dại mọc đầy, nhưng cũng cất được căn nhà
thấp. Chỗ trũng thấp thì trồng lúa canh, lúa thuật; đất
bằng ở mé đông trồng rau thì là, trồng táo, trồng dẻ.
Đất
Giang nam bấy giờ có kẻ quê ở đất Thục (tức là ông)
đã yên phận trồng dâu trồng trái. Tre tốt trồng không khó,
nhưng sợ người ta chặt làm roi (Gieo cái tài sản của mình
cho tốt, tâm mình cho thẳng như tre, tránh sao khỏi đời nó
bẻ làm roi)
Nay
đã chọn được chỗ ở tốt, việc nhà đã thu xếp ngăn
nắp rồi. Sắp trẻ đốt cỏ khô, chạy tới báo tin có mạch
nước ngầm. Nhưng một bữa no, không mong gì hơn nữa; uống
nước trong cũng đã đủ lắm.
(III)
Chỗ
này trước kia có con suối nhỏ, từ sau dãy núi xa xôi chảy
đến, len lỏi qua thị thành, qua các làng mạc, cuốn đi những
thứ hại, làm tươi tốt lau sậy. Rồi chảy qua bờ ruộng
nhà họ Kha, cả mười mẫu đầy những tôm và cá. Đến năm
nay, trời hạn, suối cũng cạn; bèo khô dính bám vào những
mảng đất lở.
Đêm
hôm qua, mây kéo trên núi nam, mưa dâng chừng ngập lưỡi cày,
mênh mông chảy theo con lạch cũ; mới biết ta đã dọn sạch
hết cỏ dại. Rau cần, mọc chen dưới bùn, còn lại chút
rễ, vắn chừng một tấc. Chồi trắng như tuyết bao giờ
động, để đến mùa xuân, bắt chim cưu mà ăn thịt thái
(Ông tự chú: Người đất Thục quí chồi non rau cần, xắt
nó trộn với thịt thái chim cưu mà ăn)
(IV)
Trồng
lúa trước thanh minh, có thể tính được nỗi vui sướng của
mình. Trời mưa bay như lông bay, phủ mờ ao hồ mùa xuân; nghe
những tiếng hớn hở nói lúa đã chích nước (ông tự chú:
Người Thục gọi mưa bay là mưa lông. Lúa khi vừa trổ, nông
phu bảo nhau là lúa sẽ chích nước.)
Rải
mạ đợi mùa hè, mừng dấn thấy gió đã lay ngọn. Trăng
sáng rọi trên sương, như từng hạt ngọc kết vạt áo rũ.
Mùa thu, sương nặng trên bông lúa; cọng lúa nghiêng ngửa
giữ nhau đứng vững. Nghe trên các bờ ruộng, cào cào kêu
như mưa như gió (Ông tự chú: tại đất Thục, vào mùa lúa
chín, cào cào bay từng đàn giữa ruộng; dáng như sâu lúa,
nhưng không làm hại lúa.)
Xuân
mới, chợt đi vào trong chậu; hạt ngọc lấp lánh trong thúng
mủng. Từ lâu, ta ăn gạo thóc quan, trái hồng thúi coi như
đất bùn. Đâu biết được mùi vị này, đã chịu vừa
miệng vừa bụng ta lắm rồi.
(V)
Nhà
nông giỏi thì biết tiếc sức của đất. Đất này nhớ mười
năm bỏ hoang, dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn, có thể
mong được một mùa lúa mạch. Gieo giống chưa đầy tháng,
đã thấy xanh mượt trên các gò đất. Nông phu bảo ta rằng,
đừng để lá mạ lên hết mức; nếu anh muốn giàu bánh trái,
nên thả trâu dê ra. Lại bái tạ lời thiết tha đó. Được
no cơm, sẽ không dám quên.
(VI)
Trồng
cây táo chờ đến mùa bóc vỏ; trồng cây thông cũng chờ
đến mùa đốn được. Đó là việc mười năm sau; nhưng việc
tính toán của mình coi như đã tốt đẹp. Mười năm có là
bao? Một nghìn năm thì cũng như gió rào, mưa đá. Xưa kia,
có nghe chuyện người tớ của Lý Hành. Cái cách đó có lẽ
học được.
Tôi
có người bà con, làm quan ở Tiềm Nhạc, tặng cho cây cam
chừng ba tấc; rọi chỗ ngồi sáng chói. Trồng nó hàng trăm
lần mới được. Gặp lúc mùa xuân, tuyết bám đầy, tưởng
chừng như nơi hàng dậu, màu xanh màu vàng rũ bên góc nhà.
(VII)
Bác
Phan từ lâu không đến rủ đi mua rượu xóm Giang nam. Bác
Quách đang sửa soạn gieo giống, bán thuốc ở chợ Tây. Bác
Cổ lại khá bày vẽ, chắc là bắt con cháu nhín răng. Nhà
có mười mẫu tre, không hề có người đến đập cửa.
Ta còn ở bước đường cùng, bạn ngày xưa không còn ai. Chỉ
còn thấy có ba bác đó, theo ta ở Đông pha, cùng làm lụng
mệt nhọc rồi cùng chung bữa. Khá thương Đỗ Thập Di (Đỗ
Phủ). Việc gì mà bàn với Chu Nguyễn? Thầy ta là Bốc Tử
hạ, bốn biển đều là anh em.
(VIII)
Bác
Mã vốn một gã nghèo cùng, theo ta hai mươi năm; ngày đêm
coi trọng ta, xin góp tiền mua núi! Ta nay làm lụy đến bác.
Nhờ bác cho cày ruộng đó. Nhưng nhổ lông trên lưng con rùa,
bao giò dệt thành chiếc mũ dạ cho nổI? Đáng thương bác
mã dạI dột, đến nay cứ tâng bốc ta là hay. Người ta cười
cho mà không hối, cứ như cho một lấy lại nghìn!
7.
Mùa
đông chí, cháu ông, An Tiết đến thăm. Ông ra Hoàng châu đến
bây giờ đã gần hai năm. Tình cố quận, tình tha hương, cả
hai đền mặn mà. Tuổi ông lúc đó gần tròn 46, mà đầu
đã bạc. Mùa thu, tóc trắng, đâu đâu cũng đồng vọng âm
hưởng tịch liêu. Một già một trẻ, nơi đồi núi xa xăm,
sự đời như sóng nước Trường Giang; tháng 9 đã bắt đầu
mùa nước lũ; cuối đông, sương mù kéo dày trùng điệp.
Cái nồng nàn, thắm thiết của hồn thơ, biết đâu là cùng
tận? Con chuột đói lần ra trong những đêm vắng. Tạo vật
vốn dĩ vô tình, nhưng tuế nguyệt la đà, mây trời chìm nổi;
thì trên những triền núi cheo leo, có khi cũng có thể nghe
được tiếng đồng vọng mơ hồ của đêm dài heo hút. Đồng
vọng đó cũng có thể thấy ở chỗ “năm tháng cheo leo”,
hay năm tháng trơ vơ. Nắng buổi chiều trợt dốc dài trên
sườn núi, ruỗi dài giữa cô quạnh mông lung. Cái đó như
là tâm sự được ký thác bên kia bờ viễn mộng; tâm sự
riêng biệt của năm tháng, hay của cánh chim hồng, bay ngang
qua dòng thác thời gian đổ xuống ào ạt?
I
Nam
lai bất giác tuế tranh vanh
Tọa bát hàn hôi thính vũ thanh Già nhãn văn thơ nguyên bất độc Bạn nhân đặng hỏa diệc đa tình Ta dư lạo đạo vô qui nhật Linh nhữ ta đà dĩ bán sanh Miễn sử Hàn công bi thế sự bạch đầu hoàn đối đoản đăng khanh[1]
I
Tâm suy diện cải sấu tranh vanh Tương kiến duy ưng thức cựu thanh Vĩnh dạ tư gia tại hà xư Tàn niên tri nhữ viễn lai tình Úy nhân mặc tọa thành si độn Vấn cựu kinh hô bán tử sanh Mộng đoạn tửu thinh thu vũ tuyệt Tiếu khan cơ thử thượng đăng khanh
南来不觉岁峥嵘
坐拨寒灰听雨聲
遮眼文书元不讀
伴人燈火亦多情
嗟余潦倒無歸日
今汝跎已半生。
免使韩公悲世事
白頭遑對短燈檠
心衰面改瘦峥嵘
相見惟應識舊聲
永夜思家在何處
残年知汝遠来情。
畏人默坐成痴钝
問舊驚呼半死生
梦断酒醒山雨絕
笑看饑鼠上橙檠。
(I)
Từ
sang nam, bỗng chốc năm đã chầy heo hút,
Giữa đêm dài ngồi khơi tro lạnh nghe mưa rơi Tay che mắt, thơ văn nguyên chẳng đọc, Bên bóng đèn ánh lửa ấm tình người Ta lận đận mấy năm trường lưu lạc, Cháu bon chen bươn bả nửa đời rồi. Thế sự đó ông Hàn xưa khỏi khóc, Đèn vắn chân tóc trắng vẫn chưa thay.
(II)
Tâm
suy mặt đổi gầy hốc hác,
Gặp nhau qua giọng cũ mà thôi Quê hương xa đồng vọng đêm dài Cháu lặn lội sưởi tình năm tháng lại Ngồi lặng tiếng bởi sợ người nên ngây dại, Bạn bè xưa sống chết nghĩ mà kinh Rượu tỉnh mơ tàn mưa đã dứt Cười xem chuột đói leo chân đèn
8
I
Cơ
nhân hốt mộng phạn tắng dật
Mộng trung nhất bão bách ưu thất Chỉ tri mộng phạn bản lai không Vị ngộ chân cơ thị hà vật Ngã sinh vô điền thực phá nghiễn Nhĩ lai nghiển khô ma bất xuất Khứ niên thái tuế không tại dậu Bàng xá hồ tương bất dụng khất Kim niên hạn tuế phục như thử Tuế vãn hà dĩ kiềm ngô đột Thanh thiên đãng đãng hô bất văn Huống dục khê thủ hào nê Phật Úng trung tích dịch vưu khả tiếu Kỳ kỳ mạch mạch hà đẳng trật Âm dương hữu thì vũ hữu số Dân thị thiên dân thiên tự tuất Ngã tuy cùng khổ bất như nhân Yếu diệc tự thị dân chi nhất Hình dung tuy thị táng gia cẩu Vị khẳng nhị nhĩ tranh đầu cốt Đảo quán lạc trách tạ bằng hữu Độc dữ văn lôi cọng khuê tất. Cố nhân sân ngã bất khai môn Quân thị ngã môn thùy khẳng khuất Khả liên minh nguyệt như bát thủy Dạ bán thanh quang phiên ngã thất Phong tùng nam lai phi vũ hầu Thả vị bì nhân tẩy chưng uất Khiên thường nhất họa khoái tai dao Vị hạ cơ hàn niệm minh nhật
飢
人 忽 夢 飯 甑 溢 ,
夢
中 一 飽 百 憂 失 。
只
知 夢 飽 本 來 空 ,
未
悟 真 飢 定 何 物 。
我
生 無 田 食 破 硯 ,
爾
來 硯 枯 磨 不 出 。
去
年 太 歲 空 在 酉 ,
傍
舍 壺 漿 不 容 乞 。
今
年 旱 勢 復 如 此 ,
歲
晚 何 以 黔 吾 突 。
青
天 蕩 蕩 呼 不 聞 ,
況
欲 稽 首 號 泥 佛 。
甕
中 蜥 蜴 尤 可 笑 ,
跂
跂 脈 脈 何 等 秩 。
陰
陽 有 時 雨 有 數 ,
民
是 天 民 天 自 卹 。
我
雖 窮 苦 不 如 人 ,
要
亦 自 是 民 之 一 。
形
容 可 似 喪 家 狗 ,
未
肯 聑 耳 爭 投 骨 。
倒
冠 落 幘 謝 朋 友 ,
獨
與 蚊 雷 共 圭 蓽 。
故
人 嗔 我 不 開 門 ,
君
視 我 門 誰 肯 屈 。
可
憐 明 月 如 潑 水 ,
夜
半 清 光 翻 我 室 。
風
從 南 來 非 雨 候 ,
且
為 疲 人 洗 蒸 鬱 。
褰
裳 一 和 快 哉 謠 ,
未
暇 飢 寒 念 明 日 。
II
Khứ
niên đông pha thập ngỏa lịch
Tự
chủng hoàng tang tam bách xích
Kim
niên ngải thảo cái tuyết đường
Nhật
chích phong xuy diện như mặc
Bình
sinh lại đọa kim thủy hối
Lão
đại cần nông thiên sở trực
Phái
nhiên lệ tứ tam xích vũ
Tạo
hóa vô tâm hoảng nan trắc
Tứ
phương thượng hạ đồng nhất vân
Cam
chú bất vi long sở cách
Bồng
cao hạ thấp nghinh hiểu lỗi
Đăng
hỏa tân lương thôi dạ chức
Lão
phu tác bãi đắc cam tẩm
Ngọa
thính tường đông nhân hưởng kịch
Bôn
lưu vị dĩ khanh cốc bình
Chiết
vi khô hà tứ phiêu nịch
Hủ
nho thô lệ chi bách niên
Lực
canh bất thọ chúng mục liên
Pha
pha lậu thủy bất nại hạn
Nhân
lực vị chí cầu thiên toàn
Hội
đương tác đường kính thiên bộ
Hoành
đoạn tây bắc già sơn tuyền
Tứ
lân tương suất trợ cử xử
Nhân
nhân tri ngã nang vô tiền
Minh
niên cọng khan quyết cừ vũ
Cơ
bão tại ngã ninh quan thiên
Thùy
năng bạn ngã điền gian ẩm
Túy
đảo duy hưu chi đầu chuyên
去
年 東 坡 拾 瓦 礫 ,
自
種 黃 桑 三 百 尺 。
今
年 刈 草 蓋 雪 堂 ,
日
炙 風 吹 面 如 墨 。
平
生 懶 惰 今 始 悔 ,
老
大 勸 農 天 所 直 。
沛
然 例 賜 三 尺 雨 ,
造
物 無 心 怳 難 測 。
四
方 上 下 同 一 雲 ,
甘
霪 不 為 龍 所 隔 。
蓬
蒿 下 濕 迎 曉 耒 ,
燈
火 新 涼 催 夜 織 。
老
夫 作 罷 得 甘 寢 ,
臥
聽 牆 東 人 響 屐 。
奔
流 未 已 坑 谷 平 ,
折
葦 枯 荷 恣 漂 溺 。
腐
儒 麤 糲 支 百 年 ,
力
耕 不 受 眾 目 憐 。
破
陂 漏 水 不 耐 旱 ,
人
力 未 至 求 天 全 。
會
當 作 塘 徑 千 步 ,
橫
斷 西 北 遮 山 泉 。
四
鄰 相 率 助 舉 杵 ,
人
人 知 我 囊 無 錢 。
明
年 共 看 決 渠 雨 ,
飢
飽 在 我 寧 關 天 。
誰
能 伴 我 田 間 飲 ,
醉
倒 惟 有 支 頭 磚 。
III
Thiên
công hiệu lệnh tái bất xuất
Thập nhật sầu lâm tính vi nhất Quân gia hữu điền thủy mạo điện Ngã gia vô điền ưu nhập thất Bất như Tây châu Dương đạo sĩ Vạn lý tùy thân duy lưỡng tất Duyên lưu bất ố tố diệc giai Nhất diệp biển chu nhiệm phong đột Sơn khung mạch khúc đô bất dụng Nê hành lộ túc chung vô tật Dạ lai cơ trường như chuyển lôi Lữ sầu phi tửu bất khả khai Dương sinh tự ngôn thức âm luật Động tiêu nhập thủ thanh thả ai Bất tu cánh đãi thu tỉnh sáp Kiến nhân bạch cốt phương hàm bôi 公号令再不出, 十日愁霖併為一。 君家有田水冒田,
我家無田憂入室。
不如西州杨道士,
萬里随身惟两膝。
沿流不恶惡斥亦佳,
一葉扁舟任風突。
山芎麦麴都不用,
泥行露宿终無疾。
夜來飢腸如轉雷,
旅愁非酒不可開。
杨生自言識音律,
洞蕭入手清且哀。
不须更待秋井塌,
见人白骨方衔杯。
Ba
bài họa thơ của Không Nghị Phủ. Thơ họa vần, nhưng cốt
cách không phải là họa. Không chỉ tài tình, mà còn tài hoa
nữa. Giọng khinh bạc, thì cao vòi vọi. Giọng cay đắng, thì
cay cùng cực. Giọng nồng nàn, giọng giận dữ. Trong một
cảm tình, Đó há không là những phương trời viễn mộng,
trong cùng một lúc, bỗng đột ngột hiện về? Ban đầu ông
nói sử tình nắng hạn và cảnh khó của ông. Rồi bất chợt
lời thơ như phẫn nộ, có thể thấy những chỗ ông gằn
giọng, Cuối cùng là giọng thơ trở nên điềm đạm, và đến
lúc chấm dựt thì ngậm ngùi: rượu nồng cho tình người
nồng nàn trong một cõi nhân sinh, và xương trắng lạnh lùng
với đất cho lịch sử trở thành những lời vĩnh tịch
Nắng
hạn cùng cực, mưa gió cùng cực; mọi cái hiện ra trong sự
cùng cực sôi động. Lời thơ có phẫn nộ, có phóng dật,
mang tất cả phong vận tài hoa sôi động, nhưng phảng phất
một cõi trầm lặng tịch liêu; một viên đá nhỏ nằm giữa
ngã ba đường, trong cảnh tượng náo nhiệt. Hồn thơ tỏa
ra từ đó, bao trùm cả một cõi thơ bát ngát. Đá cuội say
sưa nghiêng ngửa, và xương trắng lạnh lùng không nói: đâu
là trời thơ? Đó là dấu lặng trong một bản đại hòa tấu.
Không nên nghe một cách khinh suất.
Dịch
nghĩa
(Các
bài này vạn nhất đừng cố dịch theo vần điệu. Người
đọc dù không biết một tí chữ Hán. Trời thơ sẽ đến
bất ngờ. Mai sau xương trắng cửa mình nín lặng dưới lòng
đất, nhưng đá cuội bên đường sẽ nghe ra hế, và gật
đầu trong sự tình giao ứng.)
I
Người
đói bỗng nằm mộng thấy bát cơm đầy;
Một
bữa no trong cơn mộng mà một trăm nỗi ưu phiền tiêu tất
cả
Chỉ
biết rằng cái no trong mộng bản lai là không.
Chứ
chưa tỏ ngộ được cái đói thực sự là cái gì.
Tôi
sinh ra không có ruộng, kiếm ăn bằng nghiên mực mẻ;
Từ
lâu nghiên mực đã khô, mài không ra
Năm
ngoái sao Thái tuế nằm trơ tại dậu,
Nhà
bên cạnh, một lọ tương cũng không chịu xin.
Mà
năm nay, cái thế hạn lại như vậy.
Cuối
năm, lấy gì nấu cho đen ống khói nhà tôi?
Trời
xanh vòi vọi, kêu không thấu.
Còn
lại muốn cúi đầu réo Phật đất nữa ư?
Con
thằn lằn trong vò lại đáng nực cười
Bò
tới bò lui lịch kịch, chẳng ra đầu đuôi gì cả.
Âm
dương có thời, mưa gió có số
Dân
là dân của trời, trời phải thương;
Tôi
tuy cùng khổ, chẳng hơn được ai,
Nhưng
cũng là một người trong đám dân đó.
Hình
dung tuy như con chó nhà ma,
Nhưng
chưa chịu vểnh tai dành cái mẩu xương vứt ra đó.
Bứt
giải, lột mũ, tạ bạn bè,
Một
mình cùng với lũ ruồi, chúng kêu vo vo như sấm, bu lại trên
đám hành.
Bạn
bè giận tôi không mở cửa
Nhưng
ngài thử coi, ai khứng nghiêng mình trước cửa nhà tôi?
Chỉ
thương tình trăng ngây thơ tuôn ánh sáng như nước xối,
Nửa
đêm đổ ánh sáng mát lọt vào nhà ta,
Gió
từ nam thổi tới, chưa phải là lúc có mưa
Nhưng
cũng vì cái người mệt mỏi mà rửa sách những nực nội
ấm ức trong lòng
Vén
tay áo đáp lại bằng một bài dao: rằng sướng thay!
Nhưng
chưa một thoáng, lại nghĩ tới chuyện đói no ngày mai.
II
Năm
ngoái, dọn gạch ngói tại đông pha,
Tự
trồng dâu trong ba trăm thước đất.
Năm
này cắt cỏ lợp nhà tuyết
Nắng
rám, gió thổi, mặt đen như mực.
Bình
sinh biếng nhác, nay mới hối.
Già
nua mà chăm chỉ làm ruộng, nên trời thương,
Chiếu
lệ đổ mưa rầm rầm, cao ba thước.
Tạo
hóa vô tâm, mù mờ khó lường nổi.
Mây
cả một vùng, khắp bốn phía, từ trên đến dưới;
Đổ
mưa dầm không ngớt, không cho rồng nghỉ ngơi.
Sớm
mai, lau sậy dưới đất trùng đã đón lưỡi cày.
Đèn
lửa sáng tươi trở lại, thúc giục người ta dệt vải ban
đêm.
Lão
phu làm ruộng xong được một giấc ngon;
Nằm
nghe bên tường đông có người khua tiếng guốc.
Nước
chảy chưa bao lâu, hầm hố đầy cả.
Lau
gãy, sen héo, mặc tình chìm nổi.
Hủ
nho giã gạo thô tưởng chừng một trăm năm chưa chắc xong;
Ra
sức cày, mà cày không nổi, con mắt mọi người trông thấy
mà thương.
Bờ
ruộng vỡ, nước chảy tràn vào, bất kể trời hạn.
Sức
người chưa ra hết sực, lại phải cầu trời làm trọn cho,
mới mong!
Lại
phải đào ao, dài một nghìn bộ,
Nằm
ngang cắt đôi tây bắc, cản suối trên đổ xuống.
Hàng
xóm kéo nhau đến giúp tay, nhắc hộ cái chày!
Ai
ai cũng biết túi tôi không mống tiền.
Sang
năm rồi coi, mưa sẽ làm vỡ con kênh đó!
Đói
no tại ta, mắc chi đến trời?
Ai
có thể ngồi uống rượu với ta giữa ruộng?
Đó
là viên sỏi đầu ngã ba, nó đã say nghiêng ngửa.
IV
Ông
trời không ban hiệu lệnh mưa nữa.
Mưa
một lần suốt luôn mười hôm, dầm dề ủ dột.
Nhà
bác có ruộng, nước tuôn ngập ruộng
Nhà
tôi không ruộng lại lo nước tràn lên thềm.
Chẳng
bằng như Tây Châu Dương đạo sĩ,
Đi
hàng vạn dăm, chỉ theo mình hai cái đầu gối.
Xuôi
dòng không ghét, ngược dòng cũng tốt
Một
mảng thuyền, mặc tình trôi.
Cỏ
thuốc rừng, rượu bếp tẻ, đều không cần.
Lội
bùn, ngủ sương, không vội vã;
Nhưng
đêm đến, bụng đói, kêu như sấm
Thì
cái sầu cô lữ, không rượu, làm sao nguôi?
Lão
Dương tự cho giỏi âm luật,
Đưa
sáo vào tay, tiếng nghe trong mà buồn.
Khỏi
đợi giếng mùa thu vỡ nước
Thấy
người xương trắng mới ngậm chén.
[1]
Đoản đăng khanh, chân đèn vắng, trong m ột b ài th ơ c ủa
H àn Dũ . Đại khái: chân đèn dài, tám thước, chỉ để
mà dài; chân đèn vắn, hai thước, vừa tiện lại vừa sáng,
Anh học trò lúc 20 tuổi, giã nhà đi lập danh phận. Đêm đêm
chong đèn ngồi đọc sách trước cây đèn chân vắn. Rồi
sau giàu sang, chong đèn chân dài cho đẹp nhà đẹp cửa. Cây
đèn chân vắn bị bỏ rơi, nằm buồn câm nín tại một góc
tường
Bóng
đèn khuya, con chuột đói, và nỗi buồn lữ thứ
LỜI
DẪN
Trăng
thanh cấm trên kia vùng sa mạc
Trời Vũ lâm in mộng triệu sông hồ
Đó
là bầu trời đồng vọng, trong tương ứng. Thơ chen chúc giữa
những gió và nhưng bụi của kinh thành, của ngọc đường
kim mã, nên cái đồng vọng nghe ra những tiếng nghẹn ngào.
Thăng hay trầm trong cuộc sống, cái đó không làm ra Thơ, không
tạo dựng nổi cõi thơ. Không phải đi từ cực đỉnh công
hầu xuống đến tận chỗ đọa đày cùng quẫn áo cơm mà
trời Thơ có thể mở rộng. Thơ là cánh nạn lạc bầy đi
tìm kiếm quê hương khắp suốt sơn cùng thủy tận, mà quê
hương vẫn đồng vọng trong cách điệu không lời, không chốn.
Thì người lịch nghiệm tồn sinh trên đôi cánh mỏng của
Thơ, đến đâu chẳng là đất Trích. Gió bấc lạnh kinh hồn
thổi vèo sương tuyết lên cùng sa mạc của đất Trích, cho
nên trời trăng sao kia vẫn in mộng triệu sông hồ. Nhưng,
trăng sao trên đó, và sông hồ dưới này, hai cõi miền xa
xôi hoằng viễn. Mộng triệu đó mới thành ra là Viễn mộng.
Bầu trời đó mới trở nên Trời Viễn mộng đọa đày cuộc
Lữ. Rồi kỳ cùng của cuộc Lữ sẽ là đâu?
I
(I)
Trúc
ngoại đào hoa tam lưỡng chi
Xuân giang thủy noãn áp tiên tri Lâu cao mãn địa lô nha đoản Chính thị hà đồn dục thượng thì
竹外桃花三两枝,
春江水暖鸭先知 萎蒿满地芦芽短 正是河豚欲上时
(II)
Lưỡng
lưỡng qui hồng dục phá quần
Y y hoàn tợ bắc qui nhân Diêu tri sóc mạc đa phong tuyết Cánh đãi Giang nam bán nguyệt xuân 兩兩歸鴻欲破群, 依依還似北歸人。 遙知朔漠多風雪, 更待江南半月春
Mùa
xuân, ở Huệ sùng, buổi chiều trên sông. Bấy giờ là vào
năm bính dần (1086), ông đã trở về kinh, sau năm năm bị
biếm trích. Tâm sự vẫn như cánh nhạn lạc bầy, giữa đất
kinh kỳ của sa mạc bắc phương, đầy sương tuyết.
I
Ngoài
khóm trúc đào hoa mấy nhánh
Nước mùa xuân nắng ấm vịt hay rồi Lau lách um tùm, chồi vi lô vừa lú Cá lòng sông lên đớp bóng ăn mồi
II
Đường
lên bắc mấy cánh hồng lẻ bọn
Bay dật dờ như người trở gót lưu li Trời sa mạc tưởng chừng sương tuyết nặng Đợi con trăng nửa mảnh ở nam về.
2.
Bấy
giờ là năm bính dần (1086), năm đầu của triều vua
Triết tông, nguyên hựu thứ nhất. Ông 51 tuổi, được vận
thất phẩm phục, vào hầu triều, giữ chắc Trung thư xá nhân,
rồi được dời sang Hàn lâm viện phụ trách soạn Chế Cáo
cho vua
Ngày
29 tháng 11 năm đó, bàn chuyện cũ với Đặng Thánh Cầu. Cầu
là Hàn lâm viện thừa chỉ, trước kia làm Vũ xương lệnh,
thường chơi Hà khê, Tây sơn. Lúc Đông Pha bị biếm trích
ở Hoàng châu, đối ngạn với Vũ Xương, cũng từng chơi mấy
chỗ đó. Thánh Cầu có làm bài mình khắc tại vách đá ở
Vũ Xương; nhân đó, Ông làm bài thơ để cho người khắc
cạnh bài minh của Cầu. Ông nói những ngày tháng ngao du ở
Vũ Xương, trng thời kỳ bị biếm trích. Đây là những câu
cuối của bài thơ đó:
Sơn
nhân trướng không viên hạc oán
Giang hồ thủy sinh hồng nhạn lai Thỉnh công tác thi ký phụ lão Vãng hoà vạn hác tùng phong ai
Người
thợ săn bủa lưới giăng trời làm cho vượn, hạc sinh oán.
Sông hồ đầy nước, cánh hồng cánh nhạn bay đến. Bài thơ
làm khắc bên vách đá để ngày tháng cùng kêu với gió thông
và các hốc núi.
Làm
xong bài thơ đo, mà tình tự còn dài, cảm hứng tưởng còn
đồng vọng xa xôi. Ông làm thêm một bài nữa, lấy vận của
bài trước. Đó là bài được trích ở đây.
Chu
nhan phát quá như xuân phôi
Hung trung lê táo sơ vị tài Đan sa vị dị tảo bạch phát Xích tùng khước dục tham Hoàng mai Hàn khê bản tự Viễn công xã bạch liên thúy trúc y thôi ngôi Đương thời thạch tuyền chiếu kim tượng Thần quang dạ phát như Ngũ đài Ẩm tuyền giám diện chân đắc ý Tọa khan vạn vật giai phù ai Dục thâu mộ cảnh phản điền lý Viễn tố giang thủy cùng ly đôi Hoàn triều khởi độc tu lão bịnh Tự thán tài tận khuynh không lôi Chư công cừ cừ nhược hạ ốc Thôn thổ phong nguyệt thanh ngung ôi
Ngã
như phế tỉnh cửu bất thực
Cổ trứu khuyết lạc sinh âm đài Số thi vãng phục tương cảm phát Cấp tân trừ cựu hàn quang khai Diêu tri nhị nguyệt xuân giang khoát Vân lãng đảo quyển vân phong tồi Thạch trung vô thanh thủy diệc tĩnh Vân hà giải chuyển không sơn lôi Dục tựu chư công bình thử ngữ Yếu thức ưu hỉ hà tùng lai Nguyện cầu Nam tông nhất điếu thủy Vãng dữ Khuất Giả tiên dư ai
朱
顏 發 過 如 春 醅 ,
胸 中 梨 棗 初 未 栽 。 丹 砂 未 易 掃 白 髮 , 赤 松 卻 欲 參 黃 梅 。 寒 溪 本 自 遠 公 社 , 白 蓮 翠 竹 依 崔 嵬 。 當 時 石 泉 照 金 像 , 神 光 夜 發 如 五 臺 。 飲 泉 鑑 面 得 真 意 , 坐 視 萬 物 皆 浮 埃 。 欲 收 暮 景 返 田 里 , 遠 泝 江 水 窮 離 堆 。 還 朝 豈 獨 羞 老 病 , 自 歎 才 盡 傾 空 罍 。 諸 公 渠 渠 若 夏 屋 , 吞 吐 風 月 清 隅 隈 。 我 如 廢 井 久 不 食 , 古 甃 缺 落 生 陰 苔 。 數 詩 往 復 相 感 發 , 汲 新 除 舊 寒 光 開 。 遙 知 二 月 春 江 闊 , 雪 浪 倒 卷 雲 峰 摧 。 石 中 無 聲 水 亦 靜 , 云 何 解 轉 空 山 雷 。 欲 就 諸 公 評 此 語 , 要 識 憂 喜 何 從 來 。 願 求 南 宗 一 勺 水 , 往 與 屈 、 賈 湔 餘 哀 。
Xích
Tùng Tử là lão tiên ông đã dạy đạo cho Trương Lương,
cái đạo công thành thân thoái của Lão Tử. Hoàng Mai là Ngũ
tổ Hoằng Nhẫn trao diệu lý Thiền tông cho Huệ Năng. Tuệ
Viễn, từ đời Tấn, đã ẩn mình thế ngoại trên Lô Sơn,
trọn đời không bước qua khỏi Hổ khê; cùng với 18 người
bạn, Đông lâm thập bát hiền, lập Bạch Liên xã tu Phật
ở đó. Ngũ đài sơn là ngọn núi mà Bồ tát Văn Thù thường
lai vãng, có khi hiện thân làm mục đồng hát nghêu ngao. Đó
cũng là nhưng phương trời viễn mộng vang dội mãi trong thơ
của ông.
Nét
thanh xuân nở rộ như rượu nồng trinh nguyên chưa lọc,
Mà rừng táo ẩn dật đã chưa gieo trồng trong bụng Đan sa cũng chưa dễ gì quét sạch tóc bạc. Kiếm xích tùng rồi lại muốn hỏi đạo với Hoàng Mai Dòng suối lạnh vẫn chỉ riêng nơi bạn bè của Tuệ Viễn Sen trắng, tre xanh, vẫn còn cao xa diệu vợi. Lúc bấy giờ suối đá chiếu tượng vàng, Ban đêm thần quang rực rỡ trên Ngũ đài Uống nước suối, soi mặt, mà thấy được chân ý, Ngồi coi vạn vật đều như bụi mờ Những dọn cảnh trời chiều trở về ruộng rẫy
Rong
xa cùng sông nước, đi suốt cùng rặng núi Ly đôi (ở bên
dòng Trường giang tại tỉnh Tứ xuyên)
Nay
trở về triều, đâu chỉ thẹn vì tuổi già và yếu kém,
Mà sầu khô vì tài đã hết, đã dốc cạn chén không; Các bạn phơi phới như căn nhà rộng Còn tôi như giếng bỏ lâu không dùng Thành giếng gãy đổ, rêu mờ phủ kín. Vài câu thơ qua lại gợi nhớ mà thôi. Uống cái mới, trừ cái cũ, ánh sáng lạnh lẽo mở ra vắng vẻ. Trời tháng hai, ngoài kia con nước mùa xuân lai láng, Sóng cuồn cuộn đổ rầm như gió tuôn ào ạt Đá im hơi dòng nước lặng như tờ, Làm sao nghe được tiếng sấm dậy trên rừng hoang? Muốn gặp các bác bình việc đó, Để biết cái vui buồn từ đâu mà lại, Chỉ mong một giọt nước đạo Thiền đốn ngộ, Cùng Khuất Nguyên, Giả Nghị, rửa sạch mọi u sầu. Ông tự chú: Thơ Vị Ứng Vật: Thủy tánh bản vân tĩnh Thạch trung cố vô thinh Như hà lưỡng tương kích Lôi chuyển không sơn kinh.
Tánh
nước nói là tĩnh
Trong đá vốn không tiếng Sao khi chúng chạm nhau Sấm dậy vang núi vắng?
3
Vân
hải tương vọng ký thử thân
Na nhân viễn thích cánh thiêm cân Bất từ dịch kỵ lăng phong tuyết Yếu sử thiên kiêu thức phụng lân Sa mạc hồi khan Thanh cấm nguyệt Hồ sơn ứng mộng Vũ lâm xuân Thiên vu nhược vấn quân gia thế Mạc đạo trung triều đệ nhất nhân.
云海相望寄此身,
那因远适更沾巾。
不辞驿骑凌风雪,
要使天骄识凤麟。
沙漠回看清禁月,
湖山应梦武林春。
单于若问君家世,
莫道中朝第一人
Từ
Tống Triết tông, nguyên hựu thứ 4, năm kỷ ty. (1089), ông
xin ra ngoại nhiệm; cốt ý tránh tai vạ. Bấy giờ ông lĩnh
chức Long đồ các học sĩ ra coi Hàng châu. Vì ông trực ngôn, gây nhiều oán hận nơi các quan lại đương triều, càng
ngày càng nhiều.
Kể
từ lúc ông trở về triều, năm nguyên hựu thứ nhất, cho
đến năm đó, trải qua bốn năm; ông giữ chức Trung thư xá
nhân, rồi Hàn lâm viện học sĩ, Hàn lâm viện thị độc.
Trong những năm này, thơ ông phần lớn là những bài
thù tạc, đối ứng. Chúng chen chúc với khói bụi kinh thành.
Cho nên khi trở lại Hoàng châu, ông dâng biểu về triều,
có nói: “Giang sơn cố quốc, đến cũng như đi; phụ lão,
di dân, cùng với thần chăm hỏi nhau…”. Đấy là lúc sau
15 năm trở lại Hàng châu. Rối lúc viếng lại Tây hồ, ông
tưởng chừng như gặp lại cái gì đó thao thiết nhất của
mình trong quá khứ:
Hoàn
tùng cựu xã đắc tâm ấn
Tợ tỉnh tiền sinh mịch thủ thơ.
Khi
ông lãnh chức Long đồ các học sĩ ra coi Hàng châu, Tử Do
thay ông giữ chức Hàn lâm viện Thị độc tại triều. Năm
đó, kỷ tỵ (1089). Tử Do đi sứ Khiết đan. Năm trước, ông
được cử đi, nhưng xin từ.
Bấy
giờ ông đang ở tại Hàng châu, nên thơ nói: “Vũ lâm…”,
đó là ngọn núi ở Hàng châu. Và Tử Do cũng đang làm Hàn
lâm viện thị độc tại triều, nên thơ nói: “… Thanh cấm…”
Thanh cấm, tức câm cung ở nội triều, nơi làm việc của
các quan Hàn. Thoạt tiên, thơ go85i hứng tự tình giữa ông
và Tử Do, nên lời htơ bộc trực và đậm đà. Nhưng rồi
trời thơ đó bỗng mở ra cánh cửa hoằng viễn. Trăng trên
miền sa mạc bắc phương cùng hiện về trong cõi mộng trên
các sông hồ của nam hoa. Đó là cách điệu thanh thiết, và
tráng lệ của thơ. Hai câu 5 và 6 thật tuyệt diệu.
Người
từ biển đông trông sang;
Người từ mây bắc ngó lại. Đường xa xôi và tình đẫm mấy lần khăn. Vượt gió tuyết qua mấy trùng quán trọ, Cho giặc trời trông rõ mặt phượng lân. Trăng Thanh cấm trên kia vùng sa mạc, Trời Vũ lâm in mộng triệu sông hồ. Thiền vu nếu hỏi gia thế chú, Đừng nói trong triều Đệ nhất nhân
(……)
Đài
Thành một thuở Thi Thơ
Xe Vàng còn mộng quanh tà áo Thu Tóc Mai về, sương Ngô điểm mái Thân tàn như cỏ dại bờ đê Đăm đăm từ giã Kinh Kỳ Lao đao thần tử miền quê lạc loài (thơ của Lý Hạ)
1.
Tống
Huy Tông, Thiệu thánh nguyên niên, giáp tuất (1094), Ông 59 tuổi,
bị đày xuống Huệ Châu
Năm
trước, Ông đang giữ chức Đoan minh điện học sĩ kiêm Hàn
lâm viện thị độc. Huy Tông vừa lên ngôi mà mầm họa lớn
đã chớm nở tại triều đình. Lại thêm một lần muốn tránh
tai vạ không lường, Ông xin ra làm thái thú Định Châu. Nhưng
đến năm sau, bị giáng chức, phải đổi đi Anh châu; đi chưa
đến nơi, bị cách chức tuốt luốt, đày xuống Huệ châu.
Bước
ra đi, với người tiễn khách, thơ ông gửi Sâm Liêu Tử:
Mạc
Ngôn Tây Thục vạn lý
Thả đáo Nam hoa nhất du Phù bịnh giang biên tống khách Trượng noa phố khẩu hồi đầu
Đường
Tây Thục đã là hiểm trở
Miền Nam hoa một chuyến càng ghê Người gượng bịnh bên dòng tiễn khách Gậy cầm tay phố khẩu ngóng về.
Ai
đã từng đọc bài thơ “Đường vào đất Thục” của Lý
Bạch, phải biết cái hiểm trở kinh người nó mang những
sắc diện hãi hùng như thế nào. Thì đường đi Nam hoa của
ông, thử một lần mới biết; với đường vào đất thục,
mối kinh tâm động phách cũng ra ngoài tưởng tượng. Cuộc
tiễn chân, ẩn chứa bi hùng trong nỗi trầm tư lữ thứ.
Tháng
6 năm đó, thuyền ông đỗ bến Kim lăng, gặp giông tố, lời
thơ ông vọng về mấy người bạn xa xôi:
Kim
nhật giang đầu thiên sắc ác
Pháo xa vân khởi phong dục tác Độc vọng Chung sơn hoán Bảo công Lam gian bạch tháp như cô hạc Bảo công cốt lãnh hoán bất văn
….
Sắc
trời như sụp xuống đầu sông. Xe bay mây trổi gió đùng
đùng. Chỉ còn nước vọng về Chung sơn mà réo gọi Bảo
công. Giữa rừng, nơi tháp trắng lẻ loi như cánh hạc; Bảo
công xương lạnh, réo không nghe.
Rồi
ngang qua Lô sơn, trời mây bỗng cuộn cuộn, như long lở núi.
Ông kêu gọi thần linh yểm trợ:
Ngũ
lão sỗ tùng tuyết
Song khê lạc thiên đàm Tuy vân mặc đảo ứng Cố hữu di văn tàm
Ngọn
Ngũ lão, đã có lần chào đón ông trong phong vận tài tử,
và những con suối từ cao đổ xuống trước kia chúng kiêu
hùng cho tài hoa thưởng ngoạn. Bây giờ, trông xa xa, Lô sơn
bỗng là những biến tượng đọa đày. Chân diện mục đã
một lần như vén mở, nhưng vén mở rồi khép lại từ nào,
mà trong bước đường Lữ thứ bây giờ, trời Lô sơn trở
thành khổ luỵ nhân sinh đổ ào ào xuống.
Lại
cái màu xanh biếc kia nữa. Màu xanh biếc của ngọn Nga mi,
màu xanh trong phương trời đồng vọng quê hương thuở xưa.
Trong những ngày đó, ngọn Nga Mi xanh biếc giữa bầu trời
là tình tự đầm ấm của quê hương. Nhưng bây giờ, màu
đó chợt một lần thoáng qua giấc mộng cũng đủ gây ra vô
số đoạn trường:
Thanh
khê điện chuyển thất vân tung
Mộng lý do kinh thúy tảo không
Suối
trong sấm sét dậy, sụp đỉnh mây ngàn. Trong giấc mộng,
mà còn kinh màu biếc giữa trời.
Cho
đến tháng tám, ngày mồng 7, ông vào Cống châu, ngang qua thác
Hoàng khủng. Thì nơi đây, thơ đột ngột hiện lên những
lời của viễn mộng:
Thất
thiên lý ngoại nhị mao nhân
Thập bát than đầu nhất diệp thân Sơn ức Hỉ hoan lao viễn mộng Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần
2.
Trên
đường đi tới Huệ châu, ông gặp chùa Thiên trúc, ghé lại
thăm, gặp bút tích của Lão Tô, ông làm thơ và tự viết
lời dẫn:
“Tôi
năm 12 tuổi, tiên quân từ Kiềng châu về nói với tôi rằng:
Gần thành, trong núi có chùa Thiên trúc, có bài thơ Bạch
lạc Thiên tự tay viết:
Nhất
sơn môn tác lưỡng sơn môn
Lưỡng tử nguyên tùng nhất tự phân Đông giạn thủy lưu tây giạn thủy Nam sơn vân khởi bắc sơn vân Tiền đài hoa phát hậu đài kiến thượng giới chung thanh hạ giới văn Diêu tưởng ngô sư hành đạo xứ Thiên hương quế tử lạc phân phân “Bút thế kỳ dật, dấu vết như mới, nay đã 47 năm rồi.
“Tôi
đến hỏi thăm, thì thơ đã mất, chỉ còn tấm đá khắc
mà thôi. Ngậm ngùi nước mắt chảy, nên làm bài thơ đó”
Bài
thơ ông như thế này:
Hương
Sơn cư sĩ lưu di tích
Thiên trúc thiền tăng hữu cố gia Không vịnh liên châu ngâm điệp bích Dĩ vong phi điểu thất kinh xà Lâm thâm dã quế hàn vô tử Vũ ấp sơn khương bịnh hữu hoa Tứ thập niên tiền chân nhất mộng Thiên nhai lưu lạc thế hoành tà
香山居士留遺跡
天竺禪師有故家 空詠連珠吟疊璧, 已亡飛鳥失驚蛇。 林深野桂寒無子, 雨浥山薑病有花。 四十七年真一夢, 天涯流落淚橫斜
Hương
sơn cư sĩ lưu di tích
Thiên trúc thiền sư có của nhà Chuỗi hạt lần không, mòn vách đá Chim ngàn biền biệt rắn chuồn xa Mùa lạnh rừng sâu còn quế dại Người đau mưa núi đượm gừng tra Bốn bảy năm rồi như mộng ảo Ven trời đổ lệ đọa đày xa
Thơ
như thế là đồng vọng của cõi đời trầm mặc. Nhưng tình
thơ nồng đượm khôn cùng, cho nên những tiếng thì thầm
của lịch sử tồn sinh ngân vang khúc đoạn trường khổ lụy.
Rừng núi thâm u, tiếng lần chuỗi của thiền sư trong nỗi
đời trầm lặng cô liêu mà cũng trở thành những tiếng vang
dậy, thì cánh chim đang ngơ ngác cũng giật mình sửng sốt
bay đi, và con rắn đang cuộn tròn trong hốc đá cũng hoảng
sợ chuồn mất. Tiếng đó là tiếng gì mà nghe nó kì dị
như thế, nếu không là âm hưởng trầm trọng của thảm họa
hoành sinh tràn đầy trong cuộc Lữ, cuộc Lữ của tồn sinh
mộng ảo?
3.
Từ
Quảng Châu ra đi, còn cách Huệ Châu đất trích khoảng một
trăm cây số nữa. Trên đường đi ngang qua La phù sơn. Trước
thời nhà Đường, đất này trực thuộc Giao chỉ. Đời Đông
Tấn, có Cát Hồng, tự xưng là Tiểu Cát Tiên ông, và tự
hiệu là Bảo Phác Tử, nghe đồn Giao Chỉ có nhiều đan sa,
nên dẫn gia đình đến đây để luyện đan. Ông ấy ngụ
và chết luôn tại La Phù Sơn này, chưa nếm được tiên đan
trường sanh bất tử. Theo lời chú của ông, thơ Lưu Mộng
Đắc có kể, tại La phù, nửa đêm có thể thấy mặt trời,
và ông cho là chuyện lạ. Núi có hai lầu đá, chùa Diên Tường
ở lầu nam, động Chu Minh ở phía sau Xung hư quán, được
coi là động trời thứ bảy của cõi Bồng lai. Sau quán Xung
hư có đàn Triều đẩu, tức đàn ngắm sao, của Chu Minh chân
nhân. Gần đàn, ông lượm được 6 con rồng bằng đồng và
một con cá cũng bằng đồng. Trong núi có thiết kiều, tức
cầu sắt, và thạch trụ; ông nói, ít ai đi tới những chỗ
đó. Tuốt trong núi sâu, có khe suối, có con cọp câm đi tuần
sơn thường lai vãng đó.
Tại
đây, ông làm thơ:
Nhân
gian hữu thử bạch ngọc kinh
La phù kiến nhật kê nhất minh Nam lâu vị tất Tề nhật quán Uất nghi tự dục triều Chu minh Đông Pha chi sư Bảo Phác lão Châu Khế tảo dĩ giao tiền sinh Ngọc đường kim mã cửu lưu lạc Thốn điền xích trạch kim qui canh Đạo Hoa diệc thường đạm nhất tảo Khế Hư chính dục cưu tam bành Thiết Kiều thạch trụ liên không hoành Trượng lê dục sấn phi nhu khinh Vân khê dạ phùng ám hổ phục Đẩu đàn trú xuất đồng long nanh Tiểu nhi thiếu niên kỳ hữu chi Trung tiêu khởi tọa tồn Huỳnh đình Cận giả hí tác Lăng vân phú Bút thế phảng phất Ly tao kinh Phụ thơ tùng ngã cái qui khứ Quần tiên chánh thảo tận cung minh Nhữ ưng nô lệ Thái Thiếu Hà Ngã diệc quí mạnh Sơn Huyền Khanh Hoàn tu lược báo Lão Đồng Thúc Doanh lương vạn lý tầm Sơ Bình
人间有此白玉京,
羅浮見日雞一鸣。 南楼未必齎日觀, 鬱儀自欲朝朱明。 東坡之師抱朴老, 真契蚤已交前生 玉堂金馬久流落, 寸田尺宅今歸耕。 道華亦嘗啖一棗, 契虚正欲仇三彭。 铁橋石柱連空横, 杖藜欲趁飛猱輕。 雲溪夜逢暗虎伏, 斗壇晝出铜龍獰。 小兒少年有奇志, 中宵起坐存黄庭。 近者戏作凌蕓賦, 筆勢髣艴籬騷經。 負蓍從我盍歸去, 群仙正草新宫铭。 汝應奴隸蔡少霞, 我亦季孟山玄卿。 還須略報老同叔, 赢糧萬里尋初平
Bài
thơ kèm theo một số chú thích của chính ông. Ở đây, hãy
ghi lại một ít chú thích đó:
Đạo
Hoa: Đời Đường, đạo sĩ ở Vĩnh Lạc, tên Hầu Đạo Hoa,
uống vụng thuốc tiên của Đặng Thiên Sư rồi trốn đi.
Ở Vĩnh Lạc có thứ táo không hạc; chỉ một mình Đạo Hoa
có chứ không ai có. Tôi (lời ông) ở Kỳ Hạ có lần ăn
được một quả
Khế
Hư: Tăng đời Đường. Khế Hư, gặp người dẫn chơi phủ
tiên ở Trí Sơn; Chân nhân hỏi: “Ông tuyệt hết tam bành
trong lòng chưa?”. Khế Hư không đáp được.
Tân
cung minh: (lời chú này của riêng người soạn sách): Quần
tiên mỗi khi dụng xong cung điện, cần phải có một bài minh,
để ghi khắc. Chuyện nhà thơ Lý Hạ: Lý Hạ chết yểu (26
tuổi); nửa đêm về báo mộng cho mẹ, nói thượng giới vừa
dựng xong một cung điện, thiếu người viết bài minh, nên
Ngọc đế sai người xuống trần triệu Lý Hạ lên
Thái
Thiếu Hà (lời chú của ông): Đời Đường, có người nằm
mộng thấy viết bài thấy viết bài Tân cung minh, nói: Tử
Dương Chân nhân Sơ Huyền Khanh, đại lược:
Lương
thường Tây lộc
Nguyên trạch Đông tiết Tân cung hoằng hoằng Sùng hiên nghiệt nghiệt
Lại
có Thái Thiếu Hà mộng người sai viết bia, đại lược: “Công
tích thừa ngư xa, kim lý thụy vân, xúc không ngưỡng đồ,
ỷ lạc luân khôn”. Dưới hết đề: ngũ vân thư các Thái
Thiếu Hà thư.
Đồng
Thúc: ông tự chú: Tử Do còn có tự là Đồng Thúc.
Nhân
gian sao có kinh bạch ngọc
Phù sơn canh ba thấy mặt trời
lầu
nam chưa chắc quán Tề nhật (cao bằng mặt trời)
Khúm
núm như muốn chầy Chu minh
Thầy Đông Pha là lão Bảo Phác Chân Khế là bạn giao du đời trước Nhà vàng của ngọc lưu lạc từ xưa Tấc vườn Đạo Hoa đã từng thưởng thức Tam bành Khế Hư ruột vẫn đeo mang
Cầu
sắt trụ đá kéo bắc ngang không
Lê cao nghều nghệu muốn leo như khỉ Đêm gặp cọp rình nơi suối Vân Khê Ngày bắt nanh rồng trước đàn Triều đẩu
Trẻ
con nhỏ tuổi có chi lạ
Nửa đêm dậy đọc kinh Huỳnh đình Vừa rồi làm chơi bài Lăng vân phú Bút thế từa tựa Ly tao kinh Cắp sách theo ta về nhà gấp Quần tiên đang thảo Tân cung minh Mi làm đày tớ Thái Thiếu Hà Ta cũng xấp xỉ Sơn Huyền Khanh Lại đến tin sơ chú Đồng Thúc Chứa lương vạn dặm tìm Sơ Bình
4.
Ngày
2 tháng 10 năm đó, giáp tuất (1094) ông đến Huệ Châu. Cảnh
vật trông quen thuộc như từng đã thấy một lần đâu đó,
trong mộng. Đến đây thì Tô Vũ cũng sẽ nguyện suốt đời
chăn dê, không mong trở về Bắc mạc nữa. Và Quảng Ninh cũng
sẽ vĩnh viễn ẩn thân nơi cõi Liêu đông, không bao giờ trở
vào lục địa chen chân với đời.
Phảng
phất tằng du khởi mộng trung
Hân nhiên kê khuyển thức tân phong Lại dân kinh quái tọa hà sự Phụ lão tương huể nghinh thử ông Tô Vũ khởi tri hoàn Mạc bắc Quản Ninh tự dục lão Liêu đông Lĩnh nam vân hộ giai xuân sắc Hội hữu u nhân khách ngụ công
Phảng
phất từng quen há mộng ư?
Chó gào ríu rít đến chào ta Lại dân lạ hỏi chuyện gì thế? Phụ lão dìu nhau đón lão già Tô Vũ nào mong về Bắc mạc Quản Ninh từ nguyện cõi Liêu xa Lĩnh nam đây rượu vui ngày tháng Đất trích nhà quan đợi tuổi già.
Cuộc
Lữ từ đây cứ cho đi vào cõi mộng không lời. Khách Lữ
thứ chọn đất trích làm quê hương. Những gì còn đồng
vọng, là những tiếng đồng vọng ngoài kia, của mây phương
trời viễn mộng.
5.
Bây
giờ đã thấy lại cảnh trăng non, và cây ngô đồng thưa
lá. Cõi thơ không nằm nguyên ở đó nữa. Chúng vẫn phơi
trần ra đó, chịu đựng tuyết sương băng giá của ngày tháng
phiêu du, nhưng âm vang của chúng đồng vọng ở ngoài kia,
ngoài những ven trời vạn dặm; ngoài đó là những cánh chim
hồng, lẻ loi, và bay bổng giữa mấy triệu phương trời lồng
lộng. Từ cõi mộng đơn sơ, đến cái cõi của đọa đày
viễn mộng, có hố thẳm tuyệt mù, chơi vơi không đáy. Bên
này và bên kia, được nối liền bằng một chiếc cầu độc
mộc cheo leo. Làm sao để đi qua, và đi lại, bằng hai chân
nặng trĩu của hạng phàm phu tực tử? Một cuộc lữ hành
như thế, phải trải qua biết bao là gian khổ, dù nơi đi và
chỗ đến chỉ cách nhau trong một móng tâm. Đọa đày viễn
mộng là ở chỗ đó ư? Nhưng so lại là đọa đày viễn mộng?
Phải chăng tiếng đó chỉ mới vang dội, từ khi một lão
đại thần, lôi thôi thê tử, khúm núm dắt nhau chịu đày
ải đi về những vùng cùng cực của Nam hoa, hay đi vào tận
chốn sơn cùng lộ tuyệt của một đời sống chết? Bơ vơ
nơi khách địa, thì tình cố quận và tình tha hương, cả
hai đều thắm thiết. Nhưng cố quận thì đâu không là cố
quận, và tha hương thì nơi nào lại chẳng phải là tha hương.
Đứng bên này mà vọng đến bên kia, con mắt cứ mỏi mòn
trông đợi. Thế là lao tâm khổ tứ, là quằn quại hình hài.
Nơi ngọc đường kim mã, mộng bình sinh đã cực đỉnh tang
bồng. Nói năng thì như gươm Tần xẻ tóc, và rũ hai tay xuống
thì lịch sử trào ra. Đẩy một vạn người bước tới, kéo
một vạn người bước lui. Lên núi thì núi rừng cũng biến
thành biển lửa. Đưa con mắt hùng thị bốn phương trời,
bỗng thấy nước lũ Trường Giang đổ xuống:
Giang
sơn như họa
Một thời hào kiệt anh hùng
Ngọc
đường kim mã bỗng vang lên những tiếng gào thét đoạn trường.
Chim hồng giật mình tung cách bay cao. Biết nơi nào là cố
quận, nơi nào là tha hương, để chim hồng đậu lại:
Trạch
tận hàn chi bất khẳng thê
Tịch mịch sa châu lãnh
Đường
ra đi, qua trăng ngàn, qua gió bãi, mây vần vũ, núi non sụp
xuống, nắng chiều đỏ như máu. Đau khổ, kinh hoàng, nên
kêu réo, nên ngậm ngùi, và uất hận.
Sơn
ức Hỉ hoan lao viễn mộng
Địa danh Hoàng khủng khấp cô thần.
Đất
khách là mười tám cái ghềnh thác kinh hoàng đổ xuống. Nhưng
đất đó đọa đày thân xác mà không đọa đày viễn mộng.
Quê hương với ân tình thắm thiết kia mới thực là đọa
đày viễn mộng:
Núi
nhớ Hỉ hoan đọa đày viễn mộng
Đất tên Hoàng khủng lệ khóc cô thần
Trên
đường vào Nam, ngang qua chùa Nam hoa, ông ghé lại chùa và
làm thơ:
Ngã
bản tu hành nhân
Tam thế tích tinh luyện Trung gian nhất niệm thất Thọ thử bách niên khiển Khu y lễ Chân Tướng Cảm động lệ vũ tản Tá sư tích đoan tuyền Tẩy ngã ỷ ngữ nghiễn
Ta
vốn người tu hành
Ba đời dày tu luyện Nửa chừng một niệm hư Trăm năm đày đọa khiến Xốc áo lễ Chân Tướng Cảm động lệ mưa tuôn Ngọn suối đầu gậy sư Xin rửa nghiên ỷ ngữ
Ông
nói mượn dòng suối trên đầu gậy Thiền của sư, để rửa
sạch cái nghiên mực ỷ ngữ, nói láo hay nói thêu dệt, của
ông. Nhưng, ông ỷ ngữ như thế nào? Ông làm thơ, lời thơ
ông thanh cao thần thánh. Ông làm quan thì lời quan của ông
bộc trực thanh liêm. Đó là những lời nói đẹp đẽ; vì
đẹp nên là ỷ ngữ ư? Có thể như thế, và chắc chắn không
là như thế. Nhưng, ông làm quan thì lời quan nó đày đọa
đời quan của ông. Ông làm thơ thì lời thơ nó đày đọa
trời thơ của ông. Lời thơ của ông thì những là… Hỉ
hoan lao viễn mộng. Lời quan của ông thì những là… Hoàng
khủng khấp cô thần. Cả hai cùng đày đọa thân và tâm của
ông. Nếu rửa sạch những thứ đó đi, chắc gì đã không
là một cõi đọa đày khác nữa:
Dĩ
hỉ thiền tâm vô biệt ngữ
Thượng hiềm thế phát hữu thi ban
Tâm
thiền không lời, cái đó ông hâm mộ rồi. Nó cũng trong phương
trời viễn mộng của ông. Nhưng Đạo Thơ có lời, cũng là
phương trời viễn mộng của ông. Không phải ông bị đày
đọa vì bị ray rứt giữa hai đường. Cái đó dành cho tục
tử, chứ không hề có nơi cốt cách cao kỳ tuyệt diệu như
ông. Nhưng cả hai cái đó, thắt chặt rồi buông lơi, như
một cuộc giao tình đến để rồi đi; cả hai đưa nhau, đẩy
nhau, đưa đẩy mãi lên mấy từng trời cao diệu, trên những
phương trời viễn mộng; đưa đẩy nhau cho đến cùng tuyệt
càn khôn, trong bất động, trong vô ngôn; trong phương trời
đọa đày viễn mộng. Thế thì, cái chỗ đọa đày viễn
mộng đó cũng đơn sơ như cõi mộng ban đầu; ban đầu từ
một gương mặt trong ngọc trắng ngà không son phấn, rã cánh
hồng mà nụ vẫn còn tươi, cho tình lên cao vút với mây trời
trong nắng sớm:
Tố
diện thường hiềm phấn uyển
Tẩy trang bất thốn tàn hồng Cao tình dĩ trục hiểu vân không Bất dữ lê hoa đồng mộng
Sau
hết, và như là bắt đầu, thấy lại nó đơn sơ như mảnh
trăng non và như cây ngô đồng thưa lá.
Cõi
thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một
cánh chim nhạn, một cánh chim hồng ngoài ven trời vạn dặm |
No comments:
Post a Comment