Search This Blog

Hoi Nghi Dien Hong

Showing posts with label BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 646. Show all posts
Showing posts with label BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 646. Show all posts

Monday, 6 May 2019

Trang Web phản động

Đỗ Thành Nhân (Danlambao) - Những nhà độc tài thì nhìn đâu cũng thấy kẻ thù; đến nỗi gian hùng Tào Tháo đang ngủ vung kiếm chém kẻ thù trong giấc mơ hay giết cả gia đình ân nhân mổ heo đãi mình. 
Với bản chất độc tài, mặc dù đảng Cộng sản độc quyền quản lý nhà nước và xã hội nhưng họ nhìn đâu cũng thấy thế lực thù địch; đến nỗi xu thế phát triển xã hội bất bạo động, diễn ra một cách hòa bình cũng bị thù địch hóa thành “thế lực diễn biến hòa bình” vô hình. Thậm chí những “khẩu hiệu”, “trang web” cũng trở thành phản động.
Trước đây tôi đã viết bài “Khẩu hiệu phản động”(1) đăng trên AnhBaSam, Bauxite. Bài viết “Trang web phản động” này kỷ niệm ngày AnhBaSam ra khỏi nhà tù nhỏ để tiếp tục “PHÁ VÒNG NÔ LỆ”. AnhBaSam - Nguyễn Hữu Vinh; một hạt giống đỏ, đảng viên, sĩ quan an hinh hiếm hoi được cộng đồng kính trọng.
Ngày 15/01/2013 tôi bị tên Trương Quang Rân, phó phòng PA83 công an tỉnh Quảng Ngãi bắt, thu giữ laptop và nhiều tài nguyên thông tin, tài sản trí tuệ của bản thân(2). 
Công an kiểm tra trong laptop có các tài liệu, bài viết, đường link từ các trang web như RFA, BBC, Bauxite, AnhBaSam, DanLamBao, QuanLamBao, .v.v… 
Vậy là cơ quan công an bắt tôi làm việc suốt 4 tháng 01 ngày với nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau và tổ chức đấu tố để buộc tội dưới sự lãnh đạo của Bí thư Võ Văn Thưởng.
Phần dưới đây tóm tắt một “chuyên đề” làm việc với các anh an ninh (AN) và Tôi:
***
AN: Tại sao anh xem các trang báo đài phản động nước ngoài?
Tôi: trang nào phản động?
AN: chẳng hạn như RFA, BBC,…
Tôi: Tôi đâu có thấy cơ quan chức năng nào nói phản động, cấm vào xem đâu; tôi thấy báo chí trong nước thỉnh thoảng cũng trích đăng tin, bài trên đó mà.
AN: Anh thường xuyên vào các trang web như Bauxite, AnhBaSam,… là các trang phản động, đưa tin tức bôi nhọ, nói xấu chủ trương chính sách của đảng, nhà nước,… tại sao?
Tôi: Tôi thấy các trang này cung cấp thông tin đa dạng; không thấy họ nói xấu cái gì cả. Với lại trang Bauxite của các ông Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn và Nguyễn Thế Hùng là những nhà giáo, nhà khoa học nổi tiếng; còn trang AnhBaSam, thì theo tôi biết là của ông Nguyễn Hữu Vinh là một sĩ quan an ninh. Nếu các trang web này phản động(1) thì nhà nước phải có văn bản cấm và bắt những người chủa các trang web này chứ. Tôi là dân, cái gì nhà nước không cấm thì tôi được làm.
AN: Anh nói nếu các trang nào mà nhà nước cấm thì anh không vào xem, tham gia?
Tôi: Cái gì luật pháp cấm thì tôi không làm.
AN: (hỏi có vẻ thích thú) Vậy tại sao anh vào xem các trang "Dân làm báo", "Quan làm báo", ... những trang này nhà nước đã có văn bản 7169(2) cấm xem, được thông báo rộng rãi trên báo đài và tivi. Anh có biết văn bản đó không?
Tôi: Tôi có biết, nhưng tôi không quan tâm.
AN: Tại sao? vậy là anh có thừa nhận vi phạm không?
Tôi: Thứ nhất, đây chỉ là một văn bản chỉ có giá trị trong nội bộ các bên gởi và nhận; không phải văn bản quy phạm pháp luật. Thứ hai: tôi không thuộc đối tượng áp dụng của văn bản; tôi không phải cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên. Nên tôi không quan tâm tới văn bản 7169 này và cũng không thấy vi phạm.
… 
(hai bên nói chuyện một hồi nữa rồi chuyển qua “chuyên đề” khác)
***
Chúc mừng AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh ra tù, rất mong anh sẽ tiếp tục “PHÁ VÒNG NÔ LỆ”. Mặc dù từng là một hạt giống đỏ, đảng viên, sĩ quan an ninh nhưng AnhBaSam đã đưa tin đa chiều, khách quan, trung thực hướng tới một xã hội phát triển nên anh Nguyễn Hữu Vinh xứng đáng được cộng đồng tôn trọng.
Có dịp nói chuyện với các anh an ninh, tôi sẽ hỏi: nếu chỉ có 2 chọn lựa cuộc đời của mình, kết cục sẽ giống như Chủ tịch nước Trần Đại Quang hoặc AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh, buộc phải chọn duy nhất một trường hợp, thì anh (chị, bạn) sẽ chọn giống ai ?.
2019.05.05
__________________________________
Ghi chú:
(1) Tra Google bài viết “Khẩu hiệu phản động” đăng trên các trang:
(2) Giai đoạn này ông Võ Văn Thưởng làm Bí thư tỉnh ủy Quảng Ngãi, nay là Ủy viên Bộ chính trị Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. Cho đến nay cơ quan công an vẫn không chịu giao trả đầy đủ tài sản lại cho tôi giá trị hàng tỷ đồng. Ít nhất đã 3 lần tôi gởi đơn cho ông Võ Văn Thưởng đề nghị giải quyết nhưng vẫn không trả lời, hoặc đối thoại; mặc dù ông ta cứ hô hào chỉ đạo cấp dưới đối thoại.
(3). Lúc đó trang Bauxite chưa có ông Phạm Xuân Yêm; còn anh AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh thì chưa bị bắt.
(4) Văn bản số 7169/VPCP-NC của Văn phòng Chính phủ ký ngày ngày 12/09/2012, V/v xử lý thông tin có nội dung chống Đảng và Nhà nước. Nội dung chi tiết ở đây http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&mode=detail&document_id=163586
“… Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo như sau:

1. Giao Bộ Công an chủ trì phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.

2. Giao Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan cung cấp thông tin khách quan, đúng sự thật về tình hình các mặt của đất nước ta, nhất là các vấn đề mà dư luận quan tâm; chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan xử lý nghiêm việc thông tin, tuyên truyền không đúng sự thật. Khẩn trương trình Nghị định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.

3. Báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, các cơ quan thông tin đại chúng tăng cường cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và chủ động phản bác các thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, chống Đảng và Nhà nước.

4. Các Bộ, ngành, các địa phương lãnh đạo cán bộ, công chức, viên chức không xem, không sử dụng, loan truyền và phổ biến các thông tin đăng tải trên các mạng phản động.

Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các cơ quan biết, thực hiện./.”
http://danlambaovn.blogspot.com/2019/05/trang-web-phan-ong.html

Karl Marx đã chết, vĩnh viễn chết

Đức Tùng - Hôm nay nhân ngày sinh nhật lần thứ 201 của ông tổ chủ nghĩa cộng sản là Karl Marx (5/5/1818 - 14/3/1883), đi lục quyển Das Kapital (Le Capital. Critique de l'économie politique - Tư Bản Luận cuốn I năm 1867, cuốn II năm 1885, cuốn III năm 1894) ra đọc lại.
Tưởng cũng cần nhắc lại là Marx đã bỏ ra 20 năm để thảo cuốn I của bộ sách này. Ông Friederich Engels là bạn thân và nhà tài trợ của Marx đã thu thập các bài viết, bản thảo của ông để hoàn tất, thêm thắt và xuất bản cuốn II và III sau khi Marx qua đời.
***
Có thể tóm tắt ý tưởng của cuốn sách như sau.
Các Mác cho rằng loài người có những nhu cầu, thuần tuý về vật chất. Con người phải hoà hợp với thiên nhiên qua một chuỗi liên hệ được gọi là sản xuất.
Chính những liên hệ này tạo nên những giai đoạn lịch sử.
Trong những giai đoạn lịch sử này, con người bị chà đạp vì giai cấp thống trị chỉ biết chăm lo cho sản xuất và lợi nhuận của bản thân họ hơn là của giai cấp bị trị.
Đặc biệt trong giai đoạn xã hội thứ nhất là giai đoạn tư bản, giai cấp chủ nhân bóc lột sức lao động của giới công nhân thợ thuyền để làm giàu cho bản thân, còn giai cấp công nhân thì không được hưởng, dẫu rằng đã trực tiếp đóng góp cho sự dư thừa vật chất này.
Vì lý do này mà giai cấp công nhân sẽ vùng dậy để triệt tiêu giai cấp chủ nhân tư bản.
Và lúc đó xã hội sẽ tiến tới giai đoạn 2 là giai đoạn Xã hội chủ nghĩa: mọi người sẽ cùng lao động và hưởng theo nhu cầu.
Xã hội lúc ấy sẽ không còn giai cấp, không còn giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, không còn cảnh người bóc lột người, của cải sẽ dư thừa nên mọi người sẽ đều được hưởng một cách đầy đủ và bình đẳng.
Con người là đấng tối cao nên Tôn giáo không còn cần thiết.
Giai cấp công nhân sẽ hồ hởi tăng sức lao động, để khiến xã hội càng giàu có hơn về vật chất.
Đó chính là lúc tiến đến giai đoạn cuối cùng của xã hội loài người là Thiên đàng Cộng sản: tất cả đều là của chung, mỗi người làm việc theo khả năng của mình và sẽ được hưởng tối đa theo nhu cầu.
Nhu cầu sẽ thăng hoa và sẽ là kích thích tố làm cho người lao động phấn đấu, sáng tạo làm cho xã hội ngày một giàu hơn.
Các Mác cũng tiên đoán rằng Vương Quốc Anh sẽ là nước Cộng sản đầu tiên trên thế giới vì lúc bấy giờ Anh quốc là nước có công nghiệp đầu tiên nên sẽ là nước Tư bản đầu tiên, vì vậy giới công nhân bị bóc lột sẽ nổi dậy làm cuộc Kách Mệnh (cách mạng), tiến lên Xã hội chủ nghĩa để vươn lên Thiên đàng Cộng sản.
***
Marx đã hoàn toàn sai lầm.
150 năm sau, toàn bộ tư tưởng của Các Mác đã bị thực tế phủ nhận.
Từ sau khi "Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản" và "Tư bản luận" được xuất bản, lịch sử nhân loại đã tiến triển theo hướng khác hẳn lời "tiên tri" của Karl Marx. Chủ nghĩa tư bản không hề “giãy chết”, và kinh tế thị trường là nền kinh tế duy nhất hoạt động tốt, là chế độ duy nhất đã giải phóng và làm giàu cho “giai cấp vô sản”.
Những “chủ nghĩa duy vật lịch sử”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản” hay "chủ nghĩa tư bản giãy chết" đã khiến cho nhiều dân tộc phải sống trong cảnh khốn cùng và “ngu hoá” toàn bộ.
Khi áp đặt việc hủy bỏ sở hữu tư nhân và buộc cá nhân phải tan biến trong tập thể, Marx đã tạo nên những nền tảng cho chủ nghĩa toàn trị độc tài hiện đại, hình thành một giai cấp mới quan lại đỏ thống trị, đặc quyền đặc lợi. 
Chuyên chính vô sản đã trở thành độc tài đảng trị và quan chức chuyên quyền.
Chính ở các nước tự nhận là cộng sản mà giới quan chức đảng đã bóc lột và đàn áp nhân dân của mình.
Chủ thuyết mác-xít đã được áp dụng ở những quốc gia lạc hậu, đói nghèo, vì chỉ độc tài mới có thể thực hiện được. 
Tất cả những gì mà chủ thuyết của ông để lại, ở những nơi nó được áp dụng, là những trận địa hoang tàn và những xác chết chất cao thành núi.
Và sai lầm lớn nhất của Karl Marx là không hình dung ra được chủ nghĩa tư bản sẽ sản sinh ra một tầng lớp trung lưu rộng lớn – không bóc lột ai, cũng không bị ai bóc lột. 
Những kẻ kế thừa hậu mác-xít như Lênin cố gắng mở rộng khái niệm đấu tranh giai cấp ở tầm mức toàn cầu, giữa các quốc gia bóc lột và các nước thuộc địa. 
Lý thuyết này đã bị thực tế bác bỏ vì các nước cựu thuộc địa, thông qua trao đổi quốc tế và phát triển tư bản của chính họ, lại phát sinh giai cấp trung lưu.
Giai cấp trung lưu này chiếm đến 90% dân số, nếu tính tổng cộng các nền kinh tế phát triển, khiến hai thái cực thống trị - bị trị còn lại trở thành thiểu số.
Một trăm triệu người đã chết do chủ nghĩa cộng sản, vì giải pháp cực đoan và hoang tưởng của Marx.
Ngày 25/1/2006, tại thành phố Strasbourg (Pháp quốc), Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu (Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân cử của 46 quốc gia châu Âu, đã bỏ phiếu và thông qua Nghị quyết 1481 lên án chủ nghĩa cộng sản và coi chủ nghĩa này đã phạm tội ác chống lại loài người.
Lịch sử tội ác rõ ràng như thế vậy mà năm 2019, hơn một thế kỷ sau cuộc cách mạng Nga và 30 năm sau khi khối cộng sản Liên Xô hoàn toàn sụp đổ, vẫn còn 5 quốc gia trên thế giới hoang tưởng mị dân tự gọi là Nhà nước cộng sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lê Nin làm hệ tư tưởng : Cuba, Lào, Tàu, Triều Tiên và Việt Nam.
Hãy bình tâm xem xét Nhà nước Việt Nam được gọi là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa (giai đoạn 2 của xã hội).
Việt Nam có còn giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hay không?
Con người có còn bị giai cấp thống trị chà đạp hay không?
Sức lao động của giới công nhân thợ thuyền có còn bị chủ nhân bóc lột hay không?
Mọi người có được hưởng theo nhu cầu hay không?
Của cải có dư thừa và mọi người có được hưởng một cách đầy đủ và bình đẳng hay không?
Sau hơn 7 thập niên áp dụng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc và hơn 4 thập niên trên cả nước, Việt Nam có đang tiến đến giai đoạn cuối cùng của xã hội loài người là Thiên đàng Cộng sản hay không: tất cả đều là của chung, mỗi người làm việc theo khả năng của mình và sẽ được hưởng tối đa theo nhu cầu?
Nếu đã là Xã hội chủ nghĩa thì của cải đã dư thừa, người lao động đã được hưởng theo nhu cầu, không còn một ai rơi vào cảnh nghèo túng, không còn khác biệt giữa người giàu và người nghèo. 
Đã là Cộng sản thì tất cả đều là của chung, mọi người làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, dân đã giàu, nước phải mạnh, Con Người là Đấng Tối Cao, được tôn trọng.
Nhưng thực tế lại khác, rất khác.
Đã không là Cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cuối cùng của xã hội), không là Xã hội chủ nghĩa (giai đoạn 2), lại càng không phải là Tư bản chủ nghĩa (giai đoạn 1), thế thì Việt Nam hiện nay nằm vào giai đoạn nào của lịch sử loài người?
Gấp lại bộ sách dầy cộm, trong suốt 33 chương, duy chỉ có một câu là tôi thấy hợp ý: "Người vô sản không có gì để đánh mất, ngoại trừ xiềng xích của họ".
Vâng, hãy vứt bỏ xiềng xích, hãy đập nát hết những xảo ngữ bất xứng và giả dối "Việt Nam Cộng sản" hay "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" để Dân tộc được trường tồn, để bảo toàn Lãnh Thổ, để làm chủ đất nước, để làm lại tương lai.
Những điều hoang tưởng của Các Mác đã có nhiều nhà kinh tế, sử gia và học giả phân tích cặn kẽ. 
Nỗi khổ của con người và nhất là người Việt Nam nằm ở chỗ, họ theo và tin nhưng ít ai đọc hết và đủ về Các Mác.
Có lẽ vì vậy mà hai nhà hiền triết lớn của nhân loại là Socrates và Lão Tử không viết gì cả, vì viết ra cũng có mấy người đọc? Và đọc thì mấy người hiểu? Và hiểu thì mấy người hành động để trở thành sự thay đổi ?
Be the change you want to see in the world.
Soyez le changement que vous souhaitez voir dans le monde.
Hãy trở thành sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trên thế giới này. (Mahatma Gandhi).
Bằng không thì cứ tiếp tục lê theo xiềng xích dưới chân mình mà đừng than vãn với ai.
Paris 5/5/2019


2 DÒNG NHẠC DƯỚI THỜI VNCH và XHCN 

(Lê Dinh)

Việt Nam hiện nay không có nền tân nhạc mà chỉ có “nhạc nói và nhạc chạy đua” nghĩa là ” nhạc Việt Nam bây giờ toàn là những lời nói khi thì chậm, khi thì thật nhanh như chạy đua” chẳng có cung điệu trầm bổng du dương gì cả, và nhạc sĩ chỉ việc theo lời nói lên xuống hay mau chậm này mà viết nốt nhạc vào đấy là thành một bản nhạc, cho nên chẳng có một bản nhạc nào ra hồn cả, do dó không có ai thèm nhớ dù chỉ một câu.
Từ 38 năm nay Việt Nam không có một tình khúc nào làm cho người Việt hải ngoại cảm thông, nói huỵch toẹt ra là ngửi được cả. Sau khi Nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phê bình “Gào sĩ” Đàm Vĩnh Hưng không biết diễn tả bài hát mà chỉ biết gào hét để câu khách, nay thì Nhạc sĩ Lê Dình lên tiếng về hiện tình tân nhạc Việt Nam mời các bạn xem dưới đây. Đừng có nói rằng vì người Việt hải ngoại ghét cộng sản mà cho rằng cái gì cũng xấu, mà thực tế là chế độ nào sinh ra con người đó, nhạc Việt dưới chế độ bất nhân bán nước thì làm gì có tình cảm như Việt Nam Cộng Hòa trước đây.
Nhạc sĩ Lê Dinh viết về 2 dòng nhạc VN dưới thời VNCH và nhạc XHCN
Image removed by sender. Nhạc sĩ Lê Dinh
Nhạc sĩ Lê Dinh
Về âm nhạc, từ 38 năm nay, thành thật và công bình mà nói, chúng ta có thấy sự tiến triển nào trong bộ môn này không, hay là một sự tụt lùi tệ hại từ năm 1975 đến nay, hay nói một cách khác, CSVN đã giết chết âm nhạc Việt Nam.
Nhìn lại ngày khởi đầu của nền âm nhạc Việt Nam, từ những ca khúc đầu tiên mà những bậc tiên liệt của nền âm nhạc để lại – được gọi là nhạc cải cách – như Một kiếp hoa (Nguyễn văn Tuyên & Nguyễn văn Cổn), Khúc yêu đương (Thẩm Oánh) Bình minh (Nguyễn Xuân Khoát), Bản đàn xuân (Lê Thương), Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Cùng nhau đi Hồng Binh (Đinh Nhu), Thu trên đảo Kinh Châu (Lê Thương)…, chúng ta thấy, dù đã ra đời hơn 80 năm nay, còn phôi thai, nhưng âm nhạc VN thuở đó nghe rất có hồn nhạc, lời lẽ tuy không trau chuốt văn chương, nhưng không khó nghe và lai căng như bây giờ. Chẳng hạn như bài “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương, một bài âm hưởng nhạc Nhật thời đó, tuy được sọan sau, nhưng cũng được coi như là một trong những ca khúc đầu tiên của gia tài âm nhạc Việt Nam.
Nhắc lại để chúng ta thấy rằng tuy là những ca khúc đầu tiên, khởi thủy của nền âm nhạc Việt Nam, nhưng dù đã 83 năm qua, vẫn còn nghe được, hơn nhạc bây giờ ở trong một nước có tên là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Chứng minh điều đó là gần một thế kỷ qua mà người ta còn nhớ ca khúc “Thu trên đảo Kinh Châu” của Lê Thương.
Tiếp theo thời kỳ âm nhạc phôi thai, hay âm nhạc cải cách, đó là giai đọan nhạc được gọi là nhạc tiền chiến mà tôi nghĩ rằng vài trăm năm sau đi nữa, vẫn còn được nhắc nhở tới. Những tác giả như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Hoàng Quý, Nguyễn văn Thương, Phan Huỳnh Điểu, Nguyễn văn Tý, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương… đã để lại cho chúng ta một gia sản âm nhạc đồ sộ, chỉ trong vòng có 20 năm ngắn ngủi. Nhắc lại những bài như:
“Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nh Lưu Nguyn ngày xưa lc li đào nguyên…”
Suối mơ, bên rừng thu vắng
Giòng sông trôi lng l ngoài nng…”
Hay:
Ngoài hiên git mưa thu thánh thoát rơi
Tri lng u bun, mây ht hiu ngng trôi…”
Hoặc như:
“Bit ly, nh nhung t đây
Chiếc lá rơi theo heo may…”
Chúng ta nghe âm điệu sao mà du dương, uyển chuyển, tha thiết, thấm vào lòng người. Còn lời ca sao mà lãng mạn, yêu đương, tình tứ ngọt ngào đến như thế.
Ri bước qua giai đan nhc kháng chiến (nhc cách mng), mt lai nhc hng hc la ca thi toàn dân đng lênđánh đui thc dân. Nhng tác gi tiêu biu cho li nhc hùng tráng như đánh thng vào lòng người này có Phm Duy, Văn Cao, Lưu Hu Phước, Hoàng Quý, Lê Yên, Phm Duy Nhượng, Phm Đình Chương, Văn Ging Nhưng phi công nhn rng Phm Duy là người có tác phm âm nhc c súy tinh thn tranh đu bài thc nhiu nht, hay nht. Làm sao mà chúng ta quên được, dù 1000 năm sau, nhng âm điu và li ca như:
Ngày bao hùng binh tiến lên
B cõi vang lng câu quyết chiến…”
Hoặc man mác căm hờn, như:
“Chiu qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cày bên đng
Vng tiếng heo gà trên sân
Chiu qua, gánh nước cho V Quc Quân
Nghe tiếng o nghèo k rng:
Quân thù v đây đt làng…”
Rồi 1954 ập đến, chia hai nền âm nhạc, một nửa phát triển mạnh mẻ ở xứ tự do, phóng khoáng và một nửa chôn vùi trong chốn ngục tù, sau bức màn tre. Một số đông nhạc sĩ sáng tác ở miền Bắc ngày trước đã tìm tự do nơi miền Nam – đất lành chim đậu – cùng chung với những nhạc sĩ sáng tác đã sống trước đây dưới chính thể Đệ nhất Cộng Hòa, kết hợp thành một lực lượng sáng tác mạnh nhất, vững chải nhất, nhân bản nhất và lãng mạn nhất. Thôi thì trăm hoa đua nở.
Image removed by sender. Nhạc sĩ Văn Phụng
Nhạc sĩ Văn Phụng
Ngay từ ngày đầu di cư, chúng ta có những Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Y Vân, Nhật Bằng, Hoàng Trọng, Đoàn Chuẩn, Huyền Linh, Phạm Đình Chương, Ngọc Bích, Đan Thọ, Xuân Tiên, Xuân Lôi, Trọng Khương, Tuấn Khanh, Hoài Linh, Phó Quốc Thăng, Phó Quốc Lân, Canh Thân, Vũ Thành, Vũ Huyến, Hoài An, Thanh Bình, Lê Hoàng Long, Nhật Bằng…, cùng với những nhạc sĩ miền Nam nổi bật lúc đó, như Phạm Duy (đã có mặt ở Saigon từ 1951), Lam Phương, Trúc Phương, Châu Kỳ, Nhật Ngân, Trần Trịnh, Anh Việt Thu, Châu Kỳ, Mạnh Phát, Hoàng Thi Thơ, Nguyễn văn Đông, Hoàng Nguyên, Anh Việt, Phạm Mạnh Cương, Lê Mộng Bảo, Huỳnh Anh, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh, Khánh Băng, Minh Kỳ, Anh Bằng, Lê Dinh… và một số nhạc sĩ trẻ của thời đó như Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trầm Tử Thiêng, Trường Sa, Trường Hải, Đỗ Lễ, Nguyễn Ánh 9, Thanh Sơn, Bảo Tố, Song Ngọc, Dzũng Chinh, Hàn Châu, Mặc Thế Nhân, Hoàng Trang, Đinh Trầm Ca, Giao Tiên, Thăng Long, Đài Phương Trang… hợp thành một đội ngũ sáng tác dưới chính thể tự do của hai nền Cộng Hòa ờ miền Nam từ năm 1954 cho đến năm 1975. ( Hình trên: Nhạc sĩ Văn Phụng)
Dù dưới hình thức nào, với bất cứ đề tài nào, nhạc sĩ của miền Nam tự do cũng viết nên những tác phẩm giá trị, nhất là những tình khúc và những bài ca ngợi người chiến sĩ VNCH, còn tồn tại, vang dội cho đến ngày nay.
Image removed by sender. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền
Trong khi đó, miền Bắc với chính sách bịt miệng và láo khoét, cho nên nhạc sĩ miền Bắc viết toàn những bài ca tụng bác Hồ (của họ) gàn dỡ, vô duyên, không thể nào lọt vào tai thính giả được. Chỉ một mình nhạc sĩ Thuận Yến thôi mà cũng có đến 26 bài ca ngợi bác Hồ. Ngoài ra còn có những Đỗ Nhuận, Phạm Tuyên, Vân An, Trần Hoàn, Lưu Cầu,Trọng Loan, Phong Nhã, Huy Thục, Lê Lôi, Chu Minh v.v…viêt những bài nhạc tuyên truyền, đề cao CS một cách lố bịch. Cả Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phan Huỳnh Điểu, Đỗ Nhuận… cũng bị lôi cuốn trong việc sáng tác lọai nhạc bưng bô này, như Văn Cao với “Ca ngợi Hồ Chủ tịch’, Lưu Hữu Phước với “Tình bác sáng đời ta”, Phan Huỳnh Điểu với “Nhớ ơn bác”, Đỗ Nhuận với “Bé yêu bác Hồ”… vì không viết để ca tụng, tung hô bác thì không có gạo mà ăn. Nội cái áo của bác và đôi dép của bác thôi mà cũng có đến 5 bài hát nói về áo và dép này. Chỉ còn thiếu cái áo lót của bác thì chưa có nhạc mà thôi.
(Dưới thời đệ Nhất Cộng Hòa – và luôn cả thời Đệ Nhị Cộng Hòa – miền Nam VN chỉ võn vẹn có một bài hát duy nhất ca tụng cá nhân vị nguyên thủ quốc gia mà thôi. Đó là bài Suy tôn Ngô Tổng Thống của Ngọc Bích và Thanh Nam. Đây không phải là chủ trương của chính phủ đề ra để bắt buộc văn nghệ sĩ sáng tác ca tụng lãnh tụ, mà đó là ý nghĩ riêng của hai tác giả, vì muốn mang ơn người đã khó khăn lắm mới đem đến sự an cư lạc nghiệp cho gần một triệu đồng bào di cư miền Bắc, trong đó có hai tác giả. Đây chỉ là một hành động để nói lên lòng biết ơn thôi)
Từ 1975 là một sự tuột dốc thê thảm, nhìn thấy và nghe thấy, không cần phải đắn đo suy nghĩ khi nói về nền âm nhạc ở nước CHXHCN Việt Nam bây giờ. Không phải nhìn từ bên ngoài rồi chúng ta nói thánh nói tướng, muốn nói gì thì nói, hay nói để… chống Cộng, nhưng phải nói rằng sự thật là như vậy. Thử hỏi có ai nghe được hết một câu lời ca trong một bài nhạc nào đó không? Có ai hiểu ca sĩ hát gì, nói gì trong bài hát đó không? Còn nhạc thì nghe qua rồi – dù cho nghe 5 lần 7 lượt đi nữa – hỏi có ai nhớ âm điệu ra sao không, do-ré-mi-fa-sol-la-si thế nào không? Chúng tôi không nói quá lời đâu. Mở YouTube ra, bấm đại một bài nào đó ở VN ngày nay, quý vị sẽ thấy ngay lời nói của chúng tôi không mảy may quá đáng. Bấm đại bài của Cẩm Ly hát đi, thí dụ bài “Chồng xa”, chúng ta sẽ nghe lời lẻ, văn chương quá buồn cười, trong một bài hát, nghe sao giống như lời đối thọai trong một vở tuồng cải lương hạng bét: “Dậy đi mua đồ nấu canh chua- Về cho ba mầy bữa cơm trưa…”
 
V âm điu, chúng tôi đ người Vit t do  hi ngoi nh mt câu nhc nào đó, trong mt bài hát A, B, C nào đó  VN bây gi. Ti sao không nh được? Xin thưa vìđó không phi là âm điu mà là nhng nt nhc khác nhau, b chung vào mt cái túi và rút ra 5, 6, 7 hoc 8 nt, ri ráp li cho thành mt câu nhc thôi. Trong khi đó, th tình c ly mt bài nào đó ca min Nam, trước 1975, như:
”Xuyên lá cành trăng lên lều vải
Lòng đt m thương tình đôi mươi…”
Hay như:
“Đường vào tình yêu có trăm ln vui, có vn ln bun…”
Hoặc:
“Thượng đế hi có thu cho VN này,
Nhiu sóng gió trôi dt lâu dài…”
Chúng ta nghe sao mà tha thiết quá, du dương quá và dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thương quá, dù cho cả đời mình hay một trăm năm sau cũng khó quên được.
Và xin quý vị thử bấm vào tựa một bài hát nào đó của CHXHCNVN ngày nay xem. Thí dụ như bài: “Xin anh đừng” (đừng cái gì mới được chứ?) Và vô số bài nữa, như Giấc mơ không phải của anh – Anh sẽ không níu kéo – Anh ba Khía – Ông xã bà xã – Khi cô đơn em nhớ ai – Anh sai rồi – Quen một ngày cho vui – Em có thể làm bạn gái anh không – Đừng buông tay anh…, nếu kể thêm, chắc chắn quý độc giả sẽ bị nhức đầu. Tựa đề của một tác phẩm âm nhạc là như vậy đó sao? Chúng tôi nghĩ tác giả là những trẻ con, chưa biết nói tiếng Việt hoặc là người đã trưởng thành nhưng chưa biết viết tiếng Việt. Tựa đề của một bài hát cũng phải nghe cho được chứ? “Xin anh đừng” rồi thôi, hết.
Về lời ca, mời quý vị nghe ca khúc “Giá như chưa từng quen”. Mới nghe qua tên ca khúc, chúng ta liên tưởng ngay đến một bài hát khác của miền Nam trước 1975, bài “Nếu ta đừng quen nhau”. Cùng một ý, một nội dung, nhưng người nhạc sĩ miền Nam viết tựa là: “Nếu ta đừng quen nhau”. Bây giờ, chúng ta hãy xem qua lời ca:
Bài “Giá như chưa từng quen”:
“Giá như chưa tng quen, chưa quan tâm nhiu v nhau
Người yêu ơi, anh không th nh mi ln cách xa…”
Còn bài “Nếu ta đừng quen nhau” có lời ca:
“Nếu ta đng quen nhau, thì đi chưa vướng u su
Ngày xanh chưa nhum thương đau, màu hoa chưa úa phai màu…”
Chúng tôi để quý vị kết luận. Chúng tôi chỉ thấy “tội nghiệp” cho tác giả bài “Giá như chưa từng quen” mà thôi.
Nếu quý vị muốn nghe thêm nữa, thì đây:
“Vì ngày hôm qua anh đã thy em ôm hôn mt người
Như mun cào xé nát tan trái tim anh…”
Đây là lời ca của bài “Đừng làm anh đau” và xin nói thêm , chỉ có việc “anh đau” này thôi mà có tới ba bài nhạc khác nhau, của 3 tác giả khác nhau: “Đừng làm anh đau”, “Em khóc làm anh đau” và “Mưa làm anh đau”. Đó, âm nhạc XHCNVN là như thế đó.
Về phần ca sĩ trình bày, mà người bên đó gọi là “thể hiện”, phải nói một cách công bằng, vì là nơi đông dân số, gần 90 triệu người, thì làm sao không có ca sĩ hát hay. Nhưng tiếc thay, có một số đông chỉ biết la, biết hét, hét toáng lên, khiến người nghe không biết họ hát cái gì. Và còn nữa, họ hay uốn éo ở chữ cuối câu (fioritures), có người còn ẹo ở giữa câu, nghe rất khó chịu. Việc điểm fioritures này – tức là láy – người viết nhạc chỉ dùng khi nào thật cần thiết thôi.
Nếu tác giả không có để thêm nốt fioritures thì ca sĩ đừng có tự động láy, tự động uốn éo, tự động ỏng ẹo cho nó lả lướt, như vậy là lả lướt không đúng chỗ, nghe không thể nào chịu được. Người mình có tài hay bắt chước và bắt chước giỏi. Cái uốn éo này xuất xứ từ nhạc Âu Mỹ, nhưng mà với lời ca tiếng ngọai quốc, và cũng tùy thuộc chữ nào, ý nghĩa ra sao, thì nghe được, chứ cứ uốn éo tự do, uốn éo lung tung, bất kể quân thần thì không hợp với lời Việt chút nào.
Một phần việc ca sĩ VN trong nước bây giờ hát khó nghe, lý do cũng tại cách viết lời ca của đa số những nhạc sĩ “lớp ba trường làng”, “trẻ tuổi tài cao” của thời XHCN này: chỗ nốt cao thỉ để chữ dấu huyền hay dấu hỏi, còn chỗ nốt thấp thì để chữ dấu sắc, hay dấu ngã. Viết lời ca như thế thì chỉ có giết ca sĩ mà thôi, bởi ca sĩ không thể nào truyền đạt cho thính giả hiểu được mình hát cái gì. Hát mà người nghe không hiểu gì thì hát làm chi?
38 năm, một thời gian đủ để những “đỉnh cao trí tuệ” giết chết tất cả, từ chữ nghĩa văn chương cho đến âm nhạc. Riêng về âm nhạc, họ đã vùi dập bao nhiêu công lao của những người đi trước, trải qua bao thế hệ, từ thời kỳ âm nhạc cải cách, đến nhạc mới hay tân nhạc, rồi nhạc vàng (chữ của họ gọi để ám chỉ nhạc miền Nam từ 1954 đến 1975 mà họ đã cố tiêu diệt nhưng không được) và nay là nhạc của thời XHCN, của thời:“Dậy đi mua đồ nấu canh chua Về cho ba mầy bữa cơm trưa”.
LÊ DINH
2014