Điện Hòn Chén
Cập nhật ngày: 29/07/2014 04:54:51
Thấp
thoáng giữa những rừng cây xanh um trải dài từ chân đến đỉnh ngọn núi
Ngọc Trản và bình yên soi bóng bên dòng sông Hương trong xanh huyền
thoại là điện Hòn Chén, một di tích tôn giáo và danh thắng nổi tiếng
thuộc quần thể di tích cố đô Huế, thuộc địa bàn làng Hải Cát, xã Hương
Thọ, huyện Hương Trà.
Điện Hòn Chén |
Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn, sau mới
đổi tên là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc), dân gian vẫn quen gọi là
Hòn Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như hình chén úp. Cũng vì vậy, người
ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện
Hòn Chén.
Điện Hòn Chén nguyên là ngôi đền thờ nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần Po Nagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Hương mộc và kỳ nam là thứ gỗ tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ thần. Bà còn làm tỏa hương gạo ngọt ngào, cổ vũ dân trồng cây bồ đề.
Điện Hòn Chén nguyên là ngôi đền thờ nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần Po Nagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Hương mộc và kỳ nam là thứ gỗ tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ thần. Bà còn làm tỏa hương gạo ngọt ngào, cổ vũ dân trồng cây bồ đề.
Tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc
đáo như điện Hòn Chén, người Việt dễ dàng dung hợp được cả một tín
ngưỡng thần linh mang sắc thái riêng của người Chăm. Có lẽ vị Nữ thần
của dân tộc Chăm xét trên bình diện tâm linh có nét tương đồng với các
Nữ thần của người Việt. Để ký âm cho danh từ Po Nagar bằng Hán văn, các
Nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa
tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na.
Trong quần thể di tích cố đô Huế, có lẽ điện Hòn
Chén gắn với nhiều giai thoại nhất. Dân gian còn lưu truyền rằng điện
Hòn Chén xưa có tên là Hoàn Chén với ý nghĩa “trả lại chén ngọc”, vì vua
Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng
Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to
bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Song, trong
các văn bằng sắc phong chính thức của các vua Nguyễn, thì ngôi điện vẫn
xuất hiện với tên chính thức “Ngọc Trản Sơn Từ” (đền thờ ở núi Ngọc
Trản). Đến thời Đồng Khánh (1886-1888), ngôi điện mới được đổi tên là
Huệ Nam Điện (ý là mang lại ân huệ cho vua nước Nam) và cũng gắn với
nhiều giai thoại khác nữa.
Minh Kính Đài chính là nơi tổ chức tế lễ ở điện Hòn
Chén, ngày xưa được triều đình quy định mỗi năm tổ chức hai lần vào
thượng tuần tháng 3 và tháng 7 Âm lịch, có cả quan chức được cử về làm
chủ tế. Minh Kính Đài chia làm 3 cung, theo thứ tự từ cao xuống thấp là:
Đệ nhất cung (còn gọi là Thượng cung), nơi thờ Nữ thần Thiên Y A Na,
Thánh mẫu Vân Hương, ảnh vua Đồng Khánh và một số vị thần khác; Đệ nhị
cung thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, là nơi bày biện các đồ
thờ cúng để rước sắc trong những dịp lễ lớn; Đệ tam cung thiết hương án,
hai bên đặt trống, chuông, là chỗ cử hành lễ, cũng là nơi khách thập
phương dâng hương cúng bái.
Minh Kính Đài là một công trình kiến trúc tiêu
biểu lấy hình ảnh con phụng để trang trí. Trên các nóc nhà, hình phụng
được thể hiện bằng nghệ thuật khảm sành sứ tinh xảo, khiến du khách có
cảm tưởng những con chim phụng như từ núi rừng tụ hội về đây, báo hiệu
những điềm lành cho mảnh đất thiêng liêng này.
Có lẽ không sai khi có người cho rằng, điện Hòn
Chén là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm
linh của người dân xứ Huế và đó cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự
kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và
đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đây cũng là nơi
trang trí mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19.
Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và
tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo
thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và
tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Phạm Đức Thành Dũng
No comments:
Post a Comment