Thursday, November 6, 2014
TRẦN VĂN * CHUYỆN TÙ
Chuyện tù cải tạo nhiều người muốn biết
Trần Văn
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI VIẾT:
Hơn 38 năm đối với đời người quả thật dài. Những vui buồn của ngày tháng cũ trong ký ức theo thời gian dài phải bị xóa nhòa, nhưng, đối với những người chiến sĩ QLVNCH bị gác súng tức tưởi mà kẻ thù chụp cho cái mũ có nhiều “nợ máu với nhân dân và cách mạng”, chúng trả thù và hành hạ thật ác độc, đê hèn, làm sao quên được?
Tháng 6 năm 1976, Ban Quân Quản Sài Gòn ra lệnh gom hết những người gọi là có nhiều nợ máu vào đợt “học tập cải tạo” đầu tiên, sĩ quan cao cấp từ tá đến tướng. Bên chính quyền với những vị công cử đầu não cùng với các vị dân cử trong Quốc Hội, Hội Đồng Tỉnh; các giới chức lãnh đạo các đảng phái chính trị và các tu sĩ có thành tích chống cộng…Sau đó chúng lùa hết quân cán chính VNCH vào rọ. Trại tù cải tạo được thiết lập trên khắp lãnh thổ từ miền cuối Việt Cà Mau đến tận vùng cực bắc Lào Cai, Sơn La..., và cả nước là một nhà tù khổng lồ. Đây quả là một giai đọan lịch sử bi thảm nhất trong hơn 4 ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Chuyện Tù Cải Tạo Nhiều Người Muốn Biết mà tôi đang viết sẽ phát hành vào năm tới, nhằm phơi bày và vạch trần tội ác của chế độc cộng sản Việt Nam đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị “ngã ngựa” kể từ ngày 30.4.1975. Dưới đây, tóm lược bối cảnh các trại tù mà Trần Văn đã từng trải qua: Thành Ông Năm (Hóc Môn), Suối Máu (Biên Hòa), Sơn La (Bắc Việt), Hồng Ca - Yên Bái (Bắc Việt), Tân Lập - Vĩnh Phú (các trại gọi là K - 2 - 1 - 4 - 3 - Bắc Việt), Z30D - Hàm Tân (Bình Tuy - Rừng Lá - Miền Nam VN)).
Nhân Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức ở Dallas – Texas từ 3 đến 5 tháng 10 năm 2008. Cá nhân tôi và trên 4 - 5000 người ở khắp nơi Hoa Kỳ & Canada hội tụ vê đây cùng tham dự 3 ngày đại hội do Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ tổ chức. Đây là đại hội cựu tù nhân quy tụ đông đảo nhất cựu tù ở hải ngoại, đánh dấu sự thành công to lớn dù có người hô hào chống đối tẩy chay.
Xin mời quý độc giả đọc và suy gẫm, thế hệ chúng tôi phải làm gì để quên quá khứ bi thảm nhất trong cuộc đời của mình…?
-------------
NHỮNG NGÀY ĐẦU VÀO TÙ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ
Theo thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30.4.75, theo lời cộng sản nói, những thành phần "có nhiều nợ máu" phải trình diện 3 ngày 13, 14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng, chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.
Cư ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác cùng cấp bậc Thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành lập không lâu ở bên kia sông Sài Gòn - Thủ Thiêm) tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa (VC gọi trường này là Lê Hồng Phong). Còn những qúy vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang (đồ dùng cả nhân) và đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương của một Thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ Đại úy trở xuống đóng tiền ăn 10 ngày…).
Sĩ quan cấp Thiếu tá trình diện ở trường Trung học Pétrus Ký ít hơn các nơi khác, trên dưới 100 người, vì các quận 6,7,8… nằm ở ven đô - Thủ Đô Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy nhất tại điểm tập trung này, Thiếu tá Trần Thị Bích Nga, Chỉ Huy Trưởng Trường Xã Hội Quân Đội (trường nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Đô). Thật đúng là hoa lạc giữa rừng gươm tua tủa của hai phía ta và địch.
Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho thưởng thức cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò, được nhỏ nước tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, truớc khi có “lệnh hành quân” chuyển đến trại tù chính , chúng tôi được nhà hàng sang trọng Ngọc Lan Đình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như “nhập đại tiệc”, có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc cưới… Khi nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Đình đến “thết đải”, tự dưng tôi chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và nhà trường Phước Kiến (266 Đại lộ Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước Đức.
Vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiển đưa tôi nhập ngũ khoá 13 Thủ Đức tại nhà hàng Ngọc Lan Đình. Lúc bấy giờ tôi là Giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có (3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm Giám học đặc trách về các môn học Việt ngữ, Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu trưởng, sau TS Đông làm Tổng Trưởng Giáo dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi được TS Tăng Kim Đông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng to:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
Tự nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất qúy mến tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại), cả thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia xẻ với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi”. Đó cũng là dấu ấn khó quên trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Đình đãi tiển chúng tôi vào một ngày mai mờ mịt…nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây…
Trình diện “học tập cải tạo”, một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng tôi tự ý đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng 5 năm Ất Mão (1975).
Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người tài xế trung thành của bà xã tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiển đưa. Khi chúng tôi mang ba lô vào cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người tài xế thân thương trung thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa chiếc xe đạp thứ hai về nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẫu Chữ Y, đường Hưng Phú - đường đi đến lò heo Chánh Hưng,. Bốn đứa con nhỏ của chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi, được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm phương tiện và là một tài sản sau cuộc đổi đời này.
Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, giao động của hơn 38 năm trước như hiện rõ.
Khi Thủ Đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH đã ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm súng chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào cảnh cá chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông súng và sống trong cảnh phập phồng. Chúng tôi chờ đợi kẻ thù công bố chính sách đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rả hàng ngày trên các hệ thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu như cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Đô Pnom Penh (Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm nhập vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê lương tràn ngập trong suy nghĩ của từng người từng gia đình mà gia đình chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa vào đâu để sống?.
THÀNH ÔNG NĂM – LIÊN ĐOÀN 5 CÔNG BINH KIẾN TẠO
Một trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành Ông Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được chia thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 Y sĩ Thiếu tá. Bà Thiếu tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội 34, 35 chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng tôi có thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương lai của 4 đứa con nhỏ dại…
Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm – Hóc Môn:
Chuyện khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến lán đội 34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ Quân Y, dẫn ra khỏi lán bảo đứng nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng về vệ sinh phòng bệnh… Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta phải đi xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ này. Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ phe ta cứ ngẫng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh bác sĩ Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại cho chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.
Chuyện mà tôi cũng khó quên, anh Hoàng Xuân Định (hiện ở San Jose), Thiếu tá Quân Cụ, anh em thúc bá với Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư Lệnh QĐ1 & QK1, đứng ra nhận lãnh chức Trưởng Ban Văn Nghệ của trại tù Thành Ông Năm (Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Đại tá Dương Công Liêm làm Liên Đoàn Trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Định, chọn tôi vào ban văn nghệ, xung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng, giọng vịt đực của tôi bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì hoàn cảnh bi đát của tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói được lời nào với nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại làm sao mà sống với bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn nữa, trước khi đi tù, có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội bộ đội CSBV “xin” được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối, các con chúng tôi sẽ chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm cái gì để tạm quên sự lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội văn nghệ để giết thì giờ.
Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Định được cách mạng “chiếu cố” cho vào cùm. Với vỡ hài kịch mà anh Định viết nói về những ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm cuộc đổi đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Định viết rất khéo, nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten lập công (nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài kịch “trình” với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng, lúc đó cán bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn nhiều hoang mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa lâu nên toán văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ bị cảnh cáo dằn mặt và đuổi về đội.
Chính đội 35 “nổi tiếng” vì có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe danh 2 Thiếu tá của QLVNCH là anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu Nhị Thiên Đường, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân ( tôi không nhớ rõ: TĐ 42 hay TĐ 44, có tên là Cọp Xám hay Cọp Ba Đầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang danh anh dũng của vùng đồng bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp sợ). Người thứ hai là Thiếu tá Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc là An Ninh Quân Đội, cư ngụ ở Dạ Nam Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng của chúng ta đã can đảm “trốn trại” đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có gần nửa vành trăng trên bầu trời. Đây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù của chúng, có thể nói là vô tiền khoáng hậu mà tôi chứng kiến.
Tôi chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang từ miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QĐ4 từng theo ông Tướng Tư Lệnh QĐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là Trung đội trưởng. Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức sau tôi nhiều khóa. Hai anh Thiếu tá trẻ này xem tôi là niên trưởng, năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.
Trước khi thực hiện chuyện phi thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên tiếp nhiều ngày, tôi có tặng nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh Quang cần. Còn anh Thịnh, hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự chế một cái tạ để tập, hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một lần, tôi hỏi, anh Thịnh nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để có ngày sử dụng và ngày ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai anh Quang và Thịnh?.
Khoảng từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên nền trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này thực hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra ngoài…
Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại thuộc đội 35, một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương và bị bắt đang nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại của 2 anh Quang, Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và 35 có anh nào đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên tiếng. Tôi tình nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho anh Phạm Hữu Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay hồi tĩnh, anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi thảm hơn, ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận xương tủy. Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn những câu hỏi, phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh lúc nào cũng nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex.
Nhờ vậy, tôi biết được khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc người Hoa. Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh quay lại cứu bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà anh gỡ ra còn nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh Quang nhiều phát đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong khi anh Thịnh đã chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài Gòn lên kiếm thăm chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào trại chừng trăm mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm gai, anh Thịnh nghe tiếng súng nổ liên hồi vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té qụy. Theo lời anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và cái áo của anh còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nả bồi thêm vài tràng đạn nữa, kết liễu đời oanh liệt của một chiến sĩ BĐQ ưu tú can trường QLVNCH, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến với binh chủng anh dũng này.
Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc, tôi kể lại những ngày cuối cùng của anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị xử bắn tại trại Suối Máu - Biên Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp cung thường tỏ vẽ muốn giết anh để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn không có thuốc tê, thuốc mê gì cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn biết gì nữa, chúng muốn làm gì thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị xử bắn.
Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt chúng tôi, nhưng trại này chỉ là trại trung chuyển, sau mấy tháng lại chuyển tất cả bò tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Đây là doanh trại của Trung tâm giam giữ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao trả với phía bên kia.
Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày ra tù, một bác sĩ Quân Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Đông A, đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà nhiều nước, lúc bây giờ, thập niên 80 không dám mỗ tách ra. BS Trần Đông A nhờ đào tạo dưới chánh thể VNCH đã tiến hành ca mỗ thành công và đến nay BS Trần Đông A vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất của Việt Nam.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU
Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn chuyển về Suối Máu, con đường dài 40 -50 cây số, với đoàn xe quân sự có hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một tiếng hay tối đa 2 tiếng đồng hồ là đến nơi rồi. Đàng này, chúng tôi phải “khẩn trương” tập hợp hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ sáng hôm sau mới trại Suối Máu – Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần chúng tôi bị ”bầm vập” thể xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này như con vật, một chiếc xe tải Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc ngồi bó rọ, dẫm trên chân trên người nhau. Các xe đều bỏ bạt phủ kín, không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh rấm của một anh nào đó kể như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không ai thích.
Lần chuyển trại đầu tiên, từ trường Trung học Pétrus Ký chuyển đến Thành Ông Năm ở Hóc Môn, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ chuyển trại bi thảm này. Được lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối đã có tiếng tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký đến Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ nhất là mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu tiện phải đi trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì không biết của đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành Ông Năm ở Hóc Môn.
Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.
Xin nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo”, khoảng giữa tháng 5.1975, ông là Trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài Gòn, một tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành các ấn bản sáng chiều và chữ Anh, trên dưới 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với ông Yamoto trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù cải tạo” của cộng sản, ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi cứu thương” để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy giờ, thời chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi là ký giả chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ các thứ thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh sốt rét, kiết lỵ, tiêu chảy…May mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu thương, ông tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác sĩ phe ta khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh nhân, đến tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà chẳng cần học trường Dược ngày nào.
Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu lê lết về đến lán, tôi bước lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ nằm và vận dụng hết sức lực còn lại mở túí balô lấy thuốc trụ sinh trị kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến khuya, tôi không đi cầu nữa.
Tại trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Đăng Có, Thiếu tá Quân Cảnh, Chỉ huy trưởng trại giam tù phiến cộng này. Anh Có là em ruột của Đại tá Phạm Đăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 8 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có đến phúng viếng, tiển đưa), nguyên là Tham Mưu Trưởng QĐ4 & V4CT thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh, đó là hai ông sếp lớn của tôi. Người anh kế của anh Có là Trung tá An Ninh Quân Đội Phạm Đăng Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Đốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình ăn chay nằm đất.
Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập chính sách “khoan hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt rệp. Cũng chính lúc này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết đặt, gần cổng ra vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên” lắng nghe theo dõi buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền thanh.
Mỗi đội phải cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi tham dự phiên xử anh Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa là Nguyễn Văn Đương thuộc ngành Tình Báo Quân Đội (tôi vừa mới bìết tên anh Thiếu tá này do một chiến hữu ở Úc Châu gọi điện thoại cho biết) cũng trốn trại tại Suối Máu. Anh này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị chận bắt ở một chốt kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi đang ngồi nghe ngóng, phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh Thiếu tá Đương ra xử. Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư thế bị còng 2 tay, anh chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng sản trước tòa, anh vừa mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí minh. Hai tên bộ đội dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào miệng, kéo sền sệt ra khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ một loạt mà anh em có tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ, dù còn nắng trời đổ mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của QLVNCH bị giết dã man trước họng súng của quân xâm lược.
Được biết, đám cán binh VC không lôi anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã thiết đặt trước mà chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất . Buổi chiều, bọn xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội, anh Phạm Hữu Thịnh bị nhét giẽ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa đến pháp trường cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ đày đọa mấy tháng trong connex, thân hình tiều tuỵ, da bọc xương tái méc, nhưng sắc mặt anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi chuyện.
Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt đám tù còn lại, trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân đạo gì ráo trọi.
CHUYẾN TÀU THỦY RA BẮC
Qua 2 lần chuyển trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 10 tháng 6 năm 1976, nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền Nam. Nay lại ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ mạt rệp, cũng tập họp từ 7 giờ tối, bị kiểm tra "tư trang", chúng tịch thu vô số đồ dùng cũng như thuốc men của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi được dồn lên xe chật ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6 giờ sáng mới bị dẫn xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật dụng, heo, trâu, bò…đậu tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa.
Mỗi chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này chúng dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu đen và người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi mà ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra một cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét mới có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể đặt lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà đám bộ đội áp tải không nói năng gì.
Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở nắp ra, thòng dây xuống để chúng tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao, cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2 tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại bắn nước dơ tung toé, rơi xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu trời, lãnh đủ, nước không đủ uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc phục”. Mỗi lần xếp hàng chờ “lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài tiếng như chơi. Rủi hơn nữa tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra là lúc chiếc thùng đầy ắp, còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo thùng lên. Chờ “bề trên” trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới thòng dây xuống kéo thùng lên, đồ phế thải dơ bẩn đó phải đổ xuống biển, còn rữa nữa mới thòng thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa lại văng nước tung toé. Anh em có dịp la lên chí choé, nhưng nước văng lần này tương đối “ thơm tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4 ngày ở dưới hầm tàu này, có nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại không đi cầu được, đành rút lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa”.
Sau 4 ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mữa tới mật xanh, may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mữa nên đở tiều tụy hơn nhiều anh em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi tàu cặp bến Vĩnh Linh - Đồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn giọng đề cử tôi làm Đội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi có 1 tên bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.
CHUYẾN TÀU HỎA ĐỊNH MỆNH TRÊN ĐẤT BẮC
Trời đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông nghẹt, xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có 4-5 con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Đèn dầu, đuốc được các người dân nghèo khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC có gắn lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng bước nặng nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết dân chúng bị bắt buộc đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón” chúng tôi. Họ nói chuyện râm rang, bàn tán, chữi đổng… rất ồn ào, bọn tù chúng tôi uể oải, mệt lã, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn.
Đến ga xe lửa, cứ 50 người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu lửa để chở súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít, không có một cái cửa sổ nhỏ nào cả, 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau. Tôi nhận chân được cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường rầy xe lửa quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang, nay biến đâu mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải thiện’ đời sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi bánh xe cán lên nghe âm thanh phập phình, khập khểnh, chúng tôi có cảm tưởng đường rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu con người cùng khổ xuống sông, xuống ruộng… Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến gần trưa tới Nam Định, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Định loang lổ phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ cộng sản vùi dập không thương tiếc từ năm 1954 khi đất nước VN bị chia đôi.
Vì tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2 tên bộ đội ngồi chỉa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho tôi. Đến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy có thể đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Định 2 tên bộ đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài. 50 anh em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì thiếu oxy. Tôi nảy ra sang kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn như cọng dây kẽm… ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẻ hở để gió lọt vào mà thở.
May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa nhỏ xíu và cọng thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong việc chạm trỗ trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui, tịch thu biết bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối quý hiếm đó. Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại một ga xép để nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội trưởng nhảy xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật nhanh mang thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa, anh em luân phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát… và may mắn có luồng gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa lên tàu vừa lúc tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá vừa có nước uống đở khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ bằng đầu chiếc đủa và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắt tị không “khựi” thêm được nữa.
Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai cũng cần khí trời để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người đau yếu, nhất là các anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm sao chen giành lại với các anh khỏe hơn?. Tôi bèn có quyết định, lựa 4 anh to con như tôi hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông hơi cứu tinh này. Ai ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít thở vài phút, nhường chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp chỉ huy cũ nên dễ thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đở nhau trong cảnh cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời lại đứng gió nên có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu cứu khi xe ngừng lại tại một ga nào đó. Nhiệm vụ của đội trưởng là phải dìu hay phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu.
Toa này chỉ là toa có nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào may mắn được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở ngoài tràn vào. Tôi gặp một anh bò ngũ thân quen đang nằm tại đây và anh cho biết Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh ấy bộ đội áp tải cho khiên xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen biết Trung tá Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông Tin Giao Tế mà tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Đại lộ Thống Nhất – Sài Gòn. Sau này, tôi nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong chuyến tàu lửa định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh ấy mà từ đó về sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái, các cửa lên xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm vụ đội trưởng quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của tỉnh Yên Bái, sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức”.
ĐƯỜNG LÊN SƠN LA GIAN KHỔ
Đến nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16.6.76, bên nây bến phà Âu Lâu, chúng tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường, có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc, uống vào chả ra làm sao và tôi ao uớc nếu có một chén nước trà nóng trong đêm buồn thảm này uống chắc đả, phê lắm. Đi bộ xuống phà, nghe nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian khổ đang chờ đón.
Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều đoàn xe molotova chờ sẵn, những người lính áp giải không phân biệt đội nào, cứ lùa tù lên đầy xe là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi người về Hoàng Liên Sơn, người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn La, rừng núi ngút ngàn bất tận, đúng ngày 16.6.1976. Sau gần 6 ngày hành quân kỳ cục và khổ nhọc nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những người tù bị lưu đày lên xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình”, đã đến đây chắc khó trở về sum họp với vợ con?.
Đoàn xe tù chúng tôi chừng vài chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người được đưa đến tận chân núi, nơi có 2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào vách núi, xây mấy chục năm trước để nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt tù binh Mỹ và Đại Hàn mà vết tích còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò tứ, bò ngũ bên Quân Đội, bổng dưng có một xe toàn bò tam cũng đổ xuống , ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành một đội riêng.
Chừng 2 tuần sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển tới nữa mà đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền Tây. Chuyển từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình diện đợt 2 ở Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà không có đủ nước sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV gọi chúng tôi khi mới đặt chân lên xứ này.
Đợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100 anh em tù bị bắt từ mùa hè đỏ lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có Trung tá Khương, Chỉ Huy Trưởng BCH Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi tôi đi lao động cất nhà mới để đón tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp lại anh Nguyễn Văn Thuế, Thiếu tá Pháo Binh cùng học với tôi tại trường Sinh Ngữ Quân Đội ở đường Nguyễn Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi đó chúng tôi còn đeo lon Đại úy. Anh Nguyễn Văn Thuế bị bắt lọai hàng binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng “le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng đeo “quân hàm” thiếu tá… Sau xin đổi qua diện tù binh để được trao trả theo Hiệp Định Ba Lê nên bị cộng sản đì, không những không trao trả mà còn bị nhốt tù để cùng với những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng tôi.
Một chuyện hi hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm được nước mắt. Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên này, nằm cạnh tôi có nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng kiến một cuộc trùng phùng hi hữu giũa hai bố con truớc cỗng trại. Khi chúng tôi xếp hàng ra ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng”, anh Trung tá gặp lại đứa con trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị ghi nhận là mất tích trong một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù xuất hiện nhận diện được cha mình cùng đang ở tù chung trại.
Cũng tại trại Sơn La này, người tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi lại quên tên, anh là Trung Tá làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh chết vì đau và sau khi hút được 1 “bi” thuốc lào thoải mái, anh thanh thản ra đi. Người chết kế tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố này là anh Trung tá Tường, nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ mà tôi gặp anh hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây. Anh Tường chết vì uống thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai không biết ngày nào được thả ra…
Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 2 nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt Kích nhảy ra Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh em bị bắt vào mùa hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào, cấp bậc từ hạ sĩ quan đến Trung úy, cấp cao nhứt là Trung tá Khương bị bắt 1968 tại Huế. Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi cách “lao động xã hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần lượt sẽ được chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây số vuông. Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định nhốt tù rõ rệt từng cấp bậc.
Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi “chuyên trị” nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè Mường Cơi, gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam và K6 nhốt toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính huyết mạch của tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các anh em ở các trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các trại giam Cần Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em này đến Sơn La cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn cất thêm đủ chỗ, các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó.
Ở tù cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít khác nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn chắc chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.
TRẠI TÙ HỒNG CA - YÊN BÁI
Chuyện ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa có thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man tàn bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã ngựa của chính thể VNCH.
Đến năm 1978, có tin Trung cộng sẽ dạy cho CSBV một bài học, như chúng ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư đoàn bộ chiến cùng với không yễm và pháo yễm đã tấn công vào các tỉnh cực bắc VN, giáp biên giới TC vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La đã có lệnh “di tản chiến thuật” trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại 6 chúng tôi được chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Đó cũng là thời điểm, chúng tôi được chuyển sang diện tù thường không còn là diện tù binh như chúng tôi đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm của bộ đội cộng sản đối với tù hàng binh.
Chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt.
Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ dãi đôi chút hơn là đám công an dùng kỹ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi lần di chuyển bằng xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8, còn bên bộ đội khi chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị đi bằng máy bay. Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn sắn quanh năm thay cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính gian lận. Thí dụ 1 ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2 ký sắn lát khô. Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có nơi công an chỉ tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn sắn lát khô, cứ 1 cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung cấp đường, thuốc lá, thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng bồi dưỡng hoặc mua bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.
Tóm lại, tại các trại tù do công an quản lý bắt người tù lao động cật lực chết bỏ, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả ngày chủ nhật nữa mà bên bộ đội ít có xảy ra.
Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái, số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La, cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số chuyển về đâu đó, hình như cũng ở Nghệ Tĩnh.
TRẠI TÂN LẬP – VĨNH PHÚ KHÓ QUÊN
Bi đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1 và K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa đại khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi chỉ tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh với các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.
Từ Sơn La về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài tháng, ăn được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1 bữa khá no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường cát trắng của Cuba.
Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo, lần đầu tiên tôi được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo bồi dưỡng cho cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài cổng trại Hồng Ca có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ ngồi đậu sẵn để chở chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh mục Trần Quý Thiện, ngài cùng ở chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi được ngồi ghế gần ngài có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng đở lo nghĩ, sốt ruột.
Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và đi bộ hai người dung dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết thì chúng tôi lại lên xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào buổi sáng gần bến phà, bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo cáo cán bộ áp giải xin đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha Thiện vào cái nhà nhỏ bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi cởi quần cho nhanh và chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn no và cộng thêm sắn bồi dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần lượt dzọt ra tới tắp. Tội nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh mà hít phải mùi chua lòm của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất gentleman ngài xé 1 mảnh báo Nhân dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm vụ sạch sẽ cuối cùng.
Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no lại có thêm bồi dưỡng, nay của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy của tôi chắng có hấp thụ được chút chất bổ dưỡng nào.
Về trại Tân Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến trước trồng trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt nghỉ và ăn sắn quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào các ngày chiều 30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Động 1.5, ngày 2.9 cái gọi là quốc khánh của CSBV và ngày 1 tháng giêng dương lịch (Tết Tây).
Cái khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn Lạc, Trưởng phòng An Ninh QĐ2, Thiếu tá Lê Xuân Hường Trưởng khối CTCT Liên Đoàn 1 BĐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh Trung tá nữa lăn quay ra chết và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới chết.
Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan nghiệt của các anh ấy đã giúp chúng tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom đóm nữa. Đây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1 rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 . Từ K3, tôi được chuyển về Nam từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Đến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả ra rất hiếm hoi.
TRẠI TÙ CHÓT: Z 30D – HÀM TÂN (RỪNG LÁ)
Đến năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z 30D – Hàm Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra đất Bắc đầu tiên ngày 10.6.1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai đi toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và Sơn La, toa nào ở lại Yên Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở Yên Bái.
Đợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản đã xếp loại nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 - 6 năm như tin đồn đoán, hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Đội và bên hành chánh là những công chức cao cấp đến hàng Tổng Trưởng, các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo, dân cử…
Bên Quân Đội, những vị từ cấp Đại tá đến Tướng được đi bằng máy bay C130 của ta “bỏ của chạy lấy người”, cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được đi bằng máy bay và cũng đeo đồng hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá, trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt đầu.
Cái bịp của CSBV, không những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp đối với mọi người dân lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần cán bộ của chúng, quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.
Trưóc khi chuyển tù ra Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập tòa án quân sự bắn 2 anh Thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học tập chính sách 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mọi người tù an tâm hồ hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động tốt”.
Sau này, CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người tù đổ xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến các trại tù khắp đất Bắc.
Tại Z 30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế” về K2 ở trong sâu, còn K1 là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu rừng lá buông bạt ngàn, người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Đường vào K1 và K2 có trồng thật nhiều sua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông sua đũa nhiều quá dể bị “tào tháo” đuổi chạy trối chết.
Được chuyển trại về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là mình sẽ còn sống, lúc ấy quả thật chúng tôi rất vui mừng (hồ hởi phấn khởi) thấy được đoạn cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng hé lộ. Khí hậu thời tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng núi miền Bắc, gần gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức hấp dẫn, tù cải tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ với chánh quyền Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ… Nghe vậy chỉ biết vậy và chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ các ông tù cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy đến tốt đẹp cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm và nếu có tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra đi đàng hoàng, ngẫng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.
KÉT LUẬN
Ai đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn Tây… ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Đình, Nghệ Tĩnh, về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Đông Nam Bộ cho đến miền Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn, khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.
Nay miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chửa trị…
Chuyện tù cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này./.
Trần Văn
Trần Văn
LỜI NÓI ĐẦU CỦA NGƯỜI VIẾT:
Hơn 38 năm đối với đời người quả thật dài. Những vui buồn của ngày tháng cũ trong ký ức theo thời gian dài phải bị xóa nhòa, nhưng, đối với những người chiến sĩ QLVNCH bị gác súng tức tưởi mà kẻ thù chụp cho cái mũ có nhiều “nợ máu với nhân dân và cách mạng”, chúng trả thù và hành hạ thật ác độc, đê hèn, làm sao quên được?
Tháng 6 năm 1976, Ban Quân Quản Sài Gòn ra lệnh gom hết những người gọi là có nhiều nợ máu vào đợt “học tập cải tạo” đầu tiên, sĩ quan cao cấp từ tá đến tướng. Bên chính quyền với những vị công cử đầu não cùng với các vị dân cử trong Quốc Hội, Hội Đồng Tỉnh; các giới chức lãnh đạo các đảng phái chính trị và các tu sĩ có thành tích chống cộng…Sau đó chúng lùa hết quân cán chính VNCH vào rọ. Trại tù cải tạo được thiết lập trên khắp lãnh thổ từ miền cuối Việt Cà Mau đến tận vùng cực bắc Lào Cai, Sơn La..., và cả nước là một nhà tù khổng lồ. Đây quả là một giai đọan lịch sử bi thảm nhất trong hơn 4 ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam.
Chuyện Tù Cải Tạo Nhiều Người Muốn Biết mà tôi đang viết sẽ phát hành vào năm tới, nhằm phơi bày và vạch trần tội ác của chế độc cộng sản Việt Nam đối với quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị “ngã ngựa” kể từ ngày 30.4.1975. Dưới đây, tóm lược bối cảnh các trại tù mà Trần Văn đã từng trải qua: Thành Ông Năm (Hóc Môn), Suối Máu (Biên Hòa), Sơn La (Bắc Việt), Hồng Ca - Yên Bái (Bắc Việt), Tân Lập - Vĩnh Phú (các trại gọi là K - 2 - 1 - 4 - 3 - Bắc Việt), Z30D - Hàm Tân (Bình Tuy - Rừng Lá - Miền Nam VN)).
Nhân Ngày Tù Nhân Chính Trị Việt Nam tổ chức ở Dallas – Texas từ 3 đến 5 tháng 10 năm 2008. Cá nhân tôi và trên 4 - 5000 người ở khắp nơi Hoa Kỳ & Canada hội tụ vê đây cùng tham dự 3 ngày đại hội do Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị của bà Khúc Minh Thơ tổ chức. Đây là đại hội cựu tù nhân quy tụ đông đảo nhất cựu tù ở hải ngoại, đánh dấu sự thành công to lớn dù có người hô hào chống đối tẩy chay.
Xin mời quý độc giả đọc và suy gẫm, thế hệ chúng tôi phải làm gì để quên quá khứ bi thảm nhất trong cuộc đời của mình…?
-------------
NHỮNG NGÀY ĐẦU VÀO TÙ
TRƯỜNG TRUNG HỌC PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ
Theo thông báo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam từ ngày 30.4.75, theo lời cộng sản nói, những thành phần "có nhiều nợ máu" phải trình diện 3 ngày 13, 14, 15 tháng 6 năm 1975 (tôi có thể nhớ sai ngày dương lịch), nhưng, chắc chắn là trong 3 ngày trình diện đó có ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão, vợ chồng chúng tôi trình diện vào buổi chiều ngày này.
Cư ngụ ở quận 8 nên chúng tôi trình diện một lúc với các anh em khác cùng cấp bậc Thiếu tá ở các quận 6, 7 (hình như có thêm quận 9 mới thành lập không lâu ở bên kia sông Sài Gòn - Thủ Thiêm) tại trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký ở đại lộ Cộng Hòa (VC gọi trường này là Lê Hồng Phong). Còn những qúy vị khác tùy theo cấp chức trình diện ở các địa điểm khác, hầu hết là các trường học. Thông cáo của kẻ cưỡng chiếm miền Nam nói rõ là chúng tôi phải mang theo tư trang (đồ dùng cả nhân) và đóng đủ tiền ăn 1 tháng, khoảng trên 13 ngàn mấy trăm (bằng 1/3 lương của một Thiếu tá. Sau đó, trình diện đi tù đợt 2: sĩ quan từ Đại úy trở xuống đóng tiền ăn 10 ngày…).
Sĩ quan cấp Thiếu tá trình diện ở trường Trung học Pétrus Ký ít hơn các nơi khác, trên dưới 100 người, vì các quận 6,7,8… nằm ở ven đô - Thủ Đô Sài Gòn. Người nữ quân nhân duy nhất tại điểm tập trung này, Thiếu tá Trần Thị Bích Nga, Chỉ Huy Trưởng Trường Xã Hội Quân Đội (trường nằm trong Trại Lê Văn Duyệt của Biệt Khu Thủ Đô). Thật đúng là hoa lạc giữa rừng gươm tua tủa của hai phía ta và địch.
Ngày đầu tiên trình diện, chúng tôi được “cách mạng” cho thưởng thức cách trị bệnh thần sầu quỷ khốc, nằm dài trên ghế học trò, được nhỏ nước tỏi tươi nồng nặc vào hai lỗ mũi. Ngày sau, truớc khi có “lệnh hành quân” chuyển đến trại tù chính , chúng tôi được nhà hàng sang trọng Ngọc Lan Đình ở Chợ Lớn đưa bàn ghế tới, cứ 10 người một bàn như “nhập đại tiệc”, có đến 7 món ăn mà chúng ta thường gặp trong các tiệc cưới… Khi nhân viên nhà hàng thân quen Ngọc Lan Đình đến “thết đải”, tự dưng tôi chảy nước mắt vì tháng 2 năm 1962, khi tôi được các giáo sư và nhà trường Phước Kiến (266 Đại lộ Khổng Tử, sau đổi tên là trường Phước Đức.
Vụ Tết Mậu Thân, trực thăng xạ kích lầm nơi này làm chết và bị thương nhiều sĩ quan cấp tá) tổ chức một bữa tiệc linh đình để tiển đưa tôi nhập ngũ khoá 13 Thủ Đức tại nhà hàng Ngọc Lan Đình. Lúc bấy giờ tôi là Giám học trường trung học này [kể cả học sinh trung tiểu học có (3000 hay 5000 em?), học 2 thứ tiếng Việt và Tàu mà tôi làm Giám học đặc trách về các môn học Việt ngữ, Tiến sĩ Tăng Kim Đông làm Hiệu trưởng, sau TS Đông làm Tổng Trưởng Giáo dục thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc]. Tôi được TS Tăng Kim Đông mời phát biểu lời từ giã, sau vài lời cám ơn giáo sư và nhà trường, tôi sực nhớ đến 4 câu thơ xưa của Tàu và lên giọng to:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn
Cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi.
Tự nhiên tôi chảy nước mắt và khi đó có một giáo sư người Hoa rất qúy mến tôi, anh cảm kích đọc lại bài thơ này bằng tiếng Hoa (Quan Thoại), cả thực khách đến mấy trăm người dự tiệc như lắng đọng, cảm kích chia xẻ với tôi “cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi”. Đó cũng là dấu ấn khó quên trong đời đi dạy học của tôi từ tiểu học đến trung học. Sau hơn 13 năm đi lính, nay cũng chính nhà hàng Ngọc Lan Đình đãi tiển chúng tôi vào một ngày mai mờ mịt…nên tôi xúc động thật sự. Bài thơ tứ tuyệt ấy lại đến với tôi và câu cuối cổ lai chinh chiến kỷ nhơn hồi, 13 năm trước cho đến ngày vào tù, tôi vẫn sống và thăng quan tiến chức. Tôi như thầy bói suy luận, biết đâu câu thơ này sẽ vận vào cuộc đời ở tù của tôi từ đây…
Trình diện “học tập cải tạo”, một danh xưng bịp của bọn CSBV mà chúng tôi tự ý đưa thân nạp mạng cho loài quỷ dữ, đúng ngày Tết Đoan Ngọ, mồng 5 tháng 5 năm Ất Mão (1975).
Hai vợ chồng đèo trên 1 chiếc xe đạp, người tài xế trung thành của bà xã tôi, từ Hóc Môn đạp xe xuống để tiển đưa. Khi chúng tôi mang ba lô vào cổng trường Pétrus Ký, chú Nhuận tên người tài xế thân thương trung thành đó, một tay lái xe, một tay cố kềm đưa chiếc xe đạp thứ hai về nhà. Chúng tôi ở khu lao động, dốc cẫu Chữ Y, đường Hưng Phú - đường đi đến lò heo Chánh Hưng,. Bốn đứa con nhỏ của chúng tôi, từ 3 đến 9 tuổi, được cha mẹ chúng để lại chiếc xe đạp làm phương tiện và là một tài sản sau cuộc đổi đời này.
Viết đến đây, ký ức của tôi bỗng nhiên như thấy cảnh tượng hoang mang, lo sợ, giao động của hơn 38 năm trước như hiện rõ.
Khi Thủ Đô Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, thời mạt vận của chánh thể VNCH đã ập đến nhanh quá. Nỗi nhục nhã ê chề của những người lính từng cầm súng chống quân xâm lược cộng sản Bắc Việt, nay đến thời điểm lâm vào cảnh cá chậu chim lồng. Tất cả chiến sĩ anh hùng của QLVNCH phải buông súng và sống trong cảnh phập phồng. Chúng tôi chờ đợi kẻ thù công bố chính sách đối xử với tù hàng binh mà CSBV rêu rao ra rả hàng ngày trên các hệ thống truyền thông suốt 2 tháng 5 và 6.1975. Sự phập phồng, lo âu như cảnh tượng quân Khơ Me đỏ sau những ngày tiến chiếm Thủ Đô Pnom Penh (Nam Vang) nhốt và giết sạch kẻ thù của chúng. Ý nghĩ này đã xâm nhập vào tâm tư tình cảm của mọi người, một tương lai mờ mịt u buồn, thê lương tràn ngập trong suy nghĩ của từng người từng gia đình mà gia đình chúng tôi cả hai vợ chồng đều là lính, bốn đứa con nhỏ dại sẽ nương tựa vào đâu để sống?.
THÀNH ÔNG NĂM – LIÊN ĐOÀN 5 CÔNG BINH KIẾN TẠO
Một trăm thiếu tá trình diện ở trường Pétrus Ký, khi chuyển đến thành Ông Năm ở Hóc Môn (bản doanh của Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo) được chia thành 2 đội 34 và 35. Tôi ở đội 34, đội 35 có 5 Y sĩ Thiếu tá. Bà Thiếu tá Bích Nga nhập cùng với quý chị cấp tá khác ở đội nữ, cách đội 34, 35 chỉ một con đường và gần sát hàng rào kẽm gai. Hàng ngày, chúng tôi có thể trông thấy nhau dùng ánh mắt chia xẻ sự lo âu sâu xa về tương lai của 4 đứa con nhỏ dại…
Những ngày đầu, nhiều chuyện quan trọng đã xảy ra tại lán của đội 34 và 35 ở trại tù Thành Ông Năm – Hóc Môn:
Chuyện khó tin, nhưng có thật, một tên cán bộ y tá, mặt rỗ khá rõ đến lán đội 34 và 35, tập hợp 5 ông thiếu tá bác sĩ Quân Y, dẫn ra khỏi lán bảo đứng nghiêm, 5 ông là bậc thầy của chúng, nghe tên cán ngố này giảng về vệ sinh phòng bệnh… Hắn dẫn 5 ông bác sĩ tội nghiệp của chúng ta phải đi xem “thanh sát” các đường mương, nhà cầu, cách làm sạch các chỗ này. Chưa hết cán ngố còn chỉ bảo cách chửa bệnh nữa cơ làm 5 ông bác sĩ phe ta cứ ngẫng mặt mà nhìn chịu trận, nín thở qua sông. Về lán, anh bác sĩ Tôn Thất Thận (lớn tuổi nhất trong 5 ông BS) nằm gần tôi, kể lại cho chúng tôi nghe mà cùng nhau cười ngất.
Chuyện mà tôi cũng khó quên, anh Hoàng Xuân Định (hiện ở San Jose), Thiếu tá Quân Cụ, anh em thúc bá với Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, nguyên Tư Lệnh QĐ1 & QK1, đứng ra nhận lãnh chức Trưởng Ban Văn Nghệ của trại tù Thành Ông Năm (Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo do Đại tá Dương Công Liêm làm Liên Đoàn Trưởng). Không biết ai giới thiệu với anh Định, chọn tôi vào ban văn nghệ, xung vào thành phần đóng kịch vì hát xướng, giọng vịt đực của tôi bù trất. Sở dĩ, tôi chấp nhận sự chọn lựa này vì hoàn cảnh bi đát của tôi, vợ chồng đều bị đi tù, ở gần nhau mà chẳng nói được lời nào với nhau. Tôi luôn bị ám ảnh tình cảnh 4 đứa con nhỏ dại làm sao mà sống với bà mẹ vợ già cả và thường bị nhiều thứ bệnh. Hơn nữa, trước khi đi tù, có tin, nhà đang ở của gia đình sẽ có một tiểu đội bộ đội CSBV “xin” được đến đóng chốt, làm sao mẹ vợ của tôi từ chối, các con chúng tôi sẽ chịu cảnh ở chật chội, mất tự do. Tôi cần phải làm cái gì để tạm quên sự lo âu dằn vặt đang ăn sâu vào tâm trí, tôi vào đội văn nghệ để giết thì giờ.
Suýt chút nữa, ban văn nghệ của anh Hoàng Xuân Định được cách mạng “chiếu cố” cho vào cùm. Với vỡ hài kịch mà anh Định viết nói về những ngô nghê, ngu dốt của đám khỉ từ rừng mới về Sài Gòn hoa lệ làm cuộc đổi đời, dân chúng từ sung túc xuống bần cùng. Dù anh Định viết rất khéo, nhưng đến buổi phúc khảo, có người trong phe ta làm ăng-ten lập công (nghe anh em kể lại) phân tích tỉ mỉ cái ý nghĩa của vỡ hài kịch “trình” với cán bộ “răng đen mã tấu” ngu dốt “đì” chúng tôi. Nhưng, lúc đó cán bộ cộng sản còn “nới tay” vì mới chiếm Sài Gòn, lòng dân còn nhiều hoang mang và người “tù cải tạo” vừa đóng tiền nhập trại tù chưa lâu nên toán văn nghệ chúng tôi thoát hiểm “trong đường tơ kẽ tóc” chỉ bị cảnh cáo dằn mặt và đuổi về đội.
Chính đội 35 “nổi tiếng” vì có hai chiến sĩ can đảm anh hùng nhất của chúng ta lúc bấy giờ. Ai bị nhốt ở Thành Ông Năm thời điểm đó đều nghe danh 2 Thiếu tá của QLVNCH là anh Quách Hồng Quang, cư ngụ ở vùng cầu Nhị Thiên Đường, Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân ( tôi không nhớ rõ: TĐ 42 hay TĐ 44, có tên là Cọp Xám hay Cọp Ba Đầu Rằn, 2 tiểu đoàn vang danh anh dũng của vùng đồng bằng sông Cửu Long-V4CT, cộng quân khiếp sợ). Người thứ hai là Thiếu tá Phạm Hữu Thịnh, đơn vi cuối thuộc Ban Liên Hợp 4 Bên ở Sài Gòn, anh gốc là An Ninh Quân Đội, cư ngụ ở Dạ Nam Cầu Chữ Y. Cả hai chiến sĩ anh hùng của chúng ta đã can đảm “trốn trại” đầu tiên, tìm đường vượt thoát khỏi cảnh tù đày nhục nhã vào một đêm có gần nửa vành trăng trên bầu trời. Đây là vụ trốn trại đầu tiên khi CSBV lùa quân cán chính VNCH vào rọ tù của chúng, có thể nói là vô tiền khoáng hậu mà tôi chứng kiến.
Tôi chơi rất thân với hai anh Quang, Thịnh, vốn tôi quen biết anh Quang từ miền Tây, lúc ấy tôi là sĩ quan báo chí của QĐ4 từng theo ông Tướng Tư Lệnh QĐ4 đến thăm viếng đơn vị khi anh Quang còn là Trung đội trưởng. Anh Thịnh ở phía bên kia cầu Chữ Y, gia đình tôi ở phía bên này cầu Chữ Y, cả hai anh đều nhỏ hơn tôi 5-6 tuổi và tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức sau tôi nhiều khóa. Hai anh Thiếu tá trẻ này xem tôi là niên trưởng, năm 1975, tôi đã qua tuổi 40.
Trước khi thực hiện chuyện phi thường, liều lĩnh, anh Quang bị đau liên tiếp nhiều ngày, tôi có tặng nhiều viên thuốc cảm và trị sốt rét mà anh Quang cần. Còn anh Thịnh, hàng ngày mải mê tập thể dục, anh Thịnh còn tự chế một cái tạ để tập, hai tay của anh cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Một lần, tôi hỏi, anh Thịnh nói tôi tập tạ nhằm luyện cho thật khỏe 2 tay để có ngày sử dụng và ngày ấy là ngày N, giờ G, giờ định mạng của cả hai anh Quang và Thịnh?.
Khoảng từ 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng của một đêm có mưa lất phất, trên nền trời và cảnh vật, ánh trăng sáng lờ mờ, hai anh Thịnh và Quang đi ra hướng cầu tiêu ở gần hàng rào kẽm gai, chọn thời điểm thích hợp này thực hiện cuộc vượt thoát. Nhiều tiếng súng nổ vang trong đêm khuya vắng lặng và tiếng kẻng báo động vang dội khắp nơi xa gần, đánh thức mọi người. Tôi choàng ngồi dậy bước ra cửa coi xem có chuyện gì xảy ra, lính tráng đơn vị canh gác trại tù này, rầm rập chạy với súng cầm tay la hét om sòm, bảo phải tắt đèn và mọi người ở trong lán không được đi ra ngoài…
Sáng hôm sau, cán bộ quản giáo cho biết có 2 anh trốn trại thuộc đội 35, một anh bị bắn chết tại vòng rào trại, một anh bị thương và bị bắt đang nằm ở y xá. Trong những ngày kế tiếp, chuyện trốn trại của 2 anh Quang, Thịnh đã được sáng rõ thêm. Khi quản giáo hỏi đội 34 và 35 có anh nào đem thức ăn cho anh Thịnh đang bị thương, không ai lên tiếng. Tôi tình nguyện mang thức ăn chánh thức của trại đến tiếp tế cho anh Phạm Hữu Thịnh. Sau khi mỗ lấy viên đạn còn ghim trong người ra, nay hồi tĩnh, anh Thịnh lại bị nhốt trong 1 connex, để gần chòi gác, còn bi thảm hơn, ngày thì nóng như thiêu như đốt, đêm khuya lạnh lẽo đến tận xương tủy. Mỗi lần đưa thức ăn đến anh Thịnh, trong đầu, tôi xếp sẵn những câu hỏi, phải thật nhanh và ngắn gọn vì lính gác trên chòi canh lúc nào cũng nhìn theo dõi tôi khi mang thức ăn đến connex.
Nhờ vậy, tôi biết được khá nhiều về gia cảnh Thịnh, anh còn bà mẹ già, vợ anh gốc người Hoa. Anh Thịnh còn cho biết sở dĩ anh bị bắn trọng thương vì anh quay lại cứu bạn mình, anh Quang, quần áo đang bị vướng dây kẽm gai mà anh gỡ ra còn nhùng nhằng. Lính gác trên chòi canh phát hiện bắn anh Quang nhiều phát đạn, anh bị thương và nằm dán chặt vào hàng rào. Trong khi anh Thịnh đã chạy đến cây mít (chúng tôi thường thấy các chị ở Sài Gòn lên kiếm thăm chồng? đứng lấp ló ở khu cây mít này), cách hàng rào trại chừng trăm mét. Vừa tới hàng rào dây kẽm gai, anh Thịnh nghe tiếng súng nổ liên hồi vội quay lưng chạy và một viên đạn cấm vào lưng anh, té qụy. Theo lời anh Thịnh kể vắn tắt, anh Quang chỉ bị thương còn sống và cái áo của anh còn dính với mấy móc kẽm gai, đám cán độ trại đến nả bồi thêm vài tràng đạn nữa, kết liễu đời oanh liệt của một chiến sĩ BĐQ ưu tú can trường QLVNCH, Quách Hồng Quang, lúc nào 2 chữ sát cộng cũng đến với binh chủng anh dũng này.
Nếu gia đình chị Thịnh may mắn được sang định cư ở Hoa Kỳ, xin liên lạc, tôi kể lại những ngày cuối cùng của anh Thịnh từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn cho đến trước 1 ngày anh Thịnh bị xử bắn tại trại Suối Máu - Biên Hòa mà tôi “làm gan” trò chuyện với anh đang ngồi hớt tóc. Anh Thịnh linh cảm sẽ khó sống vì đám cán bộ chấp cung thường tỏ vẽ muốn giết anh để dằn mặt đám tù còn lại. Anh Thịnh còn nhân mạnh với tôi, CSBV tàn ác lắm, chúng muốn giết anh, khi mỗ lấy đạn không có thuốc tê, thuốc mê gì cả. Anh đau đớn quá chết ngất không còn biết gì nữa, chúng muốn làm gì thì làm, may mà anh còn sống đến ngày bị xử bắn.
Thành Ông Năm ở quận Hóc Môn, trại tù đầu tiên đã nhốt chúng tôi, nhưng trại này chỉ là trại trung chuyển, sau mấy tháng lại chuyển tất cả bò tứ, bò ngũ (thiếu tá, trung tá) về Suối Máu. Đây là doanh trại của Trung tâm giam giữ tù phiến cộng của Quân Khu 3 để trao trả với phía bên kia.
Cũng chính trại tù Thành Ông Năm, sau ngày ra tù, một bác sĩ Quân Y/QLVNCH, Y sĩ thiếu tá Trần Đông A, đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản khiếp phục vì tài mổ 1 cặp song sinh dính lại mà nhiều nước, lúc bây giờ, thập niên 80 không dám mỗ tách ra. BS Trần Đông A nhờ đào tạo dưới chánh thể VNCH đã tiến hành ca mỗ thành công và đến nay BS Trần Đông A vẫn là một trong những bác sĩ giỏi và nổi tiếng nhất của Việt Nam.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU
Từ Thành Ông Năm ở Hóc Môn chuyển về Suối Máu, con đường dài 40 -50 cây số, với đoàn xe quân sự có hộ tống nghiêm chỉnh, theo lẽ di chuyển một tiếng hay tối đa 2 tiếng đồng hồ là đến nơi rồi. Đàng này, chúng tôi phải “khẩn trương” tập hợp hành quân từ 6-7 giờ tối mãi đến hơn 7 giờ sáng hôm sau mới trại Suối Máu – Biên Hòa. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần chúng tôi bị ”bầm vập” thể xác và tinh thần. Chúng dồn nén đám tù này như con vật, một chiếc xe tải Molotova nhét cả 1 đội 50 người cùng với đồ đoàng lỉnh kỉnh, chen chúc ngồi bó rọ, dẫm trên chân trên người nhau. Các xe đều bỏ bạt phủ kín, không đủ không khí để thở, chỉ một cái đánh rấm của một anh nào đó kể như mọi người lãnh đủ cái mùi khó chịu không ai thích.
Lần chuyển trại đầu tiên, từ trường Trung học Pétrus Ký chuyển đến Thành Ông Năm ở Hóc Môn, chúng tôi đã lãnh đủ cái cơ cực khổ sở của cái vụ chuyển trại bi thảm này. Được lệnh hành quân khẩn trương, từ 9 giờ tối đã có tiếng tu-hít (còi) thổi gọi tập họp mọi người. Từ trường Pétrus Ký đến Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, mười mấy hai chục cây số. Cái dễ sợ nhất là mỗi đội chúng tôi bị nhốt trong một chiếc xe bít bùng, tiểu tiện phải đi trong quần vì từ 9 giờ tối đã lên xe, hành quân kiểu gì không biết của đám khỉ học làm người, mãi đến 6 giờ sáng mới tới Thành Ông Năm ở Hóc Môn.
Tại Suối Máu, tưởng tôi đã “bỏ mạng sa trường” vì cái bệnh kiết lỵ.
Xin nhắc lại, tôi từ giã ông Yamoto “đi cải tạo”, khoảng giữa tháng 5.1975, ông là Trưởng văn phòng nhật báo Asahi (Asahi Shimbun) tại Sài Gòn, một tờ báo lớn của người Nhật, có số phát hành các ấn bản sáng chiều và chữ Anh, trên dưới 10 triệu số mỗi ngày. Tôi đã cộng tác với ông Yamoto trên 3 năm, qua tài liệu, ông đã hiểu hơn tôi về chế độ “tù cải tạo” của cộng sản, ông biếu tôi vài trăm đô và đặc biệt tặng 2 “túi cứu thương” để tôi dấn thân vào cõi chết mà ông chỉ nói úp mở. Lúc bấy giờ, thời chiến cực kỳ khốc liệt, mỗi ký giả ngoại quốc ở Sài Gòn, gọi là ký giả chiến trường, đều kè kè bên mình một túi cứu thương, gồm đủ các thứ thuốc, trong đó có nhiều thuốc trị bệnh sốt rét, kiết lỵ, tiêu chảy…May mắn cho tôi, ông Yamoto và người phụ tá của ông có 2 túi cứu thương, ông tặng hết. Nhờ có nhiều thuốc nên ở trong trại tù, nhiều bác sĩ phe ta khám bệnh cho anh em, biết tôi có thuốc tốt, phụ nhĩ với bệnh nhân, đến tìm anh Ngà xin thuốc, tôi trở thành dược sĩ bất đắc dĩ mà chẳng cần học trường Dược ngày nào.
Khi tôi bị bệnh kiết lỵ ngặt nghèo, từ cầu lê lết về đến lán, tôi bước lên thềm không nổi phải bò mới vào được chỗ nằm và vận dụng hết sức lực còn lại mở túí balô lấy thuốc trụ sinh trị kiết lỵ uống 2 lần từ tối đến khuya, tôi không đi cầu nữa.
Tại trại Suối Máu, tôi gặp anh Phạm Đăng Có, Thiếu tá Quân Cảnh, Chỉ huy trưởng trại giam tù phiến cộng này. Anh Có là em ruột của Đại tá Phạm Đăng Tấn (đã từ trần cách nay chừng 8 năm ở Virginia, vợ chồng tôi có đến phúng viếng, tiển đưa), nguyên là Tham Mưu Trưởng QĐ4 & V4CT thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh, đó là hai ông sếp lớn của tôi. Người anh kế của anh Có là Trung tá An Ninh Quân Đội Phạm Đăng Năng, có vợ là bạn học với tôi ở Châu Đốc (anh Năng hiện còn ở VN). Anh Có rù rì với tôi, tụi VC này ác quá, hồi tôi làm sếp ở đây, đám cán binh của chúng được nằm giường sắt 2 tầng đàng hoàng, nay chúng cho bọn mình ăn chay nằm đất.
Tại trại Suối Máu, trước ngày lên đường đi ra miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” chúng tôi gồm bò tứ và bò ngũ, được học tập chính sách “khoan hồng nhân đạo” 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để thông suốt mà hồ hởi phấn khởi ra miền Bắc nghèo mạt rệp. Cũng chính lúc này, một tòa án quân sự của quân khu 7 VC được thiết đặt, gần cổng ra vào trại. Cán bộ trại bắt loa gọi anh em “trại viên” lắng nghe theo dõi buổi xử án 2 người trốn trại, có trực tiếp truyền thanh.
Mỗi đội phải cắt cử 2 người (thường là đội trưởng và đội phó) đi tham dự phiên xử anh Phạm Hữu Thịnh và một anh Thiếu tá nữa là Nguyễn Văn Đương thuộc ngành Tình Báo Quân Đội (tôi vừa mới bìết tên anh Thiếu tá này do một chiến hữu ở Úc Châu gọi điện thoại cho biết) cũng trốn trại tại Suối Máu. Anh này trốn được ra khỏi trại Suối Máu, đi xe đò bị chận bắt ở một chốt kiểm soát nào đó, chưa về tới Sài Gòn. Chúng tôi đang ngồi nghe ngóng, phiên xử khai mạc, nghe rất rõ, khi gọi tên anh Thiếu tá Đương ra xử. Sau khi luận tội và kêu án tử hình, vẫn trong tư thế bị còng 2 tay, anh chiến sĩ anh hùng của chúng ta hô lớn đả đảo cộng sản trước tòa, anh vừa mới nói đả đảo tiếp theo chắc là đả đảo hồ chí minh. Hai tên bộ đội dùng tay bịt miệng và sau đó anh bị nhét giẻ vào miệng, kéo sền sệt ra khỏi phòng. Chừng 2 phút sau nghe tiếng súng AK nổ một loạt mà anh em có tham dự chứng kiến từ đầu. Trong lúc đó, bất ngờ, dù còn nắng trời đổ mưa như sụt sùi khóc cho một chiến sĩ anh hùng của QLVNCH bị giết dã man trước họng súng của quân xâm lược.
Được biết, đám cán binh VC không lôi anh chiến sĩ anh hùng này đến pháp trường cát đã thiết đặt trước mà chúng bắn anh khi ra khỏi nơi xét xử trước một ụ đất . Buổi chiều, bọn xét xử, rút kinh nghiệm buổi sáng, khi chúng luận tội, anh Phạm Hữu Thịnh bị nhét giẽ đầy miệng không cho nói lời nào và đưa đến pháp trường cát kết liễu đời anh, tội nghiệp anh Thịnh bị hành hạ đày đọa mấy tháng trong connex, thân hình tiều tuỵ, da bọc xương tái méc, nhưng sắc mặt anh vẫn bình thản, lạnh lùng và vui vẻ khi tôi hỏi chuyện.
Cộng quân đã đem xử bắn 2 anh em của chúng ta để dằn mặt đám tù còn lại, trốn trại bắt được là xử bắn, không có khoan hồng nhân đạo gì ráo trọi.
CHUYẾN TÀU THỦY RA BẮC
Qua 2 lần chuyển trại trước đây, nay lại chuyển trại lần nữa vào đêm 10 tháng 6 năm 1976, nghĩa là sau 1 năm chúng tôi nằm tù cộng sản ở miền Nam. Nay lại ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa nghèo khổ mạt rệp, cũng tập họp từ 7 giờ tối, bị kiểm tra "tư trang", chúng tịch thu vô số đồ dùng cũng như thuốc men của anh em chúng tôi. Khoảng 10 giờ tối, chúng tôi được dồn lên xe chật ních cũng như 2 lần chuyển trại trước, mãi đến 6 giờ sáng mới bị dẫn xuống tàu nhỏ, cũ kỹ bẩn thỉu, loại tàu chở vật dụng, heo, trâu, bò…đậu tại tân cảng Sài Gòn, gần cầu Sài Gòn, trên xa lộ Sài Gòn – Biên Hòa.
Mỗi chiếc tàu loại nhỏ đó chỉ chở 5-7 chục người là nhiều, đàng này chúng dồn hình như xấp xỉ 3 trăm người vì chúng tôi chỉ nhìn thấy đầu đen và người nào người nấy, ở trần trùn trục, mặc vỏn vẹn chiếc quần đùi mà ngồi chen chúc chịu trận vì không có đủ chỗ nằm. Tôi mạo hiểm lấy ra một cái võng tự chế khi còn ở Hóc Môn, leo lên thành tàu cao hơn 2 mét mới có chỗ buộc dây 2 đầu căng võng nằm, còn ở sàn tàu, không ai có thể đặt lưng nằm được. Bắt chước làm theo tôi có đến cả chục người nữa mà đám bộ đội áp tải không nói năng gì.
Cái khổ nhất trần gian lúc bấy giờ là đi tiểu tiện trong 2 cái thùng thiếc miệng tròn dành cho mấy trăm người. Mỗi ngày, từ trên boong tàu mở nắp ra, thòng dây xuống để chúng tôi buộc vào thùng phân và nước tiểu lần lượt kéo lên. Vì ở trên cao, cách hơn 5-6 mét, cái thùng lại nặng, 2 tên bộ độ ì ạch kéo lên khơi khơi, làm chiếc thùng đầy lượn đảo qua lại bắn nước dơ tung toé, rơi xuống trúng người nào người đó chỉ biết kêu trời, lãnh đủ, nước không đủ uống làm sao mà có nước rữa nên phải “khắc phục”. Mỗi lần xếp hàng chờ “lấy tài” để tống hai cái của nợ, mất vài tiếng như chơi. Rủi hơn nữa tới phiên mình được phép trút cái nợ đời ra là lúc chiếc thùng đầy ắp, còn chỗ đâu mà chứa, đành gọi khan cổ xin kéo thùng lên. Chờ “bề trên” trông xuống hỏi lý do gì mà kêu cứu, họ mới thòng dây xuống kéo thùng lên, đồ phế thải dơ bẩn đó phải đổ xuống biển, còn rữa nữa mới thòng thùng xuống lại, thêm một lần nữa, thùng mới rữa lại văng nước tung toé. Anh em có dịp la lên chí choé, nhưng nước văng lần này tương đối “ thơm tho” hơn lần trước từ dưới kéo lên. Trong 4 ngày ở dưới hầm tàu này, có nhiều lần vì đợi tới phiên lâu quá, tôi lại không đi cầu được, đành rút lui để cho người khác làm “nhiệm vụ xã hội chủ nghĩa”.
Sau 4 ngày ngất ngư con tàu đi, nhiều người bị say sóng ói mữa tới mật xanh, may cho tôi, thể trạng tốt không bị ói mữa nên đở tiều tụy hơn nhiều anh em khác. Cũng vì cái còn khỏe đó mà tôi lãnh cái búa tạ, khi tàu cặp bến Vĩnh Linh - Đồng Hới, tôi được một thằng bạn mắc dịch lớn giọng đề cử tôi làm Đội trưởng để “quản lý” anh em trên toa xe lửa khi có 1 tên bộ đội bảo anh em đề cử đội trưởng.
CHUYẾN TÀU HỎA ĐỊNH MỆNH TRÊN ĐẤT BẮC
Trời đã bắt đầu tối, từng chiếc tàu cặp bến cầu, đổ người lên đông nghẹt, xếp hàng đôi “2 hàng dọc, đàng trước thẳng” lần lượt tiến bước có 4-5 con chó trận vừa sủa vừa dẫn đầu. Đèn dầu, đuốc được các người dân nghèo khổ cầm đứng 2 bên đường với các tên du kích cầm súng trường CKC có gắn lưỡi lê sáng loáng như hù dọa đám tù đói khổ đang lê lết từng bước nặng nề, sau 4 ngày nổi trôi lênh đênh trên sóng biển. Không biết dân chúng bị bắt buộc đứng trên con đường này bao lâu để “chào đón” chúng tôi. Họ nói chuyện râm rang, bàn tán, chữi đổng… rất ồn ào, bọn tù chúng tôi uể oải, mệt lã, lầm lũi bước đi như kẻ không hồn.
Đến ga xe lửa, cứ 50 người lên 1 wagon (toa), hàng mấy chục cái toa, loại toa tàu lửa để chở súc vật, đồ đạc, không có ghế ngồi và hoàn toàn kín mít, không có một cái cửa sổ nhỏ nào cả, 50 người ngồi bó gối chen chúc nhau. Tôi nhận chân được cái văn minh của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đường rầy xe lửa quá cũ kỹ từ thời Pháp thuộc để lại, những thanh sắt ngang, nay biến đâu mất tiêu, chắc cán bộ hỏa xa gỡ đem đi bán sắt vụn để “cải thiện’ đời sống. Thay những thanh sắt ngang bằng những thanh gỗ, khi bánh xe cán lên nghe âm thanh phập phình, khập khểnh, chúng tôi có cảm tưởng đường rầy sẽ “banh xà rông” và tàu hỏa sẽ trật bánh, đưa bao nhiêu con người cùng khổ xuống sông, xuống ruộng… Tàu hỏa chạy suốt đêm, đến gần trưa tới Nam Định, ngôi giáo đường Công Giáo giữa thị xã Nam Định loang lổ phong sương như các tín hữu của tôn giáo này đã từng bị chế độ cộng sản vùi dập không thương tiếc từ năm 1954 khi đất nước VN bị chia đôi.
Vì tôi là “xếp” toa này, nên được ngồi ngay cửa lên xuống mở hé, có 2 tên bộ đội ngồi chỉa súng ra ngoài, đó là ân huệ và cũng cái khổ cho tôi. Đến trưa, trời tháng 5 âm lịch, miền Bắc nóng khủng khiếp, hôm ấy có thể đến 100 độ F hay cao hơn, toa tàu đóng kín, qua khỏi Nam Định 2 tên bộ đội biến đâu mất và cửa này hoàn toàn bị đóng khóa chặt ở ngoài. 50 anh em chúng tôi mồ hôi mồ kê vã ra như tắm, có người ngất xỉu vì thiếu oxy. Tôi nảy ra sang kiến kêu gọi anh em nào có vật gì bén nhọn như cọng dây kẽm… ngồi xuống nạy các khe gỗ ở sàn tàu, may ra có kẻ hở để gió lọt vào mà thở.
May quá, trong balô của tôi còn sót một cái lưỡi cưa nhỏ xíu và cọng thép dài hơn 1 tấc mà khi còn ở Hóc Môn, tôi dùng trong việc chạm trỗ trên các cái lược bằng nhôm, đám cán binh xét tới xét lui, tịch thu biết bao cái “của quý” loại này rồi, nay còn sót 2 món bảo bối quý hiếm đó. Tôi miệt mài khơi cạy chừng 10 phút , tàu lửa ngừng lại một ga xép để nhận tiếp tế và tù được nhận 1 thùng nước để uống mà đội trưởng nhảy xuống toa tàu, khi 1 tên bộ đội đến mở cửa, phải chạy thật nhanh mang thùng nước về. Khi tôi ra khỏi toa, tên bộ đội lại khóa cửa, anh em luân phiên cạy, nạy, móc ra từng mảnh rác nhỏ, đất cát… và may mắn có luồng gió mát thổi vào khi tôi mang thùng nước nặng 20 lít đưa lên tàu vừa lúc tiếng còi tàu ré lên, từ từ lăn bánh. Anh em mừng quá vừa có nước uống đở khát vừa có luồng gió mát thổi vào một cái khe nhỏ bằng đầu chiếc đủa và dài hơn 1 tấc, gặp thanh gỗ bắt ngang nên tắt tị không “khựi” thêm được nữa.
Bây giờ là cái khổ của người đội trưởng, ai cũng cần khí trời để thở cho khỏe nên anh em khó nhường nhau mà người đau yếu, nhất là các anh bị suyễn kinh niên ốm yếu chỉ nằm chờ chết, làm sao chen giành lại với các anh khỏe hơn?. Tôi bèn có quyết định, lựa 4 anh to con như tôi hoặc to khỏe hơn tôi, ngồi chung quanh cái lỗ thông hơi cứu tinh này. Ai ngất xỉu được ưu tiên chuyển tới lỗ thông hơi hít thở vài phút, nhường chỗ cho anh khác tới thay. Nhờ anh em toàn là cấp chỉ huy cũ nên dễ thông cảm và tự thấy mỗi người có trách nhiệm giúp đở nhau trong cảnh cùng cực này. Dù vậy, càng về trưa, càng oi bức mà trời lại đứng gió nên có nhiều anh em ngất xỉu, tôi phải vỗ cửa bình bịch kêu cứu khi xe ngừng lại tại một ga nào đó. Nhiệm vụ của đội trưởng là phải dìu hay phải cõng anh bị xỉu chạy nhanh đến toa cấp cứu.
Toa này chỉ là toa có nhiều cửa mở toang 2 tên bộ đội ngồi ghìm súng trên đó, anh nào may mắn được đưa đến đây đều được thoát chết vì được thở không khí ở ngoài tràn vào. Tôi gặp một anh bò ngũ thân quen đang nằm tại đây và anh cho biết Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng Khối Kế Hoạch Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã tắt thở, không đưa kịp đến toa cấp cứu này và xác anh ấy bộ đội áp tải cho khiên xuống rồi, cách đây 1 trạm. Tôi vốn quen biết Trung tá Hùng, vì khi ông đi làm đều phải đi ngang qua Khối Thông Tin Giao Tế mà tôi đang phục vụ, ở số 2 ter Đại lộ Thống Nhất – Sài Gòn. Sau này, tôi nghe còn có thêm vài bò tứ hay bò ngũ cũng qua đời trong chuyến tàu lửa định mệnh này. Nhờ những cái chết oan khiên của các anh ấy mà từ đó về sau khi chạy ngang Hà Nội cho tới ga cuối cùng Yên Bái, các cửa lên xuống đều được mở toang để có không khí lùa vào toa. Nhiệm vụ đội trưởng quá vất vả của tôi cũng chấm dứt tại bến phà Âu Lâu của tỉnh Yên Bái, sau đúng 1 ngày 2 đêm “nhậm chức”.
ĐƯỜNG LÊN SƠN LA GIAN KHỔ
Đến nhà ga Yên Bái gần sáng, ngày 16.6.76, bên nây bến phà Âu Lâu, chúng tôi được lùa đi cũng 2 hàng dọc đàng trước bước. Cán bộ giữ tù thông báo: Các anh được nhân dân địa phương đón tiếp và mời các anh uống nước vối cho mát để tiếp tục cuộc hành quân đến các trại. Hai bên vệ đường, có nhiều thùng nước vối đang còn lửa cháy phừng phực. Trong đời, lần đầu tiên tôi được thưởng thức nước vối có mùi khói phảng phất của đất Bắc, uống vào chả ra làm sao và tôi ao uớc nếu có một chén nước trà nóng trong đêm buồn thảm này uống chắc đả, phê lắm. Đi bộ xuống phà, nghe nhiều tiếng gà gáy sáng xa xa, báo hiệu một ngày mới nhục nhã và gian khổ đang chờ đón.
Lên bến bên kia thuộc địa phận khác, có nhiều đoàn xe molotova chờ sẵn, những người lính áp giải không phân biệt đội nào, cứ lùa tù lên đầy xe là được, hàng trăm xe lăn bánh đưa chúng tôi người về Hoàng Liên Sơn, người lên Sơn La, mãi đến chiều, tôi đến Sơn La, rừng núi ngút ngàn bất tận, đúng ngày 16.6.1976. Sau gần 6 ngày hành quân kỳ cục và khổ nhọc nhất, tôi đã nhận rõ tương lai mờ mịt của những người tù bị lưu đày lên xứ “nước Sơn La ma Hòa Bình”, đã đến đây chắc khó trở về sum họp với vợ con?.
Đoàn xe tù chúng tôi chừng vài chục chiếc, ước đoán cả 5-6 trăm người được đưa đến tận chân núi, nơi có 2 nhà tù lớn do Pháp khoét sâu vào vách núi, xây mấy chục năm trước để nhốt tù chánh trị. Sau này CSBV nhốt tù binh Mỹ và Đại Hàn mà vết tích còn ghi trên vách đá, nay nhốt chúng tôi. Trong đoàn tù này gồm toàn bò tứ, bò ngũ bên Quân Đội, bổng dưng có một xe toàn bò tam cũng đổ xuống , ngành cảnh sát đặc biệt, làm thành một đội riêng.
Chừng 2 tuần sau nhiều đợt tù kế tiếp được chuyển tới và tiếp tục chuyển tới nữa mà đa số là những anh em thuộc quân khu 9 của cộng sản, ở miền Tây. Chuyển từ Cần Thơ ra đây và nhiều anh em cấp đại úy trở xuống trình diện đợt 2 ở Sài Gòn cũng được chuyển đến xã Mường Cơi này, nơi mà không có đủ nước sinh hoạt hàng ngày cho cả chục ngàn tù binh mà CSBV gọi chúng tôi khi mới đặt chân lên xứ này.
Đợt tù đầu tiên đến đây lại gặp gần 100 anh em tù bị bắt từ mùa hè đỏ lửa 1972, ở trận Hạ Lào và đặc biệt có Trung tá Khương, Chỉ Huy Trưởng BCH Tiếp Vận V1CT bị bắt hồi Tết Mậu Thân 1968 ở Huế. Tình cờ, trong khi tôi đi lao động cất nhà mới để đón tiếp các anh em chuyển ra sau, gặp lại anh Nguyễn Văn Thuế, Thiếu tá Pháo Binh cùng học với tôi tại trường Sinh Ngữ Quân Đội ở đường Nguyễn Văn Tráng Sài Gòn, cuối thập niên 60 để chuẩn bị đi du học Hoa Kỳ, khi đó chúng tôi còn đeo lon Đại úy. Anh Nguyễn Văn Thuế bị bắt lọai hàng binh trong mùa hè đỏ lửa 1972 được CSBV cho ăn bánh vẽ, nghe nói cũng “le lói” trong hàng ngũ bộ đội CSBV cũng đeo “quân hàm” thiếu tá… Sau xin đổi qua diện tù binh để được trao trả theo Hiệp Định Ba Lê nên bị cộng sản đì, không những không trao trả mà còn bị nhốt tù để cùng với những anh em khác cất thêm trại chờ đón chúng tôi.
Một chuyện hi hữu và thương tâm làm nhiều anh em chúng tôi không cầm được nước mắt. Một anh Trung tá (quên tên) cùng ở một nhà với nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, Tô Kiều Ngân, Văn Quang ở bên kia hàng rào, nhà bên này, nằm cạnh tôi có nhà báo Phan Lạc Phúc (đang ở Úc), chúng tôi chứng kiến một cuộc trùng phùng hi hữu giũa hai bố con truớc cỗng trại. Khi chúng tôi xếp hàng ra ngoài lao động “đốn tre đẵn gỗ trên rừng”, anh Trung tá gặp lại đứa con trai yêu quý của anh, cấp bậc Thiếu úy đã bị ghi nhận là mất tích trong một trận chiến mùa hè đỏ lửa 72, nay lù lù xuất hiện nhận diện được cha mình cùng đang ở tù chung trại.
Cũng tại trại Sơn La này, người tù chết đầu tiên là nhạc sĩ Thục Vũ, tôi lại quên tên, anh là Trung Tá làm Trưởng khối Chiến Tranh Chính Trị ở Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ hay là Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh chết vì đau và sau khi hút được 1 “bi” thuốc lào thoải mái, anh thanh thản ra đi. Người chết kế tiếp cũng tại K1 có 2 nhà tù đá kiên cố này là anh Trung tá Tường, nguyên Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Quân Đoàn 4 ở Cần Thơ mà tôi gặp anh hàng ngày khi chúng tôi cùng làm việc tại đây. Anh Tường chết vì uống thuốc tự tử, anh chán đời, chán cảnh tù khổ sai không biết ngày nào được thả ra…
Trại tù Sơn La, khi chúng tôi đến “tạm trú” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 2 nhà đá có từ trước. Với chừng 100 anh em tù cũ gồm có Biệt Kích nhảy ra Bắc bị bắt hàng chục năm trước còn sống sót cùng với anh em bị bắt vào mùa hè đỏ 1972, cuộc hành quân Lam Sơn 719 sang Hạ Lào, cấp bậc từ hạ sĩ quan đến Trung úy, cấp cao nhứt là Trung tá Khương bị bắt 1968 tại Huế. Chính toán tiền đạo tù cũ hướng dẫn anh em chúng tôi cách “lao động xã hội chủ nghĩa” cất thêm doanh trại mới để nhốt tù lần lượt sẽ được chuyển tới từ trong Nam ra tiếp, trong phạm vi chừng 10 cây số vuông. Liên trại 2 Sơn La lúc cao điểm có đến 6 trại được phân định nhốt tù rõ rệt từng cấp bậc.
Khu nhà đá gọi là K1, ở sâu trong núi “chuyên trị” nhốt tù có cấp bậc cao nhất ở đây là Trung Tá, K5 ở đồi chè Mường Cơi, gần đường lộ chính lên hướng huyện Phù Yên, gồm toàn bò tam và K6 nhốt toàn bò tứ trong đó có tôi, K6 cũng nằm gần trục lộ chính huyết mạch của tỉnh Sơn La. Còn K2, 3, 4 mới cất vội vã sau này nhốt các anh em ở các trại giam từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ, tập trung tại các trại giam Cần Thơ và từ đó chuyển đến Sơn La. Tội nghiệp cho các anh em này đến Sơn La cũng là nơi trung chuyển để Liên trại ở Hoàng Liên Sơn cất thêm đủ chỗ, các trại K 2,3,4 của Sơn La sẽ chuyển về đó.
Ở tù cộng sản, trại nào cũng khổ, nhưng mỗi trại tù có cái khổ nhiều ít khác nhau. Các anh ở miền Tây chuyển trại liên tục và đường lại xa hơn chắc chắn mệt khổ hơn chúng tôi từ Sài Gòn lên thẳng Sơn La.
TRẠI TÙ HỒNG CA - YÊN BÁI
Chuyện ở tù cộng sản, chúng ta viết hoài viết mãi cho đến chết cũng chưa có thể chấm hết được. Có đến 1001 chuyện khổ nhục về sự đối xử dã man tàn bạo của chế độ lao tù CS, cùng hung cực ác dành cho những người ngã ngựa của chính thể VNCH.
Đến năm 1978, có tin Trung cộng sẽ dạy cho CSBV một bài học, như chúng ta biết hồng quân TC đã xua hàng chục sư đoàn bộ chiến cùng với không yễm và pháo yễm đã tấn công vào các tỉnh cực bắc VN, giáp biên giới TC vào năm 1979. Ba trại 1, 5 và 6 ở Sơn La đã có lệnh “di tản chiến thuật” trước từ gần cuối năm 1978. Một nửa trại 6 chúng tôi được chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái do công an quản lý. Đó cũng là thời điểm, chúng tôi được chuyển sang diện tù thường không còn là diện tù binh như chúng tôi đến Sơn La được học tập chính sách 8 điểm của bộ đội cộng sản đối với tù hàng binh.
Chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ rệt.
Bộ đội quản lý trại tù có phần dễ dãi đôi chút hơn là đám công an dùng kỹ luật sắt đối với chúng tôi, mỗi lần di chuyển bằng xe thì 2 người bị chúng khóa chung 1 cái còng số 8, còn bên bộ đội khi chuyển từ Nam ra Bắc không bị còng, ngoài trừ quý vị đi bằng máy bay. Tiêu chuẩn ăn uống hàng tháng bị công an xén bớt, ăn sắn quanh năm thay cơm. Chính sắn tươi quy ra gạo cũng bị công an tính gian lận. Thí dụ 1 ký gạo ở bên bộ đội quy ra thành 4 ký sắn tươi hoặc 2 ký sắn lát khô. Còn bên công an cứ 3 ký sắn tươi quy ra 1 ký gạo, có nơi công an chỉ tính có 2 hoặc 2 ký rưỡi sắn tươi thành 1 ký gạo, còn sắn lát khô, cứ 1 cân (ký) quy ra thành 1 cân gạo. Tiêu chuẩn về cung cấp đường, thuốc lá, thuốc lào bên công an cũng rút bớt của tù để chúng bồi dưỡng hoặc mua bán đổi chác với các hợp tác xã trong vùng.
Tóm lại, tại các trại tù do công an quản lý bắt người tù lao động cật lực chết bỏ, làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm và có thể lao động cả ngày chủ nhật nữa mà bên bộ đội ít có xảy ra.
Chúng tôi ở trại 6 Sơn La, hơn một nửa chuyển về trại Hồng Ca-Yên Bái, số còn lại được chuyển về Nghệ Tĩnh. Còn trại 1 bò ngũ và trại 5 bò tam cũng vậy một số lớn chuyển lên trại Phù Yên gần quận lỵ Phù Yên-Sơn La, cách chỗ cũ chừng 20 cây số và một số chuyển về đâu đó, hình như cũng ở Nghệ Tĩnh.
TRẠI TÂN LẬP – VĨNH PHÚ KHÓ QUÊN
Bi đát nhất của cuộc đời ở tù cộng sản của tôi, gần đúng 10 năm, là K1 và K4 liên trại Tân Lập ở Vĩnh Phú. Vì vậy tôi không thể viết qua loa đại khái giai đoạn này, xin dành cho 1 bài khác vậy. Ở đây, chúng tôi chỉ tóm gọn, ở tù trại nào cũng khổ mà ai từng ở tù trại Tân Lập so sánh với các trại tù khác, quả trại này là địa ngục trần gian.
Từ Sơn La về Hồng Ca-Yên Bái, đây cũng là trạm trung chuyển, ở được vài tháng, ăn được một cái Tết tại Hồng Ca, tất cả “trại viên” được cho ăn 1 bữa khá no còn được tặng thêm gần 2 ký sắn luộc lại có kèm thêm đường cát trắng của Cuba.
Ôi! hạnh phúc biết bao! vì bao năm tháng ở tù cải tạo, lần đầu tiên tôi được ăn một bữa no và còn có sắn và đường để mang theo bồi dưỡng cho cuộc hành trình mới, chưa biết lành dữ thế nào?. Ngoài cổng trại Hồng Ca có nhiều chiếc xe đò loại nhỏ chừng 20-30 chục chỗ ngồi đậu sẵn để chở chúng tôi về trại Tân Lập Vĩnh Phú. Cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8, tôi cùng đeo chung đồng hồ với Linh mục Trần Quý Thiện, ngài cùng ở chung với tôi tổ, đội 8 ở trại 6 Sơn La. Nay tôi được ngồi ghế gần ngài có dịp tâm sự nhỏ to suốt lộ trình dài nên cũng đở lo nghĩ, sốt ruột.
Khi xe đến bến phà Âu Lâu, chúng tôi xuống xe và đi bộ hai người dung dăng dung dẻ có cặp song hành, lần lượt xe qua hết thì chúng tôi lại lên xe. Trên đường đi ngang qua khu chợ đang họp vào buổi sáng gần bến phà, bỗng nhiên tôi bị đau bụng quặn thắt dữ đội. Báo cáo cán bộ áp giải xin đi ngoài, tên này không cho, tôi làm liều lôi Cha Thiện vào cái nhà nhỏ bỏ hoang cạnh đường, xin Cha thông cảm giúp tôi cởi quần cho nhanh và chưa kịp ngồi xuống là cái của nợ của một bữa ăn no và cộng thêm sắn bồi dưỡng cùng với đường cát trắng biểu tình lần lượt dzọt ra tới tắp. Tội nghiệp Cha Thiện chỉ biết nhìn trời hiu quạnh mà hít phải mùi chua lòm của tôi vừa phóng ra. Quả Cha Thiện rất gentleman ngài xé 1 mảnh báo Nhân dân có sẵn trong túi đưa tôi làm nhiệm vụ sạch sẽ cuối cùng.
Lên xe, tôi cứ tiếc mãi được một bữa ăn no lại có thêm bồi dưỡng, nay của thiên trả cho địa mà thân xác tiều tụy của tôi chắng có hấp thụ được chút chất bổ dưỡng nào.
Về trại Tân Lập với các đồi sắn chập chùng vô tận do các người tù đến trước trồng trọt, đám tù sau tiếp tục sự nghiệp đào hóc trồng sắn mệt nghỉ và ăn sắn quanh năm. Một năm chỉ có 5 lần được ăn 1 chén cơm vào các ngày chiều 30 Tết, trưa Mồng Một Tết, lễ Lao Động 1.5, ngày 2.9 cái gọi là quốc khánh của CSBV và ngày 1 tháng giêng dương lịch (Tết Tây).
Cái khó quên của tôi, đội 16 rau xanh sau qua đội 5 trồng sắn mà tôi là thành viên, có 2 anh cùng đội chết vì trời nắng gắt, Trung tá Nguyễn Văn Lạc, Trưởng phòng An Ninh QĐ2, Thiếu tá Lê Xuân Hường Trưởng khối CTCT Liên Đoàn 1 BĐQ. Một ngày nắng cực gắt ấy làm cho các cây sắn như muốn rũ lá, chúng tôi mắt nổ đom đóm như bị ngộp thở. Ai cũng đội nón đàng hoàng thế mà anh Lạc, anh Hường và 1 anh Trung tá nữa lăn quay ra chết và còn một anh cũng bị say nắng được chuyển về trạm xá, đến tối mới chết.
Chỉ một ngày bị say nắng đã 4 con người vô tội đáng thương từ giã cõi đời. Chính nhờ có 4 cái chết oan nghiệt của các anh ấy đã giúp chúng tôi từ đó về sau, không còn cảnh lao động trong lúc trời đổ nắng đom đóm nữa. Đây là cảnh trại K1 vừa kể ở trên, tôi ở Tân Lập từ K2 qua K1 rồi bị chuyển sang K4 và sau cùng là K3 . Từ K3, tôi được chuyển về Nam từ tháng tư năm 1982, trại Z 30D, thuộc huyện Hàm Tân-Thuận Hải, trại này ở khu vực có tên là Rừng Lá. Đến cuối năm 1984, tôi được thả ra cùng với một số đông gần 200 người gồm nhiều cấp tá mà trước đó cấp tá thả ra rất hiếm hoi.
TRẠI TÙ CHÓT: Z 30D – HÀM TÂN (RỪNG LÁ)
Đến năm 1982, khi tôi được quy hồi miền Nam, đóng chốt ở trại Z 30D – Hàm Tân (Rừng Lá), gặp lại nhiều anh em bò tứ bò ngũ trong lần chuyển ra đất Bắc đầu tiên ngày 10.6.1976. Khi tàu hỏa đến ga chót là Yên Bái, ai đi toa nào phải sang sông qua phà Âu Lâu sẽ trực chỉ Hoàng Liên Sơn và Sơn La, toa nào ở lại Yên Bái thì có xe tải đến đón đưa về các trại ở Yên Bái.
Đợt đi đầu tiên ra đất Bắc, gồm toàn những người mà cộng sản đã xếp loại nợ máu nhiều, khó mà được thả ra trong vòng 5 - 6 năm như tin đồn đoán, hầu hết là cấp tá đến cấp tướng bên Quân Đội và bên hành chánh là những công chức cao cấp đến hàng Tổng Trưởng, các lãnh tụ đảng phái, tôn giáo, dân cử…
Bên Quân Đội, những vị từ cấp Đại tá đến Tướng được đi bằng máy bay C130 của ta “bỏ của chạy lấy người”, cứ 2 người đeo chung 1 cái đồng hồ số 8. Bên công chức cao cấp cũng vậy được đi bằng máy bay và cũng đeo đồng hồ như bên quân sự. Còn cấp thiếu tá, trung tá, hàng Giám đốc nha sở trở xuống, các đại úy thuộc Cảnh sát đặc biệt hay nhiều người cấp chức nhỏ nhưng lọt mắt xanh xếp loại nợ máu nhiều của chúng cũng được ra Bắc đợt đầu.
Cái bịp của CSBV, không những chúng bịp các người tù mà chúng còn bịp đối với mọi người dân lương thiện trong nước và ngay cả nhiều thành phần cán bộ của chúng, quốc tế cũng bị chúng cho ăn quả lừa bịp.
Trưóc khi chuyển tù ra Bắc, tại trại Suối Máu-Biên Hòa, CSBV thiết lập tòa án quân sự bắn 2 anh Thiếu tá trốn trại. Tiếp theo, chúng cho tù học tập chính sách 12 điểm của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để mọi người tù an tâm hồ hởi phấn khởi sợ mà ở yên “học tập tốt, lao động tốt”.
Sau này, CSBV dùng tàu lớn như tàu Sông Hương chở 1 lần mấy ngàn người tù đổ xuống bến ở gần cảng Hải Phòng để có xe lửa hoặc xe tải đưa đến các trại tù khắp đất Bắc.
Tại Z 30D có 2 K1 và K2 mà tôi được “biên chế” về K2 ở trong sâu, còn K1 là nơi có BCH trại làm việc nữa. Z 30D là khu rừng lá buông bạt ngàn, người ta lấy lá làm đủ thứ chuyện. Đường vào K1 và K2 có trồng thật nhiều sua đũa tha hồ mà ăn bông, nếu ăn bông sua đũa nhiều quá dể bị “tào tháo” đuổi chạy trối chết.
Được chuyển trại về tới miền Nam, dù ở trại nào, tôi cũng vững tin là mình sẽ còn sống, lúc ấy quả thật chúng tôi rất vui mừng (hồ hởi phấn khởi) thấy được đoạn cuối của con đường hầm tối tăm bắt đầu có ánh sáng hé lộ. Khí hậu thời tiết không còn khắc nghiệt như các tỉnh ở vùng rừng núi miền Bắc, gần gia đình dễ thăm nuôi và được thông báo những tin tức hấp dẫn, tù cải tạo sẽ được thả hết qua sự vận động của Bà Khúc Minh Thơ với chánh quyền Hoa Kỳ. Tất cả tù cải tạo sẽ được qua Mỹ… Nghe vậy chỉ biết vậy và chúng tôi vẫn bán tín bán nghi, chắc gì Mỹ chịu rước của nợ các ông tù cải tạo bệnh tật đem qua nuôi báo cô. Chuyện gì đến đã xảy đến tốt đẹp cho mọi gia đình tù cải tạo từ 3 năm trở lên hoặc ở tù 1 năm và nếu có tu nghiệp ở Mỹ bất luận bao lâu, cũng được xếp vào diện HO ra đi đàng hoàng, ngẫng đầu mà đi dưới con mắt khó chịu của cộng sản.
KÉT LUẬN
Ai đã vào tù cộng trên đất Bắc từ Lào Cai, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, Sơn Tây… ở tận cùng miền Bắc xuôi vào Nam qua Nam Đình, Nghệ Tĩnh, về miền Trung Bình Trị Thiên, Cao Nguyên, miền Đông Nam Bộ cho đến miền Tây đến vùng cuối Việt Cà Mau, CSBV đã thiết đặt hàng trăm trại tù lớn, khắc nghiệt, lao động khổ sai, thiếu ăn thiếu mặc, hàng ngàn tù lần lượt ra đi về bên kia thế giới. Chưa muốn nói là chánh sách nhân đạo của CSBV xuyên suốt nhằm trả thù cái vụ chúng sinh Bắc tử Nam trong thời chiến vì chúng đi xâm lược miền Nam nên chúng phải trả giá.
Nay miền Nam sụp đổ, CSBV trả thù một cách hèn hạ, tinh vi để cho những người ngã ngựa chết lần chết mòn trong các trại tù đói khổ, lao động khổ sai và bị hành hạ bỏ đói, đau không thuốc chửa trị…
Chuyện tù cộng sản không có bút mực nào mà viết hết và vì vậy mà tội ác của chúng tạo nên căn nghiệp mà luật quả báo của nhà Phật chỉ rõ “chủng quả đắc quả, chủng đậu đắc đậu” và tội nghiệp cho người dân lương thiện Việt Nam ở quê nhà cũng bị vạ lây vì luật nhân quả này./.
Trần Văn
TRẦN VĂN KHOẺ * LAO TÙ & VƯỢT BIỂN
LAO TÙ và VƯỢT BIỂN
MX Trần Văn Khỏe
Sài Gòn những năm cuối thập niên 70, nhà nhà vượt biển, người người tìm đường vượt biên. Người Sài Gòn những năm đó có câu “Cây cột đèn có chưn nó cũng đã đi rồi.” Đường biển thì đi bằng tàu, đường bộ thì vượt biên giới qua Cămbốt, Lào để đến Thái Lan. Những câu chuyện vượt biên vượt biển được truyền nhau bí mật, truyền cho nhau kinh nghiệm trong chỗ bạn bè, thân nhân ruột thịt. Nhưng cũng có những câu chuyện thương tâm bị cướp biển Thái Lan hảm hiếp, bắt về bán cho các động mãi dâm ở Thái. Năm 1979 có những chuyến đi “bán chánh thức”, người Hoa bị xua đuổi về Tàu. Người ta đóng ghe công khai, có những nguời dắt mối, mỗi đầu người 9 cây…những từ ngữ trở thành quen thuộc “Yanma Đầu Bạc” “ba lốc, bốn lốc” (block). Rạch Chanh ở Long An là một trong nhiều chỗ đóng ghe đi bán chánh thức. Có người bị gạt, cũng có người đi được, cũng có những chuyến bị “bán” và bể khi ra khỏi cửa sông làm mồi cho cá. Một dạo, có một chuyến đi bán chánh thức từ BiênHòa, đến khi vào sông Lòng Tảo bị bể tàu và người chết, xác nổi lên tấp vào bến phà Cát Lái, Nhơn Trạch, người ta đi vớt xác cũng có, mà người ta đi vớt của cũng không thiếu. SàiGòn vượt biên…những câu chuyện vượt biên không kém phần hấp dẫn như tiểu thuyết.
ooOoo
Trốn tù ra trong những ngày cuối tháng sáu 1979. Đã hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài, tinh thần tôi khủng hoảng và sợ sệt, tôi về tịnh dưỡng dưới quê nhà anh rể tôi vùng Rạch Kiến. Được vài tháng quen cách sống bình dân, tôi trở lên lại Saigon liên lạc được một số bạn bè cũ, biết được Phan văn Đuông thằng bạn cùng khóa chung TD5/TQLC, cũng lỳ đòn trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng vào nhau, có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.
Len lỏi sống qua ngày, Đuông thi bơm hộp quẹt ga chợ Sai Gòn, tôi vá bánh xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng, kiếm ăn, đồng thời nghe ngóng tin tức để tìm đường vượt biển.
Vài tháng sau, gặp được Nguyễn văn Phải cũng khóa 4/71 bên Binh Chủng Nhảy Dù được VC thả về trước ba năm, bà me già về quê để lại căn nhà nhỏ bên hông trường “Đại Học Sư Phạm”, thấy bạn bè không nơi nương tựa, Phải kéo một đám về cho tá túc hằng đêm, sau này có thêm Sơn, Lâm BĐQ tất cả độ khoảng trên dưới năm bảy thằng toàn là SQ trong 3 binh chủng TQLC,ND,BQĐ.
Ban ngày tủa ra đường kiếm ăn, đêm thì ghé lưng được vài ba tiếng, chúng tôi thường giành nhau chỗ ngủ trên gác gần máng xối, để khi đêm về có động tỉnh thì hồn ai nấy giữ, trổ máng xối chui ra mà chạy.
Tháng ngày trôi qua, ngoài cái đói và phập phòng lo sợ hàng đêm, những thằng trốn tù như tôi và Đuông phải nổ lực ráo riết tìm đường vượt biển.
Nghe Phải nói về tổ chức vượt biên của anh Sáu (Khoái Th/tá ND). Đuông và tôi thì trên răng dưới vế tìm đâu ra một, hai cây vàng mà đi? Nhưng tôi cũng bậm gan nhờ Phải hỏi dùm "đi trước trả sau” may ra thì anh Sáu đồng ý. Vài tuần sau, nghe được trả lời, còn một chỗ cho tôi đi trong chuyến “Chín Thu”
Tôi không biết mặt anh Sáu nhưng tôi thằm phục môt vị đàn anh, cảm thông và giúp đỡ đàn em trong cảnh khốn cùng, như một tia sáng vươn lên hòa lẫn trong niềm hy vong. Vài hôm sau, ngày đổ bãi đã đến, tôi được anh Hai Nhất tới dẫn đi về Vĩnh Long. Trên xe đò, tôi tò mò hỏi:
- "Hai Nhất có phải tên thật của anh không? Và “Chín Thu” là ai? Mấy anh gọi nhau bằng ám danh tôi không hiểu ra tên ai hết".
- Tôi là HSQ đàn em của anh Sáu, tôi thường hay đi trước nên mệnh danh Hai Nhất.
Tôi hỏi tiếp, như vậy còn Chín Thu, anh hai Nhất trã lời:
- Chín Thu là anh Th/tá Mai B.T, chồng cũ ca sĩ K. L, hiện anh đang giữ con "cá Lớn", là bạn thân của anh Sáu, yên chí đi.
Tôi thầm nghỉ số tôi quá ư là may mắn, tên Mai B.T vang bóng một thời nổi tiếng dân chơi của Biệt Đoàn…, nay được anh tới đón là điều không thể tưởng.
Tới Vĩnh Long đã chiều, anh Hai Nhất và tôi ăn vội dĩa cơm lót dạ, rồi đón xe lôi chạy thẳng về điểm hẹn... Tôi không còn nhớ rõ nơi nào, một căn nhà nhỏ độ vài mươi mét vuông, cạnh bờ rạch nhỏ , vào bên trong nhà, tôi ngã lưng trên chiếc võng sau nhà. Anh hai Nhất đi tìm người liên lac. Giờ phút đến theo dự trù khoảng độ 10 giờ đêm, tôi hồi họp chờ đợi, rồi 11 giờ tôi thấy anh hai Nhất lầm lũi trở về trong bực tức anh chửi thề “ ĐM.. thằng Chín Thu chỉ rướt đám Ca sĩ Ngọc M.., bỏ lại bên cánh mình ” Lòng buồn vô hạn, nhưng cũng an ủi ,vì đâu đã mất tiền, có lẽ đây là cách chơi của bậc đàn anh... Trong khoảng gần cuối năm 1979, chuyến vượt biên đầu coi như hoàn toàn thất bại, tôi lểu thểu trở lại Saigon .
Thời điểm bấy giờ, vượt biên, vượt biển là đề tài chính. Lường gạc, lừa đảo lẫn nhau là chuyện bình thường. Vợ tôi khi tới Úc cũng cực khổ, cố gắng làm gởi tiên về gia đình nhưng chỉ đủ cho thằng em trai tuổi nghĩa vụ đóng tiền vượt biển.
Đầu năm 1980, tôi tình cờ gặp anh Phan thành Nam trước kia anh là Đ/úy trưởng phòng truyền tin Phủ Tổng Thống ở chung trại tù lúc còn ở Trảng Lớn, anh bây giờ đồng cảnh ngộ như tôi, nhưng anh may mắn hơn có được Chị Thu người vợ rất lanh lẹ và quán xuyến công việc mọi đàng.
Anh Nam cho biết đã đóng tiền một chỗ đi rất tin tưởng,chiếc ghe đang kéo lên ụ tàu Cầu Rạch Ong sửa chữa, sẽ được xuống nước trong thời gian ngắn. Làm cách nào tôi đào ra 2 cây vàng để đưa cho chủ ghe để được có phần trong chuyến đi cùng anh Nam sắm tới.
Tôi liên lạc với má vợ tôi thường xuyên, bà rất thương tôi, chạy lòng vòng vài chỗ hỏi mượn cho tôi đến khi vợ tôi gởi tiền về thì hoàn trã lại, cũng may có người bạn cùng xóm của vợ tôi cho mượn.
Được 2 cây vàng lòng mừng không diễn tả được, nhưng bấy giờ lại sợ bị mất tiền. Tôi đòi hỏi thấy chiếc tàu đồng thời được làm thủy thủ. Người chủ tàu đồng ý lời tôi. Khi đưa xong vàng, đi sâu vào nội bộ thì biết ra có 2 phe cánh đang giành giựt nhau làm chủ, một bên chủ máy và một nửa của chủ vỏ ghe.
Cuối cùng bên bỏ tiền mua máy tàu làm chủ, vì chủ vỏ ghe đã lấy quá nhiếu vàng. Tôi và anh Nam cũng may được hai bên đồng ý cho làm thủy thủ đoàn vì họ đang cần người chăm sóc chiếc ghe. Với tôi thêm một chỗ ngủ mới cho tôi thay đổi, trong thời gian di động. Tôi thường phụ thợ máy mỗi khi làm hộp số. Khi rảnh rổi thì tới nhà Diệp Phi Hùng tìm anh Sơn để học hỏi lý thuyết về cách lái ghe, khi gặp sóng biển lớn, và những ký hiệu phao nỗi ngoài cửa biển. Anh Sơn chỉ vẽ rất tân tình vì trước kia anh là dân lái gian thuyền PCF, anh Sơn luôn căn dặn:
- Nhớ lúc nào cũng đi sóng 6/4 hay 7/3, không bao giờ chẽ sóng 5/5
Những danh từ thường dùng cho dân HQ, tôi chưa bao giờ nghe, rồi anh giải thích.
- Sóng 6/4 là mũi ghe và sóng biển với góc 60 độ và 40 độ, 7/3 là 70 và 30 độ, còn 5/5 là Sóng biển và mũi ghe góc vuông 90 độ, phải nên tránh trường hợp này.
Tôi cẩn thân ghi chép từng đoạn, vẽ hình từng loại phao đặt ngoài cửa biển. Trước đây khi còn trong tù, tôi cũng học hỏi sơ qua của mấy thằng bạn Hải Quân chung trại nhưng có bao giờ nghĩ tới có dịp thực hiện bao giờ.
Khoảng tháng 3 năm 1980 chiếc ghe hạ thủy, với 14m dài, gần 3 m chiều ngang, vỏ nghe đi sông biến thành ghe biển. Lúc đang chờ hợp đồng tôi và anh Nam lấy ghe chạy thử, lái thì dễ nhưng cập bến là vấn đề khó khăn, hơn nữa tôi nghỉ đâu phải là trách nhiệm của tôi. Vài tuần sau, khi có giấy phép hợp đồng chở cát về xã Lý Nhơn thuộc Quận Nhà Bè, cũng là dịp để thử chiếc ghe, thì đám tài công chính xuất hiện, một Th/Sĩ HQ làm tài công chính, một Ch /úy và hai người khác tôi không nhớ rõ, tất cả đều là phe ta Quân đội cũ, có lẽ ngoài tài công ra, đoàn thủy thủ này toàn bộ Amateur như tôi và anh Nam.
Sau ba chuyến đi hợp đồng coi như suông sẻ, qua sông Nhà Bè rồi tới xã Lý nhơn. Kế hoach bàn thảo sẽ đổ quân vào chuyến thứ tư với hợp đồng nước đá Huyện Cần Giờ, nhưng khi ra cửa sông lớn lái gần bên phải bốc quân bên Vàm Láng.
Vào cuối tháng Tư, theo dự trù sẽ tất cả chờ trên cá nhỏ (ghe nhỏ), sẳn sàng ngoài cửa sông Vàm Láng, chờ khi trời sụp tối cá lớn (ghe lớn) đến bốc rồi thẳng ra cửa biển trong đêm. Mỗi nhóm một phận sự trên bờ ông chủ ghe điều động bốc người, phần chúng tôi là làm thế nào để đưa ghe lớn “cá lớn” tới điểm hẹn an toàn và bốc người đầy đủ.
Ghe rời ụ xuất phát khoảng lúc 8 giờ sáng, chạy sang cầu chử Y rước bà chủ ghe, lúc chờ đợi tôi lội xuống kiểm soát chân vịt lần cuối. Ghe bắt đầu rời bến, lúc đi hợp đồng thì không gì lo sợ, không hiểu lúc này sao lại run chân, chạy ra khỏi vùng sông Saigon, rồi khu vực Nhà Bè xuyên qua những con rạch nhỏ, lúc này tôi không còn đinh hướng được vì qua các khúc rạch quằn quèo. Tôi vào cabin nhìn qua tấm hải đồ định hướng. Anh Th/sĩ tài công chỉ vào Hải đồ tôi thấy đã hơn nửa đoạn đường, chúng tôi cho ghe chậm lại lúc đó độ hơn 1 giờ trưa, lòn lách trong những con rạch nhỏ solo một mình. Tôi không hiếu tại sao anh tài công lại đi đường tắc này rất dễ dàng lộ diện. Nếu là tôi lái thì sẽ đi con đường chính diện, cũng may là không ai phát giác, tà tà chạy tới, con sông bắt đầu rộng dần, rồi tới rộng lớn mênh mong anh tài công lái ra chính giữa, nhìn qua hai bên bờ quá xa, cả đoàn thủy thủ trên ghe mừng hớn hở, hy vọng đã vươn cao, gần tới chỗ bốc người, trời cũng xế chiều.
Bỗng nhiên hàng loạt AK50 bắn ròn rã vào hướng ghe chúng tôi đang chạy. Biết bị lộ, trên ghe cả đám mất tinh thần, lúc này tôi như ra lệnh cứ tiếp tục chạy như không nghe biết gì, anh Th/Sĩ cũng nghe theo chạy thẳng qua hướng về Vàm Láng. Tiếng AK50 nổ dòn và giữ dội hơn kèm theo M79, nổ ầm ầm trước sau con tàu. Bà chủ ghe quá sợ, kêu gọi chúng tôi quay vào, còn lây quây suy nghỉ thì 2,3 trái M79 nổ ầm, ầm sát bên ghe. Anh tài công hốt hoảng quay mũi tàu hướng về phía Công An. Rồi nghe tiếng AK bắt đầu bớt lại, khi thấy ghe chúng tôi hướng thẳng vào bờ.
Cửa biển quá rộng mà tôi lại lội không rành, làm sao tôi dám nhảy sông, nghĩ bụng đợt này mình chết chắc, bao nhiêu lần may đều thoát nạn giờ thì đã hết vận may. Có thể trong đoàn thủy thủ tôi là người tội nặng nhất, trốn tù, giấy tờ giả, thêm tội vượt biên. Cả đoàn thủy thủ mỗi người ngồi một góc, có thể họ cũng đang tìm lời đối đáp với bọn công an.
Chiếc ghe từ từ lũi vào chỗ cạn, một đám công an lội sình cầm súng nhảy lên ghe, trói tay tất cả, bắt lội sình vào trong xã, rồi quỳ một hàng như những tội phạm đang đợi giờ xử bắn.
Bà chủ ghe cũng bi đưa vào trong đó hỏi cung, và trình giấy hợp đồng bà đang giử.
Tên công an xã quát lên:
- Hợp đồng buôn nước đá này là giả, hợp đồng vượt biên thì đúng hơn.
Bà chủ ghe cũng cãi lại:
- Trên ghe không bằng chứng vượt biên
Tên công an cười mĩm rồi nói tiếp:
- Bà có biết ai tên là Nguyễn Thị Quí không? chủ máy của chiếc ghe này, chính bà ấy lên tận sở công an thành phố thưa bà đó. Công văn, công điện chúng tôi nhận được từ lúc 12 giờ trưa hôm nay, và bà ấy đã cho biết bà Lê thị Hồng cướp ghe vượt biển. Ghe này có phải mang số: SS0167 không?
Nói xong tên công an quăng ra bản công điện nhận từ Sở công an Thành Phố, trên đó có ghi rỏ tên chủ ghe, chủ máy, và những lời tố cáo hợp đồng giả mạo để vượt biên, nên bà chủ ghe cứng họng.
Chờ trời vừa sụp tối, chúng tôi được lệnh giải giao về huyện Cần Giờ đoạn đường này phải mất cả đêm. Tôi không còn nhớ tên xã là gì nhưng biết là xã cuối cùng của huyện. Sáu tên công an áp tải với 3 khẩu AK47, 2 khẩu M16 và 1 cây M79. Nhìn những khẩu súng trên tay 6 tên công an đang giữ, trong số các loại này tôi chỉ sợ khẩu M79.
Chúng tôi được mở trói lúc đẩy trở lại ghe, và tất cả bị đẩy xuống hầm tàu chỉ chừa lại một tài công điều khiển. Ghe chạy được một đoạn ngắn, anh tài công buồn chán nản, cho gọi tôi lên điều khiển con tàu. Tôi nhảy lên phòng lái, nhanh mắt quan sát, thấy cách công an bố trí, rồi thoáng nghĩ chắc đời mình hết chạy, một tên công an ngồi trên mũi ghe, một sau lái, một trên nóc, 2 bên hong và một ngồi cạnh bên tài công để hướng dẫn đường. Như con chim bị nhốt trong lòng, cố tìm lỗ trống bay ra, cầm tay lái nhưng đầu tôi luôn suy nghĩ.
Hơn 8 giờ đêm, trên trời mặt trăng lưỡi liềm lơ lững, ánh sáng chiếu trắng bon tàu. Bỗng tên công an ngồi canh tôi lên tiếng hỏi.
- Trên ghe các anh có gì ăn không?
Tôi suy nghĩ một chút và trả lời:
- Trên ghe có gạo, muối, khô sặc, khô đuối, nếu các anh đói bụng thì tôi đi nấu cơm. Không đợi tên CA trả lời, tôi cúi đầu xuống hầm tàu gọi thằng đàn em lên cầm lái thế tôi.
- Cứ giữ tay lái thế này, bẻ qua, bẻ lại như lái xe hơi; cố giữ cho chiếc ghe đi thẳng. Tôi đi bắt nồi cơm. Khi bước ra sau ghe gặp tên công an sau lái hỏi.
- Anh làm gì đi ra đàng sau này?
Tôi trả lời.
- Đi nấu cơm, anh ngồi trong phòng lái bảo tôi đi nấu cho tất các anh ăn.
Tên công an này yên lặng, thì ra tên công an trong phòng lái với tôi là trưởng toán. Nấu cơm xong tôi nướng cá khô sặc kèm theo khô cá đuối. Mùi cá khô làm thơm phức cả tàu, tôi thấy cả mấy tên đói bụng đang chờ ăn. Tôi vừa nấu cơm, nướng khô, nhưng đầu óc quay cuồng tìm cách thoát. Nấu cơm, nướng cá khô xong đã hơn 9 giờ đêm, tôi dọn ra phía trước mũi giữa bon tàu, rồi mời tất cả vào ăn một lượt. Sáu tên công an tụm lại ngồi ăn.
Bầu trời mờ mờ ánh trăng, mặt sông loang loáng ánh sáng. Tôi không thể xác định được điểm đứng, đây là nơi nào… Hai bên bờ mờ mờ trong sương đêm, nhưng đây là dịp ngàn năm một thuở, bằng mọi giá tôi phải thoát khỏi con tàu này. Trở vào phòng lái dặn dò thằng đàn em Ch/úy, nói vắn tắt cho anh ta hiểu hoàn cảnh hiện tại của tôi. Và tôi dặn anh ta cố gắng giữ cho con tàu ép về bên phải.
- Tao phải đi, bằng mọi giá phải đi.
Thấu hiểu được hoàn cảnh của tôi, nên anh đã làm như lời tôi dặn. Con sông rộng độ chừng 100m, tôi thì quờ quạng không lội xa.
Ghe bắt đầu lạng dần về bên phải, tôi ra sau lái, thấy Đ/úy Nam trưởng phòng truyền tin PTT nằm ngoài cạnh bon tàu. Tôi nói nhỏ vào lỗ tai anh ấy.
- Trốn không? Đã tới lúc.
Anh trả lời với giọng buồn thiu:
- Bạn đi đi, giấy tờ tôi đầy đủ, hơn nữa giờ này vợ con tôi không biết ra sao ngoài cửa biển, good luck...!!
Biết anh không đi, tôi vội vàng lòn qua khung cửa sổ bên hông tàu, chùi mình qua cửa, rôì thả nhẹ đôi chân, mình trầm xuống nước. Nước lạnh, có gió, tôi rùng mình, tự nhủ thầm “Nhứt chin nhì bù”. Tôi nhoài mình cố gắng lặn ra xa; cánh quạt chân vịt phía sau tàu giúp đẩy thẳng tôi ra một đoạn, cố nín thở, lặn sâu xuống nước, nhưng không hiểu sao lúc này đầu cứ lại trồi lên. Tôi hụp xuống và lặn ra xa cách chiếc ghe độ chừng 10 mét, tiếng máy ghe cứ nổ đều đều, không một chút nghi ngờ, trên ghe vẫn yên tỉnh. Thật cám ơn thằng Ch/uy đàn em. Tôi nín thở cắm đầu lặn tiếp, lặn mấy hơi, trồi lên thở mà vẫn thấy chiếc ghe còn rất gần. Tôi than thầm trong bụng; không còn đầu óc để tính toán, suy luận. Trong đầu chỉ còn một ý niệm “thoát hay là chết”. Lấy hơi, vừa lặn tôi vừa bơi về bên phải để vào bờ. Lúc này, tôi sợ nhất là khẩu M79, khi chúng phát giác có người trốn chúng sẽ dùng khẩu đó để bắn chụp xuống sông, chắc tôi sẽ bỏ xác vì tức nước, AK47 và M16 thì tôi đã biết rõ tầm tác hại, xui lắm tôi mới dính đạn này. Cám ơn Thủy Quân Lục Chiến. Cám ơn Quảng Trị chiến trường. Kinh nghiệm đó tôi lấy làm căn bản. Để đối phó cùng thực tế đêm nay.
Tôi vẫn cố sức sãi vào bờ, ghe vẫn chạy đều đều trong đêm trăng sáng, khi tôi bám được bờ thì tiếng máy đã xa dần. Nhảy lên bờ, việc đầu tiên là tìm chỗ ẩn núp, phòng khi phát giác, bọn chúng sẽ cho ghe trở lại tìm kiếm. Nằm yên lặng trong mấy gốc tràm hơn nửa tiếng với quần xà lỏn áo thun, bây giờ tôi mới thấy đói và lạnh. Tôi cố tìm một khoảng trống bằng mặt để nghỉ lưng, nhưng tìm mãi vẫn không sao có được, cuối cùng phải đành nằm trên đống rễ tràm lồi lõm. B52 (muỗi) bắt đầu quần thảo khi đã đánh hơi, chịu không nổi với đám muỗi rừng quần thảo, tôi trầm mình xuống nước để giải vây, vừa đứng yên tay chân không quậy nước, một đàn tàu ngầm (cá lòng tong) bay vào phập tới tấp vào chân tôi. Chưa bao giờ tôi nghĩ cá cắn đau như vậy. Tôi sợ một hồi nó phập luôn “thằng nhỏ” nên nhảy phóng lên bờ chịu đựng B52. Không chiu nổi B52 thì cho tàu lặn cắn. Tôi loay hoay đối phó với bọn “địch” không chợp mắt chút nào từ 10 giờ đêm tới 4,5 giờ sáng.
Ánh sáng mờ mờ từ hướng đông, chung quanh thật yên tĩnh. Lạnh và đói, tôi chợt thèm ly rượu đế ấm lòng. Tôi bâng khuâng nhớ lại những đêm lạnh nước ngập trung đội đi tiền đồn ở thôn Gia Đẳng, nhớ lại đêm trốn trại ở Bù Gia Phúc năm rồi trong rừng Phước Long. Nhưng rừng cao nguyên khác xa rừng tràm ngập mặn của vùng Rừng Sát. Những ngày đó, tôi còn đồng đội, còn anh em. Bây giờ đứng đây, một mình, “tứ đầu thọ địch”. Tôi đứng lên định hướng, bỗng tôi nghe đàng xa trong bờ rừng bên phải từng hồi kẻng vang lên, loại kẻng này với tôi không lạ. Tôi di chuyển về hướng ngược lại, đi dần về hướng tây. Một hồi kẻng khác lại vang lên. Tránh đầu này thì nghe kẻng đầu kia. Biết mình bị lọt vào khu vực trại cải tạo nữa rồi, nhưng tôi không biết được nó là ở nơi nào. Tôi xác định, điều trước hết là phải lội qua bên kia sông rồi tính tiếp.
Nhìn ra sông, con sông ngày hôm qua chiếc ghe tôi đi qua. Sông rất rộng,
tôi đi tới đi lui một hồi tìm không ra khúc sông hẹp, đang tìm kiếm thì
trời mờ sáng, cảnh vật rõ dần, tôi áng chừng khúc sông nầy rộng gần
100m. Nhìn dọc theo mé song, từ đàng xa tôi thấy một ông già ngồi trên
chiếc xuồng nhỏ, phản ứng tự nhiên, tôi thụp đầu xuống núp vào một lùm
cây. Làm gì bây giờ? Ông ta là ai? Gấn đây có xóm nhà? Hay là cán bộ
trong trại vừa đánh kẻng? Rối mù với hàng trăm câu hỏi. Tôi định thần
nhìn thật kỹ, ông già đang ngồi trên chếc xuống nhỏ, chung quanh đó là
đàn vịt đang bì bỏm lặn hụp tìm mồi. A! Ông già chăn vịt. Tôi quyết định
đi về phía ông lão. Khi thấy tôi ổng liền hỏi.
- Cậu làm gì ở đây?
Tôi phải đành nói thật: - “Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới đây rồi nhảy trốn”.
- À thì ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối.
Tôi vội hỏi thăm dò tiếng kẻng. Ông trả lời
- Đây là "Đặc Khu Rừng Sát” chung quanh đây toàn trại cải tạo “Phục hồi nhân phẩm của người xì ke ma túy”.
- Vậy bên kia sông có trại cải tạo nào không Bác.
- Không, chỉ bên này thôi.”
- Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không, vì cháu lội không rành.
- Không được, không được, cậu có thấy một đàn vịt gần 2000 con tôi đang chăn, đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu mà tìm. Thôi cậu ráng mà lội qua đi.”
Lòng buồn thất vọng, nhưng cũng hiểu cho ông vì đàn vịt đó là sự sống của ông hằng ngày. Tôi đi tới, đi lui vài lần dọc theo bờ sông, sình, bùn, cỏ lác trộn lẫn những gốc tràm và nước ngập tới gối, tôi cố tìm chổ nào hẹp nhất để lội qua, nhưng dường như không khác chổ nào. Dòng sông nước chảy xiết rộng chừng gần 100 mét. Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ, giờ đụng phải con sông quá rộng, lúc này tôi ước gì lội được như thằng Sinh, thằng Mỹ hai đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi chiều. Suy nghỉ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn, đã tới lúc tôi phải quyết định lội qua, bằng mọi giá phải rời xa khu cải tạo.
Nhớ lời thằng Sinh nói, điều quan trọng nhất là khi mệt phải thả ngữa,chân đạp nhe nhàn, đừng để vộp bẽ, khi đở mệt thì trở người qua lội tiếp. Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho mình để vượt qua con sông này.
Lấy hết bình tĩnh, tôi bắt đầu lội, lúc đầu còn khỏe, thì lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét, nước sông chảy xiết, quá mệt tôi thả ngửa mặc cho dòng nước đẩy, hơi đỡ mệt tới phần lội nhái, cứ sải, ngửa, rồi nhái tới được giữa sông, thả ngửa nghỉ mệt.
Nghỉ tới vợ và đứa con gái còn chưa thấy mặt, nhưng dẩu sao vợ con tôi đã đến được bên bờ tự do, có biết tôi đang sắp chết đuối để đi tìm. Tiềm thức cũ, cứ lần lược tung ra trong lúc đó, có lẽ là dấu hiệu của những người sắp vĩnh viễn ra đi.
Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện “Anh Phải Sống” của Khái Hưng hai vợ chồng chèo xuồng ra giữa sông vớt củi, trời mưa, sóng lớn, rồi bị lật xuồng. Vợ chịu chết đuối, cho chồng sống nuôi 3 con “Thằng Bò, cái Bé, cái Lớn” “Anh Phải Sống” không lẽ tôi bị chết chìm như người vợ trong câu truyện này.
Ý chí tôi trở nên mạnh hơn “Tôi phải sống để tìm Tự Do”. Trở người lại, tôi sải thêm một đoạn, rồi nhái, ngửa, liên tục hai ba lần thi sắp tới bờ bên kia… Thả ngửa, nghỉ mệt lần cuối rồi lội thẳng vào bờ. Gần tới bờ tôi quá mệt, với nắm được cành tre nằm thòng đưa ra ngoài mé, mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ. Cành tre không chụi nổi sức nặng thân tôi, gãy kêu rôm rốp.
Nghe tiếng động, tôi chợt thấy 3 dáng người chạy thẳng vào hướng tôi. Vội vàng, tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn, rồi ngóc đầu quan sát. Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội, tôi mất hồn định lặn trốn xa, thì tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám.
- Đã thấy anh rồi, đừng sợ, tui em trốn nghĩa vu, không phải bộ đội.
- Nghe tiếng nói của người miền Nam, khi nhìn thấy tụi nó trẻ, chắc là nói thật. Tôi liều mạng lội ra bò lên bờ. Ba thanh niên dẫn tôi tới căn chòi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn.
- Anh làm gì ở đây?
- Đi vượt biên ghe anh bị bắt ngoài cửa biển, bị công an giải giao về huyện Cần Giờ, khi chạy tới đây anh nhảy trốn.
- Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua nhưng không nghĩ là ghe bị bắt.
Thanh niên ngồi đối diện tôi nói:
- Anh này gan thiệt, anh có biết đây là “Đặc Khu Rừng Sát” nổi tiếng cá sấu trên con sông này không? Tuần vừa rồi có đàn trâu lội ngang sông, có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một giò.
Tôi trố mắt hỏi lại “thiệt hôn” vậy mà từ tối qua tới giờ anh cứ lên xuống nước liền liền, có biết đâu mà sợ. Quả thật là số tôi vẫn còn may mắn đúng là điếc không sợ súng, nghĩ lại rùng mình. Hồi lúc nhỏ khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về “Đặc Khu Rừng Sát" này, nhưng không nghĩ đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này, rất lý tưởng cho VC dễ dàng bị phục kích.
Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột, tôi quá đói không mắc cở để mở lời.
- Cho anh xin nửa chén cơm được hôn.
- Được, người ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một chén cơm nguội.
Tôi đớp ngon lành, cắn hột muối mà tưởng như cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt, cảm giác này chưa có trong đời. Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện, tụi em ở đây từ bao lâu rồi?
- Hơn sáu tháng
- Có về thành phố chơi không? Nhà ở đâu? Tôi hỏi
- Thỉnh thoảng nhớ nhà, ra cửa sông lớn có giang ghe vê nhà bè, trốn về chơi vài ngày rồi trở lại.
- Anh muốn về cầu Rạch Ong thì làm sao đi?
Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói.
- Cách đây không xa lắm, tui em biết có một bà nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu, nhưng lâu lâu bà ấy mới về. Tụi em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ, may ra bà ấy về sớm.
Nói chuyện với ba đứa thanh niên trẻ, tôi tìm hiểu để rõ thêm khu vực này. Gần mười giờ sáng, ba đứa dẫn tôi đi, qua những đoạn rừng tràm, lên đê, xuống ruộng, rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số, tôi nhìn thấy xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ, và căn chòi nhỏ mập mờ. Tôi hỏi có phải căn chòi đó không?
- Đúng rồi, tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về.
- Cám ơn mấy em nhiều lắm. Nếu không gặp tụi em thì anh biết ai mà nhờ, làm sao anh biết được khu vực này.
Tới khúc đê quẹo vào trong chòi, 2 đứa đứng lại còn một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi.
- Dì Tư, có anh nầy muốn quá giang về cầu Rạch Ong khi nào Dì về giúp dùm.
Tôi trình bày sơ qua cây chuyện vượt biên của tôi cho Dì Tư rõ.
Rồi thanh niên quay lại chào tôi “Thôi em về”. Sau khi mấy thanh niên vừa khuất cua quẹo căn chòi..
Dì Tư nhìn tôi rồi nói với giọng hốt hoảng.
- Thôi chết tôi rồi cậu ơi, ba đứa đó là điềm chỉ viên của công an thôn này. Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi, rồi đi báo công an để bắt luôn tôi. Thôi cậu đi tìm chỗ khác đi, tôi sợ lắm.
Biết đâu mà đi bây giờ, cả khu vực này chỉ thấy có căn chòi một, tôi tiếp tục năn nỉ dì. Thấy tôi năn nỉ quá, dì tư xiêu lòng.
- Thôi được, tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa, và bây giờ thì cậu không được ở trong chòi mà phải ra bờ rừng mà ở khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu và cũng an toàn cho tôi.
Rồi Dì Tư chỉ hứơng trước mặt chòi là khu rừng chàm dầy đặt cách đó độ vài trăm thước, tôi nghe dì nói cũng có lý nên nghe theo; hơn nữa cũng không còn cách khác. Có người nhận giúp lúc này là vô cùng ơn phước lớn. Tôi vội vàng cám ơn Dì Tư rồi đi tiến về rừng. Đi gần tới đám rừng chàm tôi nghe tiếng động rào rào dưới mặt đất phía trước mặt, đưa mắt nhìn xuống tôi thấy hàng ngàn con còng đỏ chạy chui vào hang lẫn trốn khi nghe tiếng động của chân tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô. Vào bờ rừng chừng năm ba thước, tôi lựa chổ mát nhất trong đám tràm khô, nằm kê đầu vào nhánh rể lớn. Mệt lã, tôi nằm yên thiêm thiếp, tưởng là xác chết, một đám còng bò ùa ra cấu xé tay chân tôi. Tôi vùng dậy đám còng văng ra tứ phía, tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không là xác chết. Khi thiếp đi thì chúng nó lại xông vào cắn tiếp, chẳng ngủ yên được với đám còng đỏ này.
Cả đêm ngâm nước, giờ thì trời nắng chang chang trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt, lạnh run cầm cập giữa buổi trưa, nhắm mắt nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh. Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ, tôi mở mắt nhìn lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn mình bò xuống. Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhích, để mặc con rắn cắn hay mổ gì cũng được. Con rắn lớn bò qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác.
Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng, tôi nghĩ lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa. Chịu hết nổi cơn sốt tôi đi liều trở vào chòi. Dì Tư thấy tôi vào vội hỏi:
- Cậu vào đây làm gì? Đã nói cậu phải ở ngoài rừng.
- Cháu bị sốt lạnh, ngoài đó nắng quá chịu không nổi, rồi tôi tiếp tục năn nỉ dì tư.
Suy nghĩ một hồi rồi Dì Tư nói
- Tôi có thể giúp, đưa cậu tới xã Lý Nhơn, rồi từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5, 7 cây số, qua phà, rồi đón xe về câu Rạch Ong, nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng.
- Cháu trong mình còn vỏn vẹn 80 đồng, vừa nói tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa dì hết 80 đồng. Dì tư cầm lấy nhưng không hài lòng lắm, thấy mắt nhìn chiếc nhẫn cưới vàng 18K tôi đang đeo trên ngón tay áp út, hiểu ý Dì Tư tôi tuột nhẫn ra đưa. Ngay sau đó, thái độ dì đổi khác.
- Thôi được, để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe đưa cậu về xã Lý Nhơn. Nhưng nè nghe tôi dặn. Khi tới xã, đi xuyên qua rồi cập trên đê mà đi qua phà chỉ tốn 3 đồng, đón xe về Rạch Ong 5 đồng là tám. Đây tôi cho lại cậu.
Dì Tư cho tôi lại đúng 8 đồng, tôi vội vàng cám ơn Dì.
Hai thằng con tuổi chạc 13, 15 đã chuẩn bi xuồng xong, rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ. Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá, cùng đống lá chuối bên cạnh xuồng. Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng, thì hai đứa nhỏ nói:
- Anh nằm xuống đi, để tụi em phủ lên người lớp lá chuối, để ra ngoai kia công an không để ý, tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối.
Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ, rồi nó phủ lên người mình mười mấy tấm lá chuối tươi.
Thằng anh chèo mũi, đứa em chèo lái. Chiếc xuồng nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác, hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh nhỏ trong khu rừng sát. Khi ra tới cửa con sông lớn, chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp sóng đi chậm dần, thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp, giá tôi còn tiền cũng đưa hết cho hai em. Thỉnh thỏang tôi ngóc đầu lên nhìn xem còn bao lâu nữa.
Thằng em sau mũi nói: - “ đã hơn nửa đường, còn gần một tiếng nữa mới tới xã Lý Nhơn”
- Tụi em có thường chèo ra khu vực này không? tôi hỏi chuyện
- Thỉnh thoảng qua đây bán cá tiện đường về thành phố mua nhưng món đồ cần thiết.
- Tụi em chèo xuồng có mệt không?
- Quen rồi ngày nào mà không chèo, giăng câu, đi chợ, chèo về nhà mỗi tuần còn xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi. Trò chuyện với hai đứa nhỏ một hồi thì xuồng đã tới xã Lý Nhơn.
Hai đứa nhỏ nói:
- Anh ngồi dậy đi tới nơi rồi đó.
Tôi chỉ nó cho tôi xuống chỗ tôi đỗ Cát hai tuần trước đó. Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi. Trước khi xuống hai em căn dặn:
- Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5, 7 cây số sẽ gặp bến phà, qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi.
- Cám ơn hai đứa em nhiều lắm, thôi hai đứa trở về nhà đi.
Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, trong túi được Dì Tư cho lại 8 đồng, cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe. Bước đi trên đê có một mình đơn độc, về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi, quần sọt, áo thun, đi chân không như người làm ruộng, phóng đi thật lẹ, được vài cây số vẫn không thấy bóng người. Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi, được vài cây số nữa thì từ xa tôi nhìn thấy được một dãy nhà, thật mừng rỡ có lẽ là tới bến phà. Khi đến gần thì quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng. Quả thật Dì tư nói đúng. Trả 3 đồng qua sông là tới nhà Bè, tới bến xe Lam về cầu Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng. Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài, khi nhìn tôi lạ ông tài xế hỏi
- Đi đâu mà chân không, quần xà lỏn, áo thun vậy?
- Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xã Lý Nhơn, tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy. Thấy có lý bác tài không hỏi nữa. Khi xe chạy đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống. Hết tiền, tôi liều quắc đại Honda ôm kêu chở thẳng về ngã sáu chỗ nhà bạn thân của thằng em, là một trong những nơi tôi thường tá túc. Về tới nhà cũng may, tôi xin được 10 đồng đem trả tiền xe.
Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi, trú ẩn. Nơi đây, với tôi coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp.
Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi là tôi vẫn còn mạng sống. Vượt biên quả thật là không đơn giản. Sau này khi trở lại Saigon để tìm đương vượt biển chuyến thứ ba. Mới vỡ lẽ cũng vì lòng chủ tham nên chuyến thứ hai của tôi hoàn toàn thất bại.
Văn viết không hay, hơn 32 năm đã bao lần tôi định viết lại chuyến trốn tù, để cháu con tôi hay đời sau được biết, nguồn gốc ở đâu và vì sao chúng được tới nơi này.
Nhờ Lý Khải Bình cho tôi dịp gặp đuợc 2 NT trong buổi tiệc tân gia. Cám ơn NT Tô Văn Cấp, NT Phan Nhật Nam đã khuyến khích tôi cứ viết lên những gì tôi nghĩ, nên đã hoàn thành xong câu chuyện trốn tù. Và đây chuyên thứ hai là đề tài vượt biển.
Chuyến trốn thứ ba của đời tôi vô cùng ngoạn mục, cũng là chuyến cuối cùng tôi giã biệt địa ngục XHCNVN.
San Jose 25-3-2012
MX Trần Văn Khỏe
- Cậu làm gì ở đây?
Tôi phải đành nói thật: - “Dạ cháu đi vượt biên bị bắt khi ghe chạy tới đây rồi nhảy trốn”.
- À thì ra chiếc ghe chạy qua đây hồi tối.
Tôi vội hỏi thăm dò tiếng kẻng. Ông trả lời
- Đây là "Đặc Khu Rừng Sát” chung quanh đây toàn trại cải tạo “Phục hồi nhân phẩm của người xì ke ma túy”.
- Vậy bên kia sông có trại cải tạo nào không Bác.
- Không, chỉ bên này thôi.”
- Bác làm ơn đưa cháu qua sông được không, vì cháu lội không rành.
- Không được, không được, cậu có thấy một đàn vịt gần 2000 con tôi đang chăn, đưa cậu qua sông đàn vịt của tôi thất lạc biết đâu mà tìm. Thôi cậu ráng mà lội qua đi.”
Lòng buồn thất vọng, nhưng cũng hiểu cho ông vì đàn vịt đó là sự sống của ông hằng ngày. Tôi đi tới, đi lui vài lần dọc theo bờ sông, sình, bùn, cỏ lác trộn lẫn những gốc tràm và nước ngập tới gối, tôi cố tìm chổ nào hẹp nhất để lội qua, nhưng dường như không khác chổ nào. Dòng sông nước chảy xiết rộng chừng gần 100 mét. Tôi lội được hơi xa từ lúc dự định trốn tù nhưng chỉ lội tới lui trong con suối nhỏ, giờ đụng phải con sông quá rộng, lúc này tôi ước gì lội được như thằng Sinh, thằng Mỹ hai đứa nó dạy tôi lội lúc rảnh rỗi buổi chiều. Suy nghỉ bâng quơ một hồi trời sáng hẳn, đã tới lúc tôi phải quyết định lội qua, bằng mọi giá phải rời xa khu cải tạo.
Nhớ lời thằng Sinh nói, điều quan trọng nhất là khi mệt phải thả ngữa,chân đạp nhe nhàn, đừng để vộp bẽ, khi đở mệt thì trở người qua lội tiếp. Tôi lấy lời thằng Sinh như bài kinh cho mình để vượt qua con sông này.
Lấy hết bình tĩnh, tôi bắt đầu lội, lúc đầu còn khỏe, thì lội sải cố gắng lắm được khoảng 20 mét, nước sông chảy xiết, quá mệt tôi thả ngửa mặc cho dòng nước đẩy, hơi đỡ mệt tới phần lội nhái, cứ sải, ngửa, rồi nhái tới được giữa sông, thả ngửa nghỉ mệt.
Nghỉ tới vợ và đứa con gái còn chưa thấy mặt, nhưng dẩu sao vợ con tôi đã đến được bên bờ tự do, có biết tôi đang sắp chết đuối để đi tìm. Tiềm thức cũ, cứ lần lược tung ra trong lúc đó, có lẽ là dấu hiệu của những người sắp vĩnh viễn ra đi.
Bỗng nhiên tôi sực nhớ tới câu truyện “Anh Phải Sống” của Khái Hưng hai vợ chồng chèo xuồng ra giữa sông vớt củi, trời mưa, sóng lớn, rồi bị lật xuồng. Vợ chịu chết đuối, cho chồng sống nuôi 3 con “Thằng Bò, cái Bé, cái Lớn” “Anh Phải Sống” không lẽ tôi bị chết chìm như người vợ trong câu truyện này.
Ý chí tôi trở nên mạnh hơn “Tôi phải sống để tìm Tự Do”. Trở người lại, tôi sải thêm một đoạn, rồi nhái, ngửa, liên tục hai ba lần thi sắp tới bờ bên kia… Thả ngửa, nghỉ mệt lần cuối rồi lội thẳng vào bờ. Gần tới bờ tôi quá mệt, với nắm được cành tre nằm thòng đưa ra ngoài mé, mừng quá tôi đu lên để kéo người vào bờ cho lẹ. Cành tre không chụi nổi sức nặng thân tôi, gãy kêu rôm rốp.
Nghe tiếng động, tôi chợt thấy 3 dáng người chạy thẳng vào hướng tôi. Vội vàng, tôi lặn xuống chui vào gốc tre lẫn trốn, rồi ngóc đầu quan sát. Thấy 3 thanh niên với trang phục áo quần bộ đội, tôi mất hồn định lặn trốn xa, thì tôi nghe tiếng của một thanh niên trong đám.
- Đã thấy anh rồi, đừng sợ, tui em trốn nghĩa vu, không phải bộ đội.
- Nghe tiếng nói của người miền Nam, khi nhìn thấy tụi nó trẻ, chắc là nói thật. Tôi liều mạng lội ra bò lên bờ. Ba thanh niên dẫn tôi tới căn chòi nó đang ngồi ăn cơm và bắt đầu phỏng vấn.
- Anh làm gì ở đây?
- Đi vượt biên ghe anh bị bắt ngoài cửa biển, bị công an giải giao về huyện Cần Giờ, khi chạy tới đây anh nhảy trốn.
- Em có nghe tiếng ghe chạy ngang đây đêm qua nhưng không nghĩ là ghe bị bắt.
Thanh niên ngồi đối diện tôi nói:
- Anh này gan thiệt, anh có biết đây là “Đặc Khu Rừng Sát” nổi tiếng cá sấu trên con sông này không? Tuần vừa rồi có đàn trâu lội ngang sông, có một con trâu nghé bị cá sấu cắn đứt một giò.
Tôi trố mắt hỏi lại “thiệt hôn” vậy mà từ tối qua tới giờ anh cứ lên xuống nước liền liền, có biết đâu mà sợ. Quả thật là số tôi vẫn còn may mắn đúng là điếc không sợ súng, nghĩ lại rùng mình. Hồi lúc nhỏ khi chưa đi lính tôi thường nghe nói về “Đặc Khu Rừng Sát" này, nhưng không nghĩ đươc ra là địa thế quằn quèo và hiểm trở như thế này, rất lý tưởng cho VC dễ dàng bị phục kích.
Thấy mấy đứa ăn cơm với vài cục muối hột, tôi quá đói không mắc cở để mở lời.
- Cho anh xin nửa chén cơm được hôn.
- Được, người ngồi bên cạnh bới cho tôi gần một chén cơm nguội.
Tôi đớp ngon lành, cắn hột muối mà tưởng như cục đường khi nhai cơm một hồi trở thành quá ngọt, cảm giác này chưa có trong đời. Vừa ăn tôi vừa hỏi chuyện, tụi em ở đây từ bao lâu rồi?
- Hơn sáu tháng
- Có về thành phố chơi không? Nhà ở đâu? Tôi hỏi
- Thỉnh thoảng nhớ nhà, ra cửa sông lớn có giang ghe vê nhà bè, trốn về chơi vài ngày rồi trở lại.
- Anh muốn về cầu Rạch Ong thì làm sao đi?
Thanh niên ngồi cạnh tôi bên trái nói.
- Cách đây không xa lắm, tui em biết có một bà nhà ở gần khu cầu Rạch Ong xuống đây giăng câu, nhưng lâu lâu bà ấy mới về. Tụi em dẫn anh tới đó cho anh năn nỉ, may ra bà ấy về sớm.
Nói chuyện với ba đứa thanh niên trẻ, tôi tìm hiểu để rõ thêm khu vực này. Gần mười giờ sáng, ba đứa dẫn tôi đi, qua những đoạn rừng tràm, lên đê, xuống ruộng, rồi bờ rừng chừng hơn 2 cây số, tôi nhìn thấy xa kia bắt đầu tới cánh đồng ruộng chạy dọc theo những đường kinh nhỏ, và căn chòi nhỏ mập mờ. Tôi hỏi có phải căn chòi đó không?
- Đúng rồi, tụi em dẫn anh tới đó rồi quay về.
- Cám ơn mấy em nhiều lắm. Nếu không gặp tụi em thì anh biết ai mà nhờ, làm sao anh biết được khu vực này.
Tới khúc đê quẹo vào trong chòi, 2 đứa đứng lại còn một dẫn tôi đi thẳng vào trong để hỏi.
- Dì Tư, có anh nầy muốn quá giang về cầu Rạch Ong khi nào Dì về giúp dùm.
Tôi trình bày sơ qua cây chuyện vượt biên của tôi cho Dì Tư rõ.
Rồi thanh niên quay lại chào tôi “Thôi em về”. Sau khi mấy thanh niên vừa khuất cua quẹo căn chòi..
Dì Tư nhìn tôi rồi nói với giọng hốt hoảng.
- Thôi chết tôi rồi cậu ơi, ba đứa đó là điềm chỉ viên của công an thôn này. Chúng muốn hại tôi nên đưa cậu đến nhờ tôi, rồi đi báo công an để bắt luôn tôi. Thôi cậu đi tìm chỗ khác đi, tôi sợ lắm.
Biết đâu mà đi bây giờ, cả khu vực này chỉ thấy có căn chòi một, tôi tiếp tục năn nỉ dì. Thấy tôi năn nỉ quá, dì tư xiêu lòng.
- Thôi được, tôi sẽ giúp cho có giang về cầu Rạch Ong nhưng cũng phải vài hôm nữa, và bây giờ thì cậu không được ở trong chòi mà phải ra bờ rừng mà ở khi nào tôi về sẽ cho thằng con ra kêu như vậy an toàn cho cậu và cũng an toàn cho tôi.
Rồi Dì Tư chỉ hứơng trước mặt chòi là khu rừng chàm dầy đặt cách đó độ vài trăm thước, tôi nghe dì nói cũng có lý nên nghe theo; hơn nữa cũng không còn cách khác. Có người nhận giúp lúc này là vô cùng ơn phước lớn. Tôi vội vàng cám ơn Dì Tư rồi đi tiến về rừng. Đi gần tới đám rừng chàm tôi nghe tiếng động rào rào dưới mặt đất phía trước mặt, đưa mắt nhìn xuống tôi thấy hàng ngàn con còng đỏ chạy chui vào hang lẫn trốn khi nghe tiếng động của chân tôi bước đi đạp lên trên đám lá khô. Vào bờ rừng chừng năm ba thước, tôi lựa chổ mát nhất trong đám tràm khô, nằm kê đầu vào nhánh rể lớn. Mệt lã, tôi nằm yên thiêm thiếp, tưởng là xác chết, một đám còng bò ùa ra cấu xé tay chân tôi. Tôi vùng dậy đám còng văng ra tứ phía, tưởng rằng đâu chúng sợ khi biết tôi không là xác chết. Khi thiếp đi thì chúng nó lại xông vào cắn tiếp, chẳng ngủ yên được với đám còng đỏ này.
Cả đêm ngâm nước, giờ thì trời nắng chang chang trong người tôi bắt đầu lên cơn sốt, lạnh run cầm cập giữa buổi trưa, nhắm mắt nằm co rút như con tôm cho đỡ lạnh. Nghe có tiêng động trên nhánh chàm nho nhỏ, tôi mở mắt nhìn lên thấy một con rắn lớn bằng cườm tay đang cuộn mình bò xuống. Tôi nhắm mắt nằm yên không nhúc nhích, để mặc con rắn cắn hay mổ gì cũng được. Con rắn lớn bò qua cạnh đầu tôi rồi chui vào đám rác.
Nằm ngoài rừng được vài ba tiếng, tôi nghĩ lúc đó đô khoảng 2 giờ trưa. Chịu hết nổi cơn sốt tôi đi liều trở vào chòi. Dì Tư thấy tôi vào vội hỏi:
- Cậu vào đây làm gì? Đã nói cậu phải ở ngoài rừng.
- Cháu bị sốt lạnh, ngoài đó nắng quá chịu không nổi, rồi tôi tiếp tục năn nỉ dì tư.
Suy nghĩ một hồi rồi Dì Tư nói
- Tôi có thể giúp, đưa cậu tới xã Lý Nhơn, rồi từ đó đi bộ dọc theo đê chừng 5, 7 cây số, qua phà, rồi đón xe về câu Rạch Ong, nhưng đưa qua cửa biển rộng này phải mất hơn 2 tiếng.
- Cháu trong mình còn vỏn vẹn 80 đồng, vừa nói tôi vừa móc trong túi quần sọt đưa dì hết 80 đồng. Dì tư cầm lấy nhưng không hài lòng lắm, thấy mắt nhìn chiếc nhẫn cưới vàng 18K tôi đang đeo trên ngón tay áp út, hiểu ý Dì Tư tôi tuột nhẫn ra đưa. Ngay sau đó, thái độ dì đổi khác.
- Thôi được, để tôi kêu 2 cháu chuẩn bị ghe đưa cậu về xã Lý Nhơn. Nhưng nè nghe tôi dặn. Khi tới xã, đi xuyên qua rồi cập trên đê mà đi qua phà chỉ tốn 3 đồng, đón xe về Rạch Ong 5 đồng là tám. Đây tôi cho lại cậu.
Dì Tư cho tôi lại đúng 8 đồng, tôi vội vàng cám ơn Dì.
Hai thằng con tuổi chạc 13, 15 đã chuẩn bi xuồng xong, rồi vào dẫn tôi ra con kinh nhỏ. Tôi thấy chiếc xuồng 3 lá, cùng đống lá chuối bên cạnh xuồng. Tôi vừa bước xuống ngồi yên trên xuồng, thì hai đứa nhỏ nói:
- Anh nằm xuống đi, để tụi em phủ lên người lớp lá chuối, để ra ngoai kia công an không để ý, tưởng tụi em đi chở ghe lá chuối.
Tôi nằm xuống theo lời hai đứa nhỏ, rồi nó phủ lên người mình mười mấy tấm lá chuối tươi.
Thằng anh chèo mũi, đứa em chèo lái. Chiếc xuồng nhỏ chở tôi luồn từ kinh này qua kinh khác, hơn nửa tiếng mới qua hết đoạn kinh nhỏ trong khu rừng sát. Khi ra tới cửa con sông lớn, chiếc xuồng nhỏ bắt đầu gặp sóng đi chậm dần, thấy hai anh em đứa nhỏ tôi vô cùng tội nghiệp, giá tôi còn tiền cũng đưa hết cho hai em. Thỉnh thỏang tôi ngóc đầu lên nhìn xem còn bao lâu nữa.
Thằng em sau mũi nói: - “ đã hơn nửa đường, còn gần một tiếng nữa mới tới xã Lý Nhơn”
- Tụi em có thường chèo ra khu vực này không? tôi hỏi chuyện
- Thỉnh thoảng qua đây bán cá tiện đường về thành phố mua nhưng món đồ cần thiết.
- Tụi em chèo xuồng có mệt không?
- Quen rồi ngày nào mà không chèo, giăng câu, đi chợ, chèo về nhà mỗi tuần còn xa gắp bao nhiêu lần đoạn đường chở anh đi. Trò chuyện với hai đứa nhỏ một hồi thì xuồng đã tới xã Lý Nhơn.
Hai đứa nhỏ nói:
- Anh ngồi dậy đi tới nơi rồi đó.
Tôi chỉ nó cho tôi xuống chỗ tôi đỗ Cát hai tuần trước đó. Rồi chiếc xuồng chèo thẳng tới nơi. Trước khi xuống hai em căn dặn:
- Anh cứ đi thẳng trên đường đê này 5, 7 cây số sẽ gặp bến phà, qua phà rồi đón xe về cầu Rạch Ong đừng sợ lạc anh cứ đi.
- Cám ơn hai đứa em nhiều lắm, thôi hai đứa trở về nhà đi.
Lúc này đã hơn bốn giờ chiều, trong túi được Dì Tư cho lại 8 đồng, cũng hồi hợp sợ không đủ tiền xe. Bước đi trên đê có một mình đơn độc, về tới đây tôi cũng bớt sợ rồi, quần sọt, áo thun, đi chân không như người làm ruộng, phóng đi thật lẹ, được vài cây số vẫn không thấy bóng người. Tôi đâm ra lo sợ nhưng cũng phải bước đi, được vài cây số nữa thì từ xa tôi nhìn thấy được một dãy nhà, thật mừng rỡ có lẽ là tới bến phà. Khi đến gần thì quả thật vài chiếc ghe xuồng trước mặt đợi chở khách qua sông lấy giá 3 đồng. Quả thật Dì tư nói đúng. Trả 3 đồng qua sông là tới nhà Bè, tới bến xe Lam về cầu Rạch Ong tôi hỏi đúng giá 5 đồng. Tôi phóng lên ngồi cận bên bác tài, khi nhìn tôi lạ ông tài xế hỏi
- Đi đâu mà chân không, quần xà lỏn, áo thun vậy?
- Ghe đi hợp đồng bị bể hộp số ở xã Lý Nhơn, tôi phải lội bộ về nhà kêu thợ máy. Thấy có lý bác tài không hỏi nữa. Khi xe chạy đến ngang cầu Rạch Ong tôi xin xuống. Hết tiền, tôi liều quắc đại Honda ôm kêu chở thẳng về ngã sáu chỗ nhà bạn thân của thằng em, là một trong những nơi tôi thường tá túc. Về tới nhà cũng may, tôi xin được 10 đồng đem trả tiền xe.
Tá túc một đêm, sáng hôm sau đi sớm đón xe thẳng về Rạch Kiến, Long An, quê chồng bà chị hai tôi, trú ẩn. Nơi đây, với tôi coi như một căn cứ an toàn để tái phối trí, khi có sức rồi xuất quân đánh tiếp.
Mất hết tiền trong chuyến đi này nhưng an ủi là tôi vẫn còn mạng sống. Vượt biên quả thật là không đơn giản. Sau này khi trở lại Saigon để tìm đương vượt biển chuyến thứ ba. Mới vỡ lẽ cũng vì lòng chủ tham nên chuyến thứ hai của tôi hoàn toàn thất bại.
Văn viết không hay, hơn 32 năm đã bao lần tôi định viết lại chuyến trốn tù, để cháu con tôi hay đời sau được biết, nguồn gốc ở đâu và vì sao chúng được tới nơi này.
Nhờ Lý Khải Bình cho tôi dịp gặp đuợc 2 NT trong buổi tiệc tân gia. Cám ơn NT Tô Văn Cấp, NT Phan Nhật Nam đã khuyến khích tôi cứ viết lên những gì tôi nghĩ, nên đã hoàn thành xong câu chuyện trốn tù. Và đây chuyên thứ hai là đề tài vượt biển.
Chuyến trốn thứ ba của đời tôi vô cùng ngoạn mục, cũng là chuyến cuối cùng tôi giã biệt địa ngục XHCNVN.
San Jose 25-3-2012
MX Trần Văn Khỏe
DƯƠNG DANH DY * GIẢ SỬ TRUNG CỘNG BỊ CẤM VẬN
Thursday, June 5, 2014
Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa
Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, Trung Quốc bị một số nước phương Tây
chủ yếu cấm vận về nhiều mặt như hạn chế tiếp xúc chính trị, buôn bán,
đầu tư … Sau một thời gian, hầu hết mọi cấm vận đã được xóa bỏ, nhưng
đến nay một số lĩnh vực như kỹ thuật cao, hàng quân sự… vẫn còn là khu
cấm.
Không biết vì lý do gì mà một người Trung Quốc giấu tên (chỉ ghi bút danh là Thần Bản bố y xyj) nhưng tỏ ra khá quen thuộc với nhiều nhân vật có trách nhiệm trong những ngành sản xuất, quản lý có liên quan của Trung Quốc đã đề cập tới vấn đề nói trên.
Dưới đây là phần tóm lược.
Giả sử vì các vấn đề như: Đài Loan, Triều Tiên, Ấn Độ, Nam Hải (Biển Đông), Đảo Điếu Ngư (Senkakư), Tô Nhan tiêu (Suyan istal), Mông Cổ, Tây Tạng, v.v. mà quan hệ với phương Tây xấu đi, hãy thử tưởng tượng xem tình hình sẽ ra sao khi phương Tây lại một lần nữa cấm vận Trung Quốc.
(Sau khi Mã Anh Cửu nhận chức, Quốc dân đảng ở Đài Loan tuyên bố sẽ không đòi Đài Loan độc lập. Cơ hội tốt nhất của đại lục chỉ là 4 năm, vì khóa tới chưa biết Quốc dân đảng có thắng cử hay không và do đó chưa biết tình hình Đài Loan sẽ ra sao, cho nên nêu giả thiết về vấn đề Đài Loan là cần thiết).
Có 16 tình trạng sau:
1. Sau 3 năm, mọi máy bay hàng không dân dụng Trung Quốc sẽ phải ngừng bay vì không còn phụ tùng thay thế, cả nước chỉ còn một loại máy bay kiểu “Yun-7” (Vận-7) sản xuất trong nước có thể bay thương mại nhưng động cơ máy bay phải nhập khẩu.
2. Sau 3 năm, mọi tuyến đường sắt tốc độ cao Trung Quốc đều phải ngừng chạy, vì toàn bộ bánh xe lửa chạy tốc độ cao và phần mềm hệ thống khống chế điện đều phải nhập khẩu, Trung Quốc chưa thể sản xuất trong nước (Hà Hoa Vũ, Tổng công trình sư Bộ Đường sắt Trung Quốc, Tạ Duy Đạt, Giáo sư Trường Đại học Đồng Tế, v.v.).
3. Toàn bộ ngành sản xuất ôtô du lịch Trung Quốc đều phải ngừng sản xuất, bởi vì Trung Quốc chưa thể sản xuất được các chi tiết của động cơ ô tô như hệ thống khống chế điện, hệ thống điện khống chế phun dầu, vòng găng (séc măng piston), hệ thống thay đổi tốc độ tự động, và hộp số, ngay cả thép tấm, bu lông dùng cho loại ô tô cao cấp cũng vậy.
Không biết vì lý do gì mà một người Trung Quốc giấu tên (chỉ ghi bút danh là Thần Bản bố y xyj) nhưng tỏ ra khá quen thuộc với nhiều nhân vật có trách nhiệm trong những ngành sản xuất, quản lý có liên quan của Trung Quốc đã đề cập tới vấn đề nói trên.
Dưới đây là phần tóm lược.
Giả sử vì các vấn đề như: Đài Loan, Triều Tiên, Ấn Độ, Nam Hải (Biển Đông), Đảo Điếu Ngư (Senkakư), Tô Nhan tiêu (Suyan istal), Mông Cổ, Tây Tạng, v.v. mà quan hệ với phương Tây xấu đi, hãy thử tưởng tượng xem tình hình sẽ ra sao khi phương Tây lại một lần nữa cấm vận Trung Quốc.
(Sau khi Mã Anh Cửu nhận chức, Quốc dân đảng ở Đài Loan tuyên bố sẽ không đòi Đài Loan độc lập. Cơ hội tốt nhất của đại lục chỉ là 4 năm, vì khóa tới chưa biết Quốc dân đảng có thắng cử hay không và do đó chưa biết tình hình Đài Loan sẽ ra sao, cho nên nêu giả thiết về vấn đề Đài Loan là cần thiết).
Có 16 tình trạng sau:
1. Sau 3 năm, mọi máy bay hàng không dân dụng Trung Quốc sẽ phải ngừng bay vì không còn phụ tùng thay thế, cả nước chỉ còn một loại máy bay kiểu “Yun-7” (Vận-7) sản xuất trong nước có thể bay thương mại nhưng động cơ máy bay phải nhập khẩu.
2. Sau 3 năm, mọi tuyến đường sắt tốc độ cao Trung Quốc đều phải ngừng chạy, vì toàn bộ bánh xe lửa chạy tốc độ cao và phần mềm hệ thống khống chế điện đều phải nhập khẩu, Trung Quốc chưa thể sản xuất trong nước (Hà Hoa Vũ, Tổng công trình sư Bộ Đường sắt Trung Quốc, Tạ Duy Đạt, Giáo sư Trường Đại học Đồng Tế, v.v.).
3. Toàn bộ ngành sản xuất ôtô du lịch Trung Quốc đều phải ngừng sản xuất, bởi vì Trung Quốc chưa thể sản xuất được các chi tiết của động cơ ô tô như hệ thống khống chế điện, hệ thống điện khống chế phun dầu, vòng găng (séc măng piston), hệ thống thay đổi tốc độ tự động, và hộp số, ngay cả thép tấm, bu lông dùng cho loại ô tô cao cấp cũng vậy.
4. Toàn bộ ngành sản xuất TV màu Trung Quốc sụp đổ. Mặc dù hiện nay
Trung Quốc mỗi năm sản xuất được 86,6 triệu chiếc TV màu các loại, nhưng
hệ thống mạch vi điện tử trong mỗi chiếc TV vẫn hoàn toàn phải dựa vào
nhập khẩu (Thứ trưởng Bộ Công nghiệp tin tức Lại Cần Kiệm).
5. Toàn bộ ngành sản xuất điện thoại di động sụp đổ. Toàn bộ hệ thống mạch vi điện tử dùng trong điện thoại di động đều phải dựa vào nhập khẩu, năm 2006 riêng thị phần của mấy công ty điện thoại lớn như IT, CDMA, Motorola... chiếm tới 90% thị phần.
6. Toàn bộ ngành sản xuất màn hình lỏng sụp đổ vì 98% màn hình lỏng dựa vào nhập khẩu.
7. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, chắc là Trung Quốc sẽ không xây dựng những tòa nhà cao tầng nữa, bởi vì sẽ không có thang máy đủ leo lên độ cao lớn. kỹ thuật và nghiên cứu phát triển ngành thang máy Trung Quốc hoàn toàn bị thương nhân nước ngoài khống chế, người Trung Quốc chỉ nhận trách nhiệm “lắp ráp”. Năm 2006, chỉ 13 doanh nghiệp nước ngoài đã nắm tới 80% thị phần thang máy.
8. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành công nghiệp đóng tàu Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì có tới 60% những thứ trên một con tàu là phải nhập khẩu, chỉ có đóng vỏ và lắp toàn bộ là ở Trung Quốc thôi.
9. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, Trung Quốc sẽ không sản xuất nổi một chiếc máy giặt, một chiếc tủ lạnh bởi vì hệ thống mạng điện dùng cho hai loại máy này Trung Quốc hoàn toàn chưa thể sản xuất được.
10. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, ngành sản xuất đồ chơi Trung Quốc sẽ hoàn toàn sụp đổ, bởi vì các hệ thống vi mạch dùng cho đồ chơi, Trung Quốc cũng chưa sản xuất được.
11. Giả sứ phưong Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành máy móc công trình Trung Quốc cũng sẽ sụp đổ toàn diện. Theo thống kê của Hội Máy móc công trình tỉnh Hồ Nam, thì tiền nhập khẩu phụ tùng cho các loại máy công trình của tỉnh này chiếm 40% giá thành, năm 2006 xuất khẩu được 500 triệu USD thì tiền nhập khấu phụ tùng chi tiết máy mất 300 triệu USD.
12. Ngành sản xuất điện chạy bằng sức gió Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì toàn bộ kỹ thuật then chốt của ngành này đều do nước ngoài nắm và những chi tiết máy then chốt phần lớn vẫn phải nhập khẩu.
13. Qua lần động đất ở Tứ Xuyên, thấy xuất hiện nhiều máy bay trực thăng với nhiều kiểu dáng, nhưng hầu nhu toàn bộ là hàng nhập của Nga, Mỹ, Pháp... trong nước có loại “Zhi-8” (Trực-8) nhưng chỉ là chế tạo phỏng theo kiểu “Siêu ong vàng” của Pháp, còn loại “Zhi-9” (Trực-9) thì vẫn phải nhập khẩu kỹ thuật của Pháp.
14. Các máy công cụ khống chế bằng số và dao cắt gọt. Từ năm 2002, Trung Quốc trở thành nước dùng nhiều máy công cụ các loại lớn nhất thế giới và nước nhập khẩu các loại máy này lớn nhất thế giới. Năm 2005, Trung Quốc nhập khẩu các loại máy công cụ cao cấp hết 5,2 tỷ USD, năm 2006 tăng lên 6,4 tỷ USD. Những máy công cụ sản xuất trong nước và các loại dao cắt gọt phần lớn vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu (80%). (Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học kỹ thuật Trung Hoa Viện sĩ Viện Công trình Trung Quốc Lý Bồi Căn).
15. Các thiết bị then chốt dùng cho điện hạt nhân, thiết bị chế tạo các mạch vi điện tử, thiết bị y tế dùng hạt nhân, thiết bị kỹ thuật cốt lõi của ngành hoá dầu, v.v. Trung Quốc còn hoàn toàn chưa chế tạo được. Có một số người nói rằng khả năng phỏng chế (bắt chước chế tạo) của Trung Quốc rất mạnh, nhưng những cái kỹ thuật cao thì không thể phỏng chế được, ví dụ như màn tinh thể lỏng, mạch vi điện tử, động cơ máy bay… không thể phỏng chế nổi công nghệ, cách xử lý vật liệu, phương pháp gia công, v.v.
16. Giả sử phương Tây lại cấm vận, toàn bộ ngành sản xuất mô tô Trung Quốc sẽ sụp đổ bởi vì những phụ tùng then chốt vẫn phải nhập khẩu.
Tác giả bài viết nói thêm: “Thưa các vị, tôi biết những điều tôi viết đã làm tổn thương sâu sắc tới lòng tự tôn yếu đuối của các vị, trước tiên xin đừng vội phản đối, tôi nói là sự thực.
5. Toàn bộ ngành sản xuất điện thoại di động sụp đổ. Toàn bộ hệ thống mạch vi điện tử dùng trong điện thoại di động đều phải dựa vào nhập khẩu, năm 2006 riêng thị phần của mấy công ty điện thoại lớn như IT, CDMA, Motorola... chiếm tới 90% thị phần.
6. Toàn bộ ngành sản xuất màn hình lỏng sụp đổ vì 98% màn hình lỏng dựa vào nhập khẩu.
7. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, chắc là Trung Quốc sẽ không xây dựng những tòa nhà cao tầng nữa, bởi vì sẽ không có thang máy đủ leo lên độ cao lớn. kỹ thuật và nghiên cứu phát triển ngành thang máy Trung Quốc hoàn toàn bị thương nhân nước ngoài khống chế, người Trung Quốc chỉ nhận trách nhiệm “lắp ráp”. Năm 2006, chỉ 13 doanh nghiệp nước ngoài đã nắm tới 80% thị phần thang máy.
8. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành công nghiệp đóng tàu Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì có tới 60% những thứ trên một con tàu là phải nhập khẩu, chỉ có đóng vỏ và lắp toàn bộ là ở Trung Quốc thôi.
9. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, Trung Quốc sẽ không sản xuất nổi một chiếc máy giặt, một chiếc tủ lạnh bởi vì hệ thống mạng điện dùng cho hai loại máy này Trung Quốc hoàn toàn chưa thể sản xuất được.
10. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, ngành sản xuất đồ chơi Trung Quốc sẽ hoàn toàn sụp đổ, bởi vì các hệ thống vi mạch dùng cho đồ chơi, Trung Quốc cũng chưa sản xuất được.
11. Giả sứ phưong Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành máy móc công trình Trung Quốc cũng sẽ sụp đổ toàn diện. Theo thống kê của Hội Máy móc công trình tỉnh Hồ Nam, thì tiền nhập khẩu phụ tùng cho các loại máy công trình của tỉnh này chiếm 40% giá thành, năm 2006 xuất khẩu được 500 triệu USD thì tiền nhập khấu phụ tùng chi tiết máy mất 300 triệu USD.
12. Ngành sản xuất điện chạy bằng sức gió Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì toàn bộ kỹ thuật then chốt của ngành này đều do nước ngoài nắm và những chi tiết máy then chốt phần lớn vẫn phải nhập khẩu.
13. Qua lần động đất ở Tứ Xuyên, thấy xuất hiện nhiều máy bay trực thăng với nhiều kiểu dáng, nhưng hầu nhu toàn bộ là hàng nhập của Nga, Mỹ, Pháp... trong nước có loại “Zhi-8” (Trực-8) nhưng chỉ là chế tạo phỏng theo kiểu “Siêu ong vàng” của Pháp, còn loại “Zhi-9” (Trực-9) thì vẫn phải nhập khẩu kỹ thuật của Pháp.
14. Các máy công cụ khống chế bằng số và dao cắt gọt. Từ năm 2002, Trung Quốc trở thành nước dùng nhiều máy công cụ các loại lớn nhất thế giới và nước nhập khẩu các loại máy này lớn nhất thế giới. Năm 2005, Trung Quốc nhập khẩu các loại máy công cụ cao cấp hết 5,2 tỷ USD, năm 2006 tăng lên 6,4 tỷ USD. Những máy công cụ sản xuất trong nước và các loại dao cắt gọt phần lớn vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu (80%). (Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học kỹ thuật Trung Hoa Viện sĩ Viện Công trình Trung Quốc Lý Bồi Căn).
15. Các thiết bị then chốt dùng cho điện hạt nhân, thiết bị chế tạo các mạch vi điện tử, thiết bị y tế dùng hạt nhân, thiết bị kỹ thuật cốt lõi của ngành hoá dầu, v.v. Trung Quốc còn hoàn toàn chưa chế tạo được. Có một số người nói rằng khả năng phỏng chế (bắt chước chế tạo) của Trung Quốc rất mạnh, nhưng những cái kỹ thuật cao thì không thể phỏng chế được, ví dụ như màn tinh thể lỏng, mạch vi điện tử, động cơ máy bay… không thể phỏng chế nổi công nghệ, cách xử lý vật liệu, phương pháp gia công, v.v.
16. Giả sử phương Tây lại cấm vận, toàn bộ ngành sản xuất mô tô Trung Quốc sẽ sụp đổ bởi vì những phụ tùng then chốt vẫn phải nhập khẩu.
Tác giả bài viết nói thêm: “Thưa các vị, tôi biết những điều tôi viết đã làm tổn thương sâu sắc tới lòng tự tôn yếu đuối của các vị, trước tiên xin đừng vội phản đối, tôi nói là sự thực.
Sự thực là các máy tính điện tử mà các vị đang sử dụng hiện nay có tới 99,99999% sử dụng mạch vi điện tử nước ngoài….”
Dương Danh Dy
Dương Danh Dy
ĐẠI NGHĨA * TỪ BỎ ĐẢNG CỘNG SẢN
Từ bỏ đảng Cộng sản là yêu nước
Đại Nghĩa (Danlambao)
- Trước tiên chúng ta nên tìm nguồn gốc của đảng CSVN để biết từ đó cái
đảng này sẽ phục vụ cho quyền lợi của ai và sẽ đưa đất nước đi về đâu?
Theo Triết gia Trần Đức Thảo qua sự “trải nghiệm” với đảng CSVN ông cho biết rằng chính ông Hồ Chí Minh là đảng viên của đảng CS Tàu được lệnh Chủ tịch Mao Trạch Đông
thành lập đảng CSVN, thì như vậy đảng CSVN chỉ là con đẻ của đảng CS
Tàu. Trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người kế vị
chỉ biết nhận lệnh và phục vụ cho quyền lợi của đảng CS Tàu mà việc rõ
nhất là ông Hồ đã theo lệnh của Mao Trạch Đông thi hành Cải cách ruộng
đất sắc máu trên miền Bắc suốt 3 năm liền và đã giết trên 172.000 người
dân Việt Nam vô tội.
“Cái mảng tối nên tìm hiểu là lúc được bố trí vào làm việc trong ‘Bát
Lộ Quân’ của đảng cộng sản Tàu, với quân hàm thiếu tá thì ‘ông cụ’
đã tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc vào lúc nào, do ai đỡ
đầu? Tuyên thệ như thế thì có phải từ bỏ quốc tịch Việt Nam hay
không?...
Chính Mao chủ tịch đã thu xếp, đề bạt để ‘bác’ gia nhập đảng CSTQ và đưa vào làm việc trong Bát Lộ Quân… rồi chỉ đạo ‘bác’ đứng ra thành lập đảng CSVN để kết nghĩa anh em với đảng CSTQ”. (Trần Đức Thảo Những lời trăng trối - trang 254)
Người nối ngôi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Tổng Bí Thư Lê Duẩn tiếp
theo sự nghiệp của người tiền nhiệm và có phần hăng hái hơn, ông ta đã
không ngần ngại nghe theo lời Mao Trạch Đông gây chiến tranh cốt nhục
tương tàn, tàn phá đất nước với chiêu bài chống Mỹ, giải phóng Miền Nam
nhưng thực chất nhằm phục vụ cho cho ý đồ bành trướng của Trung cộng,
chính Lê Duẩn đã từng tuyên bố:
“Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch…Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch…” (RFA online ngày 29-4-2011)
Nhằm phục vụ cho quyền lợi của đảng CS Tàu mà đảng CSVN đã phạm một lỗi
lầm lớn là gây cuộc chiến tranh chống Mỹ khiến dân Việt hai miền đổ
không biết bao xương máu, rốt cuộc rồi như vòng xoay của “đèn cù”, CSVN
lại trải thảm đỏ rước Mỹ trở lại Việt Nam và thay VNCH giữ vai trò “đồng
minh” với Mỹ để chống lại quân bành trướng Bắc kinh. Những đảng viên
lão thành trí thức đã thức tỉnh, đã nhận thấy sự sai lầm vì đã tham gia
cái đảng tay sai bán nước, tội lỗi gây chiến tranh phục vụ cho quyền lợi
của ngoại bang nên họ đã từ bỏ đảng để quay về với dân tộc cùng sát
cánh với lớp trẻ đấu tranh chống lại “tàu khựa” và những tên thái thú ở
Hà Nội còn đang mải mê cúc cung tận tụy kẻ đô hộ nước mình.
Nhà văn Đại tá QĐND Phạm Đình Trọng vào ngày 20-11-2009 đã làm
đơn thông báo rút ra khỏi đảng CSVN sau trên 40 năm phục vụ, ông thấy
không còn lý do gì tiếp tục ở lại trong đảng, một đảng đang là tội đồ
của dân tộc. Trong “Thông điệp tháng Tám” ông đã nhận định:
“Nguy cơ chính trị đưa đất nước trở về thời ngàn năm Bắc thuộc, đẩy dân tộc Việt Nam vào thân phận tủi nhục.
Chính trị đồng hóa dân tộc Việt Nam về ý thức hệ Đại Hán, mở đường cho
Đại Hán thực hiện tham vọng thôn tính Việt Nam. Nguy cơ mất nước đến từ
bên ngoài, nạn ngoại xâm…
Đặt giai cấp lên trên dân tộc, coi lợi ích của đảng Cộng sản, đảng của giai cấp vô sản lớn hơn lợi ích dân tộc, coi sự sống còn của đảng Cộng sản cần thiết hơn sự sống còn của dân tộc Việt Nam, dịp này hai mươi năm trước, lãnh đạo CSVN đã bẽ bàng sang Thành Đô, Đại Hán cầu xin sự nhìn nhận của Đại Hán, cầu xin làm thân phận chư hầu để được liên kết thực chất là núp bóng Cộng sản Đại Hán…” (ĐanChimViet online ngày 6-9-2012)
Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch MTTQ TP Sài Gòn có cái may là ông ấy được mãn nguyện vì đã kịp nói lời “Từ nay tôi là người tự do” trước ngày nhắm mắt vì ông cho rằng:
“Đảng CSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lợi ích dân tộc, nhân dân”. (BBC online ngày 5-12-2014)
Triết gia Trần Đức Thảo, người từ bỏ danh vọng ở đất Paris để trở
về Việt Nam mong đem trí tài phụng sự đất nước, nhưng tài năng của ông
không được trọng dụng mà ngược lại còn bị bạc đãi. Suốt 40 năm nằm trong
guồng máy của đảng CSVN luôn bị trù dập, ông không thực hiện được hoài
bảo của mình. Ông Thảo chưa kịp nói lời “ly khai để tuyên bố tự do” vì đảng CSVN đã “ra tay” trước. Lời tâm sự của Triết gia Trần Đức Thảo chỉ còn ghi lại trong “Trần Đức Thảo Những lời trăn trối”, lược trích:
“Tội ác cứ tiếp tục phát triển, xã hội cứ tiếp tục suy đồi vì giả
dối, vì tội lỗi. Tất cả là do đám trí thức hèn như tôi. Buồn lắm! Hèn
lắm! Nhục lắm! Đau lòng lắm!” (trang 392)
“Chuẩn bị đi nghe bác Thảo họp báo chính thức ly khai, để tuyên bố tự do! (trang 394)
“Đến khoảng năm giờ rưỡi sáng ngày 24 tháng Tư, năm 1993, bác sĩ trực
phòng hồi sinh ghi nhận bác Thảo đã trút hơi thở cuối cùng”. (Trang 400)
Mục đích của những người đảng viên cộng sản ngày nay còn ở lại trong
đảng là chỉ bám theo quyền lợi và quyền lực, đã mất hết lý tưởng của
người thanh niên lúc ban đầu.
Người cộng sản thường rêu rao: “Yêu XHCN là yêu nước” nhưng theo Đại tá PGS-TS Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng thì đảng CSVN “Bảo vệ XHCN là bảo vệ sổ hưu”. Ông Thanh nói:
“Và tôi đi giảng bài cho tất cả các đối tượng, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam thời XHCN hiện nay có rất nhiều nội dung, trong đo có một nội dung
rất cụ thể, rất thiết thực với chúng ta đó là bảo vệ sổ hưu cho những người đang hưởng chế độ hưu và bảo vệ sổ hưu cho những người tương lai sẽ hưởng sổ hưu, ví dụ các đồng chí ngồi tại đây”. (Boxitvn online ngày 19-12-2012)
Không như ông Đại tá Trần Đăng Thanh hoặc những vị lão thành khác khư khư “bảo vệ sở hưu”, thầy giáo Phùng Hoài Ngọc, một giảng viên nghĩ hưu ở An Giang thông báo nghỉ sinh hoạt đảng vì cho rằng:
“Đảng đã không đi theo đúng tôn chỉ, mục đích của mình. Nói rõ
là không còn đi theo tôn chỉ đem lại độc lập, tự chủ, hạnh phúc, dân
chủ. Tất cả những khẩu hiệu đó không thực hiện được…
Không có lý do gì mình đứng dưới ngọn cờ đó được, mình không thể cho họ mượn tên mình để họ hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích của họ nữa. Nói cách khác, họ đã từ bỏ đảng, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng của đảng, thì không có lý do gì mà mình đi theo họ nữa”. (RFA online ngày 28-8-2014)
Và Bác sĩ Nguyễn Đắc Diên ở Sài Gòn cũng đã công khai từ bỏ đảng CSVN, ông nói rõ như sau:
“Khi tôi vào đảng từng thề rằng tuyệt đối trung thành với đảng. Nay tôi thà phản bội lại lời thề trung thành với đảng còn hơn phải đi theo đảng mà phản bội lại quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi phải được hưởng từ 38 năm về trước”. (RFA online ngày 28-8-2014)
Xu thế bỏ đảng ngày càng tăng, vậy quý vị đảng viên đảng CSVN còn chần
chờ gì nữa mà không từ bỏ đảng, không rút lại viên gạch mà quí vị đã
từng đóng góp xây đắp cho đảng. Chỉ cần mỗi người trong quý vị lấy viên
gạch của mình ra là đảng tự tan rã, là đã cứu được nước, chấm dứt việc
lệ thuộc Bắc kinh, chấm dứt được mọi tội lỗi với dân tộc. Quý vị còn ở
lại trong đảng, có nghĩa là quý vị còn tiếp tục bảo trợ cho những đảng
viên chóp bu đầy quyền lực đè đầu cỡi cổ, đầy tham nhũng sống trên mồ
hôi nước mắt của quý vị và của nhân dân Việt Nam. Quý vị không nên tiếp
tục ở lại trong đảng với kỳ vọng sẽ tu sửa, sẽ chỉnh đốn đảng, một cái
đảng đã “quá cũ”, đã bất chấp, bỏ ngoài tai mọi kiến nghị, mọi đóng góp
kể cả của tướng Võ Nguyên Giáp hay Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng như Nhóm
61… Theo sự nhận định của TT Liên xô Gorbachev, TT Nga Boris Yelsin thì “Các đảng cộng sản quá cũ không còn khả năng tự đổi mới, chỉ có xóa bỏ, giải thể”.
Chính nhà bào Tống Văn Công, trên 50 tuổi đảng, nguyên Tổng biên tập báo Lao Động đã can đảm từ bỏ đảng vì ông đã nhận định:
“Đúng là chế độ cộng sản, bao gồm cơ chế đảng và bộ máy nhà nước của chế độ cộng sản là không thể cải sửa mà chỉ bị hủy diệt hay thay thế”. (VOA online ngày 24-2-2014)
Do đó, muốn cứu nước khỏi thảm họa ngày nay và tránh hậu quả lệ thuộc
ngày mai phải giải tán đảng Cộng sản một cách nhẹ nhàng và nhanh gọn
nhất là quý vị tự rút ra khỏi đảng:
Muốn có độc lập, tự do phải lo bỏ đảng.
Bỏ đảng là con đường duy nhất để cứu nước.